PDA

View Full Version : 30 tháng tư nhìn lại ....



Lan Nguyen
04-04-2012, 03:41 AM
Nhìn lại ....
một quãng đời tị nạn ....
vẫn thấy rùng mình sau 38 năm


http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_125.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_127.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_128.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_129.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_130.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_131.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_132.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_133.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_134.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_135.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_138.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_139.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_140.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_141.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_142.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_143.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_144.jpg

http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_146.jpg
http://hoa-hao.com/kktd/photos/ty_nan_cs_147.jpg






xin phép anh Triển Chiêu L dán lại bài này nhé
nghe vẫn nhức nhối như hôm nào
năm nay L bận lắm không thâu được bài nào mới
các anh chị cứ tự nhiên dán nhạc, thơ, hình etc. nhe'
tháng 4 là niềm đau chung của mọi người các anh chị cứ xem như nhà của mình nhé .



... mời bấm lên ảnh nghe bài nhạc cũ thâu âm ngày 23.04.2010



http://i.imgur.com/VaX19.png (http://www.box.net/shared/5jz1ure432)

trích từ trang Cao Trào Nhân Bản (http://www.caotraonhanban.org/index.php?Itemid=30&catid=24:hat-cho-que-hng&id=899:nh-m-thiu-tng-le-minh-o-a-trng-hu-&option=com_content&view=article):

"...

Nhạc phẩm Nhớ Mẹ do Thiếu tướng Lê Minh Đảo và Đại tá Đỗ Trọng Huề đồng soạn trong thời gian hai vị ở tại Khu F (là khu biệt giam – tù trong tù) ngoài Hà Tây-Bắc Việt. Đại tá Đỗ Trọng Huề, ngoài là một sĩ quan cao cấp ông còn là nhà văn và cựu giáo sư của đại học văn khoa Sài Gòn.

Theo lời kể của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, khi cửa sắt khóa lại sau một ngày… Thiếu Tướng Lê Minh Đảo “nhìn lên vòm trời những hoàng hôn và nhớ nhất là mẹ mình…” nên ông viết: “giờ này hoàng hôn đã tắt, con nghĩ gì đây con nhớ mẹ nhiều…” Mặc dù bị nhốt trong khu biệt giam nhưng khác phòng với Đại tá Đỗ Trọng Huề. Mỗi khi viết nhạc xong thì chiều chiều ông đánh đàn cho Đại Tá Đỗ Trọng Huề nghe và nhớ giai điệu… Sau đó mỗi vị viết một lời. Đại tá Đỗ Trọng Huề ở tù hơn 12 năm thì được thả. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo bị tù thêm 5 năm nữa. Hai tác giả của nhạc phẩm lịch sử này gặp nhau được một lần ở hải ngoại trước khi Đại Tá Đỗ Trọng Huề qua đời ở Canada vào khoảng năm 2000. (NguoiVietBoston biên soạn)

Vịnh Nghi
04-04-2012, 09:18 AM
Nhìn lại những cảnh đời tị nạn thiệt buồn ha Lan?! Càng buồn hơn khi nghĩ tới những người cũng đi mà không bao giờ đến được....chẳng còn hình hài.... :(

Bài Nhớ Mẹ hay ghê. Ca sĩ 5 (cười) hát rất tha thiết. L dán hùi nào mà Nghi mới được nghe lần đầu hè? :) (hát: Lan còn nợ Nghi...L còn nợ Nghi....nhớ hong Lan?) :D

Lan Nguyen
04-04-2012, 10:10 AM
(hát: Lan còn nợ Nghi...L còn nợ Nghi....nhớ hong Lan?)

i''''''''' hong phải
Nghi còn nợ L mí đúng chứ
năm ngoái, năm kia ....
năm nay phải đòi Nghi một bài
vừa đòi vừa năn nỉ Nghi đó .

Vịnh Nghi
04-04-2012, 10:50 AM
Chùi ui! Nghi nợ hùi nào dzị chời?! Thôi thì L nợ Nghi 1 lần, Nghi nợ L 1 lần, vị chi huề, ha! :D Nói chớ hát 1 bài đi Lan. Nhớ giọng L wáaa hà! hihi...

Đọc được bài viết này bên trang Cánh Thép, thấy hay nên Nghi 'mượn tạm'....đem về Phố. L cho Nghi dán ké trong này nha.... :)

-----------------------
Người Cận Vệ Nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà

Bộ Tư Lệnh Hải Quân
biệt phái toán Người Nhái đầu tiên
về Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống VNCH.

Vào khoảng tháng 9 năm 1967. Thi hành thượng lệnh, Bộ Tư Lệnh Hải Quân P.1 tuyển chọn một số Người Nhái ưu tú, đã có kinh nghiệm chiến trường, có thành tích, giỏi võ thuật và tác chiến của LĐNN để biệt phái về Khối Cận Vệ Tổng Thống Phủ.

Nhận Sự Vụ Lệnh BTL/HQ/P1. Toán NN được tuyển chọn, lên trình diện Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống. Khi đến Dinh Độc Lập chúng tôi trình diện Thiếu Tá Nhan Văn Thiệt Trưởng khối Cận Vệ, còn HQ.Trung Úy nguyễn Văn Tư trưởng toán NN được đưa lên văn phòng TT. để trình diện Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Trưởng khối cận vệ Thiếu Tá Nhan Văn Thiệt cho chúng tôi biết tình hình hiện tại của Phủ Tổng Thống .v.v..

Thiếu Tá Thiệt nói: Tình hình hiện nay rất khó khăn, Tổng Thống mới nhậm chức chưa ổn định, Khối Cận Vệ chưa tổ chức được an ninh bảo vệ TT. nên rất nhiều nguy hiểm có thể xảy ra cho vị Nguyên Thủ Quốc Gia.

Thiếu Tá Thiệt tiếp: Vì sự an nguy của Tổng Thống xin nhờ các anh cố gắng bảo vệ cho ông..Và đây là nhiệm vụ chung của quân nhân đối với vị Nguyên Thủ Quốc Gia và cũng là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội..!

Bản tánh hiên ngang bất khuất của Toán Người Nhái Cận Vệ mới đáo nhậm.
Sau đó chúng tôi qua Đại đội canh phòng tại 124 đường Hồng Thập Tự trình diện Trung Úy TNV. để sắp xếp nơi cư ngụ. Trung Úy V. lược qua công việc của Đại đội canh phòng và cho chúng tôi biết sẽ sát nhập danh sách chúng tôi vào đại đội, ngoài giờ canh gác thì phải làm tạp dịch như tất cả nhân viên nơi đây.. Sau cùng Trung Úy V. hỏi chúng tôi có ý kiến gì không?

Tôi dơ tay xin có ý kiến: Xin phép Trung Úy cho chúng tôi tham khảo lại rồi sẽ trình cho trung úy biết sau.. Trung Úy V. đồng ý, chúng tôi ra ngoài sân họp nhau lại.
Anh em trong toán cùng bàn thảo: Chúng ta nhận Sự Vụ Lệnh của BTL/HQ lên Phủ Tổng Thống với nhiệm vụ là Cận Vệ, nếu bây giờ Đại đội canh phòng sắp xếp chúng ta canh gác và làm tạp dịch thì chúng ta đâu còn sức để làm nhiệm vụ nửa?..

Sau khi bàn thảo xong tôi đại diện cho anh em vào gặp Trung Úy V. tôi trình bày nhiệm vụ của chúng tôi là cận vệ cần phải giữ gìn sức khỏe để hoàn thành công tác nên xin được miễn canh gác hoặc làm tạp dịch, xin Trung Úy xem lại.

Trung Úy V. phủ quyết: Các anh về đây thì cũng giống như tất cả nhân viên ở đây vì tất cả đều là cận vệ.!

Tôi bình tỉnh nói: Nếu Trung Úy nói tất cả nhân viên ở đây đều là cận vệ thì đâu cần đến anh em chúng tôi biệt phái về đây để làm cận vệ?! Chúng tôi tạm thời xin phép không nhận việc, nếu Trung Úy thấy không cần chúng tôi thì xin hãy trả chúng tôi về lại BTL Hải Quân.

Nói xong tôi chào rồi bước ra ngoài, Trung Úy V. vội gọi tôi trở lại có vẻ bực tức nói : Anh đứng lại đây chờ tôi gọi điện thoại qua ông Trưởng Khối Cận Vệ.

Khi điện thoại reo Trung Úy V. mở Speaker cho tôi cùng nghe, có tiếng Thiếu Tá Thiệt. Trung Úy V. báo cáo: Thưa Thiếu Tá mấy thằng em Hải Quân lên đây “V.” sắp cho tụi nó canh gác và làm tạp dịch tụi nó không chịu..Tụi nó nói là lên đây để làm cận vệ chớ không làm tạp dịch hoặc canh gác đó Thiếu Tá.

Tiếng Thiếu Tá Trưởng Khối vang lên: Ờ ! phải đó V…”Moa” xin Hải Quân cho NN tụi nó lên đây để lo cho “Ông già” (Tổng Thống)– “Toa” nhớ là đừng sắp tụi nó tạp dịch hay canh gác gì hết, phải để anh em NN đầy đủ sức khỏe để bảo vệ Tổng Thống đó.!!.

Trung Úy V. cúp điện thoại xong, Tr/Úy V. day qua tôi dịu giọng: Thôi anh nói với anh em vào trong phòng nghỉ đi…

(Tr/Úy V. và anh em Cận Vệ chúng tôi thông cảm vì sự việc đã qua và rất thân với nhau khi cùng đi công tác. Trung Úy V. cho biết việc xảy ra đó, Thiếu Tá Thiệt có nói với Trung Úy là Thiếu Tá rất thích vì có được những NN Hải Quân tánh khí ngang tàng như vậy mới đúng là người “Cận Vệ” vì họ dám nhận lãnh trách nhiệm của mình, khi hành sự họ sẽ không sợ bất cứ một áp lực nào và bất cứ từ đâu tới.!
Trung Úy V. là một sĩ quan an ninh địa điểm, sắp xếp kế hoạch và điều động nhân viên rất giỏi của Khối Cận Vệ PTT. Cấp bậc sau cùng là Trung Tá Trưởng Ty Cảnh Sát Gia Định cho đến ngày 30-4-75.)

o O o

Bắt đầu vào công việc mới, Khối Cận Vệ còn phôi thai, toán NN là những người Cận Vệ đầu tiên của Phủ Tổng Thống. Chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng túc trực với 2 chiếc xe Jeep để hộ tống cùng với xe Quân Cảnh mở đường đưa Tổng Thống đi đến Dinh Độc Lập để làm việc, và rước về tư dinh trong cư xá Tổng Tham Mưu..

Tết Mậu Thân lại đến trong máu lửa rực trời do bọn cộng sản không giữ lời cam kết để cho dân hai miền được vui xuân. Bọn Việt cộng đã tấn công và chiếm giữ 44 tỉnh của Miền Nam.

Bọn Việt cộng chiếm đóng và ẩn mình trên các cao ốc trong thành phố Sài Gòn, ngay cổng hậu đường Nguyễn Du cũng bị VC chiếm đóng ngôi cao ốc 3 tầng đang xây cất chưa xong, đối diện với cổng hông sau của Dinh Độc Lập.(Sau khi tiêu diệt các chốt của VC, 2 ngày sau cao ốc nầy được giải tỏa.)

Trong những ngày đầy nguy hiểm nầy vì VC có thể núp trong các cao ốc bắn sẻ, chúng tôi vẫn hộ tống Tổng Thống đi và về đường bộ dưới các cao ốc dọc theo đường từ Tư Dinh ở Tổng Tham Mưu đến Dinh Độc Lập.( Vì sau ngày lễ Tổng Thống Đăng Quang cho đến Tết Mậu Thân. Bên Ủy Ban Hành Pháp của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ vẫn chưa bàn giao Trực Thăng lại cho Phủ Tổng Thống.)

Về chiến sự. Tổng Thống họp cùng các Tướng Lảnh. Sau khi được báo cáo đầy đủ, TT ra lệnh Tổng phản công để tiêu diệt và đẩy lui VC ra khỏi 44 Tỉnh của Miền Nam.

Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân của VC, kết quả là dân, quân, cán, chính VNCH đã tiêu diệt trên dưới 200 ngàn quân VC v.v.…

Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà
Từ 1967 đến 1975

Cơ quan thẩm quyền trong Dinh Độc Lập bắt đầu thiết lập các cơ sở cần thiết để bảo vệ Tổng Thống và gia đình, sau đó tất cả gia đình Tổng Thống từ cư xá Tổng Tham Mưu di chuyển về Dinh Độc Lập. Toán Cận Vệ chúng tôi cũng di chuyển vào trú ngụ trong Dinh.

Hệ thống điều hành Phủ Tổng Thống gồm có Văn Phòng và Võ Phòng v.v…, tổ chức trong Dinh Độc Lập chia ra nhiều phần hành được ngăn cách và riêng biệt để giữ bí mật. Văn Phòng TT trong hệ thống điều hành có Phòng Tùy Viên TT, Khối Cận Vệ và vài cơ quan khác.v.v. Phần kiểm soát an ninh toàn dinh đều do Khối Cận Vệ đảm trách. Trong và ngoài khuôn viên dinh Độc Lập thì do Liên Đoàn An Ninh Danh Dự canh phòng, ngoài ra còn một đội Thiết Giáp Kỵ binh án ngữ con đường phía sau Dinh Độc Lập nối liền giửa đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Du, một Tiểu Đoàn Nhảy Dù trú đóng ở Sân Tao Đàn cùng với nhiều đơn vị như Cảnh Sát Đặc Biệt, Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến, Biệt Đoàn 5 Cảnh Sát Dã Chiến, và Biệt Khu Thủ Đô v.v

Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà được thành lập để bảo vệ vị Nguyên Thủ Quốc Gia không phải riêng cho một vị Tổng Thống. Khi vị Tổng Thống đương nhiệm theo hiến định mãn nhiệm kỳ và Tân Tống Thống đăng quang, Khối Cận Vệ vẩn tiếp tục nhiệm vụ của mình với vị Tổng Thống mới.

Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống nhận thức nếu có sự không may xảy đến cho vị Nguyên Thủ Quốc Gia như bị ám sát hoặc đảo chánh,thì đất nước sẽ hỗn loạn và phân hóa đưa đến nguy cơ miền Nam tự do sẽ bị diệt vong vì lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt, v.v…

Nhiệm vụ:

Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống có nhiệm vụ là bảo vệ Tổng Thống, vị Nguyên Thủ Quốc Gia, cũng là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và gia đình của Tổng Thống. Nhiệm vụ đòi hỏi người Cận Vệ phải “tuyệt đối” trung
thành với Quốc Gia, không được sơ hở trong khi hành sự.

Cận Vệ Viên:

Đất nước đang thời chiến cho nên Cận Vệ Viên được tuyển chọn trong thành phần quân nhân trong các Quân, Binh Chủng Hải, Lục và Không Quân QLVNCH, qua phần an ninh lý lịch rất kỹ lưỡng. Là thành phần ưu tú có thể năng, giỏi võ thuật và tác xạ trong các đơn vị thiện chiến của quân đội như Lôi Hổ, Biệt Kích Dù, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, Người Nhái v.v… Các nhân tài võ thuật đương thời trong các đơn vị khác như Trương Đức Hiếu, Thạch Cẩm Tòng vô địch Việt Nam về môn Nhu Đạo, và các huyền đai xuất sắc xuất thân từ Trung Tâm Võ Thuật Thái Cực Đạo Thủ Đức do các võ sư của phái bộ quân sự võ thuật Thái Cực Đạo Nam Hàn huấn luyện, đều được tuyển chọn về Khối Cận Vệ.

- Được Hoa Kỳ huấn luyện qua các khoá đặc biệt do Cơ quan tình báo (CIA) và Cơ quan Mật Vụ (Secret Service) Bảo Vệ Tổng Thống Hoa Kỳ..v.v…

- Học tập và rút kinh nghiệm riêng cho mình qua các phim ảnh và tài liệu “Tối Mật” về các cuộc mưu sát và ám sát các vị Tổng Thống và các Nguyên thủ quốc gia trên thế giới.

- Được huấn luyện kỹ thuật tác xạ với các đương kim vô địch tác xạ đã từng tranh giải với quân đội Đồng Minh. (Phòng tác xạ được thiết lập trong tầng nền dinh Độc Lập để Cận Vệ Viên tập luyện hàng ngày).

Tất cả đều được huấn luyện thêm về môn Thái Cực Đạo Đại Hàn do các võ sư cận vệ của phủ Tổng Thống Nam Hàn thời Tổng Thống Bắc Chung Hy (Park Chung Hee) biệt phái qua để huấn luyện cận vệ Việt Nam với phương pháp huấn luyện riêng với những thế võ cận chiến đặc biệt nguy hiểm, và cấm không được phổ biến ra ngoài.

Võ thuật và tác xạ là môn chính yếu cận vệ viên đều phải tập luyện thường xuyên hàng ngày. Có thể nói Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà là nơi tập trung cao thủ võ thuật và thiện xạ nhiều nhứt trong thời điểm đó.

Về sau Đại Tá Nhan Văn Thiệt Trưởng Khối Cận Vệ được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Cảnh Sát vùng 4. Hải Quân Đại Tá Trần Thanh Điền Tùy Viên Tổng Thống thay thế nhiệm vụ Trưởng Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống, kiêm chức vụ Chủ Tịch Tổng Cuộc Thái Cực Đạo Việt Nam. Ông có ý định phối hợp các môn võ Việt Nam và võ Đại Hàn để trở thành môn võ thuật “Thái Cực Đạo Việt Nam”.

1975 đến 1990

Thành phần Cận Vệ Viên là những cảm tử quân, với lý tưởng Tổ Quốc, Trách Nhiệm và Danh Dự của quân nhân, khi hữu sự họ trở thành những “tấm lá chắn” bằng xương bằng thịt của mình để che chở và bảo vệ cho vị Nguyên Thủ Quốc Gia cũng là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và gia đình của TT.

Khi hành sự, nhiệm vụ tối quan trọng của Cận Vệ là bảo vệ vị Nguyên Thủ Quốc Gia, “không vị nể cấp bậc” họ có thể hạ tất cả những chướng ngại chung quanh để hoàn thành nhiệm vụ!

Cận Vệ Viên phải trải qua nhiều cuộc thử nghiệm về khả năng phản ứng cá nhân khi hữu sự. Được tập luyện những chiến thuật và các phương pháp bảo vệ kết nối nhau như những “Mắt xích” uyển chuyển vô hình và cũng tùy theo tình hình, địa thế và hoàn cảnh tại nơi đó như:

• Nơi tổ chức cuộc lễ dân sự, Tổng Thống sẽ tiếp cận với dân chúng. Cận Vệ Viên giỏi võ thuật cận chiến sẽ đảm nhiệm công tác (Vòng trong) cận sát với Tổng Thống…

• Tổng Thống thị sát nơi mặt trận ủy lạo anh em binh sĩ thì Cận Vệ Viên sẽ là những tay thiện xạ của các đơn vị thiện chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.v.v.

• Vì đất nước đang có chiến tranh cho nên Cận Vệ VNCH cảnh giác về sự an nguy cho Tổng Thống rất cao độ, họ được huấn luyện phương pháp dùng ám hiệu, thủ hiệu riêng của Khối Cận Vệ. Để tránh phân tâm cho cận vệ viên trong khi hành sự, máy Walkie Talkie liên lạc chỉ dành riêng cho các trưởng toán khi cần, còn toán viên sau khi đã nhận lệnh theo kế hoạch tự động liên kết trong toán như sợi dây vô hình bao bọc vị “Yếu Nhân,” không dùng máy móc mà chỉ dùng đầu óc bén nhạy, và phản ứng nhanh chóng trong ngành nghề khi hữu sự qua ám hiệu hoặc thủ hiệu của Trưởng Toán mà thôi.

• Mặc dầu Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống VNCH được Hoa Kỳ (Secret Service và CIA) huấn luyện kỹ thuật về ngành Cận Vệ và trang bị hệ thống máy móc truyền tin v.v… nhưng khi thi hành công tác, Khối Cận Vệ đều dùng mật mã riêng thay đổi liên tục và bất thường để tránh Tổng Đài khác kiểm soát và theo dõi. Phối hợp học hỏi kỹ thuật qua các tài liệu ám sát các vị Tổng Thống trên thế giới cộng thêm với những kinh nghiệm và phương thức phòng bị riêng của mình, Khối Cận Vệ tự tạo những phương pháp, kỹ thuật và chiến thuật hoạt động riêng.

• Một vài hành động tiêu biểu của
Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống
thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà.

• 1.- Phá vỡ cuộc mưu sát Tổng Thống tại tòa Đô Chánh.

• Vào thời điểm 1970, tình hình chánh trị khó khăn rối loạn. Việt Nam Cộng Hoà theo thể chế tự do dân chủ, các phe phái trong nước đang vận động ứng cử và bầu cử Tổng Thống vào năm 1971. Một số chính khách được ngoại bang thân Pháp và thân Cộng ngầm tài trợ để phá vỡ tình đoàn kết quân dân theo mưu đồ đục nước béo cò… Vào thời đó chúng ta thường nghe phong trào “Thương phế binh cắm dùi” cất những căn chòi trên các lề đường trong thành phố, đòi chánh phủ cho nhà ở v.v… do Tướng Nguyễn Cao Kỳ, đối lập trong chánh quyền, đứng phía sau giật dây với mưu đồ tạo khó khăn cho chánh phủ đương nhiệm…(Tương kế tựu kế có lý do để giúp đỡ Thương Phế Binh, Nội Các Chánh Phủ yêu cầu Quốc Hội phê chuẩn để cho xây dựng làng Thương, Phế Binh tại Thủ Đức.)

• Tại buổi lễ tại tòa Đô Chánh Sài Gòn, Đô Trưởng mời Tổng Thống chủ tọa. Trong khi tiếp tân, Tổng Thống đi xen lẫn vào đám đông quan khách để bắt tay chào hỏi..

• Một thương binh “giả” chống nạng, trên tay cầm nạng ẩn vào hông một tờ báo xếp lại, đang trà trộn len lỏi vào hàng quan khách. Hắn không thoát được cặp mắt nghề nghiệp của một Cận Vệ tại địa điểm “Vòng thứ 3” đã theo dõi từ đầu những cử chỉ khả nghi nên cập sát kế bên nhưng tên nầy không hay. Khi còn cách Tổng Thống vài người, tên thương binh “giả” đổi tay cầm nạng, buông tờ báo xuống đất để lòi ra một lưỡi dao yếm rất bén, mỏng dài khoảng 5 tấc. Cận Vệ Viên cấp tốc dùng thế võ cận chiến khóa chặc tay cầm dao ra sau lưng, một tay kẹp ngang cổ tên mưu sát đem ra khỏi phòng giao lại cho cảnh sát an ninh mang đi…!

• 2.- Trong ngày bầu cử Tổng nhiệm kỳ 2 năm 1971.

• Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi bỏ phiếu tại tòa Đô Chánh Sài Gòn, nơi đây từ sáng sớm đã có các nhân viên an ninh, cảnh sát trật tự và truyền thông báo chí trong và ngoài nước, nhân viên ủy ban giám sát bầu cử của Liên Hiệp Quốc đã có mặt để theo dỏi cuộc bầu cử.

• Trong phòng phiếu cũng có một số người dân trong thành phố đang đi bỏ phiếu. Tổng Thống Thiệu vẫy tay chào tất cả mọi người đang có mặt trong phòng phiếu rồi ông cầm lá phiếu bước đến thùng phiếu để bỏ vào, bất thình lình một người vượt ra khỏi hàng cảnh sát giữ trật tự bước thật nhanh đến phía Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhân viên cảnh sát không kịp chận lại, một Cận Vệ Viên tiến lên với một thế đòn chân Nhu Đạo quét chân người nầy ngã chúi xuống sàn nền, cùng lúc đó 4 Cận Vệ Viên đã xây quanh Tổng Thống..

Nhân viên an ninh đến dìu người bị té đứng lên thì mới biết ông ta là người Nhật, có đeo bảng tên là nhân viên ủy ban giám sát bầu cử của Liên Hiệp Quốc, ông cho biết ông muốn đến để chào Tổng Thống mà thôi. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bước đến vui vẽ bắt tay chào ông …Ông ta cũng xin lỗi vì vui mừng được gặp Tổng Thống mà quên đi vấn đề an ninh của TTTrách nhiệm khối Cận Vệ là bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia bao gồm luôn cả gia đình, vì nếu có việc không may xảy ra cho gia đình thì vị nguyên thủ cũng không thể an tâm để lo đại sự.

Phu nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là một phụ nữ gia giáo miền Nam. Bản tánh hiền hòa khiêm tốn không muốn phô trương, bà không muốn có an ninh Cận Vệ rình rang và xô lấn ngoài đường phố, đã có vài lần bà từ chối không cho an ninh Cận Vệ đi theo. Vì vậy trong việc bảo vệ an ninh cho phu nhân Tổng Thống, anh em Cận Vệ gặp rất nhiều khó khăn trong khi công tác. Có lần Tổng Thống Thiệu cũng phải khuyên phu nhân: Bà đi ra ngoài rất nguy hiểm bà hãy để cho mấy chú đó (Cận Vệ) làm việc…

Khối Cận Vệ đã có nhiều phiên họp để tìm phương pháp, và đã thay đổi vài sĩ quan thân cận để tìm người hiểu ý của bà thì mới có thể lo việc an ninh cho gia đình vị nguyên thủ được. Khối Cận Vệ vừa phải bảo đảm an ninh vừa phải làm sao cho vị yếu nhân cảm thấy thoải mái như bình thường không bị gò bó trong những khi đi dự các lễ hội, hội họp với các vị phu nhân trong hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội hoặc ra ngoài tiếp cận với mọi người trong dân chúng.

Sau cùng một sĩ quan trưởng toán Cận Vệ được bà đồng ý để đi theo giúp bà như một người thân trong gia đình. Với ý thức tránh mọi phiền phức cho phu nhân, người Sĩ Quan Trưởng Toán đã tổ chức uyển chuyển hệ thống bảo vệ ngầm, cận vệ trong toán đều mặc thường phục có mặt trước tại địa điểm những nơi bà Tổng Thống sẽ đến, trên đường đi các Cận Vệ trên 2 chiếc xe du lịch hộ tống cũng mặc thường phục chạy theo sau cách xa vừa tầm với xe của bà Tổng Thống, thông thả như các xe khác đang di chuyển, trên 2 chiếc xe đều có máy walkie-talkie trực tiếp báo cáo hoặc nhận lệnh khi cần thiết với Trưởng Toán đang ngồi ghế phía trước chung xe với Tổng Thống Phu nhân. (Dùng headphone để giữ im lặng).

Thời điểm từ năm 1973 trở đi, tình hình chánh trị và quân sự Việt Nam Cộng Hoà đang bị áp lực nặng nề tứ phía. Trên thế giới cũng nhiều biến động. Tại Nam Hàn, Phu Nhân Tổng Thống Phác Chánh Hy vừa bị ám sát vào ngày 15-8-1974. Những tin tức đó làm cho Khối Cận Vệ càng thêm cảnh giác vì có nhiều nghi vấn rất mờ ám về bạn hay là kẻ thù qua vụ ám sát nầy?

Một chuyến đi về Mỹ Tho thăm nhà của Phu nhân Tổng Thống, nguy hiểm xảy ra…
Thỉnh thoảng Tổng Thống phu nhân về thăm quê nhà tại thị xã Mỹ Tho. Trưởng Toán Cận Vệ. như thường lệ ngồi phía trước xe với bác Hồng tài xế. Phía sau chiếc xe bà Tổng Thống có 2 chiếc du lịch hộ tống với 8 Cận Vệ Viên trang bị đầy đủ vũ khí đạn dược, chạy cách khoảng cần thiết 150 đến 200 thước.

Khi chiếc xe du lịch của bà Tổng Thống vừa qua khỏi ngã 3 Phú Lâm, An Lạc thì Thiếu Úy Trưởng Toán được xe Hộ Tống 1 báo cáo qua máy:

- Báo cáo Thiếu Úy – 1 chiếc xe du lịch Mỹ, kiếng xe nhuộm màu đen, không nhìn thấy phía trong xe, xung quanh vành kiếng xe có gắn 8-9 ăng ten nhỏ, khi thấy xe bà Tổng Thống vừa qua thì nó vọt theo sau – xin chỉ thị…

Trưởng Toán ra lệnh: Chiếc Hộ Tống 1 vượt nhanh lên qua mặt chiếc xe lạ đó rồi tấp vào phía sau xe bà để tạo khoảng ngăn cách xe lạ. Chiếc Hộ Tống 2 vượt lên “khóa đít” chiếc xe lạ và kiềm giữ không cho chiếc xe đó vượt vòng kiềm tỏa của 2 xe Hộ Tống. Tất cả vũ khí sẵn sàng tác chiến.

Hai xe chiếc hộ tống vượt nhanh lên làm đúng theo kế hoạch kẹp chiếc xe lạ vào giữa, trong lúc đó trưởng toán liên lạc và báo cáo về Trung Tâm Truyền Tin phủ Tổng Thống và Tiểu Khu Tỉnh Định Tường để theo dõi.
Chiếc xe màu đen như đã biết bị kẹp vào giữa nên muốn vượt lên để thoát khỏi bao vây.

Chiếc Hộ Tống số 1 báo cáo: Báo cáo “Nó” muốn vượt lên đó Thiếu Úy.
Trong lúc cấp bách nên Trưởng Toán phải nhanh chóng quyết định: Xe Hộ Tống số 1 lái lách đầu xe ra chận lại không cho nó vượt qua, anh em đưa súng lên cho xe lạ đó thấy và ra lệnh cho nó phải nép vào phía sau xe Hộ Tống 1.

- Xe Hộ Tống số 2 sẵn sàng khai hỏa nếu chiếc xe lạ không tuân hành.

- 2 xe Hộ Tống trả lời: Nhận rõ.

Tất cả toán Cận Vệ tinh thần đều căng thẳng làm theo lệnh.
Chiếc xe đó đã thấy biết không thể thoát ra được nên không dám vượt lên nữa. Khoảng chừng 15 phút sau, đoàn xe chạy đến ngã 3 Trung Lương, chiếc xe du lịch màu đen nầy tách ra quẹo phải chạy về hướng Vàm Cống, đoàn xe của bà Tổng Thống vẩn tiếp tục hướng về Thị Xã Mỹ Tho…!

Những công tác đặc biệt khéo léo như trên đã tránh làm kinh động, ngầm bảo vệ yếu nhân của Cận Vệ Viên, đôi khi vị yếu nhân được bảo vệ cũng không hay biết gì về các diễn biến đã xảy ra.

o O o

Ngày lễ Quân Lực 19-6-1973 với cuộc Diễn Binh lớn nhứt từ trước đến nay để biễu dương lực lượng của QL/VNCH. Và đó cũng là ngày nguy hiểm nhứt cho vị Nguyên Thủ Quốc Gia. Vì các thành phần chống đối có thể lợi dụng trong ngày nầy tổ chức khủng bố, ám sát và đảo chánh rất dể dàng. (Sau nầy vào ngày 6-10- 1981, Trong buổi Diễn Binh kỷ niệm ngày quân đội Ai Cập vượt qua kênh đào Suez vào năm 1973. Tổng Thống Ai Cập Anvar El-Sadat, đã bị ám sát bởi thành phần Hồi giáo cực đoan. Khi đoàn diễn hành đến khán đài đã xả súng bắn vào khán đài..)
Tất cả hệ thống an ninh của quốc gia bao gồm nhiều thành phần, cảnh sát và quân đội v.v.đều tập trung và phối hợp soạn thảo chương trình nhằm bảo đảm cho buổi lễ được thành công…Về phần các đơn vị diễn hành, tất cả súng ống đều phải qua hệ thống an ninh quân đội kiểm soát tại nơi chuẩn bị trước giờ di chuyển.
Riêng về Khối cận vệ cũng chuẩn bị thật kỹ, sắp xếp nhân sự cận vệ, tại địa điểm hành lễ, hộ tống lúc đi và về.v.v. Một đội Thiết Kỵ đặc biệt do Đại Úy Thạch Lafick chỉ huy đang đóng phía sau Dinh Độc Lập, được điều động để án ngữ phía sau khán đài tại đường Nguyễn Thái Học, và trực tiếp với một sĩ quan cận vệ có trách nhiệm hộ tống Tổng Thống, đề phòng khi có biến động.

Ngày Quân Lực 19-6-1973 đã thành công rực rở cho đến bây giờ chúng ta vẩn hảnh diện là ngày Diễn Binh vĩ đại nhứt, biễu dương sức mạnh của QLVNCH mà cả vùng Đông Nam Á thời điểm đó đều thán phục. Trong đó có cả một công trình an ninh phòng vệ thật châu đáo từ gần đến xa mà chẳng ai được biết đến…

4.- Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống hành động mạnh đối với ký giả ngoại quốc khinh thường luật pháp Việt Nam không tuân hành theo lệnh.

Việt Nam Cộng Hoà là nước Tự Do Dân Chủ. Theo lệnh cấp trên từ trước đến giờ ngành bảo vệ yếu nhân, kể cả cảnh sát và nhân viên an ninh trật tự được lệnh phải xử sự hòa nhã lịch sự đối với ngành truyền thông báo chí để tạo cảm tình mặc dầu ngành an ninh, Cảnh Sát trật tự đã gặp nhiều trở ngại, bởi vì các thông tín viên ngoại quốc to con lớn xác có ý khinh thường không nghe theo sự hướng dẫn của nhân viên an ninh của Việt Nam, và cũng vì tình hình chính trị và chiến sự càng lúc càng suy đồi. Các Thông Tín Viên ngoại quốc lại càng lộng hành vì ỷ lại vào đệ tứ quyền…

Để chuẩn bị cho ngày Quân Lực 19-6-74, một buổi họp đặc biệt của Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống được triệu tập để phân nhiệm công tác.

Đại Tá Trưởng khối Cận Vệ chỉ thị cho tất cả nhân viên Cận Vệ phải cứng rắn từ giờ phút nầy đối với phóng viên ký giả ngành truyền thông báo chí của ngoại quốc. Thậm chí nếu phải dùng đến võ lực nếu thấy cần để giữ an ninh trật tự, bảo vệ danh dự cho khối cận vệ, vì họ đã coi thường trật tự luật pháp của Việt Nam càng lúc càng quá đáng…

Ngày Quân Lực 19-6-1974 không có diễn binh như năm 1973. Ba ngành Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, Nội Các Chánh Phủ cùng nhiều phái đoàn quân, cán, chính đi viếng thăm ủy lạo các chiến sĩ và thương, bệnh binh trong các bịnh viện khắp nơi.
Khoảng 8 giờ sáng, phái đoàn Tổng Thống, Nội Các Chánh Phủ và các vị phu nhân cùng tháp tùng đến Tổng Y Viện Cộng Hòa viếng thăm và ủy lạo các anh em thương bệnh binh đang nằm điều trị tại đây. Sau đó phái đoàn Tổng Thống rời Tổng Y Viện Cộng Hòa đi lên phi trường để lên trực thăng đến Nghĩa Trang Quân Đội dự lễ tưởng niệm truy điệu Chiến sĩ Trận Vong.

Đoàn xe hộ tống đưa phái đoàn đến phi trường. Tổng Thống và phái đoàn duyệt qua hàng quân danh dự. Ngoài toán an ninh tại địa điểm ra, Toán Cận vệ viên theo đội hình “Cài răng lược” bao bọc các yếu nhân và cả phía sau hàng quân danh dự và đoàn truyền thông báo chí. Đại Tá Trưởng khối và 2 Cận Vệ đi trước Tổng Thống vài bước mở đường sát với hàng quân danh dự..

Khi sắp đến hàng phóng viên báo chí, một phóng viên quay phim ngoại quốc cầm máy ảnh có ống kính télé rất dài đang đưa ngang ra khỏi hàng. Đại Tá Trưởng Khối đi trước đưa tay đẩy ống télé vào trong cho rộng đường quan khách đi tới, tên phóng viên liền quay ngang vung mạnh ống kính télé của máy ảnh đập thẳng vào mặt Đại Tá Trưởng Khối, ông vội đưa tay lên đỡ ống télé..Ngay lúc đó một tiếng “Bốp” vang lên, tên phóng viên bị trúng vào hàm hạ một cùi chỏ của một cận vệ viên đang đi ở phía sau hàng phóng viên, tên phóng viên lảo đảo ngã xuống, liền lúc đó anh cận vệ nầy nắm lấy cổ áo tên phóng viên ngoại quốc nầy kéo vào sau hàng truyền thông báo chí. (Sự việc xảy ra không quá 10 giây đồng hồ.) Phái đoàn Tổng Thống và quan khách đi tới mà không hay biết vì mọi việc đã ổn định như không có việc gì xảy ra.

Đến Nghĩa Trang Quân Đội, sau phần nghi lễ truy điệu chiến sĩ trận vong. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn lên xe vào sâu trong Nghĩa Trang để viếng thăm các phần mộ chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc được an táng nơi đây.

Chiếc xe Jeep của Quân Cảnh hướng dẩn chạy trước mở đường, đoàn phóng viên ký giả túa ra giữa đường làm cản trở đoàn xe của Tổng Thống. Xe Quân Cảnh thổi còi ra lệnh cho toán phóng viên tránh đường, toán phóng viên tránh vào vệ đường khi xe quân cảnh vừa chạy qua thì đoàn xe hộ tống xe Tổng Thống sắp tới, một phóng viên Hoa Kỳ thân hình to lớn khoảng 200 ký lô mang máy quay phim chạy ra đứng giữa đường để quay, tên phóng viên nầy bất chấp lệnh của nhân viên Cận Vệ trên xe hộ tống, cứ đứng giữa đường như thách thức.

…Một xe hộ tống tách rời đoàn xe Tổng Thống vượt nhanh lên trước, khi đến tên phóng viên, tài xế với “kỹ thuật lái xe hộ tống” vẫn giữ nguyên tốc độ lách xéo xe qua phải cùng lúc đó một Cận Vệ Viên bay ra khỏi xe với đòn đá song phi mãnh liệt bay đến tên phóng viên, cạnh bàn chân trái trúng vào xương quai hàm, bàn chân phải trúng vào hông. Tên phóng viên như diều đứt dây văng vào lề đường đè lên mình tên phụ tá phóng viên đang xách bình điện cho máy quay, đồ phụ tùng và máy quay phim văng tứ tung.. Còn cận vệ viên sau khi tấn công theo đà lộn một vòng dưới đất rồi chạy theo nhảy lên xe trở lại đội hình hộ tống…

Khoảng sau một tuần, báo New York Times Hoa Kỳ loan tin trên trang nhất với hàng chữ “Khỉ Đột Việt Nam tấn công ký giả ngoại quốc” (Báo chí Việt Nam đăng lại).

Vài tuần sau, nhân dịp có một buổi họp báo của phòng báo chí Phủ Tổng Thống. Tất cả phóng viên ký giả trong và ngoài nước được mời, đi vào cổng sau bên đường Nguyễn Du, và sau khi qua phần kiểm soát an ninh của phòng đặc tra Phủ Tổng Thống, tất cả được nhân viên an ninh hướng dẫn vào trong phòng khánh tiết Dinh Độc Lập.

Đại Tá Trưởng Khối Cận Vệ Phủ Tổng Thống họp tất cả phóng viên báo chí lại và thông báo cho tất cả biết. Ông nói:

- Vì trách nhiệm bảo vệ yếu nhân, nhân viên Cận Vệ đã nhiều lần yêu cầu các anh giữ trật tự trong giới hạn. Nhưng các anh đã khinh thường luật pháp Việt Nam. Như trong trường hợp trong ngày lễ Quân Lực 19-6 vừa qua, các anh đã không tuân hành theo lệnh của an ninh Cận Vệ Tổng Thống. Nhân viên Cận Vệ chúng tôi đã phải hành động đúng nhiệm vụ. Các anh lại đưa lên báo chí bêu xấu nhân viên Cận Vệ chúng tôi như trên tờ báo New York Times. Ông đưa cao tờ báo cho tất cả xem. .

Đại Tá Trưởng Khối Cận Vệ nghiêm mặt giọng cứng rắn:

- Kể từ bây giờ trở đi, nếu các anh (Truyền thông báo chí) không tuân hành lệnh của Cận Vệ chúng tôi trong lúc thi hành nhiệm vụ thì các anh sẽ phải lãnh chịu hậu quả!

•cũng từ ngày đó uy quyền an ninh trật tự tương đối được tái lập trong những cuộc lễ, họp báo hoặc những công tác do Khối Cận Vệ trách nhiệm đều được suông sẻ vì các phóng viên ký giả trong và ngoài nước đều nghe theo hướng dẫn của Cận Vệ “chỉ đâu thì đứng đó”, không còn dám cãi lại như trước, mãi cho đến ngày 30-4-75.

•Sau đây xin trích dẫn nguyên văn đoạn 4 trong bài dưới đây, có liên quan đến công tác về truyền thông báo chí ngoại quốc nêu trên.

•Xin bình an cho người đã chết”

•Của Đại Tá Phạm Hậu, K12/VBLQĐL.
Nguyên Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam trước 30-4-1975.

• Cho ký giả ngoại quốc … biết phép nước

•Từ cuối thập niên (19)60, Việt Nam là nơi rất đông ký giả ngoại quốc tới thường xuyên. Một số, nhất là ký giả Hoa Kỳ, lộng hành làm trời làm đất, coi dân Việt, cảnh sát và giới chức thông tin của ta… bằng nửa con mắt.

•Khi ông Nhã, em họ Tổng Thống Thiệu, giữ chức vụ Bí Thư Tổng Thống (1968), tiếp kiêm Tham vụ báo chí Phủ Tổng Thống (1969), và sau coi Bộ Bộ Dân Vận & Chiêu Hồi, ngay từ đầu đã chỉ thị Trung Tâm Báo Chí (TTBC) theo dõi thật sát để giữ đám ký giả ngông nghênh này trong khuôn phép.

•Những chuyên viên của TTBC đa số đều tốt nghiệp Cử Nhân, Cao Học tại ngoại quốc. Họ tình nguyện về phục vụ Đất Nước với quyền lợi lương bổng bằng ½ nhiều khi bằng 1/5 so với các hãng ở Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Nhật trả cho họ.

•Ví dụ ông Cục Phó Cục Thông Tin Quốc Ngoại, trong đó có Trung Tâm Báo Chí (TTBC) mà ông trông coi. Ông Trần Khánh Vân này có bằng kỹ sư hầm mỏ tại trường University of Missouri, School of Mines. Ông đậu Thủ Khoa, nhưng đặc biệt, điểm tốt nghiệp của ông cao nhất trong lịch sử từ khi ngôi trường rất danh tiếng này được thành lập.

•Phối hợp trước vói cơ quan An Ninh, nhiều phóng viên ngoại quốc (đa số là Hoa Kỳ) gây rối loạn nơi công cộng, uống rượu say lái xe, đánh nhau dành gái bị “các em” khiếu nại… và xe Cảnh Sát … rất tình cờ … tới lúc đó, để nhân viên công lực còng tay ngay trên phố đông, hay nơi khách sạn, giữa tiệm ăn … rồi đẩy kẻ phạm pháp lên xe về bót nằm ít giờ hay 1, 2 ngày. Văn phòng ông Vân là cứu tinh của họ trong các trường hợp này, và lẽ dĩ nhiên tùy “lý lịch riêng” của mỗi người, Ông Vân sẽ giúp họ khác nhau.

•Có người 1, 2 giờ ngồi cho muỗi đốt. Có người … phải chờ vài ngày, nằm ép rệp, ngửi mùi nước tiểu khai nồng, thèm thuốc điên người. Trường hợp “đặc biệt” 3, 4 phóng viên bị trục xuất khỏi Việt Nam Cộng Hoà, trong đó có trưởng phòng đại diện của báo New York Times, dù đại sứ Bunker đích thân can thiệp với Ông Nhã, nhưng cuối cùng hắn vẫn bị đuổi về Mỹ!

•Đây là thành tích ngoạn mục nhất, ông Vân theo lệnh ông Nhã, cho ký giả ngoại quốc ở VN “biết phép nước“… mà các trào trước, thời cụ Diệm, thời quý ông Phan Huy Quát, Bùi Diễm, Phan Khắc Sửu, thời tướng Kỳ… chưa có trường hợp tương tự.
•Ngày 8-4-75. Dinh Độc Lập bị dội bom.

•Do tên phi công Nguyễn Thành Trung (VC nằm vùng), lái chiếc A-37 mang bom dội xuống Dinh Độc Lập. Một trái bom rơi cạnh sân Trực Thăng trên nóc Dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng nhỏ, còn phân nửa trái bom phần đuôi còn nguyên, trái bom thứ hai rớt xuống vườn bên hông dinh ĐL lún xuống đất không nổ nên không gây thiệt hại nào, vì lúc đó hai chiếc Trực Thăng đang đậu dưới các tàng cây bên cánh trái dinh Độc Lập. Khi chiếc A-37 vòng lại định xạ kích thì bị toán phòng không trên nóc dinh Độc Lập bắn chận nên không dám xuống thấp và đã bay đi luôn.

•Không đầy 10 phút sau, một Toán Cận Vệ theo lệnh Tổng Thổng đã đưa phu nhân Tổng Thống rời khỏi Dinh đề phòng cuộc chính biến, còn ông ở lại trong Dinh Độc Lập để điều hành quốc sự….

•Việc dội bom nầy xảy ra như báo hiệu miền Nam VNCH đã lâm vào con đường cùng… Nhưng tất cả quân nhân các cấp trong Khối Cận Vệ vẫn giữ trách nhiệm của mình còn ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến ngày sụp đổ 30-4-1975.

•Rồi… tất cả Cận Vệ chúng tôi cũng đành phải nổi trôi theo vận nước suy vong. !! Những sĩ quan thì bị quân cộng sản trả thù đưa vào tù cải tạo suốt trong mười mấy năm.. và cũng đã có người gục ngã trong lao tù cải tạo..

•Người Cận Vệ Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà

•Trong tình thế dầu sôi lửa bỏng của đất nước đang có chiến tranh. Khối Cận Vệ có quyền hãnh diện vì đã làm tròn Trách Nhiệm của mình đối với Quốc Gia và Quân Đội giao phó, làm tròn bổn phận bảo vệ yếu nhân trong chín năm bảo vệ an toàn cho 3 vị nguyên thủ quốc gia, cũng là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

•1. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
•2. Tổng Thống Trần Văn Hương
•3. Tổng Thống Dương Văn Minh.

•Đến nay đã có nhiều tài liệu của các chính khách VNCH và tài liệu CIA được giải mật, đã phổ biến trên các trang nhà Internet cho mọi người thấy qua nhiều khía cạnh chìm hoặc nổi của các vụ mưu sát Tổng Thống đã xảy ra trong thời Đệ Nhị VNCH.

Và tài liệu do GS Nguyễn Tiến Hưng tiết lộ trong bài TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU chương 18. Thoát chết lúc ra đi… với nhiều cuộc âm mưu Đảo Chánh và ám sát cũng đã thể hiện những nguy hiểm trùng trùng của vị Tổng Thống mà chung quanh ông là những người Cận Vệ chúng tôi.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rời khỏi đất nước đêm 25-4-75, Việt Nam đang trong cơn hấp hối ngút ngàn khói lửa, ông đến Đài Loan thì chiến cuộc Việt Nam đã tàn với ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một bức màn đen tối ảm đạm đã phủ trùm lên cả miền Nam đau thương vì lệnh đầu hàng của TT Dương Văn Minh, vị Tổng Thống cuối cùng của Nền Đệ Nhị VNCH. Sau đó TT Thiệu cùng gia đình đi định cư nơi Anh Quốc và cuối cùng ông bà sống trong âm thầm lặng lẽ tại MA.

Nơi hải ngoại trải qua bao thăng trầm u uất của đời sống lưu vong…Vào ngày 29 tháng 9 năm 2001, tại thành phố Boston, Tiểu Bang Massachusetts Hoa Kỳ, trong cơn bạo bịnh, vị Tổng Thống của Nền Đệ Nhị VNCH – Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra đi về miền vĩnh cữu trong niềm tủi hận vì vong quốc…!

Ba mươi bốn năm sau, kể từ ngày 30-4-1975 đến 3-10-2009, tại Thủ Đô của người Việt Hải Ngoại (Little Sài Gòn) Tiểu Bang California đã làm lễ Tưởng Niệm Cố TT Nguyễn Văn Thiệu.

Tác Giả: Lê Đình An

Lan Nguyen
04-04-2012, 04:25 PM
Thanks Nghi cho L & phố đọc ké

bai` vie^t' hay qua'
L đọc mà thấy cứ nhu* là 007 & Z28 vậy á http://annzoid.com/images/smileys/thumbsup.gif

-----------------------
Người Cận Vệ Nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà

Lan Nguyen
04-04-2012, 05:54 PM
Nghi uiii ...
máy L hư, reformat lại rồi
everything works fine
except cái mic :(
lâu rồi nhưng mê film Hàn Quốc quá nên không thèm sửa:D


ai mê phim chiến tranh thì nên xem film này nè
xem phim này tại họ giống mình nên cứ tuởng tượng các chàng là các anh lính QLVNCH nhà mình;)

Road No. 1 (http://www.viki.com/channels/483-road-no-1)
http://www.viki.com/channels/483-road-no-1
http://blogmedia.dramafever.com/wp-content/uploads/2010/07/Road_Number_One_poster-small.jpg (http://www.dramafever.com/drama/730/1/Road_Number_One/)


giờ mời phố nghe lại nhạc 30/4 2010 L hát nhé
hummm nhớ hồi nẵm còn kêu Nghi bằng Chị nữa mà ;)
http://i262.photobucket.com/albums/ii88/hinhtoshare/Nguoichettrove.png (http://www.box.net/shared/3expf01yom)

Người Chết Trở Về (http://www.box.net/shared/3expf01yom)

Vịnh Nghi
04-05-2012, 08:15 AM
Người Chết Trở Về, nghe nhức nhối ghê nè L ơi!!! Từng lời, từng chữ, từng âm điệu của bài hát nghe đã...thảm lắm rồi, thêm tiếng hát trau chuốt quá độc đáo của L, càng nghe càng thấy não nề... :( Sáng Nghi vừa nghe bài ni, vừa coi xấp hình những ngày cuối cùng của cuộc chiến Quốc, Cộng bên phòng Quê Hương khiến lòng thiệt chùng... =((

Cám ơn chị Lan nghen! (*) @};- ~o)

Lan Nguyen
04-05-2012, 10:37 AM
Sáng Nghi vừa nghe bài ni, vừa coi xấp hình những ngày cuối cùng của cuộc chiến Quốc, Cộng bên phòng Quê Hương khiến lòng thiệt chùng... =((

L cũng vậy Nghi, L xem lại mọi tấm từ trang một .
rùng mình, nước mắt lưng tròng . chỉ biết thở dài thôi .
thấm thoát cũng đã mấy chục năm nhưng sao cứ như ngày hôm qua vậy á .

reminder ... L đang chờ nghe Nghi hát đó, lè le nghe Nghi .;)

hoài vọng
04-07-2012, 02:30 AM
Tháng 4 - 72 Tiểu Đoàn Trưởng TD11ND chết tại Charlie
Tháng 4 - 75 Tiểu Đoàn Trưởng TD11ND bị bắt ở Phan Rang

ngocdam66
04-07-2012, 07:16 AM
Good morning LN.






Viết cho các con


BS.Nguyễn Sơ Đông




http://us.mg6.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1%5f352777%5fAJrbi2IAAH0ET4A0NAkdQDyU Vko&pid=1.2.2&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailNeo






Ba lớn lên thời chinh chiến.
Ba học tiểu học ở trường Đỗ Hữu Phương ( sau đổi là Hùng Vương ),
trung học ở Chasseloup Laubat / Jean Jacques Rousseau .
Đại học Khoa học, đường Cộng Hoà .
Đại học Y khoa , 28 Trần quý Cáp, Saigon .
Tạm quên đi khía cạnh chính trị, xã hội....
Ba đi học được là nhờ những người cầm súng giữ an ninh cho Saigon, nơi Ba đi học.

Đối với những người nầy, Ba mang ân tình và nợ máu , vì họ đã đổ máu cho Ba yên ổn mà đi học.
Họ là những chiến sĩ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, sau đổi là Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH )



http://us.mg6.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1%5f352777%5fAJrbi2IAAH0ET4A0NAkdQDyU Vko&pid=1.2.3&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailNeo







Biến cố 4 / 75
Ba không đủ can đảm , không đủ sức đổ máu mình để trả ơn cho họ. Nhưng Ba không hèn để phản bội họ.
Ba nói thật rõ là Ba rất kính trọng những người con hiếu thảo , về quê hương mình phụng dưỡng ,
giúp đỡ cha mẹ , những đồng hương, chiến hữu bất hạnh ,chăm sóc mộ phần người thân...
hay cưu mang những ai kém may mắn, chật vật ,khốn khổ còn ở Việt Nam.

Nhưng, đối với Ba, những người "gọi là" trí thức, đỗ đạt bằng tiến sĩ, bác sĩ, dược sĩ, cử nhân, cao học...Nghĩa là những người được yên ổn để đi học như Ba, ở miền Nam (VNCH), trong lúc những chiến sĩ QLVNCH đổ máu để bảo vệ họ...nay lại về Việt Nam để ăn chơi, du hí, chén chú, chén tôi , anh anh em em với Việt Cộng, đã làm một việc nhơ nhuốc...như ở truồng đi giữa phố...
Nghĩa là còn xấu xa hơn những gái ăn sương.

Phận em vốn dỉ gái long đong,
Nhưng chỉ thoát y chốn cấm phòng,
Không như trí thức (khoa bảng) Cộng Hoà cũ.
Nhơ nhuốc cởi truồng giữa chợ đông.

Ba lập lại cho rõ, các con đừng hiểu lầm :
Ba RẤT TÔN TRỌNG NHỮNG NGƯỜI VỀ VIỆT NAM VỚI MỘT MỤC ĐÍCH VỊ THA ,
VÌ NHIỆM VỤ LÀM CON , LÀM NGƯỜI , LÀM CHIẾN HỮU .
Ba chỉ lên án những kẻ về VN...để gọi là "hưởng thụ"



http://us.mg6.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1%5f352777%5fAJrbi2IAAH0ET4A0NAkdQDyU Vko&pid=1.2.4&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailNeo



Y sĩ Đại úy Nguyễn Sơ Đông
Sư đòan 25 Bộ Binh
Y Khoa Saigon 1965
Số quân 59/152.241

Vịnh Nghi
04-07-2012, 07:36 PM
Người Cận Vệ Nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà


...................Cận Vệ Viên:

Đất nước đang thời chiến cho nên Cận Vệ Viên được tuyển chọn trong thành phần quân nhân trong các Quân, Binh Chủng Hải, Lục và Không Quân QLVNCH, qua phần an ninh lý lịch rất kỹ lưỡng. Là thành phần ưu tú có thể năng, giỏi võ thuật và tác xạ trong các đơn vị thiện chiến của quân đội như Lôi Hổ, Biệt Kích Dù, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân, Người Nhái v.v… Các nhân tài võ thuật đương thời trong các đơn vị khác như Trương Đức Hiếu, Thạch Cẩm Tòng vô địch Việt Nam về môn Nhu Đạo, và các huyền đai xuất sắc xuất thân từ Trung Tâm Võ Thuật Thái Cực Đạo Thủ Đức do các võ sư của phái bộ quân sự võ thuật Thái Cực Đạo Nam Hàn huấn luyện, đều được tuyển chọn về Khối Cận Vệ.
...........................
Tác Giả: Lê Đình An
Thanks Nghi cho L & phố đọc ké

bai` vie^t' hay qua'
L đọc mà thấy cứ nhu* là 007 & Z28 vậy á http://annzoid.com/images/smileys/thumbsup.gif

Nghi thì đọc xong bài viết này rồi...tiếc hùi hụi. Một trong những người trong toán cận vệ viên, Nghi nhận ra và có biết thầy Thạch Cẩm Tòng. Sau 75, thầy Tòng trở về dạy Judo ở Quận 3, sân Hồ Xuân Hương - Bà Huyện Thanh Quan. (Chắc bác Hoài Vọng biết sân thể dục thể thao này ha bác?) Hồi đó Nghi có biết...phong phanh về việc xưa thầy làm cận vệ cho nhân vật lớn nào đó, nhưng biết chỉ là biết vậy thôi, đâu có dè thầy làm cận vệ trong Phủ Tổng Thống của thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Ngầu! Cho nên đọc được bài viết, Nghi tiếc hùi hụi. Phải mà Nghi biết sớm, thể nào Nghi cũng xin làm đệ tử thầy, thì biết đâu giờ này đã là...hiền đai đệ mấy đẳng Judo roài ah! :D Sau này gia đình thầy Tòng cũng đã định cư ở Hoa Kỳ, nhưng chắc là thầy không còn đi dạy võ nữa.

Lan dán lại bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ mà Lan hát năm ngoái nghe đỡ ghiền đi L. Bài đó L hát hay ghê ah. :) Thanks L trước nhen! @};-~o)

Triển
04-07-2012, 09:07 PM
Nhìn lại những cảnh đời tị nạn thiệt buồn ha Lan?! Càng buồn hơn khi nghĩ tới những người cũng đi mà không bao giờ đến được....chẳng còn hình hài.... :(

Bài Nhớ Mẹ hay ghê. Ca sĩ 5 (cười) hát rất tha thiết. L dán hùi nào mà Nghi mới được nghe lần đầu hè? :) (hát: Lan còn nợ Nghi...L còn nợ Nghi....nhớ hong Lan?) :D

Giai điệu bài nhạc hay, lời ca man mác, và đọc thêm tư liệu về hoàn cảnh sáng tác
của 2 ông này khiến bài ca chắp cánh. Chứ "ca sĩ 5 (cười)" hát muốn hụt hơi. Bài gì
mà tiết tấu nhanh, chữ lại nhiều. Lấy hơi nhiều thì là ca sĩ thiếu hơi, lấy hơi ít thì là
ca sĩ hụt hơi.

Cám ơn LN và VN đã chiếu cố bài hát. :)

Triển
04-07-2012, 09:14 PM
Nghi thì đọc xong bài viết này rồi...tiếc hùi hụi. Một trong những người trong toán cận vệ viên, Nghi nhận ra và có biết thầy Thạch Cẩm Tòng. Sau 75, thầy Tòng trở về dạy Judo ở Quận 3, sân Hồ Xuân Hương - Bà Huyện Thanh Quan. (Chắc bác Hoài Vọng biết sân thể dục thể thao này ha bác?) Hồi đó Nghi có biết...phong phanh về việc xưa thầy làm cận vệ cho nhân vật lớn nào đó, nhưng biết chỉ là biết vậy thôi, đâu có dè thầy làm cận vệ trong Phủ Tổng Thống của thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Ngầu! Cho nên đọc được bài viết, Nghi tiếc hùi hụi. Phải mà Nghi biết sớm, thể nào Nghi cũng xin làm đệ tử thầy, thì biết đâu giờ này đã là...hiền đai đệ mấy đẳng Judo roài ah! :D Sau này gia đình thầy Tòng cũng đã định cư ở Hoa Kỳ, nhưng chắc là thầy không còn đi dạy võ nữa.

Lan dán lại bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ mà Lan hát năm ngoái nghe đỡ ghiền đi L. Bài đó L hát hay ghê ah. :) Thanks L trước nhen! @};-~o)

Hồi ở Sài Gòn, cạnh nhà có ông làm thư ký phủ tổng thống, lúc bán nhà có mời ông này sang nhậu.
Lúc ông nhậu xỉn ổng chửi Việt Cộng quá xá ... hahaha. Cái thằng mua nhà là thằng cán bộ bự tổ nái
sau 75 đi mua nhà cho vợ bé. Hắn cứ giơ hàm răng vẩu (hăng rô) đen xì cười cười và ngồi nhậu chẳng
nói gì. Cô vợ bé người Sài Gòn đẹp thầy chạy. Tiếc tay cho đóa Tường Vi cắm bãi xê trâu !

Nói chuyện làm phủ tổng thống mà nhậu dở ẹt như " cha quại " kia rồi ca hát lung tung, tâm sự linh tinh
chắc chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mình xưa kia mới có. Sang tay mấy cha đỏ là nó truy căn cơ từ ba đời
không cốt cán mà vào sào huyệt chắc là khó.

ngocdam66
04-09-2012, 01:11 PM
30 Tháng 4

* Để mãi mãi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
TVG


http://us.mg6.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1%5f373169%5fAKDbi2IAAVPKT4MolgEgxUX8 Vvs&pid=1.2&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailNeo


Ai vui ? Ai buồn ?

Ngày 30 tháng 4, ngày có "hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" như lời nhận xét của “cựu thủ tướng” cs Võ Văn Kiệt, “người” này cũng giống như một số “người” lãnh đạo csvn khác phải chờ đến mãi buổi xế chiều của cuộc đời thì bỗng dưng phải gió rồi trở giọng “phản động.” Phải chi mấy “người” này tỉnh táo một chút vào lúc đang còn quyền cao chức rộng thì đám dân đen cũng được nhờ (!) và đã nhiều sinh mạng không phải oan thác.

CS vẫn tiếp tục hân hoan vui mừng “nhiệt liệt” hợp ca cái điệp khúc "ngày chiến thắng huy hoàng", “là một (ngày) thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta." (sic) (Lời của Đại tướng gốc thợ may Văn Tiến Dũng).

Kỷ niệm chiến thắng, bắn pháo hoa “diễu binh” ăn mừng ngày 30/4, mà ngay bên lề đường còn nhiều đám dân đen xếp hàng kêu oan bị cướp mất đất, bà già run rẩy ăn xin, em bé bỏ học bán vé số… Ăn mừng ngày đánh “Mĩ cút ngụy nhào.” Oái oăm, ngày này cũng là ngày ăn mừng “đổi mới,” trải thảm đỏ mời đón Mỹ trở lại đầu tư vì “đảng ta” vừa mới định hướng kinh tế thị trường XHCN và cảm thấy “bị tư bản bóc lột” là chuyện “tiên tiến, tốt” phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia. Ngày này cũng là ngày các lãnh tụ csvn vĩ đại kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về xây dựng quê hương vì sau mấy chục năm chiến thắng vinh qunag “đảng ta” vẫn chỉ giỏi ở cái mảng phá hoại và tham ô.

Đám chăn trâu, thợ thiến heo, ở đợ, cướp cạn, thất học… đi bộ từ trong rừng ra với áo không lành giầy không vớ “ăn mừng” vì bỗng nhiên một sớm một chiều trở thành tiến sĩ, đại gia, cán bộ cao cấp lèo lái “con thuyền không bến” Việt Nam đến vinh quang vô địch (?)

Ăn mừng vì “thép đã tôi thế đấy” đội ngũ cán bộ lãnh đạo (từ chính quyền trung ương đến cơ sở chính quyền địa phương) thành một lũ vô cảm, dửng dưng trước những đau khỗ quằn quại của đồng loại, coi thường dân, không dám nhận chịu trách nhiệm về những sai trái; Ăn mừng vui vì “tụi nó” cướp của người khác chứ không (chưa) cướp đến của nhà mình?!

Ngược lại, cũng có nhiều người ở cùng chiến tuyến với cs rất buồn vì đã tự “giác ngộ.” Họ nhìn ra là họ đã bỏ phí cả thời xuân xanh, tài sản để chạy theo cs rồi bây giờ sau mấy chục năm ròng mới nhận ra cái ngu xuẩn của mình và ngu xuẩn của chính sách cs; Mặc dù họ mới chợt “phản tỉnh” và tuyên bố “phản động” này nọ nhưng cũng chỉ làm cho có chuyện, làm để lấy tiếng ngu vì cô thế (người quốc gia còn bán tín bán nghi, không buồn để ý đến họ), sức đã mòn, chợ đã chiều… không thay đổi cái quái gì được nữa!

Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản… Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs. Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình.

Có những gia đình gồm nhiều thế hệ dù không bao giờ chấp nhận cs nhưng không tìm được lối thoát thân. Họ rất buồn vì phải đón chịu tất cả những trận đòn thù hận, tù đày, bao vây kinh tế… từ mafia cs.

Có trên 3 triệu người tị nạn ở hải ngoại rất buồn, nhìn về ngày 30/4 như một ngày quốc hận, một tháng Tư đen; một ngày đau đớn cay đắng nhiều nước mắt nhất trong suốt 4000 ngàn năm lịch sử dân tộc Việt.


Ai thắng ? Ai thua?

Sau một cuộc chiến tranh thì phải có kẻ chiến thắng, người bại trận. Cứ theo như luận điệu như csvn đang “ăn mừng” thì mọi người phải hiểu là “Mĩ và Ngụy đã thua?!” Mà có thiệt vậy không hà?

Hãy nhìn nước (“đế quốc”) Mỹ từ ngày 30/4/1975 cho đến hôm nay. Họ không có tỏ cái vẻ gì là một nước bại trận. Họ vẫn là một cường quốc mà các lãnh đạo csvn lần lượt thay phiên nhau xin đến thăm viếng (sau cấm vận!) Các chuyến thăm viếng của lãnh tụ csvn vẫn được báo lề phải cs tường trình như một niềm hãnh diện “Chủ tịch, Thủ tướng nước ta được Tổng thống Mĩ tiếp đón tại Nhà trắng, tại phòng Bầu dục, tại vườn Hồng…” Rõ ràng là các Tổng thống Clinton , Bush đã đến Việt Nam mà vẫn được dân chúng Việt Nam niềm nở háo hức tiếp đón… Họ không hề đến Việt Nam để ký giấy đầu hàng hay xin xỏ csvn bất cứ chuyện gì?!

“Ngụy” (một danh từ có nghĩa xấu mà cs đã gán cho tất cả người dân, chính quyền hay bất cứ sự kiện gì có dính dáng đến “đế quốc Mĩ!”) có thua thiệt không? Chiến tranh đã chấm dứt nhưng sự tranh đấu của “Ngụy” đâu đã thấy chấm dứt! Thực ra, sự tranh đấu của “Ngụy” mỗi ngày mỗi mạnh hơn; nhất là từ hải ngoại. Cờ vàng vẫn tung bay hiên ngang oai hùng trước công đường thế giới trong khi cờ đỏ cs phải lén lút đi vào cửa sau. Cơ hội “Ngụy quân, Ngụy quyền” trở lại Việt Nam (khi csvn bị giải thể) không còn là chuyện “không tưởng.” Người dân Việt Nam (nhất là dân miền Nam) đâu còn dấu diếm e dè gì khi họ cần tỏ thái độ là “thà sống với Mỹ làm ‘Ngụy’ như người Nhật, Đức, Nam hàn, Đài loan… vẫn còn hơn là ‘vinh quang’ cúi đầu dưới “4 cái tốt” và “16 chữ vàng” của kẻ tử thù truyền kiếp TQ. Chẳng thà sống lưu vong làm ‘Ngụy’ hơn là sống dưới cái nhà tù lớn CSVN lập ra.”

Cs một mặt kêu gọi "hòa giải và hòa hợp dân tộc" mà tại sao mặt khác, bao nhiêu năm trôi qua, vẫn gọi những người “phía bên kia chiến tuyến” là “ngụy quân, ngụy quyền?” Vẫn gọi Mỹ là “đế quốc tư bản” mà thích gởi con cháu họ sang Mỹ du học để được học… cách bóc lột của đế quốc tư bản?

Ôi cộng sản Việt Nam !!! Một sự nghịch lý lố bịch cuối cùng còn xót lại trên hành tinh này!


Ai giải phóng ai? Giải phóng cái gì?

Theo tự điển tiếng Việt, chữ “Giải phóng” có nghĩa là “Làm cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, bị chiếm đóng. Làm cho được tự do; thoát khỏi sự ràng buộc bất hợp lý.”

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam lại bị cưỡng chế nô dịch (đi tù, đi kinh tế mới, bị quản chế, bị cô lập, hoàn toàn mất tự do, mất quyền công dân…) Người dân miền Nam có cần được cs bắc Việt giải phóng họ hay không? Nếu gọi là “đã được giải phóng” thì đời sống của họ phải khá hơn, tốt đẹp hơn lúc chưa “được giải phóng.” Hãy nhìn, đọc những con số không biết nói dối. Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn - rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Úc năm 1982 là Giáo sư Đại học New South Wales (Úc) - đã trình bày một cách cụ thể kết quả (bằng số) trước và sau ngày “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975 như sau:

(Trích nguyên văn – tuy hơi dài nhưng đáng đọc; đáng đồng tiền bát gạo)

Tính từ ngày 30/4/1975 . Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó ...

Về thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế (http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3 %B2a) - GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan . Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).

Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%. Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?

Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó... du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta. Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây. Còn hàng vạn "sản phẩm" của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia.

Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước (CHXHCN) ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-08-08-trinh-do-hoc-van-bo-truong-). Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay. Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ (MS degree) nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi. Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể: “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm ... Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc (checks), các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.”

Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay. Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ. Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho “cách mạng,” vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện! Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.” Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của… dân. Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước. Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […]. Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.”

Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng,” “ngày giải phóng miền Nam .” Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua, thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng. Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không? Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người? Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì; chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái (diễu cợt ông Thiệu, ông Kỳ liên miên). Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày.
(nguồn Nguyễn Văn Tuấn Blog)

(hết trích)


Như đã trình bày hơi dài giòng, “giải phóng” là thay đổi cái (chế độ chính trị) cũ bằng một cái khác tốt đẹp hơn. Ai cũng biết nhạc sĩ thân cộng Trịnh Công Sơn, sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi “anh em văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên miền Nam Việt Nam” như sau:

(Tôi xin ghi lại nguyên văn từ tài liệu audio của “youTube”)

Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=KSnXiyymlKk&feature=related

“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động được gặp và nói chuyện với tất cả anh em văn nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này (!). Hôm nay (ngày 30 tháng 4 năm 1975) là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta. Đó là ngày mà chúng ta đã ‘giải phóng’ hoàn toàn đất nước Việt Nam ; cũng như những mơ ước của các bạn (?) bấy lâu về sự độc lập, tự do và thống nhất… Hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả… Chúng tôi đang ở đài phát thanh Sàigòn… Tôi xin hát lại cái bài ‘Nối vòng tay lớn…’ Hôm nay thật sự’ cái vòng tay lớn’ đã được nối kết… Rừng núi dang tay nối lại biển xa… ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..”(sic)

Cũng “cái ngày hôm nay,” ai đã từng nghe bài “Em còn nhớ hay em đã quên” của con vẹt TCS thì chắc phải nhớ câu hát “Em ra đi nơi này vẫn thế.” Trịnh Công Sơn viết:

“Em ra đi nơi này vẫn thế
Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ”

Hay nhỉ? “Nơi này vẫn thế”là thế nào? Tại sao lại có sự mù lòa lạ lùng như vậy? Chuyện “Lá vẫn xanh” là chuyện dễ hiểu, tất nhiên. Bạo quyền và chủ nghĩa cs đâu có tài thánh nào đổi mầu lá cây từ xanh sang đỏ được? “Nơi này vẫn thế”là thế nào? Chỉ một thời gian ngắn sau khi lên đài phát thanh Sàigòn “kêu goại và hót” “rừng núi dang tay nối lại biển xa…” để “mừng ngày chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước” thì Trịnh Công Sơn đã phải trở ra sống ở Huế và “tham gia” vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn đầy rẫy mìn ở Cồn Thiên, gần vĩ tuyến 17 chứ đâu có còn được các tướng tá của chính phủ Sàigòn che chở cho sống ung dung và tự do đi hát nhạc phản chiến ở Sàigòn…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu toàn dân miền Nam được sống một cuộc sống “vẫn thế” thì đâu có hàng triệu người dân Việt phải liều mạng vượt biên vượt biển đi tị nạn ở nước ngoài (Ậy! Đến ngay cả cô “Em” nào đó của TCS cũng phải“ra đi” một cách “phản động.”) Người ở lại đã và đang sống một cuộc sống thê thảm nhất trong lịch sử dân tộc chứ đâu có cái chuyện “Nơi này vẫn thế?” Thật là chuyện trơ trẽn! Ốt dột!

.
Anh là ai? Ai là anh?

Trong chiến tranh, anh (cs) tự cho anh là anh hùng vì anh có can đảm ném lựu đạn, gài bom plastic, pháo kích vào chỗ đông dân lành tự nhiên như “người Hà lội.” Anh tự hào là anh rất giỏi về môn phá hoại cầu cống, đắp mô đường xá. Anh tự hào có can đảm cầm súng bắn, ám sát, thủ tiêu, thảm sát hàng trăm hàng nghìn người không có cái gì để tự vệ Anh vẫn cho anh là anh hùng là vô địch vì anh đã đứng lên, đã thành công trong việc giải phóng dân tộc trong khi các nước láng giềng của anh không cần có lãnh tụ kiệt xuất như HCM và cũng chẳng cần một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vinh quang như của anh mà dân họ vẫn độc lập ấm no tự do hơn dân tộc anh!…

Sau chiến tranh anh (cs) chứng tỏ anh là một thằng hèn nhất lịch sử. Anh đem đất liền và đảo của tiền nhân dâng nhượng cho TQ rồi anh bảo đó là chuyện nhỏ. Anh không dám phản kháng và anh cũng cấm dân của anh biểu tình lên tiếng bày tỏ phản kháng khi TQ chiếm đất lấn biển. Anh làm ngơ khi dân anh bị TQ tàn sát ở ngoài biền, ở biên giới. Anh làm ngơ đế các đối tác TQ đánh đập dân anh ngay ở quanh các vùng nội địa mà anh cho phép họ khai thác tài nguyên quốc gia. Anh rất hèn khi anh cưỡng bức tài sản, đất đai của dân nghèo. Anh rất hèn hạ bịt mồm, đánh xập các tiếng nói oan ức chính đáng của dân.

Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ đền tội với dân… Chân lý đó chỉ là vấn đề thời gian. Anh cũng biết thừa là cái bánh xe thời cuộc sẽ phải lăn theo chiều hướng không còn thuận lợi cho chính sách cướp bóc sát nhân của anh… Cho nên trong lúc này, khi còn nắm chút quyền hành, anh cố vơ vét tham nhũng càng nhiều càng tốt và anh dự định xây sẵn một cái ống cống để anh có cơ hội chui, vượt thoát…

Tương lai của các anh có lẽ cũng chẳng sáng sủa gì hơn kết cuộc của con chuột Gaddafi.

Chờ xem…



Trần Văn Giang
Tháng 4/2012

Tường
04-09-2012, 10:11 PM
Lan dán lại bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ mà Lan hát năm ngoái nghe đỡ ghiền đi L. Bài đó L hát hay ghê ah. :) Thanks L trước nhen! @};-~o)

Chị Lan mắc công việc, Tường xin dán lại bài hát cho cVinhNghi và phố nghe nhé.
Tháng 4 về , ai ai cũng tưởng nhớ đến một quê hương điêu tàn, và suốt đời ghi ơn các chiến sĩ QLVNCH đã quên mình vì nước

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ_trình bày Lan Nguyễn



http://i262.photobucket.com/albums/ii88/hinhtoshare/VNQHNN.png

http://www.box.net/shared/ia6q8t7g8g

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài
Từng ngày qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên




*** ui, mới trở về phố, sao lọng cọng quá dzi` ne`.. hỏng dán link được ợi ... hic..

Vịnh Nghi
04-10-2012, 09:00 PM
Chị Lan mắc công việc, Tường xin dán lại bài hát cho cVinhNghi và phố nghe nhé.
Tháng 4 về , ai ai cũng tưởng nhớ đến một quê hương điêu tàn, và suốt đời ghi ơn các chiến sĩ QLVNCH đã quên mình vì nước

Cám ơn Tường nhiều nhiều nha. :)

ngocdam66
04-14-2012, 02:56 PM
http://us.mg6.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1_506318_AJrbi2IAACUOT4nNfgFTDUUnmnM&pid=2.2&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailNeo





























1 Attached file| 496KB


image001.jpg (http://36ohk6dgmcd1n-c.c.yom.mail.yahoo.net/om/api/1.0/openmail.app.invoke/36ohk6dgmcd1n/10/1.0.35/us/en-US/view.html/0#)

ngocdam66
04-25-2012, 07:45 AM
NHỮNG HÌNH ẢNH KHÓ QUÊN TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI SÀI-GÒN


Tại Dinh Độc Lập

Ngày 8 - 4 - 1975. Dinh Độc Lập bị dội bom, do tên phi công Nguyễn Thành Trung (V.C nằm vùng), lái chiếc A-37 ném bom . Một trái bom rơi cạnh sân trực thăng trên nóc Dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng nhỏ .

Không đầy 10 phút sau, một toán cận vệ theo lệnh Tổng Thống đã đưa Đệ Nhất Phu nhân rời khỏi Dinh Độc Lập đề phòng cuộc chính biến, còn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ở lại trong Dinh Độc Lập để điều hành quốc sự

Việc dội bom nầy xảy ra như báo hiệu điềm không lành , nhưng tất cả quân nhân các cấp trong Khối Cận Vệ vẫn giử trách nhiệm của mình còn ở lại trong Dinh Độc Lập cho đến ngày 30 - 4 - 1975. Ngày 21 - 4 - 1975 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và đọc diễn văn bàn giao chức vụ Tổng Thống lại cho Cụ Trần Văn Hương

http://farm8.staticflickr.com/7280/6888672598_628425471a.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7253/7034766113_afd4de305c.jpg
Tổng Thống Trần Văn Hương Nhậm chức trưa ngày 21 - 4 – 1975
http://farm8.staticflickr.com/7044/6888672638_0159f01256_z.jpg

Lúc 17 giờ, ngày 28 - 4 - 1975 Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh
http://farm8.staticflickr.com/7187/6888672648_7e0c8f635c.jpg


Ngày 29 tháng 4 năm 1975. Đại Sứ Martin hẹn tới gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và có nhã ý mời Cụ đi cùng chuyến bay đi ra nước ngoài sống nhưng Cụ đã từ chối và nói:
" ... Tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào, niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước ... "
Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương chấp nhận sống cuộc đời đạm bạc trong căn nhà ở hẽm 132A đường Phan Thanh Giản

Năm 1978 cọng sản trả quyền công dân lại cho Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương, nhưng Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương cũng không nhận , Ông nói:
“Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước…”

Tới năm 1981 Cụ Trần Văn Hương từ trần Cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa .
Một đời của Cụ Trần Văn Hương vì dân vì nước .
Ngày 28 tháng 4 năm 1975 , tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa


http://farm8.staticflickr.com/7271/7034766191_8c129c0b0b_z.jpg

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 , chức Tổng Thống của Dương Văn Minh chưa được 48 tiếng đồng hồ , đã bị áp lực buộc phải đầu hàng và bị mất nước


http://farm8.staticflickr.com/7189/6888672710_2090ff7e13_z.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7062/7034766287_1084effce0_z.jpg
Dương Văn Minh & Vũ Văn Mẫu trên đường đến Đài Phát Thanh tuyên bố đầu hàng

http://farm8.staticflickr.com/7132/6888672800_bc6fa772d8_z.jpg
Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng



Tại Tòa Đại Sứ Mỹ - Sài Gòn



http://farm8.staticflickr.com/7267/7039595755_c1155deddc_z.jpg

Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn thời Việt Nam Cộng Hòa biểu tượng của tuyến đầu ngăn làn sóng đỏ của Cộng sản


Vào những ngày gần 30-4-1975, tòa Đại Sứ Mỹ là nơi làm không vận đưa người vượt thoát khỏi cọng sản ra hạm đội USS ngoài khơi Việt Nam trong chiều 29 đến 7:00AM sáng 30 tháng 4 năm 1975


http://farm8.staticflickr.com/7046/6893499656_e6248dfeaf_z.jpg


Ngày 24 tháng 4 năm 1975. Bên ngoài Tòa Đại Sứ những người đả có giấy nhập cảnh chen lấn để được đi lên máy bay cũa Mỹ, và đang cố ý cho nhân viên Mỹ biết là đả có giấy nhập cảnh
http://farm8.staticflickr.com/7259/6893500036_51e79e472a_z.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7220/7039596347_b3733e246e_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7263/7039595959_5930f6734b_z.jpg

Trực thăng cho Cầu không vận


http://farm8.staticflickr.com/7192/6893499892_e7f202af4d_z.jpg
Ngày 29- 4-1975, những quân nhân Mỹ chờ trực thăng trên nóc tòa Đại sứ


Ngày 29-4-1975 đám đông hỗn loạn người Việt trèo tường tòa Đại sứ Mỹ tại SG, cố vào bên trong, để được trực thăng bốc đi
http://farm8.staticflickr.com/7057/6893500252_9684f02a32_z.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7261/6893500512_cfa9166770_z.jpg

Sáng 30-04-1975, trực thăng đáp trên nóc Tòa Đại Sứ Mỹ cho kế hoạch di tản
http://farm8.staticflickr.com/7257/6893499824_e44b82609d_z.jpg

Lúc 4 giờ sáng ngày 30 - 4 - 1975, hai binh sĩ Mỹ cuối cùng tử thương ở Việt Nam vì rớt trực thăng
http://farm8.staticflickr.com/7136/7039596179_ab935b15f7_z.jpg



Tại Tòa Đại Sứ Mỹ - Sài Gòn


Những người Mỹ và người Việt đang chen lấn thoát thân
http://farm8.staticflickr.com/7112/6893500568_d656e08757_z.jpg


Mỗi ngày có hàng trăm người Việt xếp hàng xin visa tại tòa đại sứ Mỹ
http://farm8.staticflickr.com/7181/7039596879_878fba5575_z.jpg

ngocdam66
04-25-2012, 07:47 AM
Ngày 29 - 4 - 1975 khi những cảnh vệ Mỹ rút khỏi tòa ĐS người dân nghèo vẫn đi vào "dọn dẹp" như thường lệ
http://farm8.staticflickr.com/7224/6893500730_6b5df26b79_z.jpg


Ngày 29 - 4 - 1975, chiếc trực thăng của Mỹ đậu trên nóc sân thượng Tòa Đại Sứ .
http://farm8.staticflickr.com/7126/7039597033_14dba6fbdb_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7105/6893500870_aab875d8ee_z.jpg


Ngày 29-4-1975. Một nhân viên CIA (có lẽ là O.B. Harnage) đang giúp những người di tản VN đi lên một chiếc trực thăng Air America trên sân thượng tòa nhà số 22 đường Gia Long, cách Tòa ĐS Mỹ nửa dặm.

http://farm8.staticflickr.com/7075/7039597171_de4b3c7afa_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7224/7039597241_702263662a_z.jpg

Những người đi tị nạn đang chờ bên hồ bơi trong tòa đại sứ và họ đang ngồi chờ đợi trực thăng đưa ra hạm đội
http://farm8.staticflickr.com/7179/6893501142_54d9ac3870_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7275/7039597435_6cf4c39b6a_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7187/6893501330_66e00384d8_z.jpg






Tại Tòa Đại Sứ Mỹ - Sài Gòn


Những người di tản này đang chờ trực thăng tới bốc đi
http://farm8.staticflickr.com/7137/6893501530_c44cb678c0_z.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7199/7039597815_29af6140e7_z.jpg

Những người may mắn được lên trực thăng ngay trong sân tòa đại sứ Mỹ
http://farm8.staticflickr.com/7225/6893501686_f00919ac7e_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7263/6893501778_757075c23e_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7179/7039598063_50868685d8_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7211/6893501890_3bdb527a27_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7273/7039598193_fdf3aaf11b_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7075/7039598325_6abe62a362_z.jpg

ngocdam66
04-25-2012, 07:50 AM
Tại Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) - Sài Gòn


Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bảo vệ bãi đáp cho trực thăng trong việc di tản nhân viên Mỹ , Việt trong sân DAO
http://farm8.staticflickr.com/7130/7039819699_697a1481ac_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7049/6893723770_c00ebb958a_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7060/6893723852_7f369a006a_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7054/6893723916_fca6aa7070_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7104/6893724018_5b02fc3f33_z.jpg



Tại Phi trường Tân Sơn Nhất - Sài Gòn


Ngày 4 - 4 - 1975, tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất. Người của phái bộ Mỹ đưa 250 trẻ em mồ côi tại Việt Nam đi lên chiếc máy bay C-5A Galaxy

http://farm8.staticflickr.com/7047/6894564148_0317d6efb6.jpg

Các phụ nữ người của phái bộ Mỹ tại Sài Gòn đang thắt dây an toàn trong máy bay C-5A Galaxy cùng với các trẻ em mồ côi tại Việt Nam. Họ chuẩn bị trên đường tới căn cứ Không Quân Clark tại Philippines
http://farm8.staticflickr.com/7243/7040661035_1372218790_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7105/7040661165_27a7e41436_z.jpg


Chiếc C-5A Galaxy này chở 250 trẻ em và 50 người của Phái bộ Mỹ. Đã bị rơi cách đường băng một dặm sau khi hệ thống điều hòa áp xuất bị hỏng
http://farm8.staticflickr.com/7084/7040661255_5fd9819ca0_z.jpg
Chiếc máy bay C-5A Galaxy, là loại lớn nhất


http://farm8.staticflickr.com/7041/7040661299_fe92c875b0_z.jpg

Ngày 4 - 4 – 1975, những người lính Mỹ đang tìm những em bé trong chuyến bay C-5A Galaxy bị rớt
http://farm8.staticflickr.com/7089/7040661387_5c398a4fdd_z.jpg


Và chỉ còn 120 em nhỏ sống sót
http://farm8.staticflickr.com/7036/6894564538_e353ac7c64_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7051/7040661475_c3ce294402_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7106/7040661565_0a1a1d0835_z.jpg


Ngày 5 – 4 - 1975, Tổng Thống Ford đang bồng em bé cô nhi Việt Nam tại Mỹ
http://farm8.staticflickr.com/7056/7040661625_200f8a001d_z.jpg



Tại Phi trường Tân Sơn Nhất - Sài Gòn


Những người phụ nữ Mỹ cưu mang 216 em bé cô nhi Việt Nam .
Chiếc máy bay quân sự Mỹ đưa 216 cô nhi Việt Nam ra khỏi Việt Nam để vào Hoa Kỳ
http://farm8.staticflickr.com/7074/6894564706_e2c6b95f09_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7061/7040661703_21c162fb7a_z.jpg


Bà Tisdale còn giữ cuốn album hình mà những ngày chạy khỏi Việt Nam.
Hai tấm này là hình những em cô nhi lớn hơn giúp đặt các em nhỏ hơn vào trong giỏ để chuẩn bị lên máy bay
http://farm8.staticflickr.com/7254/7040662251_791b1c0b64_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7118/6894564810_e7441e4484.jpg

ngocdam66
04-25-2012, 07:53 AM
Ngày 22 4–1975 , người đàn bà này đang dẩn mấy em nhỏ lên chiếc máy bay C-130 tại Tân Sơn Nhất.
http://farm8.staticflickr.com/7097/7040661797_9d6d1a836b_z.jpg


Ngày 23 - 4 - 1975, tại phi trường Tân Sơn Nhất
http://farm8.staticflickr.com/7069/6894564924_3523a308ab_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7122/7040661893_1e802ab23a_z.jpg


Những em bé con lai đang trên may bay đưa về Mỹ
http://farm8.staticflickr.com/7038/6894565126_1aaf83e61b_z.jpg


Họp báo tại phi trường TSN
http://farm8.staticflickr.com/7048/6894565178_e18c0d6df7_z.jpg

Chiều ngày 28 - 4 - 1975, tên việt cọng Nguyễn Thành Trung đã dẫn một đoàn A-37 oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất
phá hủy một số máy bay tại đây

Nguyễn Thành Trung cũng là người thả bom Dinh Độc Lập trước ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
http://farm8.staticflickr.com/7278/7040662123_5fce33156f_z.jpg


Ngày 30 - 4 - 1975, máy bay bốc cháy tại phi trường Tân Sơn Nhất
http://farm8.staticflickr.com/7118/6894565320_d6a5c976be_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7122/6894565366_dab7f55ce8_z.jpg


http://ecx.images-amazon.com/images/I/21WDlaKvK9L._SS400_.jpg
Tại những chiếc Hàng Không Mẫu Hạm trên biển đông


HKMH USS MIDWAY
http://farm8.staticflickr.com/7248/6895923692_c5103fb658_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7192/7042020557_e5d2ebaaf1_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7188/7042020589_c1e728dc0d_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7259/7042020643_371195844b_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7051/7042020719_789c02a5e7_z.jpg


Trực thăng Sea Stallion rời USS Midway hướng về Sài Gòn cứu thêm người trong những ngày tháng 4 năm 1975
đồng đội chào tiễn biệt, chúc chuyến bay may mắn
http://farm8.staticflickr.com/7222/6895923952_89cb7db562_z.jpg


Trực thăng của Việt Nam Cộng Hòa liên tục đáp xuống HKMH USS MIDWAY vào những ngày 29-30 tháng 4 năm 1975
http://farm8.staticflickr.com/7272/6895924606_68fe2a5fbe_z.jpg


Trực thăng Huey của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa trên tàu HKMH Midway bị xô xuống biển
nhường chổ cho người dân di tản . Chiếc trực thăng đã bị đẩy xuống biển
http://farm8.staticflickr.com/7060/6895924694_9ae64878b2_z.jpg


Một Thuyền Đánh Cá chở người Di Tản được tàu Midway tiếp cứu
http://farm8.staticflickr.com/7261/7042022917_03ef25833f_z.jpg


Tàu HQ 500 đã đưa người di-tản ra khỏi Sài Gòn
http://farm8.staticflickr.com/7203/6895924796_500ff53377_z.jpg

Vịnh Nghi
05-01-2012, 10:10 AM
30-4: Chuyện chưa ai nhắc đến

Ngày 30-4-1975, Hà-nội đã thôn tính trọn vẹn miền Nam VN. Đó không chỉ là sự bất ngờ của đại bộ phận nhân dân cả hai miền, mà nó cũng bất ngờ đối với những người cầm quyền ở Hà-nội lúc ấy, thông qua lời tự thú của Văn tiến Dũng trong cuốn "Đại thắng mùa xuân".

Cho nên Hà-nội hoàn toàn không có kế hoạch tiếp quản miền Nam. Kẻ xâm lược và người bị xâm lược đều bị đảo lộn trong cái bất ngờ của 30-4-1975.

Người bệnh cạnh giường nhà thơ Tú Mỡ
Nhà thơ Tú Mỡ

Khu an dưỡng ở Quảng Bá (Hà-nội) chỉ dành cho cán bộ trung cao của cộng sản nằm dưỡng bệnh. Ngày 30-4-1975, nhà thơ trào phúng, trong nhóm Tự-lực Văn-đoàn, Tú Mỡ đang nằm dưỡng bệnh. Vì tuổi già cũng có mà còn vì ông ân hận đã đi nhằm vào cửa Tố Hữu cung đình, được Trường Chinh thay mặt chính quyền cộng sản, trao tặng huân chương, và trong phong trào Nhân-văn - Giai-phẩm, đã xuất hiện một bài thơ làm cho ông đau lòng, nhớ lại những ngày hạnh phúc khi còn nhóm Tự-lực Văn-đoàn. Bài thơ ấy như sau:

"Từ ngày ông Tú được mề đay
Thơ, phú của ông đ còn hay
Quản bút nay thành ống đu đủ
Đánh ác, trừ gian hết chua cay
Cung đình lưng uốn ngồi một xó
Cái xích văn nô đáng buồn thay
Này này nhắn nhủ cùng bà Tú
Mua giấy xi-măng đắp mặt dày!!!"

Ông đang kể lại cho mấy người nằm cạnh nghe về con đường đi vào dòng thơ trào phúng của ông là nhờ Nhất Linh và nhóm Tự-lực Văn-đoàn. Bỗng cái loa truyền thanh vang lên, nhắc lại tin "chiến thắng 30-4" và đọc danh sách những thành viên trong bộ máy quản lý miền Nam của cộng sản. Một ông già, nằm cạnh Tú Mỡ bỗng nhỏm dậy cười ha hả: "Bác sỹ Nguyễn văn Thủ là tôi đây. Tôi tôi được có tên trong danh sách ủy ban tiếp quản miền Nam. Mà mà sao chẳng ai bàn gì với tôi cả nhỉ. Ai ai đưa tôi vào Sài-gòn à à thành phố Hồ chí Minh bây giờ?" Mọi người ồ lên, nhưng chẳng ai ngạc nhiên vì tất cả đã quá quen với lối sống được điều hành bởi Nam tào và Bắc đẩu. Chỉ có nhà thơ Tú Mỡ, cười ruồi:

- Bộ ông Saù Thọ phải bàn xem anh có đồng ý không à?

Chuyện về Tự-lực Văn-đoàn và Tú Mỡ tạm đóng màn. Ai về giường nấy, giăng mùng nằm cho ruồi khỏi quấy, để suy nghĩ về thân phận sẽ được đẩy lên hay quật xuống. Cả phòng im phăng phắc đến độ tiếng ruồi bay đuổi nhau cũng nghe rõ mồn một.

Từ lúc tiếng loa 30-4-1975 loan tin danh dách ủy ban tiếp quản miền Nam VN, cho đến lúc đó xe ô-tô đến đưa bác sỹ Nguyễn văn Thủ đi làm nhiệm vụ cũng mất ba ngày. Nghĩa là ngày 4-5-1975. Bác sỹ Nguyễn văn Thủ lặng lẽ lên xe đi, bẻ mặt vì cán bộ ủy ban thống nhất đến đón ông cứ bô bô: "Tìm mãi mới biết bác sỹ nằm ở cái xó này. Nghe tên mình trên loa sao bác không điện thoại trình diện với ủy ban thống nhất hay ban tổ chức trung ương?"

Chỉ có người thường trực nhà an dưỡng chúc bác sỹ Nguyễn văn Thủ may mắn!

Mèo mù vớ cá rán
Ông Nguyễn Văn Trân

Câu nói trên của các cụ để lại thật đúng vào hoàn cảnh của bí thư trung ương cộng đảng Nguyễn văn Trân sau ngày 30-4-1975. Bởi vì cái ông bí thư trung ương đảng này đã từng nổi tiếng là chịu chơi và chịu nói. Ngày còn giữ ghế bí thư trung ương đảng kiêm bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội, ông Trân có một việc làm nổi tiếng và một câu nói nổi tiếng:

- Việc làm: Ông ta bắt nhân tình cả hai mẹ con một nhà tư sản nổi tiếng, cư ngụ lâu đời tại phố Hàng Bồ (Hà-nội);

- Câu nói: Khi giảng mở rộng nghị quyết 67/TU - tức là nghị quyết về giai cấp công nhân - ông ta đã cao hứng nhận xét: "Chưa chắc đảng ta (tức cộng sản) đã dám mở rộng dân chủ như thời nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng!"

Ngày về ngồi ghế bộ trưởng công nghiệp nặng, ông Nguyễn văn Trân có một quyết định thật là "táo bạo" theo kiểu cộng sản. Chẳng là ông đã cưa được cô bé Nguyễn thị M., bạn học với con gái của ông, tài không? Cô bé này cao, đẹp lại thích đánh bóng bàn như ông Nguyễn văn Trân vậy. Ngày ngày mang vợt mousse đến nhà riêng của ông Trân, tòa biệt thự cực đẹp, liền tường với biệt thự bà Nguyễn thị Thập, người khai phóng cho bà Nguyễn thị Bình, đương kim phó chủ tịch hội đồng Nhà nước cộng sản VN ở phố Hàng Chuối, để có cữ dợt tay nghề. Và, để cho người đẹp biết quyền uy ông chủ là gì, ông Nguyễn văn Trân đã chỉ thị cho cục kiến thiết cơ bản thuộc bộ công nghiệp nặng phối hợp với bộ tài chính (về tiền vốn) và bộ xây dựng (về kỹ thuật) để xây một sân đánh bóng rổ và một hội trường đánh bóng bàn khá hiện đại ngay khu đất thuộc trường Bách-nghệ do Pháp thực dân xây dựng ở đường Hai Bà Trưng - Quang Trung. Vật tư và kỹ thuật cũng như các nhân lực đều ưu tiên cho công trình này mặc dù lúc đó các nhà máy đang thiếu vốn và vật tự

Nam được "giải phóng", ông Nguyễn văn Trân được bộ chính trị cộng đảng cử ông phóng vào miền Nam lãnh việc tiếp quản và quản lý các cơ sở kinh tế. Ông làm việc thì ít mà chỉ lo đi bắt gái điếm: trưa một em, tối một em, công khai dùng xe ô-tô Falcon của Mỹ để lại đưa đón các em. Ông khoái các em hư hỏng hơn con nhà lành. Nhảy vào Sài-gòn, ông như "mèo mù" (ông cận rất nặng) "vớ cá rán" (các em do Mỹ đào tạo nên vừa thơm nước bông vừa thạo tay nghề). Chỉ tiếc là, đi "trưa" và đi "đêm" nhiều quá nên ông gặp ma dương - tức là dương mai và ông phải lén gặp riêng bác sỹ Lê kinh Duệ, chủ nhiệm khoa da liễu bệnh viện Bạch Mai (cũng lại gặp mai) ở Hà-nội. Để làm gì thì chỉ có ông Nguyễn văn Trân và bác sỹ Lê kinh Duệ biết với nhau mà thôi!

Tái ông mất ngựa

May rủi, rủi may xem như chuyện "tái ông mất ngựa" đời xưa, và thời nay là các ông Lê quý Quỳnh, bí thư tỉnh ủy Hải-hưng và Vũ Đại, phó chủ tịch, ủy viên thường vụ thành ủy Hà-nội.

Chẳng là khi còn làm bí thư tỉnh ủy Hải-hưng, ông Lê quý Quỳnh có sáng kiến giao nhiệm vụ cho ty thủy lợi của tỉnh tuyển chọn chị em, có khó khăn mặt này mặt nọ, vào các công trường thủy lợi của tỉnh để mua vui cho ông và các đồng chí thân cận, cũng như khi cấp trên về tỉnh kinh lý. Nói huỵch toẹt ra thì đó là "động quốc doanh" cấp tỉnh. Câu chuyện bị lộ vì sự tranh chấp quyền hành giữa ông và Nguyễn Chương, nguyên bí thư tỉnh ủy Hải-dương, khi hợp nhất hai tỉnh Hưng-yên và Hải-dương thành Hải-hưng. Đôi bên đều có quan thầy cỡ bộ chính trị, nên ông Quỳnh được đưa về trung ương chờ thời, còn ông Nguyễn Chương thắng trận nhưng lại thua luôn vì cái ghế bí thư tỉnh về tay ông Ngô huy Đông, bí thư tỉnh ủy Thái-bình sang ngồi.

Ông Vũ Đại khi làm phó chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy, trưởng ban nông nghiệp thành ủy, trong lúc về công tác Nam-hà năng ở nhà giao tế, hứng tình gọi một nữ đoàn viên thanh niên, phục vụ nhà giao tế, vào nói chuyện đời. Ông say sưa kể thành tích khi làm bí thư đoàn thanh niên (trước Vũ Quang). Cô nữ đoàn viên say sưa nghe ông kể cứ như Đét-xđi-mô-na nghe Ô-ten-lộ Ông Vũ Đại tưởng bở, chắc tự hào tên mình trùng với tên làng của nhân vật Chí Phèo trong chuyện ngắn của Nam Cao, nên ông diễn màn Chí Phèo say rượu gặp Thị Nở ngủ ở bờ sông. Nào ngờ cô đoàn viên thanh niên la lên, chắc to hơn tiếng la của Thị Nở. Còn ông Vũ Đại chẳng có gan la át giọng Thị Nở như Chí Phèo, cho nên chuyện lộ và ông đành về ngồi cùng phòng với ông Lê quý Quỳnh ở trung ương, đánh cờ ca-rô hoặc cờ tướng, chờ dịp đới công chuộc tội với ông Saù Thọ.

Thời cơ đó chính là ngày 30-4-1975!

Ông Lê quý Quỳnh được bổ sung vào thường vụ thành ủy Sài-gòn, giữ chức chủ nhiệm ủy ban nông nghiệp của thành. Còn ông Vũ Đại, cũng được bổ sung vào thường vụ thành ủy Sài-gòn, giữ chức chủ nhiệm ủy ban kế hoạch của thành. Hai cái ghế thường vụ thành ủy Sài-gòn này còn béo và thơm hơn ghế bí thư tỉnh ủy Hải-hưng và thường vụ thành ủy Hà-nội rất nhiều. Mỗi ông một vi-la đẹp, to lớn và tiện nghi bằng "năm, bằng mười hay nhiều hơn nữa" so với dinh cư của hai ông ở Hải-hưng và Hà-nội. Ô-tô thì méc-xê-đéc, đẹp và êm cũng "gấp năm, gấp mười hay nhiều hơn nữa" so với xe Volga của Nga-xộ Cái thú vị nhất là hai ông tha hồ xả xú-páp. Đàn em trong đảng hoạt động nội thành rồi "hàng thần lơ láo" kiểu cựu dân biểu Ngô công Đức, cha đẻ kế hoạch thành lập khu tứ khoái cho lính Mỹ ở Thủ Thiêm (nhưng chưa kịp thực hiện) đã giúp hai ông có maù 35 này hưởng thụ tốc độ một tháng "tam thập dạ đế vương".

Chuột sa hủ gạo

Trước 30-4-1975, đại tá công an cộng sản biệt phái giữ chức cục trưởng cục phục vụ ngoại giao đoàn là Nguyễn văn Bút. Tuy ngồi cái ghế này cũng được đấm mõm khá nhiều, nhờ vào số nhân viên người Việt ở các sứ quán Ai-cập, Ấn-độ, Indonesia, vương quốc Lào, Đức, tổng đại diện Pháp, lãnh sự Anh v.v, nhưng cũng chỉ đến cái đồng hồ Seiko, vài chỉ vàng, hộp đá lửa, vài chai Johny Walker là cùng, hoặc vài trăm đô la Mỹ, mà phải cất dấu thật kỹ, lúc cần bán cho chân tay của ba Tàu làm kinh tài cho Trung cộng. So với miền Bắc lúc ấy là thuộc loại vớ bẩm.

Trong khi đó, trung úy Phương Nam; phóng viên quân sự biệt phái ở báo Tiền phong (Hà-nội), một vợ, bốn con nhỏ, ở chui rúc trong một phòng nhỏ đường Nguyễn Trãi, gần chợ Hàng Đa, lương tháng 65 đồng (biên tập 3) không thể đủ ăn dù chỉ là ăn cháo, cho nên hàng tháng phải bán maù ở bệnh viện Việt-Đức mỗi lần được 72 đồng, một bát phở tái, một hộp sữa và vào thị xã Hà-đông bán maù cho bệnh viện 354 (của quân đội) được 70 đồng chẵn. Điển hình mức sống của cán bộ sơ cấp của cộng sản. Là người Vĩnh-long, không vây cánh nên trung úy Phương Nam bị tòa soạn báo Tiền phong đẩy khéo đi B (tức thâm nhập miền Nam). Trên đường Trường-sơn, xe ô-tô bị trúng bom, tất cả bị chết, riêng trung úy Phương Nam sống sót. Thế là được đặc cách lên lon đạo úy. Và, được theo Hoàng anh Tuấn trong phái đoàn quân sự ở trại David sân bay Tân-sơn-nhất, làm nhiệm vụ người phát ngôn và được đeo lon thiếu tá.

Sau 30-4-1975, đại tá Nguyễn văn Bút giã từ Hà-nội vào Sài-gòn giữ chức giám đốc sở ngoại kiều và thiếu tá Phương Nam được lên lon trung tá, giữ chức phó giám đốc cho đại tá Bút. Ở vị trí này, đại tá Bút chẳng thèm nhận vài chỉ vàng hoặc vài chai Johny Walker, cũng như trung tá Phương Nam đâu còn phải mỗi tháng hai lần bán maù mua gạo nuôi vợ và các con. Môi giới đưa đến cứ từ dăm chục cây một lần. Trung tá Phương Nam còn cô bạn lai Âu tóc vàng, mắt màu nước biển, lái xe Peugeot 404 đưa người đẹp đi nhà hàng Tri kỷ ăn thịt trúc (tức con tê tê), uống rượu huyết rắn hổ.

Một người có thẩm quyền ở ban thanh tra bộ công an nói rằng: đại tá Bút có tới vài ngàn lượng vàng, chưa kể đô-la Mỹ, Franc Pháp và hột xoàn. Còn trung tá Phương Nam có thua cũng chẳng thua đại tá Bút là bao. Dù có những thư tố giác về bộ công an và các cơ quan khác, nhưng đại tá Bút và trung tá Phương Nam chỉ phải chuyển công tác mà thôi. Không những thế, Phương Nam còn đeo lon đại tá.

Thì ra: "Nén bạc đâm toạc tờ giấy".

Các cụ nhà mình ngày xưa giỏi thật!

Kim loại màu vàng
mai chí thọ
Đại tướng Mai Chí Thọ (1922 - 2007)

Sau 30-4-1975, tòa nhà 3 tầng lầu ngay trước tượng Không tử, Chợ-lớn đã là đối tượng theo rõi của sở an ninh nội chính Sài-gòn - Chợ-lớn, do thiếu tướng công an Mai chí Thọ làm giám đốc. Tổ theo rõi căn nhà đó do đích thân trung tá Saù Ngọc, phó giám đốc sở chỉ đạo. Và, một buổi tối tháng 6-1975, nhân viên an ninh đến đọc lệnh khám nhà. Gia chủ là một người Tàu, đóng cửa nhà ngay từ trước ngày 30-4-1975, nằm "chùm chăn", không đi lại buôn bán làm ăn gì, nghiêm chỉnh chấp hành lệnh và đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khám xét. Khi kiểm kê các "hàng bất hợp pháp", trung tá Saù Ngọc cười toe toét trước các bao vàng lá đủ loại: Kim thành, Sư tử, Ba quả núi - có sọc và không có sọc, đếm được gần 2 chục ngàn lượng; lại còn 3 hộp biscuit đầy hạt xoàn tất cả đều được lập biên bản rõ ràng, có mặt cả an ninh nội chính quận năm là thiếu tá Phong và đại diện Hội-hoa-liên.

Chủ nhà và tang vật được giao về sở an ninh nội chính ở đường Trần Hưng Đạo. Nhưng, chỉ hai tuần lễ sau thì đại sứ Trung cộng tại Hà-nội, là Trần chí Phương, gửi thư lên bộ ngoại giao cộng sản Hà-nội phản đối việc bắt bớ Vì, căn nhà đó là cơ sở hoạt động gián điệp của Trung cộng ở Sài-gòn dưới các chính quyền miền Nam từ tổng thống Ngô-Đình-Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, và đã ngưng hoạt động trước 30-4-1975 là ngày cộng sản Hà-nội hoàn thành cuộc thôn tính và đặt bộ máy cai trị lên miền Nam VN. Chủ nhà được hộ tống ra Hà-nội cùng gia đình và về Hoa-lục bằng xe lửa. Còn vàng và hột xoàn? Khi nhận trao trả, phiá Trung cộng đòi thử lại và phát hiện rằng tất cả là vàng giả và xa-phia chứ không phải hạt xoàn. Đôi bên tranh cãi, nhưng phía Trung cộng cứ theo biên bản vàng lá và hạt xoàn mới nhận. Nội vụ tạm chuyển ra trung ương giải quyết cũng như tạm ghi sổ là VN của Lê Duẩn nợ Trung cộng vậy, chờ hạ hồi phân giải.

Câu hỏi rằng vàng giả và hạt xoàn giả là từ khi còn ở căn nhà đường Khổng tử hay nó chỉ hóa thân khi vào kho của Mai chí Thọ còn là một bí ẩn như trăm ngàn bí ẩn khác của xã hội cộng sản VN.

Sau bài học đó, bộ công an được bộ trưởng Trần quốc Hoàn cho sáng kiến là khi tịch thu vàng và hạt xoàn của nhân dân dù giả hay thật thì cũng chỉ ghi vào biên bản: vàng là kim loại màu vàng, và hạt xoàn là đá quý. Cái sáng kiến này đã giúp công an cộng sản tạm giữ vàng thật và hạt xoàn của dân. Và, nếu đương sự không có vấn đề gì thì phần lớn được trả lại tang vật đúng là kim loại "màu vàng" và "đá quý".

Đúng là khẩu khí của Hồ chí Minh rằng: "Chỉ có người cộng sản mới dám nghĩ, dám làm". Tài thật!!!

Lá số tử vi và kịch bản sân khấu

Ngay sau ngày 30-4-1975, nhà văn quân đội cộng sản, trung tá Nguyễn Khải (nay là đại tá và là phó tổng thư ký hội Nhà văn VN cộng sản) đã có mặt tại Sài-gòn. Bên cạnh công tác thì ông cũng dành thì giờ làm tư tác, nghĩa là đi thăm bố đẻ ở đường Võ văn Tấn và vài người họ hàng, trong đó có ông Bùi tường Huân. Chẳng biết ông Nguyễn Khải nói ra sao mà ông Bùi tường Huân năn nỉ đưa ngày, giờ, tháng, năm sinh âm lịch để đưa ra Hà-nội xem tử vi giùm (!), chủ yếu xem cung quan lộc còn phát được hay không hay lại bị tù. Sài-gòn bao nhiêu thầy tử vi, chỉ tay, tướng mặt v.v lại còn có hội Thông linh học, thế mà ông Bùi tường Huân lại nhờ Hà-nội giải đoán giùm lá số tử vi qua trung gian của nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, đệ tử thân cận của trưởng ban tuyên huấn trung ương Tố Hữu! Tài thật!

Ăn các món ăn đặc sản của Huế ở nhà ông Bùi tường Huân rồi, ông Nguyễn Khải còn được ăn cơm thịnh soạn ở nhà bố đẻ, có đông đủ một số họ hàng là "ngụy". Chẳng biết Nguyễn Khải cao hứng nói thế nào mà bà cô ngắt lời ông Khải hỏi:

- Anh thấy Sài-gòn có nhiều cột đèn không?

Nguyễn Khải, gương mặt sáng sủa thông minh vậy mà cũng phải ngẩn ra một lúc mới trả lời được:

- Nhiều lắm

- Liệu có đủ để mỗi cột đèn treo cổ một tên cộng sản không?

- Không!

Không khí bữa ăn trầm lại. Bà cô Nguyễn Khải cười mỉa:

- Nếu vậy mỗi cành cây treo cổ một đứa!

Trở lại tiếng cười khà khà đúng là của nhà văn quân đội, trung tá Nguyễn Khải lớn tiếng:

- Cũng không đủ!

Rồi Nguyễn Khải vui vẻ hỏi móc bà cô:

- Ghét cộng sản như vậy sao cô không đi Mỹ mà còn ở lại đây làm gì?

Bà cô cười khẩy:

- Người Sài-gòn ai cũng muốn đi, chỉ vì mắc kẹt nên tạm ở lại mà thôi. Ngay cột đèn, nếu có chân chúng cũng sẽ đi hết!

Cả cuộc đối thoại trong bữa cơm hôm đó được cho lên kịch bản sân khấu do đoàn kịch điện ảnh dàn dựng. Mục đích là để nói lên cái chất "phản động" của dân Sài-gòn. Dùng văn nghệ để chứng minh cho bài nói chuyện của trung tướng Hoàng minh Thảo ở hội nghị lịch sử quân sự, đại ý: "Cái sai của Nguyễn Huệ, một lỗi lầm chiến lược lớn nhật là không tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn Nguyễn ánh đã là nguyên nhân gây mầm họa sau này". Chúng ta cần rút bài học lịch sử để không đưọc phạm sai lầm đó. Kịch đó của trung tá Nguyễn Khải không được Tư Bình - tức Vũ đình Liệu - chủ tịch Sài-gòn cộng sản ủng hộ. Cho nên, vở kịch diễn được đúng một đêm ở nhà hát thành phố thì phải gói phông màn, đạo cụ dông về Hà-nội.

Cái ông nhân viên thu thuế muối thời Pháp thuộc ấy, quê ở Nam-định, thật là tài, chẳng trách được ông Saù Thọ cho giữ ghế chủ tịch Sài-gòn. Khi sang Nga-xô, ông Tư Bình tức Vũ đình Liệu này đã gọi Nga-xô là "tổ quốc thứ hai" và chuyến đi đó là "cuộc hành hương về thánh địa", lúc thì bằng giọng Nam bộ cho ra vẻ Tư Bình, lúc thì giọng Nam định cho ra vẻ Vũ đình Liệu. Thế nhưng, có hai đứa con ông ta đã giải quyết: trai cho sang Pháp học thay vì sang Nga và gái thì vào làm việc ở Seaprodex thay vì vào thanh niên xung phong xây dựng nông trường Lê minh Xuân.

Đúng là nhờ sự kiện 30-4-1975 mà bao "người tài" lộ mặt. Thật mừng lắm thay!!!

Mai Xuân Dũng Blog

(Copy từ trang CT)

chieclavotinh
04-27-2019, 09:40 PM
Bài thơ Tháng Tư
Huy Phương

Lũ chúng ta, ván cờ dở cuộc
Tướng bỏ thành, phá tượng, buông xe
Ta thân tốt chân trời góc bể
Nỗi qua sông chẳng hẹn ngày về.

Thuở đứt gánh tóc còn xanh mướt
Giờ nhìn nhau, bạc trắng phơ phơ
Hai mươi năm đốt đời trai trẻ
Buổi sa cơ, lỡ một thế cờ.

Mỗi nghìn đêm còn đau giấc mộng
Mỗi sáng nhìn đất nước khuất xa
Thân tráng sĩ – sức tàn lực kiệt
Mộng thời trai như bóng mây qua.

Những hố bom ngày xưa đã lấp
Biển muôn trùng xanh những nương dâu
Chiến trường xưa đã mờ dấu tích
Sao lòng ta nặng vết hằn đau

Người lính già tuổi chiều bóng xế
Chẳng còn xưa, chẳng có mai sau
Những tháng ngày sầu niềm đất khách
Vết thương lành, vết sẹo còn đau.

Ôi tháng tư, đốt lò hương cũ
Khóc người xưa, nhỏ lệ cho ta
Người đã khuất – còn nguyên khí phách
Ta sống còn – tháng đoạn, ngày qua.

chieclavotinh
04-25-2020, 10:20 PM
Cùng một tháng 4
Trọng Kim

Đầu tháng Tư, ba mươi hai năm sau cuộc chiến chấm dứt ở Việt Nam, một dịp bất ngờ tôi ghé qua miền Đông Bắc Hoa Kỳ và đến thăm địa danh những trận đánh cuối cùng đẫm máu nhất trong cuộc nội chiến Nam Bắc của Hoa Kỳ. Đó là Fredericksburg ở Virginia cách thủ đô Hoa Thịnh Đốn 38 dậm (khoảng 60km) về phía Tây Nam.

Đã có bốn trận đánh lớn nhất giữa quân đội của miền Bắc và miền Nam ở quanh vùng này mà theo lịch sử ghi lại, có tới khoảng 100.000 người Mỹ đã tử thương, dẫn đến sự thảm bại cuối cùng của miền Nam. Và, một sự tình cờ hy hữu của lịch sử, cuộc nội chiến Nam Bắc của Hoa Kỳ đã kết thúc cũng vào tháng Tư như cuộc chiến Việt Nam, khi tướng Robert E. Lee chỉ huy quân đội miền Nam ký văn bản đầu hàng với tướng Ulysses Grant, chỉ huy lực lượng miền Bắc.

Tháng Tư, 32 năm trước miền Nam Việt Nam đã sụp đổ, Tổng thống cựu đại tướng Dương Văn Minh cũng đã phải ra lệnh đầu hàng nhưng trong nhục nhã nơi dinh Độc Lập, trái ngược hẳn với tư thế thua trận của miền Nam trong cuộc nội chiến ở Mỹ.

Theo lịch sử ghi lại, trưa ngày 9 tháng 4, 1865 tướng Lee và một đại tá tùy viên cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến địch tới điểm hẹn để gặp tướng Grant qua hàng quân nhạc chào đón vì vị tư lệnh quân miền Bắc đã ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc không được có bất cứ một hành động nào vô lễ với tướng tư lệnh miền Nam.

Theo bản đồ, từ Downtown (Trung tâm) Fredericksburg, tôi lái xe dọc theo con lộ Lee Drive, xuyên qua những khu rừng và đồi nhỏ, qua những địa điểm có ghi lại nơi hai bên xung đột để tới đồi Prospect Hill cũng là tận cùng của con đường, nơi xẩy ra trận đánh chính. Những dàn đại bác còn để lại rải rác hướng xuống thung lũng soai soải với những cây Pacific dogwood đầy bông trắng.

Ngồi trên một hàng rào gỗ, cạnh những khẩu súng lớn, tôi nhìn xuống thung lũng xa xa còn mờ trong sương sớm. Tôi tưởng tượng ra cuộc chiến mà theo sử sách để lại thật hào hùng và đẫm máu, những trận đánh xáp lá cà, cận chiến, đâm chém nhau, có trận kéo dài suốt 20 tiếng đồng hồ bất phân thắng bại của quân đội hai bên.

Đây là những trận đánh quyết liệt trong một địa bàn rộng tới 17 dặm (khoảng 27km) có tính cách chiến lược và chiến thuật vượt qua tầm hiểu biết của các binh sĩ tham chiến, trong đó tướng Grant quyết chiến thắng dù bị thiệt hại nặng nhưng để đạt mục tiêu chấm dứt cuộc chiến tranh.

Trong sương sớm tại Prospect Hill, tôi nhớ tới Đơn Dương nơi tuyến chót của quân miền Nam Việt Nam lúc rút khỏi Cao nguyên và anh em quân nhảy dù mà tôi đã có mặt với nhóm truyền hình Âu Châu. Đêm hôm trước, tôi gặp Du Tử Lê, người bạn học Chu Văn An, ở Nha Trang. Lê dẫn một nhóm phóng viên bay trực thăng theo dõi cuộc đi bộ di tản khỏi Cao nguyên (trong đó có anh Nguyễn Tú của Chính Luận) theo đường số 7, còn nhóm tôi xuống Đơn Dương. Tối hôm đó, Đơn Dương thất thủ.

Trời đã sáng rõ, vài chiếc xe hơi đã đến đậu nơi khu parking, có lẽ là những người địa phương vì họ đến để chạy bộ trong rừng hay đẩy xe cho con nhỏ dưới nắng sớm. Tôi lái xe trở lại Downtown, dọc theo đường William Street, đi qua Nghĩa địa Quốc gia nơi chôn cất hơn 15.000 tử sĩ miền Bắc trên một diện tích 12 mẫu. Nhưng trong vùng Fredericksburg, còn vài nghĩa địa chôn quân miền Nam. Tất cả đều được bảo tồn kỹ càng có bia và đài tưởng niệm.

Tại nghĩa địa của quân miền Nam, tôi chụp vội tấm hình và tự nhiên liên tưởng tới các mồ tử sĩ của quân đội Việt Nam Cộng Hoà và gần nhất việc dân sự hóa nghĩa trang Biên Hoà nhằm mục tiêu giải toả cho các kế hoạch thương mại.

40 năm sau cuộc chiến ở Mỹ, trong tinh thần hòa giải dân tộc, các tử sĩ miền Nam đã được cải táng đem vào chôn cất chung với các tử sĩ miền Bắc trong nghĩa trang của miền Bắc ở Arlington, Virginia mà nay là Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington.

32 năm sau cuộc chiến chấm dứt trên quê hương Việt Nam, không thấy đâu một hành động hòa giải như vậy mà còn cay đắng hơn, các ngôi mộ của kẻ bại trận sẽ bị xóa bỏ trước mãnh lực của đồng đô la.

Lái xe trở lại Downtown, tôi ghé qua Blue and Gray Cafe ngay trước phòng thông tin về các trận đánh tại Fredericksburg để ăn sáng. Cái tên rất lịch sử vì đó là mầu quân phục của quân đội hai miền, Blue của miền Bắc và Gray của miền Nam. Hầu như tất cả cư dân ở đây đều ghé quán này vì không khí thật thân mật, hầu như tất cả mọi người đều biết nhau. Khi biết tôi là người Texas, người của miền Nam (lại có sự trùng hợp với quá khứ), mọi người đều chào hỏi thân mật tạo cho tôi một bữa ăn sáng thật thoải mái.

Đọc cuốn sách nhỏ tóm lược về cuộc nội chiến Hoa Kỳ, tôi thấy ngay tại sao xứ sở họ trở lại phồn thịnh nhanh chóng. Quân miền Bắc, sau khi chiến thắng đã không có chính sách trả thù, đầy dọa, vơ vét, chiếm đóng tài sản của quân, dân miền Nam.

Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng, tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính miền Bắc.

Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để binh sĩ miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.

Sau này khi viết về văn bản văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen's Agreement).

Cầm ly cà phê đen trong tay, tôi liên tưởng tới sau cuộc chiến chấm dứt hồi tháng 4, 1975, gia đình tôi tan nát mỗi người một nơi, anh, em vào tù cải tạo, tôi lạc lõng nơi quê người trong một trại tị nạn. Dân miền Nam bị trả thù kinh tế, bị đưa lên những vùng kinh tế mới không phương kế sinh sống, nhà cửa bị tịch biên... Để đến đường cùng, hàng triệu người phải bỏ quê hương ra đi, vượt biển, vượt biên, nhiều trăm ngàn người chết ngoài biển đông hay bỏ xác nơi rừng thẳm trên đường tìm tự do.

Hoa Kỳ lập quốc chưa được ba thế kỷ còn dân tộc tôi lúc nào cũng tự hào là có hơn bốn ngàn năm văn hiến.

Tự nhiên, ngụm cà phê trở nên đắng hơn.

chieclavotinh
06-06-2021, 02:22 AM
Quà Tặng Trong Chiến Tranh
Trần Mộng Tú
Tháng 7/1969

Em tặng anh hoa hồng
Chôn trong lòng huyệt mới
Em tặng anh áo cưới
Phủ trên nấm mồ xanh

Anh tặng em bội tinh
Kèm với ngôi sao bạc
Chiếc hoa mai màu vàng
Chưa đeo còn sáng bóng

Em tặng anh tuổi ngọc
Của những ngày yêu nhau
Đã chết ngay từ lúc
Em nhận được tin sầu

Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương

Em tặng anh mây vương
Mắt em ngày tháng hạ
Em tặng anh đông giá
Giữa tuổi xuân cuộc đời

Anh tặng môi không cười
Anh tặng tay không nắm
Anh tặng mắt không nhìn
Một hình hài bất động

Anh muôn vàn tạ lỗi
Xin hẹn em kiếp sau
Mảnh đạn này em giữ
Làm di vật tìm nhau.


The Gift in Wartime
Vision of War, Dream of Peace
1990

I offer you roses
Buried in your new grave
I offer you my wedding gown
To cover your tomb still green with grass.

You give me medals
Together with silver stars
And the yellow pips on your badge
Unused and still shining.

I offer you my youth
The days we were still in love
My youth died away
When they told me the bad news.

You give me the smell of blood
From your war dress
Your blood and your enemy’s
So that I may be moved.

I offer you clouds
That linger on my eyes on summer days
I offer you cold winters
Amid my springtime of life.

You give me your lips with no smile
You give me your arms without tenderness
You give me your eyes with no sight
And your motionless body.

Seriously, I apologize to you
I promise to meet you in our next life
I will hold this shrapnel as a token
By which we will recognize each other.

chieclavotinh
10-03-2021, 02:50 AM
Một Tấm Lòng Son Với Nước Non
Lê Thiệp

Ông có thể là một chính khách khôn ngoan, một người chuyên đứng trong hậu trường giật dây những sinh hoạt chính trị.

Ông có thể là một người tròn trịa, được lòng cả Tây lẫn Mỹ, có một quan hệ tốt đẹp với đảng phái, đối lập, báo giới và chính quyền để đến nỗi có kẻ đặt cho ông bí danh Đặng Bi Ve hoặc quá quắt nữa là Việt gian.

Ông có thể là một ông quan lớn của Đại Việt quan lại, kẻ được đích thân đảng trưởng Trương Tử Anh tuyên thệ và trao sứ mạng xuất ngoại tìm hiểu thế giới và tìm kiếm nguồn tài trợ.

Ông có thể là một tay tổ gián điệp, người đứng ra tổ chức công cuộc gài người lại miền Bắc Việt Nam, thiết lập cả một màng lưới gián điệp khắp ngang cùng ngõ hẻm ở miền Bắc sau hiệp định Genève.

Ông cũng có thể là một nghị sĩ thấu hiểu quy luật đấu tranh nghị trường, biết lúc nào phải nhượng bộ, lúc nào phải cương quyết và lấn tới.

Ông cũng có thể là một ông chủ báo tài hoa, thành công, đầy uy tín và có một ảnh hưởng lớn trong dư luận.

Ông còn có thể nhìn dưới nhiều nhãn quan khác nữa, hoặc như chính ông vẫn cứ tự nhận “Tớ chỉ là một anh nông dân xứ Nghệ” và sau này, quãng thời gian lưu vong ở Mỹ, “tớ chỉ là một anh social worker đi lo chuyện chồng đánh vợ, con bỏ nhà đi…”

Ông cũng cười bảo “tớ là bác sĩ không biết tiêm, không biết chích…”

Cho dù được nhìn dưới nhãn quan nào, từ góc độ nào, trong cảnh huống cá biệt nào, có một điều không thể phủ nhận được nơi ông là tấm lòng yêu nước thiết tha. Mọi hành động của ông trong suốt cuộc đời đều chỉ qui về một mối duy nhất là đấu tranh cho Việt Nam với một tấm lòng son.

Có lẽ không có cuộc đời nào giống như cuộc đời của ông Đặng Văn Sung, nhưng có lẽ mọi cuộc đời của những người quốc gia trong giai đoạn sau 1945 đều có những điểm giống như những gì ông Sung đã trải qua, một cuộc đời tiêu biểu cho cả một thế hệ miệt mài với cái ước vọng không thành sự thật, khi nằm xuống vẫn không thấy được một Việt Nam phú cường thịnh vượng đủ để góp mặt với cộng đồng thế giới trong thế kỷ sắp tới.

Nằm trên giường với ống thở dưỡng khí khoảng sáu tháng trước đây, bác sĩ Đặng văn Sung đã kể lại cuộc đời của ông với câu mở đầu “Tớ lao vào chuyện này chỉ vì lòng yêu nước và không thể chấp nhận chủ nghĩa Mác.”

Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ năm 1946, ông Đặng Văn Sung đã học xong y khoa, chỉ còn chờ trình luận án. Mộng ước lúc đó của ông thật giản dị. Ông tâm sự chỉ muốn trở về Phủ Diễn để làm “một ông lang, tất nhiên là lang Tây, sống một cuộc đời lông bông một tí và lòng hướng về những việc làm có tính cách xã hội.”

Cái ước mơ đó có thể khởi từ những suy nghĩ của ông khi còn thơ, như thể là một câu trả lời cho đại gia đình họ Đặng.

Ông sinh trưởng trong một gia đình thế phiệt, ông nội Đặng Văn Thụy là một nhà nho, sau này giữ chức Tế Tự Quốc Tử Giám một năm thì cáo quan về dạy học.

Cụ Đặng Văn Thụy sinh được chín trai, bốn gái. Thân phụ của ông Sung là người con thứ ba, tên chính thức là Đặng Văn Cửu nhưng trong giấy tờ khai sinh của ông Đặng Văn Sung thì tên cụ thân sinh lại là Đặng Văn Bảo.

Ông cười kể:

– Tôi cũng chả hiểu tại sao lại để tên bố là Đặng Văn Bảo nữa. Rất nhiều người tưởng tôi là con của ông Đặng Văn Hướng, nhưng ông Hướng là bác, nhạc phụ của bác sĩ Phan Huy Quát, cũng như tôi với Đặng Văn Đệ là anh em chú bác. Đệ là con ông Đặng Văn Oánh.
Ông kể lại ông nội là nhà nho, sống đạm bạc và mọi cơ nghiệp nhà họ Đặng đều nhờ bà nội – bà Cao Thị Bé, dòng dõi Cao Xuân Dục.

Mô tả bà nội, ông Sung nói:

– Bà nội tôi là một bà tướng, chỉ huy đông tây, lèo lái mọi sự.

Thân mẫu ông là bà Đào Thị Định, còn có tên gọi là Dinh. Ông mồ côi cha sớm và điều này đã có một ảnh hưởng sâu đậm đến cái nhìn của ông về đại gia đình họ Đặng.

Ông nghĩ rằng thân mẫu của ông, và cái tiểu gia đình mẹ góa con côi đã bị các bác, các chú và họ hàng quyến tộc chèn ép nhiều. Ông nói:

– Tôi thương mẹ tôi lắm. Làm cái gì thì làm, tôi luôn luôn nghĩ đến mẹ.

Ông học trung học ở Nghệ An cho đến khi đậu Thành Chung năm 1936, lên Hà Nội và đậu tú tài vào 1939, theo học Đại học Y khoa, chuyên về sản khoa. Như cái nhìn của ông về bất cứ chuyện gì cũng đượm một chút phóng khoáng, ông kể “Tớ chỉ học vừa đủ đỗ, kiếm được cái học bổng đâu sáu, bảy đồng một tháng là vui rồi. Tớ đáng lẽ được du học sang Pháp nhưng rồi chuyện đất nước đẩy tớ vào một cuộc đời khác, đỗ bác sĩ mà không dám tiêm, dám chích cho ai cả.”

Nhớ lại thủa ấu thời hơn 3/4 thế kỷ trước, ông Sung băn khoăn:

– Tớ vẫn không hiểu tại sao ông nội lại đặt tên tớ là Sung. Sung là điếc, lấy từ câu trong kinh Dịch “Thúc hề, bá hề, điệu như sung nhĩ,” có nghĩa là chú cười, bác cười làm như thể điếc, và cụ lại còn đặt cho tên tự là Biểu Khanh có nghĩa là thằng điếc.”

Cụ Đặng Văn Thụy có thể muốn đứa cháu bưng tai bịt mắt trước thế sự đảo điên chăng, nhưng nếu quả như vậy thì cái tên Sung thật sự có vận vào đời ông, nhưng một cách ngược lại. Ông rất thính và không bao giờ là một người điếc trong công cuộc đấu tranh cho đất nước.

Cái ước mơ trở về làm đốc tờ Tây ở Phủ Diễn cho tới khi ông nằm xuống vẫn chỉ là ước mơ. Ông cho hay trong suốt thời kỳ học đại học, ông không hề tham gia sinh hoạt đấu tranh, hội kín, đảng phái. “Tớ chỉ lo học, đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và đi hát cô đầu.”

Cho đến ngày kháng chiến bùng nổ, Hà Nội đứng dậy, một cái dấu mốc lớn trong đời ông đã hiện ra.

“Lúc đó tớ – ông hay xưng tớ với những người nào trẻ hơn ông – lúc đó tớ lơ mơ lắm. Nhìn thấy toàn dân đứng dậy, tớ cũng thấy lòng bừng bừng và vì là bác sĩ, tớ tham gia vào công tác cứu thương. Khi đó có hai tổng hội sinh viên, một là sinh viên cứu quốc của Việt Minh, một là của anh em quốc gia. Tớ nhìn thấy ngay Mác-xít không phải là con đường thích hợp cho mình, nhất là nó đi ngược lại với dân tộc tính của người Việt Nam. Và tớ chống. Anh em bèn bầu tớ lên làm Chủ tịch sinh viên Y khoa. Thế là tớ dấn thân.”

Cách nói vắn tắt đó không đủ diễn tả không khí của Hà Nội sau mùa thu 1945. Nhật bị tước khí giới. Tây toan tính lập lại thuộc địa. Việt Minh chiếm độc quyền kháng chiến, tìm đủ mọi cách tiêu diệt các đảng phái quốc gia như VNQDĐ, Đại Việt, Duy Dân…

Và người bác sĩ trẻ tuổi, chưa đụng chạm với những thực tế của đấu tranh, biết mình không thể đơn thân độc mã. Ông Sung kể lại:

– Từ lâu có một người tên Hướng, cùng quê xứ Nghệ vẫn cố vận động tôi vào Đại Việt. Tôi có cảm tình với anh Hướng vì là người đứng đắn và tôi cũng đồng ý với lý thuyết sinh tồn của Đại Việt, nên tôi đồng ý gia nhập Đại Việt với điều kiện được gặp trực tiếp Trương Tử Anh.

Phong thái của Trương Tử Anh đã hoàn toàn chinh phục ông. “Đó là một người tầm thước, chắc chắn, nước da ngăm đen, biết mình nói gì và quan trọng hơn cả là biết nghe, nhất là nghe những lời phê bình hợp lý.”

Ông đã chất vấn Đảng Trưởng về hệ thống tổ chức, về thực lực, về chiến lược đấu tranh. Đó là lần duy nhất ông gặp Đảng Trưởng nhưng ấn tượng của cuộc gặp gỡ đã đẩy ông vào một cuộc đời không phải là cuộc đời của quan đốc ở tỉnh lẻ.

Hơn nửa thế kỷ sau, ông Sung vẫn nghĩ “nếu còn Trương Tử Anh thì Đại Việt sẽ khác, và cục diện cũng có thể khác.”

Tuy nhiên, ông cũng rất rõ ràng khi gia nhập Đại Việt “Tôi vào đảng để làm việc cho nước.”

Và cũng vì vậy cái chất Đảng trong người ông không lấn nổi để ông trở thành mù quáng chật hẹp. Nó giải thích những lúng túng của ông khi được hỏi về sinh hoạt Đại Việt, cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài chính và ngay cả lý thuyết đảng.

Ông trầm ngâm khá lâu, để rồi kể:

– Lý thuyết Đảng hồi đó tôi được đọc qua một tập nhỏ lớn cỡ quyển lịch gập đôi lại, dày đâu mươi trang. Cái quan trọng nhất là không Mác-xít. Tôi tuyên thệ với Trương Tử Anh và chỉ biết thêm một đảng viên khác là ông Hướng, người giới thiệu tôi. Tôi chưa dự một sinh hoạt đảng nào theo kiểu họp hành có bí thư chi bộ, tỉnh bộ, có báo cáo kiểm điểm công tác…

Ông Sung nói:

– Cái hay và cái dở của Trương Tử Anh có lẽ là ở chỗ đó. Vì tình thế đòi hỏi, áp lực từ Pháp và Việt Minh khiến ông tổ chức Đại Việt quá bí mật, mọi công tác đều do ông phân phối, thành phần này không biết thành phần kia, nên khi không có ông, không có đảng trưởng, Đảng vỡ tứ tán.

Sau này khi từ Tàu về, ông đã cố gắng đi tìm Trương Tử Anh và Việt Minh đã lừa ông bằng cách gửi thư của Trương Tử Anh để toan diệt toàn bộ Đại Việt. Ông kể Hoàng Đạo, một cán bộ tình báo Việt Minh đã dựng lên Đảng Phục Việt, một đảng giả ở trong vùng Việt Minh kiểm soát, rồi tìm cách liên lạc với phòng nhì Pháp và với ông để tạo thế liên minh chống Cộng.

Ông nhờ Hoàng Đạo tìm xem liệu Trương Tử Anh có ở trong vùng Việt Minh chăng. Ít lâu sau ông nhận được thư của Trương Tử Anh. Ông viết thư trả lời, trong đó có những chi tiết chỉ có Trương Tử Anh mới biết. Sau đó không có thư của Trương Tử Anh nữa.

Sau lần gặp duy nhất, phong thái trượng phu của Trương Tử Anh đã chinh phục ông và khoảng một tháng sau đó, ông nhận được lệnh của Đảng Trưởng xuất dương qua Tàu “để làm tai mắt cho Đại Việt, nhìn xem thế giới bên ngoài đang có những gì xảy ra.”

Cùng với lệnh công tác là một mớ những thư giới thiệu bằng Hoa ngữ gửi các chi bộ VNQDĐ Trung Hoa nhờ giúp đỡ. Ông cũng được hứa là sẽ có ngân khoản lớn để chi dùng khi vượt biên giới.

Cái khởi đầu vô cùng lãng mạn. Một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, một đảng viên vừa được chính đảng trưởng tuyên thệ – chàng thanh niên Đặng Văn Sung thủ trong túi dăm cái thơ chữ Tàu chính chàng cũng chẳng hiểu gửi cho ai, nói cái gì, dấn thân trên đường xuất dương cứu quốc.

Ông kể lại cái khởi đầu bằng một giọng đầy hứng khởi:

– Tớ có biết gì đâu. Theo kế hoạch, tớ sẽ nhận được một ngân khoản lớn. Nhưng làm gì có – hoặc có mà không nhận được. Sau này đọc lại cuốn sách của ông Hoàng Văn Đào có thấy nói đến lúc đó một đảng viên Đại Việt tên Hướng bị giết và bị cướp một số vàng lớn. Trước khi đi tớ được biết là sẽ gặp ông Hướng để nhận kinh phí. Chắc là ông bị giết. Ai giết, tiền ở đâu ra, thú thật tớ không rõ.

Nhưng chàng vẫn đi. Dọc đường ông Đốc mới ra trường kiếm ăn bằng cách hành nghề bác sĩ chữa những bệnh lặt vặt và có một lần đỡ đẻ nữa.

Có lẽ phải nhắc đến một người Nhật đặc biệt, Yamaguchi với cái tên rất Việt Nam là Đặng Văn Thường. Theo ông Sung, có lẽ Yamaguchi là một cán bộ tình báo Nhật sang VN lo sinh viên vụ. Ông quen biết với Yamaguchi và khi Nhật bị đồng minh tước khí giới, Yamaguchi đã trốn ở nhà của ông Sung, số 96 Hàng Bút. Trên đường đi Tàu, lúc đến Lạng Sơn, ông gặp lại Yamaguchi. Một Nhật, một Việt dắt díu nhau vượt biên giới.

Xem ra những lá thư viết bằng Hán văn đó có ích lợi, vì đến đâu ông cũng được các chi bộ Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ. Ông quá giang nhiều xe nhà binh của các lộ quân Quốc Dân Đảng đến Côn Minh. Mục tiêu của ông là tới Nam Kinh rồi lên Trùng Khánh, lúc đó là thủ phủ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa và của thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông muốn gặp cụ Trần Trọng Kim và Bảo Đại. Lần mò đến Nam Kinh thì được tin cụ Kim và Bảo Đại đã rời đó đi Hương Cảng.

Ông quyết định không đi Trùng Khánh nữa.

Sự kiện vua Bảo Đạo không đi Trùng Khánh gây một ấn tượng sâu sắc nơi ông và ông có cái nhìn khá đặc biệt với Bảo Đại. Phải chăng đó là lý do sau này ông ủng hộ giải pháp Bảo Đại?

Theo lời ông kể thì Bảo Đại biết là sẽ được tiếp đón và sống đế vương ở Trùng Khánh, nhưng ông vẫn đi Hồng Kông, vì “nếu đến Trùng Khánh thì tôi chẳng khác gì Lê Chiêu Thống ngày xưa. Thà đi Hồng Kông vốn là một cái chợ trời có đủ mặt quốc tế Anh Pháp Mỹ… còn có nhiều cơ hội hơn là sống trong lồng son Trùng Khánh, chỉ biết có Tàu.”

Khi kể lại chuyện này, ông Sung cho rằng Bảo Đại đã có một quyết định chính trị đúng.

Trên đường đi Hồng Kông, đến Quảng Châu thì Yamaguchi Đặng Văn Thường ra đầu thú với chính quyền Trung Hoa. Gần ba mươi năm sau, ông có dịp gặp lại Yamaguchi tại Nhật, khi ông đi dự Hội nghị Liên Hiệp Nghị Sĩ Á Châu Chống Cộng. Yamaguchi lúc đó là chủ một khách sạn nhỏ.

Đến Hồng Kông, ông gặp lại cả một tập hợp những khuôn mặt lịch sử của Việt Nam dưới mọi hình thái từ Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Phan Văn Giáo đến Đỗ Đình Đạo, họa sĩ Nguyễn Gia Trí và… cả thứ phi Mộng Điệp, cùng nhiều người khác.

Kể lại thời gian này, ông mỉm cười:

– Tớ khổ đã đành. Mình còn trẻ, xoay sở được. Nhưng thấy những người như cụ Trần Trọng Kim thì thật muốn rớt nước mắt. Cụ Kim lúc đó có cả cụ bà và một người con gái cùng sống, đời sống vất vả lắm. Có lúc không có nước tắm.”

Ít lâu sau có lẽ là do Tây hoặc do chính quyền Trung Hoa can thiệp, Bảo Đại được ở một phòng ở khách sạn. Nhưng cái khổ nhất là không thấy lối thoát. Không ai biết phải làm gì, ngày qua ngày nhìn nhau, nghe ngóng.

Ông Sung quyết định về nước. Ông trình bày và cụ Kim đồng ý.

Ông viết một lá thư trình bày lập trường của người quốc gia và những việc cần phải làm đưa tới cho Bảo Đại. Bảo Đại gặp, đồng ý và cấp cho ông một sự vụ lệnh để về nước.

Khi đi là đảng viên Đại Việt với công tác lệnh của Đảng trưởng, ông vượt biên giới với vài cái thư giới thiệu viết bằng chữ Tàu. Tám tháng sau ông trở về với một sự vụ lệnh bằng tiếng Tây của một ông vua không còn ngai, và ông nói: “Chưa biết ra sao nhưng cứ phải về đã.”

Khi trở về, bước xuống cảng Sài Gòn, ông trình sự vụ lệnh. Ông cười kể lại:

– Thằng cha commissaire chẳng biết đối xử với tớ ra sao, yêu cầu ngồi chờ. Sau đó từ sáng mãi tới chiều, chắc là do mật thám Tây giải quyết, ông chú họ của tớ đang ở Sài Gòn lúc đó ra đón tớ về.

Ông Sung cho hay sau đó ông đi gặp rất nhiều người để trình bày lập trường quốc gia. Có lẽ ông là người không quen những lập luận có tính cách lý thuyết, có thể là từ môi trường sinh viên bước vào đấu tranh không được sửa soạn, ông không bao giờ trình bày lập trường quốc gia như một lý thuyết, một chủ trương có lý luận hẳn hòi, một thứ cương lĩnh – hay một ý thức hệ. Nó chỉ tóm gọn trong cái ý niệm tạo lập một quốc gia VN độc lập không cộng sản. Để đạt được mục tiêu đó, những người quốc gia phải đồng thuận với nhau.

Ông hình như tránh những chữ Đoàn Kết, Nhất Trí, và ông dùng chữ concensus quốc dân như ông nói là căn bản cho tất cả.

Từ Hồng Kông về nước, gặp gỡ nhiều người để trình bày và có thể ông đã gây được một tiếng dội nào đó với người Pháp. Qua sự trung gian tổ chức của ông Trần Đình Quế, một bữa ăn gặp gỡ được tổ chức.

Phía Đại Việt có ông và bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn thuộc Đại Việt miền Nam. Phía Pháp có khoảng 13 đến 17 người ông không nhớ tên nhưng như lời ông nói “Toàn là tụi mật thám.” Họ đến để nghe ông nói.

Sau đó ông còn có dịp gặp nhiều người Pháp nữa kể cả tướng Salan và cuối cùng là Paul Ganay ở Hà Nội. Kết quả của bữa ăn do ông Quế tổ chức không bao giờ được phía người Pháp chính thức công bố hoặc thừa nhận nhưng họ yêu cầu ông Hoàn hoạt động trong Nam và ông Sung phụ trách miền Bắc không điều kiện bó buộc gì cả.

Khi gặp Paul Ganay, ông được hỏi cần giúp đỡ gì. Ông yêu cầu giúp phương tiện xuất bản một tờ báo và giúp phương tiện cho Hội Đồng An Dân có thể trợ cấp những đồng bào hồi cư từ vùng Việt Minh.

Người Pháp đồng ý, mở cho ông một chương mục 20 ngàn đồng và cấp giấy phép cho ông ra báo. Nói về sự việc này, ông kể:

– Bảo tớ là Việt Gian, tớ cũng chịu. Nhưng đó là điều cần phải làm. Họ cung cấp phương tiện thì mình làm, cốt sao có lợi cho chuyện chung. Và tớ ra báo, tờ Thanh Niên quảng bá lập trường quốc gia của mình. Hoàn cảnh của người quốc gia lúc đó nói chung và của tớ nói riêng, khó vô cùng. Một phía là Pháp, một phía là Việt Minh và đang có một cuộc chiến tranh.

Tờ Thanh Niên do ông chủ trương có sự cộng tác của nhiều nhân vật thuộc tổng hội sinh viên như Nguyễn Tấn Hồng, Trần Lê Cung… Song song, ông lập Phong Trào Bình Dân để – vẫn theo lời của ông – là quảng bá lập trường quốc gia và vận động cho một sự đồng thuận toàn dân trong mục tiêu dành độc lập và chống cộng sản.

Chữ mà ông hay dùng, chữ “Consensus” là một ám ảnh lớn với ông ngay từ đó. Ông không giải thích tại sao nhưng có lẽ những chia rẽ ngay trong Đại Việt, và rộng hơn giữa các thành phần quốc gia, các tôn giáo đã đẩy ông vào cuộc vận động này. Kết quả là Quốc Dân Đại Hội họp tại Tòa Đô Sảnh Sài Gòn.

Cho tới lúc tuổi già, sống lưu vong và đã chết một lần – ông bị ngưng thở khá lâu tưởng phải đưa xuống nhà xác nhưng sau đó hồi tỉnh lại – ông vẫn say sưa nói về Quốc Dân Đại Hội, coi như một hình thức của Hội Nghị Diên Hồng.

Ông kể:

– Đem được các ông ấy ngồi lại với nhau không phải dễ. Phật giáo, Công giáo, Hòa Hảo, Cao Đài, Đại Việt, Việt Quốc, phe Nam, phe Bắc, phe Trung… Nhưng ai cũng thấy cái lập trường quốc gia minh bạch đó và đều đồng ý phải ngồi lại.

Một nghi vấn lớn nhất trong Quốc Dân Đại Hội mà khi hỏi thì đến phút cuối đời ông Đặng Văn Sung vẫn chỉ trả lời “không rõ tại sao lại thế.” Mục tiêu của QDĐH là đòi hỏi Việt Nam được độc lập để tự cường, có chính nghĩa chống lại cộng sản. Bản quyết nghị được thông qua có ghi rõ ý nguyện này của đại hội nhưng khi công bố thì lại ghi VN vẫn nằm trong Liên Hiệp Pháp.

Điều lạ là lúc đó chính ông Sung không nổi giận, không lên tiếng về sự tráo trở này mà về sau ông vẫn nói “không hiểu do đâu mà xẩy ra”.

Có thể giải thích sự thành công của QDĐH là đã tập họp được một tập thể thực sự đại diện cho nhiều thành phần của xã hội VN lúc đó và đây là lần đầu tiên có một sự kiện như vậy trong lịch sử đấu tranh của người Việt Nam.

Tờ Thanh Niên sau đó cũng bị đóng cửa. Tổng số tiền ông Sung đã xử dụng chỉ có 2 ngàn. Số còn lại vẫn ở ngân hàng và ông nói “tớ cũng chả biết tiền đó sau đi về đâu”.

Cuộc chiến Việt Pháp kết thúc sau trận Điện Biên Phủ và ông Sung nghĩ ngay tới cuộc đấu tranh trường kỳ với cộng sản. Ông nghĩ và thực hiện ngay kế hoạch cấy người ở lại miền Bắc.

Ông đã từng đụng chạm với mật thám Tây, với cán bộ tình báo cộng sản và nay chính ông và các cán bộ Đại Việt dấn thân vào một kế hoạch lớn. Ông kể:

– Chúng tôi làm việc này một cách nghiêm túc. Người được tuyển rải rác khắp miền Bắc từ Bắc Trung phần lên tới Thái Nguyên. Thành phần cài lại được chọn kỹ đủ ngành nghề từ thày bói đến nông dân, dân chài lưới, giáo sư, thương gia. Họ được đưa vào huấn luyện tại miền Nam ở nhiều địa điểm khác nhau.

Tuy nhiên, khi được hỏi sâu hơn về chi tiết thì ông không rõ vì những công tác tổ chức do các cán bộ trưởng toán đảm trách. Ông không biết có bao nhiêu người được gài lại và công tác huấn luyện gồm những địa hạt nào. Đó cũng là lúc Lansdale xuất hiện. Lansdale đã gặp thẳng bác sĩ Sung và tình nguyện trợ giúp về kỹ thuật và tài chính. Sau này trong nhiều tài liệu mật được công bố, điển hình là Pentagon Papers, người Mỹ nói họ đã gài người lại miền Bắc mà không bao giờ nói đến Đại Việt. Bác sĩ Sung khẳng định công tác này hoàn toàn do Đại Việt chủ trương và những người được gài lại đều là người có liên hệ đến Đại Việt.

Ông cho hay một vài người liên hệ đến công việc này hiện có mặt ở ngay California nhưng ông lại nghĩ chỉ có thể tiết lộ tên tuổi của họ sau khi ông liên lạc với họ để hỏi ý kiến trước. Đáng tiếc là ông không còn đủ thời giờ để thực hiện chuyện này.

Trở lại giữa thập niên 50, Việt Nam bị cắt đôi và ông Diệm về nước, truất phế Bảo Đại, lên làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa.

Người Mỹ – hoặc có thể riêng Lansdale – muốn Đại Việt chuyển nhượng hệ thống gián điệp này lại cho chính quyền ông Diệm. Phía Đại Việt không chịu.

Một hôm hai người trưởng toán của ông Sung bị công an bắt. Ông Sung kể chính tướng Nguyễn Văn Là chỉ huy vụ bắt bớ này. Ông Sung hạ tối hậu thư nội trong ngày công an phải trả lại người nếu không chính ông sẽ thân chinh đến đồn công an xin cùng đi tù.

Buổi chiều hai người trưởng toán được về.

Sau đó Đại Việt đồng ý để chính quyền ông Diệm xử dụng hệ thống gián điệp này. Ông Sung kể lại:

– Tối hôm đó, tôi đi cùng với mấy người trưởng toán đến căn cứ điều hợp, tôi khóc như một đứa con nít.

Đa số cán bộ Đại Việt nằm vùng ở miền Bắc bị lộ. Điển hình và được cộng sản miền Bắc làm ầm ĩ nhất là vụ một tổ bị lộ do công an cộng sản tình cờ tìm được một bộ phận truyền tin chế tạo tại Mỹ, còn cả nhãn hiệu Made in USA. Những cán bộ này bị đưa ra tòa án nhân dân và lãnh án tù rất nặng.

Cuộc chạm trán đầu tiên với ông Diệm là một chua cay, nhưng ông Đặng Văn Sung đồng ý vì nghĩ rằng chính quyền có đủ phương tiện hơn trong việc nuôi dưỡng và phát triển các tổ gián điệp, chỉ tiếc ông đã nghĩ sai.

Khoảng trống lớn nhất trong đời ông Sung có lẽ là khoảng thời gian ông Diệm tại vị. Ông trách ông Diệm đã tìm cách tiêu diệt sinh hoạt đảng phái và giáo phái quốc gia, có cái nhìn chật hẹp của một quan lại và cả tin những người trong gia đình. Bản thân ông chỉ bị theo dõi nhưng không bị bắt bớ cầm tù. Ông cho hay có gặp ông Nhu nhưng những lời đóng góp của ông không được chú ý. Ông sống rất đạm bạc và lợi tức duy nhất là dịch sách. Ông không có hoạt động cụ thể nào trong suốt thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa ngoài việc bàn luận với một số đồng chí và thân hữu như các ông Nguyễn Hữu Phiếm, Phan Huy Quát, v.v… Ông không tham gia vào nhóm Caravelle vì cho rằng “vô ích, ông Diệm và ông Nhu đầu óc chật hẹp, không chấp nhận ý kiến từ những phía khác”.

Và ông cười:

– Đến nỗi hôm đảo chính ông Diệm tớ cũng không biết trước. Mình như người ngoài lề.

Câu hỏi đặt ra là trong khoảng thời gian khá dài, hơn năm năm đó, ông suy nghĩ gì? toan tính gì? Ông cho hay là sống như một thường dân ngoài phố. Nhưng cái mộng ước về một consensus quốc dân lúc nào cũng ám ảnh ông.

QDĐH quả có đánh động được ước vọng cùng làm việc của nhiều thành phần quốc gia khác nhau và khi có cơ hội, ông lại lăn mình vào cái nỗ lực xây dựng một đồng thuận quốc gia.

Ông ứng cử và đắc cử vào Quốc Hội lập hiến, và sau đó Dân biểu quốc hội, Thượng nghị sĩ với liên danh Nông Công Binh. Có lẽ do ám ảnh đồng thuận quốc dân khiến suốt thời Đệ Nhị Cộng Hòa, ông không bao giờ đứng hẳn về phía đối lập, chống đối hoặc đánh phá chính quyền và cũng không bao giờ thuộc phe thân chính – phe mà báo chí Sài Gòn vẫn gọi là phe nâng bi. Ông đứng ngoài, đứng giữa những tranh chấp cá biệt, nhỏ nhoi, phe phái để cố tạo một căn bản cho công cuộc chống Cộng.

Trước câu hỏi chủ trương xây dựng tiệm tiến, từ từ này có thích hợp cho hoàn cảnh VN lúc đó – một VN quằn quại trong chiến tranh, một xã hội băng hoại đến tận cùng, bị nhồi xốc dữ dội giữa các thế lực quốc tế – hay không, ông chỉ đáp “đó là bản tính của tôi.” Thêm một ý giải thích nữa là vị trí của ông không cho ông có cơ hội đóng góp nào khác hơn những gì ông miệt mài, cố gắng làm.

Và để yểm trợ cho những hoạt động chính trị, ông xuất bản tờ Chính Luận với sự cộng tác của các nhà báo chuyên nghiệp Từ Chung, Thái Lân, Thái Linh và nhiều người khác nữa.

Ông cười bảo:

– Tớ có số làm chủ báo. Anh Từ Chung là một người trẻ, trí thức, lý tưởng và vì vậy có cá tính rất mạnh. Tớ cũng cứng cựa nữa nên trong những ngày đầu có những đụng chạm nảy lửa. Hoàn toàn về đường lối căn bản của tờ báo. Điều đáng mừng là sau những va chạm, anh em hiểu tớ hơn nên tờ Chính Luận vẫn có mặt.

Chính Luận đã đóng đúng vai trò phản ảnh những suy nghĩ của chủ nhiệm Đặng Văn Sung. Tờ báo không đăng tin và truyện nhảm nhí chiều theo thị hiếu quần chúng. Chính Luận cũng không ngả theo các phong trào chống đối, về hùa với một số tổ chức hay cá nhân để đánh phá chính quyền chỉ bởi những mục đích riêng rẽ. Nhưng Chính Luận cũng không bao giờ bị xem như là phát ngôn viên của chính quyền. Ông chủ nhiệm Đặng Văn Sung nhìn lại tờ báo và nói:

– Chính Luận có những đóng góp của nó nhưng quá rải rác, không đủ sâu, không đủ rộng.

Nhận xét có vẻ khiêm nhường nhưng cũng rất xác thực. Nó hé lộ cho thấy ông Đặng Văn Sung nhìn việc nước, nhìn công cuộc đấu tranh cho Việt Nam ở một tầm vóc lớn hơn.

Suốt đời ông Sung chưa bao giờ tham chính. Vào những ngày cuối cùng của miền Nam, ông vẫn nghĩ mọi sự không thể kết thúc vô lý như đã xảy ra. Ông dự đoán Sài Gòn có thể bị vây, thất thủ nhưng còn cả miền đồng bằng Cửu Long và sẽ có một hình thức kháng chiến nào đó.

Ông có tìm gặp ông Kỳ để hỏi và ông nói:

– Tớ chưa bao giờ nhận một chức vụ nào trong chính quyền nhưng kỳ này nếu có, tớ sẽ tham gia.

Ông không bao giờ có dịp tham chính.

Đến Mỹ, ông chưa biết làm gì nên để tiêu thì giờ ông lo giúp đỡ đồng bào tị nạn ở Orange County với tư cách tự nguyện.

Vài tháng sau, sở Xã hội đề nghị ông chính thức làm việc và “bỗng nhiên tớ là một anh social worker. Tớ vui với công việc giúp đỡ những đồng bào ít học, bỡ ngỡ trước cuộc sống mới.”

Cái cách nói rất Đặng Văn Sung đó đẩy tới một câu hỏi khác. Ông có giữ lại những mối dây liên lạc với chính phủ Mỹ, hoặc với những quan chức Mỹ mà ông từng quen, từng cộng tác?

Ông kể lại khi ở trại chuyển tiếp, Cronin, nhân viên CIA từng làm việc nhiều với ông gọi điện thoại tới hỏi ông cần gì?

– Tớ cần gì lúc đó? Nước mất, anh em thất tán, bản thân chưa biết sẽ ra sao, tớ chả muốn gì ngoài một chai rượu. Tớ bảo nó gửi cho tớ một chai rượu. Không bao giờ có rượu.

Ông tuyệt giao với những người Mỹ, ngay cả một lần đảng Cộng Hòa liên lạc yêu cầu ông đứng ra vận động tranh cử cho ông Reagan, ông cũng từ chối. Ông nói:

– Tớ sống như một người tị nạn, đi làm, tối về xem ti-vi, và thỉnh thoảng xoa mạt chược. Làm gì được nữa bây giờ? Thỉnh thoảng anh em có đến hỏi ý kiến. Ông Trần Minh Công của kháng chiến hồi đó có gặp tớ nhiều lần. Tớ có nói, muốn làm gì thì phải đi từ cơ bản, phải xây dựng một cái cộng đồng trước đã.

Giữa những nhân vật đấu tranh cho Việt Nam, ông là một trong số hiếm hoi chọn đời sống ẩn dật sau 1975. Ông cho rằng so với những anh em ở trong tù cải tạo, so với những người dân đang lây lất sống dưới chế độ cộng sản, ông sống vất vả như thế nào, làm việc gì dù cực khổ, vẫn hơn họ. Và ông yên phận với chức năng cán sự xã hội của quận Orange, mặc dù trên 70 tuổi vẫn còn kiếm sống bằng đồng lương công chức.

Ông cho hay có những đêm nằm khóc một mình, nước mắt cứ trào ra. Sức khỏe ông ngày một suy yếu, và khoảng tháng Mười năm 1997 ông phải vào nhà thương khẩn cấp. Đã có lúc tim ông ngưng đập nhưng rồi ông gượng dậy được, có cảm tưởng khỏe mạnh, nhưng vẫn phải thở bằng dưỡng khí.

Ông khất sẽ trả lời một số câu hỏi khác của người phỏng vấn trong một dịp rất gần. Ông hẹn sẽ nói ý kiến của ông về vai trò và chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ông hẹn sẽ nói rõ hơn về đời sống gia đình, về tình cảm của ông, về những mối tình của ông. Trước lời nhắc “ông muốn nói gì với những người trẻ” ông chần chừ suy nghĩ và cũng là “cho tớ khất, sẽ trả lời sau. Chuyện này quan trọng.”

Cuộc đời của bác sĩ Đặng Văn Sung có lẽ không gì đúng hơn bằng chính lời ông nhận xét về mình “cái thất bại của tôi là không đủ tham vọng, và sống một cuộc đời lãng tử.”

Khoảng đầu năm 1945, tình cờ gặp một ông thầy bói, ông kể:

– Cái ông thầy bói đó đoán tớ có số làm cách mạng. Công danh có, tiếng tăm có, gia đình có, hưởng đủ mọi thứ trên đời nhưng lại như chẳng có gì cả, ngay cả gia đình, có đó mà cũng như không.

Bước chân vào đấu tranh vì lòng yêu nước, gia nhập đảng là để có chỗ thực thi lòng yêu nước đó, miệt mài với lý tưởng quốc gia, cần cù không ngơi nghỉ trong ý hướng xây dựng một đồng thuận quốc dân, ông đã sống một cuộc đời đáng sống. Ông chính là một tiêu biểu cho thế hệ ông, những người quốc gia đấu tranh cho một Việt Nam độc lập không cộng sản – và đã đấu tranh trọn đời nhưng không thâu được thành quả nào.

chieclavotinh
03-27-2022, 03:32 AM
Nỗi nhớ
Phan Lạc Phúc

Trong những năm tù cải tạo ngoài Bắc ấn tượng nào sâu đậm nhất còn ghi lại nơi anh? Đối với tôi đó là cái đói.

Đói ngày, đói đêm, đói triền miên, đói mờ mịt càn khôn, đói trơ xương lõ đít. Bảy năm trời đi gần khắp các trại miền Bắc, tôi nhận thấy không phải tù đói mà thôi, trừ một số rất ít cán bộ, đảng viên ra, cả bàn dân thiên hạ ngoài Bắc này đều đói hết. Đói đến nỗi có đám cưới đám hỏi, ai được mời cũng phải đem suất gạo của mình đến góp cơm. Đến trại Thanh Phong này một hôm đi ra ruộng thấy trên mộ người chết có bát cơm, quả trứng cúng mở cửa mả cho người nằm xuống, tôi cà rà lần tới thì mới hay đó là bát cơm quả trứng bằng “xi măng”, sơn trắng – đồ standard của thôn bản làm sẵn phục vụ cho tang gia. Mấy tên tù hình sự ngoài Bắc thấy tình trạng “tưởng bở” của tôi như vậy cứ lấy tay che miệng mà cười rúc rích.

Đầu năm 1981, “nhà nước ta” đã khoan hồng cho phép gia đình tù nhân gửi quà mỗi 3 tháng 1 lần từ 3 ký lên 5 ký. Chỉ những cải tạo viên nào “lao động, học tập tốt” thì mới nhận được phiếu quà. Anh nào thuộc hạng A vượt chỉ tiêu được 2 phiếu, hạng B trung bình 1 phiếu, hạng C yếu kém bị cắt phiếu quà. Cơm (hay cái gọi là cơm như sắn, ngô, khoai) cũng có 3 hạng; hạng A ăn 15 ký/tháng, hạng B 12 ký, hạng C có 9 ký. Ăn uống như vậy nên có một việc hết sức là nhàn nhã. Đó là việc rửa chén. Có cái gì mà rửa nữa đâu. Có tí khoai tí ngô tí sắn thì không cần phải học “Vệ sinh giáo khoa thư” ai cũng nhai thật kỹ, nhai từ vỏ cho đến lõi, vét sạch như lau như li cho nên cái chén, cái dĩa hay cái gô sạch bóng việc gì mà phải rửa. Hoặc có rửa cũng chỉ tráng qua 1 tí nước cho phải đạo mà thôi. Một việc nữa cũng tỏ ra thừa thãi. Cái việc xỉa răng. Đồ toàn là đồ bột, lại nhai quá kỹ, quá cẩn thận nên không còn cái gì nó vướng mắc vào răng được. Người ta cần phải xỉa răng vì ăn cá, ăn thịt, ăn rau có nhiều thớ (fibre) nên mới mắc răng. Bây giờ có tí chất bột, nhai nhuyễn nhừ chưa tới cổ đã trôi phăng ngay vào dạ dày; ăn uống, nhai nuốt đúng phép “ăn rồi mà như chưa ăn” cái miệng cứ chóp chép hoài như thạch sùng nên có còn lại cái vụn sắn, ngô, khoai nào trong miệng nó cũng bị hút luôn vô bao tử. Chả cần phải xỉa răng làm gì. Nhưng mà trước khi vào buồng, khóa trái cửa, quàng xích sắt, cài then ngang bằng sắt để cho tù vào ăn, ngủ, ỉa, đái trong đó suốt đêm, tù có khoảng 20 phút tản bộ trong sân. Ai cũng theo thói quen ngậm tăm, xỉa răng; Ngậm tăm cho đẹp thôi, có còn cái gì trong kẽ răng nữa đâu mà xỉa.

Chiều chiều, tôi thường ra đầu lán ngó mông ra rừng, ra suối mà kiếm một chút thiên nhiên. Có một cái cây đổ ở đó. Ngồi trên thân cây, tay vơ mấy cọng cỏ “mần trầu” mọc loạn xạ ở chung quanh làm cái tăm xỉa răng. Vừa xỉa vừa mút đầu ngọn cỏ, như một phản xạ . Cỏ “mần trầư” là thứ cỏ có cọng cứng và cao, trên đầu ngọn có hoa cỏ chĩa ra 3 nhánh, mọc từng dề. Vì cọng cỏ hơi cứng nên làm tạm tăm xỉa răng cũng được. Nhưng vì mút đầu ngọn cỏ hoài nên tôi nhận ra cái phần trắng trắng, non non ở dưới nó có phảng phất một chút vị ngọt… Vị ngọt mơ hồ như sương như khói… nhưng nó đáp ứng phần nào cái khô hạn của thân thể tôi đang thiếu chất đường. Vì vậy nên tôi không phải là xỉa răng bằng cọng cỏ nữa, mà cứ vơ, cứ bứt, cứ nhấm nháp cái phần đầu của cọng cỏ non.

Bạn tôi, Mai Thảo trước đây có viết một cuốn truyện mà tôi rất thích “Tháng giêng cỏ non “. Ở đây rừng xanh núi biếc, không phải tháng giêng, lúc nào cỏ cũng mọc đầy. Vừa vơ hết khóm cỏ này, khóm cỏ kia đã tiếp tục mọc lên. Cái gì cũng thiếu ở đây, riêng có cỏ là không thiếu. Tôi có một người em nó kịp di tản hôm 29 tháng 4.75 nên bấy giờ nó đang ở Mỹ. Thương tôi bị tù đày gian khổ, nó viết thư về bảo anh có cần em gửi thứ gì về không? Mình đói triền miên, mờ mịt nhưng đâu dám nói là đói. Viết thư về nhà (thư trước khi gửi phải trình cán bộ quản giáo đọc trước) nếu than là đói là thư ấy chắc chắn không được gửi đi mà sau đó còn phải “lên làm việc”. Tôi phải nói xa xa là “anh dạo này bao tử hơi yếu, bị nó hành hoài em có cách nào làm yên được cái dạ dày không?” Thằng em tôi xưa nay học hành cũng được coi là sáng dạ mà sao lần này nó tối dạ quá thể. Nó lại gửi về cho tôi thuốc đau bao tử “chính cống bà lang Trọc”… của Pháp.

Chiều chiều cứ nhấm nhấm, nhai nhai hoài cọng cỏ non, tôi trở thành quen. Có lúc đói quá trong đêm, ợ lên thấy trong miệng có mùi cỏ… Tôi ở tù trong rừng, nghe nói bên Mỹ bây giờ văn minh tiến bộ lắm, nhất là về y khoa. Cơ phận trong người, hỏng cái nào thay cái nấy. Ở ngoài tiệm có bán cơ phận người ta lền khênh, muốn mua thứ gì cũng có. Tôi mới nảy ra ý kiến là bảo thằng em tôi mua gửi về cho tôi một cái bao tử loại “nhai lại” kiểu trâu bò. Có cái bao tử ấy lắp vô thay cái bao tử người của mình đi, thế là khỏe. Cỏ ở đây thiếu gì, chạp đầy một dạ dày rồi tối về như bây giờ, ợ ra “nhơi” lại.

*

Vì đói quá cho nên anh tù nào cũng mong ngóng ngày quà về. Những gói quà mang sức sống và mang cả tình thương của gia đình gửi đến. Phải cảm ơn những gói quà kia cũng như người gửi biết chừng nào. Nhưng “Trời làm một trận lăng nhăng… “ cho nên có anh mong quà dài người mà càng mong càng mất. Thư từ cũng biệt tăm luôn. Đừng có hỏi. Có thương bạn thật tình thì tặng cục đường, cái kẹo. Đừng có động đến nỗi thương tâm không nói ra được của anh ta. Vợ anh ta như thế là đã “ôm con bước sang thuyền khác”. Tôi, may quá thuộc loại vẫn còn nhận được quà. “Mẹ cháư” ở miền Nam xa xôi, vẫn còn nhớ đến.

Chưa bao giờ lại “nhớ vợ thương con” như lúc này. Cảm ơn Trời, Phật tôi vẫn còn vợ, vẫn còn con. Mấy chục năm nay, tôi có làm thơ làm thẩn gì nữa đâu. Ngày trước lúc còn trai tơ cũng có làm đôi ba bài “chim gái”. Nhưng bỏ lâu rồi. Bây giờ thì bắt buộc phải rặn ra một bài gọi là ghi ơn vợ ở nhà. Tôi thường nhật ở tòa soạn trước đây, vẫn thường nói với Hà Thượng Nhân rằng “ngoài cha mẹ ta, người ta phải ghi nhớ công ơn nhất chính là vợ ta”. Hà Thượng Nhân gật đầu đồng ý.

Sau một cơn sốt rét rung giường chuyển chiếu rồi sốt nóng li bì, thức dậy trong đêm, tôi viết bài Nỗi Nhớ gửi về cho “mẹ cháu”.

Nỗi Nhớ

Có nghĩa gì chia xa
Có nghĩa gì cách trở
Anh sống bằng tình xưa
Anh sống bằng nỗi nhớ

Anh nhớ em buổi sáng
Anh nhớ em buổi trưa
Nhớ em khi trời nắng
Nhớ em khi trời mưa

Nhớ em trong giấc ngủ
Thấy em đầy trong mơ
Nhớ em đêm thức giấc
Từ quy hót rừng xa

Nhớ em trong cơn sốt
Gọi tên em bất ngờ
Nhớ gắt gay mùa Hạ
Nhớ âm thầm mùa Thu

Nhớ sắt se mùa lạnh
Nhớ nồng nàn Xuân qua
Nỗi nhớ như cỏ mọc
Đầy đồi xanh núi xa

Nỗi nhớ là lương thực
Nuôi anh sống trong tù...

Triển
03-28-2022, 10:00 PM
Nỗi nhớ
Phan Lạc Phúc


Tôi ở tù trong rừng, nghe nói bên Mỹ bây giờ văn minh tiến bộ lắm, nhất là về y khoa. Cơ phận trong người, hỏng cái nào thay cái nấy. Ở ngoài tiệm có bán cơ phận người ta lền khênh, muốn mua thứ gì cũng có.


Khoan đã, ông được thay tim heo (https://www.bbc.com/news/health-60681493) đi bán muối rồi. :z51:

chieclavotinh
10-30-2022, 02:53 AM
Khoan đã, ông được thay tim heo (https://www.bbc.com/news/health-60681493) đi bán muối rồi. :z51:


:-)

Cánh tay nối dài
Vũ Ánh

Có lẽ trong đời làm truyền thanh và làm báo, tôi không ưa những ai gọi người này hay người kia là “cánh tay nối dài của…(ai).” Trong giai đoạn tôi còn giữ vai trò phóng viên mặt trận cho hệ thống truyền thanh quốc gia VNCH dưới thời tổng giám đốc là trung tá Vũ Đức Vinh, người mà chúng tôi còn quí mến cho tới bây giờ dù ông đã khuất bóng, ông cũng bị coi là “cánh tay nối dài” của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Là trung tá xuất thân từ ngành tâm lý chiến không quân, khi được bổ nhiệm vào chức vụ Cục Trưởng Cục Vô Tuyến Truyền Thanh theo tên gọi của hệ thống năm 1966, ông liền bị coi là “cánh tay mặt” của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ, thậm chí “bí thư” của ông Kỳ.

Vào thời đó, tinh thần “team work” trong chính phủ còn mạnh, mặc dù trong một số “nhóm” có rất nhiều ông chỉ là con ông cháu cha, vây cánh, nịnh bợ, thượng đội hạ đạp và nhất là ăn hại đái nát. Trung tá Vũ Đức Vinh thì ngược lại. Mặc dù ông là người viết diễn văn cho tướng Kỳ nhưng trong chốn thân mật với chúng tôi, ông nói thẳng là ông không thích những ai gán cho ông chữ “bí thư” bởi vì ông chả là cái gì đối với những người chung quanh tướng Kỳ. Nghe thì cũng biết vậy thôi chứ thực ra chúng tôi quí mến ông Vinh chỉ vì nhân cách của ông, năng lực, sáng kiến cải tổ ngành truyền thanh và nhất là cách cư xử cũng như đời sống thanh bạch của một quân nhân dù ông giữ trọng trách lãnh đạo trong ngành tuyên truyền quan trọng nhất vào thời bấy giờ.

Thế nhưng, người ngay thẳng thì hay mắc nạn. Trong cuộc dàn xếp để hai ông tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ không phải đối đầu với nhau mà phải đứng chung trong liên danh tranh cử, trung tá Vinh đã phải sống trong sự căng thẳng thường trực để giữ cho một đài phát thanh quốc gia không ngả về phe nào, nhất là né những mũi tên “cánh tay nối dài” hay “cánh tay mặt...” của tướng này hoặc tướng kia. Ông luôn luôn nhắc nhở đám trẻ chúng tôi “các cậu phục vụ quốc gia, quân đội và dân chúng chứ không phải ông Thiệu hay ông Kỳ” để phòng ngừa có cậu nào hãng máu làm hư chuyện.

Nhưng đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống và tướng Nguyễn Cao Kỳ thành phó tổng thống thì Dinh Độc Lập chia thành hai cánh và hai ông bắt đầu ngáng chân nhau. Trung tá Vinh lại một màn lãnh đủ những mũi tên khác có tẩm thuốc độc, nào là “người của Kỳ gài lại,” nào là “cánh tay nối thêm dài,” nào là “Vinh nó là người của Kỳ sao không về Phủ Phó, bộ nó ăn phải bả Thiệu rồi à?”

Chúng tôi là những người gắn bó với ông Vinh trong những sóng gió của chiến tranh cộng thêm những tranh chấp giữa những nhà lãnh đạo VNCH, nên rất thông cảm ông xếp và không thích những mưu mô đằng sau người sĩ quan cương trực này. Có lần ông tâm sự trong một cuộc gặp riêng khi tôi từ mặt trận Quảng Trị trở về trước Tết Mậu Thân: “Trên bộ yêu cầu viết một cái ‘citation’ về cậu, sau khi gặp tôi, cậu xuống liệt kê tất cả những trận đánh cậu từng tham dự và tường thuật. Cố gắng lên, cậu làm việc và ăn lương quốc gia cho nên nếu tôi có đi khỏi đây, cũng cứ thế mà tiến, đừng nản.”

Tết Mậu Thân diễn ra, ông là người có công lớn trong việc sắp đặt kế hoạch vào giờ chót nên đã làm hỏng kế hoạch phát thanh cuốn băng hiệu triệu của Hồ Chí Minh do bọn đặc công mang theo khi tấn công vào đài. Sau khi tình hình ổn định, dọn dẹp đống gạch đổ nát, xây dựng xong một cơ sở tạm cho hệ thống, điều hòa lại chương trình phát thanh trên làn sóng quốc gia, ông Vinh nộp đơn từ chức và trở lại với không quân, con nhạn đầu tiên trúng mũi tên tẩm thuốc độc của dư luận “cánh tay nối dài” của lòng đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, đặt quyền lợi của cá nhân, phe nhóm lên trên quyền lợi quốc gia.

Đó là một trong những trải nghiệm khi tôi làm việc trong một cơ quan truyền thông nhà nước VNCH. Truyền thanh và báo chí có một biên giới rất mỏng manh và đám phóng viên trẻ chúng tôi cũng tập tễnh đặt chân vào lãnh vực này. Càng bước sậu vào nghề báo, càng khám phá ra nhiều điều. Tôi phải nhập vào một “băng” được gọi là “nhóm nồi niêu xoong chảo” tức là nhóm đầu bếp, mỗi nhóm có một đầu tầu, chủ báo nào mướn thì đầu tầu kéo chúng tôi vào “nấu bếp.”

Khi chủ báo không thích nữa hoặc chính chúng tôi thấy ông chủ báo nào không nên cộng tác nữa thì rút dù. Nhiệm vụ của chúng tôi là làm sao nấu những món ăn tinh thần cho ngon và được trả công bằng những bì thơ trong đó gói ghém số tiền mặt nhuận bút hàng tháng. Đối xử với nhau thì ngoài tình đồng nghiệp, còn cần sự công bằng, ngay thẳng, giữ đạo đức nghề nghiệp.

Tất nhiên, cũng có ông bà xé rào khỏi nhóm đi sang nhóm khác, nhưng nói chung là các nhóm “nồi niêu xoong chảo” chúng tôi coi đó là lẽ bình thường và đều phải tự hỏi: Liệu mình đối xử với nhau ra sao mà đến nỗi có người phải bỏ nhóm? Do đó, tốt nhất là vẫn xử thế với nhau cho phải đạo, vẫn đi ăn đi uống với nhau bình thường, hỏi thăm nhau công việc.

Tuyệt nhiên, không có nhóm nồi niêu xoong chảo nào ngáng chân nhau bằng những thủ đoạn mờ ám “cánh tay nối dài,” hay “cài người vào.”

chieclavotinh
03-12-2023, 01:16 AM
Quân cảng Cam Ranh
Phan Lạc Phúc

Năm 1969 trong phái đoàn báọ chí Thái Bình Dương, đáp lời mời của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ viếng thăm nước Mỹ, tôi nhớ buổi đi thăm trường võ bị West Point. Để tới được quân trường lẫy lừng danh tiếng, nơi xuất thân các tướng xuất chúng của Hoa Kỳ và thế giới như Patton, Mc Arthur, Eisenhower... phái đoàn chúng tôi khởi hành từ New York, phải theo một xa lộ nằm bên sông Hudson mà đi ngược lên. Có một cảnh tượng đập vào mắt tôi cho đến bây giờ vẫn không quên được. Suốt 30 miles ven con đường núi dẫn đến West Point, chúng tôi nhìn thấy trùng trùng điệp điệp, hàng hàng lớp lớp những chiến hạm phế thải của Mỹ sau đệ nhất và đệ nhị thế chiến nằm chen chúc trên sông Hudson. Phải nói đây là một “đại dương” sắt thép; chúng tôi thấy nó trải dài suốt 30 miles mà còn chưa hết, không biết nó chấm dứt ở đâu? “Đại dương” sắt thép ấy làm nền cho tới việc tới thăm West Point, một cái nôi quân sự của nước Mỹ.

Nó làm liên tưởng đến nhiều vấn đề: sự phí phạm vô cùng của chiến tranh, sự giàu có khủng khiếp của nước Mỹ, đường lối quân sự và chính trị khó hiểu của Hoa Kỳ. Tôi nhớ có hỏi người hướng dẫn phái đoàn (Giám đốc Đông Nam Á vụ) là tại sao tầu chiến trông còn tốt quá, đẹp quá mà lại để tiêu ma hoang phế với thời gian như vậy? Rất “ngoại giao” và cũng rất nhà nghề, người hướng dẩn nhún vai mà nói “Đây là vấn đề quân sự, tôi đâu có biết”. Chuyến đi được gọi là “tham quan tìm hiểu nước Mỹ” mà càng đi, đối với tôi nó lại càng khó hiểu thêm ra. Đi xe từ tiểu bang này tới tiểu bang kia thấy những cánh đồng ngút mắt bỏ không, có giây kẽm gai bao quanh, cấm không trồng trọt. Có lẽ là để tránh khủng hoảng thừa, giữ giá cho nông phẩm. Tới miền Texas có những túi dầu đầy nhưng để đó không khai thác, đi mua dầu của Trung Đông về dùng (nghe nói những túi dầu ở Alaska cũng vậy). Biết đâư “đại dương” chiến hạm phế thải trên sông Hudson kia chẳng phảì là một cái mỏ sắt thép khổng lồ để dành cho mai hậu.

Khi về nước, tôi mới đem chuyện “đại dương” chiến hạm phế thải trên sông Hudson ra nói chuyện với một hạm trưởng Hải quân VN. Sau một vài giây phút suy nghĩ, người hạm trưởng nói: “Tôi chỉ xin trình bày một chút ý kiến về hàng hải. Những phát kiến mới đây của khoa học đã làm thay đổi quan niệm về chiến lược và chiến thuật quân sự. Những chiến hạm từng là niềm hãnh diện của Hải quân trong đệ nhất và đệ nhị thế chiến như thiết giáp hạm, tuần dương hạm, khụ trục hạm... bây giờ trở nên cồng kềnh và kém hiệu lực so với hỏa tiển các lọai từ mặt đất, từ hàng không mẫu hạm, từ tầu ngầm và trên phi cơ của chính những hàng không mẫu hạm kia. Phải chăng cái “đại dương” chiến hạm phế thải của Mỹ trên sông Hudson vì thế càng ngày càng thêm rậm rạp”.

Từ ngày đi thăm quân trường West Point đến nay đã 35 năm trôi qua. Đột nhiên cảnh tượng trên sông Hudson năm xưa cùng nhận định của người hạm trưởng VN hiện ra trong trí nhớ khi gần đây bộ trưởng quốc phòng VN/XHCN được mời tới thăm Hoa Kỳ, chiến hạm Mỹ bỏ neo thiện chí tại sông Saigon cùng một lúc với tin hành lang Mỹ sắp trở lại Cam Ranh. Tin hành lang có nghĩa là tin chưa được xác nhận, mới chỉ là “viên đá dò đường”. Nhưng giả thử Hà Nội đề nghị như vậy thật, liệu phản ứng Mỹ sẽ như thế nào?

Đường lối quân sự và chính trị của Mỹ xưa nay vốn có đặc tính mù mờ, khó hiểu nhưng trên khía cạnh quân sự đơn thuần, chúng tôi thiển nghĩ người Mỹ bây giờ chưa cần hay không cần đến Cam Ranh. Vịnh Cam Ranh ở gần Nha Trang là một quân cảng thiên nhiên rất đẹp, nổi tiếng trên thế giới với bán đảo Thuỷ Tiên và Cẩm Lai tạo thành một bức bình phong chắn sóng và chắn gió ở ngoài khơi, bao bọc một vùng biển sâu kín, đủ sức chứa một hạm đội trong “vũng” biển của mình. Từ thế kỷ 18, chúa Nguyễn ở miền Nam đã đóng quân và sử dụng quân cảng Cam Ranh (cùng với eo biển Thị Nại, Qui Nhơn) trong bao nhiêu năm ròng rã Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi người Pháp đô hộ VN cuối thế kỷ 19, Pháp đã mở mang Cam Ranh thành một quân cảng tiên tiến (do hầu tưởc Barthelemy xây dựng) để các tàụ chiến xuyên đại dương trú đậu, ăn than, tiếp tế nước ngọt. Năm 1905, trong trận chiến Nga - Nhật dưới thờí Sa hoàng Nicholas đệ nhị, đô đốc Nga Lô Diệp Vinh Kỳ (Rojeswensky) đã đem cả hạm đội vào tránh bão tại vịnh Cam Ranh. Sau đó hạm đội Nga đã từ Cam Ranh ra khơi và bị hạm độí Nhật đánh tan tại eo biển Đối Mã.

Thập niên 60 vừa qua của thế kỷ 20, Mỹ đến VN, đã hiện đại hoá Cam Ranh, tu sửa lại đèn biển Hòn Tráng, xây dựng thêm các công trình quân sự khác như sân bay, kho dầu, các cầu tàu mới. Qưân cảng Cam Ranh có 5 cầu tàu lớn, 4 bến đổ bộ, cỏ thể tiếp nhận các loại tàu có trọng tải 200 ngàn tấn.

Quân cảng Cam Ramh được xây dựng và trang bị hiện đại như vậy nhưng khi cần là Mỹ bỏ đi liền. Mỹ bỏ Cam Ramh, bỏ cả miền Nam VN không ngoảnh mặt lại. Có một quân cảng khác ở Thái Bình Dương nơi Mỹ mất công hàng trăm năm xây dựng và thiết trí mà khi gặp chuyện lôì thôi, không ưng ý, Mỹ dẹp bỏ ngay, khộng hối tiếc. Đó là quân cảng Subic tai Phi Luật Tân. Đảo quốc Phi vốn là thuộc địa cũ của Mỹ, quân cảng Subic cững như phi trường Clark ở gần bên đã được coi như tiểu bang thứ 53 của Mỹ rồi. Nhưng nhân dân Phi đầu thập niên 90 vừa qua “tưởng bở”, biểu tình đòi đất, đòi lên giá cho thuê quân cảng và phi trường hàng tỉ Mỹ kim, thế là Mỹ cuốn cờ, xếp ba lô đi ngay. Đến thời ông tổng thống Ramos lên cầm quyền, ông ngỏ ý muốn mời người Mỹ trở lại, nhưng Mỹ bắt chước Ăng Lê, “phớt tỉnh”, một đi không trở lại.

Người Mỹ không cần cứ điểm trên đất liền nữa. Áp dụng triệt để phát minh khoa học trên địa hạt quân sự, Mỹ đã có sẵn những quân cảng nổi và lưu động, đó là hàng không mẫu hạm. Trước đây hạm đội Mỹ (như đệ thất hạm đội ở Thái Bình Dương) có lực lượng chính là những thiết giáp hạm, tuần dương hạm, khu trục hạm. Bây giờ, muốn dằn mặt Trung Cộng, bảo vệ Đài Loan, Mỹ chỉ việc gửi đến biển Đông vài hàng không mẫu hạm, thế là đủ rồi. Xưa kia sức mạnh của Hải quân (force de frappe) nằm ở những dàn đại bác khổng lồ (trên 300 ly), thiết trí trên các chiến hạm nhưng giờ phút này, đại bác nào sánh được với hoả tiễn các loại lắp đặt trên các hàng không mẫu hạm. Hậu bán thế kỷ 20 cho thấy sự bá chủ bầu trời của không lực. Hàng không mẫu hạm có ngay một sân bay trên boong tầu và nhiều loại phi cơ. Phi cơ và phi công trên hàng không mẫu hạm là loại phi cơ và phi công ưu tú nhất với đủ loại hỏa tiễn: không-không, không-hải, không-địa và bom tinh khôn đánh trúng mục tiêu như để.

Quân cảng nổi đi trên mặt nước, bên cạnh và bên dưới là một sự hoạt động tinh vi và phức tạp. Có tàu dẩn đường, tàu vét mìn, tàu bảo vệ, có người nhái luân phiên canh phòng dưới nước, có tàu ngầm mang hỏa tiễn hạch tâm nguyên tử Polaris ở gần. Một hàng không mẫu hạm đi tới đâu, đó là một quân cảng nổi, mang theo một sức mạnh hủy diệt khổng lồ, một sự răn đe dễ nể.

Nếu cần sự có mặt của lục quân Mỹ (giá thử thôi) thì với lực lượng triển khai nhanh (rapid deployment forces) đóng ở đảo Guam hay Hawai và phi cơ vận tải khổng lồ C5 Galaxy, lục quân Mỹ sẽ tới chiến trường trong khoảng từ 36 đến 48 tiếng đồng hồ.

Nếu nói rằng Mỹ cần có mặt ở Cam Ranh để thăm dò động tĩnh của Trung Cộng ở biển Đông thì với bao nhiêu vệ tinh do thám và thông tin trên quỹ đạo trái đất, gần như mỗi thước vuông tại những điểm nóng của hành tinh này đều được bộ tham mưu Mỹ xem xét hàng ngày. Vì đã có sẵn những quân cảng nổi cùng những phương tiện tối tân như vậy, Mỹ đâu cần có cứ điểm cố định trên mặt đất.

Nếu Hà Nội muốn Mỹ trở lại Cam Ranh, nó không đơn thuần có nghiã là nhường cho Mỹ sử dụng một quân cảng; Hà Nội nhân đó muốn nấp dưới cái dù nguyên tử hạch tâm của Mỹ chống lại sức mạnh nguyên tử của bá quyền Trung Quốc. Người Mỹ, những nhà thực dụng chủ nghĩa bậc thầy, chắc chắn nắm rõ chuyện này. Quyền lợi Mỹ ở Trung Hoa lục địa và quyền lợi Mỹ ở VN, cái nào nặng cân hơn? Đây lại là khởi điểm của một vấn đề phức tạp khác. Nếu Hà Nội nhường Cam Ranh cho Mỹ và chuyện đó trở thành hiện thực, nước VN chúng ta trở nên lực lượng tiền phong chống bá quyền Trung Quốc.

Suốt mấy thập niên qua, vì nước ta một phía được mang danh là nước Xã hội Chủ nghĩa đầu tiên ở Đông Nam Á, một phía là tiền đồn của thế giới Tự Do nên mới chiến tranh không dứt, dân tộc mới điêu linh, đất nước mới khốn khổ, lầm than, dân chúng mới chìm đắm trong cảnh núi xương sông máu. Biết bao giờ chứng ta từ khước được sự uỷ nhiệm đầy máu và nước mắt kể trên?

chieclavotinh
08-13-2023, 02:44 AM
Đi tìm con người Saigon cũ NGUYỄN NGỌC LINH
Xuân Mỹ

Trong việc truy tìm những con người Saigon cũ đang ngày càng vắng bóng, người ta có thể gặp ông Nguyễn Ngọc Linh. Hiện nay đang ở Virginia, trong tháng Bảy tới ông có thể bay qua Orange County, California, để làm "key note speaker" cho một cuộc gặp mặt của những người trước đây đã đứng trong hàng ngũ của Bộ Thông tin Dân vận. Ông năm nay bao nhiêu tuổi? 81! Nhưng tuổi tác chỉ là yếu tố làm cho con người nhiều khi thấy lực bất tòng tâm, ý chí mà thôi chưa đủ để cho con người đi tới với những dự định của mình. Tuổi tác không thể ngăn cản người ta gặp nhau, tâm sự với nhau, nói với nhau ba điều bốn chuyện - cho dù nhiều khi nói chỉ để mà nói.

Nguyễn Ngọc Linh, tổng giám đốc của Việt Tấn Xã trong những năm sau của thập kỷ 60 của thế kỷ trước của Việt Nam Cộng Hòa, làm sao có thể không có bạn bè trong tập thể đó (Ngành thông tin là một trong những ngành dân sự hiếm hoi mà người ta còn tổ chức thỉnh thoảng gặp nhau. Tác giả bài này từng làm việc tại Bộ Kinh Tế nhưng chưa hề có dịp gặp lại đồng nghiệp cũ của mình). Mà đã là bạn bè, làm sao không có chuyện nói, chuyện đã qua nói mãi không hết, chuyện trước mắt: chúng ta không nghĩ được nên làm gì sao, cho dù chưa làm được?

Đó là chuyện Nguyễn Ngọc Linh ngày nay. Chuyện ông Linh ngày xưa phức tạp hơn. Kiếm được ông đã là khó, nói chuyện với ông còn khó hơn. Ông ngồi đâu vào lúc đó? Có khi ông ở khách sạn Majestic đầu đường Tự Do Catinat nhìn ra bến Bạch Đằng - nơi tọa lạc của Hội Bang giao Phát triển Quốc Tế (Vietnam Council on Foreign Relations) mà ông là một trong số ít người đứng ra sáng lập và là tổng thư ký điều hành hội. Cũng là nơi phát hành tạp chí bán nguyệt san Vienam Report mà ông là chủ nhiệm và người đứng mũi chịu sào là em ruột của ông, nhà báo Nguyễn Ngọc Phách, một tay thực sự cự phách hiếm hoi trong cái xóm (tức chưa lớn đủ để gọi là làng) báo những người viết báo Anh ngữ đếm được trên đầu ngón tay. Chẳng có hiệp hội này và tờ báo này, những nhà ngoại giao ở Saigon có nơi nào mà lui tới và hiểu được phần nào cuộc chiến đấu cam go, ngược dòng cho sự sinh tồn của chế độ Việt Nam Cộng Hòa; một công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh vội vã, không tính toán, vô trách nhiệm; một nền kinh tế chưa đủ cơ sở để tự lực cho nên vừa phải "tay làm, hàm nhai", vừa phải tính chuyện "phát triển hậu chiến", một xã hội chính trị mà quyền lực đã làm cho nhiều người có trách nhiệm mờ mắt không thấy được giặc đã đến nhà...

Cũng có khi ông đến Mekong University, đại học còn trẻ hơn hiệp định hòa bình Paris, ông thành lập trong "bách niên chi kế" của ông. Muốn cho đất nước đi lên, xã hội tiến bộ hơn, người ta cần phải đầu tư vào con người, vào giáo dục. Ở Saigon đã có hai đại học tư vào thời đó: Đại học Minh Đức của Linh mục Bửu Dưỡng và Đại học Vạn Hạnh của Thượng tọa Thích Minh Châu. Đại học Mekong là trường tư duy nhất ở Saigon không có hình ảnh của Phật hay Chúa ngự trị. Đại học Mekong vừa không có tham vọng (nó chỉ có hai ba ngành trên một khoảng đất nho nhỏ trên đường Công Lý), vừa có tham vọng (chỉ tập trung vào hai ba ngành kinh doanh, báo chí, sinh ngữ... mà đại học này cho là có "lợi thế tương đốì" (comparative advantage) và đáp ứng được một nhu cầu phát triển vượt bậc của Miền Nam trong thời hậu chiến. Viện trưởng đại học này là Tiến sĩ Trần Quí Thân, và người điều hành là Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Bích, một nhân vật quen thuộc trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, nhất là ở phía đông. Ông Bích là em của ông Nguyễn Ngọc Linh.

Tuy nhiên, mục tiêu mà ông Linh mặn mà nhất có lẽ là thập niên chi kế, làm kinh doanh. Kế một năm thì ngắn quá, chỉ để cho người ta tồn tại qua ngày theo kiểu "from hand to mouth”. Kế 100 năm thì dài quá, liệu có đủ sức đi đến đó hay không. Kế thực tiễn nhất, in the American style, là làm ăn. Miền Nam lúc đó đang mở thềm lục địa cho nước ngoài vào khai thác dầu - điều khiến cho ông Thiệu cứ mơ tưởng vì vậy Mỹ không dại gì bỏ Miền Nam. Mở khu chế xuất cho nhà đầu tư nước ngoài vào xây dựng một nền kỹ nghệ hướng vào xuất cảng - cũng khiến ông Thiệu nằm mơ Nhật Bản sẽ nuôi dân ta đủ sống trong thời Việt nam hóa. Nhưng một nền kinh tế quốc gia làm sao đi lên được nếu chỉ dựa hoàn toàn vào đầu tư nước ngoài, nếu không có đối tác dân tộc bản xứ, những đối tác cân xứng để người ngoài có thể làm việc chung được. Khoảng trống đó là khá lớn trong nền kinh tế của chúng ta thời đó, và nếu chúng ta cứ để người Hoa lấp khoảng trống đó, thì nó sẽ càng lúc càng lớn thay vì nhỏ đi. Từ sự thách đố đó cho giới tư sản dân tộc mà Nguyễn Ngọc Linh lập ra tập đoàn Mekong với cả chục công ty trực thuộc, cùng đại học Mekong nhằm đào tạo "con người mới" cho môi trường kinh doanh và truyền thông đầy thách đố "mai sau".

Dĩ nhiên, biến cố 30-4-1975 làm cho Nguyễn Ngọc Linh tiêu tan cả sự nghiệp, ông mất cả, không chỉ những thứ vật chất như ngôi trường, hay mấy công ty, hay ngôi nhà, hay mấy chiếc xe Ford mà ông đại diện, hay cuộc sống hào hứng đến mức khi bừng con mắt dậy thấy mình tay không thì đã quá muộn màng, Mất mát lớn lao hơn là tiêu tan hoài bão, mục tiêu, lý tưởng, động lực, mất cả bạn bè và những người cùng chí hướng - như vậy thì cuộc sống còn gì, có cách nói nào khác hơn là đã bị tước đoạt cả cuộc đời của mình.

Năm ngoái, 2010, ông Nguyễn Ngọc Linh có dịp nhìn lại đoạn kết cuộc chiến tranh trên đất nước ngày xưa của mình đã khiến cho không chỉ mình ông, mà hàng triệu người đã tức tưởi nhận chân được "mirage de la vie" (tên của một phim nổi tiếng ở Saigon vào năm 1960 mà thủ diễn là Lana Turner, Sandra Dee và John Gavin) - sự khác biệt sâu sắc giữa cuộc sống và cuộc đời. Là một người từng được xã hội Saigon xem là "thân Mỹ", cũng từng là một nhân vật cao cấp của chính quyền Saigon (tổng giám ốc Việt tấn Xã, tổng giám đốc Đài Phát thanh Quốc gia, thành viên phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tại hòa đàm Paris năm 1969), ông Linh đủ "biết người biết ta" để thấy rõ "something wrong" trong quan hệ giữa hai nước đồng minh "đồng sàng, đồng mộng, dị hướng" này. Trong một bài nói chuyện trước một cử tọa tiếng Anh ở Washington tại một cuộc hội thảo đánh dấu 35 năm ngày Saigon sụp đổ, ông Linh đã chỉ tay vào cả người Mỹ và cả một chính quyền đã quá vãng ông từng phục vụ khi rút bài học về sự sụp đổ của chế độ VNCH, mà ông tóm gọn trong hai từ "cultural gap" - khoảng cách văn hóa là yếu tố quyết định. Vì khoảng cách này mà đôi bên cứ ngộ nhận những khái niệm về "power", "sovereign right", "authority", Mỹ có "power" cứ dành quyền (sovereign right) điều khiển cuộc chiến, và phía Miền Nam nhận viện trợ thì cứ buông lỏng "authority" của mình để mặc khiến Mỹ phạm nhiều sai lầm về chiến tranh, về chính trị. Đến khi thấm đòn, mệt mỏi quá, muốn buông tay, Mỹ chuyển qua chính sách Việt Nam hóa, một chương trình quá trễ (thay vì phải thực hiện từ đầu cuộc chiến) và quá sớm (khi Miền Nam chưa đủ sẵn sàng) chính là để dọn đường rút lui, nhưng cũng chẳng cho Miền Nam biết rằng từ ngày áp dụng chính sách Việt Nam hoá chiến tranh chúng ta phải tự quyết.

Trong bài nói chuyện, ông cũng xác nhận trách nhiệm, hay bài học lớn nhất, chính là sự thất bại của người Miền Nam. Thất bại vì lệ thuộc vào Mỹ đến độ mất hết chính nghĩa, thất bại vì tướng tá tranh chấp với nhau và vì những người mang danh nghĩa tôn giáo phá hoại khiến trong nước các thành phần vô trách nhiệm, vô lương tâm có cơ hội lèo lái quốc gia theo một nghĩa nào đó, và thất bại vì sao lãng hoặc gần như quên hẳn mặt trận vận động dư luận ở các quốc gia trên thế giới và đặc biệt quan trọng là ở Hoa Kỳ. Năm ngoái, ông Linh đã viết "Từ 1965 đến 1972, trong cương vị người đứng đầu cơ quan Truyền Thanh Quốc Gia, Tổng giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xã, và là Phát Ngôn Viên của Thủ Tướng, sau đó là Tổng Giám Đốc Thông Tin và Tuyên Truyền đồng thời là Thành Viên Nội Các, và Ủy Viên Báo Chí trong Phái Đoàn VNCH tại Hòa Đàm Paris, cá nhân tôi phải nhận lãnh một phần trách nhiệm vì đã không làm hết sức mình để thuyết phục Tổng Thống Thiệu và chính phủ đề cử những nhân vật giầu khả năng nhất sang Hoa Kỳ để đương đầu với nhóm phản chiến và phổ biến những điểm tốt về nỗ lực của miền Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn bước tiến của cộng sản xuống các quốc gia Đông Nam Á."

Ông Nguyễn Ngọc Linh đang ở một nơi được xem là "land of opportunities" - vùng đất của cơ hội. Nhưng ông nói rằng đối với những người thực sự tìm kiếm những cơ hội thăng tiến, chẳng có nơi nào lắm cơ hội như quê nhà thuở trước, chỉ tiếc rằng Miền Nam chẳng những là một "vùng đất của cơ hội", mà còn là “vượng địa" của những cơ hội bị bỏ lỡ - lịch sử, chính trị, dân tộc, kinh tế...

Sinh quán ở Bắc Ninh, nơi cha ông làm tổng đốc, Nguyễn Ngọc Linh từng lớn lên với "Cách mạng tháng tám" ở Hà Nội, là năm ông phải trốn chui trốn nhủi vì bị Việt Minh truy lùng tưởng ông là "phần tử phản động". Ông 20 tuổi từ Hà Nội đi Mỹ du học từ năm 1949 năm ông Nguyễn Xuân Oánh cũng đến Mỹ từ Tokyo để vào Harvard sau này thành tiến sĩ kinh tế đầu tiên của Việt Nam xuất thân từ trường này - nhưng lúc đó ông Oánh đã 29 tuổi. Ông Linh theo học khoa chính trị tại Bowdoin College thuộc tiểu bang Maine, và sau khi tốt nghiệp làm việc tập sự trong ngành truyền thông, báo chí điện ảnh, có lúc làm cả "copy boy” trong tờ New York Times, đó là thời gian ông tiếp nhận được nhiều kiến thức và kinh nghiệm quí báu về báo chí của Mỹ khiến cho sau này, giấc mộng canh tân làng báo cứ hừng hực trong người của ông cho đến năm 1975. Đến năm 1955, đang làm việc ở Mỹ, ông nghe lời ông Diệm, người ông Linh đã từng lui tới thăm viếng khi ông Diệm còn ở Mỹ, trở về nước phục vụ tổ quốc, "rốt cuộc chỉ đi làm tờ Điện Anh phục vụ nhu cầu giải trí". Và đi lính, chịu sự bầm dập "trên bốn vùng chiến thuật" chỉ vì một vài người quanh ông Diệm vừa không ưa người Bắc vừa nghi kỵ người ở Mỹ về. Trong những năm cuốì của thập niên 50, khi ngưòi dân Saigon đổ xô đi học tiếng Anh vì người Pháp đã ra đi và người Mỹ đang đổ tới với đồng đô la hùng mạnh, người ta không thể quên được trường "Anh văn Nguyễn Ngọc Linh" ở góc đường Trần Quí Cáp và Bà Huyện Thanh Quan - một sự cạnh tranh can đảm với Hội Việt Mỹ ở 55 đường Mạc Đĩnh Chi, Quận 1.

Với ngày 30-4 trở lại bình thường như mọi năm, và đặc biệt khi người ta giật mình nhớ lại ba giáp tức 36 năm đã trôi qua từ ngày ấy, nhiều người đang trầm tư nhớ lại chuyện ngày xưa. Nguyễn Ngọc Linh chỉ có một tâm sự, nhưng tâm sự của ông mang tính tổng hợp kinh nghiệm của một nhà báo, một doanh nhân, một nhà giáo dục, một nhà ngoại giao, một nhân vật cao cấp trong chính quyền. Nói chuyện với ông, hỏi ông "nhìn lui nhìn tới, ông nghĩ thế nào về cộng đồng người Việt tại Mỹ và người dân Việt ở trong nước, ông bi quan, hoài nghi, dè dặt, hy vọng, tin tưởng.., ông đáp: "Tôi phục sức tranh đấu để sống và sự thành công của người Việt hải ngoại. Tôi rất cảm thương nỗi khó khăn của người Việt trong nước. Được tin là dân trong nước kể cả nhiều người Cộng Sản mất tin tưởng nơi giới lãnh đạo, biểu tình đòi quyền sống chống ăn cướp tham nhũng và cửa quyền thì cũng hy vọng rồi có một ngày nhưng cũng không tin tưởng lắm. Người Việt trong nước tinh thần thay đổi nhiều lắm so với cách đây năm sáu chục năm. Người hải ngoại thì chống Cộng Sản nhưng cũng chẳng làm được gì cụ thể mà còn tức nhau tiếng gáy, kèn cựa, chỉ trích, đội nón cối cho nhau."

Nơi ông Nguyễn Ngọc Linh, nói chuyện với ông, người ta có thể cảm nhận một nỗi mất mát giống như tâm sự đã khiến cho Doãn Quốc Sỹ làm nên đại tác phẩm "U Hoài" trong tập truyện chỉ khoảng 150 trang của mình. Năm 1954, chúng ta mất con người Hà Nội. Năm 1975, chúng ta lại mất con người Saigon. Ở Việt Nam hiện nay, người ta có Hà Nội, có Saigon, nhưng không bao giờ có được nữa người Hà Nội, người Saigon cả. Trên đất Mỹ này, cũng khó tìm ra con người Hà Nội cũ, con người Saigon cũ quá. Con người Việt Nam đẹp đẽ, tử tế một thời nay chỉ còn trong trí tưởng của một số ít người. Có những khoảng cách thế hệ, khoảng cách văn hóa mà chúng ta, những người Việt với nhau, không vượt qua được trong quá trình tìm cách hội nhập và cứ loay hoay trước "American way of life".


https://www.nguoi-viet.com/phan-uu/giao-su-nguyen-ngoc-linh-4/

chieclavotinh
01-07-2024, 01:19 AM
VÌ TA HOA NỞ
HÀ HUYỀN CHI

Ta nằm trong bệnh viện
Ðêm trăng soi nhớ nhà
Trăng đầy rồi trăng khuyết
Tương tư nụ quỳnh hoa

Nửa khuya thèm khói thuốc
Lên xuống sáu từng lầu
Nơi hàng hiên giá buốt
Gan lập loè cơn đau

Ðốt ta mau xanh cỏ
Cho em tạnh mái sầu
Tro than mùa nghịch lữ
Bón xanh đời mai sau

Nhìn trăng suông muốn khóc
Mây bạc tuôn về đâu
Quê vẫn ngùi tang tóc
Khuất bên kia địa cầu

Ta thành người bất trí
Giấu cơn đau mà về
Thách đời nay y sĩ
Chữa được niềm đau quê

Ðường trường trăm dặm mỏi
Ta về núi cư tang
Cỏ cây ngơ ngác hỏi
Thềm rêu vui bàng hoàng

Nụ hoa quỳnh nín thở
Lá nhớ ửng gân vàng
Hoa vì ta rộn nở
Thả hương đêm nồng nàn

Lại cất công nấu nước
Pha bình Cửu Thập Tam
Có hoa trong từng hớp
Khói Ô Long dịu dàng

Chợt thấy đời trân quý
Lại yêu người thiết tha
Giọng cười thơm hậu vị
Hương quỳnh chen hương trà.