PDA

View Full Version : Bà là ai



hoanghac
10-29-2012, 05:41 PM
Xin giới thiệu đến các bạn tác phẩm BÀ LÀ AI của tác giả Wayne Wible . Nguyên văn là The Message . BÀ LÀ AI ?

CHỨNG TỪ TRUNG THỰC VÀ ĐẦY XÚC ĐỘNG
CỦA MỘT KÝ GIẢ TIN LÀNH VỀ ĐỨC MẸ

Chuyển ngữ từ cuốn “MEDJUGORJE, THE MESSAGE” của Wayne Weible
Paraclete Press, Orleans, Massachussets, 22nd Printing, 1996.

Xin chân thành cám ơn Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR đã dịch ra tiếng Việt và cho phép chúng con được đăng lên mạng cho mọi người được hưởng ân huệ của Chúa.

hoanghac
10-29-2012, 05:53 PM
Lời Giới Thiệu Của Linh Mục SVETOZAR KRALJEVIC (Dòng Phan Sinh)

Tôi còn nhớ như mới xảy ra hôm qua, hôm mà anh tôi từ trong nhà chạy ra nói với tôi, vẻ mặt đầy khích động: “Trong nhà ta có một người không phải là Công giáo mà là một người Tin Lành!” Nghe vậy, tôi nghĩ ngay người đó chắc phải kỳ dị lắm, và tôi vội vàng chạy vào xem ông ta. Tôi muốn xem ông ta có mắt mũi miệng tai như chúng tôi không. Vì cả đời tôi chưa bao giờ biết một người mà lại không phải là Công giáo.



Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người ấy “một người Tin Lành” hoàn toàn giống như chúng tôi, cả bề ngoài lẫn cách cư xử.



Ngày nay tôi nhận ra đó là một giai đoạn đơn sơ song quan trọng trong tiến trình đưa tôi hiểu được cho đúng giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô : qua nhận thức ngây ngô của thời trẻ nhỏ hồi đó, tôi hiểu ra một trong những chân lý sâu xa nhất của Thiên Chúa, đó là: Thiên Chúa đã tạo dựng mọi người bình đẳng như nhau.



Thế rồi những năm gần đây, tình bạn và sự cộng tác giữa tôi và ông Wayne Weible (Uên Uây-bơn) đã dẫn tôi đến một giai đoạn mới trong việc nhận thức về tình bằng hữu phổ quát giữa mọi người trên địa cầu. Càng về sau tôi càng nhận rõ hơn vẻ đẹp của thực tại ấy. Qua những giờ cùng cầu nguyện, làm việc và nói chuyện với ông Wayne trong khung cảnh Mễ Du, tôi càng nhận ra rằng Thiên Chúa không đặt giữa chúng tôi một rào cản nào cả. Hình như tôi nghe vẳng lại lời Chúa Giêsu từ trên thập giá nói với Mẹ Ngài: “Hỡi Bà, đây là các con của Bà!”



Mà đó lại chính là kinh nghiệm thật của việc ăn năn trở lại ở Mễ Du. Khi Thiên Chúa ra tay dẫn dắt Dân Người, thì họ sẽ ăn năn trở lại và sống với nhau trong niềm thông cảm sâu đậm hơn. Bất cứ ai đón nghe lời Thiên Chúa với cả trái tim, sẽ đạt được một sự nhận thức đầy đủ, một sự hòa hợp giữa trời và đất. Chính khi đó những tâm tình sợ hãi hay bất an sẽ tan biến đi.



Cuốn sách các bạn sẽ đọc đây, không muốn đi trước các phán quyết tối hậu (của Hội Thánh) về các sự kiện xảy ra ở Mễ Du. Nó chỉ là một chứng từ về lòng tin và kinh nghiệm ăn năn trở lại của những người đã để cho Thần Khí hiện diện ở đó dẫn dắt họ.



Svetozar Kraljevic,
Dòng Phan Sinh.

hoanghac
10-29-2012, 05:54 PM
LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ

Mấy câu đầu tiên của quyển sách này đã được viết dưới chân cây Thập giá trên núi Krizevac thuộc làng nhỏ Mễ Du, nước Nam Tư (cũ). Phải như thế thôi! Chính ở chỗ rất đặc biệt này mà ý nghĩa tròn đầy của việc Thiên Chúa ban Con Một mình cho chúng ta mới trở nên một thực tại có tính quyết định cho tôi.



Thập giá là một biểu tượng phổ quát của Chúa Giêsu, một dấu hữu hình nhắc lại luôn mãi cuộc Thọ nạn và cái chết của Ngài vì chúng ta, để chúng ta được bình an trong tâm hồn và sự sống đời đời. Mà đó cũng là sứ điệp căn bản phát đi từ những lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc tại Mễ Du. Đó là một mời gọi đón nhận cuộc hiện ra ấy bằng cách hòa giải với Chúa Giêsu. Việc này khởi đầu bằng một sự ăn năn trở lại hoàn toàn theo đường lối của Ngài: quả là một con đường thập giá.



Từ tháng 6-1981, tại làng Mễ Du nhỏ bé, Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc đã nhắc nhở lại như chưa từng thấy, lời kêu gọi ăn năn trở lại và hòa giải với Thiên Chúa. Đức Maria hiện ra ở đó hàng ngày cho 6 trẻ sống trong thung lũng dưới bóng cây thập giá núi Krizevac. Theo lời các trẻ đã được tuyển chọn cho sứ vụ canh tân thế giới ấy, thì Mẹ Chúa Giêsu khẩn thiết van nài – nhân danh Chúa Giêsu Con Mẹ – toàn thể nhân loại hãy từ bỏ một thế giới đang hấp hối trong tội lỗi, để quay về làm hòa với Ngài.


Toàn cảnh : Núi Krizevac, với cây thập giá khổng lồ bằng xi măng, cao 12 mét, và phía xa dưới đồng bằng là Giáo xứ Mễ Du, nằm giữa thung lũng với các đồi núi bao quanh.

Cả thế giới đã đáp lại lời kêu mời ấy. Hàng chục triệu người đã thay đổi đời sống để theo đường lối của Thiên Chúa. Hàng chục triệu người đã và đang tiếp tục đến linh địa ấy. Giữa lòng thế giới hiện đại với lối sống khoa học kỹ thuật tân tiến đang cứ dần dần lôi cuốn người ta xa ơn sủng Thiên Chúa, biểu tượng thập giá quả là đang được phục hồi cách kỳ diệu.



Cây thập giá dựng trên núi Krizevac là một công trình đúc bê tông, cao 11 mét, nặng 15 tấn, đứng sừng sững oai nghi trên đỉnh cao nhất trong các đồi núi bao quanh làng Mễ Du. Từ xa hàng chục cây số, người ta đã thấy nó. Nó trở thành cột mốc chỉ chỗ cho linh địa này. Điều này cũng phải như thế thôi!



Năm 1933, người dân làng đã phải khó nhọc leo lên leo xuống sườn núi dốc dác này, lởm chởm đá sắc nhọn và đầy những bụi gai rậm rạp, trên vai vác những sô nước và xi măng. Họ quyết tâm dựng một tượng đài để tưởng niệm1900 năm ơn Cứu Chuộc do cây Thập giá của đồi Can-vê. Dự án ấy đối với họ mang nhiều ý nghĩa đến nỗi họ đổi tên ngọn núi ấy từ Sipovac thành”Krizevac”, nghĩa là “Núi Thập giá”. Cử chỉ đức tin sâu đậm đã thi hành từ mấy chục năm trước ấy, chiếu dọi ý nghĩa của nó trên ơn huệ đặc biệt của chốn này bây giờ : tức là nó được Đức Maria chọn làm nơi cho Người hiện ra đem ơn cứu độ của Thập giá đến cho nhân loại.



Hình dáng cây thập giá ấy chẳng có vẻ gì đẹp. Với năm tháng trôi qua, khí hậu khắc nghiệt làm nó long lở nhiều mảng xi măng và thêm đen sạm, càng xấu xí. Nhưng vẻ đẹp của nó không ở bề ngoài. Krizevac đã trở thành hình ảnh khắc sâu vào tâm khảm hàng chục triệu khách hành hương đến Mễ Du. Nó trở thành một nhắc nhở thường xuyên về kinh nghiệm mà tâm hồn họ đã nếm trải, một kinh nghiệm đã đem lại cho tâm hồn họ vẻ đẹp mà thế giới không có gì sánh được.



Hầu hết các người hành hương đến Mễ Du đều đi chặng đàng Thánh giá rất cực nhọc trên con đường lởm chởm đá, dẫn đến chặng cuối cùng là chân thập giá xi măng ấy. Đó là một cuộc leo núi rất khó nhọc, dài khoảng một cây số rưỡi, leo đến đỉnh núi thì hết hơi. Thế mà người ta cứ leo từng đoàn từng lũ, trẻ có già có, kẻ khỏe cũng như người ốm đau. Đôi khi có những người vì tuổi tác hay sức khỏe không tốt, bình thường thể xác không có sức kham nổi một việc gì nặng nhọc, thế mà vẫn tìm được không biết do đâu, ý chí và sức lực để leo lên tận đỉnh.



Tất cả họ đến để cầu xin cho được lành bệnh thể xác hay linh hồn. Người ta kể chuyện một người cụt cả hai chân, lê bằng hai tay và bằng thân mình lên tới đỉnh, tới nơi anh hoàn toàn kiệt sức, máu chảy dầm dề, song đắc thắng! Một người khác nhỏ thấp, cũng thường hay đến núi ấy, trên lưng cõng người vợ liệt bại và leo lên tới chân cây thập giá. Cho những ai đến đấy từ bốn phương thiên hạ, những truyện ấy trở thành dầu thắp sáng ngọn lửa ăn năn trở lại và hòa giải khởi phát từ hiện tượng Mễ Du siêu nhiên này.



Đối với những tâm hồn khao khát sự thiêng liêng, cây Thập giá Krizevac nhắc họ đến núi Can-vê và Chúa Giêsu trong giờ Tử nạn bi thảm, nhưng cũng là giờ vinh thắng của Ngài. Đó là nơi hoàn thành Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại, và hứa ban sự sống đời đời nhờ cái chết hiến tế của Con của Người.



Hàng chục triệu người vẫn đang tiếp tục đến ngôi làng nhỏ bé Mễ Du để nghe lời Giao Ước ấy lặp lại qua sứ điệp của Đức Maria từ Con của Người gửi đến. Tôi là một trong số đó. Tôi viết sách này như chứng từ cá nhân của một tâm hồn đói khát nguồn sống siêu nhiên, sau khi đã tìm thấy sự bình an và tình yêu trong sứ điệp ấy nhờ con đường thánh giá trên núi Krizevac.



- Wayne Weible -

hoanghac
10-30-2012, 01:13 AM
Chương 1
SỨ GIẢ ĐEM HY VỌNG


LỜI DẪN CỦA NGƯỜI DỊCH :

Chương 1 này của tác giả, có thể coi là chương cuối song ông đem đặt lên đầu ở đây. Đó là vì sau khi ông được ơn biết và tin vào sự kiện Đức Maria hiện ra ở Medjugorje (Mễ Du), đã đến tận linh địa để tận mắt chứng kiến, và đã viết nhiều về sự kiện này, ông được nhiều nơi mời ông đến thuyết trình cho họ. Trên đường của một trong những chuyến đi ấy, ông được nghe kể về cảnh tượng xâu xé đáng buồn mà ông thuật lại trong chương 1 đây... Nó đã gợi ông nhớ đến tâm trạng cũng đáng buồn của ông trước khi được Đức Mẹ kêu gọi ông phục vụ cho Người và phổ biến sự kiện hiện ra vô tiền khoáng hậu này của Người.

Một buổi xế chiều rất đẹp của tháng năm, toàn cả quang cảnh xứ Ai Len chúng tôi thấy trước mắt, hiện ra đẹp như trong một bức tranh quảng cáo. Trên xe hơi, chúng tôi đã hạ kính cửa xuống để hưởng không khí trong lành. Con đường khá hẹp, hai bên đường thường có tường xây, phân ranh giới giữa các cánh đồng một mầu xanh ngắt. Lâu lâu chúng tôi lại thoáng thấy một mái nhà tranh, có lẽ đã có mặt đó từ ba bốn trăm năm. Có cảm tưởng là ở hạt Donegal đây, thời gian đã ngưng trôi từ mấy thế kỷ.



Vừa tới một đỉnh đồi, xe chúng tôi phải thắng gấp vì một bầy chiên do một cô gái chăn đang được dẫn đi ngang qua giữa lộ. May mà tôi không là người cầm lái.



Tài xế của chúng tôi, cô Vera McFadden, vẫn tỏ ra bình tĩnh. Cô với hai cô bạn khác ngồi ở băng sau, đã đến LetterKenny trên chiếc xe hơi Ăng-lê nhỏ này để đón tôi đến nhà thờ ở Derry, nơi tôi sắp nói chuyện chiều nay. Tôi ngồi ở băng trước, ghế bên trái, nơi bình thường có tay lái.(*)(1) Một chút ngỡ ngàng thôi. Nhưng không sao, tôi vẫn thoải mái thưởng thức cảnh đẹp của một hạt cực bắc của xứ Ai Len.



Tôi nói: “Không thể tưởng tượng ở đây cỏ lại xanh ngắt đến như thế!”



Vera đáp: “À! Nếu anh biết được ở đây đã mưa nhiều như thế nào! Hôm nay là một ngày đẹp trời hiếm có đấy, lại có mặt trời nữa!” Tôi mỉm cười gật đầu, dù giọng nói tiếng Anh của cô có hơi khó hiểu đối với tôi. Kể từ năm ngoái, đây là lần thứ hai tôi đến nói chuyện ở xứ Ai Len, cho nên tôi hiểu cái không khí lạnh và ướt mưa đặc biệt của xứ này.



Đến khúc quặt sau, chúng tôi bỗng im bặt tiếng cười nói, trước mặt chúng tôi một cây sào lớn sơn khoang trắng khoang đỏ ngăn lối – dấu hiệu một trạm kiểm soát của lính Anh trước ngõ vào Bắc Ai Len. Trước mặt, hai binh sĩ người Anh mặc quân phục và súng cầm tay. Tôi vừa sửng sốt vừa bực mình và sợ hãi. Bên kia cổng gác, chừng một tá binh sĩ đang ngả mình trên thảm cỏ bên vệ đường, vừa hút thuốc vừa tán gẫu, vũ khí đặt cạnh mình.



Cô Vera ngừng xe, và một binh sĩ tiến lại gần. Cô đưa xem các giấy tờ, anh lính xem qua không nói gì, anh ra hiệu cho một bạn khác nâng rào chắn. Không ai nói tiếng nào. Chúng tôi tiếp tục lái xe đi qua trạm gác vào xứ Ai Len. Tôi cảm thấy vẻ đẹp ngày hôm ấy không còn nữa.



Mới đi chừng một cây số, Vera lái xe tránh về bên mé đường, nhường cho một xe bọc sắt vượt lên. Chính lúc ấy tôi thấy một binh sĩ chĩa súng về phía chúng tôi qua chiếc cửa sổ nhỏ hé mở phía sau xe bọc sắt. Chưa bao giờ tôi bị mũi súng chĩa về phía tôi như thế. Chiếc xe nhấn ga lao vút đi và biến mất ở góc đường. Tôi giận lắm.



- “Chuyện gì thế?”, tôi hỏi.



Thay vì trả lời, Vera lại lái xe né vào mé đường và một xe bọc sắt thứ hai vượt lên trước. Cũng lại cảnh lần trước tái diễn. Cửa sổ phía sau hé mở, một binh sĩ chĩa súng về phia chúng tôi, rồi xe lại biến dạng…


Một thoáng cảm giác là tình hình ở đây bất ổn làm tôi kêu lên: “Cái gì xảy ra ở đây thế?”



Vera đáp: “Họ luôn đi hai xe với nhau để tránh bị phục kích.”



- “Nhưng chúng ta là dân sự mà! Họ phải coi chúng ta như là đồng minh mới phải! Tôi thật không thể hiểu nổi!”



Vera nhún vai: “Chúng tôi lại là người Công giáo”, vừa nói cô vừa chỉ lên cỗ tràng hạt treo trên kính chiếu hậu, “và lại có anh ngồi với chúng tôi, vậy họ nghĩ anh cũng là người Công giáo nốt.” Rồi cô thở dài: “Không thể trách họ, bạn bè của họ thường bị đánh bom chết hay bị đạn giết.”



Lập tức tôi thấy được tấn thảm kịch hiện tại của miền Bắc Ai Len. Những tay khủng bố người Công giáo bắn giết binh lính Anh và người Thệ Phản vô tội; ngược lại, những tay khủng bố Thệ phản giết những người Công giáo vô tội. Mỗi hành vi tàn ác lại châm thêm dầu vào lửa hận thù. Câu chuyện như thế đã tiếp diễn từ bao thế hệ rồi, và chưa thấy có dấu hiệu gì thay đổi cục diện. Chỉ luôn thấy âm ỉ một hận thù truyền kiếp. Các trẻ em của hai bên lớn lên trong căm thù, như cha mẹ chúng trước chúng.



Tôi hỏi: “Làm sao các người có thể cứ sống như thế được?”



- “Chúng tôi phải tiếp tục sống như thế, biết làm sao?”, cô Vera trả lời với nụ cười héo hắt. “Đành rằng không phải tất cả mọi người đều như vậy. Tôi có những bạn hàng xóm người Tin Lành, và chúng tôi sống với nhau rất êm thấm. Chúng tôi có những nhóm cầu nguyện gồm cả Công giáo lẫn Tin Lành. Thật ra chỉ những phần tử cực đoan của hai phía gây ra hỗn loạn. Anh biết không, đôi khi anh chỉ còn biết phì cười thôi.


“Đây, một hôm tôi đang đi vào ngân hàng, có một người trùm đầu bằng vải đen, cầm súng dí vào đầu tôi. Bên cạnh hắn là một người khác cũng trùm đầu bằng vải đen. Tôi nghĩ thầm chúng đang muốn ăn cướp ngân hàng bằng cách bắt tôi làm con tin.”



- “Chúng là ai vậy?”



- “Chắc chắn là nhóm khủng bố IRA (Tổ chức quân đội Cộng Hoà Ai Len) hay một phe nào đó, không cần biết. Họ thường xuyên bắn giết lẫn nhau. Chỉ có điều là ngoài hai tên đó, có một tên thứ ba đến nhập bọn, nhưng hắn trùm đầu không bằng vải đen mà vải nâu. Bất ngờ tôi bật cười và nói với hắn ta: “Anh không mang đúng đồng phục!” Tôi chẳng biết tại sao tôi bật cười và nói như thế, vì lúc đó tôi quá sợ hãi.”



Cô bắt đầu cười khi kể lại cho tôi chuyện đó, và hai cô bạn ngồi băng sau cũng cười. Rõ ràng các cô này biết câu truyện ấy.



Vera nói tiếp: “Thế là không biết chúng bị khích động sao đó vì câu nói của tôi, mà chúng quay lưng rồi bỏ đi thật nhanh. Tôi nghĩ ngân hàng đáng lý phải thưởng cho tôi mới phải!” Thế là cả ba cô cùng cười như nắc nẻ. Phần tôi rất ngạc nhiên làm sao các cô có thể cười được trong một tấn bi kịch như thế, nhưng tôi nhận ra rằng họ giữ được thái độ vui vẻ lạc quan như thế quả là điều cần cho họ.



Sau khi đã bình tĩnh trở lại, Vera nhẹ nhàng nói với tôi, mắt không rời khỏi đường: “Tôi không thấy có nơi nào trên thế giới lại lâm vào tình cảnh bi thảm như sáu hạt của miền Bắc Ai Len này. Chắc có lẽ vì tôi quen biết một số những người vợ trẻ mới mất chồng, và những gia đình tang tóc với những đứa trẻ lớn lên mất cha.”



Rồi cô lắc đầu nói tiếp: “Với bao nhiêu người Kitô hữu ở cả hai phe, đáng lẽ sự tình phải thay đổi chứ. Thế mà chúng tôi cầu nguyện và cầu nguyện mãi, và xem ra chẳng có gì thay đổi cả. Đôi khi tôi tự hỏi không biết Thiên Chúa có nghe tiếng chúng tôi không?” Cô quay đầu về phía tôi: “May ra sứ điệp mà anh mang đến chiều nay có sẽ đem đến một sự thay đổi nào đó, nếu đẹp ý Chúa.”



Chúng tôi tất cả chìm vào im lặng. Tôi nhìn cảnh bên ngoài đang lướt nhanh ngoài xe, vẻ đẹp của nó đang che giấu nỗi tuyệt vọng của dân tộc họ. “Sứ điệp” mà tôi mang đến cho họ (chiều nay) xuất từ Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, khi Người hiện ra với một nhóm sáu bạn trẻ người Croát, ở một làng nhỏ miền núi Mễ Du, nước Nam Tư (cũ). Sứ điệp trung tâm của Người về bình an và yêu thương đã từ từ song vững chắc lan rộng ra khắp bốn phương trời, đã làm cho hàng triệu triệu người trở lại với Thiên Chúa.



Chiều nay tôi, một người Thệ phản thuộc Giáo hội Lutêrô, sẽ nói với họ về một hiện tượng tôn giáo, chính ra được coi như thuộc về Công giáo, trong một xứ sở bị xâu xé bởi một cuộc chiến tranh giữa hai tôn giáo. Liệu sứ điệp của Mễ Du có thể gây ra một thay đổi nào trong cuộc chiến đã khởi sự từ tám trăm năm? Hay chỉ là một giọt dầu bình an nhỏ vào sóng nước hỗn loạn ghê sợ ấy? Tôi không hề ngờ vực chút nào và tôi tự trả lời: Có! Thiên Chúa chăm nom săn sóc chúng ta, Thiên Chúa nghe chúng ta ! Tối nay, tôi sẽ chia sẻ bằng chứng cho họ xem và chia sẻ niềm hi vọng…



Chợt tôi nghĩ lại, thật mỉa mai: cách đây chưa lâu, chính tôi cũng là người không có hi vọng ! Thế mà nay, tôi sẽ đem đến một sứ điệp hi vọng phi thường cho một xứ sở đã đánh mất hi vọng !



Tôi nhẩm lại trong trí chuỗi dài vô tận những biến cố đã dẫn tôi đến ngày hôm nay: …



* * *



… Bắt đầu là vào một buổi chiều tháng mười, ba năm trước đây, đang khi tôi ngồi tại phòng khách nhà tôi ở Myrtle Beach, miền Nam Carolina ….



Trái tim xé nát và nhỏ máu của miền Bắc Ai Len không xa với tâm tình của tôi lắm đâu ….

hoanghac
11-01-2012, 03:17 AM
Chú thích của HH

1. Ai len : Ire Land
2. Hạt Donegal : County Donegal ( có thể dịch là quận hạt Donegal )
3. Mễ Du : một ngôi làng nhỏ Medjugorje ở nước Nam Tư cũ .
4. Lutero : Giáo phái Lutheranism .

hoanghac
11-01-2012, 03:28 AM
“Mẹ đến để nói cho các con biết là Thiên Chúa hiện hữu, và Người yêu thương các con.”

Chương 2
LÚC KHỞI ĐẦU


Tôi đăm đăm nhìn xuống cái băng vidéo để trên đầu gối tôi mà phát sốt cả ruột, vì phải chờ Terri, vợ tôi, lo cho con cái ngủ xong, rồi cả hai cùng xem chung một lượt. Tôi đã đọc xong một quyển sách người ta tặng cho tôi cùng lúc với băng cassette, nên cũng biết được đại khái câu chuyện: tại một ngôi làng nhỏ bé miền núi nước Nam Tư, người ta kể lại có Đức Nữ Trinh Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu Kitô, đã hiện ra cho một nhóm thiếu niên từ tháng 6 năm 1981, và vẫn còn tiếp tục hiện ra mỗi chiều tối từ đó đến nay.

Mỗi chiều tối ư?... Nếu thật như vậy thì sao? Nếu đó không phải là trò lường gạt, là ảo giác tập thể, hoặc một chuyện mơ mộng kỳ quặc của một dân tộc đầy ảo tưởng và mê tín thì sao? Và nếu thật sự có một hiện tượng thuần túy tôn giáo đang xảy ra trong ngôi làng nhỏ bé có cái tên (Medjugorje)(2) khó đọc này thì sao? Thôi thì ít ra, việc này có thể sẽ cung cấp một câu chuyện thú vị cho một mục của tờ báo hằng tuần của tôi. Đó là điều tôi quan tâm hơn cả.

- “Terri, em xong chưa?” Tuy hỏi như vậy, nhưng tôi biết chắc là nàng chưa xong việc đâu. Tôi nghe tiếng Kennedy, đứa con trai năm tuổi của chúng tôi đang vòi mẹ nó một ly nước uống theo thường lệ mỗi tối. Còn Rebecca, em gái nó, thì đã ngon giấc.

Terri đáp: “Em lỡ hứa kể chuyện cho con nghe, đợi em vài phút nữa, em sẽ ra!” Chắc là phải hơn 20 phút cơ đấy! Tôi thầm nghĩ như vậy mà buồn cười. Terri là một người mẹ yêu thương, chăm sóc con cái. Tôi tự hỏi Kennedy có biết được là nó may mắn lắm không! Dĩ nhiên, cả tôi nữa, tôi cũng may phúc lắm chứ! Nàng là điều tốt đẹp nhất đã xảy đến cho đời tôi. Trải qua cảnh gia đình tan vỡ, đau đớn ê chề sau 14 năm chung sống với vợ trước, sinh được bốn đứa con, tôi hết hi vọng thoát khỏi cái hầm tăm tối đang bao quanh đời sống tình cảm tôi - thì chính lúc đó, Terri đến với tôi.

Terri cũng muốn biết cái gì đang xảy ra tại ngôi làng bé nhỏ đó, tuy vì những lý do khác. Nếu cái gì đó có thật, và nó tạo ra những đổi mới trên thế giới, thì ắt sẽ có ảnh hưởng trên con cái chúng tôi.

Chúng tôi có nghe nói về hiện tượng đó lần đầu tiên trong một lớp học Kinh Thánh ngày Chúa nhật, tại nhà thờ Luterô của chúng tôi. Tôi là một giảng viên của một trong hai lớp học dành cho người lớn. Thỉnh thoảng, tôi cho học viên tự chọn một đề tài để học. Chương trình học hoạch định sẵn ở trường thường khô khan và khó giảng giải, và đa số học viên trong lớp là những cặp vợ chồng trẻ và người độc thân, họ thích thay đổi đề tài. Riêng lớp học cuối tháng 10 năm 1985, tôi ra cho họ một bài làm hơi khác thường: họ hãy sưu tầm những câu chuyện, hoặc tin tức, hoặc những tư liệu khác có liên can đến phép lạ trong thời hiện đại.

Khá nhiều học viên đã làm bài ở nhà, nên việc thảo luận hôm ấy rất sôi nổi. Lúc sắp tan lớp, Becky Ginley, một cô bạn của Terri, phát biểu: “Này các bạn, có chuyện này hay lắm, các bạn có nghe nói gì về việc đang xảy ra tại Nam Tư không? Ở đấy có một ngôi làng bé tí mà người ta đồn rằng Đức Trinh Nữ Maria đang hiện ra với sáu đứa trẻ, đến nay đã hơn bốn năm rồi.”

Tất cả lớp học nhìn chòng chọc vào cô. Becky cười hớn hở, vì thấy mình vừa gây được ngạc nhiên nơi chúng tôi. Đối với tôi, nói “ngạc nhiên” ở đây là quá nhẹ, để tả những gì tôi đang cảm nhận. Là một nhà báo viết mục xã luận, tôi thật khó mà tìm được cho mỗi tuần một vấn đề mới mẻ và thú vị. Tôi linh cảm chuyện này sẽ rất giật gân. Vả lễ Giáng Sinh lại đang đến gần: quả là lúc thuận lợi, vì là thời điểm duy nhất mà dân chúng chợt nghĩ đến Đức Nữ Trinh; vào dịp lễ Giáng Sinh, khi làm hoặc đến bên máng cỏ, người ta thấy có Người quỳ bên Chúa Hài Nhi Giêsu. Riêng tôi, chưa bao giờ tôi quan tâm đến Người.

Tôi hỏi Becky: “Cô nghe chuyện đó ở đâu vậy?”

- “Do một người bạn Công giáo.”

- “Công giáo mắc mớ gì với chuyện này?”

- “À, anh biết chứ, loại chuyện này thường xảy ra trong Giáo Hội Công giáo.”

- “Thế sao?”

Cô nhìn thẳng vào tôi: “Anh chưa bao giờ nghe nói đến Fatima hoặc Lộ Đức à?”

- “Không, tôi...”

Đúng lúc ấy, chuông hiệu tan lớp vang lên, mọi người đổ xô ra cửa. Tôi lớn tiếng vói theo khi họ đang ra về: “Này các bạn, chúng ta sẽ trở lại vấn đề này tuần sau nhé!” Tôi vội vàng hỏi Terri xem Becky có thêm tin tức nào nữa về vấn đề này không. Vì cô ấy vội đi đón hai đứa con cô gởi ở vườn trẻ, chúng tôi chạy dọc hành lang đuổi theo sau cô ấy.

- “Becky, đợi một phút đi!” Terri gọi cô ấy, “Chúng tôi lấy thêm tin tức ở đâu?”

Becky nhìn đồng hồ, cắn môi như để nhớ lại: “Chị có biết Mary Jeffcoat không?”

- “Có.” Mary là một nữ ủy viên Hội Đồng thành phố, trước kia phụ trách giao tế công cộng của một trong những bệnh viện tại địa phương, và chúng tôi quen biết cô qua công việc báo chí.

- “Được rồi.” Becky vừa nói vừa lùi xe. “Mary là người đã nói với tôi về chuyện đó, tôi nghĩ cô ấy có nhiều thông tin hơn.”

- “Thông tin nào?”

- “Chẳng hạn vidéo hay vài quyển sách. Thôi, tôi vội phải đi đây. Gọi điện cho tôi.” Nói xong, cô vội vã chạy đến nhà trẻ.

Suốt trên đường về nhà và cả lúc nọ lúc kia trong ngày, Terri và tôi trao đổi với nhau về cuộc hiện ra vừa mới nghe được. Tôi thấy đây là một câu chuyện thật thú vị. Tôi đã phác họa trong đầu một đầu mối... Một phép lạ thời hiện đại có thể đang xảy ra tại một làng quê ở Nam Tư, đúng vào lúc chúng tôi chuẩn bị mừng phép lạ Chúa Giáng Sinh. Chỉ có điều một đề tài tôn giáo vớ vẩn như thế có thể gây hại đến uy tín nhà báo của tôi.

Chiều hôm đó, Terri gọi điện cho Mary Jeffcoat. “Ngày mai, sau giờ làm việc, cô ấy sẽ mang băng vidéo đến đây cho chúng ta mượn, kèm theo luôn quyển sách của cô nói về chuyện đó nữa.”

Qua ngày sau, tính hiếu kỳ nghề nhà báo của tôi lên đến cực độ. Tôi muốn đọc sách đó ngay khi vừa chạm đến nó. Sách không dày lắm - chỉ 98 trang thôi - do một linh mục Công giáo, Robert Faricy, và một nữ tu, Lucy Rooney, cùng biên soạn, tường thuật về những ngày đầu của việc hiện ra tại Mễ Du. Cả Terri cũng muốn đọc. Giống như mấy đứa trẻ giành nhau một đồ chơi mới, chúng tôi tranh nhau xem ai được đọc trước. Đến phiên tôi, tôi ngấu nghiến nó chỉ trong hai tiếng đồng hồ.

Trên vùng núi Hercegovina miền Trung nước Nam Tư, khoảng một giờ lái xe dọc bờ biển Adriatique, có một ngôi làng nhỏ đến nỗi không thấy có tên trên hầu hết bản đồ. Những tin tức đăng tải sau ngày 25-6-1981 xem ra có kể đến một cộng đồng nông thôn nhỏ, với khoảng 400 gia đình Croatia. Hôm ấy, khi mặt xế bóng, một loạt biến cố xảy đến, làm thay đổi hẳn lịch sử của ngôi làng và vùng phụ cận - và có lẽ cả thế giới.

Ivanka Ivankovic, 15 tuổi, và bạn em, Mirjana Dragicevic, 16 tuổi, sau khi đã làm việc ở mấy mảnh ruộng xong, bèn cùng nhau thả bộ trên con đường đất bên cạnh thôn Bijakovici, dọc theo chân đồi Podbrdo. Trên đường về nhà, Ivanka bỗng nhiên ngước mắt nhìn lên, và giật mình khi thấy trên sườn đồi hình bóng chói sáng của một phụ nữ đứng giữa một vầng ánh sáng chói lòa. “Mirjana, nhìn kìa! Gospa (nghĩa là Đức Bà) đó!”, em kêu lớn tiếng mà không biết mình đang nói gì.

- “Xạo”, cô bạn khoát tay đáp lại với vẻ bất cần, và không thèm nhìn, “Tại sao Gospa lại hiện ra cho chúng ta?” Rồi em tiếp tục rảo bước về nhà, nhưng Ivanka rất xúc động, xin bạn tin là mình có thấy cái gì đó thật. Khi hai em đến gần nhà của Milka Pavlovic, 13 tuổi, thì đúng lúc em này đi ra ngoài để lùa cừu về. Ivanka xin cả hai bạn trở lại với em, để xem thử bóng người phụ nữ còn đó không, và khi các em đến chỗ Ivanka đã thấy Bà, thì cả Mirjana và Milka cũng được thấy nữa.

Ngay đó, các em gặp Vicka Ivankovic, non 17 tuổi, một bạn thân của hai em nói trên, cũng đang đi tìm các bạn. Thấy các bạn từ trên đường vẫy tay gọi rối rít, em chạy đến nhập bọn ngay. Khi nghe các bạn nói là chúng đã thấy Đức Mẹ, em đâm hoảng sợ và bỏ chạy, trong lòng không khỏi thắc mắc tại sao các bạn có thể đùa với một việc thánh thiêng như vậy.

Nhưng do hiếu kỳ, em trở lại một lúc sau đó, dẫn theo hai bạn trai đang lượm táo trên đường, Ivan Dragicevic, 16 tuổi, và Ivan Ivankovic, 20 tuổi (không một em nào trong bọn trẻ có họ hàng với nhau; nhiều người dân trong làng có tên họ giống nhau). Ivan nhỏ bỏ chạy, nhưng Ivan lớn ở lại và cũng được thấy cái gì đó, mà sau này cậu tả là “một vật gì trắng toát đang quay”. Phần Vicka, sau khi quay trở lại thì đã được thấy rõ hiện tượng xảy ra, nên có thể nói rõ hơn. Em mô tả rằng: Bóng người phụ nữ hiện ra ấy mặc áo xám dài lóng lánh bạc, mái tóc đen, màu da trắng nhạt, tay đang bế một em bé và ra dấu bảo các em lên đồi, tiến đến gần hơn, nhưng các em quá sợ, không dám nhúc nhích. (Trừ dịp lễ Giáng Sinh ra, đây là lần độc nhất Bà hiện ra với Thánh Tử của Người).

Một vài em trong bọn trẻ bắt đầu khóc, mấy em kia thì cầu nguyện. Chúng ở lại cho đến lúc trời tối, và sương đêm bắt đầu nhẹ rơi. Về đến nhà, các em kể lại những gì đã xảy ra cho cả gia đình nghe. Các em bị quở mắng và bị chế nhạo, cha mẹ các em sợ hàng xóm gọi con mình là quân nói láo. Chị của Vicka trêu: “Chắc tụi nó thấy đĩa bay!”

Hôm sau, khi đã xong công việc đồng áng, các em cảm thấy một sự nôn nóng bên trong thúc đẩy trở lại đồi, tuy không phải tất cả các em đều đi được. Mẹ của Milka, không dám tin nơi con mình, nên đã đưa em đến một cánh đồng xa để làm việc hôm ấy; khi em muốn đi theo các bạn trở lại chỗ đó thì đã ở quá xa rồi. Khi những em khác ghé nhà Milka để rủ em cùng đi, thì chị của em là Marija, 17 tuổi, nói là Milka không có ở nhà. Vì vậy, các em yêu cầu Marija cùng đi. Jacov Colo, mới 10 tuổi, có họ với Milka và Marija, cũng có mặt ở đó, được Marija thúc giục, em liền nhập bọn luôn.

Ivan Ivankovic, lớn tuổi hơn các em khác nhiều, thì cho rằng đi xem “thị kiến” chỉ dành cho con nít, nên cậu này từ chối không chịu trở lại. (Mấy ngày sau đó, cậu trở nên vững tin và tiếc đã bỏ không đi trở lại. Sau đó ít lâu, cậu bị bắt và bị giam tù hai tháng vì tội đi lên đồi, chống lại lệnh cảnh sát cấm các trẻ “thị nhân” và dân chúng không được làm như vậy). Còn cậu Ivan nhỏ kia cùng đi với các thị nhân, chắc là xấu hổ vì đã bỏ chạy ngày hôm trước. Một số dân làng đi theo bọn trẻ xa xa, để xem “tin đồn” Đức Mẹ hiện ra có thực hay không.

Khoảng một lát sau sáu giờ chiều, “Bóng người” lại hiện ra, ra dấu mời các em đến gần. Lần này, các em làm theo lời. Đúng ra, bọn trẻ đã leo lên đồi tới chỗ ấy với một tốc độ đáng kinh ngạc, và khi đến gần “Bóng người”, các em quỳ gối xuống. Một số dân làng đi theo xem, cố chạy theo các em, nhưng không tài nào theo kịp. Họ thuật lại là đã thấy sáu thiếu niên đó đăm đăm nhìn vào một cái gì đó ở cao hơn chỗ các em một chút, độ mấy thước. Bọn trẻ bắt đầu đọc kinh “Lạy Cha” như Vicka đã giải thích sau đó: “Chúng tôi không biết làm gì khác.” Lần viếng thăm thứ hai này kéo dài khoảng 15 phút, trong khi đó, “Bóng người” tỏ mình ra là: “Trinh Nữ Maria Hồng Phúc”.

Về nhà, các em vẫn lại bị quở mắng nữa, nhưng nhờ lời chứng của dân làng, các em bị quở mắng nhẹ thôi. Họ vẫn biết mấy trẻ này không phóng đại hoặc bày trò phỉnh gạt, và nhất định chúng không hề nói láo về một điều mà chúng cho là rất thánh thiêng. Nếu chúng nói là chúng thấy cái gì đó, ấy là chúng đã thấy thật, mặc dầu người khác không thấy.

Tin đồn lan truyền khắp năm thôn của giáo xứ Mễ Du, nhất là loan tin về một hiện tượng phi thường chưa từng nghe biết. Chiều hôm sau, hằng ngàn người kéo lên trên đồi cùng với mấy trẻ. Hầu như họ đến từ khắp nơi, có người từ xa như thị trấn Ljubuski và thành phố Mostar, cách đấy đến nửa tiếng đồng hồ xe chạy.

Vào ngày thứ ba, có một luồng ánh sáng rực rỡ xuất hiện trên đồi và chỉ đường cho sáu thị nhân đến nơi diện kiến với “Gospa” (Đức Bà, theo tiếng bản xứ). Những người khác thấy được ánh sáng, nhưng không thấy được cái gì ở bên trong ánh sáng đó. Milka cũng có mặt đó nữa, mẹ em mới công nhận con bà đã nói thật, sau khi nghe biết được điều Marija chứng kiến ngày thứ hai. Nhờ Marija nài nỉ, bà cho phép Milka đi, để em cũng được thấy nữa. Nhưng, tiếc thay, hôm ấy em không được thấy “Gospa” nữa, kể từ ngày đó đến nay.

Lần này, cả sáu em dạn dĩ hơn, nhờ kinh nghiệm các ngày trước, nên đã đưa ra nhiều câu hỏi với Bà hiện ra: Tại sao Bà đến với làng các em? Tại sao lại hiện ra với các em? Và Bà muốn gì ở dân làng này?

- “Ta đến đây vì ở đây có nhiều người tin chân thật”, đó là câu đáp của Bà. “Ta đến để nói với các con là Thiên Chúa hiện hữu, và Người yêu thương các con. Những ai không thấy được Ta như các con, hãy tin như các con.”

Jacov thuật lại có hơi khác một chút. Theo em, lý do Bà đến là để mọi người được có bình an và hòa giải với nhau. (Tôi nhận thấy đáng tin ở chỗ sáu thị nhân không lặp lại cùng một câu chuyện giống hệt nhau từng chữ một. Quả thật, cứ xét theo tính cách độc lập của trẻ vào lứa tuổi đó, nếu lời tường thuật của các em giống nhau in đúc, thì tôi lại cho là đáng nghi ngờ).

Cha Jozo Zovko lúc đó là chánh xứ Mễ-Du

Đến ngày thứ tư, nhà cầm quyền sở tại đóng ở thị trấn Citluk đã được báo động; tình hình đã vượt tầm kiểm soát. Họ cho mời sáu em đến trạm cảnh sát, ở đấy, các em bị tra vấn gắt gao, rồi được khám bệnh bởi một bác sĩ - ông này tuyên bố các em là những thiếu niên hoàn toàn bình thường và mạnh khỏe. Thất vọng, sau đó, chính quyền cho mời Cha Xứ nhà thờ Thánh Giacobê tại Mễ Du, là cha Jozo Zovko, dòng Phan Sinh. Ngài vừa đi giảng tĩnh tâm ở Zagreb về. Họ cảnh báo cha là việc tụ tập trên đồi phải chấm dứt, và họ buộc cá nhân cha phải chịu trách nhiệm. Nói cho cùng, Nam Tư là một nước Xã hội Chủ nghĩa, chính thức không công nhận có Thiên Chúa. Tuy vậy, họ là một đảng Cộng sản “sáng suốt, tiến bộ”, nên các sinh hoạt tôn giáo đều được phép cử hành trong khuôn viên nhà thờ, có đăng ký ngày giờ và thời gian. Những phép rộng ấy không có nghĩa là dung túng cho các cuộc biểu dương tập thể quần chúng tự động tụ họp trên đồi.

Cha Jozo trấn an họ là cha cũng không kém quan ngại hơn họ về các biến cố gây kích động kia, đã xảy ra trong thời gian cha đi vắng. Ngài không nói với họ là đã hỏi chuyện bọn trẻ, cũng không đứng ra như người bầu chữa, nhưng ngài lắng nghe, tìm sơ hở nào đó để dẹp chuyện này. Nghe đâu có một em trong nhóm mang ma túy về làng từ một thành phố ở xa (Mirjana sống ở Sarajevo và chỉ về nghỉ hè tại Mễ Du), cha nghi bọn trẻ bị ảo giác do ma túy, và một khi chúng đã bị nhiễm như thế, thì không còn biết làm gì hơn là tiếp tục chơi trò ấy.

Cha Zrinko Cuvalo, phụ tá cha Jozo, tỏ ra nghiêm khắc hơn đối với các em trong những cuộc tra hỏi. E ngại có thể có một trò bịp bợm đang âm mưu nơi đây, cha trở nên rất cứng rắn; so sánh với tai họa không kể xiết có thể xảy đến - cho làng mạc, cho đức tin và cho Giáo Hội Nam Tư - thì sự cực khổ tâm lý tạm thời của sáu thiếu niên đâu có quan trọng gì. Vì vậy, cha tra hỏi đi tra hỏi lại các em, lúc từng đứa một, lúc khác chung một lượt sáu đứa. Ngài không cần giấu diếm về sự hoài nghi và tính nóng nảy, với chủ tâm khiêu khích để chúng nói ngược nhau.

Một linh mục Phan Sinh thứ ba, vừa mới đến lúc xảy ra các sự kiện ở Mễ Du, ông đưa ra một giải pháp triệt để hơn: đem cả sáu đứa ra trừ tà; nhưng hai linh mục kia bác bỏ đề nghị này. Sáng kiến đó ư?... quả thật là quá nghiêm khắc. Cho dù bọn trẻ có phạm lỗi thế nào đi nữa, chúng đâu có bị quỷ ám! Ý kiến này cuối cùng cũng được vị linh mục thứ ba này nghe theo, sau khi ông được tiếp xúc trực tiếp với sáu em. Cả ba linh mục, một khi ý thức được trọng trách đang đè nặng trên vai, liền tiến hành điều tra cách cẩn thận. Chưa biết kết quả sẽ ra sao, nhưng thế giới, chính phủ và Giáo Hội đều qui trách nhiệm vào ba vị này.

Qua tất cả các việc đó, sáu trẻ vẫn bình chân như vại trong lời chứng của mình. Tại Citluk, buổi chiều, lúc sắp đến giờ “Hiện ra”, các viên chức chính quyền phái một bác sĩ khác, tên Darinka Glamuzina, đến quan sát tình hình trên đồi. Họ tin tưởng rằng bác sĩ này, một người tự xưng mình là vô thần, đang phục vụ trong đội Cứu thương, khi trở về cơ quan có thể mang về một báo cáo, cho phép họ dựa vào đó mà chặn đứng trọn bộ vụ việc này ngay lập tức.

Buổi chiều, lúc mặt trời sắp lặn, dân chúng đã tụ tập đông nghịt trên đồi, ngàn ngàn lớp lớp người. Mấy thị nhân đi riêng rẽ từng người và mất hút trong đám đông, chẳng mấy chốc biến thành một đại hí trường. Marija được cha Zrinko đi kèm. Cha vận thường phục, vì không muốn để chính quyền phát hiện (đây là lần đầu tiên một linh mục địa phương đi lên đồi). Khi em thấy ánh sáng đặc biệt, liền chạy lên đồi theo đến chỗ ánh sáng. Các em khác chắc cũng thấy như vậy, vì chẳng bao lâu, chúng gặp được Marija và bắt đầu cầu nguyện.

Theo lời các quan sát viên đứng cách sáu em thị nhân khoảng mấy bước, thì bỗng nhiên, cùng một lúc, kinh nguyện các em lúc ấy dừng lại. Các em ngây ngất trước một hiện tượng mà chỉ có các em thấy được. Mỗi em hình như đang hỏi chuyện với “Bà hiện ra”, có lúc em này nói chồng lên em kia, vậy mà mỗi em đều tiếp nhận được câu đáp cho riêng mình, khiến chúng rất phấn khởi. Một trong các câu hỏi ấy là: Bà có điều gì muốn các em chuyển lại cho các linh mục không .

- “Các linh mục hãy tin mạnh mẽ và giữ vững lòng tin của mình”, đó là câu trả lời mà về sau đã được kể lại.

Sau cuộc “thị kiến”, những người chứng kiến thuật lại là bác sĩ Glamuzina đã vội vã chạy xuống đồi, nét mặt lộ ra một vẻ xúc động sâu xa. Bà từ chối lập bản báo cáo và không muốn dính dáng gì đến vụ hiện ra nữa. Một trong sáu em thị nhân cho biết lý do: bà ấy đã táo tợn yêu cầu các em xin cho bà ấy “chạm” đến “Bà hiện ra”, mà các em bảo là đã được diện kiến. Một trong các em hỏi: “Bà có cho phép bà bác sĩ chạm đến không?” “Bà” đáp: “Hãy để bà ấy tiến lên chỗ này. Luôn mãi sẽ có những Giuđa không có lòng tin.”

Ngày thứ năm của cuộc hiện ra nhằm ngày Chúa nhật. Cha Jozo vẫn giữ thái độ hoài nghi, đã không đề cập gì đến các hiện tượng xảy ra trên đồi Podbrdo trong bài giảng của ngài. Ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tuân giữ đức tin theo kiểu truyền thống. Nếu cha có ý đưa ra một lời cảnh báo, thì cũng chẳng có ai để ý, vì chiều tối hôm ấy, dân chúng tụ tập trên đồi đông hơn bao giờ hết. Có thể nói là tất cả mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ em cư ngụ trong vòng mấy chục cây số quanh đó đều có mặt.

Khoảng 18g40, cuộc hiện ra bắt đầu. (Tuy địa điểm hiện ra lần này lần khác có thể thay đổi, nhưng giờ giấc vẫn luôn giữ nguyên). Sau này, khi được phỏng vấn, các thị nhân thiếu niên thuật lại một trong những câu các em hỏi “Bà” là: “Thưa Bà kính mến, tại sao Bà không hiện ra trong nhà thờ để mọi người có thể thấy Bà?” Câu đáp của Bà, theo một thị nhân kể lại sau này, thì cũng y như lời Con Bà đã phán: “Phúc cho ai không thấy mà tin...”

Kể từ ngày đó, hàng triệu khách hành hương luôn luôn kéo nhau lên đồi nơi Đức Maria hiện ra những ngày đầu, để tưởng niệm hồng ân Mẹ trên trời đến viếng đoàn con dưới thế để kêu gọi họ quay trở về với Thiên Chúa và hoà giải với tha nhân.

Sáng thứ hai tại Citluk, nhà cầm quyền triệu tập một cuộc họp khẩn cấp. Hiện nay đã có báo cáo về những phép lạ chữa lành: nào là một em bé bại liệt được khỏi và đi được, nào là một người mù được sáng mắt, và nhiều tật bệnh nhỏ khác đã được lành. Tình hình đang trở nên nghiêm trọng. Nếu cứ để tiếng đồn về hiện tượng ấy loan ra, nhà cầm quyền sẽ cảm thấy không kiểm soát nổi đoàn lũ dân chúng sắp tràn đến ngôi làng bé xíu này. Một lần nữa, họ cho vời mấy trẻ thị nhân đến, và lần này, họ đưa các em đến phân khoa tâm thần của bệnh viện ở Mostar. Chắc chắn là đến đó, các em sẽ được chẩn đoán là có bệnh ảo giác, hoặc bị một thứ loạn óc nào khác. Nhưng, lần này nữa, người ta khẳng định các em lành mạnh, không bệnh tật, và các em được trả về nhà.

Chiều hôm ấy, các đường lộ nhỏ hẹp dẫn đến làng Mễ Du bị tắc nghẽn suốt nhiều dặm. Hằng hà sa số người tìm đường leo lên đồi. Khi các thị nhân đến gần, dân chúng đổ xô đến bu quanh các em, khiến cậu Marinko Ivankovic, nhà ở bên kia đường gần nhà Marija, phải hô hào dân làng nắm tay nhau thành một vòng tròn vây quanh các trẻ, để cho các em có chỗ cầu nguyện. Như đã thành thói quen trong những ngày trước, các em bắt đầu đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng, khi còn đang đọc nửa chừng, cuộc hiện ra bắt đầu. Một trong những câu hỏi lần này là: “Bà sẽ còn tiếp tục hiện ra với các em bao lâu nữa?”

Câu đáp của Bà quả thật rất bất ngờ: “Lâu bao nhiêu tùy các con muốn.” Sáng hôm sau, hai phụ nữ trong làng, là nhân viên xã hội của Nhà nước, đến bằng xe hơi, mời các em đi du ngoạn. Vì đã từng quen biết các bà ấy, nên các em chấp nhận đi chơi một ngày thoải mái. Nhưng khi gần tới giờ “hiện ra”, các em trở nên băn khoăn và đòi trở về đồi. Hai nữ nhân viên xã hội chỉ cười và tiếp tục cho xe chạy, làm như họ không hiểu gì hết. Đoán được âm mưu, các em dọa sẽ nhảy ra khỏi xe, nếu họ không dừng xe lại để cho các em xuống. Hai bà vội vàng cho ngừng xe lại bên lề đường.

Vừa khi xuống xe, tất cả các em, kể cả hai phụ nữ nhân viên xã hội, liền thấy một bầu ánh sáng từ phía đồi tiến đến gần họ. Mấy trẻ quỳ xuống cách xa lề đường một quãng ngắn, rồi bắt đầu nói chuyện một hồi lâu với “Đấng hiện ra”.

Hoàn toàn bị rung động bởi bầu ánh sáng và bởi chứng kiến tận mắt việc hiện ra, hai nhân viên xã hội đưa các em trở về nhà. Ngày hôm sau, họ đệ đơn xin thôi việc và sau đó dời chỗ ở khỏi vùng này.

Bây giờ, chính quyền trở nên cứng rắn và quyết định không cho hội họp trên đồi với nhân vật siêu nhiên nào đó. Nếu bọn trẻ muốn làm trò hề, chúng cứ việc làm ở nhà thờ; nhưng chúng phải kín đáo, để người khác không bị lôi cuốn vào việc điên khùng của chúng. Tình hình càng trở nên khó khăn: dân chúng bỏ công ăn việc làm để đi lên đồi, không còn ai thiết tha lao động nữa. Cả vùng đều tê liệt. Nhà cầm quyền thông báo thẳng thừng: nếu bọn trẻ không chấp hành, gia đình các em sẽ bị rắc rối. Trong một nước Xã hội chủ nghĩa, chính quyền kiểm soát giấy phép hành nghề và mọi thứ khác, các thị nhân biết rõ sự đe dọa này không phải nói suông.

Nhưng hôm sau, thứ tư, một tuần sau lần hiện ra đầu tiên, chính quyền đột nhiên thay đổi ý kiến, ra lệnh chấm dứt ngay cái trò điên rồ đó đi. Họ sai cảnh sát đến Mễ Du để bắt giam các em thị nhân.

Thật là một cơn ác mộng cho bọn trẻ. Dân chúng bị buộc phải báo cho cảnh sát biết là họ thấy mấy trẻ đó ở đâu - khi thì ngoài đồng, lúc ở trong làng, lúc gần nhà thờ - nhưng cảnh sát tới đâu thì họ cũng đều bắt hụt. Sáu trẻ thị nhân tỏ ra rất thông thạo trong trò cút bắt nguy hiểm này. Chúng luôn bị động, chạy cúi rạp mình giữa các vườn nho để khỏi bị phát hiện, chúng chạy trốn vào rừng cây, thay đổi áo quần để đánh lạc hướng bọn người đuổi bắt chúng. Kinh nghiệm khốn khổ đó không ngờ cuối cùng lại đã dẫn các em đến nhà thờ.

Cha Jozo đang ở trong nhà thờ Thánh Giacôbê, lặng lẽ quỳ gối trước Cung Thánh cầu xin ơn soi sáng dẫn đường chỉ lối cho ngài biết phải làm gì. Như xưa kia Thiên Chúa đã phán bảo cho Abraham và Môsê trong lúc họ gặp thử thách lớn, thì nay cha cũng xin Thiên Chúa dạy cho biết phải làm gì.

Trong cảnh tĩnh mịch của ngôi nhà thờ không một bóng người, bỗng nhiên, cha nghe có tiếng nói: “Hãy ra ngoài ngay và bảo vệ lũ trẻ!” Kinh ngạc vì nghe tiếng ra lệnh rõ ràng, cha đứng dậy, đi nhanh ra cửa sau nhà thờ. Vừa mở cửa, cha thấy bọn trẻ từ góc nhà thờ chạy bán sống bán chết đến quanh cha vừa khóc vừa kêu cứu: “Cha ơi, cha cứu chúng con với!”

Cha Jozo vội vàng đưa các em vào Nhà xứ, chờ cảnh sát đến. Cha dặn các em tuyệt đối im lặng, đoạn ngài trở ra ngoài và chờ. Quả thực, ba cảnh sát viên chạy đến Nhà xứ, thở hổn hển hỏi cha: “Mới đây, ông có thấy bọn trẻ không?”

Cha đáp “Có” trong tư thế sẵn sàng bảo vệ các em với bất cứ giá nào. Nhưng thay vì nán lại một chút để hỏi cha thấy chúng ở đâu, họ lại chạy thẳng một mạch đến thôn Bijakovici, nơi các em sống. Cha Jozo đợi đến lúc họ đã đi khuất mới trở vào Nhà xứ. Sau khi trấn an các thị nhân đang khiếp vía và mệt nhoài, cha cho chúng ăn uống tí gì đó.

Sau đó, lúc chiều hôm, cuộc hiện ra đã xảy ra tại Nhà thờ Thánh Giacôbê, có đông dân làng tụ họp theo lời yêu cầu của vị mục tử của họ. Nếu có chút hoài nghi nào còn sót lại trong lòng cha Jozo về sự xác thực của sự kiện hiện ra, thì giờ đây được đánh tan ngay: bởi cha cũng được thấy Đức Trinh Nữ đúng hệt như các em đã thấy. Từ đó trở đi, cha trở thành người bênh vực chủ chốt cho sự kiện hiện ra, lập trường đó sau này đã khiến cha phải trả giá 18 tháng tù khổ sai, vì đã dám từ chối đóng cửa Nhà thờ để ngăn chận hiện tượng này.

Cha Jozo quyết định hiến cho dân chúng một điều quan trọng hơn mọi thứ khác: ngài sẽ làm thêm một Thánh Lễ lúc sáu giờ chiều hôm ấy, và ngài nhờ cha Zrinko hướng dẫn việc lần hạt trước Thánh Lễ. Sau đó, khi cha ra nhà thờ lại, ngài thấy nhà thờ đã đông chật người, ngay cả quanh bàn thờ cũng không còn chỗ trống. Vị mục tử mà trước kia đã rất nghi ngờ về các cuộc hiện ra, vì thấy không còn mấy ai đến nhà thờ hoặc muốn xưng tội nữa, giờ đây thì ngược lại, cha phải chật vật lắm mới có thể giơ tay lên để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em!” Dân chúng không còn là những khán giả thụ động trước Thánh Lễ nữa; họ đã trở thành những người tham dự tích cực vào một việc thánh thiêng, có sức ảnh hưởng đến cuộc sống của hằng triệu người trên khắp thế giới.

Buổi lễ buổi chiều hôm đó đã khởi đầu cho việc thành hình một thói quen dâng lễ ban chiều hằng ngày (ở Mễ Du mãi đến ngày nay).

Các cuộc hiện ra có thể xảy ra ở bất cứ đâu, miễn là các em có mặt ở đó lúc ấy hoặc cả nhóm, hoặc từng cá nhân. Nay cha Jozo bảo các em tụ tập lại tại phòng mặc áo nhỏ, ngay bên phải bàn thờ của Nhà thờ Thánh Giacôbê. Trước kia, những người dân làng thường đi làm đến tối mới về, nay thì đến chật Nhà thờ từ năm giờ chiều. Họ nguyện cả 15 chục của Kinh Mân Côi. Sau đó còn dự nghi thức chúc lành và chữa lành. Nếu kể cả Thánh Lễ, thì nhiều người ở lại trong nhà thờ đến ba tiếng đồng hồ mỗi chiều. Thế là Mễ Du bắt đầu công trình hoán cải từ đó. Ăn năn trở lại theo con đường của Chúa Giêsu: đó là sứ điệp căn bản của Đức Maria. Người thường dạy: Con đường dẫn tới sự ăn năn trở lại là cầu nguyện, chay tịnh và sám hối. Những việc này dẫn tới sự ăn năn trở lại thật lòng và tới bình an nội tâm cho mỗi người. Thật vậy, dân làng Mễ Du giờ đây đang cố gắng sống sứ điệp này.

Nhưng niềm phấn khởi thánh thiện này không kéo dài mãi với họ: ngày 18 tháng 8, Cha Xứ của họ bị bắt, bị tố cáo xách động quần chúng dấy loạn, (có một đôi lời giải thích trong bài giảng của cha bị lên án là tuyên truyền chống Chính phủ). Đó là một hành động tuyệt vọng từ phía chính quyền, họ đưa ra biện pháp này với hi vọng dập tắt được vụ hiện ra, đã lôi cuốn dân chúng tụ tập đông đảo ở đây. Cha Jozo biết được cái gì sẽ phải xảy ra, và khi họ đến bắt, ngài đã sẵn sàng. Nhưng cả cha lẫn giáo dân không ngờ đến những chuyện sẽ xảy ra sau đó: nhà thờ bị lục soát, các đồ thánh, tượng đạo bị vứt tung tóe và đập vỡ, nhà thờ được lệnh đóng cửa.

Tuy vậy, vừa nghe tiếng chuông, thì nhà thờ đã đầy người, dân chúng cứ vờ như không hay biết gì về lệnh cấm. Một sự im lặng não nề đè nặng tâm can họ, khi họ chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát. Rồi cha Zrinko bước lên bàn thờ và thông báo cho dân chúng về việc cha Jozo bị bắt giữ, tuy nhiều người đã biết tin đó. Với giọng xúc động, cha nói với họ: “Hôm nay là ngày khốn khó nhất trong đời tôi”. Cả nhà thờ vang lên tiếng khóc.

Thánh Lễ bắt đầu, nhưng khi bài hát nhập lễ được xướng lên, mọi người đều nghẹn ngào không thốt nên lời; với các kinh nguyện khác cũng vậy. Đến khi nguyện kinh Lạy Cha, cha Zrinko đã phải mấy lần xin giáo dân lặp lại câu: “Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Sau Thánh Lễ, thông lệ đọc bảy kinh Lạy Cha, bảy kinh Kính Mừng và bảy kinh Sáng Danh do các thị nhân xướng lên. Thình lình, các em ngưng đọc kinh và chạy tới phòng nhỏ cạnh bàn thờ. Linh mục báo cho cộng đoàn: “Đức Mẹ gọi các em đến đó.” Tất cả đều im lặng, mọi con mắt đều hướng về cánh cửa căn phòng nhỏ ấy. Lúc sau, bé Jacov đi ra cùng với mấy em khác, tiến đến micro và nói với dân chúng: “Đức Mẹ gọi chúng cháu đến phòng đó, nơi Mẹ đang chờ chúng cháu. Mẹ bảo chúng cháu nói với quí vị đừng sợ. Mẹ muốn chúng ta hạnh phúc và lộ niềm vui trên nét mặt. Mẹ nói Mẹ sẽ che chở cha Jozo.”

Sau giây phút bàng hoàng, những tràng pháo tay nổ ra và dân chúng bắt đầu ca hát. Kinh nguyện đã xong, nhưng nhiều người còn nán lại rất lâu, không muốn rời nhà thờ.

Mễ Du còn tiếp tục đón nhận các thử thách. Nhưng về phần dân làng, thì quả thật Đức Mẹ vẫn để mắt coi sóc...

* * *

Tôi buông quyển sách trên đùi, ngước nhìn lên và lắc đầu: “Sao mà lạ lùng quá vậy!” Nghề nghiệp nhà báo đã dạy tôi: trước hết, phải biết hoài nghi và dè dặt trong phán đoán, cho tới khi thu thập được những bằng chứng khách quan cụ thể. Nhưng câu chuyện này diễn ra đến nay đã hơn bốn năm, mà lại dính dáng đến mấy đứa trẻ ít học nữa cơ chứ! Làm sao các em đó có thể bày ra một trò bịp bọm trong thời gian lâu như vậy? Thôi kệ, tôi chỉ nhắm vào câu chuyện, ngoài ra có gì đâu mà phải bận tâm?

- “Anh nè, còn đợi gì? Bỏ cuộn băng vào máy đi, để xem các phép lạ trên hết các phép lạ này ra sao!” Terri nói với nụ cười tinh nghịch, bước vào phòng lấy ghế ngồi xem.

Tôi bỏ cuộn băng vào máy. Bây giờ, chúng tôi mới tự mình xét xem vụ hiện ra ở Mễ Du là xác thực hay chỉ là chuyện bày đặt phóng đại của trẻ con.

hoanghac
11-01-2012, 03:33 AM
http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh004.jpg

Từ trái: Lm. Bob Faricy (S.J), thị nhân Marija Vicka, Sơ Lycy Rooney, thị nhân Ivanka, Jakov, Lm. Tom Forrest (CSsR/DCCT), 25/09/1982

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh006.jpg

Cha Jozo Zovko lúc đó là chánh xứ Mễ-Du

hoanghac
11-04-2012, 05:24 AM
“Các con là con Mẹ, và Mẹ xin các con hãy làm theo Ý Con Mẹ...”

Chương 3

SỨ ĐIỆP

Cuộn băng vidéo khởi chiếu một đoạn khá dài cảnh ngọn núi phía sau nhà thờ Thánh Giacôbê, trên đỉnh núi có một tượng Thánh Giá đúc bê tông. Tiếp đến, trên nền nhạc của bài hát lễ bằng tiếng Croát, máy quay phim từ từ cho thấy cận ảnh ngôi Thánh đường, với hai tháp chuông và đám đông dân chúng tụ tập trước sân. Một linh mục Công giáo người Mỹ đang phỏng vấn dân chúng đến từ khắp nơi: Pháp, Ý, Đức... Ở đấy có những đôi vợ chồng, những gia đình và nhiều người trẻ. Ngài hỏi họ tại sao đến đây và đã tìm thấy gì. Đoạn phim này kéo dài khoảng 15 phút. Cảnh sau, ống kính tập trung vào sáu thiếu niên đã trở thành “thị nhân” và trung gian chuyển lại các Sứ điệp của cuộc hiện ra.

Như sách trên đây của linh mục Faricy tường thuật, các em là những thiếu niên trông rất bình thường, khỏe mạnh. Theo bản năng tự nhiên, tôi bắt đầu ghi: mỗi em có cá tính mạnh mẽ và phát triển tốt, có vẻ hạnh phúc và thoải mái. Đó là những đứa trẻ khá dễ coi, nhưng hoàn toàn trung bình. Cuộn phim được quay trước đây mấy tháng, tức là bốn năm sau những biến cố đã được kể lại trong sách, và bây giờ mọi việc đã được ổn định cách đáng kể. Các lần hiện ra buổi chiều hằng ngày đã trở nên thường lệ, và chính quyền tỏ ra bớt khắt khe. Sự thay đổi thái độ này có nguyên nhân chủ yếu là nguồn lợi ngoại tệ bất ngờ và khổng lồ, thu được từ túi khách du lịch và hành hương.

Khi chiếc máy quay phim thu cận ảnh các thị nhân ngay trước giờ hiện ra, mọi tính cách khách quan nhà báo của tôi tan biến. Lúc ấy, tôi thấy tôi cứ lắc đầu, miệng lẩm bẩm: “Thật không thể tin nổi!” Nhưng ngay lập tức, trong thâm tâm tôi lại cảm thấy đó là sự thật. Nhưng làm sao chuyện ấy đã xảy ra trong một thời gian lâu dài như thế, mà không một ai trong đất nước này (Mỹ) biết đến vậy?

Từ trái: Ivan, Marija, Ivanka, Jakov, Vicka. Hì̀nh chụ̣p nà̀y đã̃ minh hoạ̣ những điều mô tả dưới đây lúc các em thị nhân diện kiến Đức Mẹ.

Mấy em thị nhân bắt đầu cầu nguyện. Đột nhiên, các em dừng lại ở giữa câu và quỳ thụp xuống. Vicka mỉm cười và rõ ràng là đang nói chuyện, nhưng không có âm thanh nào phát ra từ đôi môi đang mấp máy của em. Ivan cũng đang chuyện trò trong im lặng, nhưng đôi môi mấp máy không đồng bộ với môi của Vicka. Marija chỉ chăm chú nhìn lên cao, miệng mỉm cười trong dáng điệu tôn kính. Tất cả các em đều nhìn về cùng một hướng, và không ý thức về sự có mặt của đám đông đang vây quanh mình hay về những ánh chớp sáng của đèn flash hướng thẳng vào mặt mình.

Khi đang xem say sưa, tôi bỗng có một cảm giác lạ lạ: có ai đó đang nói với tôi! Không phải một tiếng nói tai nghe được, nhưng là một tiếng nói từ bên trong tôi. Thật khó tin! Nhưng một cách nào đó, tôi biết chính là tiếng nói của Đức Trinh Nữ Maria.

Toàn thân tôi ra tê dại. Mọi vật trong phòng như biến tan đâu mất, chỉ còn lại mỗi mình tôi với các điều đang tiếp diễn trên màn ảnh truyền hình. Và tiếng nói bên trong ban một sứ điệp: “Con là con Mẹ, Mẹ xin con hãy làm theo Ý của Con Mẹ...”

Nghẹn ngào đến không thở được, tôi ráng đưa mắt nhìn qua phía Terri: Nàng có nghe thấy tiếng nói ấy không? Nàng đang thích thú nhìn lên màn ảnh, song hoàn toàn thản nhiên. Tôi nhận ra là điều đó chỉ xảy đến cho mình tôi thôi. Tim tôi đập loạn xạ, tưởng chừng như sắp chết giấc đi được. Tiếng nói còn tiếp tục: “Hãy viết về các biến cố ở Mễ Du! Việc này sẽ trở nên sứ mạng của đời con, nếu con đồng ý chấp nhận. Không bao lâu nữa, con sẽ thôi công việc hiện tại con đang làm.”

Phần còn lại của cuộn băng trước mắt tôi chỉ còn là một đám sương mù đối với tôi. Khi phim kết thúc, chúng tôi chỉ ngồi và nhìn nhau sững sờ. Tôi có nên nói cho Terri biết việc vừa xảy ra không? Cô ấy có tin tôi không? Cuối cùng nàng nói:

- “Quả thật hay lắm, hay hơn đọc trong sách. Cũng lạ thật, em thấy mình có thể tin câu chuyện này không mấy khó khăn.”

Tôi chỉ còn biết gật đầu cách ngớ ngẩn. Terri nhìn tôi, chờ đợi một phản ứng. Khi thấy sắc mặt tôi có vẻ khác thường, cô ấy hỏi:

“Kìa, anh làm sao vậy?”

- “Terri à, anh biết nói ra điều này, em sẽ cho là điên khùng, nhưng Bà ấy vừa nói với anh...”

- “Ai vậy?”

- “Đức Trinh Nữ Maria. Bà vừa nói với anh đấy. Bà xin anh loan báo sứ điệp của Người” - Tôi nghẹn lời.

Nàng đăm đăm nhìn tôi một lát: “Anh có nghĩ là anh bị tác động quá đáng bởi vụ này không?”

- “Terri này, anh quả quyết với em điều đó xảy ra thật mà!”

Tôi không thể trách vợ tôi hoài nghi, nhưng tôi thất vọng vì nàng không tin tôi. “Anh không biết thế nào và tại sao, nhưng anh quả quyết với em là chuyện đó xảy ra thật!”

Nàng mỉm cười và cố làm cho câu chuyện ra nhẹ nhõm hơn: “Thôi được, mà sao anh không uống vài viên aspirine rồi đi ngủ? Sáng mai sẽ ổn thôi!”

Tôi lắc đầu: “Em đi ngủ trước đi! Chắc anh không tài nào ngủ được!”

Nàng đứng dậy, đến bên tôi và ôm hôn tôi. Bây giờ nàng nhận ra: dù chuyện ấy có xảy ra thật hay không, thì tôi thực sự đã bị cuốn băng đó tác động sâu xa rồi... “Anh đừng lo nghĩ gì nữa. Nếu đó là xác thực, sớm muộn gì rồi anh cũng sẽ biết thôi. Em đi ngủ đây, anh đi ngủ lúc nào tùy ý.”

Tôi ngồi một chặp lâu, mắt nhìn đăm đăm vào màn hình tivi đã tắt, đảo qua đảo lại trong đầu những gì mới xảy ra. Thế rồi, hít một hơi thở thật sâu, tôi quyết định làm sáng tỏ câu chuyện. Tôi chưa hề có một kinh nghiệm nào trước đây, để có thể chuẩn bị cho tôi về việc này. Tôi đứng trước hai khả năng: hoặc là tôi khùng, hoặc tôi vừa mới nhận một sứ điệp của Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria.

Phải chăng cái gì đó đã quật ngã tôi? Đời tôi đã gặp nhiều áp lực đè nặng, nhưng có cuộc đời nào mà lại chẳng có áp lực đâu! Trong vòng chín năm, chúng tôi đã làm chủ và điều hành bốn tờ tuần báo và một nhà in. Áp lực căng thẳng là bạn đồng hành thường nhật: nào hạn chót phải trả tiền, nào cạnh tranh, nào những rắc rối về nhân viên và bao thứ khác nữa... Có thể nói chắc chắn là trong đời tôi, chưa bao giờ tinh thần tôi lại ổn định hơn lúc này.

Tuy nhiên, suy tư về Đấng ấy còn khó khăn hơn gấp bội. Chúa Giêsu Kitô đột nhiên trở nên thật trước mắt tôi - một Chúa Giêsu thật bằng xương bằng thịt, Ngài đang sống, bây giờ và mãi mãi. Và Thân Mẫu Ngài, Đấng đang hiện ra với mấy thiếu niên ở làng Mễ Du... vừa mới nói với tôi.

Trước thực tại bỗng trở nên hiển nhiên này, tôi quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện, như chưa bao giờ tôi cầu nguyện như vậy trong đời.

hoanghac
11-04-2012, 05:26 AM
http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh009.jpg

Từ trái: Ivan, Marija, Ivanka, Jakov, Vicka. Hì̀nh chụ̣p nà̀y đã̃ minh hoạ̣ những điều mô tả dưới đây lúc các em thị nhân diện kiến Đức Mẹ.

hoanghac
11-06-2012, 04:21 PM
“Mẹ mời tất cả các con bắt đầu sống trong Tình yêu Thiên Chúa... Mẹ muốn dẫn các con đến với sự thánh thiện hoàn toàn...”

Chương 4

CON LÀ CON MẸ ...

Tôi không biết đã quỳ ở đấy bao lâu, miệng cứ lặp đi lặp lại: “Chúa ơi, Chúa ơi, tại sao lại là con?” Tôi không đủ tư cách làm việc này. Tôi không biết gì hết về những chuyện hiện ra hoặc về Giáo Hội Công giáo. Điều duy nhất tôi biết được về Đức Trinh Nữ Maria là Bà đã được chọn để sinh hạ Chúa Giêsu Kitô. Tại sao Bà lại xin tôi phổ biến sứ điệp Bà đã đem đến cho dân làng Mễ Du nhỏ bé đó?

Tôi cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng được tham dự vào một chuyện thánh thiêng như vậy. Cảm nhận bất xứng này không do lòng khiêm nhường, nhưng do nhận thức cay đắng về những lầm lỡ tôi đã vấp phải trong đời. Tất cả mặc cảm tội lỗi về vụ ly dị của tôi trước đây, bấy giờ trào lên trong tôi, như xát muối vào vết thương mới mở.

Tuy nhiên, dù những ý nghĩ đó có ảm đạm và nặng nề đến đâu, một cảm giác về Tình Yêu Chúa vẫn không rời tôi. Dường như có một sứ điệp khác bên trong đang trấn an tôi rằng: Tuy tôi tự thấy mình bất xứng, nhưng Chúa vẫn chấp nhận tôi. Lúc ấy, tôi nhớ lại những gì tôi thường nghe giảng ở nhà thờ, và kể cả dạy trong các lớp học ngày Chúa nhật, đó là: Chúa Giêsu đã chết trên thập giá, để tội lỗi của chúng ta - tất cả mọi tội lỗi - được tha thứ. Tất cả những gì chúng ta phải làm, là xin cho được lòng ăn năn chừa cải cho thật. Nhưng dạy hay nghe biết điều ấy là một chuyện, còn sống cụ thể điều ấy lại là một chuyện khác. Tôi cảm thấy mình như một đứa bé được đùm bọc trong yêu thương và đón nhận sau khi bị quở mắng.

Tôi quỳ ở đó một hồi lâu, quá mệt mỏi không còn làm được cái gì khác. Thế rồi tôi đứng dậy, bỏ băng vào máy lại, rồi nằm xoài ra trên đi văng.

Lần này, khi xem phim, tôi được đổ tràn một ánh sáng thấu tận tâm can, vượt trí hiểu của tôi. Tôi không cần hiểu thế nào và tại sao điều này lại xảy ra cho tôi như vậy; tôi chỉ biết đó là thật và đó là tất cả những gì cần biết.

Khi chiếu đến đoạn trước lúc hiện ra, sứ điệp mà lúc nãy tôi đã nghe lại được lặp lại. Tôi biết là tôi phải làm nhiều việc khác nữa, chứ không chỉ viết sách về sự kiện Mễ Du; chứ không chỉ sống sứ điệp tình yêu và an bình cho cá nhân. Kể từ lúc đó, Mễ Du đã trở nên cuộc sống của tôi.

Mệt nhoài, nhưng không tài nào ngủ được vì quá xúc động, tôi ngồi trên đi văng hồi tưởng lại những biến cố lớn trong đời tôi. Vụ ly dị của tôi chắc chắn là biến cố đau thương nhất. Sao tôi lại dại dột đi lập gia đình quá sớm như vậy, rồi sau đó để cho một gia đình với bốn đứa con thơ xinh xắn tan rã trong một bi kịch oán hờn và chia cách? Tôi cứ tưởng chuyện đó không bao giờ có thể xảy đến với tôi...

* * *

Chán ngấy trường trung học, tôi đã bỏ đi khi hết lớp mười và gia nhập Hải quân. Sau khi giải ngũ, tôi sang Columbia, thuộc bang Carolina, để thăm bà chị ruột và người chồng mới của chị. Tôi chỉ ghé thăm một chút thôi, vì còn phải đi tới Tempe, bang Arizona, để vào Đại học quốc gia Arizona cùng với một người bạn Hải quân sống ở đấy.

Tôi chưa bao giờ tới Arizona. Tôi gặp một thiếu nữ giáo phái Báptít và chúng tôi bắt đầu hẹn hò. Đó là mối quan hệ nghiêm chỉnh đầu tiên của tôi, và tôi tin chắc là nếu tôi không cưới cô ấy, tôi sẽ không còn có cơ hội nào khác nữa. Cô ấy có tính nhút nhát, sinh trưởng ở tỉnh nhỏ, và đi nhà thờ thường xuyên. Tôi bắt đầu đi nhà thờ với cô ấy, tuy gia đình tôi thuộc giáo phái Lutêrô. Thực ra, tôi không cần biết là đi nhà thờ nào hoặc có đi nhà thờ hay không. Chưa đầy một năm, chúng tôi đã cưới nhau.

Một Chúa nhật nọ, ít lâu sau đám cưới, tôi cảm thấy được thúc giục hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Tôi không hiểu tại sao tôi muốn làm điều đó. Có lẽ là do lời mời gọi ăn năn hối cải, vốn thường là thành phần trong giờ thờ phượng của giáo phái Báp-tít; hoặc là do ảnh hưởng bài giảng trong nhà thờ buổi sáng hôm ấy. Tôi chỉ biết có một điều: tôi cần thay đổi nếp sống của tôi. Từ đó, tôi trở nên ngoan đạo, đi lễ mỗi sáng Chúa nhật và chiều thứ tư.

Nhưng, mặc dù tôi dấn thân làm việc Giáo Hội, cuộc hôn nhân của chúng tôi vẫn rắc rối, chỉ vì giữa hai chúng tôi có quá nhiều khác biệt. Mối tình của chúng tôi xem chừng đã nguội dần từ mấy tuần đầu, nhưng tôi không đành để mất chút an toàn và tình thương nó mang lại. Chúng tôi chỉ phải cố gắng làm cho nó phát huy hiệu quả mà thôi.

Ít tháng sau, từ một lần đi thăm cha mẹ vợ trở về, tôi tìm thấy giấy nhập học của trường Đại học Nam Carolina trong thùng thơ. Tôi sửng sốt. Tôi đã lãnh được giấy chứng nhận đã thi hành nghĩa vụ quân sự bốn năm trong Hải quân, và đã nộp đơn xin vào trường đó chỉ vì người anh rể của tôi đang học trường Dược ở đấy thuyết phục tôi. Tôi làm đơn cốt yếu để được rảnh nợ với anh ấy, chứ không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ được chấp nhận.

Bây giờ, chuyện đã vậy rồi, tôi không thể chần chừ nữa. Tôi dự định lấy chuyên khoa báo chí, vì từ lâu, tôi vẫn muốn làm nhà văn. Thoạt đầu, mọi việc khá hấp dẫn, tôi không có một ý tưởng gì về những khó khăn sẽ phải gặp bốn năm sau như thế nào.

Mới bắt đầu được ít lâu, tôi được biết vợ chồng tôi sắp có con. Bỗng nhiên tôi phải đi học cả ngày, đồng thời kiêm một việc làm suốt ngày. Sau bốn năm và có ba đứa con, tôi nhận được văn bằng như hằng mong ước. Nhưng chính cái nỗ lực căng thẳng để đạt được thành quả ấy, đã gây họa lớn cho cuộc hôn nhân của chúng tôi.

Tôi đi làm cho một công ty báo chí địa phương - không phải như một phóng viên, nhưng như một nhân viên giới thiệu quảng cáo thuộc bộ phận quảng cáo của công ty. Tôi hoàn toàn bị thất vọng, nhưng việc này đem lại cho tôi lợi nhuận nhiều hơn là làm phóng viên. Vả lại, trong hoàn cảnh một vợ ba con và một đứa còn trong bụng mẹ, tôi không còn lựa chọn nào hơn. Việc làm của tôi hóa ra đã được Chúa an bài: tôi đạt thành quả mau lẹ, chẳng bao lâu lên đến cấp quản lý. Tôi vẫn luôn muốn cầm bút, nhưng ít ra với từng ấy là tôi cũng đã “thành công”.

Năm 1971, cánh cửa may mắn mở ra cho tôi. Trước đó, công ty này đã mua lại ba tờ tuần báo ở trong và chung quanh vùng Myrtle Beach, một thành phố nghỉ mát ven biển. Tôi được trao công tác tăng số phát hành của tờ lớn nhất (trong ba tờ đó) và chuyển tờ tuần báo thành nhật báo. Nếu làm được, tôi sẽ trở thành chủ nhiệm tờ báo. Tôi liền chụp ngay lấy cơ hội.

Đang khi đó, vợ tôi không chia sẻ sự hăng hái với tôi. Gia đình vợ tôi lúc ấy ở cách chỗ tôi làm việc chỉ có chưa đầy một tiếng đồng hồ lái xe. Nàng nghĩ rằng dọn xuống Myrtle Beach, xa cách đó 300 cây số, là đánh mất gia đình và bạn bè; ý nghĩ ấy quá sức chịu đựng của nàng. Thế là tôi phải đi đi về về hằng tuần. Mối quan hệ giữa chúng tôi ngày càng tồi tệ. Cứ đến mỗi chiều Chúa nhật, tôi lại ra đi trong tiếng gào khóc và nước mắt của các con tôi. Mỗi ngày, tôi phải làm việc từ 15 đến 17 giờ. Khi về đến nhà vào tối thứ sáu hằng tuần, tôi hoàn toàn kiệt sức.

Mọi người, trừ tôi, thấy việc ly dị không còn xa mấy. Tuy cuộc hôn nhân của chúng tôi không mấy hạnh phúc, nhưng vì các con, tôi muốn duy trì tình trạng như vậy. Nhưng hoàn cảnh đã không được như thế. Rốt cuộc, việc phải đến đã đến: chúng tôi ly dị nhau. Quá sức đau đớn khiến tôi cay đắng đối với nhiều người, nhất là với những kẻ giả hình hay đi nhà thờ. Sao Thiên Chúa lại cho phép biến cố này xảy đến cho chúng tôi? Tôi đã cố gắng sống tốt để giáo dục con cái tôi - thế mà tôi lại được phần thưởng như thế đó! Tôi ngưng lui tới nhà thờ và thề sẽ không bao giờ đi nhà thờ nữa.

Đang trong tình trạng chao đảo như thế, cô Terri Harris đến với tôi. Tuy ít tuổi hơn, nhưng nàng chín chắn hơn tôi về nhiều mặt. Đối với người khác, nàng hơi nhút nhát; nhưng với tôi, nàng thoải mái và hồn nhiên. Tính nàng kiên quyết và không dễ bị nao núng, với một vốn sống khôn ngoan hiểu đời phong phú. Từ buổi sơ giao, tôi phải công nhận câu ngạn ngữ thời xưa nói về “Các cực đối kháng lại cuốn hút nhau” là đúng cho trường hợp của hai đứa chúng tôi, tuy chỉ có trời mới biết nàng đã thấy những gì nơi tôi, với những vấn đề khó khăn của tôi lúc đó.

Tuy thế, vào lúc ấy, Terri chính là điều cuối cùng mà tôi muốn có trong đời. Đây không phải là lúc dấn thân vào một mối quan hệ nghiêm túc. Theo bản năng, tôi cảm thấy nếu chúng tôi cứ gặp gỡ hẹn hò, việc nghiêm trọng tất sẽ xảy ra. Và đã xảy ra như vậy.

Terri là điều tốt đẹp duy nhất đã đến trong đời tôi lúc đó. Với một cuộc đời tan nát như thế, tôi đâu còn đầu óc để điều khiển một tờ báo - việc ấy dĩ nhiên văn phòng tổng quản trị ở Columbia đã thấy ngay. Ông tổng giám đốc đến Myrtle Beach để nói chuyện với tôi. Kết quả, họ đánh giá cao mười năm công tác của tôi, nhưng công việc là công việc, mà họ thấy công việc lại chẳng ra làm sao. Người ta bèn trả cho tôi ba tháng lương trong thời gian tôi đi tìm việc khác.

Vào tuổi 37 và trong hoàn cảnh khổ não vì vụ ly dị, tìm được một chỗ làm mới không phải là dễ. Hồi đầu, tôi lạc quan vì có một lý lịch công tác khá gây ấn tượng. Nhưng chính điều đó mới thành vấn đề: nơi nào tôi đến gõ cửa, họ cũng đều nói là trình độ nghiệp vụ của tôi quá cao. Tôi phải hạ thấp đòi hỏi và kỳ vọng của mình, nhưng vẫn không đi đến đâu. Một buổi sáng nọ, tôi chạm đến đáy vực, khi gặp một tay phát báo dạo trên đường đi. Hắn nhìn tôi với vẻ thương hại. Không ai trong tòa báo biết được tôi đã nghỉ việc, chỉ trừ người này. Mà nếu anh ta biết, thì chắc hẳn mọi người sẽ biết. Tối hôm đó, sau một ngày tìm việc không kết quả, tôi chán chường ngồi trong bóng tối của căn phòng trọ, nơi tôi đang tạm trú. Đây là một trong những đêm tồi tệ nhất trong đời tôi.

Terri thấy được điều đang xảy ra cho tôi. Nàng khuyến khích tôi đến hỏi thử các cơ sở tuyển dụng, lại còn lái xe đưa tôi đến các thành phố xa, vì thôi việc, tôi không còn quyền sử dụng xe của công ty nữa. Nhà băng trước kia đã từng cho tôi thế chân căn nhà để vay một số tiền lớn xây ngôi nhà mới tại Myrtle Beach, nay cũng từ chối cho tôi vay khoản tiền 800 đô để mua một chiếc xe Volkswagen cũ, trừ phi tôi kiếm được một người nào chịu ký nợ chung với tôi.

Ngày 30 tháng 6 năm 1974, tôi lãnh tháng lương cuối cùng. Hầu hết số tiền này được chi vào khoản trợ cấp cho con cái sau khi ly dị. Khoảng một tuần lễ sau, tôi nhận được điện thoại của một trong những cơ sở tuyển dụng. Một đại diện văn phòng niên giám điện thoại quốc gia đặt tại Tennessee phân vân hỏi tôi có muốn đi bán “những trang giấy vàng” quảng cáo chăng. Tôi nói chắc với ông ấy là tôi muốn, và còn hẹn với ông ấy một buổi phỏng vấn vào mấy ngày sau.

Ông ấy cho tôi biết đây là một dịch vụ được hưởng hoa hồng trực tiếp, và tôi phải tự lo các khoản chi phí đi lại. Tôi nói: “Tốt thôi, tôi biết tôi bán được.” Tôi cố giấu không để lộ vẻ lo sợ, vì tôi chưa bao giờ bán hàng ăn hoa hồng. Nhưng tôi cần việc làm, bất cứ việc gì. Ông ấy hứa trong một tuần sẽ gọi tôi và cho tôi hay.

Tôi cám ơn về thời giờ ông dành cho tôi, trong bụng thầm nghĩ có lẽ chẳng bao giờ ông gọi điện lại cho mình nữa. Vậy mà cuối tuần sau, ông đã gọi và giao việc cho tôi.

Bây giờ, tôi cần có một chiếc xe hơi, và Terri đồng ý ký hợp đồng vay tiền chung với tôi. Tôi không muốn nhờ vả như vậy, nhưng tôi không còn biết xoay sở cách nào hơn. Sau hai tuần lễ tập huấn, tôi bắt đầu lên đường hành sự. Nhưng sau hai ngày chạy đôn đáo, tôi chẳng bán được gì cả. Tệ hơn nữa, có một khách hàng cũ nhất định không mua quảng cáo nữa, thế có nghĩa là số tiền dịch vụ của tôi thiệt mất 35 đô.

- “Tôi không thể làm việc này được”, tôi cứ lẩm bẩm. Nhưng lần này, tôi không đơn thân độc mã, tôi còn có Terri. Tôi gọi điện cho nàng ở Myrtle Beach. Nàng khuyên tôi nên nhẫn nại và chờ đợi ít lâu. Thật vậy, nàng xác tín đến độ làm cho tôi phải giận chính mình vì đã mau chán nản. Sáng hôm sau, tôi đi bán hùng hục như bị ma đuổi, rồi cả ngày hôm sau nữa cũng vậy. Đến tối thứ sáu, tôi kiếm được hơn 500 đô tiền hoa hồng.

Tuần kế tiếp, tôi kiếm được hơn 800 đô và trong vòng sáu tháng, tôi đã là một trong năm người bán hàng giỏi nhất trong cả nước. Thật là khoái trá khi tôi trở lại gặp tay giám đốc ngân hàng để trả dứt món nợ mua xe, và làm giấy tờ để vay tiền mua một chiếc xe mới. Chiếc xe này đánh dấu ngày tôi thoát cơn bĩ cực mà hướng tới cảnh thái lai. Lòng đầy tự tin, tôi cầu hôn cùng Terri. Tháng 5-1976, nàng trở thành vợ tôi.

Ít tháng sau, khi đang ở Bắc Carolina bán hàng, tôi để ý đến một tờ tuần báo tại một nhà hàng ăn. Đó chỉ là một loại báo quảng cáo phát không kèm theo một số tin tức địa phương, nhưng cái đó làm nảy sinh nơi tôi một sáng kiến. Vừa về đến Myrtle Beach, tôi nói ngay chuyện này với Terri: “Em biết không, đây đúng là công việc mà anh luôn muốn làm; anh còn có thể viết một mục cho tờ báo ấy.” - “Anh có khùng không đó?”, Terri chận ngang. Tôi chống chế: “Anh làm được mà! Anh đã chứng tỏ là anh bán được quảng cáo và...”

- “Và bây giờ cuộc sống anh đã ổn định, anh làm ra nhiều tiền, anh lại muốn liều mạng để mất hết vì mấy cái trò ngu ngốc...”

- “Ê! Anh đã xuống tận đáy vực sâu rồi, còn sợ gì nữa? Chúng ta làm được mà!”

Tôi tin chắc rằng cùng với nhau, hai đứa chúng tôi có thể làm được mọi việc. Nhưng Terri vẫn nghi ngờ và lo lắng. Cuối cùng, tôi thuyết phục được nàng đi với tôi đến nói chuyện với viên giám đốc của một tờ tuần báo nhỏ và một nhà in nhỏ ở cách đó khoảng 60 cây số. Khi nghe tôi nói chuyện với ông ấy một cách thông thạo, với những từ nhà nghề như: dàn trang, chia cột, chế bản, lên khuôn, v.v..., Terri bắt đầu đổi ý và cuối cùng chịu thua.


Tháng 2-1977, tôi bỏ việc làm cũ để triển khai một tờ báo mới: tờ The Horry Shopper (Horry là tên hạt chúng tôi đang ở). Sau nhiều thử nghiệm và sai sót, ấn bản đầu tiên đã được phát hành. Thật đáng ngạc nhiên: mục xã luận hàng tuần của tôi trên tờ báo rất được chú ý, vì nó không phải là mục bàn những chuyện phù phiếm. Quả thực, ngay những tuần lễ đầu, mục xã luận thường là mục mà độc giả đọc, trước khi vứt tờ báo vào sọt rác.


Dần dà, dân chúng bắt đầu ngóng đợi tờ báo phát hành để được đọc. Họ chận tôi lại trên đường để nói với tôi là họ thích bài xã luận tôi viết tuần qua. Các mục quảng cáo bắt đầu có hiệu quả như tôi đã tiên đoán. Terri với tôi họp lại thành một đội tuyệt vời. Đến cuối năm thứ hai, thì chúng tôi có rủng rỉnh tiền bạc.


Năm 1980 là năm ghi dấu nhiều biến cố xảy ra cho chúng tôi, quan trọng nhất là sự ra đời của con trai chúng tôi, Kennedy. Trong khi đó, công việc làm ăn của chúng tôi tiếp tục phát triển. Chúng tôi xuất bản thêm tờ báo thứ hai, rồi thứ ba và thứ tư. Đến năm 1982, vì thấy chi phí in ấn gia tăng, chúng tôi quyết định trang bị một dàn máy in để tự in lấy. Nó làm chúng tôi phải vét hết tiền trong ngân hàng, nhưng tôi tin là chúng tôi sẽ không bị kẹt lâu đâu. Bây giờ chúng tôi có số phát hành trên 55.000 bản, phủ kín một địa bàn trên 100 cây số quanh tỉnh Myrtle Beach, với 35 nhân viên. Và tuy thường xuyên thiếu tiền mặt, nhưng trên giấy tờ thì chúng tôi xem ra vẫn ngon lành.


Bức tường sau lưng bàn giấy tôi treo đủ thứ bằng khen. Tôi tham gia nhiều câu lạc bộ dân sự, đang là chủ tịch Hội những nhà xuất bản quảng cáo cấp khu vực và là thành viên Ban quản trị cấp quốc gia. Năm 45 tuổi, căn cứ theo các tiêu chuẩn đã được người đời công nhận, cuối cùng, tôi được coi là người thành đạt.

Cuộc sống thật tốt đẹp, tốt đẹp vượt cả những gì tôi dám hi vọng. Thế rồi, một sáng thứ bảy, khi chúng tôi đang làm việc chung với nhau ngoài sân, Terri nói là chúng tôi phải đem đứa con trai, nay đã hai tuổi, đến nhà thờ để chịu phép Thánh tẩy. Trong lòng, tuy phập phồng lo sợ, nhưng bề ngoài, tôi cứ tảng lờ đi, hi vọng nàng sẽ quên việc đó. Nhưng nàng cứ nhấn đi nhấn lại không thôi, rốt cuộc, tôi phải nói: “Này, anh không đi nhà thờ lại, dù chỉ để cho Kennedy được chịu Thánh tẩy. Anh không tin vào nhà thờ. Anh cho đó là giả hình, anh đã chán ngấy nhà thờ cho đến chết”

Không cần biết là tôi đang giận, nàng cứ kiên trì: “Ít ra chúng ta phải đi nhà thờ vì con chứ! Khi lớn khôn, nó có thể tự quyết định.” Nàng cứ từ tốn nói khiến tôi nản lòng.

Rốt cuộc, tôi phải đầu hàng. “Thôi được”, tôi bực bội khua tay nói lớn tiếng, “Vậy chỉ đi đến nhà thờ để con chúng ta được Thánh tẩy, chừng đó thôi, không thêm gì nữa nghe!”

Vợ tôi tìm thấy một nhà thờ Lutêrô cách nhà khoảng hai cây số, nhà thờ có một chương trình học đạo cho trẻ rất tuyệt. Nghĩ đó là nơi lý tưởng cho Kennedy, nàng quyết định cùng đem con đến đó, mà không ngờ rằng gia đình tôi vốn gốc thuộc giáo phái Lutêrô. Việc trước tiên là nàng phải gặp vị mục sư.

Thứ sáu sau đó, khi chúng tôi vừa xong bữa ăn tối thì nghe tiếng chuông cửa reo. Đó là mục sư William Wingard ở nhà thờ Thánh Philip, thuộc giáo phái Lutêrô. Ông cùng với vợ ghé qua thăm xã giao, hi vọng sẽ thuyết phục chúng tôi gia nhập giáo hội của họ.

Tôi nổi nóng. Trong gia đình, chúng tôi có một nguyên tắc cơ bản là dù áp lực có nặng nề đến đâu, chúng tôi cũng không bao giờ thảo luận về công việc trong các ngày cuối tuần, cho dù hoàn cảnh thúc bách mấy đi nữa; và nếu được, chúng tôi tránh làm bất cứ việc gì trong những tối thứ sáu. Đó là một nguyên tắc tốt, thường tỏ ra là một biện pháp độc đáo giúp đầu óc chúng tôi tỉnh táo. Thế mà bây giờ lại có người không hẹn mà đến làm gián đoạn, lại còn để nói toàn chuyện tôn giáo.

Bill Wingard, tối hôm đó, bị rơi vào tổ ong vò vẽ. Ông ta với bà vợ đến chưa được mười phút, thì đã nghe tôi tuyên bố thẳng thừng: Tôi không thích gia nhập giáo hội của ông, bây giờ cũng như mãi về sau. Theo tôi, cuộc viếng thăm của ông ấy chỉ làm phí thời giờ của ông cũng như của tôi. Dầu vậy, tôi mến phục ông ấy vì sự kiên nhẫn, và sự đôn hậu . Ngay sau đó, tôi không ngờ lại nghe thấy chính mình đồng ý đến nhà thờ “đôi ba lần”, cho đến khi Kennedy được chịu phép Rửa. “Nhưng chỉ có thế thôi, chớ đừng mong tôi thay đổi ý kiến”. Được đằng chân lân đàng đầu, trong lần thứ nhất đến nhà thờ, Terri đã năn nỉ tôi đi với nàng đến dự lớp học trường Chúa nhật, dành cho người lớn trước giờ thờ phượng. Rồi tuần kế tiếp cũng vậy. Hầu như chẳng ai thèm nói chuyện với tôi, và tôi tự nghĩ: “Đúng, chẳng có gì thay đổi: nhà thờ vẫn là nơi tụ tập một bọn người giả hình.”

Nhưng đến Chúa nhật thứ ba, tôi phát biểu trong buổi thảo luận của lớp học. Sau đó, có vài người cho tôi biết họ rất thích mục xã luận tuần vừa qua của tôi - do đó, tôi nghĩ: Có lẽ mình đã xét đoán họ quá khắt khe.

Rồi có hai phụ nữ trong lớp học hỏi tôi có muốn dạy một vài lớp không. Làm sao mà tôi từ chối được? “Cái tôi” nó không cho phép điều đó. Chẳng bao lâu, tôi đã đến đó dạy đều đều và còn tham gia ủy ban này, ủy ban kia. Đến khi mục sư Wingard hỏi tôi là ông có thể ghi tên tôi vào danh sách ứng viên Hội Đồng nhà thờ không, tôi liền ưng thuận. Tôi rất ngạc nhiên là mình đã được bầu.

Rất thản nhiên, theo cách thức và thời gian của tôi, tôi nhìn nhận rằng trở lại với nhà thờ là tốt. Và tất cả đều do vợ tôi muốn cho con trai chúng tôi được chịu phép Thánh tẩy. Tôi mỉm cười khi nhớ đến câu Kinh Thánh: “Và một trẻ thơ sẽ dẫn dắt họ...”

Và ngày Chúa nhật – (lẽ nào chỉ mới có bốn ngày trước đây?) – khi đang giảng dạy tại trường Chúa nhật, là chính lúc tôi được nghe nói đến Mễ Du lần đầu tiên...

Lúc từ từ chìm vào giấc ngủ, dường như tôi nghe thấy những lời ấy lần nữa trong lòng tôi: “Con là con của Mẹ, Mẹ xin con hãy làm theo Ý Con Mẹ...”

hoanghac
11-09-2012, 02:49 AM
“Hãy viết về Mễ Du, và nếu con chấp nhận, việc này sẽ trở nên sứ mạng của đời con...”

Chương 5

"Hãy Viết Về Mễ Du ..."

Tôi giật mình thức dậy, cổ tê cứng do tư thế nằm bất cẩn của tôi trên đi văng. Hé mắt nhìn đồng hồ tay, tôi thấy đã gần 6 giờ sáng. Lúc lắc cái đầu, tôi đi vào phòng ngủ sửa soạn đi làm.

Terri dậy sau vài phút, chuẩn bị bữa sáng và đánh thức các con. Tôi đi vào bếp và loay hoay giúp nàng.

- “Này Terri, anh làm gì bây giờ với chuyện đó?”

Nàng nhận thấy là sự việc xảy ra tối hôm qua đến giờ chẳng có gì thay đổi: tôi vẫn khăng khăng là đã nhận được một sứ điệp từ Đức Trinh Nữ Maria. Nàng thở dài nói: “Thôi được, anh cứ đi mà viết về cái đó, rồi chấm dứt nó cho xong đi!”

Tôi chắc chắn đó là việc tôi phải làm, nhưng tôi cần có lời xác nhận của nàng. Và tôi cũng biết là không bao giờ tôi có thể “chấm dứt” cho xong với việc ấy được.

Đến nơi làm việc, tôi nhấp một tách cà phê và bảo Denease, nhân viên tiếp tân, rằng tôi sẽ không trả lời bất cứ cú điện thoại nào, tôi không muốn bị quấy rầy vì bất cứ việc gì. Khóa cửa phòng lại, duyệt qua những điểm đã ghi từ quyển sách và từ cuộn băng vidéo, tôi nhét lẹ một tờ giấy trắng vào máy đánh chữ.

Hai tiếng đồng hồ sau, tôi vẫn nhìn chằm chằm vào tờ giấy ấy. Không phải là tôi đang cuống cuồng lên, vì còn rất nhiều thời gian - hơn hai ngày nữa để viết, nếu cần. Vấn đề không ở chỗ viết cái gì, mà là ngược lại, có quá nhiều điều để viết. Tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: tôi không nên viết và in ra cho công chúng đọc rằng tôi đã nhận một sứ điệp riêng từ Đức Trinh Nữ Maria. Bài viết phải hết sức khách quan, nếu không, dân chúng sẽ nghĩ là tôi đã đi quá trớn. Càng xác tín mình đã lãnh được sứ điệp khó tin đó, tôi càng dè dặt không muốn liều mất uy tín nhà báo của tôi.

Lật lại quyển sách của Linh mục Faricy, tôi bắt đầu ghi thêm nhiều điểm khác, không thể nào viết hết bằng ấy thứ vào trong một bài báo. Một tiếng đồng hồ nữa qua đi, tôi cố gắng khởi đầu bằng cách tả cảnh ngôi làng nhỏ bé có tên Mễ Du ấy. Tôi giật trang giấy ra khỏi máy chữ, vo tròn nó lại và ném vào sọt rác. Nó rơi ra ngoài.

Tôi thử đánh máy lần nữa: “Các bạn có tin vào phép lạ không?” Sau khi nhìn vào tờ giấy trong giây lát, tôi giật mạnh nó ra và vứt vào sọt rác. Nó cũng lại rơi ra ngoài. Bây giờ, tôi bắt đầu phát hoảng. Tôi đã từng kinh nghiệm cái “bí” của nhà văn, nhưng chưa bao giờ như lần này. Tôi ngồi đó, chết lặng đi vì không còn biết viết gì lên giấy. Chính lúc đó, một lần nữa, tôi cảm thấy vang lên trong tôi một sứ điệp. Lần này là một lời khiển trách: “Hãy cầu nguyện thêm và học hỏi thêm!”

Tim tôi nhảy vọt lên, nhưng lần này, cú sốc không đến nỗi mạnh lắm. Thay vào đó là một sự chấp nhận bình thản, dù đôi chút ngập ngừng, được nhẹ nhàng hướng dẫn qua những bước sơ khởi buổi đầu, để thực hiện sứ mạng viết về các biến cố Mễ Du. Chắc chắn sẽ phải viết không chỉ một bài mà nhiều hơn, mới có thể kể toàn bộ câu chuyện. Trong khi đó, rõ ràng là không kịp có bài đầu tiên cho số báo tuần tới. Đơn giản chỉ vì tôi chưa có đủ thời giờ.

Tôi rời văn phòng và bước vào khu vực in ấn, ở đây, viên quản lý nhìn tôi như đang chờ đợi một cái gì. “Này, Smitty!” tôi nói, “Tôi không có bài nào cho tuần sau đâu nhé! Anh nên cho bài khác vào chỗ đó đi.”

Anh ta định phản đối, nhưng tôi đã ngắt lời: “Đúng ra có thể tôi sẽ không có bài nào cả trong nhiều tuần tới.” Rồi tôi bỏ đi trước khi anh có ý kiến.

Biết rằng mình không thể tập trung vào một vấn đề nào khác, tôi quay về văn phòng và điện thoại cho Mary Jeffcoat, hi vọng cô ấy biết nơi nào tôi có thể lấy thông tin về sự kiện hiện ra và câu chuyện Mễ Du. Cô cho tôi cái tên Jim Stoffel, đang sống tại Bắc Myrtle Beach, và thật là ngẫu nhiên, anh sẽ cùng với vợ là Rosie đến Mễ Du vào ngày 1 tháng 11 tới đây. Mary nói thêm: “Jim có một quyển sách khác về Mễ Du, tôi có thể mượn cho anh nếu anh muốn xem.”

- “Cám ơn Mary nhiều, tôi cần nó lắm.”

Tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút - và với tấm lòng phục tùng mệnh lệnh tôi vừa tiếp nhận lúc nãy, tôi cúi đầu xuống và cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con thực tình không biết điều gì đang xảy đến cho con, hoặc tại sao, nhưng con sẽ cố...”

Tôi cảm thấy cầu nguyện như thế có hơi gượng gạo, nhưng lại rất tốt. Tôi quyết tâm hoàn thành điều đã đòi hỏi ở tôi, và nếu có cần vài tuần lễ để nghiên cứu tìm hiểu, thì tôi cũng sẽ làm.

Tối hôm đó, Mary mang đến quyển sách mới, tôi liền đọc ngay. Tác giả Joseph Pelletier là một linh mục Công giáo, đã viết nhiều sách về việc hiện ra tại Fatima. Ngài kể chi tiết về những biến cố nguyên thủy tại Mễ Du, theo quan điểm của một người đã từng điều nghiên các vụ hiện ra khác của Đức Trinh Nữ Maria. Tôi đọc mê mải và chỉ trong hai ngày, tôi đã đọc xong.

Bây giờ, để biết về bối cảnh câu chuyện, tôi cần tìm thêm nhiều tư liệu về những cuộc hiện ra nói chung. Tôi kiếm ở trong sổ niên giám điện thoại để tìm một hiệu sách Công giáo, và đã rất ngạc nhiên vì không thấy có một hiệu sách nào trong khắp bang Nam Carolina. Hiệu sách Công giáo gần nhất là ở Charlotte, Bắc Carolina, cách đây hơn 300 cây số. Tình cờ làm sao, mấy ngày sau đó, tôi lại có việc phải đi Charlotte... Ở đấy, tại một tiệm sách, tôi tìm được một cuốn lịch sử về các vụ hiện ra của Đức Maria có từ thế kỷ 16. Cũng thế, tôi rất hài lòng tìm ra được một sách khác về Mễ Du, do cha Svetozar Kraljevic, một linh mục Croatia, đã từng liên quan trực tiếp đến sự kiện hiện ra ở Mễ Du.

Tôi bắt đầu đọc lịch sử các lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria, và quá đỗi ngạc nhiên khi biết được các vụ đó đã xảy ra trên 1900 năm, tại nhiều nơi mà tôi đã được nghe, nhưng không bao giờ để ý đến. Tại Guadalupe, Mễ Tây Cơ, năm 1531, Bà đã hiện ra với một người da đỏ bộ lạc Aztec, 51 tuổi, tên Juan Diego; năm 1858, Bà đã hiện đến với Bênađêta, một thiếu nữ Pháp, tại Lộ Đức; rồi vào đầu thế kỷ 20 này, cho ba em tại Fatima, nước Bồ Đào Nha. Rồi còn nhiều lần khác: tại Knock, nước Ái Nhĩ Lan, và Garabandal, nước Tây Ban Nha...

Tôi đặt sách xuống, lắc đầu chép miệng. Vậy ra, điều xảy ra tại Mễ Du không có gì là mới lạ. Nhưng tôi có ghi rõ (trong sổ tay): chưa bao giờ Bà lại hiện ra một cách liên tục, lâu dài và cho nhiều trẻ thị nhân cùng một lúc như thế.

Sách của linh mục Svetozar Kraljevic, cho đến nay, là quyển sách hay nhất về các vụ hiện ra tại Mễ Du, hay hơn tất cả các sách khác (chỉ kể đi kể lại những chi tiết của những ngày đầu) ở chỗ ông còn thêm vào các chi tiết ấy một vẻ thiêng liêng, nó diễn tả rất sát với những tâm tình tôi đã có, khi khám phá ra phép lạ này. Lời văn của ông bình dị và trực tiếp, khiến bạn phải dừng lại để suy nghĩ và hình dung đến những gì đang xảy ra ở ngôi làng nhỏ bé ấy. Chỉ có một đoạn ngắn ở bìa lưng cuốn sách giới thiệu linh mục dòng Phanxicô đó, vậy mà ngay lập tức, tôi đã cảm thấy gắn bó với ông.

Cuối cùng, tôi thấy tôi đã sẵn sàng để viết về Mễ Du. Thời gian nghiên cứu chiếm gần hết tháng 11, nhưng không phải thời gian uổng phí. Do tính cách sâu rộng của câu chuyện, tôi quyết định viết luôn một loạt bốn bài, và cho ra mắt độc giả trong suốt tháng 12, với hi vọng kết thúc đúng vào lễ Giáng Sinh.

Tôi vội vàng trở lại văn phòng, dặn Denease lần nữa là đừng để ai quấy rầy tôi. Vừa đút tờ giấy vào máy đánh chữ, tôi thấy thôi thúc muốn cầu nguyện: “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài về việc này”, tôi thầm thĩ: “Xin Chúa giúp đỡ con trong những gì con phải làm.”

Ý tưởng đến với tôi khi tôi cần, và mấy ngón tay lướt bay trên bàn phím của máy đánh chữ khi tôi khởi sự bài báo thứ nhất:

Ngày 4-12-1985

Phép lạ tại Mễ Du

Phần 1 : Những cuộc hiện ra

Trong vòng bốn tuần lễ tới của tháng 12, tôi sẽ cố gắng kể cho các bạn, một cách trung thực nhất, về một biến cố được coi là đang xảy ra tại một ngôi làng nhỏ bé, giữa vùng đồi núi thuộc miền Trung nước Nam Tư. Đó là một biến cố tôn giáo siêu nhiên, nên chắc chắn sẽ bị nhiều người nhìn nó với con mắt hoài nghi. Quả thật, vì đây lại là vùng Công giáo toàn tòng, nên càng bị nghi ngờ hơn nữa.

Đã hẳn, nếu chính cá nhân tôi không tin rằng có một việc quan trọng đang xảy ra ở nơi đó, thì tôi sẽ không bao giờ viết về nó. Tuy nhiên, xin nói ngay từ đầu: Tôi không có ý định tuyên truyền để người ta theo đạo Công giáo, vì chính tôi không phải là người Công giáo; tôi cũng không định tuyên truyền để người ta tin vào Thiên Chúa. Hãy để cho mỗi người tự quyết định về nhu cầu của mình dựa trên các thông tin Phần tôi, tôi chỉ muốn tặng các thông tin này cho các bạn nhân dịp Noel thôi.

Từ bốn năm rưỡi nay, Mễ Du, một ngôi làng nhỏ bé tại vùng đồi núi miền Trung nước Nam Tư, đã lôi kéo sự chú ý của thế giới như là nơi mà Thân Mẫu Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria, được cho là đã hiện ra mỗi ngày cho sáu thiếu niên nam nữ. Khi tôi viết bài này, những cuộc hiện ra được báo là vẫn tiếp diễn hằng ngày. Mặc cho những nỗ lực từ phía nhà cầm quyền, nhằm gây hoang mang trong dân chúng về tính xác thực của sự việc này và cản trở người ta tới nơi hiện ra, hằng triệu người đã và đang đổ xô đến đó, để được tai nghe mắt thấy điều đang xảy ra. Nam Tư dĩ nhiên là một nước Xã hội Chủ nghĩa, không công nhận một tôn giáo nào, cũng không tin sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng dân chúng lại đa số là Công giáo, nên Nhà nước bất đắc dĩ đành cho phép họ làm việc thờ phượng bên trong các nhà thờ mà thôi.

Theo chứng của mấy trẻ, gọi là thị nhân, sứ điệp của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc thì đơn giản và rõ ràng: Người hiện đến với các thị nhân, để nói cho thế giới hãy mau kíp quay về với đường lối Thiên Chúa, hoán cải lối sống của mình mà giao hòa với Thiên Chúa và với đồng loại. Bà sẽ trao cho mỗi thị nhân mười sứ điệp – hoặc “bí mật” - về những gì sẽ xảy đến trên thế giới một ngày rất gần. Những sứ điệp (hay bí mật) đó sẽ là những dấu trông thấy được, cho nhân loại biết là sự kiện hiện ra tại Mễ Du thì có thật, và việc trở lại với Thiên Chúa phải được bắt đầu từ bây giờ. Khi Bà thôi hiện ra với các thị nhân - lúc nào, thì chỉ có sáu em đó biết thôi - sẽ có một Dấu lạ trường kỳ để lại tại Mễ Du. Dấu lạ ấy sẽ khởi phát nhiều việc chữa lành bệnh tật và nhiều cuộc hoán cải trong thời gian ngắn ngủi còn lại, trước khi các bí mật được thực hiện .

Theo lời các em thị nhân, con đường dẫn đến hối cải là cầu nguyện và ăn chay. Từ những lần hiện ra đầu tiên ngày 24-6-1981, các em thị nhân dành 4 giờ mỗi ngày để cầu nguyện, hoặc có khi hơn; các em ăn chay ba lần mỗi tuần với bánh mì và nước lã.

Cho những ai có tính hoài nghi trước một sự kiện như thế, khoảng cách về tuổi của sáu thiếu niên tại Mễ Du là một điều đáng chú ý. Lúc ban đầu, em nhỏ nhất chỉ mới có 10 tuổi, một em khác 15 tuổi, ba em 16 tuổi và em lớn nhất 17 tuổi. Bốn gái và hai trai.

Các thiếu niên được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra này là ai? Chúng là những trẻ bình thường, chỉ khác nhau (như tôi đã nói) ở tuổi tác và cá tính. Tất cả các em đều có trí thông minh trung bình, chỉ trừ Mirjana Dragicevic, em thứ ba trong các em có tuổi lớn nhất, thì đang học Đại học Sarajevo, nơi gia đình em hiện đang sống.

Marija Pavlovic, một trong mấy đứa lớn nhất trong nhóm, có chiều cao trung bình, thân hình mảnh mai, là thị nhân điềm tĩnh nhất và có đời sống thiêng liêng sâu sắc nhất. Em dự định trở thành nữ tu.

Vicka Ivankovic, em lớn tuổi hơn cả, cũng dự định đi tu. Em có thân thể khỏe mạnh, gương mặt rất biểu cảm. Em là người thu hút nhất trong nhóm, nhưng không hề có vẻ gì “làm bộ” cả.

Ivanka Ivankovic, trẻ nhất trong bốn cô gái, là thiếu nữ duy nhất trong nhóm có dự định kết hôn. Em xinh xắn nhất và có dáng dấp gái choai choai thời đại, nhưng đạo đức lại rất vững vàng.

Ivan Dragicevic, lớn nhất trong hai cậu con trai, ước ao làm linh mục. Cậu có tính nhút nhát, thích kín đáo nhất trong nhóm và luôn có vẻ nghiêm trang, trầm ngâm.

Thị nhân trẻ tuổi nhất, sinh động nhất, nay đã 13 tuổi, là Jacov Colo. Khi các cuộc hiện ra bắt đầu, em mới có 10 tuổi. Cũng như các thị nhân khác, em hoàn toàn bình thường.

Sự hiện diện của bé trai (Jacov) hiếu động này trong nhóm thị nhân, nói lên sự xác thực của các cuộc hiện ra. Cứ so sánh em này với con hay em trai ta cùng tuổi đó: thật rất khó lòng mà nó chịu đi nhà thờ cầu nguyện từ hai đến ba giờ mỗi ngày, mùa hè cũng như mùa đông, trời tốt cũng như trời xấu, đằng đẵng suốt bốn năm trời, chỉ để làm cho người ta tin rằng nó đã thấy một sự hiện ra thánh thiêng từ Thiên Chúa.

Chỉ cần lấy lứa tuổi và tính nết của các thị nhân cũng như tính cách liên tục, bền bỉ của các lần hiện ra cho các em, thì cũng đủ làm bằng chứng về một sự gì đó hết sức phi thường đang diễn ra.

Có quá nhiều điều để nói về Mễ Du. Có lẽ một trích đoạn dưới đây từ một báo cáo trình lên Đức Giáo Chủ, do yêu cầu của Đức Maria (theo lời các em), sẽ tóm tắt phần này tốt nhất. Một linh mục Công giáo tên Tomislav Vlasic, người đã liên quan đến sự kiện hiện ra từ những ngày đầu, được Mirjana yêu cầu làm việc này.

Sau đây là một đoạn trong báo cáo ấy của linh mục:

Theo lời Mirjana, trong lần hiện ra ngày 25-12-1982, Đức Mẹ trao cho em bí mật thứ mười, cũng là bí mật cuối cùng, và cho em biết ngày tháng sẽ thể hiện các bí mật đó. Đến lúc này thì Đức Trinh Nữ tiết lộ cho Mirjana nhiều khía cạnh của tương lai hơn, so với các em thị nhân kia cho đến bây giờ. Vì lý do đó, con xin tường trình những gì Mirjana đã nói với con, trong lần nói chuyện hôm 5-11-1983. Con nói tóm tắt những điều chính yếu em đã nói mà không trích dẫn nguyên văn.

Mirjana nói: “Trước khi Dấu chỉ hữu hình được ban cho nhân loại, sẽ có ba cảnh báo cho thế giới. Những cảnh báo này sẽ xảy đến trên mặt địa cầu, Mirjana sẽ làm chứng về chúng. Ba ngày trước khi xảy ra một trong những cảnh báo đó, em sẽ báo cho một linh mục do em chọn. Chứng tá của Mirjana sẽ là một xác nhận sự kiện hiện ra là thật và là sự thúc giục người ta ăn năn hối cải. Sau ba lần cảnh báo này, một Dấu chỉ hữu hình sẽ được ban cho toàn nhân loại tại địa điểm hiện ra ở Mễ Du. Dấu chỉ đó sẽ được ban ra, như một xác minh về sự kiện hiện ra và như một lời kêu gọi loài người trở lại với đức tin.

Bí mật thứ chín và thứ mười gồm những chuyện nghiêm trọng. Đó là những trừng phạt tội lỗi của thế giới. Trừng phạt không thể nào tránh khỏi, bởi chúng ta không trông mong có sự hối cải của cả thế giới. Hình phạt có thể được giảm bớt nhờ lời cầu nguyện và đền tội - nhưng không thể bỏ hẳn. Mirjana nói: Có một tai họa đe dọa thế giới theo bí mật bảy, đã được giảm bớt nhờ cầu nguyện và ăn chay. Bởi vậy, Đức Trinh Nữ liên tiếp kêu gọi cầu nguyện và chay tịnh: “Các con đã quên là với cầu nguyện và chay tịnh, các con có thể chặn đứng chiến tranh và làm đình chỉ các định luật thiên nhiên”.

Sau cảnh báo đầu tiên, các cảnh báo khác sẽ xảy ra tiếp theo trong một thời gian ngắn, đủ để người ta có thời giờ mà hối cải.

Đây là thời gian ân sủng và hối cải. Sau Dấu chỉ hữu hình, những người còn sống sẽ chỉ có ít thời gian để ăn năn hối cải. Chính vì lý do đó mà Đức Trinh Nữ Diễm Phúc kêu gọi loài người hãy cấp bách ăn năn hối cải và làm hòa với Thiên Chúa.

Lời kêu gọi cầu nguyện và đền tội có mục đích đẩy lui cái ác và chiến tranh, và nhất là để cứu các linh hồn.

Theo lời Mirjana, chúng ta đang gần kề những biến cố đã được Đức Trinh Nữ tiên báo. Vì vậy, Mirjana nói với nhân loại: “Hãy mau mắn ăn năn hối cải càng sớm càng tốt! Hãy mở lòng ra với Thiên Chúa!”

Cha Vlasic cho thêm một số thông tin liên quan đến các bí mật, nhân một cuộc phỏng vấn thu băng vào tháng 8-1983: “Các thị nhân nói rằng: một khi các bí mật mà Đức Mẹ đã ủy thác cho các em được thực hiện, cuộc sống trên thế giới sẽ thay đổi. Sau đó, nhân loại sẽ tin như thời xưa. Cái gì thay đổi và thay đổi như thế nào, chúng ta sẽ không biết được cho đến khi các bí mật được tiết lộ.”

Những dòng chữ ngắn ngủi trên này bao hàm rất nhiều điều về các biến cố phi thường tại Mễ Du. Còn việc những sự đó có xác thực hay không, đó là tùy mỗi người chúng ta quyết định lấy.

* * *

Tôi ngả đầu ra phía sau, rồi duỗi người ra. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, cũng bằng với thời gian như khi tôi ngồi thẫn thờ vài tuần trước đây, đăm đăm nhìn vào tờ giấy trắng nguyên si, không viết được chữ nào. Lần này, hình như không lâu bằng. Tôi không thể nhớ mình đã từng bao giờ viết được cái gì một cách dễ dàng như thế.

Cầm xấp giấy đi vào khu in ấn, tôi báo cho Smitty biết bài này và ba bài sau sẽ đăng dài hơn bình thường. Thế rồi, tôi đóng cửa văn phòng và trở về nhà.

hoanghac
11-14-2012, 03:33 PM
“Các con hãy cầu nguyện liên lỉ, và bằng cách đó, Mẹ sẽ ban cho các con niềm hân hoan mà Thiên Chúa ban cho Mẹ...”

Chương 6

CÔNG VIỆC BẮT ĐẦU LAN RỘNG

Nhưng giờ đây, khi đang lái xe trên đường về nhà, những tư tưởng tiêu cực về tác dụng của bài viết về một đề tài tôn giáo bất thường đó bắt đầu tấn công tôi. Việc đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín nhà báo của tôi ra sao? Mà thật ra, tôi có được chút uy tín nào không? Tôi khá ngạc nhiên thấy mình mới vừa hớn hở, phấn khởi vì đã hoàn thành được bài thứ nhất, giờ đây lại hoang mang tột độ, vì không biết mình có làm đúng hay không khi viết lại sự kiện ấy.

Khi về đến nhà, tôi chắc chắn mình đã phạm sai lầm. Sự bình an và niềm hân hoan thiêng liêng, do sứ điệp tôi đã lãnh được, đang bị đè bẹp bởi lo toan của cuộc sống thực tế hằng ngày. Tôi ngồi xuống với Terri, nói với nàng về nỗi lo âu của tôi, khi xuất bản những gì tôi đã cất công miệt mài nghiên cứu suốt một tháng qua. Như mọi lần, nàng có ngay những lời nói hợp tình hợp lý: “Coi kìa, anh đã viết về Mễ Du rất khách quan, và anh thực sự cảm thấy được kêu gọi để làm việc đó. Vậy hãy nghe theo con tim mà làm đi. Sẽ không có ai cười chê anh đâu! Đó là câu chuyện hấp dẫn, và em thích những gì anh đã làm đó.” Nàng vừa nói vừa vỗ nhẹ vào mấy trang bản thảo mà tôi đã đưa về nhà cho nàng sửa lại trước khi in.

Tôi quyết định cho ra mắt độc giả, nhưng trong ba ngày trước khi báo lên khuôn, vào chiều thứ hai, tôi đổi ý kiến đến 12 lần. Một khi đã in rồi thì hết đường thu lại.

Trong thời gian này, khi giảng dạy tại trường Chúa nhật, tôi nhất mực giữ đúng theo chương trình giáo huấn của Nhà thờ Tin Lành Lutêrô. Không đá động lời nào đến Mễ Du. Chúa nhật sau ngày tôi đã nhận sứ điệp, tôi nói với Becky Ginley là tôi cảm động sâu xa bởi những gì đang xảy ra ở Mễ Du, từng đó thôi, chứ tôi không đi vào chi tiết.

Vì có mối liên hệ với mục sư Wingard và mục sư phụ tá, Dick Albert, tôi đem chuyện này ra trao đổi với họ, mà không đề cập gì đến sứ điệp riêng tôi đã nhận từ Đức Trinh Nữ Maria. Bill Wingard liền gạt đi, coi đó là một “trò Công giáo”, khi ông trích dẫn thần học Lutêrô, và nêu ra những vấn đề trong Giáo Hội Công giáo, vốn đã dẫn đến phong trào Cải cách và mở đầu cho Giáo Hội Tin Lành xuất hiện. Và đương nhiên, ông cũng nhắc đến “việc tôn thờ Bà Maria”. Đây không phải là lần cuối cùng tôi được nghe những điều này.

Mục sư Albert, dù hết sức thận trọng, cũng không kìm nổi tánh hiếu kỳ. Ông chấp nhận đến dự buổi nói chuyện tổ chức tại Nhà thờ Công giáo ở Bắc Myrtle Beach, để nghe Jim và Rosie Stoffel vừa mới đi hành hương Mễ Du về. Becky Ginley, Mary Jeffcoat, Terri và tôi đã gặp ông tại đấy ngay trước giờ thuyết trình. Xúc động và hài lòng vì ông chịu đến nghe, tôi hăng hái thổ lộ với ông: tôi thực tình tin Đức Trinh Nữ Maria đang hiện ra ở đấy như thế nào.

- “Tôi cũng muốn tin điều đó”, ông nói thận trọng, lựa từng lời, “Nhưng thành thực mà nói, tôi sẽ có xác tín hơn, nếu được thấy bằng chứng chắc chắn, như hình ảnh chẳng hạn.


Những bóng mờ lô nhô ở mé dưới hình bóng Đức Mẹ là các người hành hương đang tụ tập ở đó cầu nguyện. Họ có biết Đức Trinh Nữ Maria đang hiện diện giữa họ không?
Tôi sửng sốt khi thấy giữa buổi diễn thuyết, Jim cho chuyền tay một hình chụp cây Thập Giá khổng lồ bằng xi măng dựng trên núi Krizevac, sau lưng Nhà thờ Mễ Du. Cạnh bên Thập Giá, người ta thấy hình ảnh lờ mờ một bóng hình có vẻ là một phụ nữ, đầu đội khăn voan, đôi tay chắp lại cầu nguyện. Nghe nói cái hình đó do một khách hành hương chụp cây Thập Giá, đến khi rửa phim thì lại thấy hiện lên cái hình bóng bí ẩn này(3). Tôi chăm chú ngó mục sư Albert, khi ông đang xem xét tấm ảnh: “Tấm hình không rõ lắm...”, ông nói.

Qua phản ứng của mục sư phụ tá, tôi thấy rõ một điều: tôi sẽ gặp rắc rối, khi nỗ lực làm cho người ta tin rằng tôi còn có một cái gì gây sửng sốt hơn mấy tấm hình. Nếu tôi kể cho họ nghe rằng Đức Maria thực sự đã nói với tôi và yêu cầu tôi lấy việc loan truyền sứ điệp của Bà làm sứ mệnh của đời tôi, có ai tin tôi chăng?

Sáng hôm sau, khi vào làm việc, tôi thừ người ra vì lo âu. Đến sáng ngày thứ ba, tình trạng còn tệ hơn. Tôi liền đi ngay đến phòng in, lấy một bản của tờ báo Lake City của chúng tôi vừa mới in xong. Tôi mở ra xem bài xã luận của tôi; nó sặc mùi tôn giáo, nhưng trễ quá rồi, không sửa đổi gì được nữa. Bây giờ thì nó đã ở ngoài tầm kiểm soát của tôi. Chẳng có thể làm gì để thay đổi điều không thể tránh khỏi. Lúc ba giờ chiều, báo sẽ được đưa đến bưu điện để phát hành ngày hôm sau.

Thứ tư, 4-12-1985, thời tiết báo hiệu một ngày tươi sáng và nắng ấm - hình như nó muốn chế diễu tâm trạng tồi tệ của tôi. Tôi nói khi bước vào phòng: “Này Denease, cô chuẩn bị mà nghe những tên khùng sắp gọi đến tới tấp đó!”

Quả đúng như vậy, vài phút sau, cô ấy trở vào và nói: “Rồi, đây là người thứ nhất, một ai đó ở Lake City”, rồi cô chỉ vào máy điện thoại: “Anh chàng này vừa cười vừa khóc, tôi không hiểu được anh ta đang nói gì! Nhưng anh ta nhất định đòi được nói chuyện với ông!”

- “Hết xẩy!” tôi lẩm bẩm.

- “Tập quen dần đi ông chủ ơi!” cô phá lên cười, “Tôi chắc là ông sẽ còn phải nghe nhiều lắm đấy!”

Cô đi ra, tôi hít một hơi dài và nhấc điện thoại lên: “Allô!”

- “Có phải là Wayne Weible đấy không, người viết về Mễ Du đó?”

- “Vâng, chính tôi đây!”

- “Tốt quá! Ngợi khen Chúa Giêsu! Tôi vừa tạ ơn Chúa cho ông! Xin Chúa chúc lành cho ông!” Ông ta tiếp tục đều đều như thế, trong khi tôi nhìn sững sờ vào ống nghe. Cuối cùng, ông ta ngừng lại lấy hơi rồi thong thả nói: “Để tôi giải thích cho ông nghe. Tôi tên Scotti, linh mục Sylvester Scotti, tôi là một trong số 100 linh mục Mỹ đến Mễ Du vào tháng 10 năm ngoái. Tôi được đánh động rất nhiều bởi những gì đang xảy ra tại đó, đến nỗi khi trở về nhà, tôi liền đến các hãng báo chí, truyền hình và đài phát thanh lớn ở Nam Carolina, nhưng không một ai đề cập đến chuyện đó. Phải, không ai hết! Rồi sáng nay, tôi ra mở hộp thư, ở đấy, tôi thấy có tờ báo nhỏ, trong đó là bài viết của ông nói về Mễ Du.” Rồi ông ấy lại khóc: “Xin lỗi, tôi xin lỗi, nhưng ông không sao hiểu nó đã tác động đến tôi như thế nào đâu!”

Tôi không biết phải nói gì, chỉ cảm thấy một nỗi xúc động dâng lên trong lòng...

- “Thứ lỗi cho tôi!”, ông ấy nói với giọng bình tĩnh hơn, “Chắc ông tưởng là tôi điên. Không đâu, tôi chỉ là một người Ý thôi!” Cả hai chúng tôi cùng cười.

- “Không, tôi không nghĩ là ông điên. Tôi chỉ bỡ ngỡ về điều ông đang nói với tôi. Tôi thực sự không mong đợi hồi âm tích cực đến thế...”

Rồi chúng tôi trò chuyện - đúng hơn, ông linh mục ấy nói phần lớn. Ông kể cho tôi nghe làm sao ông và các linh mục khác đã có mặt ở tầng hầm nhà xứ, lúc Đức Trinh Nữ Maria hiện ra ở đó với các thị nhân, và trao cho các em một sứ điệp đặc biệt cho các linh mục. Cha Scotti là một linh mục được gọi là linh mục Thánh Mẫu, nghĩa là người hoàn toàn tận hiến cho Đức Trinh Nữ Diễm Phúc. Ông đã đi viếng hầu hết các đền thờ, nơi mà Đức Bà đã hiện ra trong vòng năm thế kỷ qua. Chúng tôi hẹn vài ngày nữa sẽ gặp nhau lại để nói chuyện nhiều hơn.

Đặt ống nghe xuống, tôi đứng lên khóa cửa rồi ngồi vào bàn giấy và để hai dòng lệ tuôn trào. Tôi nhận ra là việc này chứng tỏ bài viết của tôi phải được phát hành. Bên trong tôi như có tiếng nói: “Con thấy chưa?”

Tôi vẫn còn bồi hồi, khi tôi đến phòng làm việc của Terri để kể cho nàng về sự việc mới xảy ra.

- “Lại có vấn đề gì rồi sao?” cô kêu lên khi nhìn thấy vẻ mặt tôi.

- “Cái bài báo của anh ấy mà. Anh vừa nhận được cú điện thoại...”, tôi nghẹn lời không nói được. Sau cùng, tôi phải cố gắng lấy lại bình tĩnh để kể cho nàng nghe về Cha Scotti. Rồi tôi kết luận: “Cái gì xảy ra bây giờ anh cũng cóc cần. Thật rất đáng giá.”

Nàng mỉm cười: “Tuyệt vời!”

Denease báo cho tôi lúc tôi trở lại phòng làm việc: “Thêm ba người gọi nữa và họ còn xin bản sao. Tôi phải làm sao đây?”

- “Trời ơi, cô cứ gởi bản sao cho họ đi! Cái đó đâu có tốn kém bao nhiêu, một con tem với một phong bì chứ mấy!”

Rồi thêm nhiều cú điện thoại nữa, người thì khen ngợi, kẻ vì hiếu kỳ hoặc lo lắng muốn biết sẽ có bài tiếp theo nữa hay không. Khi tôi đến ngân hàng chiều hôm đó, các nhân viên xúm lại hỏi chuyện tôi, bảo rằng họ rất thích những gì đang xảy ra tại ngôi làng nhỏ bé đó.

Một người trong bọn họ nói: “Anh biết không, chúng tôi không nghi ngờ chút nào việc đó là do Thiên Chúa.”

Tôi hỏi: “Cô là người Công giáo à?”

- “Anh nói giỡn sao? Chúng tôi đều là tín đồ Báptít!”

Tôi bật cười; cái này vượt quá sự ước mong của tôi. Đến cuối ngày, chúng tôi đã nhận được hơn một tá cú điện thoại.

Cho tới nay, chưa có bài báo nào của tôi lại gây ra được nhiều phản hồi đến thế. Tiếp theo sau là những lá thư bắt đầu dồn dập tới.

Thường thì tôi hoãn đến phút chót, tức là ngày thứ sáu mới viết bài, nhưng đến thứ năm, với các ý tưởng đầy ắp trong đầu và đã sẵn sàng đến nỗi tôi quyết định viết phần thứ hai sớm hơn một ngày. Lần này, tôi phác họa một đại cương để theo, nhưng sau đó lại xé đi, vo tròn và liệng vào sọt rác. Tôi dâng một lời nguyện vắn tắt, để xin ơn trên hướng dẫn cho biết việc phải làm... và tôi nhận thấy cầu nguyện như vậy thật dễ chịu.

Tôi cầm lấy quyển sách của Cha Svetozar. Người ta thường hỏi: “Thật ra, các thị nhân được phán bảo điều gì?” Thế thì tại sao lại không nói cho họ biết? Một lần nữa, mười ngón tay tôi lại lướt như bay trên bàn phím máy đánh chữ...

Ngày 12-11-1985
Phần 2: Cuộc đàm thoại với Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu


Đây là bài thứ hai trong loạt bốn bài (hay bốn phần) đặc biệt mà tôi viết cho mùa Giáng Sinh. Sự quan tâm các bạn đọc dành cho bài phần thứ nhất đã rất tốt và tích cực. Vì tính chất siêu phàm của biến cố tôn giáo, tôi xin lược thuật vài điều trong bài báo kỳ trước.

Trước hết, riêng tôi cảm thấy có điều gì đó... rất quan trọng và có ý nghĩa đối với tất cả mọi người, bất luận thuộc tôn giáo nào, đang xảy ra tại Mễ Du...

Sau đây, xin trích đăng vài đoạn chọn lọc, từ những cuộc nói chuyện giữa các thị nhân với Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, do chính các em kể lại:

Nhân lần hiện ra chiều thứ tư, sau lần hiện ra đầu tiên vào ngày 24-6-1981, Ivanka hỏi Bà tên gì. “Ta là Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc”, Bà đáp. Sau đó, Vicka nói: “Nếu Bà là Đức Mẹ, xin hãy ở lại; nếu không, hãy đi đi!” Bà đã cười và ở lại.

Vicka hỏi: “Tại sao Bà đến?” Bà đáp: “Ta đến vì ở đây có nhiều tín hữu tốt. Ta muốn ở với các con, để hoán cải và hòa giải tất cả mọi người.”

Một lúc sau, cũng trong cuộc hiện ra ấy, một thị nhân khác, Marija, thấy Bà khi em này đang trên đường xuống khỏi ngọn đồi nơi Bà đã hiện ra lúc nãy. Em dừng ngay lại, rẽ về bên trái và quỳ phục xuống. Em kể: “Đức Mẹ đang đứng đàng trước một cây Thập Giá, mắt đẫm lệ. Mẹ lặp đi lặp lại nhiều lần: “Hòa bình, hòa bình, hòa bình, hãy hòa giải với nhau.”

Nhiều lần trong các cuộc hiện ra, Bà nói hướng về dân chúng: “Hãy tin như thể chính các con được thấy vậy.”



Ngày 29 tháng 6, các thị nhân xin Bà chữa lành cho một bé trai (Daniel) hai tuổi rưỡi bị câm và bại liệt. Jacov thuật lại lời đáp của Bà: “Cha mẹ em đó hãy tin và con trai họ sẽ được chữa lành.” Đến chiều tối, đang trên đường về nhà, họ dừng lại ở một quán ăn, bỗng đứa bé câm đập tay lên bàn và nói: “Con muốn uống nước.” Từ đó, em nói và đi được.

Bà đã dạy cho nhiều người khác cầu nguyện, ăn chay và xin với Chúa Giêsu chữa lành các bệnh tật của họ. Theo lời của dân chúng ở đây, nhiều người đã được lành bệnh. Một lần nữa, cũng về vấn đề chữa lành, Đức Maria nói với các thị nhân: “Ta không thể chữa lành, chỉ mình Thiên Chúa có quyền phép ấy. Ta cần lời cầu nguyện và hi sinh của các con để giúp Ta.”

Bà nói tiếp (khi khẩn trương nói về sự cần thiết phải ăn năn hối cải): “Điều duy nhất mà Ta muốn nói là: “Hãy hối cải!” Ta nói với các con điều này, để các con nói lại cho toàn thể thế giới. Ta chỉ xin mọi người hãy ăn năn hối cải. Hãy sẵn sàng cho mọi sự và hãy hối cải. Hãy vất bỏ những gì cản trở các con ăn năn hối cải.”

Về việc cầu nguyện và đức tin, Bà nói: “Chớ gì họ (những người ở Mễ Du và những người đến viếng đây, kể cả những người nghe nói về Mễ Du) hãy tin như là chính họ được thấy; hãy tin vững vàng. Có nhiều tín hữu không cầu nguyện; đức tin không sống được nếu thiếu sự cầu nguyện.”

Khi các em hỏi, theo yêu cầu của một linh mục, người ta nên cầu nguyện với Đức Giêsu hay với Đức Maria, Bà đáp: “Xin hãy cầu nguyện với Đức Giêsu. Ta là Mẹ của Ngài và Ta chuyển cầu với Ngài cho các con. Nhưng mọi lời cầu nguyện đều dâng lên Đức Giêsu. Ta sẽ giúp đỡ các con: Ta sẽ cầu nguyện cho các con, nhưng tất cả mọi sự không tùy thuộc vào Ta. Nó tùy nơi sức mạnh của các con, sức mạnh của những người cầu nguyện.”

Về câu hỏi tại sao Bà lại chọn hiện ra ở Mễ Du: “Ta đã đặc biệt chọn giáo xứ này. Ta muốn bảo vệ các con và hướng dẫn các con trong Tình Yêu. Và bởi đó, Ta xin toàn cả giáo xứ hãy ăn năn trở lại, để khách hành hương tìm thấy ở đây một nguồn ơn hối cải.” Trong khi ban sứ điệp này, Bà cũng yêu cầu họ đọc lại một đoạn đặc biệt, trích từ Tin Mừng Thánh Matthêô, chương 6, câu 24 đến 34. (Đoạn này nói về sự tin cậy vào Chúa Quan phòng săn sóc mọi người).
Jelena, 10-11 tuổi, lúc em được Đức Mẹ bắt đầu phán bảo trong nội tâm.



Trong Tuần Thánh, đặc biệt vào năm 1984, Đức Trinh Nữ Maria nói với giáo xứ qua em Jelena, một em được “thụ khải” (tức là chỉ được nghe tiếng Đức Mẹ phán bảo trong nội tâm):

“Các con hãy giang tay lên và mở lòng ra. Giờ đây, vào lúc Chúa sống lại, Ngài muốn ban cho các con một quà tặng đặc biệt, đó là: Các con sẽ trải qua nhiều thử thách một cách bình an. Chúng Ta (Chúa Giêsu và Đức Mẹ) sẽ ở bên các con và sẽ chỉ lối thoát cho các con, nếu các con chấp nhận Chúng Ta. Đừng nói rằng: Năm Thánh đã hết và không cần cầu nguyện nữa! Trái lại, hãy tăng cường cầu nguyện, vì Năm Thánh chỉ là bước tiến về phía trước.” Sau đó, Jelena cho biết là em được thấy Chúa Giêsu sống lại, với một luồng ánh sáng từ các vết thương của Ngài chiếu tỏa xuống dân chúng. Chúa Giêsu nói: “Hãy nhận lấy các ân phúc của Ta, và nói với toàn thể thế giới là hạnh phúc chỉ có được từ nơi Ta.”

Một điểm cuối cùng của phần viết trong loạt bài này là: Ngày nay, toàn bộ giáo xứ Mễ Du - dĩ nhiên trừ một số ít - tham dự các buổi thờ phượng ở Nhà thờ hằng ngày, các việc này thường kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ. Phép lạ lớn nhất và được coi như là một sự kiện đã được chứng thực, đó là sự hoán cải của toàn thể cộng đoàn giáo xứ, vốn đã trung thành, nếu xét theo những chuẩn mực của ta ngày nay.

* * *

Lần này thì tôi rất sẵn sàng để trả lời cho mọi người. Bất cứ nơi nào tôi đặt chân đến - siêu thị, cây xăng, câu lạc bộ - đâu đâu người ta cũng nói về mấy bài báo của tôi. Một số đông xin tôi các bản sao của bài thứ nhất, vì họ chưa được đọc - hoặc của cả hai bài, để họ có thể chuyền cho người khác xem. Hầu như suốt cả tuần ấy, tôi sống như bay bổng trên mây.

hoanghac
11-18-2012, 04:11 AM
“Bằng sự chay tịnh, các con sẽ cho Mẹ niềm vui để thực hiện các kế hoạch của Thiên Chúa...”

Chương 7

VÀ TIẾP TỤC...
Lần này, tôi không muốn đợi đến thứ sáu mới bắt đầu viết phần thứ ba; tôi chỉ đợi được đến thứ năm thôi! Tôi nhận được đủ thứ câu hỏi: thế nào, tại sao... và tôi quyết định để chính các thị nhân trả lời cho họ. Một trong những yếu tố vững vàng nhất trong cuốn sách của Cha Svetozar, là những cuộc phỏng vấn các em, do tác giả và một linh mục khác, cha Tomislav Vlasic, thực hiện.

Trong phần ba này, tôi muốn nêu nổi bật hai nhân vật đã cùng nhau làm nên một việc rất thú vị, đó là trả lời giùm cho các câu hỏi mà tôi đang nhận được rất nhiều.

Ngày 18-12-1985
Phần 3: Phỏng vấn các thị nhân


Mới đó mà hai tuần lễ đã trôi qua, từ khi tôi bắt đầu phát hành loạt bài báo đặc biệt tường thuật việc Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đang hiện ra cho một nhóm thiếu niên ở Nam Tư.

Các bài báo này đề cập đến một đề tài khó viết nhất mà tôi đã từng thử trong đời ký giả, nhưng nếu xét trên quan điểm đã làm được một điều gì xứng đáng, thì đó lại là loạt bài làm tôi hài lòng nhất. Về phương diện nghề nghiệp, tôi muốn độc giả xem đây là một việc thông tin khách quan: còn cá nhân tôi, tôi muốn nó gợi lên nơi bất cứ ai đọc nó, ý muốn củng cố mối quan hệ của họ với Thiên Chúa và với đồng loại. Đó là mục đích sự xuất hiện những trang viết này, nhân dịp lễ Giáng Sinh.

Tuần này, chúng ta đề cập đến hai cuộc phỏng vấn hai trẻ thị nhân. Những câu đáp được lấy trực tiếp từ băng ghi âm cuộc nói chuyện với chúng. Tôi tự ý bỏ bớt vài phần, để có thể cho trích đăng càng nhiều càng tốt những bài phỏng vấn ấy.

Trích từ sách “Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ ở Mễ Du”, của linh mục Svetozar Kralijevic - dòng Phan Sinh :
Cha Vlasic phỏng vấn Mirjana

Cha Vlasic: Mirjana, chúng ta đã lâu không gặp nhau, vậy cha mong con vui lòng kể lại cho cha nghe về các lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc, và nhất là những biến . cố có liên quan đến con.

Mirjana: Con đã được thấy Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc suốt mười tám tháng qua, và con nghĩ là đã hiểu được Đức Mẹ nhiều. Con cảm thấy Người thương con bằng tình mẫu tử, do đó, con có thể thoải mái hỏi Người về bất cứ điều gì con muốn biết. Con có xin Người giải thích đôi điều về thiên đàng, luyện ngục và hỏa ngục mà con chưa hiểu rõ; chẳng hạn, con hỏi Đức Mẹ tại sao Thiên Chúa có thể nhẫn tâm đẩy người ta xuống hỏa ngục, để phải chịu đau khổ đời đời. Con thiết tưởng: nếu có người phạm tội ác và phải bị đi tù, người ấy chỉ ở đó một thời gian rồi được tha về; nhưng xuống hỏa ngục thì sao lại mãi đời đời? Đức Mẹ bảo con rằng: những linh hồn phải sa địa ngục không còn nghĩ tốt về Chúa nữa, và họ nguyền rủa Chúa càng ngày càng hơn. Vì vậy, họ đã trở nên một phần của hỏa ngục, và họ đã chọn không muốn được giải thoát khỏi đó. Rồi Đức Mẹ nói với con là luyện ngục có nhiều cấp: có những cấp ở gần hỏa ngục và những cấp cao hơn, cao hơn về hướng thiên đàng. Đức Mẹ nói: Đa số người ta tưởng là các linh hồn được giải thoát khỏi luyện ngục để lên thiên đàng vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ (và Các Đẳng), nhưng (thực ra) phần đông các linh hồn được đưa về thiên đàng vào ngày Lễ Chúa Giáng Sinh.

Cha V.: Con có hỏi Đức Mẹ tại sao Thiên Chúa cho phép có hỏa ngục không?

Mirjana: Thưa không, nhưng về sau, con có trao đổi với dì con về điều đó. Dì con nói: Thiên Chúa nhân từ biết là chừng nào! Do đó, con nói là con sẽ hỏi Đức Mẹ tại sao mà Thiên Chúa có thể...

Cha V.: Theo như con vừa nói, thì đơn giản là như thế này: người nào chống đối Thiên Chúa khi còn sống tại thế sẽ tiếp tục cuộc sống của họ sau khi đã ly trần, để chống đối Thiên Chúa trong hỏa ngục?

Mirjana: Quả thực, con vẫn nghĩ nếu một người sa hỏa ngục... sao dân chúng không cầu nguyện để họ được cứu rỗi ? Sao Thiên Chúa có thể nhẫn tâm bịt tai không nghe họ cầu xin? (ý muốn hỏi: những người trong hỏa ngục không cầu nguyện sao và Thiên Chúa không nghe lời họ cầu xin sao?)(4) Thế là Đức Mẹ liền giải thích cho con thế này: Những người ở trong hỏa ngục không cầu nguyện gì cả, thay vào đó, họ trách Thiên Chúa về mọi sự. Trong thực tế, họ trở nên một với hỏa ngục và sống quen với hỏa ngục. Họ tức giận, căm hờn Thiên Chúa và họ đau khổ, nhưng họ luôn từ chối cầu nguyện với Thiên Chúa.

Cha V.: Để xin Chúa ban ơn cứu rỗi à?

Mirjana: Ở hỏa ngục, họ còn ghét Thiên Chúa nhiều hơn.

Cha V.: Về luyện tội, con nói là nhiều linh hồn thường xuyên cầu nguyện, và thỉnh thoảng được phép liên lạc thông tin với người còn sống trên trần, và họ được hưởng những ơn ích do lời cầu nguyện của kẻ còn sống, phải không?

Mirjana: Thưa cha vâng, những lời cầu nguyện của người còn sống cho các linh hồn, trước kia khi còn sống không chịu cầu nguyện cho ơn cứu rỗi của mình, thì nay được áp dụng cho các linh hồn trong luyện tội đang cầu xin được cứu rỗi.

Cha V.: Đức Mẹ phải chăng đã nói với con là ngày nay, nhiều người sa xuống hỏa ngục ?

Mirjana: Vừa rồi con có hỏi Đức Mẹ về điều này, và Đức Mẹ nói là: Ngày nay, phần đông người chết rơi vào luyện ngục, một số lớn sa xuống hỏa ngục, chỉ một số ít lên thẳng thiên đàng.

Cha V.: Chỉ một số ít lên thẳng thiên đàng thôi sao?

Mirjana: Vâng, chỉ một số ít - một số nhỏ nhất - lên thiên đàng.

Cha V.: Con có hỏi về những điều kiện để vào thiên đàng không?

Mirjana: Thưa không, con không hỏi, nhưng chúng ta cũng dư biết là cần có những điều kiện gì rồi. Thiên Chúa không tìm kiếm những tín đồ vĩ đại, nhưng đơn giản những ai tuân giữ đức tin và sống bình an, không gian dối, hiểm độc, xảo trá.

ChaV.: Điều này là do con diễn giải đấy chứ?

Mirjana: Vâng, sau khi nói chuyện với Đức Mẹ, con đi đến kết luận thế này: không ai buộc phải làm những phép lạ cả thể, hay những việc đền tội nặng nề, chỉ cần sống một cuộc đời đơn sơ và an hòa.

Cha V.: Vậy ngoài chuyện thiên đàng, hỏa ngục và luyện ngục, dạo này còn có điều gì mới nữa không?

Mirjana: Đức Mẹ bảo con phải nói cho người ta là: ngày nay, nhiều người giữ đạo tùy theo cách họ xét đoán vị linh mục của họ. Nếu linh mục không thánh thiện, họ kết luận là không có Thiên Chúa. Đức Mẹ nói: “Các con không đi Nhà thờ để xét đoán các linh mục, để xem xét đời sống cá nhân của các ngài. Các con đi Nhà thờ để cầu nguyện và nghe Lời Thiên Chúa qua linh mục.” Điều này phải được giải thích cho dân chúng, vì nhiều người bỏ đức tin vì cớ các linh mục.

Hôm nay, cũng như đã từ lâu, Đức Trinh Nữ nói với con: Thiên Chúa và ma quỉ đối thoại với nhau, và ma quỉ cho là người ta chỉ tin vào Thiên Chúa khi cuộc sống họ yên ổn, tốt đẹp. Khi mọi việc trở nên tồi tệ, họ không tin vào Thiên Chúa nữa. Rồi họ phàn nàn, trách móc Thiên Chúa và hành động y như không có Thiên Chúa. Bởi đó, Thiên Chúa cho phép ma quỉ lộng hành trên thế giới trong vòng một thế kỷ, và ma quỉ đã chọn thế kỷ thứ 20. Ngày nay, như chúng ta đang thấy quanh ta, mọi người đều bất mãn: người ta không còn có thể sống với nhau được nữa. Những con số ly dị và phá thai là những thí dụ điển hình. Tất cả những điều này, Đức Mẹ bảo là việc làm của ma quỉ.

Cha V.: Lối sống ấy của loài người là do ảnh hưởng của ma quỉ chi phối, nhưng ma quỉ không cần phải ở trong họ chứ?

Mirjana: Không, không. Ma quỉ không ở trong họ, nhưng họ đang ở dưới ảnh hưởng của ma quỉ, tuy cũng đã có lúc nó nhập vào một số người.

Để ngăn chặn tai họa này, trong chừng mực nào đó, Đức Mẹ bảo chúng ta cần cầu nguyện chung nhau trong cộng đoàn, và chung trong gia đình. Đức Mẹ nhấn mạnh sự cần thiết của việc đọc kinh chung trong gia đình hơn cả. Mọi gia đình cũng cần có ít nhất một đồ vật đã được làm phép ở trong nhà, và nhà cửa cần được làm phép (rảy nước thánh) đều đặn.

Đức Mẹ cũng nhấn mạnh về sự thiếu tu sĩ, (linh mục), nhất là trong các làng nhỏ, như làng Mễ Du chẳng hạn. Ở đó, dân Serbia (theo đạo Chính thống) và người Hồi giáo chia rẽ nhau. Sự chia rẽ này không tốt. Đức Mẹ luôn nhấn mạnh là chỉ có một Thiên Chúa, còn dân chúng lại cổ võ sự chia rẽ không tự nhiên này. Một người không thể nào thật lòng tin Chúa, không thể là một người Công giáo chân chính, nếu người ấy bất kính đối với tôn giáo khác. Các bạn không thực sự tin vào Thiên Chúa, nếu các bạn giễu cợt các tôn giáo khác.

Cha V.: Thế thì vai trò của Chúa Giêsu Kitô là gì, nếu Hồi giáo là một tôn giáo tốt?

Mirjana: Đức Mẹ và con không bàn đến chuyện đó. Đức Mẹ chỉ giải thích và than phiền về sự thiếu đoàn kết tôn giáo, “nhất là trong các thôn làng”. Đức Mẹ nói là tôn giáo của mỗi người đều phải được tôn trọng, và dĩ nhiên, tôn giáo của chính mình.

Cha V.: Hãy nói cho cha biết: ngày nay, ma quỉ hoạt động đặc biệt tích cực ở nơi nào? Đức Mẹ có nói gì với con về điểm này không? Nó xuất hiện nhiều nhất qua ai và cách thức thế nào?

Mirjana: Phần lớn là qua những người có cá tính yếu đuối, luôn tự phân hóa trong nội tâm. Những người đó có ở khắp nơi, họ là những mục tiêu dễ dàng nhất cho ma quỉ tấn công. Nhưng nó cũng nhập vào đời sống của ngay cả những kẻ tin mạnh mẽ - các nữ tu chẳng hạn. Nó thích “cải hóa” những người tin hơn là người vô tín. Con giải thích điều này thế nào nhỉ? Cha đã thấy việc gì xảy đến cho con rồi đó.(5) Nó cố đem càng nhiều tín hữu về với nó càng tốt.

Cha V.: Vậy thì, chúng tôi có thể cho rằng một trong sáu các con sẽ tiết lộ ba bí mật trước khi Dấu lạ vĩ đại xuất hiện, các bí mật còn lại sẽ được tiết lộ từng cái một, có phải không? Có điều gì nữa về chuyện này không?

Mirjana: Thưa cha, không phải như vậy đâu, mà như vầy nè! Trước tiên, vài bí mật sẽ được tiết lộ - vài cái thôi. Rồi người ta sẽ tin thật là Đức Mẹ đang hiện diện ở đây, và sẽ hiểu ý nghĩa của Dấu lạ. Khi Jacov nói: ông Thị Trưởng sẽ là người đầu tiên chạy lên đồi, em ấy muốn nói chung đến hạng người cấp cao trong xã hội. Họ sẽ hiểu Dấu lạ đó là dịp phải hoán cải. Họ sẽ chạy lên đồi để cầu nguyện, và họ sẽ được tha thứ. Khi con hỏi Đức Mẹ về số phận người vô tín, Đức Mẹ nói: “Mọi người phải cầu nguyện cho họ và chính họ cũng phải cầu nguyện”. Nhưng mới đây, khi con hỏi lại Đức Mẹ, thì được đáp: “Chớ gì họ biết ăn năn hối cải khi đang còn thời gian.” Không thấy Đức Mẹ bảo là phải cầu cho họ.

Cha V.: Con không thể nói đôi điều gì đặc biệt (về các bí mật) trước lúc Đức Mẹ cho phép con nói ư?

Mirjana: Dạ phải.

Cha V.: Đức Mẹ nói gì? Chúng ta phải chuẩn bị thế nào cho những gì sẽ xảy ra?

Mirjana: Vâng, phải chuẩn bị! Đức Mẹ nói là: mọi người phải chuẩn bị linh hồn, hãy sẵn sàng và đừng hoảng sợ; phải giao hòa trong tâm hồn. Họ phải sẵn sàng cho điều tệ hại nhất, sẵn sàng chết nếu ngày mai nó xảy ra. Họ cần phải chấp nhận Thiên Chúa ngay bây giờ, như vậy, họ sẽ không còn phải sợ hãi. Họ phải chấp nhận Thiên Chúa và tất cả mọi sự khác. Không ai chấp nhận chết cách dễ dàng, nhưng họ có thể có bình an trong tâm hồn, nếu họ là những kẻ tin. Nếu họ tin phục vào Thiên Chúa, Người sẽ đón nhận họ.

Cha V.: Thế nghĩa là một sự hoán cải và đầu phục hoàn toàn cho Thiên Chúa?

Mirjana: Vâng.

Cha V.: Sau mười bí mật này, và sau 18 tháng được diện kiến với Đức Mẹ, nay con nói gì với dân chúng để họ biết phải làm gì? Con nói gì với các linh mục, Đức Giáo Chủ và các Giám mục, mà không tiết lộ bí mật? Đức Mẹ muốn chúng tôi làm gì?

Mirjana: Trước hết, con xin phép nói với cha điều rốt cuộc xảy đến cho con, và...

Cha V.: Ừ, phải đó.

Mirjana: Hai ngày trước lễ Giáng Sinh, Đức Mẹ nói với con ngày lễ Giáng Sinh sẽ là ngày cuối cùng Người hiện đến với con (con không thể nào tin nổi). Ngày lễ Giáng sinh, Đức Mẹ ở lại với con 45 phút và hai mẹ con nói chuyện với nhau về nhiều điều. Người và con lược tóm những điều hai mẹ con đã nói với nhau trước đây. Vì thiện ích cho nhiều người, con xin Đức Mẹ dạy cho họ biết phải làm gì. Thế rồi, Người ban cho con một món quà rất quí giá: Người nói sẽ hiện ra cho con mỗi năm một lần, vào ngày sinh nhật của con, cho đến suốt đời con. Cũng vậy, không liên can đến Dấu lạ hoặc bất cứ điều gì khác, Người nói Người sẽ hiện ra với con khi nào có điều rất khó khăn xảy đến với con - không phải những khó khăn thường ngày, nhưng là những khó khăn trầm trọng - lúc đó, Người sẽ đến giúp con. Còn bây giờ, con phải sống không có sự hiện diện thể lý của Người, không còn được Người đích thân viếng thăm hằng ngày nữa. Con xin nói với tất cả mọi người: Hãy ăn năn trở lại! - cũng như Người nói: “Hãy hoán cải khi còn thời gian!” Đừng chối bỏ Thiên Chúa và đức tin của mình. Vứt bỏ mọi sự khác thì được, nhưng đừng bỏ Chúa và đức tin.

Cha V.: Đâu là nguy hiểm lớn nhất cho nhân loại? Do đâu mà đến?

Mirjana: Do vắng bóng Thiên Chúa! Không còn ai hay hầu như không còn ai tin nữa. Thí dụ, Đức Mẹ bảo con là đức tin tại nước Đức, Thụy Sĩ và Áo rất yếu ớt. Dân chúng các nước này dựa theo các linh mục mà sống, nếu linh mục của họ không sống gương mẫu, thì dân chúng sa ngã theo và không tin là có Thiên Chúa. Khi ở Askona, con có nghe nói về một linh mục đã được một người giàu có, trước khi chết, trối lại cho một số tiền để xây một nhà nuôi người già. Nhưng vị linh mục đã dùng số tiền ấy để xây một khách sạn. Hiện nay, tất cả dân chúng thành phố ấy đã bỏ đức tin, bởi làm sao một linh mục lại có thể không làm trọn lời trối trăng của một người sắp chết, thay vào đó lại đi xây một khách sạn để kiếm tiền cho chính mình? Tuy nhiên, mọi người phải hiểu rằng: họ không nên dò xét đời sống cá nhân của một linh mục, nhưng nên lắng nghe những gì ngài nói qua Thiên Chúa - tức là Lời Chúa.

Cha V.: Trước khi kết thúc cuộc phỏng vấn, con có muốn nói thêm gì không?

Mirjana: Đức Mẹ có nói một vài điều cho riêng cá nhân con. Người dặn dò con về nhiều vấn đề. Rồi Người nói: “Con hãy đi trong bình an của Chúa!”

Cha V.: Đức Mẹ có nói với con về các thị nhân khác và các lần hiện ra trong tương lai không?

Mirjana: Người cho con là... à... chín chắn hơn các bạn khác, cho nên con phải giúp họ, dành thời gian cho họ và trao đổi với họ. Việc này sẽ làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn cho họ và cho con. Chúng con phải hiểu nhau và sống đoàn kết với nhau.

Cha V.: Thế Người không đề cập gì đến các diễn biến hoặc những lần hiện ra sắp tới, cho cá nhân mỗi người chúng con hoặc chung cho tất cả nhóm sao?

Mirjana: Con nghĩ là khi mỗi thị nhân biết được đủ mười bí mật, thì Người thôi không hiện ra với người đó nữa.

* * *

Cha Svetozar phỏng vấn Ivanka Ivankovic


Cha Svetozar: Này Ivanka, con và Mirjana đi dạo với nhau ngày hôm đó. Tại sao chúng con đi dạo chung với nhau?

Ivanka: Chúng con thường đi dạo với nhau ở khu vực đó. Trước đó, chúng con đã chơi ở nhà con, sau đó, chúng con rủ nhau đi dạo.

Cha Svet.: Ngoài Mirjana, còn những ai?

Ivanka: Lúc đầu chỉ có Mirjana và con. Khi chúng con trở về nhà con, thì Milka, em ruột Marija, xin chúng con đi với nó để giúp lùa đàn cừu về nhà.

Cha Svet.: Thế là cả hai chúng con đi với Milka để lùa cừu à?
Ivanka, trong một buổi diện kiến Đức Maria, 25-6-1984.

Ivanka: Lần đầu tiên, Mirjana và con đi với nhau, và khi đang trên đường về làng, con bỗng nhìn lên đồi, và con thấy hình bóng của Đức Mẹ sáng láng và chiếu sáng ra. Con nói với Mirjana: “Xem kìa, Đức Mẹ đó!” Mirjana khoát tay cho là con nói giỡn: “Làm gì có chuyện Đức Mẹ hiện ra với tụi mình.” Rồi chúng con tiếp tục đi về phía làng. Mirjana cũng chẳng thèm nhìn lên chỗ mà con chỉ về phía đồi. Khi chúng con về đến nhà Milka, Milka nói: “Làm ơn giúp em đi lùa cừu về nhà!” Thế là chúng con quay lại và đi về phía cánh đồng. Lần này, cả ba chúng con được thấy Đức Mẹ.

Chúng con quỳ xuống và đọc kinh; xong rồi chúng con đi lùa cừu về nhà. Một chặp sau, Vicka, Ivan và một Ivan khác nhập bọn với chúng con.

Cha Svet.: Như vậy là trong ngày đầu tiên, con được thấy Đức Mẹ hai lần?

Ivanka: Vâng. Lần thứ nhất khi Mirjana và con đi về làng, lần thứ hai khi chúng con đi với Milka lùa đàn cừu.

Cha Svet.: Ai thấy Đức Mẹ trước?

Ivanka: Dạ con.

Cha Svet.: Con nói gì khi thấy Người?

Ivanka: Con nói: “Xem kìa, Mirjana, Đức Mẹ đó!”

Cha Svet.: Rồi con làm gì? Con đi đâu?

Ivanka: Chúng con đến nhà Milka. Chúng con dừng trước nhà em ấy và em ấy xin chúng con giúp em lùa đàn cừu. Rồi cả ba chúng con đi làm việc ấy. Khi chúng con đi ngang qua đồi, con thấy Đức Mẹ lần nữa; lần này, Đức Mẹ có bế Chúa Giêsu trên tay. Mirjana và Milka cũng nhìn và cả hai cũng được thấy.

Cha Svet.: Đối với chúng con, việc được thấy Đức Mẹ có ý nghĩa gì?

Ivanka: Việc này, đối với con, có ý nghĩa lớn lao hơn mọi thứ trên đời.

Cha Svet.: Khi các con nói chuyện với Người trong những lần diện kiến, chúng tôi không nghe tiếng các con nói.

Ivanka: Chúng con vẫn nói lớn tiếng, như bây giờ con đang nói vậy.

Cha Svet.: Cha muốn hỏi thế này nhé: con nói chuyện với Đức Mẹ bằng tâm trí, nghĩa là Đức Mẹ đọc được những ý nghĩ của con, hay là con nói rất khẽ như thầm thì với Người, nên chúng tôi không nghe được? Hoặc là cuộc đàm thoại giữa con và Người quả là kỳ diệu, vượt trên mọi khả năng nghe và hiểu của chúng tôi?

Ivanka: Con nói với Đức Mẹ cách bình thường, như con đang nói bây giờ. Cũng vậy, con nghe tiếng nói và lời của Người một cách bình thường, y như nghe người khác nói vậy.

Cha Svet.: Trong những lần thị kiến, các con có bao giờ xin một ân huệ nào cho ai không?

Ivanka: Thưa có, hồi đầu, con có xin một ơn cho bé Đaniel.

Cha Svet.: Thế Người nói sao?

Ivanka: Người nói như vẫn thường nói: Lòng tin mạnh mẽ và cầu nguyện sẽ giúp.

Cha Svet.: Các con nói : “Đức tin mạnh mẽ và cầu nguyện” nghĩa là gì? và để làm gì?

Ivanka: Tin và cầu nguyện để được chữa lành.

Cha Svet.: Có bao giờ con cầu xin cho người thân trong gia đình đã qua đời không?

Ivanka: Thưa có. Trước đây không lâu, con cầu xin cho ba con, và Đức Mẹ cũng nói tương tự.

Cha Svet.: Người nói gì?

Ivanka: Người nói là hãy nói với ba con rằng mẹ con đang ở với Người, và con phải vâng lời và đừng lo lắng gì.

Cha Svet.: Cái chết của mẹ con làm con buồn, nên Đức Mẹ đến để an ủi con, phải không?

Ivanka: Con không biết, nhưng con không nghĩ thế. Chúng con có hỏi Người tại sao trong bao nhiêu người khác, Người lại chọn hiện ra với chúng con. Đức Mẹ đáp là Người không luôn luôn chọn những kẻ tốt nhất.

Cha Svet.: Thế các sứ điệp Đức Mẹ gởi cho ai?

Ivanka: Thưa cho toàn thể thế giới.

Cha Svet.: Các sứ điệp gì vậy?

Ivanka: Thưa là: hòa bình, hoán cải, ăn chay, đền tội, cầu nguyện.

Cha Svet.: Việc nào quan trọng nhất?

Ivanka: Thưa hòa bình.

Cha Svet.: Tại sao lại là hòa bình?

Ivanka: Khi mọi người trên thế giới sống an bình, mọi sự đều có thể.

Cha Svet.: Con đã nói về việc cầu nguyện. Vậy hãy thành thật cho cha biết: con cầu nguyện thế nào?

Ivanka: Khi con thức dậy buổi sáng, con đọc bảy kinh Lạy Cha và kinh Tin Kính. Đến trưa, con đọc kinh Truyền tin. Đến tối, con đọc bảy kinh Lạy Cha và kinh Tin Kính, và thỉnh thoảng, con lần hạt Mân Côi. Khi mọi người đều có mặt ở nhà, chúng con đọc kinh tối.

Cha Svet.: Được biết là Đức Mẹ khuyên các con nên vào dòng tu?

Ivanka: Người nói với chúng con là Người mong muốn chúng con đi tu - nhưng chỉ những ai cũng muốn như vậy thôi. Người không muốn một ai phản bội đức tin và Giáo Hội.

Cha Svet.: Cha tin là mọi người được tự do chọn lựa, và chúng con cũng được tự do như thế. Con đã quyết định sẽ làm gì chưa?

Ivanka: Thật tình mà nói, như con đang cảm thấy hiện nay, con không muốn đi tu. Con cũng có thể sống đời sống Kitô hữu như một nữ tu vậy, đang khi nuôi nấng...

Cha Svet.: Với những gì con biết được về tương lai (thế giới), con hãy nói cho cha hay: Đức Mẹ Mễ Du có hòa giải thế giới hơn nữa không?

Ivanka: Con nghĩ là có.

Cha Svet.: “Dấu chỉ vĩ đại” có giúp thực hiện việc đó không?

Ivanka: Có, khi đến giờ đến buổi, sẽ có thêm nhiều tín hữu đi Nhà thờ.

Cha Svet.: Dấu chỉ sẽ xuất hiện rất sớm hay sau này?

Ivanka: Nó sẽ xuất hiện khi đến giờ.

Cha Svet.: Ivanka này, con có thấy lo sợ thế nào đó, không biết mình có thể làm những điều Đức Mẹ mong đợi ở con ngay đời này không?

Ivanka: Tại sao con phải lo sợ khi có Thiên Chúa ở với con? Thiên Chúa ban cho con sức mạnh mà con cần.

Cha Svet.: Con nói với dân chúng về các sứ điệp của Đức Mẹ, nhưng có một số không tin con. Trong trường hợp này, con làm gì?

Ivanka: Con cầu nguyện cho họ, xin Thiên Chúa soi sáng cho họ.

Cha Svet.: Ngoài ra, con có thể làm gì nữa?

Ivanka: Con sẽ cố gắng thuyết phục họ. Họ sẽ nghe theo mà tin phục, một khi họ...

Cha Svet.: Cha tin điều đó. Nhưng trong lúc ấy, người ta trở nên bồn chồn, nóng nảy; chờ đến lúc họ hiểu được thật là khó. Vậy người ta phải làm gì?

Ivanka: Hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có sức mạnh để kiên trì.

Cha Svet.: Hiện có những người chống đối Đức Mẹ. Con sẽ nói gì với họ?

Ivanka: Con chỉ nói với họ là: “Hãy hối cải! Thiên Chúa có thật.” Thế thôi!

Cha Svet.: Những người chống đối Đức Mẹ có thể phá hỏng kế hoạch của Người trên thế giới không?

Ivanka: Có phải cha muốn nói về Dấu lạ vĩ đại không?

Cha Svet.: Phải.

Ivanka: Không, mọi thứ khí giới và chất nổ của họ cũng không phá hủy nó được.

Cha Svet.: Họ có thể làm hại linh hồn người ta và kế hoạch của Đức Mẹ dự định cho người ta không?

Ivanka: Không.

Cha Svet.: Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ mạnh hơn họ?

Ivanka: Đã hẳn. Đức Mẹ mạnh hơn. Chính Chúa Giêsu quyết định như vậy. Chính Thiên Chúa chứ không phải Đức Mẹ.

Cha Svet.: Nói cho cha về việc này đi.

Ivanka: Con nghĩ là Thiên Chúa đã cử Đức Mẹ đến đây. Khi chúng con xin Người cho một dấu chỉ, con nghĩ là Người đã xin Chúa Giêsu và Chúa Giêsu đã ban cho Người một Dấu chỉ. Rồi Người hứa ban cho chúng ta Dấu chỉ ấy.

Cha Svet.: Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ không thể tự mình hành động độc lập một mình, Người phải thực hiện ý Thiên Chúa, như Người vẫn làm xưa nay?

Ivanka: Con tin là như vậy.

Cha Svet : Điều quan trọng là không để những người có lòng thành tâm thiện chí, bất luận thuộc đạo giáo nào, quay lại chống đối lẫn nhau. Nhưng hãy nói thêm cho cha về điều này. Đức Mẹ đã nói gì?

Ivanka: Người nói là các tôn giáo chia rẽ nhau dưới trần gian, nhưng tín đồ của mọi tôn giáo đều được Con Chí Thánh của Người chấp nhận.

Cha Svet.: Thế nghĩa là mọi người đều lên thiên đàng?

Ivanka: Còn tùy họ lập công được như thế nào.

Cha Svet.: Phải, nhưng nhiều người chưa bao giờ nghe nói về Chúa Giêsu.

Ivanka: Chúa Giêsu biết tất cả điều ấy. Còn con thì không. Đức Mẹ nói: Trên căn bản thì các tôn giáo đều đáng tôn trọng như nhau, nhưng nhiều người đã tự chia rẽ, vì lý do tôn giáo mà trở nên thù địch với nhau.

Cha Svet.: Cha cám ơn con, Ivanka, về buổi nói chuyện và chứng tá này...

* * *

Tôi thở một hơi dài khi rút trang cuối cùng ra khỏi máy chữ - trang thứ tám! Smitty thế nào cũng sẽ nổi cáu! Mà đúng như vậy. Anh ta hét: “Anh làm cái gì đó? Viết một cuốn sách hả?”, và nhìn những trang giấy trong tay tôi, “Chừng đó phải “đi” nguyên một trang báo!” Đối với Smitty, mấy cột báo của tôi đã là chuyện đau đầu lắm rồi. Anh không muốn thêm ấn bản tin tức gì nữa, mà chỉ có quảng cáo thôi.

- “Thì cứ “đi” cả trang!” tôi mỉm cười đáp lại. “Anh coi kìa, tôi đã làm xong sớm một ngày trước, anh phải mừng chứ! Hãy chuẩn bị lên khuôn đi, còn để tôi lo các chuyện khác.”

- “Nhưng nếu vào phút chót, ta vớ được một cái quảng cáo thì sao?” (Ý anh ấy muốn nói) thông thường, chính sách của tụi tôi là bỏ bài xã luận đi nếu cần, để nhường chỗ đăng quảng cáo cho người đã chi tiền.

- “Không! Lần này thì không”, tôi đáp, “Bài viết phải cho đăng như mấy tuần nay.”

Quay gót rời văn phòng, tôi sực nhớ một chuyện: chúng tôi đã nhận được yêu cầu cung cấp hơn 40 bản sao bài báo: “Anh Smitty à, nhớ chừa một chỗ để thông báo cho mọi người, nếu họ muốn có bản sao của mấy bài tôi viết, họ phải gởi tới một bao thư dán tem, ghi sẵn địa chỉ. Tôi sẽ đưa bản đó cho anh ngày mai.”

Để mặc anh ta đứng đó lắc đầu lẩm bẩm, tôi sung sướng bước ra bóng đêm bên ngoài.

---o0o---

hoanghac
11-21-2012, 03:18 AM
“Muốn được hạnh phúc, hãy sống đơn sơ, khiêm tốn và để cho Thiên Chúa hướng dẫn...”
Chương 8
CHA SCOTTI

Sáng thứ tư, tôi không ở văn phòng để nghe điện thoại. Tôi đang trên đường đi tới thị trấn Lake City, cách xa khoảng 100 cây số, để thăm Cha Sylvester Scotti.

Sau khi bài xã luận thứ hai được đăng, ông đã gọi lại hỏi bao giờ tôi tạt qua thăm ông. Vì đã dự định sẽ kết thúc loạt bốn bài viết về Mễ Du bằng những cuộc phỏng vấn người dân sống tại đây đã đi hành hương đến Mễ Du, nên tôi cũng muốn lấy luôn câu chuyện của ông vào đấy. Mặt khác, tôi cũng tò mò muốn gặp ông linh mục người Ý “không đến nỗi khùng” này.

Vì không quen đường, tôi hơi khó tìm nhà ông. Đúng ra, nhà của ông đã tìm ra tôi: tôi lái xe quanh quẩn các đường gần đó, cố tìm số nhà mà tôi đã ghi qua điện thoại. Bỗng tôi ngước nhìn, và thấy căn nhà ở ngay đấy.

Khi tôi bước lên các bậc thềm, cánh cửa đột nhiên mở ra: một người đàn ông cao lớn, mập mạp, tuổi trên 50, đeo kính cận, đầu tóc bù xù, tươi cười rạng rỡ bước ra đón tôi. Ông mặc một áo sơ mi cũ với quần tây và đôi giày bạc màu - y hệt như tôi đã mường tượng, căn cứ theo cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi qua điện thoại.

Khi vừa tới cửa, ông tóm lấy tôi, ôm chặt tôi trong cánh tay, như thể chúng tôi đã quen biết nhau nhiều năm, rồi nói: “Tôi đã cắm điện bình cà phê, bây giờ mình nói chuyện.” Và chúng tôi bắt đầu.

Tôi biết được cha Scotti là mục tử của hai Nhà thờ truyền giáo nhỏ ở vùng Kingstree và Lake City. “Đó là miền băng giá Siberia của địa phận này”, ông giải thích, tay cầm bình cà phê rót thêm cho tôi, “nhưng không sao cả. Ở đây, tôi có nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện. Tôi nghĩ là tôi được phái đến đây, vì họ không biết làm gì hơn với tôi. Họ nghĩ là tôi hơi lập dị, không giống ai.”

Phần tôi, tôi đã sớm khám phá ra điều không giống ai ấy. Trước đó, ông đã nói với tôi: cuộc hành hương của ông đến Mễ Du có ý nghĩa chừng nào đối với ông. Giờ đây, tôi bắt đầu ghi âm và đặt câu hỏi. Thời gian trôi qua như tên bay và phải thay đến cuốn băng thứ hai. Bất ngờ, tôi nhận ra mình đã qua hơn ba tiếng đồng hồ đàm đạo không ngừng ở đó.

Khi tôi vừa bắt đầu cho ông biết tôi đã nghe nói về Mễ Du như thế nào, ông bỗng giơ tay ngăn tôi lại. Rồi nhìn chằm chằm vào tôi, ông khởi phát nói tiếng lạ. Nhờ biết chút ít về đặc sủng canh tân của Chúa Thánh Linh và phong trào ân sủng, nên tôi hiểu được hiện tượng đang xảy ra. Dù không hiểu ông đang nói gì, nhưng tôi không cảm thấy hoảng hốt hoặc lo sợ chút nào bởi điều đó, duy chỉ thấy không thoải mái thôi. Ông không nói lớn tiếng, nhưng nói với giọng nhỏ nhẹ và du dương.

Trong tôi lúc bấy giờ, một phần thì tự hỏi: “Mình đang dẫn xác vào cái trò gì đây?”, nhưng phần khác lại hài lòng, vì chỉ có việc nghe và chờ đợi. Sau vài phút, ông ngưng lại và chúng tôi nhìn nhau.

- “Hi vọng tôi không làm anh khó chịu chứ?”

- “Không đâu!” tôi trấn an, “Có ngạc nhiên một chút, nhưng không phiền.”

- “Tốt, bởi vì đây là một sứ điệp của Đức Maria gởi cho anh. Người nói: Anh là con của Người, và Người yêu cầu anh viết về việc này. Nhưng còn hơn thế nữa: ấy là đem cả cuộc đời vào công việc ấy, hoàn toàn tận hiến bản thân anh cho việc truyền bá sứ điệp Mễ Du.”

Ông dừng lại. Miệng tôi bấy giờ há hốc, mắt mở to. Thế rồi, miệng ấp úng không tìm ra lời, tôi kể cho ông về sứ điệp tôi đã nhận được từ lúc đầu, sứ điệp ấy hầu như đang được sứ điệp của ông chứng thực từng lời. Nói tới đó, tôi cảm thấy tóc trên đầu như dựng đứng lên, và tôi bắt đầu hoảng sợ.

Được khích lệ, cha Scotti nói tiếp: “Theo tôi hiểu, với thông điệp này, anh sẽ đi xa hơn Nam Carolina, hoặc ngay cả ra khỏi xứ này nữa vì việc đó. Anh cũng sẽ dính dáng tới ngành truyền thông.”

- “Thôi mà cha!” tôi ngắt lời ông, “Tôi là chủ một tờ báo tỉnh lẻ, tôi viết vài mục xã luận vì “cái tôi” của mình hơn là vì bất cứ chuyện gì khác. Tôi không quan tâm đến ngành truyền hình hay phát thanh.”

- “Này”, ông cười ha hả, cái cười rang rảng đặc biệt Ý của ông, “Tôi chỉ lặp lại điều mà tôi nghĩ là chính Đức Mẹ nói với anh!” Rồi ông nói với giọng thông cảm: “Tôi biết như vậy là quá nhiều cho anh, nhưng cứ tiếp tục cầu nguyện và mở lòng ra đón nhận điều đang đòi hỏi nơi anh và đừng quá lo lắng.”

Làm sao mà tôi không lo được?

Tất cả những cái này vượt xa trí tưởng tượng của tôi. Chỉ vài tuần trước đây thôi, tôi còn khó lòng mà nhớ và nhắc đến tên “Giêsu” bên ngoài Nhà thờ. Thế mà bây giờ, tôi lại nghe một người lạ đang bảo cho tôi mọi thứ về thông điệp mà tôi đã lãnh được.

Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn bốn giờ. Tôi nói: “Trễ rồi, tôi phải đi. Chúng ta có thể gặp nhau lại sau vài tuần nữa được không?”

- “Dĩ nhiên”, ông cười nhe cả răng và tiễn tôi ra cửa.

Tôi mỉm cười chào tạm biệt: “Cha biết đấy, tôi chưa bao giờ gặp người nói tiếng lạ. Có điều kỳ lạ là việc đó không làm tôi khó chịu. Tôi muốn nói với tư cách là một tín đồ Tin Lành và một nhà báo, tôi thấy cái đó..., à..., không làm cho tôi bực bội chút nào. Nhưng tôi không được chắc lắm về thông điệp của cha...”

Ông chỉ mỉm cười nói: “Rồi anh sẽ thấy.”

Khi về đến phòng thì đã trễ, nhưng tôi vẫn ngồi ngay xuống máy đánh chữ. Tôi muốn ghi lên giấy tất cả những gì cha Scotti đã kể khi nó còn nóng hổi. Cắm cúi làm việc khoảng một tiếng rưỡi, khi đã xong, tôi liền nghĩ nếu tôi gặp được Jim Stoffel vào buổi sáng, thì nội trong ngày mai, bài báo có thể xong. Điều này khá quan trọng, vì chúng tôi còn phải đi Charleston, miền tây Virginia, để mừng lễ Giáng Sinh cùng với gia đình Terri. Chọn Jim như một nhân vật thứ hai ở địa phương này để phỏng vấn, quả là một chọn lựa hợp lý, vì anh đã từng đến Mễ Du.

Qua chuyến đi ấy, Jim và vợ là Rosie đã được tác động mạnh mẽ, người ta thấy rõ điều đó trong bài nói chuyện của anh. Vả lại, cặp vợ chồng này có đôi nét đặc biệt, khiến Terri và tôi thấy thích họ ngay, và đã hẹn với họ sẽ gặp nhau lại sau này. Cộng chung với nhau, hai cuộc phỏng vấn này sẽ thành một kết thúc tốt đẹp cho loạt bài của tôi.

Miệng ngáp dài, tôi tắt đèn và rảo bước về nhà. Nhưng sáng hôm sau, thức dậy với cơn nhức đầu và buồn nôn, tôi chắc chắn cuối cùng mình không thể tránh khỏi bệnh cúm. Trước đó hai tuần, nó tấn công Terri nhưng bỏ sót tôi - hay là do tôi tưởng như vậy. Lần này, chắc không còn may mắn như thế. Và bây giờ, tôi chỉ còn cách gác lại bài báo cuối đến sau lễ Giáng Sinh, vì tôi tuyệt đối không thể phỏng vấn Jim và viết bài tường thuật trong tình trạng này.

Tôi tạm bình phục vào lúc đi miền tây Virginia, để không làm hỏng cuộc mừng lễ Giáng Sinh của mọi người. Thực tế, đối với tôi, đó là một lễ Giáng Sinh tuyệt vời chưa từng thấy, cũng nhờ có Mễ Du. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm nghiệm mạnh mẽ ân huệ bao la của Thiên Chúa, khi ban Con của Người. Và cũng chính Đức Maria ấy, Đấng đã chấp nhận chức làm Mẹ Chúa chúng ta cách vô điều kiện, bây giờ lại xin tôi tham gia tích cực vào việc làm cho nhiều người khác nhận thức đầy đủ về ân huệ đó. Tôi không thể nghĩ đến điều này mà không rơi lệ.

Tôi được ban một ơn đặc biệt khác trước đó ít lâu. Một buổi tối nọ, khi Terri đang vật lộn với bệnh cúm, và tôi phải chùi sàn bếp thay nàng, chuông điện thoại reo. Tôi nhón chân băng ngang qua cái sàn còn ướt để trả lời. Đó là George McMath., Chủ tịch Atlantic Publications, một tập đoàn xuất bản của một hệ thống gồm 29 tờ tuần báo và các loại ấn phẩm khác. Trong đó có một tờ đặt tòa soạn tại Myrtle Beach. Chúng tôi tán gẫu ít phút, rồi ông ta đi thẳng vào mục đích của cú điện thoại lúc đêm hôm này. Đó là: chúng tôi có tính bán lại bốn tờ báo của chúng tôi không?

Quả là một cú sốc! Từ hơn hai năm nay, chúng tôi cố tìm mối để bán chúng đi. Sau chín năm đương đầu với đủ thứ vấn đề: hạn chót phải trả tiền, vấn đề nhân viên, khủng hoảng tài chánh..., cả hai chúng tôi đã bị căng thẳng quá sức. Terri mong muốn được ở nhà chăm sóc con cái; tôi thì muốn hành nghề tự do, như tư vấn quảng cáo chẳng hạn; như thế, ít nhất còn có chút thời gian chơi golf và tennis. Nhưng tìm mãi vẫn không ra người mua với điều kiện hợp lý. Cho đến hôm nay...

Ngay đó, tôi liền nhớ lại lời Đức Trinh Nữ Diễm Phúc đã nói với tôi trước đây:

“Không bao lâu nữa, con sẽ thôi công việc này.”

Tôi cố giữ bình tĩnh khi chúng tôi phác thảo kế hoạch chuyển giao. Có vẻ như ngày bàn giao hợp lẽ nhất là ngày 1 tháng 4, kỷ niệm năm thứ chín ngày khai trương tờ báo đầu tiên của chúng tôi.

Tôi đặt ống nghe và lặng lẽ đi vào phòng riêng. “Terri ơi! Chúng ta vừa bán đi mấy tờ báo rồi!” tôi thầm thì vào tai nàng với nụ cười ngơ ngáo. “Sứ điệp, nó đang trở thành sự thực.”

Nàng nhìn tôi, có vẻ không biết nên cười hay nên khóc! Một hồi lâu, nàng nói: “Tốt thôi! Nếu thật như vậy thì tuyệt quá! Nhưng em chỉ tin khi chúng ta ký giấy tờ thôi.”

Tôi thầm nghĩ: “Đúng vậy”, đang khi nhìn quang cảnh miền tây Virginia lướt nhanh ngoài xe. Chỉ với việc này thôi, Giáng Sinh năm nay đã thành một Giáng Sinh đặc biệt rồi.

Chúng tôi đến nhà mẹ của Terri đúng lúc để giúp bầy hang đá máng cỏ tại phòng khách. Đó là một hang đá máng cỏ đã có từ lâu trong gia đình. Chuồng bò lừa được làm rất chắc chắn, chứ không mong manh hay kiểu cọ như một số loại máng cỏ thời nay. Bộ tượng bằng gốm sứ, chứ không phải bằng thạch cao. Bất ngờ, khi tôi đặt tượng Đức Maria quỳ cạnh bên máng cỏ, mắt tôi bỗng nhòa lệ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, tôi vừa thầm thĩ cầu nguyện, vừa đặt tượng Người lên đám cỏ rơm.

Chúng tôi trở về Myrtle Beach vài ngày trước Tết Dương lịch, vừa đúng lúc tôi bị vật ngã trở lại vì bệnh cúm. Sau lần bình phục thứ hai, tôi đến gặp Jim Sotffel, phỏng vấn anh và viết bài tường thuật cuối cùng về các biến cố Mễ Du.

* * *


Ngày 15-1-1986
Phần 4: Phỏng vấn dân địa phương đã từng đến Mễ Du


Tôi thành thật xin lỗi tất cả các bạn đọc, vì đã không có bài xã luận trong số báo tuần qua. Tôi không may bị con vi trùng cúm đánh nằm gục suốt cả tuần. Đây là phần cuối của một loạt bốn bài, bắt đầu từ tuần lễ thứ nhất tháng 12. Đó là những lời chứng của hai cư dân đang sống trong miền này. Họ đã đến Mễ Du, đã tận mắt chứng kiến những biến cố đang xảy ra ở đấy.

Để được ngắn gọn và dễ đọc, lần này, tôi đã chọn hình thức tường thuật hơn là câu hỏi đáp của phỏng vấn. Những người được phỏng vấn là anh Jim Stoffel, ngụ tại Bắc Myrtle Beach và linh mục Sylvester Scotti, mục tử Nhà thờ Công giáo Thánh Philip tại Lake City.

Jim Stoffel là vận động viên nhà nghề môn đánh gôn của câu lạc bộ Carolina Shores Golf tại Bắc Myrtle Beach. Anh và vợ là Rosie, đã sống ở đây từ năm 1972. Họ đã cùng với Hal và Peggy Todd, cũng ngụ tại Bắc Myrtle Beach, đến Mễ Du vào tháng 11 năm 1985. Tôi sử dụng những lời chứng mà Jim trình bày trong một cuộc nói chuyện ở Nhà thờ của anh..., sau khi anh từ Mễ Du trở về. Một lần nữa, vì khuôn khổ bài báo có giới hạn, tôi chỉ trích ra những lời làm chứng của Jim, mặc dù những người khác trong nhóm cũng có nhiều chuyện muốn nói về chuyến đi. Có lẽ tôi có thể đề cập đến các điều ấy nhiều hơn sau này.

Cha Scotti làm cha xứ Nhà thờ Thánh Philip từ hai năm rưỡi nay. Cha chịu chức linh mục đã 14 năm. Tôi đến Lake City và ngồi nói chuyện hết một buổi sáng với ông về những kinh nghiệm của ông tại Mễ Du.

Chúng tôi sẽ bắt đầu với …

Những lời trần thuật của Jim Stoffel:

“Cách đây hai năm, chúng tôi đã nghe nói về các biến cố tại Mễ Du qua một người bạn. Anh ấy được nghe về chuyện đó tại Greenville, miền Nam Carolina. Tự nhiên, chúng tôi thấy quan tâm và bắt đầu tìm hiểu. Chúng tôi kiếm được vài cuốn sách - hồi đó đã ra được khoảng sáu cuốn.

“Tôi đã từng đọc chuyện Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và Fatima. Nhưng điều đáng nói nhất ở đây là biến cố Mễ Du đang xảy ra hiện nay, ngay lúc này, trong thời đại chúng ta. Chúng tôi thu thập những thông tin cần thiết về việc đi đến đó, và đã lên đường vào tháng 11 năm 1985.

“Theo ý kiến cá nhân tôi, mọi chuyện đang xảy ra tại Mễ Du đều xác thực. Thật sự là có một điều gì siêu nhiên đang diễn ra tại đó.

“Mục đích của những lần viếng thăm của Đức Trinh Nữ Maria là để nói với mấy thị nhân mười sứ điệp (hay bí mật) cho thế giới. Người cũng bảo các em rằng: cần phải cầu nguyện, ăn chay và hòa giải với Thiên Chúa. Sau khi việc hiện ra chấm dứt, mười sứ điệp hay biến cố sẽ bắt đầu xảy ra. Cái thứ bảy, chín và mười là những trừng phạt nặng cho thế giới vì tội lỗi. Tôi xin nói thêm là sứ điệp (hay bí mật) thứ bảy đã được bỏ qua, bởi vì dân chúng đã đáp ứng lời kêu gọi khẩn cấp của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc về việc cầu nguyện, ăn chay và hòa giải. Người nói là các biến cố trong hai sứ điệp chín và mười sẽ xảy ra, nhưng chúng sẽ được giảm nhẹ, nếu loài người tăng gia cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Tôi nghĩ tất cả vấn đề là như thế.

“Tôi thực sự không coi chuyện đó có ý làm chúng ta sợ hãi, bởi vì sứ điệp của Người không là điều chi khác hơn những gì Phúc Âm đã truyền, mà chúng ta đọc hằng ngày, hằng tuần. Thiên Chúa đang dùng Đức Thánh Mẫu, như một phương thế để nhấn mạnh hơn và khẩn thiết hơn các lời giáo huấn của Ngài.

“Mễ Du quả thật là một chuyện có một không hai xảy ra tại một ngôi làng nhỏ bé - ngày nay trở nên một thánh địa. Thật khó diễn tả, phải thành thật nhìn nhận như vậy. Sứ điệp mà chúng tôi muốn được biết ấy là: Đây chính là công việc của Chúa Thánh Linh để, đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đến cho thế giới, qua trung gian Đức Trinh Nữ Maria. Loài người đã quá xa lìa Thiên Chúa và đây là lời kêu gọi khẩn cấp hãy trở lại với Người. Tựu trung, điều Người muốn nói là loài người cần phải sống bình an với nhau, mà bình an ấy chỉ đến nhờ cầu nguyện, hối cải và dĩ nhiên là nhờ thông hiệp. Tôi không cố đem ai vào đạo Công giáo, mà đó cũng không phải là mục đích của sứ điệp Mễ Du. Đó là sự dấn thân riêng tư của mọi người trên thế giới.

“Giáo xứ - hay là cộng đoàn - Mễ Du chỉ có 400 gia đình, thế mà Nhà thờ Thánh Giacôbê (nơi được cho là Đức Maria đang hiện ra - chú thích của tác giả) - chứa được khoảng 2000 người hoặc hơn. Không ai biết tại sao Nhà thờ ấy lại được xây lớn đến thế. Đức Maria đang cố gắng dựng lên ở đây khuôn mẫu của một giáo xứ hoàn hảo và Người đã thành công. Chỉ đi khỏi đó 10 cây số thôi, là các bạn rơi lại về “thế giới trần tục thật” rồi.

“Như tôi đã nói, Đức Trinh Nữ Maria rất vui sướng, vì giáo dân xứ đạo này. Người thường hiện ra khoảng 5g45 chiều (đi trước múi giờ với chúng ta bảy tiếng) và lưu lại độ ba, bốn phút dạo này. Trước đây, các lần hiện ra kéo dài từ 20 đến 30 phút. Khi cuộc hiện ra kết thúc, Thánh Lễ bắt đầu và bọn trẻ ở lại trong Nhà thờ thêm một lúc lâu nữa, như thế, cả thảy mỗi ngày khoảng ba tiếng. Các em cũng dành bốn tiếng mỗi ngày để cầu nguyện và chúng ăn chay ba lần mỗi tuần. Nếu các bạn chưa bao giờ thử ăn chay, các bạn nên làm đi! Chỉ thấy khó chịu ngày đầu thôi. Dân chúng ở đây rất tử tế và dễ mến, hiếu khách và nhiệt tình. Họ thực là những con người đơn sơ, chất phác.

“Đức Trinh Nữ Maria cũng có những sứ điệp cho phương Tây nữa. Hình như chúng ta cứ tưởng mình khá hơn mọi người khác trên thế giới. Người nói chúng ta sử dụng quá nhiều ma túy và quá nhiều chương trình truyền hình chiếm mất nhiều thời gian của chúng ta. Chúng ta phí phạm rất nhiều thời gian mà lẽ ra phải được dùng vào những việc tốt hơn. Cũng vậy, chúng ta có quá nhiều giáo phái tại Hoa Kỳ, quá nhiều việc sùng bái tà thần. Mặt khác, chúng ta đã tiến bộ xa hơn mọi dân tộc khác trên thế giới về mặt kỹ thuật, và chúng ta cứ tưởng đó là tự chúng ta làm nên - nghĩa là không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Đó chỉ là kỹ thuật của con người thôi. Nếu các bạn thật tình muốn có một hình ảnh mô tả hoàn hảo về lối sống hiện nay của phương Tây, các bạn chỉ cần cầm quyển Kinh Thánh lên và đọc thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, đoạn 1, câu 18 đến 32.(5bis) Thật đáng kinh ngạc là những điều đã viết từ rất nhiều thế kỷ trước đây, lại tả y hệt như lối sống của chúng ta ngày nay.”

* * *


Chứng từ của Cha Sylvester Scotti


“Tháng 10 năm 1984, tôi đi Roma dự cuộc họp các linh mục từ khắp nơi trên thế giới. Ngay trước khi ra về, người ta hỏi chúng tôi xem có muốn đi hành hương hoặc ghé qua Mễ Du, nước Nam Tư, nơi được cho là Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc đang hiện ra với sáu thiếu niên mỗi ngày một lần.

“Trước kia, tôi có nghe nói loáng thoáng về Mễ Du, qua một tờ báo địa phương. Báo này đưa tin về một linh mục thuộc giáo xứ đó bị bắt và bị cáo về tội quấy rối an ninh trật tự công cộng. Nam Tư là một nước Xã hội Chủ nghĩa, điều ấy ai cũng biết, và họ vẫn cho phép các việc thờ tự được làm trong Nhà thờ, một khi những việc này không xâm phạm đến luật lệ chung ở đó. Bài báo nói linh mục đã bị bắt giữ vì dính dáng đến những điều dối trá, liên quan đến sự kiện siêu nhiên đang xảy ra ở đây.

“Sau này, qua các linh mục khác và qua sự tìm hiểu của tôi, tôi biết được nhiều hơn về các biến cố diễn ra tại đây. Và dĩ nhiên, tôi rất hào hứng về cơ hội được đích thân đến đó cùng với nhóm linh mục này. Chúng tôi tất cả có 110 người (linh mục) đến Mễ Du sau chuyến đi Roma kỳ trước. Đây là nhóm linh mục đông nhất từ trước đến nay, đến tham quan nơi được coi là có sự kiện hiện ra. Để đến được nơi ấy, chúng tôi phải ngang qua một thành phố tên là Mostar, gần Mễ Du, giả danh các du khách. Không những thế, chúng tôi còn phải mua áo tắm để nhà cầm quyền tin là chúng tôi chỉ muốn thưởng thức các trò giải trí của miền đó. Cuối cùng, chúng tôi đến được một làng nằm giữa Mostar và Mễ Du. Các tiện nghi ở đây thì rất kém, so với nếp sống quen thuộc của chúng tôi, nghĩa là không quá tồi tệ, nhưng rất bán khai so với tiêu chuẩn của ta, chẳng hạn như những ống dẫn ga, dẫn nước đều đặt ở bên ngoài căn nhà, v.v...

“Sau cùng, nhóm chúng tôi đến Mễ Du, và như tôi đã nói, đây là nhóm linh mục đông nhất từ trước đến nay từng tụ tập cùng lúc ở đây. Chúng tôi được đưa đến tầng hầm của Nhà thờ, vì chúng tôi quá đông, nên gặp các thị nhân sau khi cuộc hiện ra kết thúc. Thời tiết nóng nảy và ngột ngạt. Lại đông người. Lát sau, một nữ tu thuộc giáo xứ, luôn làm việc bênh cạnh các em, bước vào phòng và thông báo là Đức Trinh Nữ đã bảo các thị nhân Người sẽ hiện ra cho các em tại tầng hầm Nhà thờ, nơi chúng tôi đang có mặt, vì Người có một sứ điệp đặc biệt cho chúng tôi.

“Tôi biết nói gì đây? Chúng tôi hết sức cảm kích vì việc Người sẽ hiện ra với các trẻ tại nơi đây. Liền sau đó, các em đi vào trong phòng và đứng ngay ở phía bên kia cái bàn mà tôi đang đứng với một linh mục bạn, một người bạn thân. Các em bắt đầu đọc kinh và ít phút sau, bỗng chốc, các em quỳ xuống. Đó là dấu cho biết Đức Thánh Mẫu đã hiện ra. Chúng tôi nhìn về chỗ mắt các em đang hướng nhìn vào, đó là ngay phía trên đầu chúng tôi.

“Khi cuộc hiện ra chấm dứt, các em liền viết điều gì đó lên mảnh giấy và người nữ tu biết nói tiếng Anh phiên dịch cho chúng tôi. Đó là một sứ điệp Đức Trinh Nữ gửi trực tiếp cho chúng tôi: “Cám ơn các con đã đến, đáp lại lời mời gọi của Mẹ. Những ai trong các con yêu mến Mẹ, thì đã được mời gọi cách đặc biệt.”

“Thế đấy! Các bạn có thể tưởng tượng lúc ấy chúng tôi cảm thấy thế nào không? Tất cả chúng tôi cầu nguyện, rồi leo các bậc cấp lên Nhà thờ để dâng lễ. Tôi không sao tin nổi điều xảy ra sau đó: mấy em thị nhân đến giúp chúng tôi mặc áo lễ vào để đồng tế, tôi và bạn tôi! Ôi! Thật là Hồng Phúc! Rồi, trong Thánh Lễ, các em đứng ngay đó cạnh chúng tôi và chúng tôi cầm tay các em cầu nguyện. Tôi không thể mô tả cho các bạn hiểu điều này có ý nghĩa đối với tôi đến mức nào.
Hai thị nhân trong một Th.Lễ đồng tế, giữa các linh mục và cộng đoàn. Các em được mời đọc Sách thánh.


“Tôi phải kể cho các bạn nghe về hai “phép lạ” đã xảy ra trong khi chúng tôi đang ở đấy. Trên xe buýt đi đến Mễ Du, tất cả chúng tôi đều nói chuyện và cầu nguyện về điều đang xảy ra ở đấy. Trời trong sáng, không một bóng mây. Lát sau, có người để ý nhìn trời thấy có hai cụm mây nhỏ xếp thành hình Thập giá. Tôi xin nhắc lại, bầu trời hoàn toàn trong sáng, trừ đám mây hình Thập giá đó. Một chặp sau, hình Thập giá đổi thành hình chim câu hoàn chỉnh.

“Sau chuyến đi Mễ Du và khi đã trở về phi trường Dubrovnik, chúng tôi dừng lại ở ngôi Nhà thờ xinh đẹp để dâng lễ và cầu nguyện. Tất cả chúng tôi đều ngã bệnh. Tôi muốn nói là bệnh thật, với tất cả những cái khó chịu của cảm, cúm, ho sốt, viêm họng... Chúng tôi cầu nguyện trong Nhà thờ xinh đẹp đó. Khi kinh nguyện vừa xong, chúng tôi đang chuẩn bị ra về, thì một linh mục trẻ người Canada đứng lên nói: “Thưa anh em, tôi phải kể cho anh em nghe điều này: nãy giờ tôi đã cầu nguyện ở đây với anh em và chắc chắn tôi không cầu nguyện cho điều vặt vãnh như khỏi bị cảm cúm... Vậy mà bỗng nhiên, tôi cảm thấy một hơi ấm bao bọc khắp mình tôi, rồi sau đó, cái họng đau rát của tôi, mọi triệu chứng cảm cúm đều biến mất! Tôi hoàn toàn mạnh khoẻ.” Sau đó, chúng tôi tiếp tục cầu nguyện một hồi lâu.

“Anh hỏi tôi về phản ứng của tôi sau khi trở về Lake City ư? Lẽ tự nhiên, tôi tràn đầy ngạc nhiên ngây ngất về tất cả chuyện đó. Rồi tôi đi đến tất cả các trụ sở báo chí, phát thanh trong vùng và ở Columbia. Kết quả thế nào? Toàn là những cái nhìn thờ ơ, ngoài ra không có gì khác. Nhưng không sao! Bản thân tôi cảm thấy những biến cố xảy ra tại đó (Mễ Du) đều xác thực, và tôi cảm tạ Thiên Chúa về điều ấy.”

* * *


Đây là phần kết thúc của loạt bốn bài tường thuật về những sự kiện được báo cáo là những cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc tại Mễ Du, Nam Tư. Tôi không biết nói với các bạn độc giả điều gì khác hơn, là tôi sẽ rất sung sướng được tiếp tục gởi đến các bạn các bản sao của mấy bài báo này, từ những bài đầu, cho bạn nào chưa kịp đọc mà muốn đọc. Chỉ cần gởi bao thư dán tem và ghi sẵn địa chỉ về: Mục Xã luận của Weible, Hộp thư 2647, Myrtle Beach, bang South Carolina, 29578.

* * *

Như vậy đấy! Tôi vừa nghĩ vừa gõ vào máy chữ mã số bưu điện một cách bay bướm. Tôi đã thực hiện công việc được giao và đã làm xong. Giờ đây, tôi sẽ tiếp tục sống sứ điệp một cách tốt nhất như tôi có thể, nhưng phần chính của công việc thì tôi đã hoàn thành... hoặc tôi tưởng như thế.

hoanghac
12-01-2012, 04:55 AM
“Hãy cống hiến thời gian của con cho mình Chúa Giêsu mà thôi, rồi Ngài sẽ cống hiến trọn vẹn chính mình Ngài cho con...”

Chương 9
TÔI TIN...

Sau đó ít ngày, tôi ghé qua ngân hàng. Khi đang bàn tán về sự kiện hiện ra với một trong những nhân viên, cô ấy nói cô rất buồn vì loạt bài báo đã chấm dứt, trong khi cô muốn nó cứ tiếp tục mãi, vì các biến cố tại Mễ Du làm cô rất xúc động.

Tôi nói với cô là tôi đã kể lại tất cả những gì có thể viết về các biến cố đó. Cô phản đối: “Đúng, nhưng anh chưa bao giờ thật sự cho biết ý kiến của chính anh. Chúng tôi biết những người khác nghĩ gì, nhưng còn chính anh, thực sự anh nghĩ gì?”

Tôi nhìn cô, khựng lại. Để giữ uy tín nhà báo, tôi đã cố gắng giữ tính khách quan. Tôi muốn độc giả tự rút ra kết luận, chứ không bị ảnh hưởng bởi những gì đã tác động hết sức mạnh mẽ đến tôi. Thử hỏi như vậy, tôi có quá đáng không?

Tôi cần phải suy nghĩ về điều đó. Và càng suy nghĩ, tôi càng thấy niềm kiêu hãnh nghề nghiệp của tôi đã ảnh hưởng biết bao đến quyết định giữ mức khách quan của tôi.
Xét cho cùng, một bài xã luận phải là một phương tiện trình bày tư tưởng cá nhân, đấy mới là mục đích của nó. Thế nhưng với loạt bài báo tôi viết vừa rồi, tôi đã mới chỉ coi nó như phương tiện thông tin thôi.

Như vậy, rốt cuộc, xem ra là tôi chưa viết bài cuối cùng. Sẽ phải có thêm một bài nữa - một bài tổng kết. Chỉ có một vấn đề: tôi sẽ diễn tả những cảm tưởng của mình về Mễ Du đến mức nào? Tôi vẫn không sẵn sàng để nói với bất cứ ai là tôi được nhận một sứ điệp riêng từ vị Khách thiên đình đó.

Khi về lại văn phòng, tôi khóa cửa và giam mình trong đó. Đầu óc tôi luôn sáng suốt, tỉnh táo, khi tôi ngồi trước máy đánh chữ. Thế là tôi cho giấy vào máy và bắt đầu diễn tả những cảm nghĩ riêng của tôi. Tôi tự bảo mình chỉ làm như thể suy nghĩ lớn tiếng, thế thôi, chứ không cố ý viết thành một bài báo. Nhưng đồng thời, tôi linh cảm thấy các ý nghĩ của tôi sẽ được phơi bày trên trang giấy, khi viết xong.

Ngày 5-2-1986
Những ý nghĩ cá nhân về Mễ Du


Tôi đã có đôi chút tự hứa với chính mình sẽ không viết về các biến cố Mễ Du trong một thời gian. Nhưng tôi thấy mình không làm vậy được - ít nhất cho đến khi tôi có được cơ hội để nói về vấn đề ấy theo quan điểm cá nhân của tôi.

Người ta có thể đề cập đến biến cố Mễ Du bằng nhiều cách. Có người hiếu kỳ, thích bất cứ điều gì khác lạ ngoài khuôn khổ bình thường chỉ vì tò mò; có những người không tin thì phỉ báng, giễu cợt những trò vớ vẩn vượt ngoài khuôn khổ mắt thấy tai nghe thông thường; và có những người tin. Họ tìm kiếm Dấu lạ và những lý do để củng cố lòng tin của mình. Đôi khi, họ tự biến thành nạn nhân vì quá cả tin.

Mễ Du có thể dẫn người ta vào một trong những cách xử lý trên, hay một cách nào khác nữa. Xét cho cùng, bạn đang giáp mặt với một biến cố bày tỏ một điều gì vượt quá sự thông thường. Chúng ta được bảo cho biết rằng Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, Thân Mẫu Đức Giêsu, đang hiện ra với một nhóm thiếu niên, tại một làng xa xôi trong một nước Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta được nghe nói là sự việc đó đã xảy ra từ ngày 24 tháng 6 năm 1981, và còn tiếp tục hiện ra cho đến hôm nay. Và chúng ta được nghe là ta phải cấp tốc hòa giải với Thiên Chúa càng sớm càng tốt, vì trên hoàn cầu loài người đang sa sút trầm trọng về lòng tin vào Thiên Chúa.

Nếu phải liệt tôi vào hạng người nào nói trên, thì tôi được xếp vào hạng người hiếu kỳ, đó là lý do chính khiến tôi quan tâm đến biến cố độc đáo này lúc đầu. Trong một lần nói chuyện với bạn bè, bất ngờ tôi nghe nói về Mễ Du. Thấy thích thú, tôi bắt đầu mày mò tìm hiểu. Tôi tưởng sẽ dùng câu chuyện này làm một bài báo hay cho mùa Giáng Sinh. Nhưng không ngờ, khi triển khai, thì bằng cách này cách khác, nó đã phát sinh thành một loạt bốn bài, mà tầm mức lại vượt quá khuôn khổ một bài xã luận thường kỳ của tôi. Nó đã trở thành một việc quan trọng bậc nhất trong đời tôi. Ít ra, tôi có cảm tưởng như vậy. Tại sao? Lúc ấy tôi không hiểu được. Bây giờ, thì tôi đã hiểu.

Phép lạ đích thực của Mễ Du là sự hoán cải của người dân sống ở đó. Nó cũng là sự hoán cải của những ai nghe về Mễ Du mà canh tân, hối cải và hòa giải, hoặc bất cứ danh từ nào mà các bạn muốn.

Đó là sự khám phá hay tái khám phá đức tin, đúng như ý nghĩa của nó. Một sự hiệp nhất lại với Thiên Chúa và những gì Ngài muốn nơi chúng ta.

Hằng ngày, thư bạn đọc yêu cầu gửi cho bản sao của cả bốn phần bay đến tòa soạn. Đến bây giờ, hơn 135 bản đã đến tay bạn đọc. Để được vậy, đòi hỏi mọi người phải gửi tới một bao thư dán tem, ghi sẵn địa chỉ; việc ấy chẳng mấy ai thích làm, trừ phi vì một điều gì đó rất quan trọng. Tôi đã nhận được vô số cú điện thoại gọi đến, và ở nơi nào tôi đến, người ta đều muốn nói chuyện về Mễ Du.

Hầu hết những người đã viết thư, gọi điện thoại hoặc nói chuyện với tôi về Mễ Du, đều thú nhận họ cảm thấy có một điều gì đang xảy ra tại đó - một điều không thể giải thích bằng những phương pháp khoa học thông thường. Phần đông chấp nhận nó vì nó như vậy. Một số người khác cho tôi biết biến cố đã thay đổi đời sống của họ. Nếu chỉ một ai đó cảm nghiệm được như vậy thôi, thì loạt bài này của tôi cũng đã đáng công rồi.

Cá nhân tôi, tôi tin Đức Trinh Nữ Maria đang hiện ra tại Mễ Du. Tôi tin mạnh mẽ đến nỗi tôi dự tính đến đó trong năm nay. Tôi không giải thích được niềm phấn khích mà biến cố ấy đã mang đến cho đời tôi. Tôi tin mạnh mẽ đến nỗi tôi dự định tiếp tục nghiên cứu, tham khảo về Mễ Du, và nói chuyện với những ai đã đến đó.

Tôi cũng hi vọng nhận được sự cho phép đăng lại trong loạt bài này những đoạn trích từ một trong những sách viết về Mễ Du. Đó là quyển sách cập nhật và đầy đủ nhất, lưu hành trong tháng 5 năm 1985.

Tôi luôn cố gắng viết đúng những gì tôi cảm nghĩ và tin tưởng. Theo tôi, đó là điều mà một nhà văn phải làm. Viết ra câu chuyện này với những cảm nhận thật của mình, quả là một điều hơi khác thường đối với tôi, nhưng tôi lại cảm thấy mình phải làm như vậy.

Chúc các bạn một tuần lễ tốt đẹp!

* * *


Bài viết này đã thật sự tóm tắt và tổng kết vấn đề. Nó còn ràng buộc tôi phải xưng ra những cảm nhận thật của mình trên giấy trắng mực đen - một điều mà tôi vô cùng mong, nhưng tôi cứ chần chừ, vì lý do này khác. Thông điệp Đức Trinh Nữ ban cho tôi đã bảo tôi: đây là sứ mệnh của đời tôi, nếu tôi chấp nhận. Trong khi nghiên cứu các sách về Mễ Du, tôi để ý thấy Người không hề bảo bất cứ ai phải làm một việc gì, Người luôn luôn chỉ yêu cầu thôi. Ngay cả các thị nhân cũng khẳng định Người chỉ yêu cầu - xin - chứ không bảo các em phải đi tu làm linh mục, hoặc nữ tu. Khi Ivanka và Mirjana cho thấy hai em dự định lập gia đình, Đức Trinh Nữ Diễm Phúc nói đó là sự lựa chọn của các em, và Người sẽ tôn trọng. Tôi biết điều Người yêu cầu tôi, song hình như tôi coi đó chỉ là một yêu cầu chấp nhận viết về Mễ Du và sống một cuộc đời tốt hơn thôi. Còn lời kêu gọi lấy Mễ Du làm sứ mạng đời mình thì tôi phớt lờ.

Trong hai tháng qua, nhiều sự việc đã xảy đến như để giúp tôi tăng trưởng về mặt thiêng liêng rất cần thiết cho công tác, ấy thế mà lúc đó tôi không nhận ra. Sự việc thứ nhất: tôi khám phá ra chuỗi hạt Mân Côi. Chuyện là thế này: Có một bà bên Nhà thờ Công giáo vùng đó gọi điện thoại xin tôi gởi bản sao các bài báo cho bà. Bà tự giới thiệu bà là người phụ trách gian hàng bán đồ vật lưu niệm tại Nhà thờ, và bà gọi điện thay mặt một nhóm nữ tu ở đây. Bà nói: “Chúng tôi không biết cám ơn ông làm sao cho đủ, vì đã viết về Đức Mẹ Mễ Du. Các chị nữ tu và tôi có một món quà cho ông. Chúng tôi mong ông ghé qua Nhà thờ ngày thứ bảy, lúc năm giờ chiều. Chúng tôi muốn cho ông thấy chúng tôi đánh giá cao về những gì ông đã làm. Ông chỉ cần xin gặp bà Alford.”

Hết sức cảm động, tôi đồng ý ghé qua, tuy hơi ngại ngùng, vì tôi chưa bao giờ đến một Nhà thờ Công giáo. Gian hàng đồ vật lưu niệm nằm ngay ngoài hàng hiên, và tôi gặp bà ấy ở đó. Bà nói: “Cứ gọi tôi là “Taxi”, ở đây, người ta quen gọi tôi như vậy.” Rồi đưa tay ra, bà nói: “Dạ đây, tôi muốn tặng ông cỗ tràng hạt này. Nó từ Fatima đấy.”
Tôi nhìn xâu chuỗi hạt nhỏ bằng gỗ: “Ồ, cám ơn bà. Chắc vợ tôi sẽ thích lắm!”

- “Không, không, cái này là cho ông. Ông có muốn thêm một cái nữa cho bà nhà không?”

- “Ồ, không, đó chỉ là... ờ...ờ … tôi sẽ làm gì với cái này?”

Bà phá lên cười: “Đúng rồi! Ông đạo Tin Lành nên không biết chuỗi Mân Côi là cái gì. Đó là một loại kinh nguyện, tên Mân Côi, nghĩa là một vòng hoa hồng đặt dưới chân Đức Kitô. Cuốn sách bỏ túi này sẽ cho ông biết cách sử dụng. Ông biết không, ông cần phải tìm hiểu thêm về người Công giáo chúng tôi và những điều chúng tôi tin.” Bà mỉm cười tiếp: “Ủa, mà sao ông không đến dự lễ với tôi? Vài phút nữa là bắt đầu.”

- “À, tôi không biết, tôi phải...”

- “Thôi mà, không làm ông đau đâu!” bà mỉm cười, “với lại Lễ không lâu đâu.”

Thế là tôi dự Thánh Lễ Công giáo đầu tiên của tôi. Thoạt đầu, tôi hơi bứt rứt, nhưng sau đó thì ngạc nhiên, vì thấy Thánh Lễ Công giáo sao mà giống lễ nghi bên Tin Lành Lutêrô chúng tôi quá. Quả thực, chỉ trừ một vài từ, còn phụng vụ đôi bên hầu như y hệt. Điểm khác biệt chính yếu là phần Hiệp Lễ, hoặc phép Thánh Thể - như họ gọi. Tôi yêu mến việc phụng tự ấy. Khi tan lễ, tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà, nghĩa là cho đến lúc tôi được gặp vị mục tử (Cha Quản Xứ Nhà thờ đó). Tôi biết ông ít ra từ chín năm nay, vì cả hai chúng tôi là thành viên của câu lạc bộ dân sự địa phương. Khi đang chuyện trò với ông ở hàng hiên Nhà thờ, thì có một giáo dân nhận ra và nói với ông: tôi là tác giả của mấy bài báo về Mễ Du, “nơi mà Đức Thánh Mẫu Hồng Phúc đang hiện ra hơn bốn năm nay”, bà ta nói thêm.

Đột nhiên, ông bạn tôi lùi lại, khua tay và kêu lên: “Không, không, không! Anh đừng có dính dáng vào mấy cái trò hão huyền đó! Anh là một ký giả, Wayne ạ! Anh nên biết mấy chuyện đó không có thực, đó chỉ là những chuyện hoang đường, hoặc do tưởng tượng quá mức thôi!”

Chúng tôi đứng đấy trong im lặng sửng sốt. Cuối cùng, một trong các phụ nữ có mặt hỏi ông: “Thưa cha, cha không tin có việc hiện ra tại Mễ Du? Cha không tin Đức Mẹ đang hiện ra ở đó à?”

- “Dĩ nhiên là không!” ông kêu lên. “Tôi không tin bất cứ thứ hiện ra nào cả. Chúng ta không cần những cuộc hiện ra của Đức Mẹ hoặc của bất cứ ai; chúng ta chỉ cần không rời mắt khỏi Chúa Giêsu. Chỉ có thế thôi!”

Tôi choáng váng; tôi vừa nhận được phản ứng tiêu cực đầu tiên đối với các bài báo - mà lại từ một linh mục Công giáo! Sau vài phút nói chuyện gượng gạo, tôi cám ơn bà “Taxi” về món quà xâu chuỗi của bà và xin kiếu.

Tôi khó mà xua đuổi khỏi đầu câu trả lời tiêu cực của linh mục vừa rồi, và linh cảm đấy sẽ không phải lần cuối tôi phải nghe câu trả lời kiểu đó. Tôi cứ ngây thơ tưởng là mọi người Công giáo đều đơn giản nhìn nhận những vụ hiện ra như là một phần của Giáo Hội họ. Sau này, tôi mới khám phá ra giữa những người Công giáo với nhau, kể cả linh mục và tu sĩ, cũng có những tranh cãi về Đức Trinh Nữ Maria và những vụ hiện ra, như trong những giáo phái Kitô giáo khác.

Trong lúc ấy, tôi ra sức tìm hiểu về kinh Mân Côi. Tôi mới vỡ lẽ ra, kinh Mân Côi không phải là của riêng bên Công giáo, mà là một kinh nguyện đẹp đẽ. Nhưng lần đầu tiên khi đọc thử, tôi không tài nào tập trung tâm trí lâu đủ để nhận ra cái đẹp của ý nghĩa kinh ấy.

Xét kỹ lại thì ra, trước khi được biết về Mễ Du, thời gian tôi dành cho việc cầu nguyện dồn lại chỉ được chừng năm phút mỗi tuần. Còn việc lần hạt này, nếu đọc cho sốt sắng thật lòng, phải mất tối thiểu 20 phút.

Chính trong thời gian hồi sức sau bệnh cúm, tôi bắt đầu nghiệm được cái hay đẹp và sức mạnh của kinh Mân Côi. Tôi khám phá ra rằng đó là một kinh nguyện tổng hợp những suy niệm và những câu Lời Chúa trích ra từ Kinh Thánh, tập trung vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật vậy, nó như là tiểu sử rút gọn của cuộc đời Chúa Giêsu. Tôi quyết tâm nguyện kinh này hằng ngày - không phải vì Mễ Du, hay đặc biệt vì sùng kính Đức Maria, mà là vì chính tôi. Chưa bao giờ tôi có cảm giác hầu chuyện với Chúa một cách sâu đậm đến như thế.

Rồi đến sự việc đi thăm Cha Sylvester Scotti lần thứ hai. Trước đó, bài xã luận thứ tư đã ra mắt độc giả và cha Scotti đã đọc bài phỏng vấn ông trong đó. Mấy hôm sau, ông gọi tôi để cám ơn, nhưng giọng ông lại nghiêm trọng một cách không tự nhiên. Ông muốn tôi đến thăm ông càng sớm càng tốt. Ông gọi đến, tôi mừng quá, vì tôi rất muốn gặp ông lần nữa. Tôi cũng nghĩ ông có thể sẽ chỉ cho tôi biết nên đọc tiếp sách nào. “Chiều này thì sao ạ?” tôi hỏi, hi vọng ông sẽ rảnh.

- “À... Tôi có một cái hẹn đi ăn tối nay, nhưng trước đó, tôi gặp anh cũng được.”

Tôi bảo đảm sẽ có mặt ở đó trong vòng một giờ nữa. Đến nơi, tôi nhận thấy có vẻ gì khang khác nơi ông. Vẫn mừng khi gặp tôi như lần trước, nhưng lần này, ông có vẻ nghiêm nghị hơn, và hơi lo lắng. Cà phê có rồi, chúng tôi nói chuyện với nhau hơn hai giờ. Sau cùng, ông nhắc tôi ông có cái hẹn tối nay và không còn nhiều thời gian để bàn bạc với nhau. “Tôi có mấy quyển sách muốn tặng anh đây”, ông vừa nói, vừa trút hết sách trong kệ ra cho tôi.

Đa số sách ấy viết về Đức Maria - lịch sử vai trò của Người trong Giáo Hội; chuyện về các linh mục và những người có lòng sùng kính Người. Nhiều quyển khác viết về Giáo Hội tiên khởi. Phút chốc, chúng tôi đã làm đầy một thùng giấy lớn. Tôi cam đoan sẽ đem trả lại cho ông ngay khi đã đọc xong.

- “Cứ giữ đi!” ông nhấn mạnh và bằng một cử chỉ khua tay, gạt ý định trả sách lại của tôi. “Anh biết không”, ông nói với vẻ đăm chiêu, “Tôi hiến trọn đời tôi cho Đức Maria. Cứ mỗi kỳ nghỉ mà tôi có được, tôi đều đến Fatima hoặc Lộ Đức, hoặc Knock - những nơi Người đã hiện ra.” ông ngừng một chút, “Chắc là tôi đã biến thành một người kỳ quặc”, ông thở dài, “nhưng tôi cho là đáng công. Và dĩ nhiên, Mễ Du là nơi vượt trổi hơn hết!” Ông nhìn đồng hồ tay: “Tôi phải sửa soạn để đi. À này, còn một cái tôi muốn tặng anh trước khi anh về. Đợi một chút để tôi đi lấy.”

Ông trở lại, tay ôm một thùng gỗ cao khoảng 1 mét, rộng 30 phân. Đó là một bức tượng Đức Maria: “Bức tượng này rất đặc biệt”, ông giải thích, “Tôi đem đi Roma và được Đức Giáo Chủ làm phép. Làm chuyện này kể cũng điên thật, nhưng hễ tôi đi Mễ Du, tôi cũng đem theo luôn.” Ông im lặng và nhìn vào mắt tôi: “Tôi muốn anh đem về nhà, giữ nó vài tuần.”

- “Cha Scotti, tôi không thể nhận cái này được! Tôi làm vỡ mất.” Tôi cứ mường tượng bộ mặt của Terri, khi tôi bước vào nhà với một bức tượng Đức Trinh Nữ Maria cao 1 mét như vậy. Nàng vẫn lo tôi “bị ám ảnh bởi Mễ Du”, như cách nói của nàng.

- “Không”, ông nói nghiêm trang đến nỗi tôi không còn cách nào cãi được, “Anh phải nhận lấy. Tối nay, cứ giữ lấy trong vài tuần.”

Tôi thở dài, miễn cưỡng chấp nhận, rồi hai chúng tôi mang bức tượng và thùng sách ra xe. Sau khi “cốp” xe đã đóng lại xong xuôi, ông tỏ vẻ vô cùng nhẹ nhõm, như trút được gánh nặng nghĩa vụ nào đó. Ông mỉm cười: “Rồi đó, anh đã được giao cho tất cả những thứ này. Hãy sử dụng chúng thật tốt!”

- “Vâng, tôi hứa.” tôi mỉm cười. “À, tuần tới, tôi có việc phải đi ra ngoài thành phố vài ngày, nhưng khi tôi về, chúng ta sẽ gặp lại. Thứ hai, tuần sau nữa, được chứ ạ?”

- “Được, được”, ông lơ đãng gật đầu. Tôi nhủ thầm sẽ gọi điện để nhắc ông.

- “Xin Chúa ở với anh, Wayne ạ!” ông nói lặng lẽ.

- “Và cũng ở với Cha nữa”, tôi vui vẻ nói qua cánh cửa mở. “Thứ hai sau nữa sẽ gặp lại Cha nhé!”

Trên đường về, tôi cố nghĩ cách để đưa bức tượng Bà Maria vào nhà. Chuyện không dễ chút nào. Terri đang lo là tôi nhiệt tình quá đà, mà đây sẽ là bằng chứng cụ thể. Nhưng may quá, khi tôi đến nhà, thì nàng đang bận làm cơm tối trong bếp. Phòng giặt ở ngay cạnh nhà để xe, nên tôi đưa cái thùng gỗ vào đấy và mở ra.

Bức tượng làm bằng thạch cao, tô màu bằng tay rất thanh nhã, tôi nghĩ đây là vật đẹp nhất tôi chưa từng thấy! Tôi cẩn thận lấy tượng ra khỏi thùng, rồi nhón chân bê nó đi ngang qua nhà bếp, vào phòng ngủ và đặt nó lên trên một cái bàn thấp. Xong rồi, tôi gọi Terri và Kennedy vào phòng ngủ.

Tôi đứng ngay cửa để quan sát sắc mặt của hai người. Kennedy thì ngỡ ngàng, còn Terri nhíu mày, tay chống nạnh và quay lại phía tôi.

- “Cái này đẹp quá hả em?” tôi hỏi, hi vọng tháo được ngòi nổ tôi thấy trong mắt nàng.

- “Đẹp!”, nàng nói thong thả, vừa lắc đầu. “Em không ngờ là anh đã đi xa đến thế trong cái vụ Bà Maria này! Anh lấy ở đâu ra cái này?”

- “Cha Scotti bảo anh đưa về nhà giữ trong vài tuần.”

- “Anh biết không, anh thật làm em lo lắm! Anh nói câu nào thì cũng là Maria, Maria! Vậy còn chỗ nào cho Chúa Giêsu?”

Sửng sốt bởi câu đáp của nàng, tôi lắp bắp: “Terri à, anh hiện cầu nguyện với Chúa Giêsu, anh chưa bao giờ gần gũi với Ngài hơn bây giờ. Thực ra, bây giờ anh cầu nguyện nhiều hơn bao giờ hết - tất cả là nhờ Đức Maria. Người chỉ đường cho anh đến với Chúa và anh không đặt Người choán chỗ của Chúa Giêsu đâu, tin anh đi!”

Nàng cứ lắc đầu, chẳng buồn nghe tôi nói. “Vậy thì anh sẽ đưa nó ra khỏi đây”, tôi thở dài nói với sự nhẫn nhịn, “để đặt ở phòng khác.”

- “Không, để yên đó. Anh đừng lo, có hai tuần thì em sống với nó được.”

Thứ hai sau, tôi đi công tác, và khi gọi điện về nhà đêm đó - như tôi vẫn làm khi đi xa -, Terri trả lời với giọng hơi khang khác. Tôi hỏi nàng có chuyện gì xảy ra, nhưng nàng trấn an tôi là mọi sự đều yên ổn. Khi về đến nhà tối thứ năm và khi đã cho bọn trẻ đi ngủ, tôi mới biết đó là chuyện gì. Terri nói cách bình tĩnh: “Em phải nói cho anh hay chuyện này. Hôm thứ hai, Jim Stoffel gọi điện thoại báo cho biết cha Scotti đã qua đời sáng hôm ấy, do một cơn đau tim đột ngột. Em không muốn nói với anh qua điện thoại trong lúc anh đang đi xa.”
Tôi ngồi đừ ra đấy, bần thần vì hung tin, rồi đi vào phòng ngủ. Tôi đóng cửa lại, ngồi ở mé giường, đăm đăm nhìn bức tượng Đức Maria. Nước mắt tôi lăn dài trên má. Bất chợt, tôi nghe như có tiếng cười của cha Scotti, và tôi cảm thấy lòng mình trào dâng một niềm vui. Tôi thấy chuyện ấy, một cách nào đó, không thể buồn được. Dường như tôi đã hiểu ra: cha Scotti đã nhận được điều ông mong ước từ lâu: một chỗ trên thiên đàng.

Tôi ra khỏi phòng, đến với Terri và nói cho nàng cảm nghĩ của tôi: “Anh tin là ông bây giờ đang ở trên thiên đàng, và ông được hạnh phúc, rất, rất hạnh phúc!” Tôi lắc đầu: “Đây là một cảm giác lạ lùng nhất!”

- “Jim Stoffel biết anh sẽ bị đau buồn, nên anh ấy...”

- “Nhưng anh không đau buồn, không như anh ấy nghĩ đâu. Anh chỉ mừng cho cha Scotti thôi. Anh thật tình không thể giải thích điều đó được.” Tôi cau mày, “Mặc dù vậy, anh cũng không biết phải làm gì với bức tượng bây giờ. Anh nhớ hình như ông có nói về một người em gái ở đâu đấy - hoặc cũng có thể ông muốn anh giữ bức tượng đó luôn chăng?” Terri cắt ngang: “Em không thích nói cho anh điều này, nhưng Jim Stoffel bảo bức tượng đó không thuộc về cha Scotti, nó thuộc về địa phận, và phải được trả về cho địa phận, để cho các Nhà thờ thay phiên mượn. Anh ấy nói nếu sáng mai anh đem qua nhà anh ấy, anh ấy sẽ mang đi trả giùm anh.”

Tim tôi tan nát, nhưng cuối cùng, cũng phải đồng ý. Tối hôm ấy, khi nghĩ về hai lần đến thăm cha Scotti, tôi nhận ra là ông đã cho tôi biết bao điều, duy chỉ trong một thời gian ngắn như vậy - vượt xa những quyển sách và pho tượng. Hơn nữa, tôi tin chắc, một cách nào đó, ông biết mình sắp chết, nên đã chủ tâm tặng cho tôi tất cả các thứ ấy. (Điều này đã được cô em của ông xác nhận với tôi như vậy sau này, khi tôi gặp cô trong một chuyến đi thuyết trình tại bang Florida).

Sáng hôm sau, khi nhẹ nhàng đặt pho tượng vào thùng, tôi nói với Terri: “Đấy, chắc em sẽ sung sướng khi thấy pho tượng này ra đi.”

- “Không”, nàng nói với giọng nghẹn ngào, “tượng đẹp thật!” Và nước mắt nàng trào ra.

hoanghac
12-07-2012, 03:48 AM
“Hãy tích cực sống và loan truyền sứ điệp...”

Chương 10

HÃY ĐẾN MÀ XEM

Tôi phải đi Mễ Du - và đi sớm. Không phải để chứng minh việc hiện ra ở đó là có thực. Bài báo cuối cùng tôi viết đã công khai cho biết ý tưởng của tôi nhìn nhận như thế. Tôi muốn đi để tự mình cảm nghiệm sự thiêng liêng của nơi ấy. Việc chuyển giao quyền sở hữu của mấy tờ báo sẽ kết thúc vào đầu tháng tư; tôi sẽ đi ngay sau đó, càng sớm càng tốt.

Bài báo cuối cùng cũng đã giải phóng tôi khỏi nô lệ vào ham muốn được người khác nghĩ tốt về mình. Tôi không còn bận tâm đến uy tín nhà báo nữa. Trong tôi hiện nay đã chớm nở một sự hiểu biết sơ đẳng về điều mà Đức Trinh Nữ Maria đề cập đến, khi Người kêu gọi mọi người hãy ăn năn trở lại tận đáy lòng. Và, chẳng cần phải nói đâu xa, việc Người yêu cầu tôi cộng tác tích cực vào việc loan truyền sứ điệp Mễ Du không bao giờ xa rời tâm trí tôi.

Trong khi đó, những tin tức sốt dẻo về Mễ Du cứ tiếp tục đến, do vậy, tôi thấy cần viết thêm một bài báo nữa để bắt kịp tình hình, trước khi tôi lên chương trình cho chuyến đi.
“Cái này coi bộ dễ làm đây”, tôi nghĩ thế, khi đánh vào máy cái tựa đề và ngày tháng... Tôi khởi sự bằng cách thuật lại nguồn gốc câu chuyện, rồi tiếp tục như sau:
Ngày 5-3-1986
Tin tức mới nhất về biến cố Mễ Du
Con số tổng cộng của hiện tượng được báo cáo là hiện ra, tính đến nay đã gần 2.000 lần! Chưa bao giờ trong lịch sử, những cuộc hiện ra của Đức Maria lại có một tình trạng như vậy. Vào giai đoạn đầu của sự kiện này, vị Khách Thiên Đình có hứa tiết lộ mười bí mật, hoặc sứ điệp, cho mỗi em trong sáu thiếu niên... Các thị nhân nói là chỉ có bốn bí mật có liên hệ chung đến tất cả nhân loại, mấy bí mật khác liên hệ đến cá nhân mỗi em, hoặc đến cộng đoàn giáo xứ Mễ Du.

... Sứ điệp chính của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc đã được giải thích rõ ràng. Qua những lần hiện ra, Đức Maria đã lặp đi lặp lại về sự phải quay trở về với Thiên Chúa, ăn năn thống hối, tăng cường lòng tin, chay tịnh, cầu nguyện, hòa giải với tha nhân và bình an cá nhân - mà chỉ có những người đã khám phá ra ý nghĩa đích thực của mối tương quan đích thân với Thiên Chúa mới biết được mà thôi.

Những độc giả thường xuyên của báo chúng tôi (The News & Shopper) đã có dịp đọc loạt bốn bài báo về sự kiện ở Mễ Du, phát hành từ tháng 12 đến đầu tháng giêng. Bài báo dưới đây nhằm cập nhật những thông tin về tình hình của sáu thiếu niên trực tiếp liên can đến những cuộc hiện ra.

Hiện giờ, chỉ còn bốn thị nhân tiếp tục được Đức Maria hiện ra hằng ngày ở bất cứ nơi nào họ có mặt. Đó là Vicka, Marija, Ivan và Jacov. Hai em khác, Mirjana và Ivanka, đã không còn thấy Đức Trinh Nữ Maria hằng ngày nữa. Hai em đã lãnh xong mười bí mật: Mirjana nhận vào ngày lễ Giáng Sinh 1982, và Ivanka ngày 6-5-1985. Từ đó, hai em không còn được thấy Người hằng ngày nữa. Đức Trinh Nữ Maria hứa với Ivanka là Bà sẽ đến thăm em vào ngày kỷ niệm lần hiện ra đầu tiên (25-6); còn với Mirjana, Người hứa sẽ hiện ra với em vào ngày sinh nhật của em (18-3), bao lâu em còn sống, cũng như trong những lúc khó khăn của đời em. Trong một lần phỏng vấn, người ta hỏi Mirjana tại sao Đức Maria hứa hiện ra và giúp em trong những lúc em gặp gian nan, mà lại không đến cứu giúp chúng tôi như vậy trong những lúc khó khăn của chúng tôi? Mirjana đáp: “Tôi không nói về những khó khăn thường tình của cuộc sống riêng của tôi. Những lúc khó khăn của tôi phát sinh từ những bí mật có liên can đến tương lai thế giới, mà Đức Mẹ tiết lộ cho tôi. Lắm lúc, tôi thấy mình không chịu nổi khi nghĩ về những bí mật ấy. Những lúc đó, Đức Mẹ hiện ra ban cho tôi sức mạnh và lòng can đảm để tiếp tục sống.”

Cả hai em Mirjana và Ivanka nhận từ nơi Đức Trinh Nữ Diễm Phúc một miếng vải trông giống như giấy, nhưng không phải giấy - một thứ vải mà không phải vải. Trên mảnh vải ấy có ghi tất cả mười bí mật, với ngày, tháng, cả giờ, phút nữa. Chính mỗi em trong hai em này mới đọc được những bí mật được giao cho riêng mình.

Tấm giấy, hoặc vải, hoặc gọi là vật gì đi nữa, không thể bị phá hủy bởi lửa. Đức Maria bảo mỗi em trong hai thị nhân này chọn một linh mục, để gởi cho ngài tấm giấy/vải có ghi mười bí mật đó mười ngày trước khi chúng xảy ra. Về phần linh mục ấy, nhờ sự trợ giúp của Đức Maria, sẽ đọc được sứ điệp của mỗi bí mật và sẽ công bố ba ngày trước khi nó xảy ra. Ông sẽ mô tả đầy đủ tính chất, thời gian, chi tiết đến từng giờ phút và nơi xảy ra của bí mật ấy.

Linh mục sau đó sẽ trả lại vật ấy cho thị nhân đã trao nó cho ông. Ông sẽ không đọc được tất cả mười bí mật cùng một lúc, mà chỉ đọc được từng bí mật một, lúc cần công bố nó ra. Mirjana đã tiết lộ tên của linh mục mà em đã chọn. Theo Mirjana, Đức Mẹ rất hài lòng việc em lựa chọn linh mục đó, vốn là - theo ý Người - một linh mục tốt.

Cha Petar Ljubicic (trái), vị linh mục được cô Mirjana chọn để tiết lộ 10 bí mật, đang làm chứng ở một buổi hội nghị.
Mirjana kể lại một chuyện liên can đến việc lựa chọn linh mục này: “Khi tôi phải chọn một linh mục để công bố các bí mật, tôi đưa tên vị linh mục ấy cho cha Tomislav Vlasic, dòng Phan Sinh (lúc đó là Linh hướng của các thị nhân). Khi nghe tôi nêu tên của linh mục mà tôi chọn, cha Tomislav Vlasic nói: “Ngài ở xa Mễ Du, con nên chọn cha nào khác đang ở gần đây.” Tôi trả lời: “Đức Mẹ sẽ lo chuyện đó.”

Ít lâu sau, chính xác là vào tháng 8 năm 1984, Đức Giám mục Zanic thuyên chuyển cha Vlasic khỏi Mễ Du đi nơi khác, và thay thế bằng linh mục mà Mirjana đã chọn để công bố các bí mật được giao phó cho em. Điều trớ trêu ở đây là Đức Giám Mục Zanic không tin vào chuyện hiện ra, và đã làm đủ cách có thể để ngăn cản vụ việc này.

Sự kiện Mirjana đã chọn xong linh mục để công bố các bí mật là dấu cho thấy thời gian dành cho bí mật thứ nhất xảy ra đang đến gần. Những bí mật khác, với khoảng cách thời gian rất ngắn, sẽ xảy ra tiếp theo.

Vicka, thị nhân lớn tuổi nhất, mới nhận được tám bí mật thôi. Cô đã ghi chép xong về cuộc đời của Đức Trinh Nữ trên trần gian - Đức Maria đã đọc cho cô chép. Từ hai năm qua, cô phải chịu đựng những cơn đau đầu dữ dội, gây ra bởi một bướu nước nằm giữa đại não và tiểu não. Các bác sĩ ở thủ đô Zagreb, nước Croatia, không muốn giải phẫu, vì vị trí cục bướu quá tế nhị. Cô đau đớn lắm, nhất là vào buổi chiều cô thường bị hôn mê. Tuy vậy, trước giờ Đức Maria hiện ra hằng ngày tại căn phòng nhỏ bé, đơn sơ của cô, cô lại tỉnh táo như thường. Các bạn của Vicka và các bạn của Mễ Du đã đề nghị hỗ trợ mọi kinh phí cho việc di chuyển, thuốc men, viện phí, nếu cô muốn đến Hoa Kỳ, Luân Đôn hay Thụy Sĩ để giải phẫu. Khi người ta ra sức thuyết phục cô, câu trả lời đơn sơ của cô là: không. Được hỏi tại sao, cô nói: “Đức Mẹ nói với tôi là Thiên Chúa gởi đến cho tôi chứng bệnh này với một mục đích đặc biệt, và tôi đã chấp nhận!” Có người lại hỏi: “Có bao giờ Đức Mẹ nói sẽ chữa lành cho cô không?” - “Không, và tôi cũng không xin Người chữa cho tôi!”

Thiếu nữ đang tuổi xuân xanh tươi trẻ này sinh trưởng trong một gia đình nghèo, nhưng đã từ chối những điều kiện chữa trị đế vương người ta đề nghị với cô, chỉ vì những động lực siêu nhiên. Thử hỏi ai còn có thể kết án cô là dối trá, gian lận hoặc lừa bịp?

Thị nhân Vicka xuất thần trong một buổi diện kiến Đức Maria.
Đời sống của Vicka tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Thần Khí ấy rạng rỡ trên khuôn mặt cô, ngay cả những lúc cô bị hành hạ vì cơn đau.

Marija, thị nhân đã nhận xong chín bí mật, và còn đang nhận những sứ điệp dành cho giáo xứ Mễ Du mỗi ngày thứ năm, luôn gây một ấn tượng thánh thiện nơi người được gặp cô.

Ivan đã xin vào đến hai chủng viện, nhưng vì nhiều lý do nên không thành công, nay vẫn hi vọng trở thành linh mục trong tương lai.

Jakov, người trẻ nhất, đang trưởng thành về thể chất lẫn tinh thần, nhưng vẫn rất hiếu động. Trong những buổi phỏng vấn, cậu cố trả lời nhanh để còn có thời giờ đi chơi. Nhưng khi được hỏi một câu nghiêm túc, lập tức cậu trở thành một thiếu niên suy tư và đưa ra những câu trả lời chững chạc.

Tất cả sáu thị nhân đều hoàn toàn ý thức rằng các em bị hiểu lầm, chỉ trích, ngay cả bị kết án bởi những người lẽ ra phải “tôn trọng và bảo vệ các em” - như nhà thần học lừng danh Hans Urs von Balthazar đã nói.

Các em cũng tin chắc rằng mình được Đức Trinh Nữ Maria hiện đến, và sử dụng như những dụng cụ để truyền đạt sứ điệp thiên đàng cho nhân loại.

* * *

“Cập nhật thông tin như vậy được rồi”, tôi vừa nghĩ vừa kéo trang giấy cuối cùng ra khỏi máy chữ. Và bây giờ, tôi tập trung vào việc chuẩn bị cho chuyến đi.

Qua Jim Stoffel, tôi liên lạc được với nhóm “Trung Tâm Hòa Bình” ở Boston, mà mục tiêu duy nhất là loan truyền sứ điệp Mễ Du, bằng cách phân phát sách báo, ấn phẩm, và tổ chức hành hương. Jim đã đi với họ trong chuyến đầu tiên của anh vào tháng 11. Khi tôi biết là họ có một chuyến khác ấn định vào ngày 30 tháng 4, khởi hành từ Nữu Ước, tôi liền đăng ký ngay. Vì con cái còn quá nhỏ, không thể bỏ ở nhà lâu, nên Terri phải ở nhà, và chính nàng cũng muốn như vậy. Nhưng khi ngày lên đường càng đến gần, nàng càng tỏ vẻ không mấy phấn khởi về chuyến đi của tôi.

Một người khác cũng tỏ ra ít khích lệ tôi, đó là mục sư Bill Wingard của tôi. Chúng tôi đã nhiều lần thảo luận sôi nổi riêng trong văn phòng của ông, luôn luôn xoay quanh sự lo lắng của ông. Ông lo rằng trong sự hăng hái của tôi đối với Bà Maria, tôi đang đánh mất cái nhìn vào trung tâm điểm là Chúa Giêsu Kitô. Ông cứ kêu lên: “Tất cả những gì tôi nghe từ miệng anh chỉ là Maria!”

- “Vậy thì thật ra anh không nghe gì hết, vì tôi cứ kêu Giêsu mà anh lại cứ nghe ra Maria.” tôi biện hộ. “Coi kìa Bill, Bà chỉ đang dẫn đường cho tôi đến với Chúa Giêsu thôi!”

Nhưng những cuộc thảo luận luôn luôn dẫn đến tranh cãi về thần học. Ông chỉ trích mấy bài báo của tôi và những sách tôi cho ông ấy mượn đều sai giáo lý Tin Lành Lutêrô. Càng ngày tôi càng thất vọng và buồn, vì từ lâu, chúng tôi chơi thân với nhau.

Dần dần, tôi ý thức được là những người khác trong Giáo hội của tôi chỉ còn biết “mong đợi chàng Wayne vượt qua được chuyện này”, và khi họ thấy là tôi không có vẻ vượt qua được, thì công tác dạy trường Chúa nhật của tôi bị xen kẽ với phiên người khác; cuối cùng, tôi chẳng còn được dạy lớp nào nữa.

Điều mà tôi không ý thức được, đó là tác động của tất cả những việc này trên tôi. Khi làm gần xong thủ tục bán lại những tờ báo, và khi thấy nhà xuất bản của mình vẫn lãnh việc in ấn mấy tờ báo đó, nhờ đó thu nhập (của tôi) vẫn ổn định; tôi bắt đầu nghĩ về tương lai. Một lần nữa, tôi quên bẵng cái phần trong sứ điệp của Đức Maria nói (cho tôi) về việc tôi sẽ không còn ở trong ngành báo chí nữa. Thực tế, là khi dàn xếp với các người chủ mới của mấy tờ báo, tôi vẫn được tiếp tục phụ trách mục của tôi, và thậm chí còn được lãnh một món tiền nhuận bút tượng trưng nhờ đó. Muốn cho việc tôi tiếp tục viết bài xã luận có đủ lý do thì cũng dễ thôi: sau chuyến đi từ Mễ Du về, hiển nhiên là sẽ có nhiều bài báo nữa cần được viết về Mễ Du. Còn trong lúc này, tôi mở lại hai mục như đã có trước đây, chỉ đề cập đến những vấn đề thường ngày của địa phương.

Những toan tính của tôi về tương lai càng lúc càng xoay quanh khả năng cộng tác với một cựu nhân viên của báo chúng tôi, hiện đang làm chủ một công ty quảng cáo. Nhờ có kinh nghiệm làm việc bao quát trong lãnh vực này, tôi sẽ làm tư vấn quảng cáo độc lập.

Đó là đôi nét nổi bật trong suy nghĩ của tôi vào một buổi sáng tháng tư, khi tôi ngồi trong văn phòng, trên chiếc ghế ngả ra phía sau và đầu óc hướng về phía trước khoảng sáu tháng. Bất chợt tôi cảm thấy, một lần nữa, thông điệp mạnh mẽ, rõ rệt từ Đức Maria nổi lên trong lòng: “Nếu con không muốn làm việc (Mẹ trao cho con) đó, một người khác sẽ làm.” Tôi ngồi bật dậy như muốn rớt ra khỏi ghế. Tim đập thình thịch, tôi nhảy lên, kêu lớn: “Có, con muốn làm việc đó!”

Cảm thấy mình có vẻ hơi khùng, tôi phân vân không biết mình có tưởng tượng quá trớn hay không. Nhưng tôi đã mau lẹ xua đuổi ý nghĩ đó, vì tôi biết nguồn gốc và ý nghĩa của lời khiển trách ấy, mặc dù nó có đến với tôi một cách nhẹ nhàng mấy chăng nữa. Từ lúc đó trở đi, tôi không còn để tâm nghĩ đến chuyện làm công việc quảng cáo nữa, mà chỉ tập trung vào việc chuẩn bị cho chuyến đi Mễ Du.

Năm ngày trước khi tôi khởi hành, những hàng tít lớn trên các báo om xòm lên về vụ rò rỉ lò phản ứng hạt nhân của Nga ở Chernobyl. Một cột mây phóng xạ khổng lồ đã bị phóng thích và đang bay qua miền Nam Âu châu và Nam Tư. Thêm vào đó, một đợt khủng bố mới nhắm vào người Mỹ ở châu Âu và Munich vừa nổ ra. Munich, nơi chúng tôi phải ghé để đổi máy bay, chính là một trong những điểm nguy hiểm nhất.

- “Nói thật, em thấy chẳng có lúc nào tệ hơn lúc này để anh đi!” Terri phản đối tôi, khi ngồi sau bàn làm việc của nàng. Vợ tôi quả là một người hợp tác làm ăn rất có giá mà tôi có thể cầu mong được. Mỗi lần tôi bị lạc hướng hoặc trật đường, nàng thường lôi tôi về rất nhanh bằng một vài lý lẽ thực tế đập mạnh vào mắt. Sự thật thường làm đau “cái tôi” và lòng kiêu hãnh của tôi, nhưng nàng vẫn thường có lý.

Hôm nay, nỗi lo của nàng không phải là về công việc. “Đám mây (phóng xạ) đang tràn đến miền ấy, thế mà anh lại đâm đầu vào nó! Như vậy đúng là ngu ngốc!” Nàng ngừng lại, nhưng tôi không nói gì. “Và đó lại là một nước Xã hội chủ nghĩa; làm sao anh biết được những gì họ có thể làm?” Tôi cắn môi. “Em thấy anh chẳng đúng chút nào, khi đi ngay vào lúc mấy tờ báo phải chuyển qua một cách điều hành mới, mà nhất là sau khi anh đã chấp thuận ở lại làm cố vấn cho họ trong hai tháng nữa.”

Tôi không cho nàng biết rằng việc chuyển giao đang diễn tiến trơn tru, và rằng tôi đã thỏa thuận đầy đủ với các người chủ mới của tờ báo cho tôi đi vắng chín ngày. Tôi giữ im lặng, biết rằng Terri cần xả ra hết những lời đó, dù nàng vẫn biết là chúng sẽ không làm tôi đổi ý được.

Ngày 30 đến, nàng lái xe đưa tôi ra phi trường. Tôi cười, nói khi chúng tôi chia tay: “Em đừng lo, anh sẽ không trở về như bóng ma lập loè trong bóng tối đâu! Và anh cũng sẽ không chết rũ trong một nhà tù nào đó ở bên ấy! Anh sẽ về đến nhà trước cả cái bưu thiếp của anh. Chắc chắn mà!”

Nàng cố tạo nụ cười can đảm nhất của nàng khi tôi quay đi và vẫy tay, nhưng nàng chẳng dối được ai, cả tôi lẫn nàng.

* * *

Tại phi trường Kennedy, tôi đi đến phòng đợi chỉ định cho nhóm chúng tôi. Cái thẻ ghi tên gắn trên áo của một phụ nữ có nụ cười rất rộng đang ngồi sau bàn đăng ký cho biết cô là Rose Finnegan, từ Boston. Khi tôi tự giới thiệu, cô ta liền đứng dậy, ôm chặt tôi, la lên: “Chúa chúc lành cho anh, Wayne! Anh là người bạn Tin Lành Lutêrô cùng đi với chúng tôi!”

Nhiều cái đầu quay lại để nhìn anh chàng Tin Lành dớ dẩn này. Gắn xong cái thẻ tên lên áo tôi, cô lùi lại ngắm nghía công trình của mình. Tôi giữ nụ cười vô hồn trên mặt. Như một nguyên tắc, tôi rất ghét mấy cái thẻ gắn tên và, nếu có thể vứt được, không bao giờ đeo nó trong lúc làm nhiệm vụ. Nhưng cái này thì tôi sẽ phải đeo trong tám ngày nữa.

Tôi mang theo nhiều sách về Mễ Du. Chọn một chỗ ngồi cách xa những người khác, tôi chuẩn bị vùi đầu vào một quyển. Nhưng khi rút sách ra khỏi cái túi du lịch mà họ mới cho, mắt tôi chạm vào cái tên trên túi. Tôi cố nhớ lại điều Jim Stoffel đã kể với tôi về Trung Tâm Hòa Bình.

Trung Tâm này bắt đầu với John Hill, một doanh nhân cực kỳ thành công ở Concord, bang Massachusetts. Bất cứ cái gì ông thực hiện đều hái ra tiền, nhờ đã trưởng thành từ cái trường đời khốc liệt mà ông lăn lộn từ tấm bé. Hiện nay, ông làm việc như một loại thầu khoán, đảm nhiệm nhiều thứ cùng một lúc, kể cả làm chủ cái xưởng tái chế đèn đường kiểu cổ và ghế dài bằng sắt uốn.

John có tính độc lập mạnh mẽ. Một người bạn lâu năm tặng ông một băng vidéo về Mễ Du, khi xem xong, ông khẳng định đấy là một sứ điệp hòa bình cho thế giới. Có điều gì đó trong quá khứ bừng dậy trong ông, đánh động ông một cách sâu xa hơn bất cứ điều gì trong nhiều năm. Là một người mang danh Công giáo, nhưng ông đã không đi Nhà thờ từ khi còn nhỏ, chỉ trừ những dịp lễ cưới hay lễ tang; giờ đây, ông đã tìm đến một Nhà thờ và bắt đầu cầu nguyện.
Ivan,Vicka, Ivanka, Marija : họ không khác gì týp thiếu niên choai choai cùng tuổi…


Tôi mỉm cười khi nhớ lại chuyện của ông ta, vốn không khác gì mấy với chuyện của tôi. Hình như Đức Maria đang muốn tuyển mộ một đợt tông đồ độcđáo, “chẳng giống ai”. Tôi lại mỉm cười. Có lần các thị nhân hỏi Người sao lại chọn các em, (các em có tốt gì hơn các bạn trẻ khác đâu) Người cười và đáp: “Mẹ không luôn chọn những người tốt nhất.”

Tin là Chúa đã nói, John và một người bạn bắt đầu Trung Tâm Hòa Bình, lập văn phòng trong xưởng đèn măng-sông và thu hút những người tình nguyện. Theo một nghĩa nào đó, họ chính là những người tiên phong, tổ chức chu đáo những chuyến đi và các tiện nghi, tại một xứ sở còn hoàn toàn nằm ngoài lịch trình đường bay quốc tế.

Đến nay, dĩ nhiên, một tập quán làm việc tốt đẹp đã thành hình, nhưng vào lúc đầu, họ thật là những người mở đường. Điều trớ trêu là chính John vẫn chưa đặt chân đến Mễ Du. Ông ta tin công việc của mình là ở nhà, để làm cho những người khác đi tới đó. Tôi mong đến ngày được gặp người đàn ông này, người đã làm được rất nhiều cho việc truyền bá sứ điệp, nhưng lại không có ý muốn đích thân đến đó.

Họ thông báo đến giờ bay, tôi đứng dậy đi vào hàng. Ai nấy đều xôn xao, chúng tôi sắp lao vào một cuộc phiêu lưu để đời. Đoàn chúng tôi có tất cả 70 người, gồm đủ nam nữ, già trẻ.

Trên máy bay, tôi ngồi cạnh một phụ nữ trẻ có tên Maureen Thompson, từ Philadelphia. Cô rất cởi mở, thân tình, nên chẳng mấy chốc, chúng tôi trao đổi với nhau những câu chuyện đã đưa chúng tôi đến với sự kiện Mễ Du.

Tôi mau chóng phát hiện rằng mọi người trong chuyến đi này đều có một câu chuyện độc đáo giải thích lý do khiến họ có mặt ở đây. Dần dà, tôi biết được đó là một nét chung của bất cứ cuộc hành hương nào.

Trước khi lên máy bay, tôi đã để ý đến Maureen. Vì lý do nào đó, tôi nghĩ cô ấy là một nữ tu. Trang phục của cô trông như là đồng phục, và vì thời nay, một số dòng tu chấp nhận lối ăn mặc tân thời, nên tôi cho đó là lý do cô không mặc áo dòng. Hóa ra cô ấy đang học năm cuối để thành y tá. Cô nghe nói về Mễ Du và khao khát được đến đó, mặc dù có những khó khăn về tài chánh. Cha cô, một nhân viên cảnh sát có năm con, phải cật lực làm việc để nuôi chúng ăn học...

Dẫu vậy, Maureen cứ viết cho Trung Tâm Hòa Bình xin thông tin để tham khảo sau này. Cô đã từng cầu nguyện, than thở với Chúa là cô muốn đi lắm, nhưng khi biết chuyến đi tốn khoảng 1.300 đô, cô kể như xong rồi, chỉ là một giấc mơ đẹp...

Thế rồi, có một lá thư đến từ trường đại học, nơi cô sắp lãnh bằng cử nhân ngành điều dưỡng. Cô chết lặng khi biết mình đã trả dư học phí suốt bốn năm qua, và bây giờ họ hoàn tiền lại cho cô với tấm ngân phiếu hơn 500 đô! Cũng trong tuần đó, cô nghe tin từ cơ quan IRS (quan thuế ?) : cô đã tính lầm tiền thuế lợi tức thu nhập của năm trước, nên họ trả lại cho cô hơn 500 đô! Khi cô kể cho cha mẹ về hai của trời cho phi thường này, họ liền bù thêm một ít nữa cho đủ số tiền để cô đi.

- “Mà ngay cả như vậy, tôi vẫn không thể có mặt đây bây giờ, vì còn phải thi cuối năm vào tuần này.” cô cười, “Nhưng khi thấy tiền đã đến với tôi như thế, tôi nhận ra là chính Rất Thánh Đức Mẹ đang gọi tôi đến Mễ Du. Cho nên tôi làm đơn xin phép đặc biệt để thi kỳ kế tiếp khi trở về, và đơn của tôi lại được chấp thuận!”

Đó là câu chuyện đáng ngạc nhiên - và đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe người ta gọi Đức Trinh Nữ Maria là “Rất Thánh Đức Mẹ”. Thực ra, đây là lần đầu tiên tôi thực sự tiếp xúc với một người rất là “Công giáo”. Ngay lúc đó và nơi đó, Maureen Thompson thành “cầu nối Công giáo” của tôi trong suốt chuyến hành hương. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi sau này, cô bộc lộ cho tôi biết chính cô cũng đã có những trăn trở, ray rứt về lòng tin.

Rồi tôi kể cho cô ấy nghe câu chuyện của tôi - chừa ra sứ điệp của Đức Maria. Cả hai chúng tôi đều phấn khích trước câu chuyện của nhau, thực tế là cả hai đã hăng hái đến nỗi quên cả ngủ mà nói chuyện suốt chín tiếng đồng hồ - về sau, tôi thấy điều này cũng khá phổ biến trong những chuyến đi Mễ Du. Trong thời gian chín tiếng này, có lúc tôi đã nói với cô: “Này Maureen, điều này nghe hơi quái đản, nhưng chúng ta sẽ là bạn bè của nhau đến suốt đời.”

Cô nhìn tôi mỉm cười, đáp: “Vâng, tôi biết.” Có người ngồi mấy hàng ghế trước chúng tôi kéo màn cửa sổ lên, và tôi ngạc nhiên khi thấy mặt trời đã lên cao khi máy bay chuẩn bị hạ cánh.

hoanghac
12-07-2012, 03:54 AM
Chào quí bạn

Xin mời download truyện đọc BÀ LÀ AI do chị Kim Hà và Nguyệt Nga đọc . Nguồn từ memaria.org và www.thuvienaudio.net .

http://imageshack.us/photo/my-images/35/blaifn.jpg/

BÀ LÀ AI ?
Nguyên tác Medjugorje, The Message
Tác giả: Wayne Weible.
Dịch giả: Linh mục Hoàng Minh Tuân
Người đọc: Kim Hà và Nguyệt Nga
(22 tập)
*Chứng từ trung thực và đầy xúc động của một ký giả Tin Lành về Đức Mẹ



LINK MEDIAFIRE:

HIDE MODE: OFF
01 http://www.mediafire.com/?z3rdn3v8e5y5y6s
02 http://www.mediafire.com/?4p4n21c4092aseb
03 http://www.mediafire.com/?bnp5p9peeb56t85
04 http://www.mediafire.com/?luldzak4qx2juru
05 http://www.mediafire.com/?jgw0p5p12h9pcl5
06 http://www.mediafire.com/?c3cbfqxm0t8jftc
07 http://www.mediafire.com/?1bfkab6c1tcz31e
08 http://www.mediafire.com/?q38gwg6xcjiewk5
09 http://www.mediafire.com/?k7p7q66b2c79czn
10 http://www.mediafire.com/?2b9fzuc97o7rvsa
11 http://www.mediafire.com/?12umdgwu42l92se
12 http://www.mediafire.com/?9cd7ag3m937mq2k
13 http://www.mediafire.com/?bu3779iybcg77cb
14 http://www.mediafire.com/?21fdtj9utomnvws
15 http://www.mediafire.com/?u2kdbajvcfn30fd
16 http://www.mediafire.com/?ball5w37vyevog5
17 http://www.mediafire.com/?kq27woc21wy7b94
18 http://www.mediafire.com/?xu2b52sc2rx0s9q
19 http://www.mediafire.com/?svo7549k94x13no
20 http://www.mediafire.com/?8urzkr1qpwljb07
21 http://www.mediafire.com/?d2vhwxmsb3vl0ml
22end http://www.mediafire.com/?qt3ec23xwkir0up

hoanghac
12-12-2012, 04:07 AM
“Hãy cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện. Có cầu nguyện, các con mới biết được niềm vui lớn lao và lối thoát cho mọi hoàn cảnh bế tắc ...”

Chương 11

NGÔI LÀNG

Khi máy bay bắt đầu nghiêng qua phía chúng tôi, chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường Dubrovnik, phong cảnh dãy núi Hercegovina của miền Trung Nam Tư hiện ra thật ngoạn mục. Lần đầu tiên trong chuyến bay mới thấy máy bay bị chao đảo, nhưng vì ai cũng phấn khởi biết mình sắp đến nơi nên chẳng quan tâm. Trong vài phút nữa, chúng tôi sẽ ra khỏi máy bay và lên xe buýt về điểm cuối của hành trình.

Qua tìm hiểu, tôi được biết những người dân Croát đầu tiên đã di dân đến bờ biển Dalmatia vào thế kỷ thứ 6, theo bước triệt thoái của quân đội La Mã chiếm đóng. Họ là một dân tộc sống bằng nghề nông đến từ miền Tây Nam, mà sau này gọi là Ukraina, và cùng với họ là các linh mục thừa sai dòng Phan Sinh. Cũng tiến vào đất này là những người Serbi theo Chính Thống giáo Đông phương - một sự pha trộn (tôn giáo) vốn rất chóng tàn và hời hợt trong thời trung cổ. Những cuộc đụng độ xảy ra thường xuyên giữa các tông phái Kitô giáo Đông phương và La Mã, cuối cùng, đã bị dẹp tan bởi những người xâm lăng đến từ Thổ Nhĩ Kỳ. Họ áp đặt Hồi giáo trên mọi xứ sở họ chiếm đóng. Đến thế kỷ 16, họ đã kiểm soát hầu hết bán đảo Balkan và chiếm cứ vùng này trong ba thế kỷ kế tiếp. Những cuộc thanh trừng đẫm máu của Balkan được lừng danh khắp nơi quả không sai.
Bản đồ miền Trung Nước Nam Tư (cũ), kể từ 1996 gọi là Bosnia-Herzegovina. Làng Mễ Du ở dưới cuối, mé phải. Băng qua biển Adriatique sang bên kia là nước Ý


Như cha Svetozar, người Croát, sinh trưởng tại Bosnia Herzegovina, về sau đã kể: “Khi quân Thổ đến xứ đạo của tôi năm 1525, các vị Thừa sai Phan Sinh đã có mặt rồi. Tại đó có hai Nhà thờ và 12 linh mục. Bảy vị thoát được, còn năm vị kia bị tử hình, xác họ bị vứt xuống sông Neretva.

“Các Kitô hữu trốn ra khỏi vùng và sống ẩn nấp, không có được một cái gì (nâng đỡ về mặt tôn giáo) suốt ba trăm năm. Có lẽ một hoặc hai lần trong một năm, các linh mục kín đáo đến những nơi có giáo hữu, để dâng lễ, rửa tội trẻ em, dạy chúng đôi chút hầu duy trì lòng tin. Bất cứ khi nào người Thổ phát hiện ra những cuộc tụ họp này, họ đều giết sạch.

“Lúc tôi còn bé, hằng năm mẹ tôi thường đến một trong các nơi ấy để cầu nguyện, kính viếng. Bà thường để tôi ngồi gần đó trong khi bà vừa cầu nguyện, vừa lết quanh nơi ấy bằng đầu gối. Bây giờ mỗi khi nghĩ đến điều đó, tôi nhận ra là trong cuộc đời và sự trọn niềm sống đạo của mẹ tôi có toàn bộ lịch sử của dân tộc chúng tôi. Đó là lịch sử lòng tin của chúng tôi, của sự chiến đấu cho việc sống còn của lòng tin ấy, vốn chỉ chấm dứt khi quân Thổ ra đi.”

Còn một điều nữa mà cha Svetozar thường phải nói về lịch sử của dân tộc mình:

“Những năm chịu bách hại và đau khổ ấy cũng là thời gian của ân sủng, thời gian của sự thanh tẩy và canh tân. Thời ấy nếu bạn muốn tin, bạn phải chịu đau khổ vì lòng tin ấy. Đức tin có một cái giá, và giá ấy không rẻ. Chịu đau khổ vì lòng tin quả thật đã không dễ dàng. Tuy nhiên, đó lại là - đã và sẽ là - một phúc lành cho Giáo Hội. Vì từ thời sơ khai, gương tử đạo của các Kitô hữu luôn vẫn là nguồn gốc của những cảm hứng, hướng dẫn và lãnh đạo vĩ đại.”

Nam Tư (Yougoslavia) nghĩa là “quốc gia của những người Nam Slavơ”, gồm có dân Serbi, Croat, Sloven, Montênêgrô, Maxêđôni, Hồi giáo và Bosni; và sau Đệ nhất thế chiến đã nổi lên một khối những nhóm liên kết yếu ớt, chia rẽ, gồm những bè phái luôn tranh chấp nhau.

Khi cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lớn mạnh, thì ảnh hưởng Đảng Cộng sản ở Nam Tư cũng nắm được uy thế - tuy không bao giờ vươn tới được quyền lực bằng những đảng phái chính trị của người Serbi hoặc người Croát. Vua Alexander trị vì như một nhà độc tài, đã duy trì một nền hòa bình mong manh cho đến khi ông bị ám sát năm 1934, và con trai ông lên kế vị cho đến năm 1941.

Thế rồi Đức quốc xã đến, quân đội Nam Tư không đọ sức nổi với họ, và trong vài tuần lễ, “Phe Trục” chia nhau chiến lợi phẩm - Đức quốc chiếm phần hơn, để lại Dalmatia và Montênêgrô cho người Ý.

Phong trào kháng chiến du kích thứ nhất nổ ra tại Bosnia Hercegovina, nơi có làng Mễ Du. Tuy vẫn phải đối mặt với kẻ thù chung, người Serbi và Croát không thôi sát hại lẫn nhau. Trong khi đó, ảnh hưởng của phe du kích cộng sản ngày càng lớn mạnh. Phe này đặt dưới quyền lãnh đạo của Josep Tito, người được Karl Max che chở, và bằng vũ lực, đã leo lên địa vị chóp bu của cách mạng đỏ.

Khi quân Đức triệt thoái dần dần trước sức tiến công của Hồng quân, thì trong một thành phố đã được giải phóng, chính quyền lâm thời mới thành lập đều là Cộng sản. Tuy nhiên, khi các lực lượng kháng chiến rốt cuộc vứt bỏ được thống trị của Đức quốc xã, họ vẫn hi vọng phục hồi nền quân chủ lập hiến đang lưu vong ở Anh quốc. Nhưng sự kiểm soát của cộng sản đã tỏ ra tuyệt đối. Trong một kỳ trưng cầu dân ý trên toàn quốc, Mặt trận Dân tộc của Tito đạt số phiếu tuyệt đối - một điều chẳng có gì lạ. [….] (6)

Đến đây, dòng suy nghĩ của tôi bị cắt quãng, vì máy bay bỗng chao đảo nhiều hơn. Sân bay Dubrovnik chỉ có một đường băng đủ dài cho những máy bay phản lực xuyên Đại Tây Dương, và hiển nhiên là đang có một cơn gió rất mạnh thổi trực tiếp ngang qua nó. Khi chiếc máy bay khổng lồ chồm lên và nghiêng ngả bên này bên kia, cố gắng thích nghi với cơn gió, tôi bèn liếc nhìn chung quanh - những đốt ngón tay trắng nhợt bám chặt vào thành ghế, những khuôn mặt tái mét sợ hãi hoặc choáng váng, và những túi nôn đã mở ra sẵn sàng.

Những ai không quá sợ thì đang cầu nguyện, đọc kinh cực kỳ sốt sắng. Nếu đã có những người vô tín trên máy bay khi cất cánh, thì khi những dàn bánh xe đáp đánh sầm xuống phi đạo, trên máy bay chẳng còn người vô tín nào! Vài tiếng tán thưởng yếu ớt vang lên từ phía buồng lái; nhưng chúng tôi thì vỗ tay như sấm, thở phào vì còn được sống.

Nhìn thấy lá cờ đỏ trên mấy tòa nhà cổ lỗ trong sân bay mà xe chúng tôi đang hướng tới, ý thức về sự có mặt của mình trong một nước Cộng sản bỗng nhiên thấm thía. Thật là trớ trêu, tôi nghĩ vậy, Đức Chúa đã chọn một nước theo chế độ vô thần [......] để gởi Đức Trinh Nữ Diễm Phúc tới.

Năm 1948, nước Nam Tư thấy dậy lên một niềm hy vọng khi lãnh tụ Titô đoạn giao với Stalin, thế là trong buổi đầu ấy đa số dân chúng Nam Tư hoan hô ông ta vì đã giải thoát họ khỏi thống trị của người Sô viết. Nhưng dần dà, họ nhận ra là lập trường Cộng Sản của ông ta cũng không khác gì mấy với người Sô viết. Thực tế, họ thấy chẳng có gì khác trong lối sống của họ so với những dân láng giềng như Hungari, Rumani và Bulgari. Và tôi cũng thấy vậy.

Khi máy bay dừng bánh, và người ta đem đến một cầu thang, chỉ có một người lính canh quan sát chúng tôi, một cây tiểu liên lủng lẳng ở vai. Tôi đã rất ngạc nhiên vì số lượng lớn những máy bay quân sự - máy bay trực thăng, máy bay chở lính, v.v... - cho đến lúc tôi hiểu ra rằng: chức năng cơ bản của mọi sân bay Nam Tư là quân sự.

Trong khi đợi xuống khỏi máy bay, chúng tôi được báo là không được chụp ảnh, nếu chúng tôi không muốn máy ảnh của mình bị tịch thu.

Không một nhân viên nào mỉm cười khi khám xét giấy tờ hoặc hành lý của chúng tôi, không một ai có vẻ quan tâm xem chúng tôi có thích thú đến thăm nước họ hay không. Còn những ai mang tràng hạt Mân Côi hoặc các loại ảnh tượng đều được khuyên đừng để lộ ra; họ không muốn các thứ ảnh tượng mang vào trong nước của họ, và họ sẽ giữ lại ở phi cảng rồi sẽ trả lại khi chủ nó ra về.

Cảm tưởng khó chịu của tôi lúc mới tới đã sớm tan, khi chiếc xe buýt của chúng tôi lăn bánh trên con đường ngoằn ngoèo dọc theo bờ biển ngoạn mục. Nữ tu Margaret Catherine Sims, hướng dẫn viên tinh thần của chúng tôi, đã tiếp đón chúng tôi nồng hậu không chỗ chê. Cộng tác với Trung Tâm Hòa Bình, từ hai tháng trước chị đã đến Mễ Du.

Đoạn đường đi mất ba tiếng rưỡi đồng hồ, tuy rất mệt, nhưng chúng tôi vẫn thưởng thức cảnh đẹp trên từng cây số. Biển Adriatique xanh biếc, những cụm nhà cổ hàng thế kỷ bám cheo leo trên vách đá phủ đầy cây tùng bách, những thị trấn nhỏ thu mình trong những vịnh tuyệt đẹp - mỗi khúc ngoặt lại lộ ra một cảnh khác trông đẹp như tranh. Chúng tôi lấy máy ảnh ra và bấm lia lịa.

Chúng tôi sẽ tạm trú tại các gia đình người Croát ở một thị trấn tên Citluk, cách Mễ Du trên sáu cây số. Chao ôi, rào cản ngôn ngữ! Ở đấy không một ai biết nói tiếng Anh, nếu muốn cái gì thì chúng tôi phải ra dấu. Sau khi đã gặp chủ nhà, chúng tôi vội vàng quay lại xe vì đã gần 6g40 - giờ Đức Maria hiện ra theo thường lệ.

Khoảng một nửa trong số chúng tôi đã lên xe, khi một phụ nữ còn đứng trước đầu xe bỗng kêu lên:


“Ôi Chúa ơi, nhìn mặt trời kìa!”

Nhìn theo tay bà ấy chỉ, tôi không thể nào tin vào mắt mình: mặt trời, còn một giờ nữa mới lặn, đang có một viền sáng quanh nó, làm như đang có nhật thực xảy ra, khiến chúng tôi có thể nhìn thẳng vào nó. Nhưng, thay vì bóng mờ của mặt trăng, thì đây trông giống như có cái đĩa bạc ở chính giữa.

Điều không thể tin được: chúng tôi có thể nhìn chằm chằm không chớp mắt vào mặt trời. Và cái mà chúng tôi thấy đằng sau cái đĩa bạc thì hình như đang quay. Cả cái viền sáng quanh nó cũng đang tỏa ra nhiều tia sáng đủ màu. Thật là đẹp đẽ, hấp dẫn tuyệt vời!

“Tôi khó mà tin nổi chuyện này!” tôi thầm thì với Maureen ngồi bên cạnh, mắt không rời mặt trời.

“Việc mà tôi đang làm đây là không thể được: tôi đang nhìn thẳng vào mặt trời, tức là tôi đang làm hư võng mạc vĩnh viễn. Vậy mà tôi không thấy nguy hiểm. Thực ra, tôi cảm thấy mình có thể tiếp tục đăm đăm nhìn mặt trời như vậy bao lâu tôi muốn.”

Tôi lắc đầu, không tin nổi.

- “Xem kìa!” Maureen nói, “Nó đang diễn ra cho mọi người xem, tôi muốn nói, tất cả chúng ta đều thấy!”

Khỏi nói, là tới khi chúng tôi lên hết trên xe và bắt đầu đi thì đã quá giờ hiện ra. Không can gì, tất cả chúng tôi đã quá phấn khởi, vì được chứng kiến hiện tượng (phép lạ) mặt trời sớm như vậy.

Khi còn cách ba cây số, chúng tôi trông thấy cái cột mốc thứ nhất của chúng tôi, núi Krizevac (núi Thập Giá) nổi bật từ đàng xa. Tôi nhìn ra được cây Thập Giá ở trên đỉnh và lấy làm lạ là nó trông quá nhỏ. Tôi cứ tưởng là cây Thập Giá đó sẽ nổi bật lên trên toàn thung lũng.

Khi băng qua chiếc cầu nhỏ dẫn vào Mễ Du, những tiếng kêu vui mừng nổi lên: Kia là Nhà thờ Thánh Giacôbê với hai tháp chuông song đôi, đúng y như chúng tôi đã thấy trong vô số hình ảnh và vidéo. Chúng tôi đã thật sự có mặt ở đây rồi!

Chiếc xe buýt đỗ sát bên một lùm cây ngay trước Nhà thờ. Chúng tôi chạy ào ra đến chỗ một đám đông tụ họp bên ngoài Nhà xứ sát cạnh Nhà thờ. Cuộc hiện ra ở bên trong (Nhà xứ) đã xong, nhưng đám đông còn nán lại, và chúng tôi cũng muốn chen vào đấy.

Ngay lúc đó, một cánh cửa mở ra và Marija, thị nhân trẻ vốn luôn có vẻ dè dặt và trầm tĩnh, xuất hiện. Cô đi với một vị linh mục đến phía sau Nhà thờ. Khi ngang qua bãi cỏ, đám đông ùa theo sau cô, những người gần cô nhất thì kêu lớn tiếng xin cô cầu nguyện, hoặc chỉ cố chạm vào người cô.

Bỗng nhiên, tôi nhớ đến đám đông thường chạy theo Arnold Palmer ở giải thi đấu Golf Masters tại thành phố Augusta, bang Georgia. Tôi còn nhớ một cách đặc biệt, gương mặt của một cụ già đã hăng hái bước đi bên cạnh tay chơi golf ấy và xin được chữ ký của anh ta. Cụ ấy sung sướng như một đứa trẻ, khuôn mặt sáng lên - y như khuôn mặt đang sáng lên của mấy người chạy theo Marija.

Linh mục và thị nhân đi qua cửa sau vào phòng mặc áo lễ, còn đám đông quay lại cửa trước Nhà thờ để dự lễ tiếng Croát đang sắp sửa bắt đầu. Nhưng vì lý do nào đó, Maureen và tôi còn nán lại.
Thánh lễ ban chiều. Trong Nhà thờ T.Giacôbê chật cứng. Có người đã phải đi một hai tiếng đồng hồ trước để có chỗ.

- “Nhìn kìa, nhìn kìa!” cô vừa nói, vừa thúc cùi chỏ vào tôi và chỉ tay về phía cửa sổ của phòng mặc áo lễ. Tôi nhìn - và trông thấy Marija giúp linh mục vận lễ phục vào để chuẩn bị làm lễ. Lòng tôi trào dâng một tâm tình khiêm tốn tri ân về đặc ân được chứng kiến khoảnh khắc này, cho đến khi chuông báo giờ lễ vang lên kéo tôi ra khỏi cơn mơ màng.

Vội vàng chạy vòng ra phía trước, chúng tôi thấy Nhà thờ đã chật ních người. Người ta ngồi đầy những hàng ghế và đứng chen chúc nhau theo các lối đi. Thánh lễ bắt đầu bằng một bài thánh ca tiếng Croát, và cả Nhà thờ thật sự đã rền vang tiếng hát ấy. Điều duy nhất tôi có thể nghĩ tới để so sánh: đây là một Nhà thờ Báptít trong kỳ phục hưng cao độ !

Tôi cố chen vào giữa lối đi bên trái cho đến khi không còn chen được nữa. Tiếng hát của thánh vịnh bất hủ ấy vang dội trong tôi thấu tận xương tủy. Tôi để ý thấy nhiều người nước mắt lăn dài trên má. Phần tôi, tôi quá đỗi sửng sốt, không khóc được. Đến phút này, sau vụ thấy hiện tượng mặt trời quay, cây Thập Giá trên núi và việc quan sát Marija giúp linh mục mặc áo lễ chuẩn bị Thánh Lễ, tất cả mọi giác quan của tôi đều đã quá tải. Tôi chỉ biết nghĩ: Thật là quá sự mong đợi của tôi! Không một băng hình nào, không một quyển sách nào, ngay cả cha Scotti, đã chuẩn bị trước cho tôi điều này.

Rồi khi đang đứng đấy, tôi cảm thấy có người kéo tay áo tôi. Tôi nhìn xuống: một bà cụ người Croát, ít nhất cũng trên 70 tuổi, ra dấu nhường ghế cho tôi. Hoảng quá, tôi lắc đầu, nhưng bà cụ tóc bạc với khuôn mặt xạm nắng hằn vết lo âu đó cố nài. Tôi vui vẻ từ chối lần nữa, ra dấu cho bà cứ ngồi đấy.

Cuối cùng, bà nắm cánh tay tôi và ấn tôi ngồi xuống. Tôi phải mất một lúc mới hiểu ra bà đang vâng lời “Rất Thánh Đức Mẹ”, Người đã yêu cầu dân làng Mễ Du hãy biết cho đi, đặc biệt đối với các người hành hương, như Con của Người đã cho đi vậy.

Tôi làm theo như lời bà cụ đội khăn choàng và mặc áo dài đen truyền thống bảo tôi. Tôi ngồi vào chỗ của bà cụ, còn bà cụ thì đứng ở lối đi ! Tôi không thể cầm được hai dòng nước mắt tôi đang chảy dài trên đôi má.

hoanghac
12-22-2012, 04:00 AM
“Hãy vui mừng luôn trong Chúa! Tôi nói lại lần nữa: Hãy vui lên! ước gì tâm hồn nhân hậu của anh em được mọi người biết đến...” (Ph 4,4-5)

Chương 12
TIẾNG CHIM HÓT LÚC NỬA ĐÊM

Tối đó, chúng tôi trở lại khách sạn ở Citluk để dùng bữa và chia sẻ cảm nghiệm với nhau. Tôi quá phấn khích, không ăn được khi kể chuyện bà cụ Croát đứng lên nhường chỗ cho mình. Những anh em khác thì kinh ngạc vì thấy đám đông chật cứng Nhà thờ và nhiều người đã đứng suốt hơn hai giờ dự buổi cầu nguyện và Thánh Lễ. Tất cả chúng tôi đều đã xúc động sâu xa về sự tôn nghiêm trong buổi thờ phượng: thật không còn lời nào để mô tả nữa.

Ăn xong, chúng tôi về chỗ riêng của mình, nhưng không ai muốn đi ngủ. Tính đến giờ đó, chúng tôi đã thức suốt 30 tiếng, vậy mà vẫn muốn nói chuyện hơn là ngủ. Cuối cùng, rồi cũng ngủ thôi, nhưng khi thức dậy đồng hồ chỉ 4 giờ 30 sáng - và tôi hoàn toàn tỉnh táo. Quyết định đi bộ một vòng quanh Citluk, tôi thay quần áo bước ra ngoài và hết sức ngạc nhiên thấy trời đã gần sáng hẳn. Mặt trời chưa mọc, mà bầu trời xem ra sáng hơn lúc mặt trời sắp mọc ở xứ tôi. Thực ra, ở Nam Carolina, thì trước rạng đông trời vẫn còn tối lắm.

Một lúc sau, những người bạn khác thức dậy. Chúng tôi vội vàng lót lòng với bánh mì và cà phê hoặc nước trà, rồi lên xe đến Mễ Du. Đến nơi, chúng tôi rảo bộ khắp nơi, kể cả con đường mòn phải đi mất hai mươi phút để đến đồi Podbrdo, nơi Đức Maria hiện ra lần thứ nhất. Trên đường đi, một bà cụ người Croát bưng một rổ trái cây tặng cho chúng tôi mỗi người vài trái với một ly rượu vang, khi chúng tôi đi ngang qua. Một người trong chúng tôi muốn cho bà tiền, nhưng bà từ chối. Ở đâu trên đường, chúng tôi cũng đều thấy cảnh này. Thỉnh thoảng, một bé trai hay gái đứng đó cạnh bà nội hoặc bà ngoại, để phụ bà một tay. Đây là hình ảnh tôi sẽ ghi nhớ suốt đời.

Ba ngày kế tiếp trôi qua không có gì đặc biệt. Chúng tôi đi lễ tiếng Anh buổi sáng và tiếng Croát ban chiều; chưa bao giờ tôi nghĩ mình lại có thể ở trong Nhà thờ nhiều giờ đến thế và yêu mến từng giây phút của thời gian ấy. Chúng tôi chen vào đám đông bên ngoài Nhà xứ lúc giờ hiện ra, chúng tôi lang thang đi đây đi đó xem xét mọi nơi mọi chỗ của Mễ Du.

Tối thứ hai, cả nhóm quay về Citluk, vừa mới ngồi xuống chuẩn bị ăn tối, sơ Margaret hổn hển chạy vào: “Tôi hiểu thế này là quá gấp gáp, nhưng trong buổi hiện ra tối nay, Rất Thánh Đức Mẹ nói với các thị nhân là người sẽ hiện ra với các em đêm nay tại đồi Podbrdo.” Chị nghỉ để lấy hơi rồi tiếp: “Xe buýt đang đợi ngoài kia, nếu có bạn nào muốn đến, phải đi ngay bây giờ!”

Muỗng nĩa rơi loảng xoảng, bàn ghế xô đẩy khi chúng tôi vội vã đứng lên, chạy tán loạn ra bóng đêm bên ngoài và ào ào leo lên xe buýt. Khi đến đồi tôi hơi thất vọng, vì thấy đã có nhiều xe buýt đến trước chúng tôi rồi. Tôi cứ tưởng chúng tôi là những người duy nhất biết được lần hiện ra đặc biệt này.

Chúng tôi nhập vào làn sóng những người hành hương, dò dẫm leo lên từng bước trên con đường dốc dác và lởm chởm đá, trong bóng tối của một đêm không trăng. Đèn chiếu không được phép sử dụng, vì chính quyền cấm chỉ những cuộc tụ tập trên đồi. Trời tối đen như mực, khó mà thấy được bóng người đi trước mình, nhưng không một ai trượt chân hoặc than vãn. Hình như chúng tôi ai nấy đều tìm được đúng chỗ để đặt bàn chân lấy đà trèo lên. Hằng triệu ngôi sao chằng chịt trên bầu trời, góp thêm vẻ đẹp vào sự kiện đầy kịch tính này, dù chúng chỉ thắp sáng yếu ớt.

Chúng tôi đến đỉnh đồi và kiếm được một khoảng trống nhỏ xíu - mà tôi cảm giác là khá gần với các thị nhân. Tiếng xầm xì của đám đông khi họ cầu kinh cho biết đang có một cuộc tụ họp đông đảo ở đây. Sơ Margaret đã dặn chúng tôi không được chụp hình bằng đèn chớp, và ngay cả khi chúng tôi đứng thu mình chờ đợi trong bóng tối, các hướng dẫn viên vẫn lặp đi lặp lại lời cảnh báo ấy bằng tiếng Pháp, tiếng Ý cũng như tiếng Anh. Nhưng trong đám đông nào cũng có những kẻ cảm thấy là nguyên tắc không áp dụng cho mình. Họ cứ chụp ảnh, đèn chớp loé lên gởi đi những tín hiệu lồ lộ xuống thung lũng bên dưới, nếu ngẫu nhiên có ai đang nhìn về hướng chúng tôi.

Trong một nhóm nọ, có người bắt đầu xướng kinh Mân Côi bằng tiếng Đức, và tất cả chúng tôi lặng lẽ đáp lại. Chúng tôi thầm thĩ rất khẽ, nhưng tất cả ngần ấy người cùng nhau, tiếng chúng tôi tạo thành một tiếng rầm rì trầm vang khắp vùng đồi. Khi nó chấm dứt, sự im lặng tiếp theo đó khá nặng nề, còn chúng tôi hầu như không thở, lắng nghe. Rồi một người nào đó lại bắt đầu một chuỗi Mân Côi khác.

Vào khoảng 11 giờ đêm (khó mà nói được giờ chính xác, vì không có cách nào để xem đồng hồ), cuộc hiện ra bắt đầu. Tất cả bỗng im bặt. Tôi nghe thấy các thị nhân cầu nguyện bằng tiếng Croát ở gần bên. Có lúc họ ngừng, lúc lại cầu nguyện, và tôi hiểu là Đức Maria đang cầu nguyện với họ. Rồi các em nhẹ nhàng nói chuyện với Người, khi lần lượt mỗi người, khi cùng nói đồng loạt. Cuối cùng, một trong các thị nhân kêu lên nhẹ nhàng: “Ode!” nghĩa là “Người đi rồi!” và một em khác loan báo một điều gì bằng tiếng Croát, điều ấy được dịch liền ra tiếng Ý và tiếng Anh: Ivan đã gởi gấm chúng tôi (hiểu theo bất cứ nghĩa nào) cho Đức Mẹ, Người hài lòng vì chúng tôi đã lên đồi. Điểm chính yếu trong sứ điệp của Người cho chúng tôi đêm ấy là: “Hãy về nhà và cầu nguyện chung với nhau trong gia đình”, vì nếu cùng cầu nguyện, chúng ta sẽ cùng trở nên thánh thiện, để Người có thể giới thiệu chúng ta như một bó hoa đẹp cho Con của Người, Đức Giêsu. Người cũng ban phúc lành cho tất cả những ai có mặt trên đồi trong đêm đặc biệt này.
Trong lần hiện ra trên đồi ban đêm mà tác giả được dự, Đức Maria nhắn nhủ việc đọc kinh chung trong gia đình. Và còn nhắc lại rất nhiều lần trong các thông điệp….


Có nhiều tiếng thầm thì hân hoan và mọi người đứng lên, lần mò đi xuống con đường mòn lởm chởm đá trong đêm đen như mực. Có quá đông người nên đi xuống rất chậm, nhưng không sao. Ai đó cất tiếng nhẹ nhàng hát “Ave Maria”, tất cả chúng tôi hòa theo. Tiếng hát bay đi khắp nơi, lên trên cao trong bầu trời đêm, quyện quanh chúng tôi và như thấm nhập tâm can chúng tôi. Có đi khỏi khu đồi hay không, tôi cũng không cần biết.

Rồi khi đang đứng ở trên đường đợi xe buýt và lắng nghe tiếng hát của những người còn đang đi xuống, bỗng có người la lên: “Chúa ôi, nghe chim hót kìa!”

Tôi đáp: “Ừ, hay quá!”

- “Anh không hiểu sao? Chim không hót ban đêm!”

Quả thật như vậy, nghe như mọi con chim biết hót trong thung lũng đang cất tiếng hót hết cỡ, như thể chúng đang chào đón bình minh, đương khi giờ này là nửa đêm. Và tiếng hót ấy cứ tiếp tục cho đến khi tất cả chúng tôi đã lên xe và đi khỏi.

Lúc đầu, không ai nói gì khi chiếc xe chật vật len lỏi trên con đường vừa đủ rộng cho một mình nó. Mỗi chúng tôi đang mải nghiền ngẫm thưởng thức phép lạ nho nhỏ mới vừa cảm nghiệm. Chúng tôi thực sự đã ở đó, đã có mặt trong một cuộc hiện ra - và Mẹ Thiên Chúa đã ban phúc lành cho chúng tôi - để rồi đi xuống đồi giữa tiếng hát và khám phá tiếng hót của hằng ngàn con chim cất lên vào lúc nửa đêm! Quả thật, phép lạ hiển nhiên về sự hiện diện của Thiên Chúa đang diễn ra nơi đây!

Sự im lặng bị phá vỡ bởi một phụ nữ mập mạp ngồi dẫy ghế bên kia: “Tôi thất vọng quá!” bà la lên, “Tôi không thấy gì hết!”

Tôi nhìn bà, không tin: “Thế bà mong thấy gì? Bà không biết là bà đã có mặt trong lúc Đức Mẹ hiện ra, ở chính nơi Người đã đến lần đầu tiên à? Bà có mặt ở đó mà!”

- “Phải, nhưng có người bảo họ thấy những tia sáng loé lên. Còn tôi không thấy gì hết!”

Tôi nhăn mặt, không nói gì nữa. Trong ít ngày chúng tôi có mặt ở đây, tôi đã nghe nhiều lời bình luận tương tự từ những người muốn thấy phép lạ mặt trời, hoặc muốn cho tràng hạt của họ biến thành màu vàng kim loại. Nhiều người đến đây thật ra chỉ vì muốn thấy dấu chỉ và phép lạ, rồi khi không được thỏa mãn, họ cảm thấy bị lừa bịp. Họ không nhận ra được hiện tượng đích thực ở đây là sự thay đổi kỳ diệu nơi những người đến đây và những người sống ở đây. Nhiều cuộc đời đã thay đổi một cách rất mạnh mẽ, trở thành mến Chúa và yêu đồng loại, nhưng ngay lúc này thì điều đó không ngoạn mục bằng mặt trời quay. Sau này, tôi hiểu ra là sự hối cải có những đường lối khác nhau, và tất nhiên nó là trung tâm điểm của một cuộc hành hương đến Mễ Du. Một ngày nào đó, phụ nữ này sẽ nhận ra ân huệ mà bà đã cảm nghiệm trên đồi.

Khi về đến khách sạn thì đã 12 giờ 30. Tôi liền đi ngủ, dù rất muốn thức để nói chuyện với những người khác. Tôi cần giấc ngủ ngắn ngủi quí giá này, vì đã quyết định sẽ dậy sớm, đủ thời gian để đi bộ từ Citluk đến Mễ Du, và đạt đến đỉnh núi Krizevac vào lúc mặt trời mọc. Không biết đích xác mặt trời mọc giờ nào, tôi cứ tính dậy sớm để có đủ thời gian đi hết chín cây số rưỡi trước rạng đông.

Vài người khác tỏ ý muốn cùng đi với tôi, nhưng cuối cùng, chỉ có Maureen và Bernie Hanley, một trong những tình nguyện viên của Trung Tâm Hòa Bình đang phục vụ cho chuyến đi này, quyết định đi với tôi. Tôi sắp xếp với Bernie để gặp anh tại cây cầu nhỏ, dọc theo con đường từ chỗ chúng tôi đang trọ. Maureen cũng trọ một chỗ với tôi, cách phòng tôi bốn phòng.

Khi tỉnh giấc, tôi mò tìm cái đèn pin, chiếu nó vào đồng hồ đeo tay: gần bốn giờ sáng. Vội vàng thay áo, tôi chạy đến gõ nhẹ vào cửa phòng Maureen, rồi đi đến phòng chính đợi cô. Một lát sau, Maureen đi ra, có vẻ nhợt nhạt và mệt mỏi: “Tôi không được khoẻ, tôi thực sự muốn đi, nhưng tôi nghĩ là không nên. Ngày mai đi được không?”

- “Maureen à, hôm nay tôi phải đi, dù cô không đi được. Nhưng nếu cô muốn, ngày mai chúng ta lại đi.”

Bên ngoài, đêm không trăng vẫn còn tối đen, khi tôi bắt đầu bước trên con đường hướng về phía Mễ Du. Trong không khí mát lạnh, dưới bầu trời đầy sao, tôi mải miết đi thẳng luôn qua cầu, quên bẵng là đã hẹn Bernie ở đó.
Sơ đồ Giáo xứ Mễ Du : Bên trái: xóm Bijacovici; phía trên : Đồi Podbrdo, nơi Đức Maria hiện ra. Bên phải: núi Krizevac, với các chặng đàng Thánh giá ngoằn ngoèo lên tới đỉnh.


Không có tiếng chim hót nào trong đêm nay. Tôi giật mình, khi chợt nhận ra tôi là tạo vật duy nhất đang động đậy trên toàn miền cao nguyên này - không chim, không bò, không gì hết. Con đường tôi đi được chiếu sáng chỉ bằng ánh sao. Bắt đầu bước đều, tôi rút xâu chuỗi ra và bắt đầu lần hạt. Đi được một lúc, tôi nhận ra bóng ngọn núi Krizevac hiện ra lờ mờ từ xa. Tôi sẽ còn phải hành hương lên núi Krizevac để đi Đàng Thánh Giá, và tôi đã bắt đầu thấy ưa thích sâu đậm ngọn núi này, coi nó như người lính canh thân thương của ngôi làng.

Bây giờ, khi tôi nhìn vào cái bóng lờ mờ còn khó phân biệt của ngọn núi, tôi chú ý thấy một ánh sáng phát ra từ trên đỉnh. Có lẽ là một ngọn đèn hiệu cho máy bay, tôi lơ đãng nghĩ - nhưng chợt giật mình nhớ lại: không có một đèn hiệu cho máy bay nào - mà tôi đã từng thấy - lại phát ánh sáng như vậy. Đó không phải là một tia sáng, cũng không phải là ánh sáng của hỏa châu, nhưng là một thứ ánh sáng dịu nhẹ hơn nhiều.
Phải chăng W.Weible đã nhìn thấy một hiện tượng ánh sáng như thế này quanh cây thập giá trên núi ? Hình kỳ diệu này do một nhiếp ảnh gia chụp được vào lễ Phục sinh năm 1989.



Khi tôi ngắm nhìn mê mệt, ánh sáng có vẻ như rung động theo một nhịp không đều, tăng lên rồi hạ xuống trong một chuyển động nhẹ nhàng. Không thể đi tiếp, tôi ngừng lại và đăm đăm nhìn, ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của nó. Và rồi từ trong tim, tôi nghe thấy những lời này: “Dành cho con đấy!”

Tôi lịm người. Một tâm tình bình an, hạnh phúc và tri ân sâu xa tràn ngập tâm hồn tôi. Hít một hơi dài và lần hạt hết sức sốt sắng như chưa từng làm, tôi bắt đầu tiến bước. Khi bước đi, mắt tôi cứ ngoái nhìn đỉnh núi: ánh sáng vẫn còn đó, khi tỏ khi mờ. Được chừng hai mươi phút, tôi bỗng lúng túng tự nghĩ: Thôi được rồi, đủ rồi, tôi đã thấy và không nghi ngờ gì hết: ánh sáng đã có ở đó.

Dọc theo con đường dốc dác và đá lởm chởm từ chân núi lên tới đỉnh cao 540 mét, có 14 chặng Đàng Thánh Giá. Vậy mà hầu hết các người hành hương đều thành kính đi đàng Th.Giá ấy theo chân Chúa


Ánh sáng còn tiếp tục mãi đến khi tôi tới Nhà thờ, và chỉ nhạt dần khi ánh bình minh bắt đầu ló ở viền chân trời phía sau đồi Podbrdo về hướng đông. Tôi phấn khởi đến nỗi khi tới chân núi và bắt đầu leo lên theo con đường mòn lởm chởm đá, tôi đã dừng lại và cầu nguyện tại mỗi chặng trong mười bốn chặng của Đàng Thánh Giá, một truyền thống tốt đẹp khác mà tôi đã khám phá khi đọc sách về Mễ Du. Lúc cầu nguyện, tôi để cho thần khí mới mẻ này của Tình Yêu Thiên Chúa đổ tràn ngập tâm hồn tôi, với công nghiệp vô cùng vĩ đại của hi lễ mà Đức Kitô đã thực hiện.

Ở trên đỉnh là một cây Thập giá khổng lồ bằng xi măng, do dân làng dựng lên năm 1933, để kỷ niệm năm thứ 1900 Đức Giêsu chịu đóng đinh. Đó là một kiến trúc thô nhám mà hùng vĩ, và khi chiêm ngưỡng nó lúc mặt trời lên dần và chiếu vào chóp Thập giá, tôi nghĩ đến khối lượng công việc khổng lồ đã đổ vào công trình này. Bởi lẽ không có con lộ nào dẫn lên đây, ngoại trừ cái lối mòn lởm chởm đá và cheo leo ấy. Mọi thứ đã phải đặt lên lưng của dân làng, đàn ông cũng như đàn bà, mà vác lên. Nó nói lên điều gì đó về lòng mộ đạo của người dân trong thung lũng này - và lý do tại sao Thiên Chúa đã chọn nơi này.

Tháo ba lô ra, tôi ngồi bệt xuống một tảng đá dưới chân Thập giá và ngắm cảnh mặt trời phủ dần lên thung lũng. Ở quê nhà bên Mỹ, tôi chưa từng bao giờ có thể ngồi yên lặng lâu như thế này, mà không làm gì hoặc ngay cả nghĩ gì. Mễ Du đã thực hiện nơi tôi những thay đổi lớn lao và bằng nhiều cách.
Bóng trắng nhỏ bên trái Thập giá, đó là Đức Maria đến cầu nguyện mỗi sáng. Ảnh kỳ diệu này một khách hành hương đã chụp được, và nó đã làm ông ăn năn trở lại.

Tôi cảm thấy như đang đắm mình trong ánh sáng tuyệt đẹp này, mà Đức Trinh Nữ đã ban cho tôi như một món quà đặc biệt. Tôi nhớ đã đọc trong một quyển sách về Mễ Du, Đức Mẹ nói: Người cầu nguyện với Con Chí Thánh của Người mỗi buổi sáng tại chân cây Thập Giá hùng vĩ này.

Hai tay ôm đầu gối, tôi ngồi đấy nhìn thung lũng trở mình thức giấc. Đây chắc chắn phải là ngưỡng cửa của thiên đàng. Cơn mơ màng của tôi bị cắt đứt do tiếng động của bước chân đạp trên lớp đá sỏi trên đỉnh núi. Đó là Bernie: “Ê, sao anh không đợi tôi? Tôi tưởng anh ngủ quên nên đi luôn một mình.”

- “Xin lỗi, Bernie! Cảnh bình minh hớp hồn tôi, nên tôi quên bẵng anh!”

Tôi lấy ra từ cái ba lô một thứ mà nay đã trở thành món ăn thích nhất - và nhiều khi duy nhất - của tôi tại Mễ Du: một loại bánh mì ngon lành, mộc mạc như làm ở nhà. Tôi cũng đem theo chút nước trái cây, và đề nghị chia sẻ bữa điểm tâm dã chiến này với anh. Bernie cao, gầy, lớn tuổi hơn tôi, và là một vận động viên môn chạy. Anh đã đến Mễ Du nhiều lần, và thường hay leo núi Krizevac.

Khi ăn, tôi định chia sẻ cảm nghiệm của tôi với anh, nhưng một cách dè dặt, thói quen cũ của nghề nghiệp nhà báo khiến tôi khó lòng cởi mở hoàn toàn: “Bernie, lúc nãy, khi anh đi, anh có thấy ánh sáng ở trên cao này không?”

- “Không, tại sao?”

- “Bởi vì, ừ... tôi thấy...”

Kể lại cho anh nghe những gì đã xảy ra, tôi bất chợt phải kềm lại mối xúc cảm đang chực dâng lên, khi tất cả những điều đó cùng ùa về trong trí tôi. Bernie mỉm cười nói: “Đó là một ơn đặc biệt đấy. Trước kia, tôi có nghe nói về vụ này. Thường thường, khi một người dân trong làng thấy ánh sáng ấy, anh ta bèn bắt đầu đi từng nhà để kể lại.”

Mắt tôi đẫm lệ, tôi xin kiếu và đi sang mé bên kia của ngọn núi. Tôi không cầu nguyện một cách có ý thức; tôi chỉ như đang mang trái tim mình nhốt thẳng vào thiên đàng.

Sau một hồi, không biết bao lâu - có thể là vài giờ - Maureen tìm thấy tôi, khi cô ấy và cả nhóm leo lên núi sau Thánh Lễ tiếng Anh.

- “Nó thế nào?” cô cười tươi rói, hỏi.

- “Cái gì?” tôi nhìn lên, giật mình.

- “Cảnh mặt trời mọc ấy! Đẹp không?”

- “Đẹp”, tôi gật đầu, “Nhưng tôi còn thấy một cái khác đẹp hơn nhiều”, và tôi kể cho cô ấy nghe về ánh sáng. “Nghe này, Maureen, tôi xin lỗi, nhưng bây giờ tôi phải đi xuống. Tôi cần ở một mình. Hẹn gặp lại ở Nhà thờ lát nữa.”

Cô gật đầu: “Tôi hiểu.” Tôi rời đỉnh núi và thong thả tìm đường đi xuống. Có một điều mà bây giờ tôi biết rất rõ: tôi sẽ viết một quyển sách về Mễ Du. Tôi đã luôn luôn cảm thấy một ngày nào đó, tôi sẽ viết một quyển sách, nhưng đề tài và thời gian chính xác khi nào trong đời tôi sẽ bắt đầu, tôi hoàn toàn không biết. Giờ đây tôi đã biết rõ.

Con đường từ chân núi đến Nhà thờ Thánh Giacôbê nay đã thành một lối mòn đi vòng qua một vườn nho, rồi qua một nghĩa địa cổ xưa nằm dưới lùm cây bách hương, cách mặt sau Nhà thờ khoảng nửa cây số. Khi tôi đến, ở đó không có một ai và hoàn toàn yên lặng, kể cả một làn gió nhẹ lay động những ngọn cây xanh cao vút. Một tia nắng mặt trời chiếu vào một bụi huệ trắng trồng dưới chân một tấm bia mộ cổ xưa. Tôi dừng lại, bất động trong bóng râm lốm đốm nắng, hòa mình vào cái tĩnh mịch của nơi vĩnh cửu ấy.

Rồi, từ nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn, tôi tạ ơn Chúa đã đưa tôi đến chốn này, tạ ơn Chúa đã trao nhiệm vụ cho tôi và tạ ơn Chúa cho hết mọi sự.

---o0o---

hoanghac
01-03-2013, 04:08 AM
“Mẹ mời gọi các con hãy nhất quyết chọn Thiên Chúa. Mẹ van xin các con hãy đầu phục hoàn toàn...”
Chương 13
NGƯỠNG CỬA THIÊN ĐÀNG

Sơ Margaret có tổ chức một cuộc họp tại Nhà thờ lúc hai giờ cho một màn “chiêu đãi đặc biệt”. Không ai biết đó là cái gì, và chúng tôi đoán chừng có lẽ chị đã sắp xếp để vài thị nhân đến nói chuyện với chúng tôi. Bây giờ, ngồi dựa lưng vào tường Nhà thờ dưới ánh nắng ấm áp, trong khi đợi những người khác, tôi bỗng bật cười vì ý nghĩ viết một quyển sách về Mễ Du. Một quyển sách! Quyển đó phải khác với hằng tá quyển đã được tung ra thị trường. Hầu hết các sách đó được viết bởi các linh mục Công giáo, và đề cập phần lớn đến thời gian đầu. Rất ít sách viết về diễn tiến của sự hối cải xảy đến với rất nhiều thường dân đã đến viếng nơi này. Tôi muốn viết về sự biến đổi thiêng liêng to lớn đã đánh động anh chàng Tin Lành nguội lạnh (W.Weible) này. Và sứ điệp quan trọng từ Thiên Chúa đến cho ngôi làng xa xôi, hẻo lánh này, một cách nào đó, phải được truyền đến hằng triệu người không bao giờ có thể có phương tiện đến đây. Sứ điệp này cũng phải được truyền đến những người cần đến đây, để họ cũng sẽ trở thành tông đồ truyền bá sứ điệp khẩn cấp này khi trở về lại nhà.


Với lại, tôi là một người Tin Lành. Điều này làm tăng thêm ảnh hưởng tác động vào việc người ta ăn năn hối cải. Tôi lắc đầu, nhận ra tôi không còn nghĩ mình là Tin Lành, hoặc coi toàn bộ hiện tượng Mễ Du là của riêng người Công giáo nữa. Đơn giản tôi là một đứa con của Thiên Chúa, đang sống ở ngưỡng cửa thiên đàng.

Bây giờ nhiều người trong nhóm tôi đã đến Nhà thờ, tôi đứng dậy nhập bọn với họ. Bên trong, người ta đã sắp sẵn ghế cho chúng tôi ngồi đằng trước. Khi chúng tôi đi lên, ngang qua những người hành hương Pháp và Ý đang ngồi rải rác đằng sau cúi đầu lặng lẽ cầu nguyện, tôi mới nhận ra nhóm chúng tôi là nhóm người Mỹ duy nhất đến Mễ Du lần này. Thực ra, trừ một ít khách hành hương Ai-len, chúng tôi là nhóm người nói tiếng Anh duy nhất trong Nhà thờ.

Cửa phòng mặc áo mở ra, và các thị nhân Marija, Vicka và Ivan bước ra. Nhưng tôi không chú ý đến các em mấy, mà chỉ chăm chú vào vị linh mục mặc áo nâu đang dẫn đường. Tôi nhận ra lập tức người có dáng mảnh khảnh, tóc thưa, đôi mắt xám hay nhìn chăm chú - mà tôi đã thấy qua một băng vidéo: cha Svetozar, tác giả của một quyển sách về Mễ Du có giá trị nhất đối với tôi. Tôi vội vàng đến chỗ sơ Margaret đang ngồi: “Sơ ơi, tôi cần gặp ông này!” Chị nhìn tôi với một nụ cười hiểu biết, điềm tĩnh trả lời: “Đừng lo, anh sẽ gặp.” Tôi trở lại chỗ ngồi, hơi bối rối vì câu khẳng định ấy, nhưng tôi rất vui.

Nhờ có cha Svet thông dịch, các thị nhân tóm lược những biến cố của tháng 6 năm 1981. Sau đó, họ trả lời những câu hỏi không tránh được mà dân chúng thường đặt ra: Đức Mẹ trông như thế nào? Người mặc áo gì? Tóc Người màu gì?

Khi nghe như vậy, tôi rất ngạc nhiên về sự kiên nhẫn của những người trẻ tuổi này. Cho đến nay, chắc là họ đã phải nghe cũng những câu hỏi ngớ ngẩn ấy đến mười ngàn lần, hoặc hơn nữa. Thế nhưng, tôi không thể khám phá ra một chút xíu mệt mỏi hay chán ngán nào trong những câu trả lời của họ - và đó hẳn là ân sủng Chúa ban để họ chu toàn ơn gọi của mình.

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh043.jpg

Hình chụp năm 2006. Từ những năm đầu tiên Đức Maria hiện ra đến nay, Vicka vẫn đứng chỗ này để rao truyền sứ điệp của Mẹ cho các đoàn người hành hương như thế… có vẻ như không hề biết mệt mỏi, vì luôn vẫn nở nụ cười trên môi…


Đó là một ơn gọi mà tôi chẳng thèm muốn, ghen tị. Bên ngoài nhà của Vicka, luôn luôn có những nhóm người đứng xếp hàng tràn cả ra đường, chờ đến lượt nghe cô nói và đặt câu hỏi với cô. Với người Philippin sẽ mất 20 phút, rồi người Ý, rồi người Đức, v.v... Cứ như thế suốt ngày, nhưng cô không phàn nàn: cô chỉ đang làm điều mà Gospa (Đức Mẹ) yêu cầu cô.

Tôi cũng vậy, nhưng cho đến nay vẫn có phần nào thiếu sẵn sàng, hăng hái. Âm thầm, tôi hi vọng sự dấn thân viết cuốn sách ấy sẽ khuyến khích tôi để tâm vào toàn bộ sứ điệp mà Đức Maria đã ban cho tôi.

Khi buổi nói chuyện chấm dứt, tôi cố chen đến gần cha Svet, nhưng lại bị đè bẹp bởi đám đông đang xô đẩy, chen lấn từ tứ phía của Nhà thờ. Rõ ràng, người ta đã truyền miệng nhau rằng cha Svet đang có mặt ở đây với các thị nhân - và lập tức, Nhà thờ thành đông nghẹt. Sau đó, điều tôi biết được là thấy ông bị người ta bao vây, phần lớn là dân làng, ông cố vươn tay ra trên họ để ban phép lành: ông làm tôi nghĩ đến một ứng cử viên tổng thống ở bên nhà. Còn những người bao vây ông thì rộn ràng, hớn hở: ông giống như một ngôi sao điện ảnh đối với họ.

Khi cảnh huyên náo đã lắng xuống và khi có được cơ hội, tôi liền nắm chặt tay cha: “Thưa cha, tôi là một nhà báo Mỹ. Tôi chỉ muốn cha biết là cuốn sách của cha có ý nghĩa biết chừng nào đối với tôi. Cha đã viết với cả trái tim và tâm hồn. Tôi rất sung sướng được gặp cha!”

Nắm chặt tay tôi, ông nói khẽ: “Anh vui lòng đợi tôi một chút!”, rồi tiếp tục ban phép lành cho đám đông. Tôi đứng đó, sững sờ. Ông muốn gì ở tôi? Khi người cuối cùng đã được chúc lành, ông ra dấu cho tôi đi theo đến phòng mặc áo, một căn phòng nhỏ tiếp giáp với bàn thờ, nơi các linh mục mặc áo lễ và chuẩn bị dâng lễ. Tôi bước theo, cảm giác như đang bước chân trên đất thiêng.

Vừa mới bước qua cửa nhà mặc áo lễ, một gia đình ba người Croát lao vào, nài xin cha Svet cầu nguyện cho một người con gái thuộc gia đình họ đang gặp rắc rối - tôi đoán đại khái như vậy. Khi đã xong việc với họ và họ đi rồi, ông đóng cửa lại, quay sang tôi, đặt hai tay trên vai tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi: “Anh Wayne, tôi muốn xin anh một đặc ân: Tôi đã hoàn tất bản thảo quyển sách thứ hai tôi viết về Mễ Du, và tôi cần một nhà văn người Mỹ hoặc người Anh giúp tôi phần biên tập. Anh có thể ở lại đây mười hay mười lăm ngày nữa để giúp tôi không? Hay là anh về rồi trở lại đây?”

Tôi muốn ngã lăn ra: thật chẳng khác gì nhà đại danh họa Michelangelo đang xin một anh thợ sơn giúp đỡ. “Thưa cha, tôi ư? Làm sao tôi có thể giúp...”

- “Không.” ông cắt ngang, “Anh chính là người ấy. Tin tôi đi, tôi biết mà”, rồi đăm đăm nhìn tôi.

Tôi giải thích cho ông biết tôi đã lập gia đình, có hai con nhỏ ở nhà và may mắn lắm tôi mới được cơ hội đến đây, vậy đừng nói chi đến việc ở nán thêm một thời gian nữa. “Nhưng,” tôi nói thêm, “được làm việc với cha là một vinh dự. Tôi sẽ về nhà, rồi sẽ liệu sau.”

Sau cùng, ông thở dài nói: “Vâng, tôi sẽ chờ anh báo lại. Nếu không, có lẽ anh có thể giúp tôi từ bên Mỹ. Sơ Margaret sẽ đem theo bản thảo của tôi về và làm cho anh một bản sao tại Trung Tâm Hòa Bình. Nếu cần, anh có thể trở lại đây tháng sau với tập bản thảo. Còn nếu không, anh có thể gởi lại bản thảo đã sửa chữa xong cho tôi qua nhóm Trung Tâm Hòa Bình, khi họ trở lại Mễ Du.”

Tôi đáp: “Vâng, có lẽ được. Ít ra, tôi cũng sẽ cố gắng.”

Ông ôm chặt tôi và nói: “Chúa ở với anh, Wayne!”

Tôi băng qua lối đi giữa Nhà thờ - giờ đây đã vắng vẻ, chỉ trừ một vài người đang cầu nguyện - để ra ngoài đi tìm sơ Margaret. Trong thâm tâm, tôi thấy khó mà trở lại Mễ Du được, nhưng tôi sung sướng rộn ràng vì ông lại còn yêu cầu tôi việc ấy nữa. Đến khi tôi gặp sơ Margaret, tôi hỏi một cách ngạc nhiên: “Chị có biết cha nhờ tôi làm cái gì không?” Chị cười, đáp: “Biết.”

- “Vậy chị có thể cho tôi hay điều chị biết mà tôi không biết không?”

- “Tôi có nói với cha Svet là trong nhóm này có một nhà văn người Mỹ và cha rất mừng.”

- “Cái gì làm cho cha nghĩ là tôi có thể làm việc đó?”

Chị nhún vai nói: “Nếu cha nói anh làm được, thì có nghĩa là anh làm được.”

Tôi cho là còn nhiều điều khác nữa trong vụ này, hơn là những gì sơ nói với tôi, nhưng ngay lúc đó, Maureen với đám người trong nhóm chúng tôi xuất hiện, xôn xao muốn biết chi tiết tại sao cha Svet lại muốn gặp tôi nói chuyện; do đó, tôi không thể nói chuyện tiếp với sơ Margaret. Tôi tự dặn: sau này sẽ gặp lại để tìm hiểu thêm về vị linh mục thánh thiện này và về quyển sách mới của ông.

Vài ba người trong nhóm, khi nghe nói về ánh sáng mà tôi được thấy trên núi sáng hôm ấy, đã rủ tôi sáng hôm sau đi lên núi thật sớm với họ; cho nên tối nay tôi phải đi ngủ sớm, dặn họ trễ nhất là bốn giờ sáng phải ra khỏi nhà, nếu muốn được ngắm cảnh mặt trời mọc.

Sáng hôm sau, có hai người đã thật sự đi được: Maureen và một thanh niên tên Paul. Khi bắt đầu lên đường, Paul hỏi: “Này, Wayne, anh đi được bao xa khi bắt đầu thấy ánh sáng đó?”

- “Vài cây số.”

- “Lúc ấy anh đã băng qua cây cầu dẫn tới Mễ Du chưa, hay là sao? Mà nói chính xác thì nó giống cái gì?”

Tôi cứ bước tới như thể không nghe anh ta nói gì, chỉ đề nghị vừa đi vừa lần hạt Mân Côi. Paul rất dễ bị kích thích, bồn chồn muốn thấy bất cứ hiện tượng nào dính dấp đến Mễ Du. Ý định của anh tuy tốt, nhưng đây không phải là lúc, là nơi để chuyện trò. Đây là lúc cầu nguyện và suy gẫm trong yên lặng với Chúa. Tôi rất mừng khi Maureen xướng lên những kinh đầu của chuỗi Mân Côi.

Sáng nay, chúng tôi không thấy ánh sáng. Maureen và Paul thất vọng, nhưng tôi không ngạc nhiên. Tôi biết kinh nghiệm hôm qua là dành riêng cho tôi, để thêm một bằng chứng không thể chối cãi về sứ vụ mà tôi đang được yêu cầu đảm trách.

Khi chúng tôi đến chân núi, Maureen muốn cầm chắc sẽ đến được đỉnh núi vào đúng lúc mặt trời mọc, cho nên cô bước nhanh khi chúng tôi bắt đầu leo lên. À, làm gì có chuyện tôi để cho Maureen đi nhanh hơn! Thế là tôi phóng theo, bỏ lại Paul trèo lên chuệnh choạng, nặng nề phía sau. Anh ta gọi theo: “Ê, làm gì mà mấy cha đi nhanh dữ vậy?”

Chúng tôi đến chặng thứ nhất của Đàng Thánh Giá và hổn hển đọc kinh, xong Maureen lại vọt đi như một con linh dương. Tôi bám sát phía sau. Chúng tôi leo bốn chặng theo kiểu đó, cho tới khi Paul xuất hiện, trông như sắp chết, van vỉ: “Mấy cha làm cái gì vậy?”

Maureen nhún vai:

- “Tôi làm thế này để đền tội một cách đặc biệt, nhưng không có nghĩa là anh cũng phải làm.”

- “Tôi cũng đền tội”, tôi thêm vào, cương quyết đi chung với cô.

Bầu trời phía sau đồi Podbrdo bây giờ bắt đầu sáng rồi, mặt trời có thể mọc lên bất cứ lúc nào, mà chúng tôi thì muốn ở trên đỉnh để ngắm cảnh đó. Mồ hôi nhỏ giọt ướt đẫm, chúng tôi đã đến nơi - và thật đáng công! Không đầy một phút sau khi chúng tôi cầu nguyện xong ở chặng đàng Thánh giá cuối cùng, toàn bộ ngọn núi bỗng biến thành một biển vàng và kim cương ánh sáng lóng lánh. Một mình dưới chân thập giá, Maureen và tôi lặng lẽ thưởng thức khoảnh khắc đó. Vài phút sau Paul tới, quá hụt hơi, không nói lời nào.

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh044.jpg

Toàn cảnh làng Mễ Du từ núi Krizevac nhìn xuống. Ở giữa làNhà thờ Thánh Giacôbê với hai ngọn tháp cao; rải rác trong vùng là những thôn xóm, chen vào giữa là những vườn trồng nho và thuốc lá, là những phương tiện sinh sống chính của làng nhỏ bé và nghèo nàn này.


Ba đứa chúng tôi ngồi lại nói chuyện, uống nước trái cây và chia nhau một ổ bánh mì “nhà làm” mà tôi mua tại một tiệm ở Citluk. Khi nhìn quanh, tôi ngán ngẩm vì khối lượng rác vương vãi trên đỉnh núi. Tôi nhặt lên một lon Coca Cola rỗng, rồi một mảnh giấy gói kẹo, rồi một hộp cơm mới ăn hết nửa, và tôi đem đến cái hố rác được đào bên cạnh đỉnh núi. Mọi thứ ở đó đẫm ướt sương đêm, tôi chùi tay vào quần sau khi dọn dẹp mấy thứ đã nhặt.

Bỗng nhiên, tôi chú ý thấy một vật gì giống như một tấm ảnh đang nằm phía trên cùng, rồi nhặt lên. Đó là một tấm ảnh Đức Giêsu lớn bằng tấm bưu thiếp. Mà lạ quá, nó lại hoàn toàn khô ráo, trong khi tất cả đều đẫm sương. Không có ai ở trên núi khi chúng tôi lên đến đỉnh, cũng như không có ai đi xuống núi ngang qua chúng tôi. Như vậy, tấm ảnh phải ở đó ít nhất suốt đêm qua.

- “Maureen!” tôi gọi, “Lại đây. Tôi không tin nổi!”

Cho cô xem tấm ảnh, tôi nói rất khẽ: “Nó khô rang!”

- “Ôi, tôi muốn nó, tôi muốn nó!” cô kêu lên, ôm chặt tấm ảnh vào người, mà không để ý là nó hoàn toàn khô.

Khổ thân tôi, vì tôi cũng muốn nó quá - nhưng rồi chợt nhớ đến món quà được xem thấy ánh sáng mà hôm trước tôi đã được.

- “Tấm ảnh này từ đâu ra?” tôi tự hỏi. Lật qua mặt sau, tôi thấy không có gì, ngoại trừ một hàng chữ đề ngày tháng viết bằng tay: 18 tháng 6 năm 1986. “Chắc là của người châu Âu,” tôi quan sát, “vì ngày đặt trước tháng. Nhưng tại sao lại chỉ đề ngày tháng? Và tại sao lại đề trước sáu tuần nữa kể từ hôm nay?”

Maureen chỉ biết lắc đầu, đưa ảnh cho Paul xem rồi hí hửng cất vào túi. Sau đó, chúng tôi đi xuống, để kịp dự Thánh Lễ buổi sáng. Bức ảnh kỳ bí và ngày tháng sắp tới ghi sau lưng cũng bị quên luôn.

Mỗi chúng tôi đều biết rõ hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của mình ở Mễ Du, vì thế, xem ra mọi sự đều rõ nét, mọi cảm nghĩ đều bén nhạy một cách đáng kể. Dần dần, tôi nhận ra mình không muốn rời nơi này một chút nào: một điều điên rồ! Tôi nhớ Terri, nhớ bọn nhóc và muốn gặp lại họ đến chết được... Nhưng trong Thánh Lễ sáng hôm ấy, tôi thấy những cảm xúc của mình dâng lên thật cao. “Chúa ôi!” tôi thầm thĩ, “Đây là ngày cuối cùng của con ở đây!” Tim tôi tan nát, vì mặc dù có lời yêu cầu của cha Svet và ước muốn riêng của tôi được làm việc với ông, tôi thật sự vẫn nghĩ có thể mình sẽ không bao giờ trở lại đây được.

Thời gian còn lại trong ngày trôi qua rất nhanh - quá nhanh. Nơi nào tôi nhìn, tôi đều thấy có một cái gì khác nữa mà tôi muốn ghi nhớ mãi. Mặt trời lặn dần trên dãy núi về phía Tây. Và thoáng chốc đã đến lúc tới Nhà thờ lần hạt Mân Côi trước giờ Thánh Lễ tiếng Croát. Khi bước vào, mắt tôi chợt thấy mấy tòa giải tội ở cuối Nhà thờ. Mỗi bên có ba tòa, trước mỗi tòa có tấm bảng nhỏ ghi chữ: Hvrotski (tiếng Croát), Deutsche (tiếng Đức), English (tiếng Anh), Francais (tiếng Pháp)...

Như thường lệ, mọi hàng ghế đều chật cứng người; nhưng ở hàng chót bên tay phải, người ta nhường một chỗ cho tôi và mời tôi ngồi chung. Người ta bắt đầu đọc kinh, nhưng tôi không chú ý đến việc lần hạt, mà chỉ nghĩ đến việc xưng tội. Trong suốt mấy ngày cuối, tôi cứ nghĩ đến việc đi xưng tội. Vì là một tín đồ Tin Lành, nên chuyện này quá mới lạ với tôi. Bên Tin Lành Lutêrô, chúng tôi xưng tội công khai như một phần trong buổi thờ phượng; nhưng tôi muốn bật ngửa, khi thấy rất đông khách hành hương xếp hàng nối đuôi nhau cả trong lẫn ngoài Nhà thờ, để đến lãnh bí tích đặc biệt này. Nhiều người trong nhóm cũng đã hỏi tôi có muốn xưng tội không. Khi tác động dồn dập của Mễ Du mỗi ngày thêm chồng chất, nhiều khách hành hương cảm thấy cần phải tẩy sạch tâm hồn, bằng cách xưng thú tội lỗi mình. Với một số người, đó là lần đầu tiên trong nhiều năm... Bằng hành động này, họ sẽ niêm phong những cảm nghiệm Mễ Du của mình trong lòng suốt đời.

Tôi cũng muốn làm việc đó nữa, nhưng tôi lại là người Tin Lành. Tôi chịu bí tích này có được không? Tôi hỏi sơ Margaret, nhưng chị không biết. Tôi là người Tin Lành đầu tiên chị đưa đến đây. Một mặt, bí tích này dành cho người Công giáo, nhưng mặt khác, làm sao người ta có thể từ chối bí tích này với một người muốn ăn năn một cách đàng hoàng? Tôi cũng hỏi Maureen, cô ấy khuyến khích tôi đi xưng tội. Cô còn dặn: “Nhưng, làm gì thì làm, anh đừng gặp ông cha Arcadius, ông cha có bộ râu trắng và cặp mắt dữ tợn đó. Tôi đã có lần xưng tội với ông, ông rất nghiêm khắc với người Công giáo - hoàn toàn không thích hợp cho một người Tin Lành đi xưng tội lần đầu tiên!” cô nói với một cái nháy mắt.

Sau cùng thì quyết định là do tôi, cho nên tôi định sẽ đợi đến lúc về nhà. Nếu tôi vẫn cảm thấy thôi thúc, tôi sẽ xin mục sư Lutêrô của tôi nghe tôi thú tội. Tôi cố tập trung vào việc lần hạt Mân Côi. Nhưng khi giờ lễ buổi chiều bằng tiếng Croát đến gần, lòng tôi càng thêm tan nát bởi ý nghĩ đây sẽ là Thánh Lễ cuối cùng của tôi.

Cuối cùng, không chịu được nữa, tôi liền đứng dậy, ra khỏi Nhà thờ. Khi đi ngang qua tòa cáo giải dành cho người nói tiếng Ý, vì lý do nào đó, tôi bỗng liếc nhìn xuống cái bảng nhỏ, rồi nhìn vào đôi mắt của ông linh mục cao lớn, mập mạp đang đứng đó. Ông hỏi nhỏ: “Muốn xưng tội bằng tiếng Ý hả?”

- “Dạ không, tiếng Anh”, tôi trả lời bằng tiếng Anh rồi chực bước đi. Nhưng ông đã hiểu lầm ý định của tôi. Vừa cười tươi rói vừa nắm vai tôi, ông đẩy tôi thẳng vào cái buồng gỗ nhỏ, tức tòa cáo giải, ở bên cạnh. Ở đó có đặt cái bảng nhỏ ghi chữ “tiếng Anh”. Tôi bị sốc: bỗng nhiên, tôi thấy mình đang đi xưng tội, dù có muốn hay không!

Khi quỳ xuống trên tấm ván cứng, tôi mới biết đầu gối tôi đau đến mức nào, vì suốt tuần tôi đã quỳ rất nhiều - lần đầu tiên trong đời. Nhìn qua khung cửa nhỏ có che màn, tôi trông thấy nét mặt nhìn nghiêng của một linh mục có bộ râu trắng, mà tôi nhận ra ngay là vị tu sĩ ẩn dật thường đến các đền thờ như Lộ Đức và Fatima, để giúp các nơi hành hương này trong việc ngồi nghe người ta xưng thú tội lỗi. Đây đúng là ông cha Arcadius mà Maureen đã cảnh giác tôi! Thôi, bây giờ thì trễ rồi!

Ông nói nhẹ nhàng: “Thế nào, con của cha?”

Tất cả những gì tôi nhớ được chỉ là câu mình đã xem trong một cuốn phim ở đâu đó: “Thưa cha, xin chúc lành cho con, vì con đã phạm tội.” Thế rồi, ông đợi, tôi cũng đợi; tôi không biết phải nói gì tiếp theo.

Cuối cùng, tôi tuôn ra: “Con muốn xưng tội, nhưng không biết phải làm sao. Con chưa bao giờ làm chuyện này. Con là người Tin Lành.”

Linh mục thình lình quay đầu lại: “Con là gì?”

Tôi lẩm bẩm: “Thưa cha, người Tin Lành.”

Hai đầu gối tôi đau điếng, mồ hôi toát ra như tắm. Bấy giờ, tôi chỉ muốn đứng lên và chạy. Ông nhìn tôi chăm chú rồi nói: “Thôi được, cha sẵn sàng nghe con xưng tội, nhưng cha không được quyền ban phép giải tội cho người ngoài Công giáo.”

Tôi hoàn toàn không hiểu ông đang nói gì: “Vậy à, thưa cha. Cái đó không thành vấn đề.” Lại im lặng. Rồi ông nói: “Nào, con nói đi.”

- “Thưa cha, con không biết phải làm sao.”

Ông lắc đầu, ngừng một lát rồi nói: “Cha sẽ nhắc lại mười giới răn, còn con chỉ cần trả lời có hoặc không.”

Tôi tự nhủ: tôi không tin chuyện này lại đang xảy ra! Ông bắt đầu nêu lên từng giới răn một. Tôi nhẹ cả người khi ông đọc đến câu “Chớ giết người”. Cuối cùng, tôi đã có thể trả lời “không”.

Khi đã xong, ông nói: “Khi trở về Mỹ, nếu con muốn đi thú tội, thì nên đến với mục sư của con.”

Tôi đáp: “Xin cám ơn cha!” rồi vọt lẹ ra ngoài. Ra đến ngoài, hai chân tôi run lẩy bẩy. Tôi gấp gáp gọi taxi về Citluk. Đến nơi, tôi xuống xe và bước lên con đường đất dẫn về nơi chúng tôi trọ, nhưng tôi không về mà vẫn tiếp tục đi. Tôi rung động sâu xa, nhưng cũng nhận thức rằng tôi thật sự cảm thấy tuyệt vời - được tẩy sạch đến tận cùng sâu thẳm tâm hồn tôi như chưa từng có. Rồi tôi lại nghĩ đến việc mới vừa xảy ra. Tôi phá lên cười. Tội nghiệp ông cha! Trong hai chúng tôi, chưa chắc ai đã run rẩy hơn ai.

Tôi trở về phòng trọ, đi tắm và thu dọn hành lý, vì đây là đêm cuối cùng, và tôi muốn sáng sớm mai sẽ có chút giờ rảnh. Tôi đã quyết định đi (từ nhà trọ tới) Mễ Du thêm một lần nữa - lần này không phải để lên núi, nhưng để có thời gian ở một mình trong Nhà thờ, trước Thánh Lễ bảy giờ sáng. Ngay sau đó, chúng tôi sẽ ra đi đến Dubrovnik.

Tôi đi ngủ trước khi những người khác về, và đang khi chờ giấc ngủ đến, tôi thấy vui biết bao vì đã đi xưng tội. Nó chẳng làm tôi trở thành Công giáo hoặc không Công giáo vì việc đó. Sự thú tội đã thật sự làm nơi tôi những gì mà nó đã làm nơi nhiều người khác: nó ghi khắc mãi mãi vào lòng tôi những cảm nghiệm Mễ Du.

Rồi tôi lại nhận ra thêm một điều khác nữa: từ khi đến Mễ Du, tôi ít nghĩ về Đức Maria, cho dù Người đang hiện ra hằng ngày. Tôi thấy xấu hổ, vì để khởi sự, chính Người đã đem tôi đến đây. Tuy nhiên, tôi cảm thấy Người không bận tâm về chuyện đó, Người thích lui vào phía sau hơn, để hướng người ta đến với Con của Người. Trong trường hợp tôi, chắc chắn là Người đã thành công: sau tuần lễ này, mối quan hệ giữa tôi với Thiên Chúa trở nên thật hơn và trực tiếp hơn bao giờ. Đó là một mối quan hệ riêng tư, gần gũi, thân mật, và tôi cảm thấy nó sẽ tiếp tục mãi, cả khi tôi về nhà. Thỉnh thoảng, tôi lại thấy mình đang thầm thì: “Ôi, Giêsu! Con yêu mến Chúa!”, hoặc: “Ôi, Giêsu! Con xin cảm ơn!” Trước kia, chưa bao giờ tôi cầu nguyện như vậy; thực ra, cả cuộc đời tôi từ nay sẽ không còn như trước nữa - đó chính là trọng tâm của (sứ điệp) Mễ Du.

Sáng hôm sau, khi đang rảo bước trên con đường nay đã thành quen thuộc với tôi, không khí trong lành và mát mẻ của buổi sáng sớm như đang kết tinh lại tất cả những biến cố đã xảy ra trong tuần. Tôi thấy ở đó một sự tiến triển rõ nét và thiêng liêng cho tôi. Chắc chắn, tôi cũng đã thấy có sự chuyển biến dần dần nơi những người khác: người đàn bà mập mạp ưa phàn nàn trên xe buýt, nay đã dịu đi và bình tĩnh; những linh mục đã đến với vẻ lãnh đạm chai lỳ thì nay, khi tuần lễ chấm dứt, hầu như đã trở nên hăng hái, nhiệt thành.


Phần tôi, tôi cứ nói mãi: “Lạy Chúa Giêsu, con không thể nghĩ là con có thể bỏ đây mà đi được. Con đang ở đây, ở ngưỡng cửa của thiên đàng, và con thực sự không muốn về nhà.” Và rồi, tim tôi lại cứ nhớ mong Terri, Kennedy và Rebecca, và cứ ước ao tôi có thể đưa cả mấy mẹ con tới đây.

Khi tôi tới Nhà thờ, Nhà thờ trống trơn - lần đầu tiên tôi được thấy như vậy. Tôi nghĩ không có gì đáng ngạc nhiên, vì còn ít nhất một tiếng đồng hồ mới đến giờ Lễ. Tôi quỳ vào hàng ghế đầu, và ngay lúc đó, cảm xúc trào dâng trong lòng tôi. Tôi tự nhủ: mình không nên làm như thế này, nhưng nước mắt vẫn không sao cầm lại được. Tôi thầm thĩ: “Ôi Giêsu, con biết là chúng con phải ra đi bây giờ, nhưng con không thể...”

Thời gian như tan biến, bỗng nhiên, Maureen và nhiều bạn khác trong nhóm đến ngồi bên cạnh tôi. Cô mỉm cười nói nhỏ: “Ê, đồ lén lút! Tại sao không cho tụi tôi biết anh đến đây sớm?”

Tôi nhìn cô rồi vội vàng quay đi đáp: “Tôi cần được ở một mình, vậy thôi.” Tôi không tài nào cầm được nước mắt. Thánh Lễ tiếng Anh thì ít người hơn và thân mật hơn lễ buổi chiều. Trong phần hiệp lễ, tôi cảm nghiệm được sự hiện diện êm ái, dịu dàng của Chúa, mà tôi sẽ không bao giờ quên. Khi Thánh Lễ chấm dứt, tôi vội vàng ra ngoài. Tôi chỉ muốn được ở một mình. Chỉ còn nửa giờ nữa trước khi xe buýt đến đưa chúng tôi đi Dubrovnik - và cuộc hành hương của chúng tôi sẽ chấm dứt.

Tôi nhanh chân đi vòng ra phía sau Nhà thờ, nơi không ai có thể thấy tôi. Bây giờ, mặt trời đã lên cao, và bầu trời không một đám mây. Tôi quỳ gối xuống khóc nức nở, không sao kềm chế: “Lạy Chúa là Chúa Trời con, xin đừng đưa con đi khỏi nơi này!” Tôi trở nên một đứa trẻ - đứa con của Chúa - mà chúng tôi được nghe nói đến suốt trong tuần. Cảm xúc đã vượt quá khả năng diễn đạt của ngôn ngữ; tất cả những gì tôi có thể lặp đi lặp lại chỉ là: “Giêsu - Giêsu - Giêsu.”

Dần dần, tôi nhận thấy có một sự bình an kỳ diệu đang ngự trị trong lòng, cho tôi biết sẽ không bao giờ lìa xa Mễ Du về tinh thần. Nhưng đã đến giờ trở về - và sống mỗi ngày với những gì tôi đã cảm nghiệm nơi đây.

Cuối cùng, tôi đứng lên, đưa mắt nhìn lên ngọn Krizevac, để thu lấy hình ảnh cuối cùng cái biểu tượng của ngôi làng bé nhỏ xinh đẹp này. Tôi nhìn lại lần nữa - và mở to mắt nhìn trừng trừng: không có cây Thập giá!

Tôi nheo mắt, chớp mắt, quay đi, quay lại - vẫn không có Thập giá! Bị sốc, tôi moi túi xách lấy máy ảnh ra, nhìn qua ống nhắm: không có gì hết! Tôi chụp mấy tấm làm bằng chứng, vì đã từng chụp ngọn núi - với Thập giá - cũng từ một góc độ ấy. Đi thong thả ra phía trước sân Nhà thờ, tôi gặp Maureen và một người khác trong nhóm, anh Bob Veasey, giờ đã thành bạn thân. Chỉ tay lên ngọn núi, tôi điềm tĩnh nói: “Nhìn kìa!”

Bob cười toe: “Biết rồi! Tụi tôi cũng không thấy Thập giá!”

Suốt mười hoặc mười lăm phút, chúng tôi đăm đăm nhìn vào đỉnh núi, rồi giờ khởi hành đến. Khi chúng tôi đã ngồi vào chỗ và liếc nhìn ngọn Krizevac lần cuối, khôi hài thật: cây Thập giá đã trở lại, và ai cũng trông thấy rõ ràng.

Quay lại phía Bob, tôi nhẹ nhàng nói: “Đó là lời chào tạm biệt đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể có được.

hoanghac
01-17-2013, 04:39 AM
“Các con hãy phó thác hoàn toàn cho Ngài - để rồi các con sẽ hiểu được và sẽ cháy lửa tình yêu Thiên Chúa...”


Chương 14
VỀ TỔ ẤM

Khi máy bay của chúng tôi tăng tốc xuôi theo đường băng của sân bay Dubrovnik, sáng sớm ngày thứ sáu, tôi vẫn không ngớt suy nghĩ về sự biến đổi của nhóm chúng tôi từ khi đến đây tám ngày trước. Mễ Du đã ảnh hưởng sâu đậm trên mỗi cá nhân cũng như trên tập thể cả đoàn chúng tôi. Chúng tôi đã chia sẻ kinh nghiệm phi thường này, và sự chia sẻ ấy đã tạo nên một mối liên kết sẽ tồn tại suốt một đời người.

Tôi đã có một hiểu biết mới về việc thế nào là một người hành hương, ấy là chia sẻ kinh nghiệm và cảm tưởng của mình với những người khác - vốn đến từ mọi khuynh hướng và hoàn cảnh xã hội khác nhau, và được sắp xếp sống cùng bạn trong một khoảng thời gian. Theo mặt tự nhiên, chúng tôi có thể đã không bao giờ thành bạn bè - nhưng chúng ta không ở trên mặt tự nhiên mà là trên mặt siêu nhiên. Bằng cách này cách nọ, tôi biết là những tình bạn như thế sẽ luôn bền chặt, dù chúng ta không gặp nhau hằng nhiều năm. Khi đèn báo thắt lưng vào ghế trên máy bay tắt đi, từng nhóm nhỏ chúng tôi tụ tập trên lối đi, trao đổi về kế hoạch và sắp xếp những cuộc gặp gỡ khi về đến nhà.

Maureen sẽ sớm đi về một tỉnh lẻ ở biên giới Texas-Mexicô, để làm việc tại một dưỡng đường phụ sản dành cho người nghèo trong một năm. Lương bổng ở đấy rất ít - chỉ được cấp chỗ ăn ở với một ít tiền mua sắm đồ cần thiết, còn công việc thì khó nhọc và lâu giờ. Tôi rất cảm kích cái quyết định dấn thân như vậy, còn cảm kích hơn vì quyết định ấy đã có từ lâu trước khi cô biết mình sẽ đi Mễ Du, ấy là vào lúc - theo lời cô - cô là một người Công giáo không tốt lắm. Tuy vậy, cô y tá tương lai này đã yêu mến Chúa đến nỗi dâng hiến năm hành nghề đầu tiên của cô cho người nghèo. Cô đã hứa hôn, nhưng cả hai lại quyết định đợi cho đến năm công tác tình nguyện của cô hoàn tất. Cô đồng ý sẽ ghé qua Myrtle Beach với Fred, chồng chưa cưới của cô, trên đường đi Texas, để thăm Terri và tôi.

Thời gian vừa qua thật là thời gian hạnh phúc, vui vẻ cho hết cả chúng tôi - nhưng trong trí tôi vẫn còn lấn cấn một điều mà tôi biết tôi phải giải quyết, vì còn nhiều điều về cha Svet mà sơ Margaret chưa nói hết cho tôi. Tôi đã không có thời gian gặp riêng chị để biết được các chi tiết. Nhưng bây giờ, chúng tôi đang trên đường về nhà, tôi nhất định phải hỏi. Cũng may, lúc ấy có một cái ghế trống bên cạnh chị. Sau khi xin phép nói chuyện với chị một chút, tôi đi thẳng vào vấn đề: “Thưa sơ, làm sao cha Svetozar chỉ gặp tôi có mấy phút lại có thể biết chắc tôi là người sẽ giúp ông sửa bản thảo của ông? Ông có biết tôi là ai đâu?”

Chị nhìn tôi một lúc rồi mỉm cười: “Được rồi, để tôi nói cho anh nghe: khoảng hai tháng trước chuyến đi này, tôi có ghé thăm cha Svet tại nhà dòng của ngài ở Konjic. Cha yêu cầu tôi đọc bản thảo của ngài và tôi đã đọc. Ngài hỏi tôi nghĩ sao, tôi nói nó rất tuyệt. Nhưng ngài thấy không chắc, nên ngài hết sức mong ước tìm được một người tinh thông tiếng Anh để giúp về cú pháp và biên tập - và là một người có thể làm việc trực tiếp với ngài. Cha hỏi tôi có chịu làm việc đó không.”

Chị mỉm cười hồi tưởng: “Tôi nói với cha tôi không đủ trình độ, mà dù có đủ, tôi cũng chẳng có thời gian. Khi về đến nhà, lịch công tác của tôi đã kín mít cho đến chuyến đi Mễ Du lần sau. Thế là ngài hỏi tôi xem có biết ai có khả năng giúp Ngài. Khi tôi nói không biết, ngài rất bối rối, vì ngài cần có gấp một người giúp Ngài. Tôi đề nghị chúng tôi cầu nguyện cho việc này. Anh biết không?” chị lại mỉm cười, “Tôi rất tin vào lời cầu nguyện.”

Tôi gật đầu: “Thế sơ cầu nguyện cái gì?”

Im lặng một lát, chị nói: “Tôi cầu rằng trong cái nhóm hành hương sắp tới của Trung Tâm Hòa Bình - tức là nhóm này đây - sẽ có một nhà văn hay nhà báo người Mỹ, và chúng tôi đã có anh.”

Tôi nhìn chị sửng sốt: “Thật không thể tin được!” Tôi kêu lên, vì thấy một bước tiến nữa của hành trình thiêng liêng - mà Đức Maria yêu cầu tôi đảm trách - đã được thực hiện. Nhớ lại thời gian tôi hầu như bị ám ảnh phải đến Mễ Du vào tháng năm, mặc dù có sự phản đối kịch liệt của Terri, tôi bỗng bàng hoàng hiểu ra: “Như vậy nghĩa là tôi chắc chắn sẽ trở lại đó...”

Chị nhẹ nhàng nhắc tôi: “Đừng quên là anh còn phải vượt qua cái chướng ngại này: đi về nhà và nói chuyện với Terri.”

Tôi cụt hứng. Tôi nghĩ nếu tôi đã đến được Mễ Du vào tháng năm như một phép lạ, do lời cầu nguyện của sơ Margaret, thì việc tôi sẽ trở lại đó để làm việc với cha Svet, cũng phải được coi như là tiền định. Thế nhưng bây giờ tôi lại không chắc gì hết. “Tôi phải làm sao đây? Tôi phải trở lại thôi.”

“Làm đúng như tôi đã làm,” chị trả lời thẳng thừng theo kiểu dân New York của chị. “Hãy cầu nguyện cho việc đó đi!”

Cảm thấy hơi xấu hổ, vì sau tám ngày ở Mễ Du mà vẫn cần phải được nhắc nhở cầu nguyện, tôi cám ơn và cam đoan với chị tôi sẽ làm.

Về chỗ ngồi, tôi nhắm mắt lại, lặng lẽ cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn con trở lại - mà thật tình ngay cả nghĩ đến việc ấy, con cũng không dám - thì khi con nói với Terri chuyện đó, nếu nàng chỉ hơi phản đối một chút xíu thôi, con sẽ biết đó không phải là Ý Chúa. Con sẽ đành bỏ lửng như vậy. Lạy Chúa - tôi vội thêm vào - con xin Chúa chớ gì câu trả lời của Terri sẽ là đồng ý. Amen!” Nói thẳng ra như vậy, tôi nghĩ cũng khó chịu, nhưng thôi, cái gì đã làm là đã làm.

Chúng tôi đáp xuống sân bay Kennedy và rời máy bay - rơi vào sự hối hả của một sân bay không ngớt hoạt động, vào tiếng ồn và sự nhộn nhịp có tổ chức của thành phố New York, với bao lớp người hối hả đi đến chỗ này, chạy qua chỗ kia, qua lại khắp nơi... Chúng tôi trở lại với thế giới mà sự khác biệt làm chúng tôi choáng váng - càng choáng váng hơn khi ra đến bên ngoài, người ta đang ơi ới la hét gọi taxi và các tài xế taxi cũng đang la hét lẫn nhau.

Sau khi cả nhóm chào tạm biệt nhau và hứa giữ liên lạc, thấy còn ít phút trước khi bay tiếp về Myrtle Beach, tôi liền kiếm điện thoại để gọi cho Terri. Có quá nhiều điều để nói: trong suốt bằng ấy năm hôn nhân, đây là lần đầu tiên chúng tôi xa nhau lâu như vậy mà không thể ít nhất là gọi điện cho nhau. Tôi nóng lòng được nghe tiếng nàng! Vậy mà khi đã bấm xong số và bắt đầu nghĩ mình sẽ nói gì, tôi khựng lại. Tôi không nói được. Đặt ống nghe xuống trước khi chuông kịp reo, tôi lắc đầu. Phải chờ về đến nhà thôi.

Tôi vào phòng rửa mặt, cố gắng sao cho có vẻ chỉnh tề - và giật mình khi thấy một khuôn mặt xạm nắng đang nhìn lại tôi từ tấm gương. Mắt tôi sâu hoắm, nhưng không chỉ vì đã hơn mười tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay không ngủ, hoặc chỉ vì bị sụt cân do ăn uống thất thường. Đôi mắt ấy trông đã già đi.

Khi chuyến bay kế tiếp đáp xuống sân bay tỉnh nhà, tôi đã bay hơn mười sáu giờ - thế mà vẫn chưa kềm chế được những xúc động của mình. Bình thường, tôi luôn là người đầu tiên rời khỏi ghế và đứng sẵn ở lối đi; tối nay, tôi lại rất sung sướng nhường cho người khác đi trước. Ngồi lại đó, cố trấn tĩnh để có thể gặp lại Terri như một người trưởng thành chín chắn, tôi đã là người cuối cùng rời máy bay.

Tôi vừa qua khỏi cửa phi trường đã thấy nàng đứng đó, đẹp tuyệt trần! Có một vẻ kinh ngạc trên nét mặt nàng khi thoạt nhìn thấy tôi - nhưng rồi nàng mỉm cười và giơ tay ra. Ngay giây phút tôi ở trong vòng tay ấy, nước mắt tôi tuôn trào, không thể kềm hãm. Sự sum họp gia đình cộng với tác động sâu xa của tám ngày sống nơi ngôi làng nhỏ bé, thánh thiện ấy, đối với tôi là quá sức chịu đựng.

Terri ôm chặt tôi, hỏi đi hỏi lại: “Chuyện gì vậy anh?” Tôi không trả lời được, nhưng cuối cùng cố kềm chế nói: “Em đi lấy xe đi, anh cần về nhà ngay.”

Chúng tôi ngồi bên nhau im lặng. Khi lái xe đến cổng nhà, lòng tôi mừng rộn rã được về nhà - nhưng vẫn cảm thấy sự khao khát trở lại Mễ Du rất dữ dội ấy. Và, bây giờ, bao nhiêu dồn nén về tâm lý, thể lý, bải hoải thần kinh bắt đầu ập đến, và tôi ngã gục trên đi văng.

Terri hỏi: “Anh có cần gì không?” Tôi chỉ lắc đầu. Nàng đến trước mặt tôi, chăm chú dò xét: “Anh trông khủng khiếp quá,” nàng nói với một nụ cười, “nhưng có vẻ khoẻ. Em không thể tưởng được anh sụt ký đến thế.”

Nàng tiếp tục kể những chuyện linh tinh, còn tôi cũng cố gắng thỉnh thoảng mỉm cười và trả lời. Rồi quyết định cứ kể hết ra cho nàng nghe, tôi bắt đầu nói về những gì đã xảy ra và ảnh hưởng của chúng trên tôi. Tôi đã phải dừng lại nhiều lần, không thể tiếp tục được.

Chúng tôi nói chuyện trong hai tiếng đồng hồ - nhưng chỉ đá động sơ sơ trên mặt thôi. Cuối cùng, khoảng 11 giờ đêm, tôi đi ngủ. Dù thức suốt gần hai ngày, thế mà bây giờ tôi cũng chỉ ngủ được khoảng bốn tiếng. Tôi đứng dậy, đi vào phòng khách và cầu nguyện, rồi ra ngoài đi bách bộ một lát dưới trời đêm ấm áp. Tôi thèm khát lời kinh, tiếng hát của ngôn ngữ Croát đẹp đẽ mà tôi quen nghe mỗi buổi chiều. Tám ngày ở Mễ Du, giờ đây như cả một cuộc đời đối với tôi, và tôi nhớ quay quắt ngôi làng với người dân ở đó.

Cuối cùng, tôi cố đi ngủ trở lại, và đánh một giấc cho đến khi bọn trẻ ùa vào và bắt đầu nhảy loi choi trên mình tôi. Tôi thấy khoẻ khoắn hẳn.

Chúng hét om xòm: “Ba ơi, ba ngủ lâu rồi, dậy đi!”

Chúng tôi đùa nghịch ầm ĩ với nhau một hồi, rồi tôi xua chúng ra ngoài, đi tắm, cạo râu và thay quần áo. Suốt ngày hôm đó, tôi không làm được gì mấy; chỉ biết mở vali và lấy các thứ trong đó ra. Nhưng chúng tôi nói chuyện với nhau mỗi khi một ít và ôm hôn nhau rất nhiều.

Ngày hôm sau là Chúa nhật, và là ngày đi Nhà thờ. Tôi bắt đầu sửa soạn chỉnh tề, nhưng rồi ngừng lại, bảo Terri là tôi đi không tiện. Tôi chưa sẵn sàng gặp mọi người, nhất là các mục sư của chúng tôi. Tôi nhớ lại sự cự tuyệt, sự từ chối chấp nhận bất cứ điều gì ngoài đường lối đức tin của Hội Thánh Tin Lành Lutêrô. Theo họ, những vụ hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc nằm ngoài giáo lý của họ. Thế mà tôi đã đến đấy. Đối với tôi, tính xác thực của Mễ Du không còn là vấn đề nữa: tôi tin đó là một biến cố quan trọng nhất đang xảy ra trong thế giới ngày nay.

Terri nài nỉ: “Đi đi anh! Anh sẽ không sao đâu.”

Cũng may là khi chúng tôi vừa lái xe vào bãi đậu xe Nhà thờ, thì có một anh bạn nhận ra tôi. Anh chào tôi, tay bắt mặt mừng vì được gặp lại tôi, rồi thêm: “Trời ơi, tôi dám cá là anh rất sung sướng được trở về nước Mỹ ngon lành này!”

Tôi trừng mắt nhìn anh, cười khó hiểu, không nói gì. Tôi không sung sướng trở về nước Mỹ ngon lành này. Tôi chỉ muốn đi ngay lúc ấy, nhảy lên chuyến bay đầu tiên tôi gặp để đến Nam Tư. Terri trấn an anh ta là tôi không sao, chỉ vì hiện đang bị bần thần khó chịu do ngồi lâu trên máy bay.

Bước ra khỏi xe, tôi nói nhỏ với Terri là chúng tôi phải về nhà ngay, tôi không muốn vào Nhà thờ. Nhưng nàng cứ nắm chặt cánh tay tôi và bảo mọi sự sẽ êm xuôi.

Thế là chúng tôi đi vào Nhà thờ, người này người kia hỏi tôi về chuyến đi, tôi chỉ mỉm cười, nói mọi sự đều tốt đẹp, v.v... để cố giữ bình tĩnh. Terri cứ lẽo đẽo theo sau, khỏa lấp hậu quả gây ra bởi thái độ kỳ lạ của tôi và xin lỗi mọi người.

Chúng tôi ngồi ở ghế cuối Nhà thờ, và thêm lần nữa, tôi lại thấy yêu thích Lễ nghi Phụng Vụ̣ của Hội Thánh Tin Lành Lutêrô quá chừng - một lễ nghi rất gần với Thánh Lễ bên Công giáo hơn tôi tưởng -, nhưng không gì có thể so sánh với Nhà thờ Thánh Giacôbê - niềm hân hoan, lời kinh vang rền của tín hữu, tiếng hát làm sôi động tâm hồn. Tôi chỉ biết nhắm mắt lại và tưởng tượng như mình vẫn ở Mễ Du.

Lúc ra về, mục sư Wingard chào hỏi chúng tôi nồng hậu tại cửa Nhà thờ, thế là tôi lại bị xúc động. Đã từng thấy ông đôi khi xúc động đến rơi lệ tại bục giảng, tôi biết ông sẽ hiểu. Tôi chỉ nói với ông rằng: đó là một chuyến đi hành hương rất sâu sắc, và tôi muốn ngồi lại với ông để nói về chuyến đi ấy, vào một ngày rất gần đây.

Ông nói: “Tuyệt quá! Tôi mong mau đến ngày ấy.”

Sự việc đã xảy ra tốt đẹp hơn tôi ngờ. Nhưng tôi vẫn thích về nhà để được một mình với những hoài niệm của tôi.

Qua ngày sau, sự buồn ngủ do thay đổi múi giờ quả nhiên ập đến. Ngay cả khi đi vào phòng làm việc, tôi cũng không muốn ráng, nhưng cứ ngủ gà ngủ gật bất cứ lúc nào đến cơn - mà cái lúc ấy lại có vẻ như đúng vào lúc tôi muốn lảng tránh. Nhiều lần trong ngày hôm ấy, tôi nói với Terri là có chuyện quan trọng cần bàn với nàng; nhưng rồi tôi lại ngủ thiếp đi. Cuối cùng, vào khoảng 10 giờ 30 tối ấy, tôi xin nàng tắt tivi, chúng tôi cần nói chuyện với nhau.

Cố gắng kềm giữ cảm xúc, tôi kể cho nàng nghe về việc gặp cha Svet và tôi đưa cho nàng quyển sách đầu tiên của cha mà trước kia nàng đã đọc. Tôi kết luận: “Còn lâu anh mới tin nổi là ông đã xin anh trở lại đó mười ngày hoặc vài tuần, để giúp ông làm cho xong quyển sách kế tiếp.”

Không nhìn tôi, cũng không nói gì, nàng bắt đầu lật từng trang của quyển sách màu xanh. Tôi ngồi đó, khốn khổ - ba mươi giây - bốn mươi giây...

Rồi nàng nhìn lên, cười nhẹ: “À, nếu Đức Maria muốn anh trở lại và làm việc đó, em nghĩ em phải đồng ý thôi. Nhưng anh coi anh đang bịp ai đấy? Không chỉ là mười ngày, nhưng phải hơn ba tuần.”

Tôi không thể tin được điều tôi vừa nghe. Tôi chồm qua ôm siết nàng vào lòng và nói tôi yêu nàng quá chừng. Terri lắc đầu, cười nói: “Này, em không biết mình có đang bị lừa hay không đấy? Nhưng...”

Tôi ngắt lời nàng: “Terri, em không bị lừa đâu! Nếu em muốn đổi ý...”

Nàng thở dài: “Không, không, em hiểu. Bao giờ anh phải trở lại Mễ Du?”

Tôi đáp, cố không lộ vẻ mừng rỡ: “Giữa tháng sáu.”

Chúng tôi còn nói về chuyện ấy thêm một giờ nữa, và khi sắp sửa đi ngủ, nàng nói: “Anh biết không, em không mảy may hiểu tại sao em lại đồng ý về việc này. Thật là kỳ cục!” Nhưng nhìn thấy nét mặt lo âu của tôi, nàng tiếp: “Đừng lo, coi như chuyện anh phải làm thôi!”

Tôi đi ngủ, đầy tràn hạnh phúc.

hoanghac
01-30-2013, 03:40 AM
“Mẹ kêu gọi các con hãy là gương mẫu cho mọi người, nhất là trong việc cầu nguyện và làm chứng...”
Chương 15
KỂ CHUYỆN

Sáng thứ ba, tôi thức dậy trong trạng thái sảng khoái. Tôi sắp trở lại Mễ Du! Tôi nán lại trên giường một lát cho niềm vui ngấm sâu. Sau cùng, cảm thấy mình gần như bình thường, tôi nôn nóng bắt tay vào việc. Tốt hơn là ghi lại những ý tưởng trong khi chúng còn nóng hổi. Tôi ước tính phải mất ít nhất hai bài xã luận để kể về chuyến đi.

Tuy nhiên, có một đám mây nhỏ ở chân trời. Hôm qua, tôi đã nhớ lại là tôi được chỉ định nói chuyện, trong bữa điểm tâm sáng nay tại một câu lạc bộ dân sự địa phương. Bây giờ, kiếm người thay thế thì đã quá trễ; vả lại, nếu không để nói về chuyến đi của tôi đến Nam Tư như tôi dự đoán, thì tôi hoàn toàn không biết mình sẽ phải nói về đề tài gì.

Vẫn không có gì rõ rệt hơn khi tôi đến lữ quán - nơi chúng tôi gặp gỡ mỗi sáng thứ ba. “Ít nhất mình cũng đến đúng giờ”, tôi nghĩ thế khi bước vào phòng ăn lớn cũng là phòng hội nghị. Đồng hồ treo tường chỉ đúng 7 giờ 30 phút. Liếc quanh, tôi thấy đã có độ 40, 50 người có mặt - một sỉ số không tồi cho một cuộc họp đầu mùa hè.

Thường thường, tôi hay ngồi vào một trong mấy cái bàn phía sau, nhưng sáng nay, tôi phải ngồi ở bàn đầu, gần bục diễn đàn, cạnh bên chủ tịch câu lạc bộ. Chúng tôi nói chuyện xã giao và tôi không ăn nhiều được. Tôi không quen nói trước công chúng, và khi tôi phải làm, đối với tôi đó là một tai họa tôi không tránh được. Bất kể lý do hoặc số lượng thính giả, tôi luôn cảm thấy như muốn bệnh, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi và không thể theo dàn bài đã soạn sẵn để nói cho mạch lạc được. Dứt khoát, đó không phải là cái mà tôi khoái làm, nhất là trước các vị tai to mặt lớn trong giới kinh doanh.

Và bây giờ, tôi lại sắp nói với họ về Mễ Du, về một chuyện có tính chất tôn giáo.

Tôi cố gắng xếp đặt những điều tôi sắp nói, viết nghuệch ngoạc dàn bài trên khăn ăn. Khi ngẩng lên, tôi mới biết mục sinh hoạt câu lạc bộ đã xong, và ông chủ tịch đang giới thiệu tôi. Bấm chặt vào bục để giữ cho tay khỏi run, tôi đi thẳng vào đề: “Này, tôi quen hết các bạn, chúng ta là thành viên của câu lạc bộ này, và tôi đã làm việc với nhiều người trong các bạn. Tôi không biết phải nói thế nào với các bạn điều tôi sắp nói hôm nay, vì đó là điều tôi không định nói.” Tôi nghỉ một lát và hít một hơi dài: “Nhưng nếu tôi nói ra được với các bạn, tôi sẽ nói được với bất cứ ai.”

Với cách nhập đề đó, tôi dần dần kể cho họ nghe về những cuộc hiện ra ở Mễ Du - những gì đang xảy ra và đã bắt đầu như thế nào. Tôi nói: “Tôi đã có mặt ở đó, tôi đã gặp những người đó, tôi đã ở trong ngôi Nhà thờ đó và tôi đã cảm nghiệm những điều đang xảy ra.”

Lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu nói công khai về Đức Giêsu Kitô - và bỗng nhiên, tôi không còn bối rối, không còn sợ hãi, không còn đổ mồ hôi tay... Không gì cản được tôi, tôi cứ tiếp tục suốt 40 phút, lâu gấp hai lần bình thường. Điềm tĩnh và thanh thản, tôi thao thao bất tuyệt như thể lời nói cứ trào ra khỏi miệng tôi.

Thông thường, những người có cuộc hẹn sớm hay đứng dậy ra về trước khi người nói kết thúc, và đã có những ngày thứ ba xem ra số người có những cuộc hẹn sớm lại hơi nhiều. Còn những người không mắc hẹn thì đứng lên pha cho mình một tách cà phê khác, hoặc liếc nhìn vào tờ báo mới ra. Sáng nay, không ai bỏ về, ngay cả không ai rục rịch cử động.

Cuối cùng, tôi đi đến kết luận. Tôi chỉ biết là đã đến giờ kết thúc, tôi bèn kết thúc. Tôi nói: “Tôi không biết tại sao tôi đã làm như vậy, vì thường thì tôi không bao giờ nói những điều tôi vừa nói với các bạn. Tất cả những gì tôi có thể nói, đó là: những điều này đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời tôi, đến nỗi tôi sẽ không bao giờ là tôi như trước kia nữa, và tôi chỉ có thể tạm biệt các bạn với những lời ấy thôi.”

Một phút im lặng, rồi tiếp theo là một tràng pháo tay. Tôi hoảng hốt: “Lạy Chúa, con đã nói gì?” Bây giờ, tôi mới thật sự thấy bối rối, cũng giống như lúc tôi đem bài xã luận thứ nhất về Mễ Du đi in. Như trước đây, tôi hoảng hốt nghĩ: “Giá mà tôi có thể rút lại những lời ấy! Nhưng đương nhiên là đã quá muộn!”

Ông chủ tịch đứng dậy và lẩm bẩm nói: “Đây là một trong những chương trình độc đáo nhất chúng tôi từng có.” Rồi ông cho giải tán chúng tôi, mà tôi là người thấy nhẹ nhõm nhất. Một vài người đến hỏi chuyện tôi, và tôi không thể nào quên được người đầu tiên. Ông ấy nhìn tôi và nói: “Việc đó đòi hỏi can đảm hơn bình thường mà tôi không hề có được.” Ngừng một chút, ông tiếp: “Nhưng câu chuyện thật tuyệt vời! Anh làm tôi cảm động thật đấy.” Rồi ông ta quay lưng bước đi.

Những người khác đưa ra nhiều bình luận tích cực, và cũng có vài người mời tôi đến nói chuyện tại Nhà thờ họ. Khi mọi người đã ra về, tôi ra khỏi nơi ấy, bối rối và hoang mang. Tôi vào xe, ngồi yên đó một lát. Sau đó, tôi lái xe đến văn phòng, lòng tràn đầy tri ân.

Tâm tình ấy đã biến thành nỗi hân hoan, vui sướng khi tôi đến văn phòng. Tôi cũng chẳng màng để ý đến chồng thư từ của cả một tuần lễ mà Denease đã cẩn thận chất trên bàn giấy tôi. Tôi đi thẳng tới bàn máy chữ và bắt đầu ngay bài xã luận tiếp theo, bài thứ bảy trong loạt bài về Mễ Du. Ý tưởng lưu loát không khác nào viết một lá thư cho một người bạn cũ thân thương.

Ngày 13 tháng 5 năm 1986
Một chuyến thăm Mễ Du


Cách đây vài tuần, tôi gặp một người bạn cũ tại phi trường. Lúc ấy, tôi đang đợi giờ khởi hành của chuyến đi chín ngày đến Mễ Du, Nam Tư. Qua vài lời trao đổi, tôi hỏi anh đi đâu. Anh nói đi Cancun, Mêhicô, vừa lo công việc, vừa nghỉ xả hơi. Rồi anh cũng hỏi lại: “Còn anh đi đâu?”

Tôi nói ngập ngừng: “Ờ,... tôi đi Nam Tư.”

Vẻ mặt của anh nói lên tất cả, nhưng anh cũng hỏi: “Anh đi Nam Tư làm cái quái gì vậy?”

Sau gần hai tuần lễ sống ở đó, tôi có thể hiểu tại sao người ta lại thắc mắc về chuyện đi Nam Tư. Đấy là một nước xã hội chủ nghĩa, núi non hiểm trở, không mấy hiếu khách, nhất là đối với người Mỹ. Nhưng tôi đâu có đến đó với tư cách du khách! Những ai đã đọc cột xã luận này đều đặn trong sáu tháng qua, hẳn biết tại sao tôi đến Mễ Du.

Đã gần năm năm nay, ngôi làng bé nhỏ này đã lôi kéo sự chú ý của thế giới như một nơi mà Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, Thân Mẫu Đức Giêsu, được cho là hiện ra hằng ngày với sáu thiếu niên, tại ngôi làng miền núi xa xôi ấy. Mặc cho mọi nỗ lực của chính quyền nhằm gây khó khăn cho việc lui tới, hàng triệu người trên khắp thế giới đã đến và còn tiếp tục đến, để nhìn thấy tận mắt điều đang xảy ra.

Đây là điểm du lịch hấp dẫn số một tại Nam Tư. Do đó, đang khi chính quyền vẫn tiếp tục quấy rầy dân địa phương và du khách, thì họ cũng đành phải chấp nhận cho phép làn sóng người tuôn đến để thu ngoại tệ. Nhà trọ đang được cất vội vã, do chủ đất chứ không do các công ty xây dựng lớn. Mức phát triển xã hội rất chậm. Ở đấy cũng có hàng rong bán đồ ăn và đồ vật lưu niệm, nhưng không sao đáp ứng được với tỷ lệ du khách. Ngay các phương tiện vệ sinh cũng không có, cũng không có cả những tiện nghi cần thiết cho du khách được thoải mái trong mấy ngày lưu lại. Thế nhưng, hằng ngàn người vẫn đến hằng tuần.

Tin vào một biến cố như vậy đối với một thế giới kỹ thuật ngày nay quả thật là khó! Tuy nhiên, những ai đến đấy và ở lại đấy một thời gian, sẽ không còn nghi ngờ rằng một sự kiện vượt trên những lý giải kỹ thuật và khoa học đang xảy ra.

Tình trạng đa tôn giáo và đủ thứ sùng bái trên thế giới ngày nay, cộng với thái độ thờ ơ của những người đi Nhà thờ, và sự chia rẽ ý kiến ngay trong nội bộ Giáo Hội Công giáo, khiến cho người ta nghi ngờ hiện tượng siêu nhiên này. Thế nhưng, sự can dự trực tiếp của tôi và những hoàn cảnh đưa đẩy đến, khiến tôi tin rằng đó là một lời kêu gọi đích thực cho toàn thể nhân loại trên thế giới: hãy hòa giải và quay về với đường lối của Thiên Chúa. Tôi cũng tin rằng Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, chính là sứ giả. Tôi đã tin điều này trước khi đến Mễ Du. Trở về nhà, tôi càng tin chắc, không chút nghi ngờ.

Tôi cứ tự hỏi: tại sao lại tôi? Tôi là một nhà báo, mà nhà báo thì luôn đòi hỏi những sự kiện và bằng chứng cứng ngắc, lạnh lùng, có thực chất giá trị. Tôi lại không phải là người Công giáo, biết rất ít về sự tôn kính Đức Trinh Nữ Maria của Giáo Hội Công giáo. Tín lý giáo phái Tin Lành Lutêrô của tôi thực sự không biết gì về Đức Maria, ngoài vai trò làm Mẹ Chúa Giêsu của Bà.

Sự quan tâm của tôi trong việc tìm hiểu thêm về sự kiện Mễ Du chỉ là do tò mò: tôi nghĩ sẽ lấy đó làm một bài báo thú vị cho ngày lễ Giáng Sinh. Sự tò mò này đã biến thành bốn bài báo dài trong suốt tháng 12. Từ đó, chúng tôi đã nhận hơn 250 thư của bạn đọc, kèm theo bì thư dán sẵn tem và ghi sẵn địa chỉ - yêu cầu gởi cho bản sao của loạt bài ấy. Những thư yêu cầu này vẫn tiếp tục đến mỗi ngày. Sự tò mò ấy, giờ đây, đang khiến tôi ước ao sử dụng những ngày còn lại của đời tôi, để loan truyền sứ điệp Mễ Du cho bất cứ ai và cho hết những người muốn nghe. Tôi quyết định chỉ làm điều ấy thôi.

Những gì tôi đã thấy và đã cảm nghiệm không dễ diễn tả bằng lời. Nó lại càng khó chấp nhận, khó tin đối với nhiều người. Thế nhưng, tôi đã có mặt ở đó và tôi hiểu những gì tôi thấy và những gì tôi cảm nghiệm. Tôi đã thấy mặt trời múa, di chuyển, xoay tròn và nhợt nhạt đến nỗi tôi có thể nhìn trực tiếp bằng mắt trần. Điều không thể có nhưng tôi đã thấy. Nó chính là cái mặt trời mà bạn và tôi đều thấy hằng ngày.

Tôi cũng đã thấy cây Thập giá khổng lồ - đúc bằng xi măng, nặng 14 tấn, dựng chót vót trên một đỉnh núi nằm tận xa phía sau Nhà thờ Mễ Du - hoàn toàn biến mất vào một buổi sáng quang đãng và chan hòa ánh nắng. Cũng chính cây Thập giá đó được tôi quan sát - vào một buổi sáng sớm khi trời còn tối - đã sáng rực lên và chói lòa như thể nó được bao bọc bởi đèn điện. Một điều chắc chắn không thể có đó là: không có điện ở trên núi, thế mà tôi đã thấy hiện tượng ấy...

Còn nhiều nữa, nhưng vấn đề ở đây là người ta không thể giải thích những hiện tượng này. Chúng thường diễn ra vào lúc Đức Trinh Nữ Diễm Phúc đang hiện ra cho các em. Có người thấy, có người không thấy. Nhiều người khác đã thấy vào những lúc mà tôi không thấy.

Tuy nhiên, hiện tượng quan trọng nhất tại Mễ Du không phải là các sự kiện vượt trên tự nhiên, nhưng là sự dấn thân tuân hành hầu như nhất trí của dân làng đối với các sứ điệp mà Đức Maria đã gởi đến cho họ. Ngôi làng này là một mẫu rất gần với hình ảnh một cộng đoàn hoàn thiện, sống trong tình yêu và gắn bó với đường lối của Thiên Chúa.

Trước khi những cuộc hiện ra bắt đầu vào tháng 6 năm 1981, cộng đoàn này mặc dù đơn giản, quê mùa, lạc hậu và thiếu thốn vật chất, nhưng về nhiều mặt, họ không khác gì những cộng đoàn của chúng ta. Họ cũng có những tệ nạn như rượu chè, gian lận, tham lam, ẩu đả... Các ngày Chúa nhật, họ đi Nhà thờ rất thưa thớt.

Ngày nay, lối sống này không còn nữa. Không chỉ vào ngày Chúa nhật, mà cả các ngày thường, Nhà thờ cũng luôn chật ních người tham dự. Sống tận tình cho Chúa là hướng đi chính của đời họ. Đây mới thật là phép lạ, là sứ điệp đích thực của Mễ Du. Đấy chính là điều người ta nhấn mạnh cho khách hành hương lưu tâm.

Một trong các thiếu niên được thấy Đức Maria hằng ngày nói rằng điểm sáng trong ngày của em không phải là sự hiện ra của Thân Mẫu Đức Giêsu, mà là tham dự Thánh Lễ tại Nhà thờ. Đó là điều mà Đức Trinh Nữ Diễm Phúc mong muốn nơi tất cả chúng ta.

Vậy thì câu chuyện dẫn đến đâu? Tuần sau có thể sẽ là bài báo cuối cùng của tôi về vấn đề này.... Tôi cũng sẽ rất sung sướng được đến nói chuyện với bất kỳ nhóm nào và chiếu băng vidéo cho họ xem. Tuy vậy, điều quan trọng hơn cả là tôi sẽ cố hết sức trung thành nắm giữ sứ điệp Mễ Du. Ước mong sao sứ điệp của Đức Maria sống mãi trong tất cả chúng ta.

* * *


Hai tuần sau, bài báo thứ tám và là bài cuối cùng về Mễ Du đã được viết ra dễ dàng:
Ngày 28 tháng 5 năm 1986
Lời cuối cùng về Mễ Du

Hai tuần trước đây, tôi trở về từ một chuyến đi chín ngày đến Mễ Du, nước Nam Tư, một làng nhỏ bé miền núi, nơi mà Đức Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, được cho là đang hiện ra với một nhóm sáu thiếu niên. Các cuộc hiện ra - như người ta gọi thế - đã xảy ra từ 24 tháng 6 năm 1981 đến nay, một thời gian kéo dài gần 5 năm. Tháng 12 vừa qua, tôi đã viết một loạt bốn bài xã luận đề cập đến biến cố tôn giáo siêu nhiên này, và tiếp đó là một số bài tường thuật cập nhật vào đầu năm nay.

Đây sẽ là bài cuối cùng tôi viết về Mễ Du... Bài cuối cùng này có liên quan đến nhiều sứ điệp mới nhất được Đức Maria ban. Tuy vậy, xin cho phép tôi nói lạc đề một chút về một trong những người đã đến Mễ Du với nhóm Trung Tâm Hòa Bình của chúng tôi.

Anh Frank Fiamingo Jr., bị liệt hai chân. Anh 33 tuổi, nhưng đã sống với chiếc xe lăn 19 năm. Lý do đến Mễ Du của anh rất đặc biệt đối với tôi.

Cha mẹ anh Frank, ông Frank và bà Yolanda sống tại đây, trên Grand Strand, Surfside Beach. Chỉ cần gặp ông Frank ít phút, bạn sẽ biết ngay ông là một trong những người hạnh phúc nhất, lạc quan nhất mà bạn đã từng gặp. Bà Yolanda thì trầm tĩnh và luôn có vẻ một người biết tự chủ. Cả hai rất tận tâm phục vụ Giáo Hội và gia đình họ. Và điều đó dễ nhận ra. Điều làm cho tôi thấy chuyến đi của họ đến Mễ Du vô cùng đặc biệt, là họ đã biết được sự kiện Mễ Du qua các bài báo tôi viết trong tháng 12. Lúc ấy, họ đã điện thoại cho anh Frank Jr. đang sống tại Columbus, bang Ohio, và quyết định cả ba người sẽ cùng đi chung với nhóm chúng tôi.

Tôi hỏi anh Frank, một nhà nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Y khoa, tiểu bang Ohio, tại sao anh quyết định đến Mễ Du, và anh có nghĩ sẽ được chữa lành tại đó chăng.

Anh suy nghĩ rất cẩn thận trước khi trả lời: “Tôi nghĩ tôi cũng có cùng một lý do như anh và các người khác trong nhóm. Tôi muốn tìm hiểu thêm về những gì đang xảy ra ở đây. Tôi đến vì những lý do riêng và cũng để bồi dưỡng về mặt thiêng liêng cho tôi.”

Anh nghỉ một lát, rồi tiếp: “Nhưng để trả lời câu hỏi kia của anh, không, tôi không đến để cầu mong một sự chữa lành về thân xác.”

Tôi cho là không ngoa, khi nói anh đã tìm thấy những gì anh muốn tìm tại Mễ Du. Anh được Vicka, một trong các thị nhân đã được trông thấy Đức Trinh Nữ Maria hằng ngày, tiếp đón nồng nhiệt. Vicka chụp ảnh chung với anh và gia đình, cũng như đọc kinh chung với họ. Về sau, anh cũng được mời vào căn phòng nơi Đức Maria hiện ra, và anh đã có mặt một lần trong lúc Đức Maria đến.

Anh Frank Fiamingo Jr. rời Mễ Du cũng với tình trạng như khi anh đến: trên một chiếc xe lăn; nhưng tôi cũng lại cho là không ngoa nếu nói anh ra về cũng hạnh phúc, sung mãn, dồi dào phần tâm linh như mỗi người trong nhóm chúng tôi.

Mỗi ngày thứ hai và thứ năm, Đức Trinh Nữ Maria ban cho các em những thông điệp cho giáo xứ Mễ Du và đồng thời cho cả thế giới. Người gọi tất cả mọi người là “Các con thân yêu”. Mỗi sứ điệp đều được kết thúc bằng: “Cám ơn các con đã đáp lời Mẹ kêu gọi”.

Chiều thứ năm, ngày 6 tháng 3 (năm 1986) :

“Các con yêu dấu, hôm nay, Mẹ kêu gọi các con mở tâm hồn ra cho Chúa hơn nữa, để Người có thể hoạt động qua các con. Các con càng mở tâm hồn ra bao nhiêu, các con càng lãnh nhận hoa trái bởi đó nhiều bấy nhiêu. Một lần nữa, Mẹ muốn kêu gọi các con cầu nguyện.”

Chiều thứ năm, ngày 27 tháng 3 (năm 1986):

“Các con yêu dấu, Mẹ cám ơn về những hi sinh của các con. Mẹ mời gọi các con làm một hi sinh to lớn hơn: là hi sinh vì yêu. Không yêu thương, các con không thể chấp nhận Mẹ và Con Mẹ. Không yêu thương, các con không thể làm chứng về những cảm nghiệm của các con cho người khác được. Bởi vậy, Mẹ mời gọi các con hãy bắt đầu sống yêu thương trong tâm hồn các con.”


Chiều thứ hai, ngày 17 tháng 4 (năm 1986): “Các con yêu dấu, bây giờ, các con đang bận tâm về các thứ vật chất, và vì những sự ấy, các con đã đánh mất hết những gì Thiên Chúa muốn ban cho các con. Mẹ kêu mời các con, hỡi các con yêu dấu, hãy cầu xin Chúa Thánh Linh ban cho các con những ơn hiện tại các con đang cần, để các con có thể làm chứng cho sự hiện diện của Mẹ tại đây và cho mọi điều Mẹ đang ban cho các con. Các con yêu dấu, hãy phó thác các con cho Mẹ, để Mẹ có thể hướng dẫn các con một cách trọn vẹn. Đừng bận tâm về vật chất thế gian!” Sứ điệp chiều thứ hai, ngày 5 tháng 5 rất đặc biệt. Hầu hết những người trong nhóm chúng tôi đã có mặt lúc các em nhận sứ điệp. Chúng tôi được cho biết vào lúc 9 giờ 45 phút tối hôm đó, một trong các thị nhân nói rằng Đức Maria đã mời một số khách hành hương Mễ Du đi lên Đồi Hiện ra, để dự một cuộc hiện ra đặc biệt với các em. Trời tối như mực, nhưng chúng tôi vẫn trèo lên được lối mòn dốc dác, lởm chởm đá dẫn đến đỉnh đồi, nơi đã diễn ra những cuộc hiện ra đầu tiên. Lúc Đức Maria hiện ra, Người rất sung sướng và hài lòng nói với các em: “Ngợi khen Chúa Giêsu!” Rồi Người cầu nguyện trên chúng tôi và chúc lành cho chúng tôi. Sau đó, khi một trong các thị nhân “gửi gấm” chúng tôi cho Người, thì Người lại chúc lành chúng tôi lần nữa. Sứ điệp của Người chiều hôm ấy như sau: “Các con yêu dấu, Mẹ muốn cộng tác với các con, và trước nhất, Mẹ muốn các con làm tông đồ truyền bá sứ điệp của hòa bình, hòa giải, cầu nguyện, ăn chay và thống hối. Mẹ khuyến khích mọi người trong các con sống các sứ điệp này, nhằm thay đổi lối sống của các con.” Sau đó, Người nói Người rất hạnh phúc vì tất cả chúng tôi đều có mặt ở đấy. Rồi Người ra đi trong ánh sáng chói lòa của cây thập giá.

Tôi chỉ có thể kết thúc bài báo này như cách Đức Maria kết thúc những lần hiện ra với các em thị nhân: “Hãy ra đi trong bình an của Thiên Chúa!”

* * *

Giờ đây, sau khi kết thúc bài cuối cùng của loạt bài về Mễ Du, tôi liền chuẩn bị cho chuyến trở lại đó. Khi bắt đầu biên tập bản thảo của cha Svet, tôi đã nhận ra rằng đây sẽ là một công việc khó khăn, vì tiếng Croát và tiếng Anh hết sức khác nhau. Tôi đã khâm phục người đàn ông này với quyển sách thứ nhất của ông ấy biết bao, nhưng quả thực, quyển kế tiếp này đòi hỏi một công việc biên tập rất lớn. Terri cũng đã đọc vài phần của bản thảo và nàng rất cảm kích - một điều mà tôi rất biết ơn, - và giờ đây, nàng đã hăng hái khuyến khích tôi trở lại Mễ Du.

Hầu như trước khi chúng tôi kịp nhận ra, thì ngày lên đường đã đến, ngày 15 tháng 6.

hoanghac
02-07-2013, 03:59 AM
“Quanh mỗi ốc đảo bình an, thì có một sa mạc nơi Satan đang rảo quanh, rình rập. Chỉ bằng cầu nguyện, các con sẽ thoát khỏi mọi ảnh hưởng của Satan...”
Chương 16
TRỞ LẠI MỄ DU

Bay một mình tới Dubrovnik thật khác hẳn. Không có những người hành hương khác để cùng chia sẻ nguyện ước, trao đổi chuyện trò, chuyến bay dài chín giờ xem ra lâu gấp đôi chuyến đi lần trước. Chúng tôi đáp xuống phi cảng, và tôi càng thấy đơn độc hơn khi người phụ nữ mặc đồng phục, mặt lạnh như tiền ngồi ở quầy kiểm tra giấy thông hành cầm lâu giấy thông hành của tôi - giữ nó một hai phút, từ từ giở từng trang từ đầu tới cuối, trước khi quẳng nó lại cho tôi... Không một lời giải thích, bà ta chỉ muốn cho tôi biết ai là người nắm quyền kiểm soát ở đây.

Tôi cứ tảng lờ, rồi đi tìm hành lý. Ruột gan tôi như thắt lại. Thật là hoàn toàn khác với chuyến đi lần trước: không có ai hướng dẫn tôi phải đi đâu và phải làm gì, không có chiếc xe buýt thân thiện nào đưa tôi tới Mễ Du, không có một tiện nghi nào dành cho tôi khi đến đó. Ngay cả ở trạm cho mướn xe, bản đồ chỉ đường cũng không có. Hãng du lịch chuyên lo những chuyến bay công tác cho tôi đã đặt sẵn một chiếc Renault, và ngay khi tôi làm quen được với cần sang số nhô lên từ cái bảng điều khiển, tôi đã sẵn sàng để đi.

Năn nỉ mãi, tôi mới được nhân viên cho mướn xe miễn cưỡng cho mượn bản đồ chỉ đường độc nhất của ông, với lời hứa phải trả lại cho ông ta. Tôi quay chiếc xe màu đỏ nhỏ xíu ra khỏi bãi đậu xe của phi trường, đầu óc chỉ nhớ mang máng nơi tôi phải đến, nhưng lòng tôi thì quá hồi hộp.

Tôi dừng xe lại cho một bạn trẻ quá giang: hi vọng anh ta có thể chỉ cho tôi đi đúng đường tới Mễ Du, mà tôi biết là cách đó 150 cây số. Anh ta nói được đôi chút tiếng Anh, nhưng đã chỉ đúng hướng, và nói rằng: từ (phi trường) Dubrovnik tới vùng chúng tôi sắp đi tới không có nhiều đường xá ngang dọc, nên không khó tìm ra ngôi làng ấy.

Tôi bắt đầu thưởng thức cảnh đẹp trên đoạn đường ven bờ biển Adriatique, chạy ngoằn ngoèo qua xóm nhà bé xíu bám vào vách đá cheo leo. Cả một vùng bờ biển lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Ngay cả những tay lái xe điên rồ đang qua mặt tôi vèo vèo ở những khúc ngoặt thật gắt cũng không làm tôi khó chịu; tôi đang trở về với ngưỡng cửa của thiên đường.

Mễ Du không có tên trên cái bản đồ cũ mèm mà nhân viên cho thuê xe đã cho tôi mượn hồi nãy. Nhưng có tên Mostar, và thành phố đó, tôi biết chỉ cách Mễ Du khoảng 30 cây số. Lái xe độ một giờ dọc theo bờ biển thì đến chỗ rẽ dẫn tới vùng ấy. Càng đến gần, tôi càng hồi hộp. Cuối cùng, khoảng hai tiếng rưỡi đồng hồ sau khi rời khỏi phi trường, phong cảnh bắt đầu trông quen thuộc.

Citluk đây rồi! Tôi lái xe thẳng đến căn nhà nhóm chúng tôi đã trọ, và tôi xin thuê phòng với bà chủ nhà rất đỗi ngạc nhiên khi nhận ra tôi, nhưng chỉ được thuê trong ba ngày thôi. Ngay lúc ấy, tôi nhớ ra một người đàn ông tôi gặp ở đó hồi tháng năm. Ông ta có một tiệm buôn nhỏ và đang xây một căn nhà để cho khách du lịch thuê. Ông đã dặn tôi nếu có bao giờ trở lại đây và cần phòng trọ thì đến gặp ông. Tôi tự dặn mình phải nhớ đi tìm ông ngày hôm sau.

Nôn nóng trở lại Nhà thờ để một lần nữa cảm thấy sự bình an, thanh thản của ngôi làng và những người dân ở đó, tôi vội vàng tháo hành lý ra, rồi lên xe trực chỉ Mễ Du. Núi Krizevac hiện ra, tim đôi đập mạnh và miệng tôi kêu lên lớn tiếng những lời cảm tạ và biết ơn Thiên Chúa đã đem tôi trở lại chốn này.

Sự vui mừng của tôi đột ngột bị ngưng lại khi tôi rẽ vào khúc ngoặt kế tiếp và nhìn thấy một xe cảnh sát màu trắng, trên đỉnh có đèn xanh và bên hông có chữ Milicia màu xanh to tướng. Cảnh sát nổi tiếng là hay chận xe lại chỉ để quấy rầy. Lúc ấy tôi nghĩ: thay vì đi làm nhiệm vụ đơn độc như thế này, giá có phải đi cùng với một nhóm đông người thì tôi cũng chẳng lấy gì làm phiền. Nhưng không ngờ họ không quấy rầy tôi; thở dài nhẹ nhõm, tôi đi thẳng luôn. Qua khỏi chiếc cầu nhỏ, tôi liền thoáng thấy hai tháp chuông Nhà thờ Thánh Giacôbê. Tôi đã về lại với Mễ Du rồi!

Đậu xe trước Nhà thờ, tôi chạy ào vào bên trong và quỳ ngay xuống một chỗ ở cuối. Không lời nào diễn tả được nỗi lòng của tôi - sung sướng biết bao khi lại được ở giữa những người dân này, được nghe những âm thanh của Mễ Du, được gặp lại những khuôn mặt quen thuộc từ chuyến đi đầu tiên, và - một lần nữa - được ở giữa đoàn người được đặc ân đến đây hành hương. Khi một nhóm phụ nữ cao tuổi, với y phục đen và khăn choàng đầu đen vừa đi quanh tượng Đức Maria (ngoài sân Nhà thờ) bằng hai đầu gối, vừa cầu nguyện sốt sắng, thì tất cả sự thánh thiện và sùng mộ cao độ - vốn là hiện thân của sự cải hối chung của dân làng - chất đầy trong tim tôi giờ đây rồi trào dâng lai láng. Mới hơn bốn giờ chiều mà Nhà thờ đã đầy ắp người đến để cầu nguyện, đọc kinh và chuẩn bị dự Lễ chiều theo lệ thường vào lúc sáu giờ. Khi khách hành hương bắt đầu ngồi chật các hàng ghế dài, tôi lại sửng sốt lần nữa trước sự biến dạng không thể tin được của làng quê bé nhỏ này nhờ một biến cố siêu nhiên, vốn đã mang cả thế giới đến đây thờ kính. Biết bao Nhà thờ trên khắp nước Mỹ đang phải van xin người ta đến; còn ở đây, người ta đến trước hai giờ chỉ để được lọt vào bên trong...

Tôi đang mải mê suy nghĩ, thì bỗng thấy Cha Tomislav Pervan, cha xứ Nhà thờ Thánh Giacôbê, đang đi lên từ lối đi chính trong Nhà thờ. Cha Svet đã dặn tôi: khi đến nơi phải liên lạc với ông qua cha Pervan, vì đó là cách tốt nhất và an toàn nhất để gặp ông tại Konjic.

Tôi nhớ lại lần nói chuyện với cha Svet qua điện thoại, sau khi Terri đồng ý để tôi trở lại làm việc với cha. Tôi đoán lần nói chuyện đó đã bị theo dõi. Quả thực tôi đã mất một lúc mới hiểu ra. Vị tu sĩ ở tu viện Konjic (trực và) trả lời điện thoại không biết nói tiếng Anh, nên tôi đoán là ông không hiểu những lời tôi nói gì mấy.

Sau một hồi lâu mới thấy cha Svet cầm máy. Tôi hỏi: “Cha Svetozar phải không?”

- “Vâng, ai ở đầu dây đó?”

- “Tôi là Wayne Weible, gọi từ bên Mỹ. Cha có nhớ tôi không?”

- “À, vâng, anh Wayne, nhóm Trung Tâm Hòa Bình. Anh có khoẻ không?” Có điều gì như do dự, ngập ngừng trong giọng nói của ông, như thể ông không thoải mái nói chuyện...

- “Vâng, tôi rất khoẻ, thưa cha. Tôi gọi để cho cha hay là tôi sẽ trở lại Mễ Du vào tháng sáu để giúp cha làm xong quyển sách. Tôi sẽ đến...”

- “Không, không”, ông vội vàng ngắt lời tôi, rồi tiếp: “À, tôi biết là anh sắp đến với một đoàn hành hương - tốt, rất tốt đấy!”

Tôi chưng hửng, nín khe, rồi ngay đó, tôi chợt hiểu ra vấn đề. Nam Tư là một nước xã hội chủ nghĩa và cha Svet là một khuôn mặt hết sức nổi tiếng và có ảnh hưởng (cũng giống như cha Jozo, khi còn là Cha xứ của giáo xứ Thánh Giacôbê, đã bị tù khổ sai 18 tháng). Cha Svet luôn bị Nhà Nước theo dõi chặt chẽ và bị làm khó dễ thường xuyên, kể từ ngày ông đi tham quan nước Mỹ về, tại đó ông có trình bày một số vấn đề bị Nhà Nước cho là chống chính phủ. Điện thoại của loại người này thì tất nhiên phải bị theo dõi.

Biết vậy, tôi cố nói với giọng thờ ơ: “Vâng, tôi sẽ đến với nhóm Trung Tâm Hòa Bình để viết cuốn sách của tôi. Tôi rất mong gặp lại cha.”

Bây giờ, quỳ trong Nhà thờ Thánh Giacôbê, tôi thấy như sự quan phòng đã sắp xếp cho tôi được gặp cha Pervan khi tới đây chưa được mười phút. Tôi lách ra lối đi và tự giới thiệu với vị linh mục Phan Sinh có bộ mặt cương nghị với đôi mắt nâu lấp lánh này. Tôi nói với ông tôi đến để làm việc với cha Svet về quyển sách mới của ngài, và tôi nhờ ông gọi cho cha Svet biết tôi đang ở đây.

Cha Pervan nói vỏn vẹn: “Anh đến đây với tôi!” Tôi đi theo ông đến Nhà xứ, ngang qua “gian phòng hiện ra”, vào bên trong một cái cửa dẫn đến khu sinh hoạt. Ông mời tôi ngồi rồi gọi điện. Nói vài tiếng Croát rồi đợi, sau đó ông đưa điện thoại cho tôi.

- “Cha Svet?”

- “Vâng, ai đó?”

- “Thưa Wayne Weible trong nhóm Trung Tâm Hòa Bình. Cha khoẻ không?”

Một phút im lặng rồi: “A, anh Wayne, được nghe tiếng anh tôi vui lắm!” Tôi nói với ông là tôi ở đây ba tuần để viết sách. “Thế thì tuyệt quá! Tối nay tôi sẽ đến đó, chúng ta sẽ nói chuyện sau Thánh Lễ.”

Tôi chào tạm biệt rồi gác máy. Tôi cám ơn cha Pervan đã giúp đỡ, ông chỉ mỉm cười và tiễn tôi ra tận cửa Nhà xứ. Trên đường ra ngoài, tôi dừng chân một lúc bên ngoài “gian phòng” - khoảng không gian nhỏ bé mà hằng triệu người trên thế giới mong được có mặt, khi Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc hiện ra cho các thị nhân Croát. Một giờ nữa thôi, nơi đây sẽ diễn ra những cảnh năn nỉ, chen lấn, cãi cọ và cầu nguyện sốt sắng như thường xảy ra mỗi buổi chiều. Tôi nghĩ chưa bao giờ tôi đến được gần “gian phòng” ấy như bây giờ.


Đã gần 4 giờ 30 chiều, nghĩa là tôi còn khoảng bốn tiếng nữa trước khi cha Svet đến. Mệt rã rời, nhưng phấn khởi được ở đây, lại đã nhanh chóng thu xếp một cuộc hẹn với người bạn dòng Phan Sinh của tôi, tôi bắt đầu thả bộ quanh làng - với cảm giác kỳ quặc là mình đang thực sự hít vào những hình ảnh, những âm thanh, và sự thần bí của nó.

Khi nhìn quanh, tôi giật mình nhận thấy Mễ Du, với tất cả dáng vẻ bên ngoài của nó, khó có thể được coi là nơi xảy ra một biến cố như thế. Mặc cho mọi sự giao động đang dồn dập đến, ngôi làng vẫn lặng lẽ, bình thản trong nếp sống đơn sơ, dân dã. Tôi tránh qua một bên lề đường, nhường chỗ cho một phụ nữ đi qua với bầy dê của bà. Bà mỉm cười và gật đầu với tôi, nói vài câu, tôi đoán là để chào tôi. Cử chỉ hiếu khách của bà đối với tôi - một người ngoại quốc đang đến với đất nước của bà - tiêu biểu cho thái độ của đa số dân làng, vốn vẫn tiếp tục sống như trước, không hề bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện thường xuyên của khách hành hương ngày càng đông.

Tuy nhiên, làn sóng người nước ngoài quả đã tác động mạnh trên sinh hoạt hằng ngày tại Mễ Du và vùng lân cận. Bây giờ bắt đầu có tiền, rất nhiều so với mức sống địa phương, mà các loại ngoại tệ đều có giá trị hơn đồng đi-na của Nam Tư.

Ngày nay đã có nhiều quán cà phê hơn. Còn những con đường hẹp, có vỉa hè sơ sài hoặc không có gì hết nối liền năm thôn xóm của Mễ Du, thì chỉ thích hợp để đi bộ, lùa gia súc, hoặc làm sân chơi cho trẻ em hơn là để từng dòng xe hơi, xe buýt khổng lồ chở khách liên tục lăn bánh choán hết chỗ.

Với tất cả cơ sự này, dân làng trông vẫn như có một sự bình an trong nội tâm và một sự đại lượng trước những xáo trộn ngày càng gia tăng này. Một số người cũng đã vật lộn với nó và bực bội trước những thay đổi; một số khác chào đón nó, đơn giản vì nó có lợi cho mặt thương mại. Nhưng phần lớn lại rất lịch sự và ân cần giúp đỡ người hành hương - như người đàn bà chăn dê kia đã làm. Trong một vùng nổi tiếng vì những mối thù truyền kiếp giữa các cộng đồng cư dân, chính sự thay đổi này của Mễ Du đã nổi bật lên như ngọn đèn hiệu dẫn đường trong đêm tối, minh chứng cho tính xác thực của những cuộc hiện ra.

Khi lang thang trên đường, tôi thấy những công trình xây dựng mọc lên khắp nơi. Điều mỉa mai là, trong năm năm đầu tiên, chính phủ đã nhìn sự kiện hiện ra với con mắt nghi ngờ và thù địch, thì nay lại ra công tới tấp lợi dụng nó. Từ “lợi dụng” thật đúng cho trường hợp này: không cần phân biệt khách du lịch hay khách hành hương, họ chỉ chằm chằm nhắm vào lợi nhuận người nước ngoài đem đến. Tuy vậy, mặc dù những tiện ích đang tăng vọt, những nhà hàng và vệ sinh công cộng vẫn còn thiếu một cách đáng ngạc nhiên.

Trong khi đó, đa số khách hành hương vẫn tiếp tục ở trọ tại nhà của dân làng, nhiều người trong số họ đang ghép thêm phòng vào những căn nhà bằng đá trần trụi của họ. Đây là một phương sách chậm chạp, buồn tẻ. Họ phải đợi đến khi có đủ tiền mới mua vật liệu xây dựng - nếu có bán ở cửa hàng - rồi mới làm việc ngày đêm, kể cả ngày nghỉ cuối tuần để có được căn phòng phụ. Tất cả mọi thành phần trong gia đình đều tham gia vào công việc đó, từ đứa con nhỏ nhất đến ông bà ở chung trong nhà.

Tôi ghé vào một quán cà phê để nhâm nhi một tách cà phê đậm đà, đặc sánh, đặc sản truyền thống từ thời thống trị lâu dài của Hồi giáo. Ở đây, phòng tắm thì không có bao nhiêu, nhưng những loại quán cóc và quày hàng bán đồ vật̀ lưu niệm thì dầy dẫy khắp nơi. Họ bán đủ thứ, từ ảnh tượng Đức Mẹ bằng nhựa, cho đến món bánh pizza, và họ lấn dần vào đất Nhà thờ. Phần nhiều quán xá đều do các đảng viên hoặc người Hồi giáo gốc dân du mục Gypsy quản lý; cả hai nhóm đều hăm hở làm ăn nhờ vào đoàn lũ người hành hương Kitô giáo. Các linh mục địa phương dùng đủ mọi biện pháp để gìn giữ tinh thần của sự kiện hiện ra khỏi bị lấn áp bởi thói buôn bán vụ lợi, đã khuyến cáo dân làng không mua gì ở các quán xá. Nhưng chính Nhà Nước đã cho phép họ đặt địa sở trên đất Nhà thờ và vùng quanh đó.

Kinh doanh chỉ là một khía cạnh của những đụng độ liên tiếp giữa các linh mục Phan Sinh và viên chức chính quyền, kể từ khi có những cuộc hiện ra. Trong năm năm đầu, họ hạch sách, làm khó dễ các linh mục, các thị nhân, dân làng và cả khách hành hương; những khách hành hương đầu tiên thường bị chận xe dọc đường, ngoài lãnh địa Mễ Du (nơi mà tôi đã gặp xe cảnh sát) để lục soát hành lý. Nếu người nào bị phát giác đem đồ đạo “buôn lậu” vào trong vùng, thì sẽ bị thẩm vấn rất lâu giờ. Máy bay trực thăng đến từ Mostar thường là là trên khu vực đó để quan sát, và liệng thật thấp trên mái Nhà thờ trong các giờ kinh lễ.

Do sự phát triển kinh tế phát xuất từ sự kiện hiện ra, chính quyền buộc lòng phải giảm bớt thái độ cứng rắn, nhưng vẫn cứ khó chịu về điểm cốt yếu của tình hình [......]. Và thêm một cảnh trớ trêu nữa trong vụ Đức Maria này, mà họ châm biếm gọi là “Đức Bà đỏ”, đó là: Mễ Du nay đã trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn nhất của Nam Tư.

* * *

Tôi quay về Nhà thờ vừa kịp giờ Lễ chiều. Trời đẹp quá!

Thay vì gắng đi vào bên trong, tôi ngồi lại trên mấy bậc cấp trước Nhà thờ, nơi các gia đình Croát đang tụ tập vì bên trong đã đông nghẹt. Thật là tuyệt diệu khi được nghe lại tiếng hát cung đàn trong Nhà thờ vang lên hòa với tiếng chuông ngân. Sự thanh thoát, an bình của Thánh Lễ và làn gió hiu hiu của mùa hè ấm nóng hầu như xóa tan mọi nhọc mệt. Đây quả là ngưỡng cửa của thiên đàng.

Những dịp lễ lớn, trong Nhà thờ không còn chỗ, dân chúng tràn ra ngồi đầy ngoài sân.

Đến phần giảng thuyết, tôi thấy cha Pervan đi len lỏi giữa đám đông ngồi ngoài Nhà thờ. Tôi mỉm cười, nhớ lại những gì đã đọc về ông. Ông đến Mễ Du ít lâu sau những ngày hiện ra đầu tiên, và đã hết sức nghi ngờ tính xác thực của sự kiện. Ông đòi phải có một cuộc tra xét kỹ càng và ngay lập tức chống đối với các em về mọi mặt, thậm chí còn đề nghị trừ tà cho các em. Sau khi cha Jozo bị bắt không lâu, cha Tomislav Pervan đã phải sửng sốt khi được ủy nhiệm làm vị Chánh xứ mới của giáo xứ Thánh Giacôbê, và như thế, đảm nhiệm luôn công việc liên quan đến cuộc hiện ra mỗi ngày.

Sau đó không lâu, sự kiên định trước sau như một và sự thành thật của các thị nhân đã mạnh mẽ thuyết phục được ông tin rằng đang có một điều phi thường xảy ra. Nếu không nhờ lòng tin và sự lãnh đạo mạnh mẽ, vững chắc của ông, không biết Mễ Du có phát triển được thành một thánh địa linh thiêng, hùng mạnh như ngày nay không.

Hồi mới bắt đầu nghiên cứu, tôi có xem một băng vidéo, trong đó, cha Pervanmô tả những thay đổi trong làng: “Có thể vạch một lằn ranh kể từ ngày 24-6-1981: có một Mễ Du trước ngày đó và một Mễ Du sau ngày đó; trước kia, nó là một ngôi làng như mọi làng khác; sau khi Đức Mẹ bắt đầu hiện đến, nó khởi sự thay đổi, và dân làng khởi sự sống Phúc Âm. Có thể sánh họ với các môn đệ Chúa Giêsu trước sự kiện phục sinh: trước khi Chúa sống lại, họ là những môn đệ bình thường; sau khi Chúa sống lại, họ thành những môn đồ được giác ngộ.”

Có vẻ như các linh mục dòng Phan Sinh tại Nhà thờ Thánh Giacôbê và nhiều linh mục ở các làng lân cận đều được soi sáng bởi sự hiện ra của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc. Được Thiên Chúa kêu gọi trông coi những gì Người đang làm tại Mễ Du, các ông là một nhóm người cũng được trưởng thành trong khôn ngoan và thánh thiện. Và một khi danh tiếng sự hiện ra lan rộng, các ông đã đáp ứng một cách khôn ngoan và đầy năng lực mọi đòi hỏi dồn dập đặt ra cho các ông. Pervan rảo quanh đám đông, tự hi sinh niềm vui được cử hành Thánh Thể bên trong Nhà thờ, để có thể hiện diện bên ngoài đây với một phần của đàn chiên này.

Sau Thánh Lễ, tôi đợi cha Svet ở gần Nhà xứ, vừa nóng lòng bắt tay vào việc, vừa muốn đi ngủ, vì tôi đã quá mệt do thiếu ngủ. Một tiếng đồng hồ đã trôi qua, cha Svet vẫn chưa xuất hiện. Cuối cùng, cha Pervan ở Nhà xứ bước ra, tôi đến hỏi ông có gặp hoặc có nghe cha Svet nói gì không, vì nghĩ có lẽ tôi đã lỡ dịp gặp ông mất rồi. Cha Pervan trả lời hầu như không dừng bước: “Ngài sắp đến đấy!” rồi đi thẳng vào Nhà thờ.

Quá 10 giờ đêm một chút, có một chiếc Volkswagen nhỏ sơn trắng ngừng lại ở bãi đậu xe của Nhà xứ. Cha Svet ra khỏi xe, ôm hôn tôi và dẫn tôi đến một đống ván để gần đó đang khi chúng tôi trao đổi những câu chào hỏi nhau.

Ông nói năng dịu dàng, dễ nghe, khiến người nghe lập tức thấy thoải mái được ở bên ông: “Nào, kể cho tôi nghe về gia đình anh đi, về mối liên hệ của anh với những cuộc hiện ra, và về chính anh. Bây giờ chúng ta có rộng thời giờ mà.”

Ý nghĩ tôi đã phải thức và di chuyển suốt 38 giờ qua xẹt ngang đầu tôi, nhưng đã vội bị quên đi khi chúng tôi ngồi xuống đống gỗ, và thế là tôi bắt đầu kể lại câu chuyện của đời tôi rồi đủ thứ. Sau đó, ông kể chuyện đời mình cho tôi, kể mãi cho đến hơn nửa đêm. Rồi đến câu chuyện này mới là khổ sở cho tôi: “Wayne, anh bạn của tôi, tôi rất hân hạnh được anh từ tít nơi xa ấy đến đây giúp tôi sửa chữa bản thảo. Nhưng, phải nói thật với anh, tôi chỉ có thể về lại Mễ Du để làm việc cùng anh sau lễ kỷ niệm những lần hiện ra (tức là sau ngày 25 tháng 6). Tôi hi vọng anh có thể làm việc một mình và hưởng được cảnh thanh bình của Mễ Du cho đến khi tôi trở lại...”

Tôi điếng người: “À, vâng, tất nhiên, thưa cha.” Tôi nghe mình trả lời: “Tôi rất biết ơn vì có dịp làm việc với cha, và được ở lại đây lần nữa.” Thế nhưng, tôi lại nghĩ tôi sẽ làm cái gì đây trong chín ngày tới?

Bàn với nhau sẽ gặp lại trưa hôm sau để thảo luận về những phần tôi đã làm xong trong bản thảo của ông trước khi đến đây, chúng tôi chia tay nhau. Tôi vượt 5 cây số đường trở về Citluk trong hoang mang, bối rối với một ý nghĩ cứ đến trong đầu: Bây giờ thì tôi đã có mặt ở đây, mà ông linh mục hết sức thánh thiện nhưng hơi vô tổ chức này lại không biết làm gì với tôi...

---o0o---

hoanghac
03-05-2013, 04:51 PM
“Hãy coi trọng những sứ điệp Mẹ ban cho các con. Mẹ đã ở lại lâu như thế này là để giúp các con thực hành các sứ điệp...”

Chương 17
THỜI GIAN HỌC HỎI

Sáng hôm sau, tôi thức giấc vào khoảng 9 giờ, ánh nắng chói chang, thời tiết nóng ấm và làn gió hiu hiu chào đón tôi. Trời hôm ấy quá đẹp, đủ đẹp để xua tan tâm trạng u ám của tôi lúc ấy. Được trở lại thật thú vị! Tôi yêu đời sống đơn sơ của dân chúng ở đây và sự công khai dấn thân sống tận tình cho Thiên Chúa của họ. Và đây cũng là một dịp thư giãn - ít ra tạm thời - để thoát khỏi mọi nỗi lo âu của thế giới đang vây quanh mình. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy mình có lỗi - là tự cho rằng mình đến đây để làm việc với cha Svet, ngờ đâu chỉ để phát hiện mình không có gì làm trong chín ngày tới. Tôi thở dài, quyết định sẽ lao đầu vào việc sửa bản thảo của cha cho đến khi ông trở lại.

Cái cảm tưởng “bị ở không” tan nhanh khi ngày bắt đầu sáng hẳn. Tôi tìm ra người đàn ông đã hứa dành cho tôi một phòng nếu tôi trở lại Mễ Du. Ông tên Primo, chủ một tiệm giặt ủi tại Citluk. Vì căn nhà ông xây để cho thuê phòng chưa hoàn tất, nên ông mời tôi ở nhà ông như một người khách. Khi tôi lắc đầu, cố đòi trả tiền phòng, ông miễn cưỡng chấp nhận, với điều kiện tôi trả cho con trai của ông, vì tôi sẽ sử dụng căn phòng của cậu ta.

Xong việc đó thì đã đến lúc tôi phải tới Nhà xứ để gặp cha Svet. Ông hẹn tôi vào giờ trưa, nhưng vốn biết giờ giấc co giãn của ông linh mục bí ẩn này, tôi đã tới sớm hơn khoảng 45 phút. Tìm thấy một băng ghế nhỏ kê bên bậc cấp dẫn vào Nhà xứ, tôi ngồi xuống thoải mái; rồi trong nửa giờ kế tiếp, tôi vùi đầu vào việc sửa chữa bản thảo của cha Svet. Bỗng nhiên, dòng tư tưởng của tôi bị cắt đứt khi nghe thấy tiếng một phụ nữ trẻ hỏi với giọng Anh: “Ông viết gì đấy?”

Tôi nhìn lên thì thấy một thiếu nữ tóc vàng chưa đến 20 tuổi, ngồi vắt vẻo ở đầu băng bên kia đang đăm đăm nhìn tôi: “À, tôi đang viết sách về Mễ Du. Cô từ nước Anh phải không?”
Cô cười: “Dĩ nhiên là không. Ông chưa bao giờ nói chuyện với một người Úc à? Vậy ông từ Mỹ đến, phải không?”

Tôi mỉm cười ấp úng: “Cô nói đúng, người Mỹ chúng tôi dễ bị lộ diện thật!”

- “Tôi tên Tanya, còn ông?”

- “Wayne.”

Cô lại cười lớn: “Tôi sẽ gọi ông là John Wayne, tên một ngôi sao điện ảnh.”

Bị thu hút bởi cô gái người Úc này, tôi ngồi nghe say sưa những câu chuyện không dứt của cô. Thỉnh thoảng, cô cũng hỏi tôi về công việc và lý do tại sao tôi đến đây. Cô không dễ gì chờ cho tôi trả lời xong một câu, nhưng cứ chen vào một câu hỏi khác hoặc tiết lộ thêm một chi tiết giật gân mới về đời tư của cô.
cha Slavko Barbaric



Cô mới 16 tuổi, và đã ở lại Mễ Du gần hai tháng dưới sự chăm sóc của cha Slavko Barbaric, một trong những vị linh hướng của các thị nhân. Đúng mốt các thiếu niên choai choai tiêu biểu, Tanya kể chuyện cô bị nhiễm ma túy từ khi mới 13 tuổi, và phải đi bệnh viện bảy lần để cai nghiện trong thời gian dài. Đó là lý do tại sao cô đến đây. Thay vì trở lại nhà thương sau khi lên cơn ghiền lần cuối, cô đã năn nỉ mẹ để được đến Mễ Du, nơi cha Slavko - với một học vị về tâm lý học và đã thiết lập một chương trình tư vấn cho những người trẻ có vấn đề - đã đồng ý trị liệu cho cô.

Một khi đã bắt đầu nói, Tanya có vẻ như bị buộc phải tuôn ra hết chuyện của đời cô. Cô nói càng nhanh càng tốt, và thỉnh thoảng mới ngưng lại để đánh giá mức độ khủng hoảng trong đời tư gia đình cô. Tôi bị sốc, nhưng cố gắng không để cho cô thấy. Cha mẹ cô đã xa nhau, mẹ cô ngẫu nhiên lại là người Croát - sống trên một hòn đảo nhỏ ở vùng ven biển Adriatique, gần thành phố Split, quản lý một khu du lịch; trong khi cha cô sống và làm việc tại Úc. Hơn một năm nay, cô không được gặp cha.

Tanya đã sống khá lâu tại Nam Tư, nên nói thạo tiếng Croát. Cô được có mặt trong phòng hiện ra nhiều lần, quen biết các thị nhân, và cảm thấy mình đang được chữa khỏi ma túy với những rối loạn tình cảm gây ra bởi nghiện ngập, bằng cách lưu lại Mễ Du trong thời gian dài.

Câu chuyện đang tuôn ra ào ào của cô bị ngắt quãng, khi có một thiếu phụ khác đến với chúng tôi. “Ô, đây là Kathleen, bạn tôi; chị cũng là người Mỹ.” Tanya giải thích: “Chúng tôi ở cùng phòng, và chị giúp cha Slavko chăm sóc tôi.” Rồi quay sang Kathleen: “Và đây là người bạn Mỹ mới của tôi, tên John Wayne. Ông ấy là một nhà văn.”
Kathleen (bên trái), trong một buổi dự hiện ra của Đức Maria với thị nhân Marija (giữa) bên Hoa Kỳ. Kathleen đi theo làm thông dịch viên cho Marija.


Kathleen có vẻ dè dặt, dò xét tôi trước khi nói quá nhiều chuyện. Nhưng chỉ sau ít phút, Kathleen đã thư giãn và bắt đầu kể đôi chút về đời cô và hoàn cảnh đã đưa cô đến Mễ Du. Tôi để ý thấy cô đi chân không, nhưng trước khi tôi hỏi tại sao, Tanya đã tuôn ra là Kathleen đang làm tuần chín ngày ăn chay với bánh mì và nước lã, và đi chân không để đền tội một cách đặc biệt. Tôi thầm nghĩ: vậy là hơi quá đáng. Trong chuyến đi lần trước, tôi đã gặp nhiều người mà tôi xếp vào loại lập dị, cuồng tín, hoặc khùng điên. Phản ứng đầu tiên của tôi là xếp Kathleen vào loại đó. Làm như muốn khẳng định điều ấy, cô còn có nét đồng bóng, tóc để xõa xuống đến eo. Kathleen lớn tuổi hơn Tanya, tôi đoán trên dưới 30 tuổi, sinh trưởng ở Miami, bang Florida. Mới đây, cô chuyển qua sống ở Thụy Sĩ, và bây giờ, theo lời yêu cầu của cha Slavko, cô ở lại phục vụ với tư cách người chị lớn của Tanya. Trách nhiệm của vai trò này, cộng thêm lòng nhân ái thiên phú của cô đã sớm làm tôi phải xét lại những đánh giá ban đầu của mình.

Câu chuyện giữa chúng tôi đột ngột chấm dứt, khi cha Svet xuất hiện trên đầu thềm: “A, Wayne, chào anh! Bây giờ tôi đã sẵn sàng, chúng ta có nhiều việc lắm. Anh vào đây đi, chúng ta bắt đầu.”

Ông cũng chào hai cô bạn tôi nữa, và qua cuộc trao đổi, rõ ràng là ông biết họ. Tôi nhìn đồng hồ: 12 giờ 40. Thôi, không sao, tôi đã được thời gian nói chuyện thoải mái với Tanya và Kathleen. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau chiều hôm ấy ở lùm cây nhỏ trước mặt Nhà thờ.

Ông dẫn tôi vào một văn phòng nhỏ bên kia cái sảnh nối với phòng hiện ra. Vội đóng cửa lại, ông nói: “Đây là một chỗ rất tốt, làm việc không bị quấy rầy.” Tôi hỏi ông: “Cha Svet, cha có biết hai người đó không?”

- “Ồ, biết chứ, Kathleen ở đây giúp chúng tôi bằng đủ mọi cách có thể, còn Tanya - em này có nhiều vấn đề lắm. Anh hãy cẩn thận trong liên hệ với nó.”

- “Nghĩa là thế nào?”

Ông cân nhắc cẩn thận từng lời: “Tanya rất cần được giúp đỡ. Em có nhiều khó khăn riêng tư. Nhiều lúc, em rất vui vẻ, dễ chịu, lúc khác em lại rất khó tính. Cứ thận trọng, đừng để mình liên can quá nhiều. Em được cha Slavko giúp đỡ rất nhiều.” Ông mỉm cười: “Thôi, đừng lo lắng về chuyện ấy. Nào, ta xem anh đã làm đến đâu rồi!”

Trong ba giờ sau đó, chúng tôi duyệt lại những gì tôi đã làm trên bản thảo của ông. Ông cũng hỏi tôi tại sao tôi lại thay đổi hoặc thêm vào một vài đoạn trong đó. Được làm việc với người đàn ông thánh thiện dễ nể này, nên lúc đầu tôi cứ ngần ngại không dám nói nhiều; nhưng cuối cùng, hết căng thẳng và quên hết mọi sự, tôi chỉ còn biết đến công việc trước mắt chúng tôi thôi.

Khi chúng tôi duyệt xong phần đã làm, ông đứng dậy, đặt tay trên vai tôi cười rạng rỡ: “Tuyệt thật! Chắc chắn là chúng ta có thể làm việc chung với nhau - đúng như tôi đã biết.”
Tôi quá phấn khởi, không nói nên lời. Chúng tôi thỏa thuận với nhau là chín ngày tới, tôi sẽ đến ở Mễ Du, tiếp tục việc biên tập, sau đó ông sẽ đưa tôi về giáo xứ của ông ở Konjic, khoảng hai tiếng rưỡi lái xe, về hướng bắc, và gần Sarajevo. Tôi sẽ ở tại Nhà xứ đó một tuần, ban ngày không bao giờ được mạo hiểm đi ra ngoài, để cảnh sát không biết tôi đang ở đấy. Suốt thời gian ấy, chúng tôi sẽ duyệt lại bản thảo từng hàng một. Còn bây giờ, ông sẽ không gặp lại tôi cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1986, là ngày kỷ niệm giáp năm thứ năm Đức Maria hiện ra. Ông còn nói: “Chúng ta sẽ lên đường đêm hôm sau để khỏi bị người ta để ý.”

Khi nói tạm biệt nhau, tôi hơi khó chịu vì cái lối sắp đặt vụng trộm này: dính líu vào một sự cố quốc tế là điều tối kỵ đối với tôi bấy giờ. Nhưng công việc là trên hết. Cha Svet vẫy tay chào và lái chiếc xe nhỏ màu trắng ra khỏi bãi đậu xe của Nhà xứ. Khi đó, tôi đã lén liếc quanh để xem có ai đang rình chúng tôi không. Chưa có gì, nhưng tôi bắt đầu có cảm tưởng mình là một gián điệp quốc tế.

Chiều hôm đó, tôi gặp Tanya, Kathleen và một cô gái khác dưới lùm cây trước mặt Nhà thờ. Họ đang hát, còn Kathleen đệm đàn guitar. Nhìn thấy tôi, Tanya rối rít ngoắc tôi đến nhập bọn, và tôi đã làm theo. Với lời cảnh giác của cha Svet vang lên trong đầu, tôi thắc mắc sao mà cô gái có vẻ hạnh phúc và an bình này lại có thể có những vấn đề khủng khiếp như vậy.

Sau đó, tôi được biết cô gái thứ ba là người Đức, tên Agnès, trước kia cũng đã đến Mễ Du với nhiều rối loạn tâm lý cũng như với đôi chân tàn tật làm cô chỉ đi được nhờ cặp nạng. Cô này cũng vậy, cô cũng từng được cha Slavko chăm sóc, ông đã cho phép cô có mặt ở “gian phòng” ấy, trong một lần Đức Mẹ hiện ra. Cô kể lại là cô đã được chữa lành ngay lập tức, và cô đã bỏ lại cặp nạng trong phòng hiện ra, rồi đi ra một mình không cần người đỡ. Sau khi trở về Đức, cô đến cho bác sĩ khám. Ông này đã công nhận cô không còn triệu chứng gì của bệnh, và công bố cô hoàn toàn khoẻ mạnh.

Lần này, tôi thấy được nhiều điều về Mễ Du hơn lần trước. Bên cạnh những hiện tượng thiêng liêng và phép lạ, cùng với những trường hợp cải hối thống thiết, còn có nhiều điều hơn nữa đang xảy ra theo nhiều mức độ. Cũng phải kể đến những đấu tranh, bất mãn - và thất bại. Không phải ai tới đó cũng đều được thay đổi về phần thiêng liêng. Và tất nhiên, không phải bệnh nhân nào đến đây cũng được chữa lành. Thực vậy, cái làng Mễ Du nhỏ bé này, trên nhiều phương diện, không khác gì lắm với thị trấn Myrtle Beach của tôi. Tốt có, xấu có; theo nghĩa rộng, nó là một tiểu vũ trụ của thế giới, chỉ khác một điều là nó được biến đổi do phép lạ của sự hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc.

Đa số những người đến Mễ Du cũng giống như các cô gái tôi vừa mới gặp kia. Họ có vấn đề, và đến để tìm ra giải pháp kỳ diệu cho các vấn đề đó. Agnès đã tìm ra giải pháp cho vấn đề của cô, nhưng Tanya vẫn còn tìm kiếm và hi vọng, cũng như hằng ngàn người khác đã đến đây cùng với một ý nguyện như vậy. Tôi nhớ lại lời của anh Frank Fiamingo, bệnh nhân bại liệt đã đi cùng chúng tôi trong chuyến tháng năm. Lúc đó, tôi có hỏi anh ấy muốn được ơn gì trong chuyến hành hương này - anh có mong được chữa lành không? Nhưng anh đã trả lời: “Tôi không đến để tìm sự chữa lành, tôi đến để tìm điều mà anh và mọi người khác đang tìm: cho những lý do riêng và để được bồi dưỡng về phần thiêng liêng.”

Trước khi Tanya và Agnès phải đi vì có hẹn, Tanya đã buộc tôi hứa vào hôm sau chúng tôi sẽ gặp nhau nói chuyện tiếp. Khi tôi cũng đứng dậy ra về, Kathleen tỏ vẻ muốn ở lại thêm một lát nữa. Cô hỏi: “Tanya có nói gì với ông về quá khứ của nó không?”

Tôi kể cho cô ấy nghe câu chuyện buổi sáng giữa tôi và Tanya, không sót một điểm nào. “Được!” rồi cô tiếp: “Vấn đề của nó không phải chỉ là nghiền (ma túy). Nó còn uống rượu nữa - và nhiều thứ khác. Tuần đầu ở đây, Tanya nằm liệt giường vì quá bệnh. Tanya bị bất an tối đa, vì vậy, cha Slavko yêu cầu tôi ở với nó và để mắt đến nó. Tôi chỉ muốn ông biết như thế, và xin ông nên rất cẩn thận với nó. Tanya có khả năng khiến người khác quyến luyến mình rất nhanh và rất mạnh.”

Tôi bảo đảm với cô là tôi sẽ giữ khoảng cách trong tiếp xúc với em ấy. Vả lại, tôi còn nhiều việc phải làm cho quyển sách của cha Svet, cũng như những nghiên cứu cho công việc của tôi. Kathleen gây ấn tượng nơi tôi. Chẳng phải có nét đồng bóng như tôi tưởng, cô gái Mỹ sống xa quê này là một người đầy lòng nhân ái. Điều trước đây tôi xem như là một lối chay tịnh và đền tội cuồng tín, hóa ra chỉ là một sự đáp ứng bình thường của cô - cái cách cô nói “Xin vâng” với Chúa. Cô đang sống sứ điệp mà Đức Trinh Nữ Maria đang mang đến cho Mễ Du, và sự vâng phục của cô còn đầy đủ hơn sự vâng phục của tôi. Từng ấy dủ để đánh bạt những cảm tưởng đầu tiên sai lầm của tôi về cô.

Tuy nhiên, giữ khoảng cách với Tanya thì dễ nói hơn là làm. Sáng hôm sau, trong giờ Lễ, em lại ngồi cạnh tôi, hỏi tôi em ngồi gần có được không. Tôi nói tất nhiên là được. Sau đó, Kathleen cho tôi hay là từ lâu, đây là lần đầu tiên Tanya dự Lễ tiếng Anh. Cô đề nghị để cô nói với Tanya là tôi có nhiều việc phải làm và em cần để tôi yên, nhưng tôi từ chối. Tôi cho cô thấy những lúc chúng tôi quây quần bên nhau rất giúp ích cho Tanya, và Kathleen cũng đã phải công nhận.

Suốt mấy ngày tiếp theo, sau những giờ nỗ lực làm việc trên bản thảo của cha Svet, tôi cũng có dịp nói chuyện với Tanya về các vấn đề của em ấy. Cha Svet rất đúng khi nói: nhiều lúc em như là một thiên thần, những lúc khác lại khó mà tin được thái độ thay đổi ngược ngạo của em. Em ưa làm hoặc nói nhiều điều cố ý để chọc tức tôi, và hay ghen tức kiểu trẻ con những khi tôi nói chuyện với người khác.

Điều này đặc biệt đúng với nhóm Trung Tâm Hòa Bình, vốn đã đến vài ngày trước đó. Sơ Margaret lại một lần nữa làm hướng dẫn viên về mặt thiêng liêng với sự trợ giúp của Rose Finnegan, người luôn luôn lạc quan. Cha mẹ của Maureen Thompson: ông John và bà Maryam với cô em gái Sheila cũng có mặt trong nhóm. Đây thật là một tuần lễ đoàn tụ và dễ chịu, vì không có người Mỹ nào ở đây, cho đến khi nhóm Trung Tâm Hòa Bình tới. Tôi đặc biệt thích thú những lúc ở cùng với cha mẹ và em gái của Maureen, và tôi đã để vào đó khá nhiều thời gian - thời gian mà trước đó đã dành cho Tanya.

Một chiều kia, sơ Margaret, sau khi nghe tôi tóm lược tình trạng của Tanya, đã đề nghị tôi mời em ấy, sau Thánh Lễ chiều đi dùng cơm tối với cả nhóm tại khách sạn Citluk, để cho em làm quen và thoải mái với nhóm người Mỹ ấy. Tôi hỏi ý kiến Kathleen trước, và Kathleen hỏi ý cha Slavko. Theo lời yêu cầu của cả nhóm, trước đó, tôi có đến gặp cha Slavko vào buổi sáng, vì cha cũng muốn biết anh chàng người Mỹ nào đã làm quen được với cái gánh nặng trẻ tuổi này của ông. Giờ đây, hài lòng vì thấy những tiếp xúc của tôi với Tanya đã nâng đỡ em, nên ông cho phép em đi cùng tôi - với điều kiện phải về nhà lúc 10 giờ đêm.

Bữa ăn tối đã là một dịp gặp gỡ thú vị cho mọi người tham dự. Tanya vui vẻ như trước, vì đã thật sự mê hoặc cả nhóm một cách nào đó. Chúng tôi giống như một gia đình đối với em, và tôi nhận ra gia đình có lẽ là cái mà cô gái bất hạnh này cần hơn hết. Để giữ lời hứa với cha Slavko, tôi đưa Tanya về nhà đúng giờ, rồi trở lại Citluk đón sơ Margaret để chở chị về nhà trọ ở ngoài Mễ Du. Lúc quay về lại Citluk, tôi thấy hai cô gái đang nhảy múa trên đường bỗng hiện ra trước đèn xe; nhận ra một trong hai cô là Tanya, tôi ngừng xe. Khi thấy tôi, em cũng sửng sốt không kém. “Tanya, em làm gì ở đây? Em biết luật của cha là phải về nhà lúc 10 giờ mà!”

Bị bắt gặp tại trận, và không muốn mất mặt trước bạn bè, em trả lời giận dữ: “Tôi cóc cần luật với lệ của cha già đó! Tôi đủ lớn để làm những gì tôi muốn!”

Tôi cố thuyết phục để em thấy mình sai, và ở đây, em đang được cha coi sóc, nhưng Tanya không thèm nghe. Em còn báo cho tôi biết tôi không được bảo em phải làm gì cả. Tôi cố lờ đi câu em nói làm tôi đau lòng:

- “Thôi lên xe đi, tôi lại đưa em về nhà.”

- “Không! Chúng tôi đang vui vẻ, tôi sẽ ở lại đây!”

- “Ô kê! Muốn làm gì thì làm!” tôi trả lời cộc lốc rồi lái xe đi luôn. Làm sao mà cũng một cô gái dịu dàng, dễ thương, mới vừa làm cho cả nhóm Trung Tâm Hòa Bình cảm thương và thích thú ấy lại có thể trở thành hỗn láo, nổi loạn - nhất là đối với tôi như vậy? Những buổi nói chuyện nhiều khi vui vẻ cũng như đôi lúc giận dữ giữa chúng tôi đã tạo nên một mối liên hệ cha-con chân thành. Còn bây giờ thì tôi không biết thời gian tôi dành cho em vừa qua có ích lợi gì không.

Thêm một bất ngờ nữa đến với tôi trong đêm đó. Khi trở lại nhà ông Primo, tôi gặp một khách trọ khác: một phóng viên nhiếp ảnh của tờ Time thuộc văn phòng châu Âu. Anh đến để làm phóng sự về buổi lễ kỷ niệm giáp năm thứ năm ngày Đức Maria hiện ra sẽ diễn ra vào ngày mai. Những vấn đề của Tanya được tạm quên. Tôi sung sướng thấy những cuộc hiện ra, cuối cùng, đã được báo chí quốc tế đề cập đến, đặc biệt từ khi biết hơn 100.000 người dự kiến sẽ có mặt tại làng. Chúng tôi nói chuyện đến khuya. Trong hơn hai tiếng đồng hồ, tôi cố gắng nhồi nhét cho anh ta càng nhiều thông tin càng tốt, thậm chí đề nghị đưa anh đi tham quan trong làng. Và ngay sáng hôm sau, tôi còn đưa anh tới nhà Vicka để chụp một số ảnh đặc biệt.

Khi đang lái xe đến đó sáng hôm sau, anh nói: “Tôi muốn nói với anh chuyện này từ tối hôm qua, nhưng tôi không muốn nói ở trong nhà đó: cảnh sát đang tìm anh. Sáng hôm qua, họ đến gặp Primo, nhưng ông ta không biết khi nào anh về.”

- “Cái gì?” Tôi đạp chân lên thắng, làm chiếc xe suýt lao xuống mương. “Tại sao? Họ muốn gì với tôi?” Tôi hoảng sợ, rất hoảng sợ. Anh ta mỉm cười: “Anh yên tâm đi, họ biết anh là nhà báo và họ muốn biết tại sao anh không đăng ký anh là nhà báo.”

- “Tôi không thể. Tôi không muốn họ biết tôi đang làm việc với linh mục Svetozar. Mà làm sao họ biết tôi là nhà báo nhỉ?”

Nhà nhiếp ảnh cười khúc khích: “À, anh lăng xăng chỗ này chỗ kia với cái máy chữ, rồi còn đặt đủ thứ câu hỏi với đủ thứ người...” Anh không cười nữa: “Này, anh không qua mặt họ được đâu. Họ có thể bắt anh để thẩm vấn với bất cứ lý do gì, nhốt anh lại ít ngày, rồi tống anh ra khỏi nước họ. Một kịch bản không tồi, phải không?” Anh ta lắc đầu: “Anh phải nhớ: anh đâu phải đang ở bên Mỹ!”

Bất chợt, tôi nhận ra mình thật ngu ngốc, vì đã quá lộ liễu trong những việc mình làm. Những thái độ e dè của cha Svet đáng lý ra đã đủ cảnh giác tôi... Bây giờ, tôi mới hiểu tại sao cần phải đề phòng như thế, chẳng hạn đi Konjic vào ban đêm và phải không được ló mặt khi ở lại đấy; nhưng bây giờ đã quá trễ.

Tôi hỏi yếu ớt: “Tôi phải làm gì bây giờ?” Nhà nhiếp ảnh đề nghị hoặc là tôi tự đến cảnh sát đăng ký, may ra..., hoặc rời khỏi nhà ông Primo.

- “Tôi sẽ đi! Không có vấn đề đi ra đồn cảnh sát. Tôi biết tại Mễ Du có vài chỗ tôi có thể ở mà không ai phát hiện ra.” Tôi chắc chắn là tôi sẽ được ở cùng một chỗ với sơ Margaret, nếu chỉ trong một vài ngày.

Tôi chỉ muốn quay xe lại ngay và dọn đồ đi khỏi Citluk, nhưng nhà nhiếp ảnh này, người từng sống một năm tại Balan, biết rõ những trò đó, liền lắc đầu nói: “Thế là quá lộ liễu, tốt hơn nên đi vào ban đêm.”

Khi chúng tôi đến nhà Vicka, anh ta muốn đi loanh quanh một mình để chụp hình, nên tôi đã để anh xuống xe và tôi trực chỉ Nhà thờ để dự Thánh Lễ. Thời gian giúp tôi bình tĩnh lại và bắt đầu sắp xếp một kế hoạch hành động. Gặp sơ Margaret gần Nhà thờ, tôi bèn kể lại những gì đang xảy ra.

Chị nói bình thản: “Được rồi! Anh chỉ cần một chỗ trong một đêm, rồi ngày mai đi Konjic với cha Svet. Đương nhiên, anh có thể trọ tại chỗ tôi đang ở, và vì nhà này ở xa Nhà thờ, nên không ai biết anh ở đấy.” Rồi chị cười, tiếp: “Đừng quá lo lắng về việc ấy! Cứ nghỉ ngơi, cầu nguyện và vui hưởng ngày tươi đẹp này.”

Tôi đành để chị xoay sở hoàn cảnh theo cách nhìn riêng của chị. Tôi quyết định nghe theo lời khuyên của chị. Gặp gia đình Thompson sau lễ, chúng tôi đi với nhau suốt ngày, leo đồi, thưởng thức không khí lễ hội tại quán cà phê Antonio, một tụ điểm nhỏ của nhiều người trong làng. Hồi đầu tuần, chúng tôi đã phát hiện người chủ quán cà phê này là anh ruột của thị nhân Marija, và cô em ruột là Milka cũng làm việc tại đó.

Milka đã có mặt lúc Đức Maria hiện ra lần thứ nhất và chỉ được thấy Đức Trinh Nữ Diễm Phúc một lần đó thôi. Năm nay cô 18 tuổi. Đó là một thiếu nữ thon thả, nhiệt tình, khôn ngoan trước tuổi, rất được dân làng quý mến. Chúng tôi thành bạn bè ngay lập tức. Cô chỉ biết vỏn vẹn mấy câu tiếng Anh, nhưng rồi chúng tôi cũng xoay sở nói chuyện với nhau được. Có nhiều khi tôi đi với Tanya đến thăm cô, thì Tanya thông ngôn giúp. Có tư chất thông minh, học nhanh, Milka nói thông thạo tiếng Ý, nhờ tiếp xúc với khách hành hương người Ý đến đây rất đông vào những năm đầu.

Tôi cảm phục Milka đã biết chấp nhận được thấy Đức Trinh Nữ chỉ có một lần duy nhất, trong khi chị cô (Marija) lại trở nên một trong sáu thị nhân. Trong cuộc phỏng vấn tôi thực hiện sau đó trong tuần, tôi hỏi cô về vấn đề này, cô nhún vai và đáp: “Được thấy một lần còn hơn là không thấy lần nào.” Không biết có bao giờ cô mong được trở thành thị nhân như cô chị ruột không?

Cô cười lớn: “Ồ không! Như vậy suốt ngày tôi cứ phải tiếp chuyện các nhà báo như ông!”

Tôi thấy ở Milka có một điều gì đặc biệt. Cô biết chấp nhận số phận của mình, tuy vẫn tỏ lộ ra ý muốn được là một trong các thị nhân để được nhìn thấy Đức Maria mỗi ngày; cô cố che đậy, nhưng sự thực là như vậy. Cho đến lúc tôi trở về nước, Milka đã trở thành một trong những người tôi yêu thích nhất tại Mễ Du.

Tối hôm lễ kỷ niệm giáp năm năm Đức Maria hiện ra lần đầu tiên là một buổi tối huy hoàng, hằng ngàn người đứng chật ních Nhà thờ và chung quanh Nhà thờ. Chiếm chỗ trên bãi cỏ sau lưng Nhà thờ, gia đình Thompsons và tôi cùng vừa lần hạt Mân Côi, vừa thưởng thức vẻ đẹp của bầu trời trong cảnh hoàng hôn, với làn gió nhẹ hiu hiu thổi. Suốt ngày nay, tôi không gặp Tanya, rồi bỗng nhiên em xuất hiện, tỏ vẻ hối lỗi về những hành động em đã làm tối hôm trước. Em năn nỉ: “Xin ông vui lòng đến đây với em, em không cầu nguyện được. Em cần nói chuyện với ông.”

Tôi xin kiếu các bạn khác và tìm một góc yên tĩnh dưới lùm cây xa hơn ở sau Nhà thờ để nói chuyện. Tanya bắt đầu khóc. Em và bạn gái của em hôm qua đã gặp hai thanh niên trong làng và đã ở lại với họ tới khuya - rất khuya. Bây giờ, em xấu hổ quá và không biết phải ăn nói làm sao với cha Slavko. “Cha sẽ biết chuyện này, em tin chắc như vậy! Cha sẽ đuổi em về nhà. Phải làm sao bây giờ?”

- “Em phải tự thú với cha, Tanya, và chấp nhận bất cứ hành động nào của cha.”

Tanya lắc đầu quầy quậy, đứng lên bỏ đi: “Không!” Tôi nhẫn nại nêu lên cho em thấy những gì mà người ta đã cố gắng giúp em và cả những gì em đã nhận được. Bây giờ, em phải chọn: hoặc đón nhận sự hỗ trợ của cha Slavko và ở lại Mễ Du, hoặc tiếp tục làm hỏng cuộc đời mình. Tôi ngạc nhiên sao tôi có thể bình tĩnh như thế. Lần nói chuyện đó không khác gì một sự la rầy, trách mắng thẳng thắn của người cha đối với đứa con gái - và lại có hiệu quả. Tanya lặng lẽ ôm chào tôi, hứa sẽ đến tự thú với cha Slavko ngay sau Thánh Lễ và chấp nhận bất cứ điều gì xảy đến cho em.

Chúng tôi quay lại với gia đình Thompsons và tham dự Thánh Lễ. Sau đó, Tanya chạy lại chỗ chúng tôi trên bãi cỏ, nơi chúng tôi đã tụ họp để trao đổi về những gì diễn ra trong ngày. Qua nét mặt em, tôi thấy mọi sự đã được cha Slavko giải quyết ổn thỏa. Em ào ào kể lại: “Ồ, lúc đầu cha nổi giận, nhưng cha khen em làm đúng vì đã thú tội với cha - em có nói với cha là ông đã bảo em làm như vậy - và ông thử đoán xem? Cha nói là cha chấp nhận để ông phỏng vấn như ông xin, nếu ông đến được vào buổi sáng. Và cha sẽ để cho em thông dịch! Ôi sung sướng quá!”

Hài lòng vì mọi sự đã trở nên tốt đẹp cho Tanya, tôi sắp xếp để gặp em trước Nhà xứ vào lúc 9 giờ sáng. Hôm ấy thật là một ngày tuyệt vời - và cái thời gian “chín ngày không có gì để làm” này đã được lấp đầy một cách kỳ diệu. Tôi cho đây đúng là một thời gian để học tập, và khi nghĩ sâu thêm, tôi mới nhận ra: điều này đã được tiền định như vậy.

Nhưng còn một vấn đề nữa: cảnh sát. Tôi hầu như đã quên bẵng chuyện đó cho đến khi lái xe trở về nhà Primo tại Citluk. Đến nơi, tôi định nói với Primo vụ đó, và nếu Primo cũng nghĩ là tôi phải đến trình cảnh sát, thì giống như Tanya, tôi cũng sẽ chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho tôi, và tôi sẽ làm theo. Chàng phóng viên nhiếp ảnh báo Time đã ra đi từ lúc chiều để ra khỏi Mostar cho kịp chuyến bay, cho nên chúng tôi chỉ có một mình. Liền đó, Primo xin kiếu để đi ngủ sớm, vì sáng mai phải ra cửa hàng sớm. Tôi về phòng, và sau một lúc lâu cân nhắc nên bỏ đi ngay lúc ấy hay đợi đến sáng mai, tôi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con...”
---o0o---

hoanghac
03-23-2013, 03:40 AM
"Hãy cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện!"
Chương 18
TRONG PHÒNG HIỆN RA

Thức dậy khoảng năm giờ sáng hôm sau, tôi soạn vali và lặng lẽ ra đi, không đánh thức ai. Đây xem ra là giải pháp hay nhất để tránh cảnh sát: lặng lẽ bỏ đi, rồi lẩn vào đám đông ở Mễ Du. Đến chiều tối, tôi sẽ quay trở lại nhà Primo trả tiền phòng và chào từ giã ông ấy.

Mới sớm tinh mơ mà tỉnh lẻ Citluk đã tấp nập, nhộn nhịp, tôi ngạc nhiên nhận ra điều đó - và cũng rầu rĩ nhận ra mình phải lái xe ngang qua sở cảnh sát. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi vượt qua được mà không bị để ý. Rồi tôi đi thẳng luôn tới một quán cà phê bên ngoài Mễ Du để ăn sáng.

Đang thưởng thức một bữa sáng ngon lành với trứng, xúc xích và bánh mì nóng hổi mới ra lò, tôi lại nghĩ đến chín ngày qua. Sao mà nó qua mau thế? Hôm nay đã 26 tháng 6 rồi - sinh nhật của tôi! Trong sự vội vã và phấn khích, tôi đã hoàn toàn quên mất ngày này. Bây giờ, nhân ngày đặc biệt này, tôi sẽ phỏng vấn cha Slavko, nhấm nháp cái thú của một ngày đầy bất ngờ tại Mễ Du, và rồi đến đêm sẽ ra đi với cha Svet đến Konjic. Thật là một ngày sinh nhật đáng ghi nhớ!

Chín giờ sáng, tôi đã ở trước Nhà xứ đợi Tanya đến. Cánh cửa Nhà xứ bỗng mở ra và cha Svet xuất hiện. “A, Wayne, bạn tôi! Làm ơn đến đây với tôi!” ông nói với vẻ bình tĩnh nhưng nghiêm trọng, rồi nắm cánh tay tôi dẫn đến một nơi vắng vẻ phía sau Nhà thờ. “Chúng ta sẽ được yên ở đây.”

Tôi chưa bao giờ thấy ông tỏ vẻ nghiêm trọng như vậy, và như thể đọc được ý tôi, ông thêm: “Anh đừng sợ, nhưng chúng ta phải thay đổi kế hoạch. Vì những lý do tôi không thể nói ra, anh không nên đến Konjic với tôi vào lúc này.” Ông nghỉ một lát, rồi đặt tay trên vai tôi trấn an: “Chúng ta phải sắp xếp cách khác. Ngày mai, tôi sẽ mang bản thảo đã cập nhật của tôi đến cho anh, sơ Margaret sẽ cầm nó về Mỹ và sẽ làm cho anh một bản sao. Chúng ta sẽ làm việc riêng rẽ và Trung Tâm Hòa Bình là người đưa thư của chúng ta.”

- “Nhưng thưa cha, tôi không sợ gì...”

Ông ngắt lời tôi bằng cách níu mạnh vào cánh tay tôi: “Hãy tin tôi, làm như vậy tốt hơn. Ngày mai, tôi sẽ gặp anh và chúng ta sẽ nói thêm. Bây giờ tôi phải đi.”

Cố gắng xua đuổi nỗi thất vọng khi chúng tôi bước ra xe của ông, tôi nghĩ: thế là xong, như vậy sẽ thay đổi mọi thứ. Khi ông đã đi khuất, tôi nhớ ra cuối cùng tôi còn cần một chỗ trọ, hi vọng sẽ kiếm được nơi sơ Margaret. Nhưng cũng tốt thôi: bây giờ rảnh rồi, tôi có thể trở về nhà - mà tôi lại rất nóng lòng. Tôi sẽ ở lại đến hết tuần, rồi đi Dubrovnik sáng sớm thứ hai, kịp giờ bay chuyến 7 giờ 10 phút để trở về nhà.

Khi đứng trong bãi đậu xe gần Nhà xứ, bỗng có người túm lấy tôi từ phía sau và ôm chặt: “Chúc mừng sinh nhật, John Wayne, chúc mừng sinh nhật!” Tanya nhảy quanh tôi, quá vui sướng vì sắp được thông ngôn cho tôi và cha Slavko. Em la lớn: “Em sẽ tặng cho ông một món quà đặc biệt, nhưng ông phải đợi đến sau cuộc phỏng vấn mới được nhận.”

- “Tốt, tôi cũng có một món quà cho em, mặc dù hôm nay là sinh nhật của tôi!” Tanya hơi buồn vì tưởng tôi phải đi Konjic tối hôm đó. “Này, Tanya, chương trình thay đổi rồi, tôi không đi Konjic nữa, nghĩa là tôi còn ở đây với em ba ngày nữa.” Nghe vậy, Tanya ôm chặt tôi lần nữa, hò hét om xòm vì mừng rỡ. Em đã cư xử rất đàng hoàng kể từ cái sự cố đêm ấy, và tình cảm nồng nhiệt của em làm tôi động lòng.

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh060.jpg

Phòng làm việc của cha Slavko là nơi Đức Maria thường hiện ra vào năm 1987. Trên hình : Marija ở gần cửa, còn Jakov bên trái cô, vì nhỏ hơn nên hơi bị che khuất . năm 2002.


Nhưng đã đến giờ phỏng vấn. Khi đi vào phòng cha Slavko, tôi phát hiện ra đây chính là căn phòng Đức Trinh Nữ

Maria hiện ra mỗi chiều tối. Trước kia, cuộc hiện ra xảy ra ở trong Nhà thờ, chính xác là ở phía nhà mặc áo lễ, bên phải bàn thờ, cho đến khi ông Giám mục địa phận Mostar ra lệnh dời ra khỏi Nhà thờ. Giám mục Pavao Zanic, trong mấy tháng đầu của sự kiện này, đã là một người tin mạnh mẽ; ngày nay, ông lại là người chống đối số một. Không thuộc dòng Phan Sinh, ông đã tuyên bố những cuộc hiện ra này là trò lừa bịp, được duy trì và khích lệ bởi các linh mục dòng Phan Sinh đang ở tại Nhà thờ Thánh Giacôbê. Trong hai năm rưỡi qua, những cuộc hiện ra đã diễn ra trong cái phòng ngủ kiêm phòng làm việc chật chội, tù túng này.

Run rẩy xúc động vì được ở trong nơi đặc biệt ấy, tôi càng sung sướng hơn khi có cơ hội phỏng vấn nhà thần học tâm lý học có khuôn mặt gầy và căng thẳng, với mái tóc xám và đôi kính gọng đen này. Điều trớ trêu là ngay từ đầu, ông được chính Giám mục Zanic bổ nhiệm đến Mễ Du để bác bỏ những cuộc hiện ra và tố giác chúng như một trò dối trá, lừa bịp - điều mà hiện nay ông Giám mục rất tin. Ông Giám mục nghĩ rằng nếu có ai làm được việc đó, người ấy chính là linh mục Slavko Barbaric. Chắc chắn, vị học giả nói lưu loát bốn thứ tiếng, cũng là một trong những giáo sư thần học lỗi lạc nhất Nam Tư, sẽ mau chóng chấm dứt mọi thứ vớ vẩn này.

Tôi khởi sự bằng các câu hỏi về những ngày đầu tiên của ông với các thị nhân. Vừa mới gặp và tra vấn các em, ông đã tin chắc không có sự lừa gạt nơi các em. Và nếu các em không lừa gạt, thì những cuộc hiện ra đã thực sự xảy ra đúng như các em mô tả. Ngoài ra, ông còn cảm thấy có trách nhiệm đặc biệt về đời sống thiêng liêng của các em này - giờ đây đang chịu quá nhiều áp lực; thực tế, ông thấy mình có trách nhiệm với tất cả những người trẻ trong giáo xứ. Vì nay – do được cảm hứng bởi những người được Đức Maria hiện ra, vốn cũng là bạn bè của họ từ tấm bé; và do đã nhìn thấy sự thay đổi trong đời sống của các thị nhân ấy – một số lớn trong giới trẻ đó đang xem xét lại mối quan hệ giữa họ với Thiên Chúa và với Giáo Hội của Người. Họ cũng thành lập những nhóm cầu nguyện, và nhờ cha Slavko Barbaric linh hướng.

Bất chấp cơn giận dữ của Giám mục Zanic, cha Slavko hết lòng phục vụ cộng đoàn, làm việc nhiều giờ và giúp đỡ bằng mọi cách có thể. Nhóm tư vấn dành để lo cho những thiếu niên bị khủng hoảng, là một kết quả của sự tận tụy của ông. Trách nhiệm khó khăn nhất của ông là gì? Đó là phải phụ trách phòng hiện ra mỗi buổi chiều; phải làm người quyết định ai được hoặc không được vào phòng đó. Khi được hỏi tại sao các em này được chọn làm thị nhân, ông đã trích dẫn câu mà Đức Maria trả lời cho các em khi chúng cũng hỏi như vậy: “Mẹ không luôn luôn chọn những người tốt nhất.”

Ông nói thêm: “Nghe có vẻ chói tai, nhưng việc Đức Maria cố tình chọn những người bình thường đã mang lại sự tin tưởng không còn thể nghi ngờ gì được cho một hiện tượng như thế.” Tôi hiểu ông muốn nói gì: Thật khó mà tưởng tượng rằng có người nào đó nghi ngờ những trẻ em đơn sơ như vậy lại có thể dàn dựng - hoặc bị sai khiến - một trò lừa bịp có tầm cỡ như thế trong năm năm trời!

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh061.jpg

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh062.jpg

Được Đức Mẹ cho phép, các nhà khoa học đã đến làm nhiều cuộc trắc nghiệm. Ba thị nhân được xét nghiệm đang lúc diện kiến. Ở giữa là Ivanka, trên đầu gắn đủ thứ máy đo, đặc biệt là bị che mắt bằng một tấm bảng rất dầy, nhưng em vẫn nhìn thấy Đức Mẹ.

Chắc chắn là trong suốt thời gian đó, sự tra xét không khoan nhượng của hàng đoàn những nhà điều tra thuộc các môn khoa học, y học, giáo luật đã thừa sức lật tẩy trò bịp bợm này. Cha Slavko còn nói: đó là lý do tại sao ông để cho các nhà báo, các giáo sĩ và các nhóm khoa học gia được ưu tiên có mặt trong giờ Đức Maria hiện ra.

Ông còn đề cập đến một điểm quan trọng khác: khi hiện ra với các trẻ em ít học, Người muốn đòi hỏi một lòng tin tinh tuyền, tuyệt đối. Khi được hỏi Người mong đợi gì ở dân chúng (tại Mễ Du và sau này khắp thế giới), Người đáp: “Họ hãy tin như thể chính mình đã được thấy.”

Trước khi được thấy Đức Maria, lòng tin của các thị nhân như thế nào? Cũng giống như bao thiếu niên cùng tuổi trên khắp thế giới, chúng cũng ý thức về tầm quan trọng của lòng tin, nhưng lòng tin ấy đã phải vật lộn với các bận tâm, lo lắng của đời sống tuổi thanh thiếu niên. Chúng đi lễ ngày Chúa nhật, nhưng nếu bỏ lễ thì chúng cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Những kinh nguyện như kinh Mân Côi, chúng chỉ đọc vào những ngày lễ đặc biệt.

Còn bây giờ? Bây giờ thì các em dồn hết tâm lực vào vai trò tiếp đón những lần viếng thăm (của Đức Maria) và tập luyện sống đời thiêng liêng hằng ngày.

Giữ lòng tin có khó đối với các em không? Khách hành hương cứ tuôn đến để gặp, để chạm đến các em và để nói chuyện với các em, khiến các em không còn thời giờ sống cho riêng mình. Tuy vậy, mỗi em hiện nay đều được đầy sự bình an nội tâm, và biết chấp nhận vai trò của mình. Trải qua năm năm, các em đã được trưởng thành về mặt thiêng liêng, khiến các em không còn tầm thường như trước kia nữa.

Tôi gật đầu tán thành, cứ ghi nhớ mãi thái độ tự tin và vẻ thanh thoát, nhã nhặn của các em, khi đáp ứng các đòi hỏi không ngớt đặt ra với các em. Tôi nhớ lại lời cha Pervan nói về các em: “Trước khi Đức Mẹ hiện đến, các em là những đứa trẻ bình thường y như những đứa khác trong làng. Bây giờ, các em đã được chọn và đặt vào một con đường mới, một lối sống mới.” Cha Slavko nói: “Con đường mới đó được tóm tắt hay nhất bằng câu trả lời của Marija, khi một ký giả hỏi rằng phải chăng được thấy Đức Trinh Nữ Maria là điểm sáng chói nhất trong ngày của em: “Điểm sáng chói nhất trong ngày của tôi là tiếp đón Đức Giêsu qua phép Thánh Thể trong Thánh Lễ.”

Nghe cha Slavko nói chuyện chẳng khác nào đi ăn một bữa tiệc, tôi được biết về các em thị nhân nhiều hơn những gì tôi đã đọc trong tất cả các sách về Mễ Du trước đó. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi biết ông đã được tín nhiệm thế nào và biết ông hiện đang là linh hướng của các em. Chúng tôi tiếp tục nói chuyện gần một tiếng đồng hồ. Tanya dịch rất cừ, hoạt động như một người máy, mắt nhìn thẳng và dịch rõ, cẩn thận từng chữ một. Cha Slavko cũng nói cho Tanya biết là cha rất hài lòng việc làm của em.

Sau cùng, tuy còn muốn tiếp tục, nhưng tôi nghĩ cũng đã đến giờ phải kết thúc buổi phỏng vấn này. Tôi cám ơn cha Slavko về thời gian dành cho tôi, rồi quay gót đi ra ngoài. Nhưng Tanya cuống quít ra dấu bảo tôi đợi, rồi nói thầm gì đó với linh mục. Ông mỉm cười: “Ừ nhỉ, tôi suýt quên mất!” và bằng tiếng Anh rất chuẩn, ông tiếp: “Chiều nay, lúc 5 giờ, hãy đến Nhà xứ, nếu anh muốn có mặt lúc Đức Mẹ hiện ra. Điều này sẽ cần thiết cho quyển sách anh viết về những cuộc hiện ra đấy.”

Tôi lặng người. Là một nhà báo đang chuẩn bị viết một quyển sách, tôi biết ông đánh giá tôi đủ tiêu chuẩn, nhưng đây không phải thế. Rõ ràng Tanya đã cho ông biết hôm nay là sinh nhật của tôi, và đây chính là quà tặng đặc biệt của em. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất mà tôi từng nhận. Tôi đứng đó một lúc, quá bàng hoàng không biết làm gì hơn là lặng lẽ lặp đi lặp lại câu “Cám ơn”, “Cám ơn” và nước mắt tràn mi. Tôi bước ra ngoài trong bàng hoàng, đang khi Tanya nhảy nhót mừng rỡ vì đã làm tôi bất ngờ. Tôi nhìn lên trời, không ngớt thầm thì: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài!”

http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh063.jpg

Khách hành hương tụ tập đông đảo trước phòng Nhà xứ nơi Đức Maria hiện ra. Ai cũng muốn được vào dự cuộc hiển linh hồng phúc của Người, nên dễ xảy ra cảnh chen lấn nơi cầu thang. Nhưng chỉ những ai được mời mới được vào. Người đứng ngoài sốt sắng thông công bằng cầu nguyện.

Chiều hôm đó, một tiếng rưỡi trước giờ hẹn, tôi đã đứng dưới chân bậc thềm dẫn đến cửa Nhà xứ, mặc dù còn nửa tiếng nữa dân chúng mới bắt đầu tụ tập. Khoảng 4 giờ 30, đám đông như tăng dần lên. Người ta chen vào từ tứ phía, cố lách sao cho càng gần với bậc thang lên Nhà xứ càng tốt. Nhiều người cầu kinh rất sốt sắng, hi vọng cha Slavko nhìn thấy, vì một đôi khi, nếu trong phòng còn chỗ, ông sẽ chọn bất kỳ một hoặc hai khách hành hương nào.

Tuy đã được ông đích thân mời, nhưng tôi cứ nghĩ vẩn vơ: ông có thể quên tôi; hoặc trong đám đông xô đẩy chen lấn, ông có thể không nhận ra tôi. Bởi đó, tôi không muốn chuyện may rủi, nên cứ bám trụ gần chân thang trước bất cứ ai đến. Thực tế, tôi đã loanh quanh ở khu vực đó hơn hai tiếng đồng hồ rồi.

Đứng bên cạnh tôi lúc bấy giờ là một phụ nữ người Ý. Bà ta bỗng nhiên cất tiếng than khóc, rên rỉ, nài xin, vò đầu bứt tai khổ sở, trong khi đám đông đùn đẩy về phía trước. Tôi nhìn lên, cha Slavko đang đứng ở lối ra vào, vội vã ra dấu cho tôi và vài linh mục khác bước lên, rồi đi nhanh vào phòng. Chúng tôi chen lấn tìm đường đi lên những bậc thang và cuối cùng vào được bên trong.

Người phụ nữ Ý không ngừng van nài, chen sát sau tôi, cho đến khi bà ấy bị cha Slavko chận lại, và dùng tiếng Ý nói với bà rất nhanh và cương quyết. Sau nhiều cử chỉ và lời nói qua lại giữa hai người, cha đẩy nhẹ bà ấy ra khỏi cửa. Nhưng không dễ dàng bỏ cuộc, bấy giờ bà khóc lóc, kêu van inh ỏi, hai tay bà níu lấy cánh cửa, cản lại không cho cha đóng. Tôi phát hoảng, người phụ nữ đáng thương này xem ra quá khẩn thiết muốn được vào bên trong phòng. Có lẽ bà cần được vào trong hơn tôi. Tôi có nên nhường chỗ cho bà ấy không? Giữa lúc cha Slavko đang lúng túng giằng co với bà ấy, thì có nhiều người nhào tới gỡ bà ra khỏi cánh cửa. Cuối cùng, cánh cửa được đóng và khóa lại.

Phải một hồi lâu, tôi mới nhận ra mình đang đứng ở lối vào và không lâu nữa sẽ được chứng kiến cảnh hiện ra. Nhưng tôi không thể xua đuổi ra khỏi đầu hình ảnh bàn tay người phụ nữ bám chặt vào cánh cửa. Cha Slavko đưa tôi về thực tế, khi nhẹ nhàng giải thích với tôi: “Chiều nào cũng vậy. Ai cũng nghĩ là mình phải được vào bên trong và nhu cầu của họ lớn hơn của người khác.” Ông nhẫn nhục lắc đầu: “Tôi không thể cho tất cả mọi người vào được, không thể được!” Cũng dễ hiểu tại sao ông lại coi đây là một trong những trách nhiệm nặng nề nhất của ông.

Cha Slavko mở cái cửa dẫn vào văn phòng, và chúng tôi bước vào. Tôi vội vàng kiếm chỗ đứng xa xa bên phải đằng đầu căn phòng, để có một góc độ tốt mà chụp cận ảnh nét mặt của các thị nhân. Cạnh bên tôi là một đoàn người quay vidéo của một đài truyền hình nào đó.

Trong hai mươi phút kế tiếp, căn phòng trở nên ngột ngạt, vì chứa đầy hết cỡ các linh mục, nữ tu và giáo dân. Không một ai có vẻ quan tâm về chuyện đó.

Tôi quỳ gối, cố gắng không để ý đến mồ hôi đang nhỏ xuống từ trán, tham gia vào tiếng thì thầm đọc kinh, khi một trong các linh mục bắt đầu xướng kinh Mân Côi. Bên ngoài cửa sổ vang lên tiếng rì rầm vì họ cũng bắt đầu đọc kinh. Nhìn quanh căn phòng, tôi xúc động vì sự đơn giản của khoảng không gian nhỏ hẹp này mà biết bao người khao khát được vào. Một chiếc sơ mi lẻ loi treo trên móc, ở đằng sau cánh cửa. Một chiếc trường kỷ nằm dọc theo tường, chất đầy ảnh tượng khách hành hương gởi vào, để được Đức Trinh Nữ Maria đích thân làm phép. Phía bên trường kỷ là một kệ sách với một Thánh giá treo ngay phía trên ngăn cao nhất, (trong hình, tượng thánh giá bị che khuất chỉ còn thấy chân), đánh dấu chính nơi được cho là Đức Mẹ đã hiện ra với các thị nhân.

Tôi đưa mắt liếc nhìn nét mặt của những người khác ở trong phòng, và thấy tất cả mọi người - ngay cả các linh mục và các nữ tu - đều ý thức là mình sắp được tham dự vào một kinh nghiệm để đời. Chỉ vài phút nữa, chúng tôi sẽ được Vị sứ giả thiên đàng, Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc đến viếng thăm. Các thị nhân đã mô tả Người như một phụ nữ trẻ khoảng 20 tuổi, mặc áo dài màu xám bạc và đầu đội khăn choàng trắng. Nước da Người trắng hồng, mái tóc Người đen nhánh, và Người có một giọng nói - theo các thị nhân - êm ái, du dương hơn mọi thứ âm nhạc mà các em từng nghe.

Bỗng nhiên, Marija Pavlovic và Jacov Colo, hai thị nhân sẽ có mặt tại đây chiều nay, bước vào phòng. Chúng tôi liền ngưng đọc kinh, khi Marija quỳ ở lối vào và Jacov, cao, gầy, với vẻ ngượng ngùng của một thiếu niên 15 tuổi, đến góc phòng quỳ sụp xuống, tay đặt trên đầu gối. Cha Slavko quỳ khoảng giữa hai em và bảo Marija xướng kinh Mân Côi. Cô khoan thai bắt đầu. Tôi không thể rời mắt khỏi cô và giật mình khi cô bỗng nhìn tôi và mỉm cười. Tôi đã nhìn thấy thiếu nữ này, nay đã 21 tuổi, rất nhiều lần trên vidéo. Cô luôn có vẻ rụt rè và hơi hoảng sợ trước toàn bộ sự việc này. Giờ đây, một vẻ đẹp nội tâm đang rực rỡ tỏa sáng chung quanh cô.

Khi cô đã đọc xong chục kinh thứ nhất của chuỗi Mân Côi, cha Slavko ra dấu cho Jacov bắt đầu chục thứ hai. Em đọc từng chữ rõ ràng, thong thả, và tôi ngạc nhiên về sự nghiêm túc ấy - cho đến khi nhớ ra em đã được Đức Maria dạy dỗ từ khi em lên mười. Giây lát sau, hai thị nhân đứng dậy, đứng bên nhau trước tràng kỷ và lại bắt đầu đọc kinh.

Thình lình, họ ngừng lại và quỳ xuống. Tim tôi đập mạnh khi thấy chính mình đang quỳ cạnh Marija, cách cô chưa đến ba tấc! Và rồi tôi bàng hoàng nhận ra là Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc đang hiện diện... Marija có một vẻ tôn kính sâu xa. Miệng cô mấp máy, nhưng không có tiếng phát ra. Miệng Jakov cũng mấp máy. Tôi nhìn về hướng nhìn của họ. Tôi không thấy gì ngoài cây Thánh giá trên tường; tuy vậy, một cảm giác ấm áp, an bình bao phủ tôi. Tôi quên cả chụp hình và không làm gì được, trừ việc tạ ơn Chúa cho tôi được đặc ân có mặt ở đây.

Cũng căn phòng nói trên nơi Đức Maria hiện ra. Đây đang lúc Đức Maria hiện ra với Marija và Jakov. W.Weible đã được vào và tham dự.


Lòng cung kính của tôi bị xáo động, khi hai người trong đoàn quay phim của đài truyền hình đứng dậy. Họ đến bên Jacov, mỗi người một bên, nhấc em lên bằng cách nắm lấy khuỷu tay em, toàn thân em như đông cứng trong tư thế quỳ gối, đang khi họ nhấc bổng em lên trên không; và máy camera quay xè xè... Hai mắt em cũng không hề rời khỏi điểm mà em đang đăm đăm nhìn từ lúc cuộc hiện ra bắt đầu. Khoảng mười giây sau, họ hạ em xuống, đặt em lại chỗ cũ. Jakov cứ tiếp tục, không hề biết cái gì đã xảy ra cho em.

Tôi cảm thấy quá mau chóng, vì Marija và Jacov đã làm dấu Thánh giá rồi đứng lên. Cuộc hiện ra chấm dứt, Đức Maria đã đi rồi. Marija ra khỏi chỗ đó, đi vào phía sau Nhà xứ để ghi lại sứ điệp cô mới nhận. Lòng tôi buồn rười rượi, chỉ mong cuộc hiện ra tiếp tục mãi; nhưng cũng đầy tràn niềm tri ân, vì đã được hiện diện.

Tôi không muốn rời khỏi căn phòng - và thấy những người kia cũng nghĩ như vậy. Nhưng đã đến giờ ra đi, giờ trở về với thế gian. Khi bước ra khỏi cửa, tôi giật mình trước một biển người đang ngước mặt nhìn lên. Ngay giây phút Marija và Jacov bước vào phòng, tôi đã quên hết đám đông bên ngoài. Bây giờ, họ đang nhìn vào tôi và những người kia, dò tìm trên nét mặt chúng tôi chút manh mối của điều chúng tôi vừa chứng kiến. Tôi mong chia sẻ điều đó với họ - với tất cả mọi người - nhưng lòng tôi lại khao khát được ở một mình nơi nào đó, để hấp thụ tất cả những gì mới chứng kiến và cảm nghiệm. Tôi không có cách nào để cám ơn cô bạn bé nhỏ người Úc của tôi cho đủ về món quà sinh nhật đặc biệt này - hoặc cám ơn cha Slavko đã vui lòng cho tôi được có mặt trong buổi hiện ra. Nhưng, một cách nào đó, tự đáy lòng tôi, tôi biết Đấng mà tôi phải hết lòng tri ân là chính Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc...

---o0o---

hoanghac
04-23-2013, 02:58 AM
“Mẹ yêu tất cả các con... ngay cả khi các con sống lìa xa Mẹ và Con Mẹ...”
Chương 19

NHỮNG LÚC NGHI NAN

Tôi không có cách nào để thoát ra khỏi biển người đang đứng dưới chân thang. Bây giờ, người ta cứ xô lấn tới phía trước, để sáp lại với Marija và Jacov gần chừng nào hay chừng đó, và cố sức để chạm được vào họ khi họ ra khỏi phòng (nơi Đức Mẹ vừa hiện ra) để đi dự lễ. Tôi chen qua giữa đám đông để thoát ra, mong sao tìm được một chỗ yên tĩnh và kín đáo - bất kỳ chỗ nào.

Nhưng tôi bị trệch đường; vừa mới thoát khỏi đám đông thì gia đình Thompson, Tanya và nhiều bạn khác xấn đến tôi. Buổi hiện ra như thế nào? Người nói cái gì? Anh có thấy gì không?

Điều mà tôi không muốn làm một chút nào vào lúc này là nói chuyện với bất cứ ai - kể cả mấy người bạn thân. Nhưng tôi làm sao từ chối họ được? Tôi cứ lắp bắp trong miệng: “Đó là - tôi cảm thấy - đó là một cảm giác tuyệt vời nhất của sự bình an và tình yêu trọn hảo mà tôi chưa từng biết đến.” Tanya, mắt sáng rực, ôm hôn tôi. Sau cùng, tôi nói: “Này các bạn, tôi xin lỗi, tôi cần ở một mình vài phút - tôi hi vọng các bạn thông cảm.” Họ đều đồng ý.

Tôi vội vàng rút lui về phía lùm cây ngay sau lưng Nhà thờ, và tìm ra được một bãi cỏ, từ đó tôi có thể ngắm được cây Thập giá trên núi Krizevac. Thật là tuyệt! Ngồi xuống cỏ, tôi đăm đăm nhìn lên cây Thập giá. Chính xác thì tôi đã cảm thấy như thế nào, khi có mặt vào lúc Đức Trinh Nữ Hồng Phúc hiện ra với Marija và Jacov? Có một điều là tôi đã không thể chụp hình hoặc ghi nhận các chi tiết theo cách khách quan được - cả hai điều này tôi đã hi vọng làm được cho cuốn sách của tôi. Thay vào đó, tôi được cảm nghiệm riêng cá nhân về một tình yêu cao cả và một sự bình an sâu xa. Về mặt thể lý, tôi đã cảm thấy một hơi ấm bao phủ tôi, nhưng như thế thôi - không có ánh chớp chói lòa ngoạn mục hoặc âm thanh du dương nào.

Theo một nghĩa nào đó, đây là một sứ điệp khác, cũng mạnh mẽ như sứ điệp thứ nhất mà tôi đã nhận được từ Đức Trinh Nữ Diễm Phúc. Tuy lần này không có tiếng nói, nhưng cũng là cùng một ý thức rằng Thiên Chúa đã chọn tôi cho một ân huệ rất đặc biệt. Tôi không rõ những người khác ở trong phòng cũng có những cảm tưởng tương tự hay không.

Điều thú vị nhất về toàn bộ kinh nghiệm này, đó là một nhận thức đột ngột không thể giải thích được, rằng sự hiện diện của tôi ở đó, trong căn phòng đó, thực sự không khác gì hơn nếu tôi đã ở trong đám đông bên ngoài Nhà xứ, hoặc chỉ đơn giản có mặt tại Mễ Du. Lời chúc lành hoặc ân huệ đặc biệt đều được ban cho mọi người đang hiện diện, bất kể chỗ nào. Tôi mỉm cười khi nghĩ về điều đó; lại thêm một bài học nữa về sự đơn giản của lòng tin.

Hối hả quay về Nhà thờ, tôi đến đúng vào phần cuối Lễ và các kinh nguyện tiếp theo sau. Sơ Margaret thấy tôi và bảo đảm với tôi mọi sự đều được thu xếp để tôi được ở tại căn nhà mà sơ đang trọ, nhưng chỉ một đêm thôi. Còn thời gian sau đó, tôi phải ở chỗ khác.

Sáng hôm sau, tôi vội vàng thay quần áo, bỏ điểm tâm, đi thẳng tới Nhà thờ, vì nhóm Trung Tâm Hòa Bình sẽ lên xe đi Dubrovnik ngay sau Thánh Lễ sớm. Tôi muốn có mặt ở đấy khi cha Svet từ Konjic đến để giao bản thảo của ông cho sơ Margaret, rồi tôi có thể bố trí công việc cho những ngày tới tôi còn ở đây. Tôi hi vọng vẫn còn cơ hội đi Konjic như đã định từ đầu. Thánh Lễ bế mạc lúc hơn 8 giờ sáng. Trong số những người mới đến hành hương lần đầu đang bước ra khỏi Nhà thờ, trong ánh sáng ban mai, tôi thấy lộ ra trên nét mặt họ cũng một nỗi buồn bã, chần chừ vì sắp phải ra đi mà tôi đã kinh nghiệm một tháng trước đây. Nhưng lần này, tôi chưa cảm thấy điều đó, lần này thì chưa. Tôi nhìn đồng hồ. Cha Svet đâu?

Nhìn lướt qua đầu người lô nhô, tôi không thấy chiếc xe Volkswagen nhỏ của cha đằng sau Nhà xứ. À, bây giờ tôi đã quen với cái lối hẹn giờ của ông; chắc chắn, trước sau gì ông cũng đến.

Lúc 8 giờ 30, nhóm Trung Tâm Hòa Bình khởi sự lên xe. Vẫn không thấy cha Svet. Tôi nói với sơ Margaret: “Này sơ Margaret, chị cứ đi trước, nếu cha đến, tôi sẽ nhảy lên xe, sẽ bắt kịp chị tại khách sạn ở Dubrovnik và sẽ giao lại bản thảo cho chị. Rồi tôi trở lại đây, hi vọng sẽ làm việc với cha một tuần.” Chị cười đồng ý, rồi họ lên đường.

Tôi đợi. Nửa tiếng qua đi, rồi một tiếng - rồi lại một tiếng rưỡi - và tôi bắt đầu sợ. Nhớ lại mấy lời nghiêm trọng ông nói với tôi, rằng chúng tôi sẽ không đi Konjic vì “không thuận lợi vào lúc này” - bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.

Đến trưa, tôi đã quá thất vọng. Tôi vào Nhà thờ để tìm Kathleen. Cô ấy biết người phụ tá cha Slavko là Milona, và hi vọng cô này sẽ gọi điện đi Konjic để xem có việc gì xảy ra. Kathleen đang ngồi trong Nhà thờ ở phía trước trên chiếc ghế dài để dọc theo tường. Tôi chen vào ngồi ở ghế trước mặt cô và hỏi nhỏ: “Này Kathleen, cô giúp tôi với, tôi cần lắm! Cô làm ơn nói với Milona gọi điện về Konjic xem có gì xảy ra cho cha Svet không. Ông muốn gặp tôi tại đây lúc 8 giờ sáng nay, và...”

Cô bình thản nhìn tôi, mỉm cười: “Bình tĩnh nào, anh Wayne! Tại sao anh thất vọng như vậy? Anh biết tính ngài rồi. Mọi sự rồi sẽ ổn thôi. Đừng lo !”

Tôi đăm đăm nhìn Kathleen: “Cô nói gì? Cô bảo đừng lo hả? Chuyện nghiêm trọng quá mà!” Tôi thêm vào, quên là phải nói nhỏ trong Nhà thờ: “Tôi cần gặp ông!”

Cô vẫn điềm tĩnh: “Anh Wayne, anh đang ở Mễ Du, và anh đang làm việc với cha Svet. Hãy trông cậy Chúa, Người sẽ liệu cho.”

Tôi gắt gỏng đáp lại: “Rõ ràng là cô chẳng hiểu chuyện này quan trọng như thế nào!” rồi tôi đứng dậy, ra khỏi Nhà thờ.

Không biết làm gì khác, suốt ba tiếng đồng hồ sau đó, tôi lang thang ở khu Nhà thờ và Nhà xứ, vẫn hi vọng cha Svet sẽ xuất hiện. Chiều ấy, tôi cứ rảo bước như người không hồn, cũng chẳng cầu nguyện gì hết. Chuyện gì đã xảy ra? Ơ, tôi đang làm cái gì ở đây? Tại sao tôi lại bỏ gia đình, vợ con thân yêu mà tôi thương nhớ, để vượt bảy tám ngàn cây số đến với cái thôn làng xa xôi bụi bặm này? Tại sao tôi lại để cho hàng ngàn người vây quanh xô đẩy mà vẫn lẻ loi một mình, vẫn nhớ nhà thế này? Tức khắc, tôi không còn là một phần của Mễ Du nữa. Tôi chẳng quen biết ai trong đám người này...

Tôi bước tới, ngồi trên bờ tường thấp xây dọc theo khoảng sân trống ở phía đông Nhà thờ. Hơn bao giờ hết, tôi hiểu ý nghĩa câu nói đã ám ảnh ông Môisen ngày xưa: “một người lạ nơi đất khách...”

Tôi chao đảo. Chuyện gì đã xảy ra cho lòng tin của tôi? Cho cái nhìn về ơn gọi của tôi? Cho sứ mạng đã đưa tôi đến đây? Cách đây chưa đầy 24 tiếng đồng hồ, tôi được có mặt trong căn phòng hiện ra, với sự hiện diện của Đức Maria. Sự bình an có được từ kinh nghiệm ấy đã rời bỏ tôi hẳn rồi. Những gì tôi trông thấy bây giờ là bụi mù, là đám đông những người hành hương chen lấn, xô đẩy, là cánh cửa sổ bể nát bên hông Nhà thờ và là rác rến khắp nơi. “Đó mới là thực tế”, một giọng nói cứng rắn cất lên trong tôi, “đã đến lúc ngươi phải đối mặt với nó.”

Đúng vậy, tôi đã tự lừa dối mình hằng mấy tháng trời, thêu dệt một câu chuyện thần tiên, lãng mạn. Sao tôi lại có thể ngu ngốc đến thế? Tôi lắc đầu và quyết định về phòng sửa soạn hành lý. Vé máy bay của tôi ghi tôi sẽ đi sáng thứ ba tới, nhưng tôi chỉ cần đến văn phòng hãng hàng không Pan Am tại Dubrovnik xin sửa lại ngày về thôi.

Tôi cảm thấy một bàn tay đặt nhẹ trên vai. Đó là cha Pervan. Ông trao cho tôi một phong bì và mỉm cười nói: “Anh Wayne, cái này do cha Svet gởi.”

- “Do cha Svet? Bằng cách nào? Bao giờ?”

- “Hôm nay, vì không đến đây được, nên ngài nhờ người đưa đến.” - “Cám ơn, cám ơn cha rất nhiều.”

Ông gật đầu rồi đi. Tôi xé phong bì. Bên trong có một tràng hạt đen rất đẹp với mấy dòng chữ:

“Wayne, người anh em của tôi! Tôi không đến được vì những lý do khó giải thích. Tôi đã thu xếp để gởi bản thảo sang Mỹ cho anh, nên anh đừng lo gì về chuyện đó. Bây giờ anh rảnh rồi, vì tôi không thể trở lại Mễ Du trước cuối tuần sau.
Chúng ta sẽ liên lạc nhau. Đang khi đó, hãy ở lại và thưởng thức Mễ Du cho đến ngày anh phải đi. Sau đó, hãy về nhà và hưởng hạnh phúc gia đình bên vợ con anh.
Xin Thiên Chúa ở cùng anh và gia đình anh.
Svet”

Bỗng nhiên, tôi cảm thấy lòng mình như trút được một khối nặng. Ngay giữa đám đông ồn ào, nhốn nháo - một lần nữa - tôi lại trở nên một thành phần của cảm nghiệm Mễ Du. Tôi vừa mừng lại vừa hổ thẹn. Sao tôi có thể quay lưng đi như thế? Sao tôi lại có thể nghi ngờ - và để cho nỗi lo sợ che khuất không chỉ mục đích của chuyến đi, mà còn cả Mễ Du, cả ơn gọi của tôi, cả mọi thứ? Sao tôi có thể đánh mất những điều đó cách dễ dàng đến thế?

Lúc ấy, tôi đã học được một bài học ghi nhớ suốt đời: Đừng bao giờ tin vào những cảm xúc hơn vào những sự chắc thật của lòng tin. Cảm xúc thường dối trá, chúng có thể lừa được bạn, làm bạn nghi ngờ đủ thứ, ngay cả lòng tin của bạn. Satan thường dùng cảm xúc để tách ta ra khỏi Thiên Chúa.

Đâu là thuốc giải độc? Cầu nguyện! Đó chính là điều lẽ ra tôi đã phải làm khi tôi lang thang trong hoài nghi. Thế mà tôi đã không làm. Thay vào đó, cứ tưởng tượng ra đủ chuyện bi thảm dông dài – đáng lẽ tôi nên chiến đấu mà tìm đường về với thực tại của Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện.

Từ bây giờ trở đi, tôi sẽ nỗ lực “cầu nguyện không ngừng”, như lời Đức Trinh Nữ Diễm Phúc yêu cầu chúng ta trong hầu hết các sứ điệp của Người. Và điều đó không có nghĩa là liên tục cầu kinh bằng môi miệng cách máy móc; nhưng là sống thực với lời cầu nguyện, không ngừng. Bằng cách sống trong Chúa, hãy để cho cuộc sống các bạn trở thành lời cầu nguyện. Các bạn không thể bị tách rời khỏi Thiên Chúa, nếu các bạn không tự lìa xa Người. Người là thực tại chứ không phải là những hoài nghi, sợ hãi và lo âu của thế gian. Tôi đã chọn một thực tại sai lầm.

Chỉ một bài học này cũng đủ làm cho chuyến du hành của tôi đáng giá - tôi nghĩ như thế, khi đứng lên đi thẳng về Nhà thờ. Tôi ngước nhìn và thấy Kathleen đang đi về phía Nhà xứ. Tôi liền đến với cô ấy, ôm hôn cô, lắc đầu và nói: “Cám ơn”.

Cô ngạc nhiên hỏi: “Về cái gì?”

Tôi mỉm cười: “Chẳng về gì cả. Tôi chỉ cám ơn cô, vậy thôi.”

Vừa bước lên bậc cấp, tôi vừa nghĩ không có cách nào để diễn tả bằng lời tất cả những điều đã xảy ra. Kathleen có được sự bình an nội tâm không thể lay chuyển mà tôi thèm khát, một sự bình an mà ta không đánh mất trong khi gặp khủng hoảng. Những gì cô đã nói với tôi trong Nhà thờ - hãy bình tĩnh, đừng lo, mọi sự rồi sẽ ổn - lúc đó, tôi coi là điên khùng, là một biểu lộ nữa của nét đồng bóng nơi cô. Nhưng nó đã đúng tuyệt đối. Và bây giờ, tôi có trọn một kỳ cuối tuần chỉ để thư giãn và tận hưởng Mễ Du.

Sáng thứ bảy, tôi lần theo lối mòn đến với đỉnh núi Krizevac và cây Thập giá kỳ diệu - là nơi tôi thích nhất tại Mễ Du, và là nơi tốt nhất để tôi cầu nguyện cho đến nay. Dừng lại trong chốc lát trước mỗi chặng của 14 chặng đường Thánh giá, tôi tạ ơn Thiên Chúa một lần nữa, về đặc ân được tham dự vào tất cả những sự kiện này. Tôi cũng xin Chúa tha thứ vì những nghi ngờ tôi đã ngã phạm vào chiều hôm trước.

Đỉnh núi vắng người, chỉ trừ một phụ nữ đang chìm đắm trong nguyện ngắm. Sau khi kiếm được chỗ ngồi trên một tảng đá bằng phẳng, tôi bị giật mình vì một giọng rất phấn khởi: “Chào anh!” Tôi đáp lại lời chào của bà ấy và bắt đầu trao đổi các thông tin thông thường. Bà ấy tên Francesca Lovatelli, từ Ý đến, đã tới Mễ Du nhiều lần. Khi nói chuyện với bà về lý do đến đây, tôi chợt nhắc đến việc tôi cần một chỗ trọ cho vài đêm nữa. Rồi cũng như bao nhiêu sự “trùng hợp ngẫu nhiên” khác đã xảy ra quá thường xuyên ở nơi thánh thiêng này, hóa ra bà đang trọ ở một gia đình hiện có một phòng còn để trống, đúng ngay lúc tôi cần đến. Thế là Chúa đã giải quyết vấn đề nhà trọ cho tôi.

Bây giờ, chỉ còn giải quyết vé máy bay thôi. Tôi phải bay sáng thứ ba, nhưng muốn đến Dubrovnik sớm vào thứ hai, để yên chí là mọi việc đều êm xuôi. Lại còn cái bóng đen của cảnh sát đang tìm kiếm tôi vẫn còn lảng vảng đâu đây, mà tôi lại không muốn liều mạng. Tuy vậy, trong thời gian này, một lần nữa, tôi lại tận hưởng từng giây phút ở lại đây, từng bữa ăn, từng cuộc gặp gỡ. Tanya ở lại với tôi gần cả ngày Chúa nhật, và tối đó, chúng tôi chia tay thật là cảm động, chan hòa nước mắt. Tôi bảo đảm với Tanya tôi sẽ trở lại vào cuối năm để hoàn thành quyển sách, và sẽ biên thư cho em ấy biết khi nào.

Sáng thứ hai, tôi thức dậy lúc 3 giờ 30 phút, hầu như một thói quen của tôi ở Mễ Du. Tôi đã chất đồ đoàn lên xe và chia tay Francesca cùng với gia đình người chủ trọ từ tối hôm qua, nên ban ngày tôi rảnh rang. Tôi vui mừng vì đã giải quyết đâu vào đấy mọi việc.

Con đường đến Dubrovnik rất ngoạn mục, và tôi muốn được thong thả ngắm cảnh. Nhưng tôi sực nhớ ra chuyến bay thường nhật đi New York chỉ cất cánh vào lúc 7 giờ sáng. Nếu tôi đến đó sớm và trả xe xong, tôi có thể lấy chuyến bay hôm nay, thay vì ngày mai. Với hình ảnh vợ con hiện đầy trong trí, tôi lên đường trước bình minh đi tới Dubrovnik, nhanh hơn rất nhiều so với dự tính.

Trước khi tôi tới bờ biển, trời đã bắt đầu mưa - nhẹ nhàng từng hạt vào lúc đầu, sau đó trở thành cơn mưa phùn dầy đặc. Tôi cóc cần biết, mưa đến mấy cũng không làm cùn được ý chí của tôi. Tôi đang về nhà đây!

Tôi đến phi trường lúc hơn 6 giờ, đậu xe rồi chạy vội vào trong tìm quầy vé. Nhưng - không có quầy vé của hãng Pan Am, cũng chẳng có người nào đổi vé cho tôi. Tôi được báo là phải đi lui về Dubrovnik, tới văn phòng Pan Am ở gần khu phố cổ. Đi tới đó mất khoảng 20 cây số - không mong gì chạy tới rồi chạy lui mà kịp giờ. Với tiếng thở dài, tôi vẫn lái xe đi; may ra máy bay đến trễ... Tôi chẳng để ý là mưa đã nặng hạt hơn, đường càng trơn trợt hơn.

Lẽ ra, tôi không nên có ý nghĩ trở về nhà sớm một ngày, nhưng lúc ấy, tâm trí tôi chỉ có thể nghĩ đến chuyện ấy thôi. Tôi không thể nhẫn nại đợi thêm trọn một ngày nữa mới được thấy vợ con. Tôi liếc nhìn lên, thấy có một chiếc xe ngừng lại ở giữa đường, ngay trước mặt tôi...

Tôi đạp thắng - quá mạnh: hai bánh xe phía sau trượt, và bỗng nhiên, xe mất điều khiển lạng qua lạng lại, lao tới thẳng xe trước. Tôi kêu lên: “Ôi, Chúa ôi! Không, không!” Lúc ấy, chỉ có điều này xẹt qua trong trí tôi: hoặc tôi sẽ chết tại đây, ở xứ Nam Tư này, hoặc tôi sẽ tông bể nát chiếc xe này, rồi cảnh sát sẽ phát hiện là chính quyền ở Citluk đang tầm nã tôi.

Trong cơn thất vọng, tôi bẻ mạnh tay lái, và làm cho chiếc xe xoay tít - một, hai, ba lần... Tôi thét lên: “Lạy Chúa Giêsu, xin cứu con! Xin cứu con!” Cuối cùng, bánh xe sau chợt đụng phải lề đường, giật nẩy lên, chiếc xe liền đứng khựng lại. Chết máy và im lặng. Tôi chỉ còn nghe tiếng lách cách đều đặn của hai cây gạt nước trên mặt kính trước của xe. Nhìn qua mặt kính trước, tôi chẳng thấy bóng dáng của chiếc xe đã chặn đường tôi. Ngó quanh, tôi mới thấy là tôi đang dừng cách trạm xe buýt khoảng 30 mét, nơi người ta đang đứng chờ xe - và đang chòng chọc nhìn tôi. Có ai đến để xem tôi có hề hấn gì không? Không, họ chỉ nhìn chòng chọc vào tôi. Tôi đã trở lại với thế giới thực một lần nữa.

Tôi bắt đầu run rẩy. Tôi bước ra khỏi xe và đi một vòng quanh xe quan sát. Không một vết trầy xước, nhưng phía sau xe, trên mặt đường là những vệt bánh xe ngoằn nghoèo in trên khắp mặt đường, trông như những sợi mì ống đen sì - và rất gần với đoạn đường đèo không có rào cản. Tôi thầm thì: “Con tạ ơn Chúa!” Chắc chắn đã có thiên thần canh phòng hai bên xe tôi.

Tôi ngồi vào xe, thử bật công tắc thì xe liền nổ máy. Cẩn thận, tôi lái xe đến khu phố cổ và tìm văn phòng hãng hàng không Pan Am. Đi chuyến bay hôm nay thì quá muộn rồi, nhưng tôi xác nhận với họ sẽ đi chuyến sáng mai. Sau đó, tôi tìm được một khách sạn và cả ngày đó chỉ chờ cho đến hôm sau.

Sáng thứ ba, khi chiếc phi cơ phản lực khổng lồ cất cánh rời khỏi Dubrovnik, tôi mới thở ra nhẹ nhõm. Bỏ lại phía sau mọi lo lắng về cảnh sát, rồi họ sẽ sớm quên tôi thôi. Còn Tanya - tôi cầu nguyện cho em tìm được sức mạnh thiêng liêng, để được bình phục hoàn toàn và sống hữu ích. Có một điều tôi rất chắc chắn: khi rời khỏi Mễ Du lần này, tôi biết tôi sẽ trở lại.

hoanghac
04-30-2013, 12:23 AM
“Hãy sống các sứ điệp!””
Chương 20
LOAN TRUYỀN SỨ ĐIỆP

“Con sẽ dâng hết đời mình để loan truyền sứ điệp...”

... Đã tám tháng qua, từ khi tôi nghe lần đầu tiên những lời này do Đức Trinh Nữ Maria phán bảo trong lòng tôi, tôi chưa bao giờ quên. Những lời này đang trở lại với tôi khi đang bay về nhà, cố sắp xếp các chi tiết của chuyến đi lần này. Tôi đã trở lại Mễ Du, cho rằng mình sẽ giúp cha Svet sửa quyển sách của ông. Kế hoạch đó đã chẳng thực hiện được bao nhiêu, nhưng tôi lại có dịp hiểu rõ rằng: đó không phải là mục đích của Thiên Chúa khi đưa tôi trở lại đây. Mà thật ra, đó là một thời gian để học hỏi và trưởng thành; rất nhiều điều đã được hoàn thành nơi tôi để chuẩn bị cho những gì còn ở phía trước.

Dĩ nhiên sẽ phải có một chuyến đi nữa, tự thâm tâm tôi biết điều đó, mặc dù trong cơn căng thẳng khô khan vừa qua, tôi đã nghi ngờ và phi bác đủ chuyện. Tôi sẽ trở lại có lẽ trước cuối năm. Nhưng, trong khi đó, Terri cũng phải đến để cảm nghiệm trực tiếp những gì đang ngày càng chiếm cứ đời tôi - vì đó là cuộc đời của chúng tôi, sứ mệnh của chúng tôi. Điều mà tôi đang được yêu cầu thực hiện cần phải có sự cộng tác toàn diện của Terri, nếu muốn thành công. Thời gian thuận tiện cho Terri đi Mễ Du có lẽ vào tháng tám, trước ngày tựu trường của bọn trẻ.

Dĩ nhiên, nàng đã không nhìn sự việc hoàn toàn theo cách đó, khi tôi nêu lên vấn đề chẳng bao lâu sau khi về đến nhà. Tôi nói với nàng khi đã kể xong những chi tiết của chuyến đi vừa qua: “Em phải đi. Anh còn phải hoàn thành nhiều việc mà lại không có sự yểm trợ và thông cảm toàn diện của em về những gì đang xảy ra ở Mễ Du.”

Nàng đáp: “Coi kìa, em đã đọc những sách về Mễ Du, và cả bản thảo của cha Svet nữa. Em tin mà. Em tin những việc đó xác thực, do Thiên Chúa mà đến. Vậy cần gì em phải đi?”

Tôi lắc đầu: “Em sẽ không bao giờ có thể cảm nghiệm được tác động đầy đủ của nơi ấy qua một người khác đâu.” Tôi bỏ lửng vấn đề ở đó, vì cảm thấy phản ứng chống đối của nàng.

Nhưng tôi không bỏ cuộc. Không một buổi tối nào qua đi mà chúng tôi lại không nói đến Mễ Du. Một tuần sau, tôi lại đề cập đến. Nàng thừa nhận: “Nếu đích thân can dự vào thì thật là hào hứng!”

- “Vậy em sẽ đi chứ?”

- “Em đâu có nói vậy! Tại sao anh không đi vào tháng 11 thay cho cả hai chúng ta?”

Thật đáng ngạc nhiên! Nàng đồng ý mà không tranh luận gì cả, khi tôi cho nàng hay tôi cần phải trở lại để tiến hành quyển sách của tôi.

- “Terri, anh đã hai lần đến đó rồi; anh muốn em đi vào tháng tám.”

- “Em không đi vào tháng tám; như vậy là điên!”

Tôi vẫn kiên trì: “Không điên đâu! Con mình sẽ nghỉ hè và anh chăm sóc chúng được. Nếu cần, chúng ta có thể nhờ một người đến đây lo cho chúng.”

Terri tuyên bố, quai hàm đanh lại: “Em không muốn đi, chấm hết!”

Tôi rút lui. Tôi đã hiểu ra vấn đề: con cái. Từ trước tới nay, nàng chưa bao giờ rời xa con cái. Nhưng bây giờ Kennedy đã lên sáu, Rebecca lên hai; chúng có thể sống không có mẹ trong vòng một tuần. Tôi không ép nữa, nhất là vào lúc này.

Tuần sau, tôi đặt lại vấn đề. Một lần nữa, tôi nhấn mạnh cho nàng hiểu rằng việc nàng biết trực tiếp những gì mà tôi được yêu cầu tiếp xúc thật là quan trọng. Và một lần nữa, nàng khẳng định một cách sắt đá rằng nàng sẽ không rời bỏ các con mà nhào tới một nước Xã hội chủ nghĩa, để cảm nghiệm về một điều nàng đã tin là xác thực.

Tôi nói với sự bình tĩnh có tính toán: “Terri, lý do đích thực đó là: đối với em, con cái quan trọng hơn Thiên Chúa!” Tôi nghĩ: rồi, thế là xong. Bây giờ nàng sẽ không bao giờ đi. Và có thể nàng cũng sẽ không thèm nói chuyện với tôi trong một thời gian dài nữa.

Nhưng tôi đã lầm; ngay cả khi nàng trừng trừng nhìn tôi, tôi có thể nói là nàng vẫn nghe tôi. Tôi dịu dàng: “Chúng ta phải học để biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, trên cả con cái chúng ta.”

Nàng thở dài: “Được rồi, được rồi, em sẽ đi! Nhưng không đi trong tháng tám.”

Tôi ngây ngất: “Vậy bao giờ?”

- “Em không biết. Để rồi tính.”

Ngày hôm sau, tại phòng làm việc, tôi gọi cho Trung Tâm Hòa Bình ở Boston và được biết chuyến thứ nhất sau tháng tám sẽ đi vào ngày 9 tháng 9. Tôi xin họ giữ một chỗ cho Terri và gửi tiền đặt cọc đi ngay. Khi Terri bước vào, tôi nói với nàng điều tôi đã làm. Nàng chỉ nhìn tôi nói: “À, thế đấy, em biết mà!”

* * *


Loan truyền sứ điệp... Mặc dù tôi vẫn chưa biết chắc tôi sẽ làm như thế nào, nhưng có một điều tôi đã học được từ tám tháng qua: Nếu Thiên Chúa gọi bạn làm một việc gì, Người sẽ chỉ cách cho bạn và giúp đỡ bạn. Phần bạn, chỉ cần lắng nghe cẩn thận, rồi làm đúng những gì Người bảo bạn làm.

Với loạt bài xã luận và một số bài mở đầu cho quyển sách của tôi, những gì tôi đã làm cho đến nay chỉ ở dạng chữ viết. Thế còn bằng lời nói? Sau khi kết thúc chứng từ ứng khẩu tại câu lạc bộ Sertoma, một người bạn mời tôi đến nói chuyện tại lớp Trường Chúa nhật của Nhà thờ Methodist (Giám Lý) của anh, rồi các lớp Trường Chúa nhật khác cũng mời theo.

Tiếng đồn loan ra là tôi đã có một kinh nghiệm cá nhân mạnh mẽ lúc ở Mễ Du - đó là kinh nghiệm xác nhận Thiên Chúa đang hoạt động ở đó. Hơn nữa, cách tôi thuật chuyện đã tăng cường ý thức về Thiên Chúa nơi mọi người nghe, bất luận họ thuộc giáo phái nào. Tuy nhiên, vẫn là một cú sốc cho tôi khi sau đó, có người không kềm chế nổi cảm xúc, tiến đến nói với tôi rằng câu chuyện ấy đã làm họ xúc động sâu xa như thế nào. Tôi không ý thức mình đã nói điều gì đặc biệt: tôi chỉ kể lại cách đơn sơ, hết sức trung thực những xúc cảm nội tâm của chính mình.

Khi tôi bắt đầu nhận những lời mời của các Nhà thờ và các nhóm dân chính ở những nơi mỗi ngày một xa hơn, tôi bèn nhớ lại lời tiên tri của cha Scotti: Đây mới chỉ là khởi đầu... Điều đáng ngạc nhiên là phần lớn những lời mời đều đến từ những người Tin Lành, giống như tôi. Mễ Du không chỉ là một hiện tượng cho người Công giáo - mà là cho tất cả mọi người - là một sứ điệp tuyệt vời, mời gọi mọi người trở lại với Chúa Giêsu. Và điều này thì lây nhiễm tràn lan: sự kiện Thiên Chúa đang từ trời hạ cố và chen vào đời sống thường nhật của mọi người nam nữ ở thế kỷ 20 này, khiến ai cũng phải suy nghĩ lại. Nếu Thiên Chúa tỏ mình ra ở đấy, trong ngôi làng nhỏ bé vô danh đó, thì... tại sao lại không ở đây?

Khi ngày 9 tháng 9 đến gần, tôi luôn hi vọng Terri sẽ bắt đầu thấy nôn nóng ra đi. Trong khi đó, tôi lại rất hào hứng về một việc sẽ xảy ra tại Boston trước khi Terri trở về. Trung Tâm Hòa Bình sẽ đưa cha Tomislav Pervan, vị chủ chăn Nhà thờ Thánh Giacôbê qua Mỹ, để đi các nơi nói chuyện về Mễ Du trong vòng hai tháng, và họ bắt đầu bằng một ngày tĩnh tâm cuối tuần tại Boston - dành cho những người bạn của Mễ Du, những người coi việc loan báo sứ điệp là sứ mạng của mình. Tôi sung sướng quá vì được mời tham dự.

Cuối cùng, ngày khởi hành của Terri đã đến. Tôi cố gắng không tỏ vẻ quá phấn khởi, vì tâm trạng của nàng lúc ấy hầu như trái ngược lại, nhưng tôi cũng không thể hoàn toàn nén được niềm vui; tôi biết những gì đang chờ đợi nàng. Tôi cũng biết Trung Tâm Hòa Bình sẽ chăm sóc nàng. Và nhất là tôi biết nàng ở trong tay Thiên Chúa. Người sẽ làm cho cuộc hành hương này đầy ý nghĩa vô song đối với nàng.

Từ phi trường về, tôi đến thẳng văn phòng gặp cô thư ký Denease của tôi đang cuống cuồng. Bài xã luận thứ tám và cũng là bài cuối cùng trong loạt bài về Mễ Du đã được đăng ngay trước khi tôi đi Mễ Du lần thứ hai, và yêu cầu về bản sao cứ tiếp tục tăng lên. Denease nổi nóng: “Anh biết không, trước đây họ chỉ cần các bài họ chưa có, còn bây giờ họ cần cả tám bài để gửi cho bạn bè!”

Tôi phá lên cười - tuy biết làm thế là không đúng lúc. Cô nói tiếp, với cái nhìn làm tôi hết cười: “Anh có biết là phải tốn mất chín trang giấy để sao lại toàn bộ loạt bài ấy không? Anh có biết phải mất bao nhiêu thời gian không? Anh có biết máy sao chụp (photocopy) còn thọ được bao lâu không? Rồi có đến một nửa khách hàng quên kèm theo bao thư có ghi sẵn địa chỉ và dán tem!”

Tôi nói, cố giữ không cười nữa: “Bình tĩnh, bình tĩnh! Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề đó, tôi xin hứa như vậy. Hiện nay có bao nhiêu thư yêu cầu gởi đến?”

Cô có vẻ nhượng bộ khi thấy tôi coi vấn đề cô nêu ra là nghiêm túc: “Mỗi ngày có từ 15 đến 20 thư yêu cầu.”

- “Nhiều vậy hả?”

Cô gật đầu: “Tính tổng cộng, tôi đoán chúng ta đã gởi đi độ một ngàn rồi.”

- “Cô không đùa đấy chứ?”

Tôi không ngờ lại nhiều như vậy. Tôi đi vào văn phòng, đóng cửa lại - và nghĩ xem còn có cách nào để việc phân phối những bản sao được dễ dàng và bớt tốn kém. Tôi bỗng nhớ là chúng tôi còn sở hữu nhà in. Chúng tôi có thể in bất cứ cái gì chúng tôi cần... Vậy thì tại sao lại không in theo kích thước của loại báo khổ nhỏ, chỉ bằng nửa khổ tờ báo hằng ngày? Như vậy vừa rẻ, vừa dễ cầm, dễ gởi đi các nơi bằng tàu, máy bay; và tôi còn có thể thêm vào đấy một số hình ảnh từ mấy chuyến đi Mễ Du của tôi. Trước hết, chúng tôi sẽ in khoảng 3.000 bản và cũng dùng để phát trong những lần tôi nói chuyện tại các câu lạc bộ và Nhà thờ.

Suốt buổi sáng, tôi sửa chữa và cập nhật các bài xã luận, sắp xếp bản in. Xong, tôi gọi Denease vào, cho cô ấy biết tôi đã giải quyết vấn đề phân phối các bài báo. Cô rất sung sướng - cho đến khi tôi giao cho cô những bản đã sửa chữa để đem đi lên khuôn. Cô than thở: “Tôi sẽ mất hai, ba ngày.” Tôi chỉ mỉm cười; Denease có cái tật phóng đại hai, ba ngày - nhưng rồi cô thường ào ào thanh toán nó chỉ sau bốn, năm tiếng đồng hồ thôi. Trong vụ này, cô cũng làm y như vậy.

Trong thời gian đó, tôi viết lời dẫn nhập, kể ngắn gọn hoàn cảnh tôi đã can dự vào hiện tượng này và đã nghe tự trong tim một sứ điệp rõ rệt, bắt đầu bằng: “Con là con của Mẹ...” Suốt một thời gian dài, tôi đã do dự không muốn thuật lại câu này trên giấy trắng mực đen. Tôi đã không ngần ngại kể cho bạn bè, nôn nóng chia sẻ với những người hành hương khác. Nhưng viết nó ra cho người lạ đọc và đánh giá, lại là một việc khác. Thôi, cái thời của “tính khách quan nhà báo” đã qua lâu rồi. Nếu đây sẽ là tác phẩm của đời tôi, tôi sẽ phải kể lại một cách trung thực như nó đã xảy ra.

Khi việc lên khuôn đã xong, tôi trải từng tờ lên bàn và bắt đầu sắp xếp lại thành tờ báo. Vài ngày sau, việc in ấn hoàn tất. Denease khoái chí lắm; tờ báo mới khổ nhỏ, có tám trang, bỏ vừa vặn vào một phong bì giao dịch công việc và chỉ cần dán một con tem, thay vì hai.

Cao hứng, tôi gói 500 bản đem theo đi tĩnh tâm. Sơ Margaret trước đó có xin bản sao các bài xã luận cho Trung Tâm Hòa Bình, và biết đâu có nhiều người khác ở đó cũng cần đến nữa. Tất cả chúng tôi hẹn nhau tại phi trường Kennedy để có thể có mặt tại đó khi cha Pervan đến, và sau đó, tất cả sẽ lái xe đến nhà Ephrata House, một trung tâm tĩnh tâm cách Boston độ một tiếng đồng hồ lái xe.

Vẻ ngạc nhiên trên nét mặt cha Pervan khi nhìn thấy chúng tôi, làm cho mọi sắp xếp, tổ chức của chúng tôi trở nên rất đáng công. Thực sự, chúng tôi không đông lắm, nhưng những người có mặt đều thuộc thành phần nòng cốt. Có Stan và Marge Karminsky, một cặp vợ chồng ở Pennsylvania, là những người đã tự thu băng vidéo chuyến hành hương của họ ở Mễ Du, băng ấy đã được sang lại hằng ngàn bản và phân phối trên toàn thế giới; có Terry Colafrancesco, một nhà kinh doanh trẻ, người đã lập một trung tâm thông tin Mễ Du tên là “Caritas” tại Birmingham, Alabama; có sơ Margaret và nhiều thành viên khác của Trung Tâm Hòa Bình mà tôi đã gặp. Tổng cộng có khoảng 40 người đến từ mọi miền đất nước. Đó là những người đã dấn thân làm cho các sứ điệp của Mễ Du - xuất phát từ những cuộc hiện ra - được mọi người biết đến.

Trên đường đi tới Nhà Ephrata, có người trong xe hỏi tôi đã liên quan đến Mễ Du như thế nào - và tôi đã kể hết cho họ. Tôi chấm dứt đúng lúc xe tới nơi, và ngạc nhiên khi thấy có nhiều người chảy nước mắt.

Sáng hôm sau có nhiều cuộc chia sẻ hơn, sau khi John Hill nói về Trung Tâm Hòa Bình, và về chuyến đi sắp tới của cha Pervan. Lại thêm nhiều nước mắt nữa, bởi Thiên Chúa đang kéo chúng tôi gần lại với nhau. Sung sướng biết bao khi được ở với những người cùng một ơn gọi và cũng đã trải qua nhiều thử thách.

Trong bữa ăn tối hôm ấy, ai đó đã đặt một cái bàn, bày ra nhiều sách, phần lớn rất quen thuộc với tất cả chúng tôi. Tôi hỏi họ có thể cho tôi để bài báo của tôi ra đấy không, họ đều nói là tất nhiên. Chỉ trong nửa giờ, chúng được hốt trọn không còn một tờ. Lúc ấy, tôi gặp Peter Crary, một luật gia ở Fargo, Bắc Dakota. Ông này, cũng giống như John Hill, chưa bao giờ đến Mễ Du, mặc dù hoàn toàn khẳng định giá trị và tầm quan trọng của hiện tượng này. Ông rất xúc động, vì một người Tin Lành Lutêrô lại quá tha thiết với những cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria. Ông rút trong ví ra tờ một trăm đô đưa cho tôi, rồi nói: “Khi nào anh về nhà, ráng gởi cho tôi một số bản vừa với số tiền này.”

- “Trời ơi, khoan đã Peter! Mấy cái này tôi không bán, tôi biếu không. Chỉ cần nói anh muốn bao nhiêu, tôi sẽ gởi liền cho anh.”

Ông ấy lắc đầu: “Anh không hiểu đâu. Tôi có nhiều bạn Lutêrô ngoài đó, và cho tới bây giờ, những gì mà tôi nói hoặc làm liên quan đến Mễ Du, họ đều không quan tâm. Nhưng tôi linh cảm mạnh mẽ là cái này sẽ làm được. Nào, bây giờ tôi có thể có bao nhiêu bản?”

Tôi phỏng chừng tiền in và tiền cước gởi đi khoảng 25 đô cho một ngàn bản, và tôi hứa sẽ gởi cho ông ấy 4.000 bản ngay khi nó được tái bản.

Nghe chúng tôi dàn xếp như vậy, một bà ở Michigan nói bà cũng muốn 4.000 bản và Terry Colafrancesco đặt in 2.000 bản cho Caritas. Tôi sửng sốt. Tôi chẳng cần cố gắng gì hết mà đột nhiên người ta đặt cả 10.000 bản!

Nhưng không còn giờ để chăm chú vào chuyện này, vì Terri đi hành hương (Mễ Du) sắp về rồi. Mong ước nàng bước ra khỏi máy bay về nhà với cùng một tâm tình như tôi trước đây thì hơi quá đáng, tuy nhiên, tôi vẫn thầm hi vọng.

Hi vọng của tôi buộc phải gác lại để chờ. Terri đã sống một kỳ hành hương Mễ Du khởi đầu đáng ghi nhớ, nhưng việc đó không đảo lộn cuộc sống của nàng như đã xảy ra nơi tôi. Nàng vui vì đã đi, và tỏ ra có lẽ sẽ đi lại - nhưng không phải ngay bây giờ. Rồi nàng nói một điều, khiến mọi nỗ lực của tôi để nàng chịu đến đó trở thành xứng đáng: “Khi em ở đó rồi, em quên mất anh, quên cả con cái, quên luôn cả đường về, địa chỉ. Đây là lần đầu tiên trong đời em, lòng yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự đã nên như mục tiêu duy nhất cuộc đời, đã trở thành thực tại.”

Khi Terri hết mệt mỏi vì chuyến bay và đến văn phòng, Denease đưa nàng xem một bản sao những bài xã luận in dưới dạng báo khổ nhỏ, hai người liền đi vào văn phòng tôi, Terri dẫn đầu.

Terri la lên, với một cái cười trêu chọc: “Anh in 3.000 cái này đó hả? Để làm gì vậy?”

- “Em không thích sao?”

- “À, báo này làm có vẻ đẹp đó, nhưng anh chỉ cần in 500 tờ thôi cũng đủ để phát hành hai năm mới hết, và chúng sẽ được người ta dùng để lót lồng chim hoặc thùng rác cho khắp vùng này!”

Nàng cười vang, cả Denease đứng phía sau cũng thế: “Em không ngờ anh lại in nhiều như vậy!”

Tôi nói: “Được, trước khi để cho hai người cười bể bụng, tôi xin báo là người ta đã đặt tôi in 10.000 bản rồi!” Thế là họ hết cười.

Terri hỏi: “Ai đặt 10.000 bản?” Và tôi đã nói đầu đuôi cho họ nghe. Trong một lúc, họ chỉ biết đứng đó, không nói được lời nào. Rồi Terri thừa nhận như vậy tốt quá và nói thêm: “Nhưng không cách nào anh in được với giá 25 đô cho 1.000 bản.”

Tôi thở dài, điều này thì nàng hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, đó là con số tôi đã hứa với họ, nên chúng tôi quyết định cứ giữ cái giá đó, để xem sao.

Chúng tôi in 10.000 bản, và thêm một tờ phụ trương thông báo giá báo: 25 đô cho 1.000 bản, 15 đô cho 500, v.v... rồi gởi đi. Chẳng bao lâu, chúng tôi bắt đầu nhận đơn đặt mua hằng chục, hằng năm chục rồi hàng trăm... Rồi Peter Crary gọi tôi: “Anh có thể gởi cho tôi thêm 5.000 bản nữa không? Tôi đã chuyển tiền cho anh rồi.”

- “Peter, anh có mất trí không? Anh làm gì với ngần ấy tờ?”

- “Ở ngoài này, người ta từ khắp nơi cứ hỏi xin tôi, mà tôi hầu như chẳng còn tờ nào!”

Tôi không tin nổi. Ít lâu sau, Terry Colafrancesco gọi điện và đặt mua thêm 10.000 bản nữa. Giá bán vẫn giữ nguyên 25 đô/1.000 bản, và khi Terri thấy tôi tái bản đợt thứ hai mà không tăng giá, nàng bắt đầu lo: “Với giá đó thì chúng ta sẽ bán hết quần áo đi để trang trải!” Nàng nói đúng: chúng tôi đã lỗ hằng ngàn đô. Nhưng tôi cóc cần, cả Terri cũng thế, thật vậy. Như nàng nói, đó là một cách đền đáp lại bao nhiêu điều tốt đẹp đã xảy đến cho chúng tôi suốt 11 tháng qua. Chúng tôi đã bán được báo, còn việc kinh doanh nhà in vẫn đem lại lợi nhuận. Quả là chúng tôi chẳng có gì nhiều để than phiền.

Nhưng chúng tôi biết mình không thể tiếp tục mãi như thế: nếu thư đặt mua báo cứ tăng đều, chúng tôi buộc lòng phải tăng giá. Cuối cùng, đến khi tái bản lần thứ ba, chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi tăng giá đến cái mức mà nếu số lượng in đủ lớn và đều đặn, chúng tôi có thể hòa vốn. Terri nói: “Thế này, nếu chúng ta phát hành báo này như một loại phi lợi nhuận, thì ta cũng có thể điều hành nó như một tổ chức phi lợi nhuận.” Thế là Công Ty Những Bài Xã Luận Của Weible (Weible Columns, Inc.) nộp đơn xin chứng nhận tư cách doanh nghiệp phi lợi nhuận.

Thế rồi, chuyện kỳ lạ bắt đầu xảy ra: người ta bắt đầu gởi tiền đến hơn giá ấn định. Một số người đặt mua 1.000 bản, nhưng gởi đến cho chúng tôi 100 đô và yêu cầu dùng tiền còn dư cho những gì cần thiết nhất. Tôi lại nhận được thư của một người trông coi một trạm bảo dưỡng thực vật tại Spokane, kèm theo một ngân phiếu 500 đô. Ông muốn đặt mua chỉ 7.000 bản; phần tiền còn dư ông có ý đóng góp vào việc in ấn, để có thể tặng báo cho những người không có điều kiện mua. Sững sờ, tôi viết thư bày tỏ lòng biết ơn của tôi về món quà này.

Tuần sau, ông điện thoại cho tôi: “Ông đã gởi cho tôi 7.000 cái tờ đó!”

- “Vâng, tôi biết.”

- “Nhưng tôi chỉ đặt mua có 700 thôi!”

- “Xin ông đợi một lát!” tôi nói và rút lá thư của ông ấy từ ngăn kéo ra. “Thưa ông, tôi xin lỗi, nhưng ông thực sự đã đặt 7.000 bản.”

- “Thật hả? Lạy trời, tôi sẽ làm gì với 7.000 bản đó?”

Tôi cười đáp: “Bây giờ, tôi tin đến độ tôi cho là không có gì ngạc nhiên hay tình cờ xảy đến nữa. Rõ ràng là Chúa định cho ông có số báo nhiều gấp mười lần số mà ông tưởng mình cần. Ông đừng lo, Chúa sẽ chỉ cho ông cách sử dụng.” Và Chúa đã làm như thế thật.

Rồi tôi lại nhận thư của một bà ở California đặt mua 500 bản và trả 1.000 đô. Tôi biên thư hồi âm: “Thưa bà, tôi muốn cho bà biết rõ bà đang làm gì. Nếu đó là một quà tặng, tôi xin hết lòng cám ơn bà, nhưng tôi vẫn muốn được biết chắc chắn.” Đó là một quà tặng. Khi tôi biết ra thì tất cả số tiền chúng tôi bị lỗ đều đã được đền bù.

Trong thời gian đó, thư đặt mua báo cứ đến tới tấp, kèm thêm nhiều lá thư riêng tư tâm sự với chúng tôi. Hiển nhiên là Chúa Thánh Linh đang sử dụng những bài xã luận như một dụng cụ, để lay động nhiều con tim và thay đổi nhiều cuộc đời. Tôi bị xúc động sâu xa bởi những lá thư bắt đầu bằng:

“Chính khi tôi đọc câu ‘Con là con Mẹ’ mà hồn tôi đã bị lay động. Và tôi hiểu ngay là tôi sẽ̃ phải đọc các bài xã luận của ông - và nó đã thay đổi đời tôi biết bao!”

Đọc xong những lá thư ấy, tôi chỉ còn biết lắc đầu: thế mà tôi đã từng ngần ngại đề cập đến sứ điệp của Người, chỉ vì sợ người ta cho mình là thằng điên.

Người ta gửi thư tới cho biết các bài xã luận là một cách tốt nhất để thông tin cho người ta về Mễ Du - dễ đọc và dễ thấm hơn một cuốn sách, mà lại dễ hiểu, đủ để có thể kể lại câu chuyện cho người khác. Cho tới lúc tôi chuẩn bị trở lại Mễ Du vào tháng 11, chúng tôi đã gởi đi 40.000 bản, một con số khó tin!

Terri nói chúng tôi có thể đạt đến con số 150.000 bản, nhưng trong thâm tâm tôi lạc quan hơn nhiều: tôi dám mơ đến con số một triệu.

hoanghac
05-26-2013, 03:33 AM
“Các con đã quên rằng bằng lời cầu nguyện, các con có thể chận đứng chiến tranh và thay đổi luật thiên nhiên...”
Chương 21

CHUYỆN CỦA RITA

Nhiều điều kỳ diệu đã xảy ra tại Nhà (tĩnh tâm) Ephrata. Việc cha Pervan có thể đi khắp nước Mỹ, để mang sứ điệp Mễ Du đến mọi ngõ ngách của đất nước này là một hồng ân lớn lao. Đây cũng là một dịp giúp ngài hiểu những người Mỹ lì lợm này, giờ đây đang lũ lượt hằng ngàn người kéo đến cái làng nhỏ bé ấy. Buổi tĩnh tâm cũng đánh dấu lần đầu tiên, những người lo việc truyền bá sứ điệp Mễ Du họp nhau lại để chia sẻ kinh nghiệm và ý kiến, đồng thời tung ra các bài xã luận như một dụng cụ loan truyền sứ điệp. Nhưng biến cố đáng ghi nhớ nhất là chứng từ mạnh mẽ của Rita Klaus, một nữ giáo viên tiểu học ở Evans City, bang Pennsylvania, một thị trấn nhỏ gần Pittsburgh. Chuyện của Rita là tiết mục cuối cùng của chương trình - và đó đúng là chỗ của nó, vì không gì có thể tiếp theo nó được.

Khi chị bắt đầu kể lại những biến cố đã dẫn đến sự có mặt của chị ở buổi tĩnh tâm, chúng tôi ngồi đó nghe đờ đẫn, say mê. Quả thật, cô Ann Debeats, người phụ nữ trẻ tuổi, năng động đang điều hành Trung Tâm Hòa Bình giúp John Hill, và đang phục vụ như người hướng dẫn buỗi tĩnh tâm, đã dọn thứ rượu hạng nhất vào cuối buổi tiệc bằng chứng từ ấy:

“Mễ Du đối với tôi rất mới mẻ. Thật vậy, mãi đến tháng 2 năm nay tôi mới nghe nói đến. Tôi đọc nó trong bản Niên Giám Công giáo quốc gia (National Catholic Register) và rất quan tâm. Sau đó không lâu, tôi đặt mua một quyển sách có tựa đề: “Đức Trinh Nữ Maria có thật đang hiện ra tại Mễ Du không?” của tác giả (linh mục) René Laurentin. Tôi đọc và tin ngay. Tôi bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn và ăn chay, cũng như yêu cầu con cái tôi lần hạt Mân Côi. Nhưng kể chuyện như vậy là tôi đang đốt giai đoạn.

Đã ba tháng nay, tôi bị chứng đa xơ cứng. Tôi mắc bệnh này đã hơn 25 năm. Theo chẩn đoán của bác sĩ, tôi mắc bệnh này khi mới 20 tuổi. Thật khó mà chấp nhận. Dĩ nhiên là tôi tìm mọi cách để phủ nhận nó, vì tôi không chấp nhận được. Mãi cho đến khi cơn bệnh phát triển, tôi mới nhận ra vấn đề. Cuộc sống tôi đang bị hủy hoại, tôi thất vọng và rất tức giận trong lòng - và cảm thấy bị tổn thương nữa. Tuy vậy, tôi vẫn muốn tuân theo ý Chúa.

Khoảng 5 năm nay, một người bạn mời tôi đến dự một buổi cầu nguyện chữa lành, nhưng vì tôi không tham gia Phong trào Canh tân đặc sủng, nên tôi thoái thác không đi. Nhưng bạn tôi vẫn giữ thái độ khăng khăng, không cho tôi từ chối; chồng tôi thì bảo là tôi đã làm đủ cách để chữa trị, còn việc này, nếu đi thì có làm hại gì đâu?

Buổi cầu nguyện bắt đầu bằng chuỗi Mân Côi, kể ra như vậy cũng không tồi. Tôi đang ngồi trên một ghế dài để phía cuối Nhà thờ, đến khi đoàn linh mục đi vào, tôi cảm thấy có người chụp lấy tôi từ phía sau. Lúc đầu, tôi khó chịu lắm, bởi vì tôi đã quyết định sẽ không tự nguyện đi lên phía trước để xin (đặt tay trên tôi) cầu nguyện đặc biệt hay làm bất cứ việc gì khác. Thế rồi, một điều kỳ lạ xảy ra: tôi cảm thấy một sự bình an tuyệt vời bao phủ tôi. Như thể là tất cả mọi nỗi bất hạnh của những năm đau đớn vì bệnh tật bỗng nhiên biến mất.

Trở về nhà chiều hôm đó, tôi cam kết sẽ cải thiện đời sống thiêng liêng của tôi. Từ trước cho đến lúc bấy giờ, tôi còn nhiều ác cảm đối với Giáo Hội Công giáo. Tuy tôi vẫn tiếp tục đi Lễ, nhưng chỉ đi chiếu lệ. Bây giờ, tôi muốn bù lại những thiếu sót đó. Tôi kể lại những gì đã xảy ra nơi tôi cho vị chủ chăn của tôi và xin ngài cầu nguyện để tôi được tiếp tục sống trong bình an.

Vào cuối năm đó - tứ chi tôi đều bị liệt. Sự cố này dĩ nhiên làm tôi rất thất vọng, vì nghề của tôi là giáo viên, và vì sự bận rộn của việc nội trợ sẽ trút lên chồng con tôi. Nhưng tôi ở trong một giáo xứ tốt đạo đẹp đời. Hàng xóm chở tôi đến trường, chồng tôi lau nhà, còn bọn trẻ con tôi làm phụ những việc chúng làm được.

Trong thời gian đó, hai chân tôi bị biến dạng nặng nề, xương bắt đầu cong. Đầu gối chân phải hoàn toàn bị trệch đi do chứng rối loạn trương lực cơ gây ra, xương bánh chè bị dời chỗ và chạy vào giữa bắp chân. Và tôi không còn cảm giác gì nữa.

Đến mức độ này, tôi buộc phải đi bệnh viện phục hồi chức năng. Đã đến lúc tôi phải đối mặt với sự thật tôi là một người tàn tật - và bắt đầu cuộc sống trên chiếc xe lăn. Chồng tôi có thể chấp nhận cho tôi dùng nạng chống và dụng cụ chỉnh hình, nhưng không chịu nổi chiếc xe lăn. Tuy vậy, hai chúng tôi vẫn phải đối mặt và sống chung với nó. Chúng tôi thích sống ngoài trời và đi cắm trại. Nhưng căn bệnh đã cản trở thú vui này rất nhiều.

Nhưng lại có nhiều điều may mắn xảy đến. Nhiều người ghé qua giúp đỡ tôi, và Nhà Nước tốn cả ngàn đô ráp máy móc tại trường tôi đang dạy và cả trong nhà tôi nữa.

Như tôi đã nói trên kia, tôi có gởi mua sách nói về Mễ Du, sách đó đã làm tôi rất cảm động, và tôi đã kể cho chồng tôi việc ấy, nhưng anh không phải là Công giáo - anh là Tin Lành Lutêrô; nên chuyện đó không ảnh hưởng gì trên anh. Dù sao, chúng tôi cố gắng cải thiện đời sống của chúng tôi, và riêng tôi, tôi dành thêm một giờ mỗi ngày để nguyện ngắm.

Thế rồi, vào một đêm trong tháng 6 năm nay, khi tôi đang nằm lần hạt trong giường, tôi nghe có tiếng nói: “Tại sao con không xin?” Tôi cũng không hiểu tại sao, vì chưa bao giờ tôi xin được chữa lành. Tôi chỉ biết chấp nhận sự tàn phế của mình. Nhưng tiếng ấy vẫn vọng đến bên tai khi tôi đang nằm đây. Vì vậy, tôi liền hết lòng cầu nguyện với Đức Mẹ xin Chúa Giêsu chữa lành những gì tôi cần được chữa lành. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy một cảm giác phấn khởi xâm chiếm toàn thân tôi, và tôi không nhớ gì nữa vì ngủ thiếp đi.

Khi thức dậy sáng hôm sau, tôi không nghĩ về việc xảy ra đêm hôm trước. Tôi chuẩn bị đi dự lớp học Kinh Thánh tại một trường trung học gần nhà. Chồng tôi giúp tôi ngồi vào chiếc xe tải nhẹ của gia đình tôi, vốn đã được trang bị cần điều khiển bằng tay cho tôi, và đưa chiếc xe lăn lên xe như anh vẫn làm. Khi đến trường, luôn có sẵn người giúp tôi đi vào lớp học.

Tôi không để ý có gì bất thường ngay lúc ấy. Khi đang ngồi học với tất cả lớp, bỗng nhiên, tôi cảm thấy nóng ran ở hai bàn chân và bắp chân với sự ngứa ngáy dữ dội. Nhưng không thể nào chuyện ấy xảy ra được, vì hai bàn chân và bắp chân của tôi đã bị mất cảm giác từ nhiều năm. Thế rồi tôi nhìn xuống đôi chân, không những chúng ngứa, mà mấy ngón chân còn động đậy nữa! Tôi chết lặng đi.

Tôi không nhớ gì về lớp học, thật ra, tôi cũng chẳng nhớ lúc ra về và lúc ngồi vào xe như thế nào. Tôi chỉ muốn một điều duy nhất là về nhà và kể lại cho gia đình những gì đã xảy ra cho tôi.

Khi về đến nơi, tôi nhớ lúc ấy chẳng có ai ở nhà. Hồi sớm, tôi đã than phiền nhà hết dâu tây để ăn, nên yêu cầu ai đó có thời giờ, ghé qua vườn dâu hái cho tôi một ít. Vậy chắc là người nhà tôi đã đi kiếm trái cây, và chưa trở về đúng giờ để đưa tôi vào nhà. Họ lo để sẵn cặp nạng của tôi ở cuối ba bậc cấp dẫn vào nhà. Thỉnh thoảng, khi cần, tôi đi bằng cặp nạng vào nhà, nhưng khó khăn lắm.

Rồi, tôi ngồi lại trong xe đợi khoảng 15 phút. Tôi đã rất chán nản, vì tôi nôn nóng muốn nói với họ về việc mới xảy ra. Hơn nữa, tôi cần phải đi toa lét. Bệnh liệt của tôi gây thêm trục trặc ở bàng quang, vả lại tôi đã phải ngồi trong lớp học cả buổi sáng..., nên tôi cần phải đi toa lét ngay lập tức!

Tôi ráng lết ra khỏi xe và nắm lấy cặp nạng mà anh Ray, chồng tôi, đã để sẵn cho tôi lấy. Dù vậy, tôi không sao nhấc chân lên nổi bởi khối lượng nặng nề của mấy dụng cụ chỉnh hình đang mang. Tôi đứng đấy ít phút, rồi nghĩ nếu tôi có cảm giác ở chân, thì tôi cũng có thể nhấc chân lên được. Tôi liền thử, và tôi cất bước lên các bậc thềm không khó khăn gì hết. Tim tôi đập như muốn vỡ tung ra.

Khi đã vào nhà, tôi đi vào phòng ngủ của tôi ở tầng dưới, dựa vào thành giường để tháo nẹp chân, rồi nhìn xuống cặp chân của tôi. Tôi tưởng là nó dị dạng lắm, thế nên tôi cứ nhìn đi nhìn lại, và cuối cùng tôi bàng hoàng nhận ra là chân phải của tôi hoàn toàn thẳng! Trước kia, tôi đã qua hai lần giải phẫu để nắn chân lại cho thẳng, nhưng đều không thành công. Thực ra, lần cuối cùng, các bác sĩ đã mổ để giải tỏa xương bánh chè, hầu nó đi theo phần còn lại của đầu gối. Họ nói rằng khả năng họ chỉ đến đó thôi. Chứng rối loạn trương lực cơ trong nhiều năm khiến chân tôi bị vẹo ra ngoài rất nặng.

Bây giờ, khi tôi nhìn, chân tôi thẳng băng. Cái xương bánh chè trở lại chỗ bình thường của nó. Đôi chân tôi đã hoàn toàn bình phục!

Mừng quá sức, tôi hoàn toàn điên đầu và la to lên là chân tôi đã thẳng rồi. Tôi cứ luôn miệng: “Cám ơn Đức Mẹ! Tạ ơn Chúa Giêsu!” Dầu vậy, tôi vẫn chưa chắc hẳn là tôi đã được chữa lành. Người tôi run rẩy, tôi tháo nẹp ra và đứng hẳn lên một mình - lần thứ nhất không cần ai giúp đỡ sau nhiều năm bại liệt. Tôi lại nhìn xuống cặp chân: tưởng chừng như chúng là của ai đấy! Sau hết, tôi vô cùng bàng hoàng vì một điều kỳ diệu đã xảy đến cho tôi.

Tôi bước xuống hành lang, đi xuống hàng lang với cặp nạng dưới nách. Khi đến cuối bậc thang, tôi nghĩ: Được rồi, nếu tôi được chữa lành thật sự, thì tôi có thể chạy lên cầu thang được. Thế là tôi ném cặp nạng xuống đất và chạy lên rồi chạy xuống cầu thang. Tôi cứ luôn miệng la lên: “Tạ ơn Chúa!” Tôi như người bệnh tâm thần, vừa khóc vừa cười... Thật là quá bất ngờ cho tôi! Tôi tưởng mình cũng giống Thánh Phaolô bị cú sốc làm ngã ngựa.

Cuối cùng, khi đã bình tĩnh đôi chút, tôi quyết định nói chuyện với một ai đó, nên tôi gọi điện thoại cho cha xứ của tôi. Nhưng tôi lại cứ bấm số điện thoại của nhà mình. Đến khi liên lạc được với ngài rồi, tôi nói: “Cha Bergman ơi, con lành bệnh rồi! Con lành rồi! Con không còn bị bệnh liệt nữa!” Ngài trả lời: “Ai đầu dây đó?” Tôi đáp: “Rita đây cha! Con khoẻ rồi. Cha không hiểu đâu, con lành rồi!” Rồi, sau một lát im lặng, cha nói: “Này Rita, cha xin con ngồi xuống, uống vài viên aspirine, rồi gọi bác sĩ. Hãy hứa làm theo lời cha nhé!”

Tôi không biết nói gì hơn, đành cúp máy, rồi gọi cho một người bạn thân đang dạy ở trường Gregory. Chị ấy nhận ra tiếng tôi, nhưng vì giọng tôi hơi khác thường, nên chị ấy tưởng đã có sự cố khủng khiếp nào xảy đến cho tôi. Chị lái xe như bay đến nhà, mà đó là cả một kỳ công, vì nhà chúng tôi ở miền quê. Tôi còn nhớ khi chị ấy đến, tôi đang đứng giữa phòng khách, nhảy lên nhảy xuống. Và khi nhận ra điều gì đang xảy ra, cả hai chúng tôi cùng nhảy lên nhảy xuống.

Bạn tôi giúp tôi bình tĩnh lại, và nói chúng tôi cần phải tìm gia đình để kể cho họ biết, vì vậy chúng tôi tới trại dâu tây. Vì phải đi ngang qua Nhà xứ, chúng tôi quyết định ghé lại và cho cha xứ xem tôi đã được chữa lành. Lúc ấy, cha đang ở trong phòng làm việc, và khi trông thấy tôi đứng trước mặt ngài, ngài bàng hoàng chợt hiểu ra sự việc. Cha chỉ biết đăm đăm nhìn tôi, và luôn miệng: “Này Rita, con ngồi xuống đây đi, con đã không sử dụng mấy cơ bắp này từ lâu!” Tôi nói với cha tôi rất khoẻ và cảm thấy như đang trở lại tuổi 17.

Rồi chúng tôi đi tới nông trại, nhưng khi đến nơi thì gia đình tôi đã đi về, thế nên chúng tôi lại phải quay về nhà. Về đến nhà, bạn tôi chạy vào để gọi chồng tôi, anh chạy ra, mặt tái nhợt như tờ giấy. Anh ấy nghĩ chắc đã có chuyện xảy ra, vì chiếc xe con của tôi còn ở đó, còn nạng và nẹp thì vứt tứ tung trong nhà, và chắc là xe cứu thương đã đến mang tôi đi bệnh viện.

Tôi nhảy ra khỏi xe và chạy đến với anh. Đứa con gái lớn của tôi chỉ đứng đấy khóc, lặng người đi vì quá nghẹn ngào. Cháu mới 12 tuổi, và hai cháu gái khác, một đứa lên mười và một đứa lên bảy. Từ nhỏ, chúng chỉ luôn thấy tôi là một người tàn tật.

Thật là... một cảnh tượng khó diễn tả: đứa lớn khóc, đứa giữa chỉ đứng đấy miệng há hốc, còn đứa bé nhất nói: “Ôi, sướng quá, bây giờ mình không phải dọn dẹp nhà cửa nữa!” Rồi nó nói tiếp: “Mẹ coi kỳ quá!”

Sau một hồi, tất cả chúng tôi đã bình tĩnh lại và định gọi điện cho bác sĩ của tôi. Ngờ đâu, ông ấy đi chơi gôn rồi. Hôm sau, tôi trở lại lớp học Kinh Thánh, nhưng tôi không biết phải làm sao với các bạn trong lớp. Nếu tôi nói ra, chắc chắn cả lớp sẽ loạn lên, vì vậy tôi quyết định đi vào lớp bằng xe lăn. Tôi thấy hết sức khó chịu khi phải ngồi xe lăn, trong khi mình đã được khỏi bệnh. Sau đó, khi tôi về nhà, chúng tôi đã có thể liên lạc được với bác sĩ của tôi.

Chúng tôi kể hết cho ông nghe, ông ấy vẫn cứ nói: “Chuyện đó không thể có được, không thể xảy ra được. Không thể được!” Ông hỏi chồng tôi xem tôi có đi được không, chồng tôi đáp: “Không, cô ấy không đi, mà lại chạy!” Bác sĩ yêu cầu chúng tôi đến bệnh viện ngay.

Khi chúng tôi đến nơi, tất cả mọi nhân viên đang chờ. Tôi đã đến đó cách nay vài tuần. Họ đều sửng sốt. Bác sĩ của tôi cho đó là một trò đùa, nói tôi là chị em sinh đôi của Rita. Ông liền làm nhiều xét nghiệm thần kinh cho tôi và thấy mọi sự trong tôi đều hoàn hảo. Sau nhiều xét nghiệm mệt nhoài, ông chỉ còn biết ôm tôi mà khóc, rồi hỏi tôi đã làm những gì. Tôi trả lời là tôi chỉ có cầu xin. Bao nhiêu lần? Một lần thôi, nhưng nhiều người đã cầu nguyện cho tôi nhiều năm qua. Rồi ông hỏi tôi đã xài hết những lời cầu nguyện ấy chưa, bây giờ còn dư chút nào cho ông không? Thật là tuyệt vời!

Từ khi tôi được chữa lành, nhiều điều trong đời tôi đã thay đổi. Tôi làm chứng về quyền năng của Chúa cho những bệnh nhân khác và cho các nhóm cầu nguyện. Tôi cầu nguyện rất nhiều với Chúa Giêsu và Mẹ Rất Thánh của Ngài. Tôi chỉ xin các bạn cầu nguyện cho tôi biết làm thật tốt những gì tôi phải làm. Xin cám ơn và xin Chúa chúc lành cho các bạn!...”

* * *


Chúng tôi ngồi đấy, kinh ngạc, bất động - rồi sau đó, một tràng pháo tay nổi lên như sấm. Câu chuyện của Rita là điểm kết thúc của một kỳ cuối tuần tĩnh tâm thiêng liêng đầy dẫy những chuyện khó tin.

Nhưng không phải chỉ có câu chuyện của Rita liên kết tôi với chị. Tôi đã cảm thấy rất thân thiết với chị ấy. Chị ruột của tôi là Lola cũng bị chứng đa xơ cứng. Tôi đã giới thiệu với chị tôi về sự kiện Mễ Du và để cho chị tự quyết định nên tin vào sự xác thực của nó hay không. Ban đầu, chị tôi hơi ngập ngừng do dự, vì chị cũng là tín đồ Tin Lành Lutêrô. Nhưng sau khi đã đọc nhiều tài liệu, xem băng vidéo, và nghe tôi kể chuyện của chính tôi thì chị đã tin.

Bây giờ tôi phải gấp gấp kể lại cho chị Lola về Rita và sự khỏi bệnh của chị ấy - cũng như phải kể cho Rita về Lola. Ngay khi chen qua đám đông đang vây quanh Rita, chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện. Tôi nói: “Tôi nghĩ nếu Lola có được một tấm ảnh của chị để minh họa câu chuyện, chắc hẳn Lola sẽ tin hơn và hi vọng hơn.” Thế là Rita để tôi chụp một tấm riêng cô, và một tấm chung với tôi.

Khi giã từ và cám ơn chị, tôi biết thế nào tôi cũng sẽ gặp lại Rita Claus.

hoanghac
07-27-2013, 03:39 AM
“Mẹ ước mong mỗi người trong các con đều trở nên thánh thiện...”
Chương 22

HÃY HOÀN TẤT NHỮNG GÌ CON ĐÃ BẮT ĐẦU

Lịch công tác của tôi đã nhanh chóng bị phủ kín với những buổi nói chuyện trong và ngoài vùng Myrtle Beach, và những bài xã luận về Mễ Du ngày càng được đặt mua nhiều hơn. Jim và Rosie Stoffel đã trở thành hai người bạn tuyệt vời, và họ đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong bước đường thiêng liêng của tôi. Nhiều lần, tôi đã có thể giúp Jim chiếu phim vidéo của Trung Tâm Hòa Bình, còn Rosie là một nguồn cảm hứng đặc biệt. Cô đã nhiều năm chống chọi với bệnh ung thư cổ họng, nhưng vẫn luôn tỏ ra hăng say và lạc quan. Vợ chồng anh chị Stoffel đã vài lần tham dự các Thánh Lễ cầu nguyện chữa lành, nhưng như vẫn thường thấy, sự chữa lành thật là sự chữa lành về mặt thiêng liêng - cho cả hai người. Và nhờ vậy họ đã sống được một cuộc sống như bình thường.

Nhưng đâu phải tất cả đều là một thảm hoa hồng? Tôi bắt đầu thấy việc viết một quyển sách có thể khó khăn như thế nào. Nó đòi hỏi bao nhiêu ngày giờ để sắp đặt tư liệu và phác họa đại cương của đề án, rồi mới đến lúc ngồi xuống, đặt bút viết tư tưởng ra giấy.

Thực sự, tôi muốn viết quyển sách này. Nhiều sách đã được viết rồi, nhưng hầu hết các tác giả là các linh mục Công giáo, và chỉ kể lại sự kiện của những ngày đầu tiên và cố gắng giải thích ý nghĩa theo quan điểm thần học; cho đến nay, chưa có một ai viết về những điều xảy ra cho một người đã đến Mễ Du, được trông thấy, được cảm nghiệm và được trở lại với Thiên Chúa một cách toàn diện. Đó chính là điều tôi muốn viết ra.

Nhưng khi nhiều ngày đã trôi qua mà tôi chỉ biết ngồi nhìn sững vào trang giấy trắng trên máy chữ, sự hoài nghi bắt đầu tấn công tôi, từng đợt như sóng. Làm sao mà một người Tin Lành Lutêrô - dù giờ đây đã dấn thân một cách sâu xa và đầy xúc động - lại có thể viết một cách khách quan về một hiện tượng tôn giáo vượt trên tự nhiên, vốn rất ăn sâu vào lịch sử và truyền thống Công giáo? Tại sao giới truyền thông trong cả nước lại cố tình phớt lờ trước một chuyện quan trọng như vậy? Và quan trọng nhất là ai sẽ thật sự tin rằng chính cá nhân tôi đã nhận được một sứ điệp từ Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc?

Đột nhiên, toàn bộ sự việc của tôi xem ra quá khó tin đối với ai xem xét cách nghiêm túc. Tôi cố phục hồi lại sự nồng nhiệt mà tôi từng cảm thấy một lần, nhưng trạng thái hớn hở, chất ngất của toàn bộ kinh nghiệm nay đã giảm đi, và chỉ còn lại sự ngờ vực và thiếu tự tin. Những ngày tôi dành để bắt đầu viết sách biến thành những tuần lễ chẳng làm được gì, khi tôi cứ càng lúc càng viện lý do không có giờ viết, vì những lời mời diễn thuyết đang tới dồn dập.

Tôi không phủ nhận bất cứ những gì đã xảy đến cho tôi: tâm tình hối cải và đổi mới vẫn còn đó. Nhưng khi số lượng bản sao các bài xã luận được in lại ngày càng nhiều và bắt đầu lan đến nhiều tiểu bang khác, thì tôi cũng bắt đầu tin rằng có lẽ chúng mới chính là “quyển sách” mà tôi đã cảm thấy hết sức thôi thúc phải viết ra.

Vào khoảng cuối tháng mười, sự tê liệt của tôi trước máy đánh chữ đã đến mức tuyệt vọng. Rồi một buổi sáng, khi tôi ngồi trong văn phòng, cố động viên mình, tôi cầm lấy quyển Kinh Thánh tôi vẫn để trong văn phòng. Tôi nhìn quyển sách một hồi rồi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin chỉ cho con biết phải làm gì.” - và mở ra hú họa một trang. Mắt tôi nhìn nhằm câu 10, đoạn 8, thư thứ hai gởi giáo đoàn Corintô:

“Về điều này, tôi xin đưa ra một ý kiến. Ý kiến đó thích hợp với anh em, vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái. Vậy nay anh em hãy hoàn thành công cuộc đó...”

Tôi ngồi đó lâu - lâu lắm, cơ thể tôi run lẩy bẩy. Cái cách đơn giản và trực tiếp mà Chúa dùng để nói với chúng ta làm tôi vừa sợ hãi vừa tôn kính. Sự hăng say và tin tưởng đã trở lại, chúng che lấp mọi nghi ngờ. Tôi thầm thì: “Con tạ ơn Chúa!” rồi lo chuẩn bị trở lại Mễ Du vào tháng 11, và bắt tay vào công việc viết sách với tất cả sự nghiêm túc.

Cho đến lúc bước lên máy bay ở New York, tôi đã khá chắc chắn về những gì cần phải làm. Trước hết, tôi sẽ phỏng vấn càng nhiều thị nhân càng tốt, và việc này tôi cần nhờ cha Svet hỗ trợ. Tôi đã có lần xin ông giới thiệu tôi với các em và giúp làm thông ngôn. Dù hoàn cảnh thế nào, tôi vẫn sẽ tiếp tục giúp biên tập quyển sách của ông.

Chuyến đi này nữa, tôi cũng mướn một chiếc xe hơi ở Dubrovnik, và lần này, tôi dễ dàng tìm ra đường đến Mễ Du. Qua trung gian chị Rose Finnegan của Trung Tâm Hòa Bình, tôi đã biên thư cho Grgo Vasilj, xin được trọ lần nữa tại gia đình ông ấy.

Trầm tĩnh và suy tư, Grgo là một người cha cần mẫn của sáu người con. Có lòng đạo rất sâu sắc, ông đã xây một phòng cầu nguyện cho gia đình ông, trong đó có cả cha mẹ ông, và mỗi sáng, vào lúc 6 giờ 30, họ thường quây quần ở đó đọc kinh với nhau trước bữa ăn sáng. Trong chuyến đi lần trước, tôi đã coi là một đặc ân lớn khi tôi được mời cầu nguyện chung với họ.

Là một viên đốc công xây dựng, Grgo được ơn soi sáng xây căn phòng cầu nguyện đó cho con gái ông là Jelena Vasilj. Trầm tĩnh và có đôi mắt đẹp nổi bật, Jelena đã nhận một quà tặng đặc biệt từ trời vào tháng 12 năm 1982. Một chiều nọ, tại trường học, em nghe tiếng nói của Đức Trinh Nữ Maria - một hiện tượng quen gọi là “tiếng nói bên trong”.(7) Quà tặng đó cũng được ban cho bạn thân thường chơi chung với em là Marijana Vasilj (không bà con), cả hai cô bé năm ấy đều lên mười. Cũng giống như các thị nhân, ơn đặc biệt này đã xảy ra cho các em đều đặn từ đó đến nay.

Jelena và Marijana không thấy Đức Trinh Nữ như các thị nhân được thấy, mà chỉ thấy Người “bằng con tim”. Tuy vậy, lời thụ khải (được nghe thấy trong lòng) nơi hai em này giống với những sứ điệp mà các thị nhân nhận đến nỗi Jelena, cởi mở hơn, thường được người ta biết đến như là “thị nhân thứ bảy”.

Theo lời Jelena, Đức Trinh Nữ Hồng Phúc thường dạy bảo các em về đường lối sống thiêng liêng. Tháng 5 năm 1983, Người nói với Jelena báo cho một linh mục là Người muốn một nhóm cầu nguyện của giới trẻ được thành lập trong giáo xứ. Người sẽ dẫn dắt họ và dạy cho họ đường lối sống thánh thiện. Các thành viên sẽ phải từ bỏ mọi sự, tự đặt mình hoàn toàn cho Thiên Chúa tùy ý sử dụng. Đã có khoảng 56 thanh niên nam nữ tiến đến đáp lại lời kêu gọi ấy.

Một lý do khiến tôi nghiên cứu say mê ân sủng của Jelena: nó hết sức giống với điều mà tôi đã cảm nghiệm trước đây, và hiện nay trong một vài lần. Tôi cảm thấy không phải do tình cờ mà tôi được trọ tại nhà ông Grgo Vasilj và được cầu nguyện chung với ái nữ của ông.

Vô cùng nhút nhát, Jelena lúc đầu ngay cả nhìn tôi cũng rất hiếm khi. Nhưng dần dần, khi đã quen với sự có mặt của tôi, em tỏ ra tinh nghịch và thích chọc ghẹo chị em của mình. Sau vài ngày, em bắt đầu đáp lại mấy câu hỏi của tôi. Khi tôi hỏi về các sứ điệp em đã nhận cho riêng mình, em cho biết hầu hết là lời dạy bảo về con đường thánh thiện. Một trong những lời dạy bảo đầu tiên cho Jelena là em nên bắt đầu mỗi ngày bằng một lời nguyện với Chúa Thánh Thần, và như đã kể trên, em đã được yêu cầu lập một nhóm cầu nguyện và em đã làm.

Sự thánh thiện không đến với em một cách dễ dàng (mà nó đã đến dễ dàng với ai chưa?). Bố em thường phải hối thúc em đi vào phòng cầu nguyện để đọc kinh sáng đúng giờ. Lắm lúc, ông cũng phải la rầy om sòm khi có những nhóm người hành hương đến nhà mà em từ chối nói chuyện với họ.

Jelena, nay đã 14-15 tuổi, và trong nhiều phương diện, đúng là típ thiếu nữ mới lớn của thời đại chúng ta, cũng giống như sáu thị nhân kia: em không tốt mà cũng không xấu. Tuy vậy, em vẫn được Đức Maria chọn, cho dù em thích ngủ nướng hơn là dậy sớm để đọc kinh, mê xem Tivi, và rất khoái kẹo sôcôla M&M (mà tôi thường cố nhớ đem theo mỗi lần đến Mễ Du).

Trong chuyến đi này, tôi đã gặp phải một nỗi thất vọng và một vết thương cắt sâu vào niềm vui được trở lại Mễ Du lần nữa: Tanya đã đi mất rồi. Tôi nghe nói em về Ý hai tháng trước đây và đã trở lại với ma túy. Đó là một bài học cay đắng: bao nhiêu lời cầu nguyện, bao nhiêu người đề nghị trợ giúp em cũng vẫn không đi đến đâu, nếu đương sự không đón nhận sự giúp đỡ. Sự đón nhận xuất phát tự lòng tin và sự chọn lựa tự do. Điều này nhắc tôi nhớ đến Chúa Giêsu khi ở quê hương Nazaret của Ngài, đã không thể làm được phép lạ đáng kể nào, vì sự thiếu lòng tin nơi những người đã cùng lớn lên với Ngài.

Tuy thế, tôi sẽ không đầu hàng về vụ Tanya. Những lời cầu nguyện của tôi cho em sẽ chỉ có thể tăng thêm thôi. Tôi biết rằng trong lòng cô bé người Úc này, một cuộc chiến giữa thiện và ác đang sôi sục, và tôi quyết tâm dâng hết mọi lời cầu nguyện với hi vọng cái thiện được toàn thắng. Đối với tôi, Tanya tiêu biểu cho cuộc chiến đấu không ngừng mà tất cả chúng ta đều trải qua, khi muốn sống trong ơn nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể chấp nhận ơn nghĩa ấy và được che chở, hoặc chúng ta có thể chối bỏ, sự chọn lựa là ở nơi chúng ta.
Tôi nhớ lần Tanya đi chung với tôi và Kathleen đến phỏng vấn Jelena. Vì đã thấy em phiên dịch rất xuất sắc trong lần tôi phỏng vấn cha Slavko, lần này, tôi cũng muốn em giúp tôi làm việc với Jelena. Hai em này chưa biết nhau trước buổi gặp gỡ hôm ấy; thật ra, Tanya chưa hề nghe nói về đặc sủng “tiếng nói bên trong” của Jelena.

Phỏng vấn được nửa chừng, sau khi nghe Jelena kể Đức Maria đã khởi sự “nói bên trong” với em như thế nào, Tanya thình lình quay sang tôi và la lên: “Xạo tổ mẹ!...”

- “Tanya, không được nói vậy! Em bị cái gì đó?”

- “Ông nghe đây, em đã từng nhiều lần ngồi chung với các thị nhân, em biết mấy người đó không nói dối. Còn ở đây, em không tin nhỏ này!”

Tôi liếc nhìn Jelena, tuy không hiểu Tanya nói gì, nhưng em cũng cảm thấy đang có điều gì không ổn; rồi tôi nhìn qua Kathleen, cô chỉ nhún vai và chẳng đề nghị giúp đỡ gì. Cuối cùng, sau khi lấy lại bình tĩnh, tôi yêu cầu Tanya báo cho Jelena biết là cuộc phỏng vấn đã kết thúc. Rồi bằng một giọng kiên quyết, tôi nói thêm: “Và bây giờ, tôi muốn em nói với Jelena là em không tin em ấy.”

Tanya mỉm cười: “Bộ ông tưởng em sợ không dám nói với nó à?” Em quay sang Jelena, bắt đầu hoa tay múa chân nói ào ào bằng tiếng Croát.

Tôi không sao tin nổi sự thay đổi nét biểu cảm nơi Jelena. Cử chỉ vốn nhút nhát, yên lặng của em bây giờ được thay thế bằng một vẻ bình thản và một nụ cười nửa miệng. Em tỏ ra không chút bối rối trước những lời tấn công của Tanya.

Tôi hỏi Tanya là Jelena trả lời thế nào. Tanya nói: “Nó nói là hai đứa chúng em phải gặp lại nhau, để trao đổi với nhau về chuyện đó, chỉ có thế thôi.”

Bực mình, tôi đứng dậy ra về. Nhưng khi chúng tôi chào cám ơn Jelena, thì em nói gì đó với Tanya, rồi em cầm tay Tanya. Tanya rên rỉ: “Ồ không, Jelena muốn nói chuyện với em ngay bây giờ!”

Tôi nói: “Tốt! Chúng tôi đợi em ở ngoài.”

Bốn mươi lăm phút sau, Tanya và Jelena bước ra khỏi nhà, tươi cười. Một lần nữa, bản chất thiên thần nơi Tanya lại xuất hiện. Em nhỏ nhẹ nói: “Bây giờ em tin Jelena rồi.”

- “Tại sao?”

- “Vì nó thành thật và rất cởi mở. Với lại, sau khi nghe Jelena kể lại những điều mà Đức Mẹ nói với nó, em thấy cũng giống với những điều mà các bạn thị nhân nói với em.”

Tôi rất vui, vì một hoàn cảnh rối rắm như vậy đã biến thành một bài học quý giá cho cô gái đang phấn đấu khổ sở này; nhưng tôi lại càng thấy thú vị trước sự thay đổi nơi Jelena.


Mặc dù sự tháo lui sau đó của Tanya đã là một nỗi thất vọng đau đớn cho tôi, nhưng tôi lại mừng vì được ở trong mái ấm thứ hai của mình, được trèo lên đồi Hiện Ra (Podbrdo) để nguyện ngắm, được chen chân vào Nhà thờ Thánh Giacôbê dự Thánh Lễ. Lần này, hình như có thêm nhiều người Mỹ đến đây: có hai nhóm đến từ Hoa Kỳ. Sơ Margaret Sims đang hướng dẫn nhóm của Trung Tâm Hòa Bình, và Terry Colafrancesco hướng dẫn nhóm của Caritas. Tiếng đồn đang lan rộng.

Thêm một chuyện khác nữa: người ta bắt đầu nhận ra tôi do các bài xã luận. Nhiều người nói với tôi là họ có mặt ở đây vì những bài báo đó. Điều này làm tôi tràn ngập xúc động.


Terry xin tôi nói chuyện với nhóm của anh - và tôi đồng ý ngay, mừng quýnh vì được nói chuyện ngay trên đất Mễ Du. Chúng tôi kéo nhau ra lùm cây bách hương khoảng giữa Nhà thờ và núi Krizevac. Ở đấy, trong cái ốc đảo thanh bình đáng yêu này, giữa những ngôi mộ đã có hằng trăm năm, và với cây Thập giá vĩ đại trước mặt tạo thành một cái phông tĩnh lặng, tôi nói với họ về Mễ Du: những gì đã đưa tôi đến đây, những gì tôi đã thấy và những gì Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục cho tôi thấy - cũng như sẽ cho họ thấy nữa.

Một buổi tối sau Thánh Lễ, vài người trong nhóm Trung Tâm Hòa Bình biết được tôi đã nói chuyện với nhóm Caritas, nên cũng đến xin tôi nói với nhóm của họ. Họ liền vội vàng sắp xếp cho chúng tôi họp mặt ở tầng hầm Nhà xứ vào lúc 9 giờ sáng hôm sau. Họ cho tôi biết sẽ chỉ có 20 hoặc 30 người thôi, nhưng lời đồn loan nhanh: đã có đến hơn 50 hay 60 người khi tôi đến đó. Một lần nữa, tôi thầm cầu nguyện tạ ơn và xin cho họ được nghe Chúa Thánh Linh, chứ không phải nghe Wayne Weible.

Khi đã xong, sơ Margaret đến ôm hôn tôi và nói: “Tuyệt quá, cứ thế nhé!”

Tôi vào Nhà thờ dự Lễ, tạ ơn Chúa không ngớt, và lòng tôi cảm động sâu xa bởi Phụng vụ Thánh Lễ. Sau phần Thánh Thể, tôi vẫn quỳ đó, hai mắt nhắm nghiền, chìm đắm trong cầu nguyện sốt sắng hơn bình thường. Bỗng nhiên, tôi bắt đầu thấy nhiều khuôn mặt. Những khuôn mặt trông rất rõ, rất sống động và có vẻ như đang bồng bềnh trong màn sương mù màu xám nâu. Thế rồi khuôn mặt của từng người đó bắt đầu mờ dần và được thay thế bằng đoàn đoàn lũ lũ dân chúng.

Thình lình, xuất hiện phía trên họ một luồng ánh sáng chói chang hơn bất cứ ánh sáng nào tôi đã từng thấy, nhưng tôi vẫn có thể nhìn thẳng vào ánh sáng đó. Đang lúc chăm chú nhìn, thì ở đó, ngay chính giữa, Chúa Giêsu hiện ra trong áo choàng trắng. Ngài từ từ mở cánh tay và giang ra trên tất cả đám dân chúng ở dưới.

Thị kiến cực kỳ rõ ràng và kéo dài khá lâu. Tôi bị cuốn hút đến nỗi khi nó mờ dần rồi chấm dứt, tôi mới mở mắt ra và giật mình nhận thấy Thánh Lễ đã xong từ lâu, chỉ còn một mình tôi trong Nhà thờ.

Tôi đứng dậy, run rẩy và kinh ngạc về điều tôi đã thấy - chưa bao giờ có một điều tương tự xảy đến cho tôi. Tôi lặng lẽ bước ra khỏi Nhà thờ và gặp Shannon Brenan, một phụ nữ trẻ trong nhóm Trung Tâm Hòa Bình. Chị đã ngồi cạnh tôi trong Thánh Lễ.

- “Tôi xin lỗi, Shannon, tôi không thể...”

Shannon ngăn tôi lại: “Anh không cần giải thích gì hết; rõ ràng là một điều gì đặc biệt đã xảy đến cho anh.”

Tôi kể cho chị nghe về thị kiến; tôi cần phải kể lại cho ai đó. Chúng tôi bắt đầu đi về phía thôn xóm nhỏ (xóm Bijacovici), nơi các thị nhân ở, và gặp một người bạn của chị. Họ chưa lên “Đồi Hiện Ra”, tên thường gọi của đồi Podbrdo, và họ năn nỉ tôi cùng đi với họ. Sau thị kiến tuyệt diệu ấy, tôi chỉ muốn mỗi một điều là cầu nguyện, đồi kia xem ra là nơi lý tưởng nhất, cho nên tôi đồng ý.

Vừa đến chân đồi, Shannon để ý thấy một nhóm người Mỹ đứng bên ngoài nhà Marija, nhà này nằm xuôi theo con đường lên đồi. Chị la lên: “Ồ, chúng ta hãy đến gặp Marija trước đã, rồi lên đồi sau.”

Tôi đồng ý ngay. Marija có lẽ là thị nhân có ảnh hưởng nhiều nhất, nhưng điều quan trọng hơn là tôi muốn gặp Milka, em của Marija. Tôi đã có cuộc phỏng vấn cả hai chị em, nhưng Milka nhiều giờ hơn.

Marija đương đứng ở khoảng giữa những bậc thang dẫn lên cửa trước của nhà cô, điềm tĩnh trả lời qua người thông dịch các câu hỏi của một đám khách hành hương người Mỹ đang vây quanh cô. Có một lúc, cô bắt gặp cái nhìn của tôi. Tôi nghĩ cô đã mỉm cười. Tôi thầm nhủ: Thật là tức cười, với tất cả những cuộc phỏng vấn hằng ngày như thế, cô làm sao nhớ nổi một cuộc (cuộc phỏng vấn của tôi với cô) đã diễn ra cách đó năm tháng ?

Sau độ mười lăm phút, nhóm người Mỹ ra về. Shannon và cô bạn cũng đi, dặn tôi gặp họ trên đồi sau khi đã nói chuyện với Maria. Tôi đang định bước tới gặp cô, thì một nhóm vài người Ý trước đó đã lảng vảng bên ngoài, bây giờ nhảy vào, dành trọn thời gian của cô. Cô kiên nhẫn trả lời các câu hỏi của họ bằng tiếng Ý rất lưu loát, và cuối cùng, khi họ đi rồi, cô quay sang tôi. Tôi nói: “Marija, tên tôi là...”

Maria nói to: “Là Wayne!” rồi bước tới chào tôi bằng cái hôn mỗi bên má. “Nào, ông có khoẻ không? Gặp lại ông, tôi mừng quá!” Tiếng Anh của cô không thạo, nhưng sự nồng nhiệt bột phát ấy không cần đến phiên dịch.

Miệng tôi há hốc: “Cô còn nhớ tôi?”

- “Vâng, dĩ nhiên. Ông đã phỏng vấn em với Milka. Milka rất - nói làm sao nhỉ? - rất kính phục ông.”

Tôi sững sờ: “Milka có ở đây không?”

- “Dạ không. Milka đang ở bên Đức để chăm sóc chị dâu mới sinh cháu bé.”

Tôi mỉm cười: “Thôi được, tôi sẽ trở lại gặp cô sau. Cha Svetozar sẽ đến cùng với tôi.” Rồi tôi quay gót ra về.

- “Không, không.” cô cười: “Bây giờ ông lên đây!”

Vừa nói, cô vừa nắm tay tôi dắt lên bậc cấp đi vào nhà bếp. Trong khoảng hai mươi phút sau đó, chúng tôi nói chuyện về những gì đang xảy ra tại Mễ Du, và về cuộc sống của cô (“Rất bận, rất ít khi được như thế này. Nhưng thế là tốt.”) Tôi ngạc nhiên thấy cô có vẻ hiểu được nhiều và có thể trao đổi rất tốt, mặc dù tiếng Anh còn bập bẹ. Chúng tôi thực sự đang nói chuyện với nhau - không phải là phỏng vấn, nhưng là một cuộc tán gẫu thân mật. Nhưng tôi sợ lỡ miệng nói ra điều gì ngớ ngẩn để mất dịp may sắp tới, tôi liền đứng dậy: “Tôi sẽ trở lại với cha Svet.”

Marija nói: “Ông hãy đến bất cứ lúc nào!” rồi tiễn tôi ra cửa, “Mong ông trở lại.”

Tôi gật đầu, vẫy tay và bước xuống bậc cấp. Sau đó, khi Marija đã đi vào trong nhà, tôi không nén được niềm vui lâu hơn nữa, liền chạy lên Đồi Hiện Ra, nóng lòng kể cho Shannon về cuộc nói chuyện của tôi với Marija, bởi vì đã có một cái gì rất đặc biệt trong buổi gặp gỡ ấy: cô không phải là Marija thị nhân, nhưng là Marija - bạn tôi. Đây là bước khởi đầu dẫn đến tình liên đới chặt chẽ của tôi với mỗi thị nhân sau này.

Đúng là một ngày cực kỳ hạnh phúc từ đầu đến cuối. Vào buổi chiều, cha Svet lái xe từ xứ đạo của ông đến đây để giảng dạy hằng tuần tại Nhà thờ, và khi ông đã xong việc, chúng tôi ôm nhau thắm thiết thay cho lời chào. Khi chúng tôi rảo bước bên lề cái sân bọc quanh Nhà thờ, cha nói: “Tôi có tin vui, tôi đã thu xếp cho anh đến Konjic và ở lại trong tu viện bốn ngày.”

- “Hết ý!” tôi nói, quá mừng vì cuối cùng cũng có dịp ở với ông lâu hơn là chỉ vài giờ. Tôi hỏi: “Khi nào cha?”

- “Tôi phải trở về tối nay, nhưng anh đến ngày mai. Chúng ta sẽ nói về quyển sách của anh, không phải sách của tôi - tuy tôi cũng có một số ý tưởng muốn viết ra với sự giúp đỡ của anh.”

Con đường ngược bờ sông Neretva đến Konjic thật là ngoạn mục. Lại một lần nữa, tôi không có bản đồ chỉ đường, nhưng cha Svet bảo đảm với tôi là chỉ cần đi theo con đường đến Sarajevo, đường này sẽ ngang qua Konjic. Khoảng sau hai tiếng, tôi tới nơi.

Cứ đinh ninh đây là một ngôi làng không lớn hơn Mễ Du bao nhiêu, tôi bật ngửa ra khi thấy Konjic là một thị trấn sầm uất. Tôi tìm ra được Nhà thờ của cha Svet, một kiến trúc tráng lệ, nguy nga với tu viện sát bên. Cha đã ở đấy để đón tôi và đưa tôi tới văn phòng, nơi tôi sẽ ở trong bốn ngày. Tôi co ro; Konjic cao hơn Mễ Du nhiều, nghĩa là khí hậu ở đây cũng lạnh hơn nhiều, và trong truyền thống khổ tu đích thực, không được có lò sưởi. Nhưng cha Svet, như đọc được ý tôi, đã mỉm cười và trao cho tôi cái máy sưởi điện nhỏ của phòng ngài.

Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong phòng ăn với các linh mục khác. Đây là một dịp vui hiếm có, cho tôi một kinh nghiệm thú vị khi ở chung với các tu sĩ Phan Sinh hơn là chỉ gặp gỡ các ngài tại Mễ Du. Ngoài ra, tôi còn được biết về cách sống của họ. Sau đó, chúng tôi đến phòng cha Svet bắt đầu làm việc. Cha nói: “Tôi có viết lại một số ý nhờ anh sửa giúp. Mấy đoạn này không dùng cho quyển sách của tôi, đó chỉ là vài ý tưởng tôi có thể dùng tới sau này - hoặc anh dùng cho quyển sách của anh cũng được.”

Thế là chúng tôi bắt đầu - cha Svet vừa đọc vừa ghi thêm vào bản thảo, còn tôi vừa đánh máy, vừa cho ý kiến. Thỉnh thoảng, chúng tôi dừng lại để bàn cãi về một điểm nào đó. Tôi đề nghị vài thay đổi nhỏ, còn ông muốn để nguyên như thế.

Sau một lúc, cha vỗ đầu gối tôi và mỉm cười: “Hay đấy!”

- “Cha muốn nói gì?”

- “Tức là chúng ta có thể ngồi đây và bàn cãi về dăm ba điểm vớ vẩn kia, rồi bây giờ anh còn có thể thoải mái bất đồng ý kiến với tôi.” Ông lại mỉm cười khi thấy sự đồng tình của tôi hiện lên nét mặt: cha Svetozar Kraljevic, người hùng thiêng liêng của tôi, đã không còn ở tít trên bệ để được nể sợ; trong khi ngài vẫn là một khuôn mặt lẫy lừng. Nhưng bây giờ, ngài còn là một người bạn thân thiết và người anh yêu quý của riêng tôi trong Đức Kitô.

Chúng tôi dành ba giờ tối hôm đó và nguyên ngày hôm sau cũng bận rộn như vậy. Đến giờ nghỉ trưa, chúng tôi dạo qua chợ trời họp phía bên kia Nhà thờ. Ở đây có bán đủ thứ, từ thực phẩm cho đến cối xay cà phê, và cha Svet mua một cái cối xay nhỏ, ngài nói: “Cái này dành cho Terri”, rồi trao nó cho tôi.

Tôi phá lên cười: “Giá mà cha biết được vợ tôi đâu có vào bếp nhiều đâu nào! Nhưng nàng sẽ quý nó lắm, vì do cha tặng.”

Trong chuyến đi hồi tháng 9 vừa qua, Terri đã gặp cha Svet, và đã lập tức có cùng một cảm tưởng như tôi về ngài. Nàng sẽ cảm động vì được ngài nhớ đến, nhưng ngài là như vậy đó. Dù cho số “anh em”, “chị em” mới của ngài cứ tăng lên theo mỗi đoàn hành hương, ngài vẫn luôn có một lời nhắc nhớ đặc biệt, hoặc đôi phút lắng nghe dành cho mỗi một người trong họ.

Chiều hôm ấy, cha Svet phải dâng Thánh lễ lúc 17 giờ. Khi ngài đi sửa soạn, tôi đến ngồi dưới bóng râm sau lưng Nhà thờ, khoảng 20 phút trước giờ Lễ.

Không khí trong Nhà thờ lạnh lẽo, khiến tôi không ngừng run rẩy, dù tôi đã mặc đủ áo chống lạnh. Từng người, các cư dân thành phố tới dự Lễ, khoảng 15 hay 16 người. Tôi tự khích lệ mình nghĩ họ cũng cảm thấy lạnh như tôi. Để quên cái lạnh, tôi quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện.

Bỗng nhiên, tôi hết run, quả thực tôi cảm thấy như rơi vào khoảng trống. Rồi tôi nghe thấy trong tôi một sứ điệp giống như tôi đã từng nghe mấy lần trước. Không phải là tiếng nói ở bên ngoài nghe được và cũng không có thị kiến kèm theo. Tuy nhiên, đó là một tiếng nói, nói lớn! “Hãy đưa Milka sang Hoa Kỳ!”

Tôi kinh ngạc. Vào chính lúc ấy, Milka ở xa tâm trí tôi như thể ở tận bên Trung Quốc. Tôi do dự, rồi thì thầm hỏi: “Tại sao?”

Không có tiếng trả lời, chỉ có một tâm tình sâu đậm thúc giục tôi phải làm điều đã được yêu cầu.

Tôi mới quyết định phải nói chuyện này cho cha Svet. Trong tôi bấy giờ có sự bình thản chấp nhận được làm kẻ thụ lãnh những sứ điệp nội tâm. Sau những kinh nghiệm tôi đã trải qua và thời gian quen biết Jelena, tôi bắt đầu hiểu ra rằng bất cứ ai cũng có thể là dụng cụ của Chúa Thánh Linh.

Cơ hội để nói với cha Svet đã đến ngay sáng hôm sau, đang khi ngài lái xe dẫn tôi đến chỗ ngài dự định xây cất một Nhà thờ mới cho giáo xứ. Tất cả tiền nong thu lợi từ sách vở ngài viết đều đổ vào công trình xây dựng này, mà ngài tin chắc nó sắp thành hiện thực.

Chuyến đi này, cha Svet mặc thường phục. Không có chiếc áo dòng nâu Phan Sinh, ngài bớt vẻ oai vệ. Nhưng tác phong cha vẫn tao nhã và đôi mắt vẫn luôn đượm nét thánh thiện.
Ngài không tỏ vẻ ngạc nhiên khi tôi trình bày cho ngài sứ điệp liên can tới Milka. “Vậy thì – ngài nói với vẻ đăm chiêu – ngày mai khi ta gặp Marija, anh hãy kể lại cho cô ấy xem cô ấy nghĩ làm sao.” Cha chấp nhận trở lại Mễ Du với tôi và làm thông dịch viên cho tôi.

Trên đường trở về tu viện ở Konjic, khi chúng tôi đến trung tâm thành phố, bỗng nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng còi xe hơi inh ỏi. Rồi khi đến gần một ngã tư thì thấy như thể tất cả cư dân thành phố tụ tập tới đấy cùng một lúc, và chẳng ai nhường ai một bước. Không bao giờ tôi nghĩ lại có thể xảy ra một cảnh ùn tắc cỡ đó trong một thành phố nhỏ miền núi ở Nam Tư. Nhưng thực tế là chúng tôi đang kẹt ở đó, ngay chính giữa.

Cha Svet nghiêng đầu rồi nhún vai và xuống xe, tiến vào giữa chỗ kẹt cứng, và bắt đầu điều khiển lưu thông, bảo tài xế này lùi một chút, tài xế kia tiến lên. Tôi không biết người ta có nhận ra ngài là ai không, chỉ biết rằng mọi người đều hể hả vì có người đứng ra dàn xếp tình hình. Không còn còi xe inh ỏi. Con đường đã thông thoáng và mọi người tiếp tục cuộc hành trình.

- “Đôi khi – cha Svet vừa cười vừa nói khi ngồi vào lại trong xe – ta phải ra tay hành động khiến cho tình hình phải thay đổi”.

Tôi cười to và gật đầu biểu đồng tình. Tôi vừa chứng kiến một hành vi của ông bạn Phan sinh, minh chứng sống động cho một lời cầu nguyện nổi tiếng của Thánh Tổ phụ ông, đại khái như thế này: “Lạy Chúa, xin cho con can đảm để thay đổi cái còn có thể thay đổi; kiên nhẫn để chấp nhận cái không thể đổi thay; và khôn ngoan để nhận ra sự khác biệt giữa hai cái ấy…”

Đầu buổi chiều hôm ấy, khi cha Svet chạy đi lo công việc trong thành phố trước khi chúng tôi rời nơi này, và tôi, sau khi đã thu xếp đồ đạc vào vali, tôi ngồi trên giường suy đi nghĩ lại về tất cả những gì đã xảy đến cho tôi, kể từ cái tối đáng ghi nhớ mà Thân Mẫu Chúa Giêsu nói trong lòng tôi. Mọi sự giờ đây được sáng rõ như pha lê. Tôi đã có thể thấy Mễ Du và tất cả ý nghĩa và những chuyện liên hệ như chưa từng bao giờ thấy rõ như thế trước đây. Và vai trò của tôi trong các biến cố này cũng hiện ra rõ ràng. Giờ đây, tôi hiểu tại sao tôi được gọi trở lại chốn này tới lần thứ ba trong vòng 6 tháng.

Đó là một thời kỳ tập sự. Vai trò của cha Svet ở trong vụ này là sức ảnh hưởng và sự hướng dẫn. Tôi bắt đầu lần chuỗi Mân côi trong lặng lẽ bằng cỗ tràng hạt ngài đã cho tôi.
Có ai gây tiếng động khẽ ở bực cửa mà tôi để hé. Ngước mắt lên, tôi thấy cha Svet đang đứng đó trong khung cửa, nhìn tôi với một nụ cười rạng rỡ. “Tôi sẽ nhớ mãi cuộc viếng thăm của anh ở đây qua cảnh này: Anh, ngồi trong phòng này, đang lần chuỗi.”

Tôi không thốt lên được lời nào. Mắt tôi đẫm lệ.

- “Nếu đồ đạc đã xếp xong, chúng ta sẽ đi”, ngài nói để kéo tôi về lại thực tại của cuộc hành trình. Tôi xách vali, theo ngài xuống chỗ đậu xe. Ngài lái xe đi trước, tôi lái xe theo sau trên đường về Mễ Du chẳng gặp khó khăn gì.

Khi chúng tôi đến gần ngoại ô Mostar, ngài ra hiệu cho tôi ngừng, rồi ra khỏi xe, ngài bảo: “Ta đi nhâm nhi tách cà phê nhé!”

- “Cha thật muốn ngừng lại đây sao? Chúng ta chỉ còn cách Mễ Du độ 40 phút nữa thôi.” Nhưng ngài cho biết ngài muốn ngừng.

Đang lúc nhấm nháp tách cà phê đặc sánh mà tôi bắt đầu ghiền, ngài bảo: “Này Wayne, tôi có quyết định này: chúng ta sẽ không làm việc cho quyển sách của tôi một thời gian. Để dành thời gian giúp anh hoàn thành cuốn sách của anh.”

Tôi đang định gạt đi, nhưng ngài giơ tay cản lại, và tôi nhận thấy ngài đã suy nghĩ và đã cầu nguyện nhiều lúc đi trên đường. “Anh phải viết cuốn sách của anh ngay và đừng để chuyện gì cản trở việc ấy. Hãy dành lấy thời gian cho việc ấy, và cầm chắc là thật đúng lúc. Nhưng anh phải làm.”

Tôi chỉ còn biết gật đầu.

hoanghac
09-02-2013, 03:43 AM
“Mẹ muốn dẫn tất cả các con đến sự thánh thiện trọn hảo...”
Chương 23
TIẾP TỤC HỌC HỎI


Cha Svet đậu xe ở trong sân, phía sau nhà thờ Thánh Giacôbê, còn tôi đậu càng gần Nhà Xứ càng tốt, vì hôm nay là ngày cuối cùng của tôi tại Mễ Du. Khi tôi ra khỏi xe, ngài bảo: “Chúng ta sẽ dùng bữa trưa tại Nhà Xứ trước đã, rồi đến nhà Marija.”

Cùng ăn trưa với chúng tôi có một linh mục trẻ trầm lặng, mới đến Mễ Du được vài tháng, tên là Nicholas. Ông nóng lòng muốn kể cho cha Svet về một việc gì đó vừa xảy ra, và khi ông bắt đầu kể bằng tiếng Croát, cha Svet đưa tay ngăn lại, rồi quay sang tôi: “Có lẽ anh nên lấy sổ tay ghi lại chuyện này, có vẻ hữu ích cho quyển sách của anh đó. Tôi sẽ thông dịch cho anh.” Tôi làm theo lời ngài và bắt đầu viết lia lịa, trong khi cha Nicholas kể chuyện bà Mira (không phải tên thật), một phụ nữ khoảng 30 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ thuộc miền Bắc Nam Tư.

Mira sinh trưởng trong một gia đình Công giáo đạo đức, nhưng vì yêu một thanh niên đảng viên Cộng sản, cô lìa bỏ Giáo Hội. Vị linh hướng của cô cảnh báo với cô là con đường cô đang hướng tới sẽ gây đau khổ cho chính bản thân cô và cho gia đình cô, nhưng cô không nghe, và cô đã kết hôn. Vì chồng cô là một đảng viên, nên Mira thấy không thể tiếp tục đi lễ được.

Như linh mục tiên đoán, Mira sống tách biệt với gia đình, ngay cả khi cô sinh đứa con đầu lòng - một bé trai tàn tật vì chứng teo cơ. Trong năm năm sau đó, thảm kịch này cộng với những áp lực ngày càng tăng của cuộc sống, khiến cô rất sợ hãi. Cô bị chứng trầm uất nghiêm trọng và phải dùng thuốc với liều lượng ngày càng nặng hơn, cho đến khi phát triển thành bệnh động kinh. Tháng 9 năm 1986, người nhà đưa cô vào bệnh viện Zagreb, tại đây, cô lên cơn động kinh ít nhất 30 lần một ngày.

Trong vòng 17 ngày, các bác sĩ đã dùng mọi phương pháp để trị liệu, nhưng đều vô hiệu. Tình trạng của cô ngày một xấu đi, và có lẽ do hậu quả sự trị liệu bằng các loại thuốc mạnh lúc đầu nên cô bị mù. Cuối cùng, bác sĩ nói với chồng cô là họ không thể làm gì được nữa, tốt hơn anh nên đưa vợ về nhà, vì cô ấy sắp chết.

Một bức màn tang tóc bao phủ trên gia đình cô suốt hai tuần sau đó, khi Mira nằm liệt trên giường và cả hai chờ đợi điều không tránh khỏi. Nhưng trong thời gian này, có một điều lạ thường xảy ra: Mira nghe một tiếng nói: “Con phải quay về với Thiên Chúa và cầu nguyện.”

Kết luận rằng cô bị mê sảng vì bệnh và vì thuốc, chồng cô cố gắng an ủi. Nhưng cô vẫn khăng khăng quả quyết tiếng nói bảo cô phải đi ra ngoài. Đến đây, chồng cô không để cô làm theo ý mình. Các bác sĩ đã buộc cô phải nằm một chỗ, và vì sợ mọi cử động có thể làm cô mau chết, anh liền canh giữ để cô khỏi di chuyển.

Nhưng cũng có lúc anh phải ra khỏi nhà, và ngay lập tức, Mira cố lết ra khỏi giường. Từ từ, cô lần ra được đến cửa trước. Vừa mới mở cửa và bước ra ngoài, cô liền thấy thị kiến: Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc hiện ra với cô và nói: “Con có thể được chữa lành.”

Mira quỳ sụp xuống than khóc: “Lạy Mẹ Hồng Phúc, xin Mẹ chữa lành con của con; nó mới có năm tuổi.”

- “Con của con không có trách nhiệm gì về hoạn nạn nó đang chịu, nhưng đau khổ của nó sẽ là ơn cứu rỗi và cải hối cho nhiều người. Đừng cầu xin cho nó, nhưng hãy cầu xin cho chính mình con. Hãy đến Mễ Du và con sẽ được chữa lành.”

Chỉ có thế. Mira lại mù, không thấy gì nữa. Cô bò trở vào nhà, lết tới phòng ngủ. Khi chồng cô về đến nhà, cô kể lại cho anh nghe hết mọi chuyện vừa xảy ra, nhưng anh không tin. Thực ra, anh buồn vì tình trạng mê sảng của cô xem ra xấu hơn. Cô năn nỉ chồng đưa mình đến Mễ Du, nhưng anh bảo không khi nào có chuyện đó.

Đức Maria lại hiện đến với cô lần nữa tại giường. Mira kêu khóc: “Lạy Đức Mẹ, chồng con không chịu đưa con đi Mễ Du!”

- “Con có biết ai trong làng này có thể cầu nguyện cho con không?”

Người phụ nữ trả lời: “Thưa không, tất cả đều đã quay lưng lại với Thiên Chúa.”

- “Ta cũng không biết ai. Hãy đến Mễ Du!”

Nói xong, Người liền biến đi. Mira như bị ám ảnh, không thể nói đến điều gì khác ngoài việc đi Mễ Du. Trong cơn tuyệt vọng, chồng cô định đưa cô đến bệnh viện Zagreb cầu cứu. Biết được, cô liền lên cơn cuồng loạn. Cuối cùng, để cho cô bình tĩnh lại, anh đồng ý đưa cô đi Mễ Du. Ngày 8 tháng 11, họ đi xe lửa đến Mostar và ngày 9 tháng 11, họ đến Mễ Du. (Tôi nhận ra là cùng ngày với tôi).

Chồng cô đưa cô thẳng tới nhà thờ. Khi đã vào bên trong, anh để ý thấy tình trạng của cô khá hơn so với các tháng trước; lạ hơn nữa là suốt lộ trình từ Mostar đến Mễ Du, cô chỉ bị một hai cơn động kinh thôi.

Nhà thờ lúc ấy vắng người, chồng cô dìu cô lên hàng ghế đầu phía bên phải (Khi nghe đến đây, tôi liền nhớ có thấy cô quỳ ở đấy khi tôi bước vào hôm Chúa nhật vừa rồi). Cả buổi chiều, Mira cầu nguyện, và bỗng nhiên, sau một tiếng đồng hồ, cô thấy thôi thúc phải ngước nhìn lên. Cô làm theo và kinh ngạc vì mắt cô trông thấy bức tượng Đức Trinh Nữ Maria ở trước mặt. Cô đã được sáng mắt lại.

Chồng cô nhìn vợ sửng sốt. Cô đứng dậy đi ra ngoài nhà thờ, và gặp một linh mục khách ở xa đến đây để giúp giải tội. Cô xưng thú tội lỗi rất lâu và rất cảm động, rồi trình bày cho ngài nghe điều vừa xảy ra. Linh mục khuyên cô nên trở lại bên trong nhà thờ tiếp tục cầu nguyện, và hôm sau nên đi tìm một linh mục địa phương để kể hết cho ngài.

Nhưng ngày hôm sau, khi cô đi tìm một linh mục bản xứ tại Mễ Du, thì các ngài đều ra ngoài có việc hết. Cuối cùng, đến sáng thứ ba, cô mới kể cho cha Pervan và Nicholas nghe câu chuyện của cô. Thị giác của cô rất tốt và đã hơn 24 giờ qua, cô không hề bị một cơn động kinh nhỏ nào. Cô tin là mình đã được hoàn toàn chữa lành. Cô trở về nhà, hết lòng thống hối ăn năn và cả chồng cô cũng vậy.

Đây là một câu chuyện rất hấp dẫn. Và điều gây kinh ngạc nhất cho tôi là sự đau khổ của con cô có sức cứu độ nhiều người khác. Biết bao người đã thắc mắc tại sao có nhiều đau khổ trên thế gian. Đây là một trường hợp được nối kết trực tiếp vào sự đau khổ của Đức Kitô, Đấng đã chịu một cái chết thảm khốc để chúng ta được tha tội và giải hòa với Thiên Chúa. Linh mục Phan Sinh trẻ tuổi ấy đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện trích thẳng từ bản Nhật ký của Nhà thờ Thánh Giacôbê, chính xác từng chi tiết như đã được ghi chép. Thật chẳng khác gì được nghe một dụ ngôn mới của sách Tin Mừng.

Chúng tôi cám ơn cha Nicholas rồi đi tới nhà Marija; và vì trời nắng tốt, nên chúng tôi chọn đường mòn băng qua những cánh đồng hơn là đi xe hơi. Tuy mất thêm 20 phút, nhưng sau câu chuyện của Mira, thời gian mất thêm ấy lại được chúng tôi đón nhận như những giây phút dành cho sự ngẫm nghĩ riêng tư.

Marija đang đợi chúng tôi ở bậc cấp trên cùng dẫn vào cửa trước nhà cô, và một lần nữa, cô chào tôi rất nồng nhiệt. Thật thú vị được nhìn thấy cô cùng cha Svet ở đấy. Cô rất kính phục cha, nhưng cũng rất thân mật, một điều dễ nhận thấy khi cô lơ đãng nhặt một sợi chỉ dính ở cánh tay áo dòng của cha trong khi nói chuyện. Tôi nhìn cô khi họ trò chuyện bằng tiếng Croát, trao đổi những tin tức, và một lần nữa, tôi thầm nghĩ cô ấy đẹp biết bao! Nhưng không theo nghĩa thường tình; có một vẻ đẹp thiêng liêng toát ra từ con người cô, - một vẻ đẹp tương tự lộ ra trong phong thái của Mẹ Têrêxa.

Cha Svet chuyển sang tiếng Anh: “Nào, bây giờ chúng ta làm việc. Tại sao anh không kể chuyện của anh cho Marija nghe? Cô ấy hiểu được một ít tiếng Anh, nhưng tôi sẽ lặp lại bằng tiếng Croát.”

Trong hai mươi phút kế tiếp, tôi kể cho cô ấy nghe những biến cố của đời tôi trong năm vừa qua. Tôi cố cho cô hiểu tôi không kiếm tìm chuyện gì đặc biệt - thế nhưng suốt thời gian ấy, tôi cứ ước ao chớ gì nói ra được câu này: “Marija, xin cô vui lòng hỏi Đức Mẹ, để tôi được biết tôi có đang thi hành đúng điều Người yêu cầu không.” Cũng như bao người hành hương khác, tôi thầm mong muốn có một dấu chỉ đặc biệt, hoặc có thể trong giây lát được thấy Đức Mẹ như các thị nhân đã thấy. Trong thâm tâm, tôi biết như vậy là vị kỷ và chú tâm vào điều không đúng. Nhưng dù sao, mong ước ấy vẫn có đó. Một cách nào đấy, do cảm xúc mãnh liệt của tôi qua cái nhìn của tôi vào mắt cô, trong lúc cha Svet đang thông dịch, Marija hầu như thấu hiểu được lòng tôi. Cô gật đầu mỉm cười, và nói bằng tiếng Anh: “Vâng, tôi hiểu.” Đến đây, chúng tôi nghỉ một lát, cô đứng lên pha cà phê và dọn ra mấy ổ bánh mì cho chúng tôi. Cô nhìn tôi mỉm cười nói: “Milka đã làm mấy cái này trước khi qua Đức.”

Đột nhiên, tôi ý thức được một điều bất thường: lúc ấy không có một đám khách hành hương nào xếp hàng ngoài đường đợi gặp Marija, không một nhóm thanh niên người Ý nào lảng vảng bên trong sân, không một hướng dẫn viên du lịch nào chen vào đòi hỏi cô điều này điều nọ - không có bất cứ một thứ gì làm phân tâm cả. Không thể tin được - như thể Chúa đã cắt riêng cái mảnh thời gian này ra dành cho chúng tôi.

Nhưng bây giờ đã đến khúc khó khăn; tôi phải kể cho cô ấy nghe về những gì đã xảy ra cho tôi tại Konjic hai ngày trước đây. Cô sẽ nghĩ gì? “Marija, tôi cần phải nói với cô về Milka.”
- “Milka hả?” Marija hỏi, không chờ thông dịch. “Chuyện gì về Milka?”

Tôi kể cho cô nghe về việc tôi đã nhận được sứ điệp như thế nào và thêm rằng: như tôi đã nghĩ sau đó, chuyến đi này của Milka có thể kéo dài ít nhất ba tháng. Và tôi kết luận cách lơ mơ, có lẽ là để cho Milka học tiếng Anh. Hiện nay mới có một ít người Mỹ đến Mễ Du, nhưng tôi có thể tiên đoán - à không - có thể biết được là sắp đến thời mà đa số khách hàng hương là người từ Hoa Kỳ tới.

Marija nhìn tôi một lúc lâu, không nói tiếng nào. Rồi cô mỉm cười, và qua cha Svet thông dịch, cô nói: “Tôi không thể nói giùm cho Milka. Tôi thấy không có vấn đề gì về việc em ấy sang Hoa Kỳ... Nhưng ông phải đích thân hỏi em ấy.”

- “Bằng cách nào? Cô ấy đang ở bên Đức mà.”

Marija đi tới một hộc tủ và lấy ra bút mực, rồi nói: “Đây, ông viết thư cho Milka và để lại đây. Tháng giêng, Milka về, tôi sẽ trao lại. Lúc đó ông có thể điện thoại hoặc biên thư cho em ấy.” Cô nhún vai: “Ta sẽ có câu trả lời.”

Được khuyến khích, tôi hỏi thêm: “Cô nghĩ thế nào về chuyện này?”

Cô suy nghĩ một lúc mới trả lời: “Nếu ông cho sứ điệp ông đã nhận là do Đức Mẹ, thì ông nên tuân theo lời Người yêu cầu.”

Tôi thấy là cô không muốn can dự, nhưng cũng thấy đây không phải là lúc đeo đuổi hỏi thêm. Tôi đã làm những gì có thể, bây giờ thì xin trao mọi sự trong tay Chúa. Khi ra về, Marija một lần nữa bảo tôi bằng tiếng Anh là tôi có thể trở lại đây bất cứ lúc nào, và thêm: “Xin Chúa chúc lành cho ông.”

Tiếp theo đó, cha Svet đưa tôi đi Mostar, nơi ngài muốn tôi gặp và phỏng vấn Ivanka. Cô đi vắng, nhưng có ba cô ở nhà, và chúng tôi nói chuyện với ông ấy. Cha Svet có cho tôi biết trước là vợ ông đã mất ít lâu trước khi biến cố Mễ Du xảy ra, và tôi tự dặn mình không nên hỏi câu nào có thể gợi lên kỷ niệm đau buồn ấy. Hỏi về đời sống của ông, tôi được biết ông đã có nhiều năm lao động tại nước Đức. Ông có một căn nhà tại Mễ Du, và căn này tại Mostar.

Ông cảm thấy thế nào khi có một con gái là thị nhân? Ông do dự, đắn đo từng lời: “Tôi thấy đây là một ơn phúc lớn lao cho gia đình tôi. Việc con gái tôi được tham dự vào biến cố đã ảnh hưởng sâu xa trên cả gia đình - trên em gái nó, trên họ hàng và mọi người. Nhưng cũng có những hậu quả xấu - quá nhiều người lui tới, quá nhiều câu hỏi, quá nhiều nhà báo...” Đoạn ông mỉm cười, có ý cho tôi biết ông không ám chỉ tôi, nhưng tôi quyết định dành những câu hỏi khác cho con gái ông.

Trong lúc chờ đợi, ông mời chúng tôi uống cà phê. Và sau khi đã uống cạn năm tách, Ivanka bước vào với cô em. Ngay khi trông thấy cha Svet, cô chạy lại ôm hôn ngài. Rồi, nhìn thấy tôi với cuốn sổ trong tay, cô bắt đầu một tràng tiếng Croát với cha Svet. Tôi không cần được phiên dịch mới hiểu ra rằng đây không phải là một cuộc tiếp đón vui vẻ. Cha Svet trả lời bằng tiếng Croát và tôi cũng lại chẳng khó khăn gì để đoán ra ngài đang nói gì, khi lắc đầu và liên tục nói: “Không, không.”

Nhưng thay vì bình tĩnh lại, cô càng bực tức thêm, và bây giờ cô đang đi qua đi lại, giơ hai tay lên trời. Thấy mình đến không phải lúc, tôi khẽ thúc cùi chỏ vào cha Svet, lắc đầu ra dấu về phía cửa. Tôi chỉ muốn rút lui - một cách lịch sự nếu có thể, nhưng chắc chắn là càng nhanh càng tốt.

Nhưng cha Svet cứ lờ đi, và tiếp tục nói với cô ấy, giọng bình tĩnh nhưng kiên quyết. Cô vẫn không có vẻ nguôi tức bực, và cuối cùng, tôi không chịu được nữa. Tôi nói nhỏ với cha: “Cha nghe tôi nói đây, tôi thật sự không muốn gây rắc rối ở đây. Nếu cô ấy không muốn nói chuyện, thì thôi cũng được, mình đi về.” Tôi đứng dậy bước đi.

- “Không”, cha nhẹ nhàng bảo và đẩy tôi ngồi xuống ghế: “Hãy kiên nhẫn!”

Rồi ngài lại nói thêm với cô, từng lúc chỉ trỏ về phía tôi, và tôi rất ngạc nhiên thấy cô bỗng nhiên ngồi xuống. Cha Svet nói: “Xong rồi, ổn cả rồi!” Ivanka, tuy còn căng thẳng và xa lạ, cũng gật đầu và mỉm cười với tôi khi ngài đang nói. Cha Svet giải thích là Ivanka đang bực mình với đoàn quay phim đài BBC mà cô và Mirjana đã nghe lời cha để cho họ phỏng vấn, nhất là về những câu hỏi riêng tư đặt ra với cô. Thực ra, Ivanka không thích vai trò công khai mà cuộc sống của một thị nhân đòi hỏi. Cô vẫn còn buồn vì không còn được diện kiến Đức Mẹ hằng ngày với các bạn nữa. Tôi đã nhìn thấy điều đó, hôm kỷ niệm năm thứ năm Đức Maria hiện ra, khi cô ngồi trên thảm cỏ với các bạn. Trong khoảnh khắc Đức Maria hiện ra, tôi để ý thấy cô cúi đầu với một vẻ buồn bã dễ nhận ra. Điều này, cộng với nhiều cuộc phỏng vấn - vốn đã được cho xuất hiện trên báo chí hoặc phim ảnh một cách không trung thực như những câu trả lời của cô - đã khiến cha Svet mất thời gian trấn an cô rằng quan điểm của tôi sẽ là thiện cảm.

Để xác định điều đó, tôi thuật cho cô câu chuyện của chính tôi, như tôi mới vừa kể cho Marija chiều hôm đó, kết luận rằng tôi đến đây với tư cách một người hành hương hơn là một nhà báo. Cô cười to, đưa tay ra, và tôi vui vẻ nắm lấy.

Tôi hỏi cô một số câu hỏi chung chung về cuộc sống, cô ở đâu và sắp đi đâu, và tôi nhấn mạnh rằng tôi đến đây không phải để viết một “bản tường trình các sự kiện”. Tôi nói: “Tôi muốn tìm biết cá tính của cô, với tư cách một con người, cô đã cảm thấy gì vào lúc ấy - và bây giờ? Và vai trò thị nhân đã dẫn cô đến đâu?”

Cô đã thật sự cởi mở sau đó, trò chuyện thoải mái, và cho nhiều chi tiết hơn tôi mong muốn. Sau đó, cô mang ra một cuốn album ảnh cho tôi xem. Tôi để ý có một ảnh chụp cách đây vài năm, lúc Ivanka còn để tóc ngắn. Bây giờ tóc cô đã dài trở lại, qua cha Svet, tôi nói: “Tôi thích cô để tóc dài hơn. Như thế mới có vẻ cô không thay đổi chút nào, mặc dù những gì đã xảy ra. Cô vẫn y như thế, dù đã 21 tuổi rồi.”

Từ đó, cô tươi hẳn lên, rồi bắt đầu nói chuyện về đám cưới sắp tới của cô, một chuyện xem ra hãy còn giữ bí mật - trừ ra một số bạn thì biết, tức là tất cả Mễ Du đều đã biết. Tôi mỉm cười nói: “Thôi, tôi sẽ không hỏi cô câu hỏi ai cũng đặt ra (bao giờ làm đám cưới?). Tôi chỉ nói tôi rất mừng cho cô, và tôi nghĩ đó là việc rất tốt.”

Đây đúng là một cuộc trò chyện hơn là một buổi phỏng vấn, khi chúng tôi tiếp tục nói chuyện với nhau về Mễ Du. Và rồi tôi hỏi: “Các bạn sẽ sống ở đây sau đám cưới - ở ngay Mostar này?”

Cô đáp: “Không, chúng tôi muốn trở về Mễ Du”, và tôi cảm thấy cô có vẻ hơi lo lắng về việc này. Rồi cô nói tiếp: “Tôi không biết làm sao nữa.” Khi nói, cô cứ nhìn thẳng vào tôi. Chúng tôi nói chuyện kiểu mắt-đối-mắt, mặc dù cha Svet đang thông dịch. Và một lần nữa, cũng như đối với Marija, tôi không còn là một nhà báo, tôi là một người bạn.

Bỗng nhiên cô hỏi tôi: “Ông có nghĩ tôi sẽ có thể trở về Mễ Du và sống một cuộc sống hạnh phúc, yên tĩnh với chồng tôi không?”

Tôi buồn bã nhìn cô và lắc đầu: “Không đâu Ivanka, tôi không nghĩ cô sẽ được ở yên. Người ta sẽ không để cô yên. Họ còn muốn tiếp tục đến với cô, và cuộc sống của cô sẽ bị phiền toái hơn nữa, bởi vì cô đã có gia đình.”

Đôi tay cô nắm chặt lại: “Tôi không biết phải làm sao!”

Tôi xích lại gần và đặt bàn tay lên cánh tay cô nói: “Suốt những năm qua, cô đã phó thác cho Đức Mẹ hướng dẫn cô. Đức Mẹ đã đến với cô, ban cho cô ơn gọi này, và đã hướng dẫn cô theo đường lối này. Người đã chúc lành cho đời sống hôn nhân sắp tới của cô, tuy trước đó Người đã đề nghị cô một đời sống tu trì. Nhưng khi cô nói muốn chọn cuộc sống hôn nhân, thì Người bảo tùy cô định đoạt, và Người đã chúc lành cho việc cô đang làm!” Ngưng một lát, tôi tiếp: “Ivanka ạ, Đức Mẹ sẽ tiếp tục chăm sóc cô!”

Đức Maria. Phía sau là Lm
René Laurentin, một thần học gia
nổi tiếng, đang chăm chú khảo sát…



Nét mặt cô lúc ấy trông rất tức cười, như thể muốn nói: Phải, phải, ông nói đúng! Và đột nhiên, tôi hoảng hốt tự hỏi: Tôi nghĩ mình là ai mà lại dám ngồi đây, nói với một thị nhân đã từng nhiều năm được diện kiến Đức Maria hằng ngày, rằng mọi sự sẽ êm xuôi? Nhưng tôi đã tuôn ra như vậy vì ý thức về nỗi lo âu của cô.

Ngay lập tức, chúng tôi nhìn nhau và phá lên cười, vì cùng một lúc kinh ngạc về một hoàn cảnh khó có thể xảy ra như vậy lại đã xảy ra.

Tôi quay sang cha Svet và nói: “Tôi không biết mình đang làm gì, khi bảo cô ấy những thứ đó.”

Cha chỉ cười và nói: “Tốt thôi, cô ấy đã được tiền định phải nghe những lời anh nói đấy.”

Sau đó, chúng tôi trở thành bạn thân, tán gẫu không ngớt, cho đến lúc cha Svet nhắc tôi là họ chưa ăn tối. Thế là chúng tôi chia tay, khi Ivanka hôn chào tôi, tôi nói: “Hẹn gặp lại ở Mễ Du.”

Vẫy tay chào tạm biệt, Ivanka nói: “Dạ, như vậy tốt lắm!” Giã biệt cha Svet còn khó hơn nữa. Chúng tôi tìm được một nhà hàng yên tĩnh ở một trong những khách sạn tại Mostar, và có một bữa ăn tối với cuộc chuyện trò tuyệt vời. Khi chúng tôi chia tay nhau thì đã nửa đêm. Điều an ủi duy nhất cho tôi là bây giờ tôi biết mình sẽ trở lại - không phải chỉ một lần.

hoanghac
09-02-2013, 03:45 AM
“Satan rất mạnh và đang sẵn sàng thử thách các con. Hãy cầu nguyện để nó không thể làm tổn thương các con, cũng không thể cản trở các con trên con đường thánh thiện...”
Chương 24
LÊN ĐƯỜNG

Vừa qua là một chuyến đi đầy hứng thú, nhưng được về nhà cũng sung sướng biết bao! - ít ra tôi tưởng như vậy, cho đến lúc bước vào văn phòng vài ngày sau đó. Ở đó, la liệt thư từ chất thành từng đống trên bàn viết của tôi, khiến ai thấy cũng tưởng tôi đã đi vắng một năm. Tôi la lên: “Denease, cái gì đây?” Denease đáp tỉnh bơ: “Thư từ trong hai tuần.”

- “Có chuyện gì vậy? Như thế này mà hai tuần sao? La liệt khắp nơi!”

Denease cười: “Anh có biết số lượng bản sao những bài báo đang gởi đi mỗi tuần là bao nhiêu không? Gần 50 ngàn đấy! Còn những cái mà anh đang nhìn trừng trừng đó không phải là đơn đặt hàng đâu. Đặt bao nhiêu tụi tôi lo gởi đi hết rồi. Trên bàn anh, tôi chỉ để toàn những thư riêng của những người đã đọc các bài báo và muốn viết cho anh để tâm sự!”
Sửng sốt, tôi đến bên bàn giấy, ngồi xuống, rồi rút ra một lá ở trên cùng một chồng gần nhất. Thư này do một phụ nữ ở Illinois gửi đến, như sau:

“Ông Weible thân mến!

Thứ năm vừa qua, một người bạn đã tặng tôi mấy bài xã luận của ông. Tôi đã tình cờ nghe nói về Mễ Du và cho đó là chuyện không thể có. Rồi tôi được đọc mấy bài xã luận của ông, tôi không còn nghĩ như thế nữa. Thật vậy, bây giờ Thiên Chúa là có thật đối với tôi hơn, hơn bao giờ hết, kể từ khi tôi chịu phép Thêm Sức...”

Có ít nhất hơn một trăm lá thư được viết với cùng một nguồn cảm hứng tương tự. Tôi phải mất cả ngày để đọc hết, và khi xong rồi, tôi không nói được lời nào. Tôi cầm một bó đưa cho Terri xem, nàng mỉm cười nói: “Em biết rồi, em đã đọc.”

- “Anh phải làm gì với hết đống thư này?”

Nàng trả lời: “Anh cứ in thêm những bài xã luận, rồi ngồi xuống mà bắt đầu hồi âm cho một số. Có lẽ anh sẽ làm được việc ấy trong thời gian hành trình đi diễn thuyết.”

Quả thật như vậy, càng ngày càng có nhiều lời mời tôi đi các nơi nói về Mễ Du. Tôi đã nhận được thư mời đầu tiên đi diễn thuyết ở ngoài tiểu bang của tôi, trong vài ngày đầu tháng ba. Một phụ nữ ở New Orleans, tên Lettie Bindewald, một thành viên đoàn hành hương của Trung Tâm Hòa Bình trong chuyến đi trước, đã nghe tôi nói chuyện ở tầng hầm Nhà Xứ, và sau Thánh Lễ sáng hôm đó, chị cùng vài người bạn leo lên núi Krizevac. Đến chiều tôi cũng lên đó thì gặp nhóm họ đi xuống. Lettie hơi sửng sốt khi trông thấy tôi, và rút ra từ túi xách đeo trên vai một tờ giấy, chị nói nhỏ với tôi: “Tôi viết cái này khi ở trên đỉnh núi, có ý đưa cho anh sau này. Bây giờ đừng đọc, nhưng chờ đến khi anh lên tới đỉnh.”

Tôi đã làm theo yêu cầu của chị. Đó là những ghi nhận về cảm xúc của chị khi đến Mễ Du, và điều đã tác động mạnh nhất nơi chị là được nghe một người Tin Lành nói chuyện. Chị viết: “Tôi yêu niềm tin Công giáo của tôi, nhưng tôi vẫn ước ao loan truyền sứ điệp này cho anh em Tin Lành một cách mãnh liệt. Cho đến lúc anh nói chuyện, tôi vẫn chưa biết phải làm sao. Nhưng bây giờ tôi biết.”

Tôi bồi hồi cảm động và quyết định cất giữ mảnh giấy ấy. Về sau, chị có biên thư cho tôi, và trong thư phúc đáp, tôi đã đồng ý một lúc nào đó trong tương lai sẽ đến nói chuyện ở chỗ chị. Nhưng chị đã gọi. Chị nói: “Tôi không nghĩ tôi sẽ gọi điện cho anh sớm đến thế, nhưng có một nhóm người ở đây đã từng đọc bài xã luận của anh, bây giờ rất sung sướng mời anh đến nói chuyện.”

Tôi chấp nhận, nói cho chị biết đây là lần đầu tiên tôi đi diễn thuyết ngoài tiểu bang Nam Carolina, vì quả thật tôi chưa bao giờ đi nói chuyện ở đâu xa nhà tôi hơn 100 cây số.

Chị trả lời: “Tuyệt quá! David và tôi rất hân hạnh được tiếp anh ở nhà, nhưng nếu anh muốn, chúng tôi sẽ đặt phòng khách sạn cho anh.”

Tôi nói nhanh: “Không, không, tôi thích ở với gia đình anh chị.” Tôi ngạc nhiên về quyết định của mình, vì thường tôi thích một căn phòng khách sạn hơn. Nhưng, bây giờ khác rồi: tôi muốn ở chung với những người yêu mến Mễ Du giống tôi vậy.

Tôi nói với Terri về cú điện thoại và tôi đã nhận lời mời đến đó diễn thuyết. Trong tất cả các thành phố ở Bắc Mỹ, New Orleans là nơi quan tâm đến Mễ Du nhất. Tôi không có lời giải thích nào về việc này, nhưng tôi chắc chắn có được rất nhiều lời xác nhận. Cho đến nay, đó là nơi chúng tôi gửi đến những bài xã luận với số lượng nhiều nhất. Và tất cả là do công truyền bá của Terry Colafrancesco và Peter Crary.

Terri trả lời bằng một giọng khó có thể cho là hăng hái: “Trời ơi, đi hoài à! Bây giờ anh lại còn nói tới chuyện đi diễn thuyết ở bang khác!” Nàng lại càng không vui khi biết ngày giờ chuyến đi. Nàng cằn nhằn: “Đó là ngày em phải đi Texas dự đám cưới Doris đấy - em đã nói với anh rồi!”

Khi nàng nói ra, tôi liền nhớ lại. Nhưng tôi vẫn lạc quan đáp: “Coi nè, tại sao em không đi Texas, rồi khi đám cưới em gái em vừa xong, thì lấy máy bay đi New Orleans? Anh hết sức mong em đến với anh.”
Nàng suy nghĩ một lát rồi lắc đầu: “Em không muốn bỏ mặc con cái lâu ngày như vậy.”

Tôi vẫn giữ lập trường: “Chúng ta có thể nhờ người trông coi chúng. Thôi mà, đi đi, em sẽ thích New Orleans ngay.” Nàng nghe theo. Terri biết chuyện gì sắp xảy ra. Từ ngày tôi xuất hiện trên đài truyền hình trong chương trình của Sally Jessy Raphael hồi tháng hai, những lời mời đi diễn thuyết đến từ khắp nơi trong nước. Con số những bài báo gửi đi cũng tăng lên theo.

Chương trình truyền hình đặc thù này được một hãng thông tấn quốc tế mua bản quyền, và là một dịp tốt để giới thiệu những cuộc hiện ra ở Mễ Du với ngành truyền thông trên cấp độ quốc gia. Không ngờ là hai ký giả khác có mặt với tôi trong chương trình tivi ấy đều là người New Orleans - Jim Bailey và Mary Lou Mc Call, là ê kíp chủ chốt chương trình tin tức thời sự của đài truyền hình địa phương. Sau khi nghe nói về sự kiện hiện ra tại Mễ Du, họ đã thuyết phục được viên giám đốc của đài rằng: một chuyến đi đến cái làng nhỏ bé, làm một loạt phóng sự tường tận sẽ làm tăng một cách đáng kể số khán giả của đài. Hằng ngàn cư dân địa phương gốc Công giáo trong và quanh miền New Orleans đã kéo nhau đi hành hương Mễ Du, hoặc đã nghe nói về Mễ Du. Người ta khao khát được biết thêm tin tức về hiện tượng đó.

Trước khi đi, quan tâm chủ yếu của mấy ký giả này chỉ có tính cách nghề nghiệp; cũng như tôi, họ chỉ biết săn tin giật gân - và có lẽ cũng có một giải thưởng quốc gia kèm theo. “Chúng tôi tìm cách để có thể tố giác toàn bộ câu chuyện là trò lừa bịp, và biết đâu nhờ đó mà ẵm một giải Emmy của ngành truyền hình!” Đó là lời thú nhận của Mary Lou, giờ đây đã cảm thấy xấu hổ. Người phụ nữ chuyên nghiệp hiện đại này, hấp dẫn và thông minh, là một người Công giáo, nhưng trước khi đến Mễ Du, chị đã bỏ lễ hơn hai năm. Còn Jim Bailey, người tự nhận theo thuyết “bất khả tri” (không thể biết các điều gì siêu phàm), có gia đình thuộc giáo phái Báptít trên danh nghĩa. Lần cuối cùng anh đi nhà thờ chỉ vì là lễ hôn phối của chính anh.

Họ trở về từ Mễ Du với một loạt phim tài liệu xuất sắc, đầy tính khách quan nghề nghiệp về những cuộc hiện ra, và quả thật, bộ phim đã làm tăng số khán giả của đài trên cả mức dự kiến của mọi người liên quan. Họ cùng trở về nhà với một lòng xác tín không lay chuyển là Đức Trinh Nữ Maria thực sự đang hiện ra cho các thị nhân. Từ đó, cuộc sống của họ thay đổi hẳn - y như trường hợp tôi. Sau này, họ còn đi khắp nơi xa gần để truyền bá sứ điệp cho mọi người, thuộc mọi tín ngưỡng.

Chương trình truyền hình đó - lần đầu tiên phát sóng trên toàn quốc câu chuyện về Mễ Du - như thế cũng đã đề cập cả đến ơn gọi của ba ký giả trước kia là những người vô tín đa nghi, và nay có cuộc đời thay đổi toàn diện. Chương trình này được phát sóng vào tháng 2 năm 1987, và đã mau chóng trở thành một trong những mảng được ưa chuộng nhất trong lịch sử các chương trình truyền hình. Hàng ngàn lá thư và cú điện thoại tuôn tới phim trường của họ tại St. Louis, yêu cầu cung cấp thêm thông tin về các lần hiện ra. Trong sáu tuần kế tiếp, nó được phát lại trong hơn 83 tỉnh thành, kể cả phần lớn các tỉnh nước Canada và Anh quốc. Chỉ trong vòng 30 phút thôi, mà chương trình truyền hình này đã truyền bá tích cực cho công chúng về sự hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria tại Mễ Du, hơn tất cả mọi nỗ lực trước đó của ngành truyền thông gộp lại. Và bây giờ, tôi đang lên đường đi New Orleans...

Đón tôi tại sân bay vào một sáng thứ bảy đầu tháng ba là anh chị Lettie và David với bốn đứa con của họ. Căn cứ theo sự im lặng của David trong suốt đoạn đường về nhà, tôi đoán là anh không hoàn toàn hăng hái như vợ anh về chuyến đi diễn thuyết này của tôi. Người đàn ông cao lớn, ít nói ấy đã nghe tôi nói chuyện ở Mễ Du, và bây giờ anh đang mỉm cười, nhưng tôi nghĩ David Bindewald là một người không muốn dính dáng đến bất cứ điều gì một cách bốc đồng. Qua thái độ, cử chỉ, anh như muốn nói: Được rồi, nếu anh không lừa bịp, hãy chứng minh cho tôi thấy.

Họ đã lên chương trình cho ngày hôm đó là có hai buổi nói chuyện - một vào buổi chiều, và một vào buổi tối. Terri đã đi Austin ngày thứ năm, và phải đến New Orleans vào khoảng sáu giờ chiều, đúng vào lúc chúng tôi di chuyển đến địa điểm dành cho cuộc nói chuyện buổi tối. Lettie bảo đảm với tôi sẽ có một người bạn đến đón và đưa Terri đến dự buổi nói chuyện.

Trên máy bay sáng hôm ấy, tôi cố gắng không nghĩ gì về chuyến đi này - nhưng cuối cùng cũng nghĩ ngợi linh tinh. Tất nhiên, tôi đã cầu xin Thiên Chúa, nhờ Thánh Linh của Người ban cho tôi lời để nói và cách để diễn đạt. Tôi biết là tôi không nên lo sợ, vì như thế có nghĩa là tôi không tin vào quyền phép của Chúa - tuy nhiên, tôi vẫn không thể cưỡng lại được.
Bây giờ, tôi đang ở đây, và sửa soạn cho buổi diễn thuyết thứ nhất trong một nhà thờ Công giáo rất lớn, có một bãi đậu xe mênh mông - hầu như đã đặc kín khi chúng tôi đến nơi. Nhưng còn 45 phút nữa mới bắt đầu!

Khi chúng tôi bước ra khỏi xe và đi lên cửa trước, dân chúng túa đến, tay cầm bản sao những bài xã luận của tôi mà vẫy, và nói: “Ông Wayne, xin vui lòng ký tên vào đây cho tôi!” … “Cho tôi chụp tấm hình ông với chồng tôi được không?”… “Tôi có thấy ông trên tivi...” Và nhiều người khác cám ơn tôi chỉ vì đã viết mấy bài báo.

Không mấy chốc, tôi bị bao vây. Tôi không biết làm thế nào, đành ký tên lia lịa, không phải vì tôi muốn, nhưng nét mặt của họ khiến tôi nghĩ thà cứ ký tên vào, còn hơn là nói không với họ. Tôi liếc mắt nhìn David Bindewald và tưởng tượng điều anh đang nghĩ: “Bây giờ mình mới vỡ lẽ: tất cả những chuyện ấy chỉ để cho cha này bước lên đài vinh quang thôi!”
Tôi liền cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cất điều đó khỏi con. Khi con bắt đầu nói thì xin cho họ thấy Chúa, chứ đừng thấy con.” Và tôi cảm thấy sự bình an của Người bao phủ trên tôi.
Khi chúng tôi đi ở lối giữa để vào nhà thờ, tôi không thể không nhận thấy nhà thờ đã chật như nêm. Đến khi nghe Cha Xứ nói nhỏ với Lettie là họ ước đoán số người tham dự vào khoảng 1.200 người, mắt tôi mở to, và tôi bắt đầu khiếp vía.

Rồi bỗng nhiên họ vỗ tay. Tôi hoảng hồn - nhưng đồng thời đầy lòng tri ân. Tôi biết họ đang thực sự tán tụng kỳ công của Thiên Chúa tại Mễ Du, còn tôi chỉ là sứ giả của Người. Và tôi cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc. Người đang tỏ ý hài lòng, vì tôi đang hoàn thành sứ mệnh loan truyền sứ điệp Người đã mang đến từ Con của Người. Tôi mỉm cười, vẫy tay chào họ, và nôn nóng bắt đầu.

Ngay lúc tôi mở miệng nói, tôi nhận ra Thiên Chúa đang đáp lời tôi xin và ban cho tôi lời lẽ để nói. Tôi không biết tôi sẽ nói tiếp lời gì, nhưng nó cứ tuôn ra từ miệng tôi, luôn luôn chính xác từng lời.

Sau mục tường thuật, chúng tôi có thêm ít phút trao đổi dưới dạng hỏi đáp, và phần này nữa, tôi cũng phản ứng nhạy như điện trong các câu trả lời. Hình như mỗi câu hỏi là một vấn đề có lẽ đã đè nặng trong tâm tư nhiều người. Và với ơn Chúa, Người dường như đang ban cho tôi những câu đáp làm sáng tỏ vấn đề và mang lại ích lợi.

Cuối cùng, Cha Xứ giơ tay lên nói: “Đây sẽ là câu hỏi cuối cùng. Tối nay, anh Wayne còn phải nói chuyện ở một nhà thờ khác, chúng ta không muốn anh ấy bị kiệt sức hoặc đến trễ giờ!” Tôi nhìn ông ngạc nhiên, ngỡ rằng mình mới nói được nửa giờ, ngờ đâu đã kéo dài hơn một tiếng rưỡi.

Khi tôi bước xuống bục giảng sau bài thánh ca tạ ơn, những hàng ghế bắt đầu trống, vì người ta vội vàng tuôn đến quanh tôi, tất cả đều hỏi cùng một lúc và xin tôi cầu nguyện cho họ. Tôi ngơ ngác. Chưa bao giờ tôi trải qua những chuyện như thế này! Tôi cảm thấy vừa bối rối lại vừa hạnh phúc - và phần nào tách rời không dính líu, như thể tôi đang đứng xa xa mà nhìn những gì đang xảy ra...

Tôi cố gắng tập trung chú ý vào từng người một. Một phụ nữ, mắt đẫm lệ, bắt đầu nói bà hết sức thích thú nghe tôi nói chuyện, rồi lập tức trút ra hết với tôi những vấn đề phức tạp của gia đình bà.

Có rất nhiều trao đổi với từng người một như vậy, hết người này đến người khác. Sau khoảng 30 phút, Lettie nhẹ nhàng nhưng kiên quyết nhắc tôi đã trễ giờ, phải đi ngay. Và thế là chúng tôi phải chật vật lách qua đám đông thoát ra ngoài.

Nhà thờ kế tiếp, cũng Công giáo, nhỏ hơn, nhưng người ta ngồi chen chúc hơn ở nhà thờ trước.

Khi gần đến cổng, chúng tôi được báo cho biết có khoảng 900 người đang đợi. Thật là vui, vì Terri đã đến ngay phía sau chúng tôi. Gặp nàng tôi mừng quá! Nhưng khi thấy dân chúng đứng chật tận cuối nhà thờ và dọc theo lối đi, nàng phát hoảng, miệng thều thào: “Trời đất, em không ngờ lại như vầy!”

Sau đó, khi chúng tôi rẽ đám đông dân chúng để tiến lên phía trước, Terri níu chặt cánh tay tôi, thầm thì giọng trêu chọc: “Anh sẽ nói cái gì với cả đám người này?”

Tôi đáp khẽ lại: “Terri, đừng nói như thế!” Rồi tôi bắt đầu nghĩ: tôi có sẽ nói cũng những điều mà tôi đã nói trong phiên buổi chiều không?

Cũng vẫn với cảm giác nôn nóng và sự hiện diện mạnh mẽ ấy của Thiên Chúa như lần trước, tôi bắt đầu nói. Nhưng chưa được bao lâu thì vị linh mục tiến lên thông báo: “Tôi rất tiếc phải làm gián đoạn buổi nói chuyện, nhưng chúng ta đang có vấn đề: có 12 chiếc xe ngoài kia đậu không đúng chỗ. Trước đây, cảnh sát đã cảnh cáo rồi. Bây giờ chúng tôi không muốn họ đến kéo xe đi, vậy ta cần phải dời xe đi gấp. Đây là những xe có bảng số như sau...”

Đến lúc ông gọi xong bảng số xe thứ 12 và người chủ xe lách ra khỏi ghế ra ngoài, thì dòng điện trong người tôi tắt ngúm. Tôi cố gắng nối lại chỗ đã bị bỏ lửng, nhưng cảm thấy hụt hẫng, như thể tôi đang cố đẩy một khối đá lớn lên một cái đồi dốc đứng. Chỉ khi gần kết thúc, thì cái cảm xúc đặc biệt của Mễ Du mới trở lại, tôi mới thấy lòng mình rộn ràng, sôi nổi như trước. Một lần nữa, lời lẽ nơi miệng tôi cứ tự nhiên tuôn ra, và những giọt lệ cũng cứ tự nhiên trào lên nơi khoé mắt của nhiều người.

Khi tôi kết thúc, một việc tương tự cũng xảy ra như lần trước: đám đông xô đẩy về phía trước để chào tôi, để bắt tay, để gởi gấm tâm sự và xin cầu nguyện. Lần này, tôi đã có thể ở lại với họ lâu hơn một chút.

Trên đường về, Terri nhỏ nhẹ nói với tôi: “Đó là bài hay nhất mà em từng được nghe anh nói.”

Tôi giật mình, vì nàng không dễ khen ai; tôi đáp lại: “Sau lúc bị gián đoạn để họ đọc số xe, anh cảm thấy nói khó quá. Lúc đầu nói thật là dễ dàng, nhưng khi bị gián đoạn rồi thì không có hứng nữa, cứ thế mãi cho đến khi gần kết thúc.”

Nàng ngạc nhiên nói: “Đối với anh có thể như thế thật, nhưng không phải như vậy nơi những người em thấy chung quanh em. Bài nói chuyện của anh rất hay, rất thích hợp.” Rồi nàng vội nói thêm với một nụ cười tinh nghịch: “Nhưng anh đừng tưởng bở sẽ luôn luôn được như vậy!”

Ngày hôm sau, Chúa nhật, tôi nói chuyện cả sáng lẫn chiều. Ở phiên buổi chiều, thật không tin được, Cha Xứ lại phải chen vào la rầy con chiên về chuyện đậu xe; rồi lại một đám đông tràn ra khỏi nhà thờ. Rồi, như một màn chiêu đãi đặc biệt để kết thúc, Lettie đã thu xếp để tôi nói chuyện tối hôm ấy tại một nhà thờ Tin Lành Lutêrô gần nhà họ. Lettie nói: “Chúng tôi làm việc này là cho anh. Đó là một nhà thờ mới toanh, nhưng nhỏ thôi, cho nên ta không mong số người đến nghe vượt quá 40 hay 50.”

Tôi mỉm cười đáp: “Tốt. Chúa muốn cho ai đến, người ấy sẽ đến.”

Bữa ăn tối vừa xong, Lettie nói: “Có một chuyện tôi quên nói với anh: mỗi lần nói chuyện, anh đều đề cập đến tràng hạt Mân Côi và cho biết nó có ý nghĩa lớn lao chừng nào đối với anh. Nhưng tối nay, vì người tham dự toàn là Tin Lành Lutêrô... vậy thì anh nên thận trọng, đừng đề cập đến chuỗi Mân Côi..”

Tôi ngạc nhiên hỏi Lettie: “Tại sao? Tôi vẫn luôn nhấn mạnh chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện với Chúa Giêsu, và...”

Chị vội vàng nói: “Vâng, tôi biết, nhưng đây là một thông điệp tế nhị. Người Công giáo hiểu ngay, nhưng có thể người Tin Lành không hiểu.”

Terri quay sang tôi: “Anh à, chị ấy nói có lý đó.”

Tôi mỉm cười: “Thôi được, tôi sẽ tùy cơ ứng biến.”

Khi chúng tôi đến nhà thờ, tôi cảm thấy biết ơn vì là buổi nói chuyện cuối cùng. Chưa bao giờ làm chuyện này trước đây, tôi không nhận ra là vài ngày diễn thuyết liên tiếp như vậy cực nhọc đến thế nào. Kể cả buổi phỏng vấn của đài phát thanh, đây là bài diễn thuyết thứ sáu của tôi trong vòng hai ngày, và tôi thật tình không hiểu mình còn chịu nổi nữa hay không. Tuy nhiên, đây lại là một nhà thờ Tin Lành Lutêrô... Và đàng khác, tôi cũng tự nhắc cho mình nhớ: đây sẽ không phải là chính tôi hành động...

Nhà thờ này cách nhà chị Lettie khoảng một cây số, chúng tôi không mất nhiều thời gian đi đến đó. Lại một lần nữa, nhiều xe đậu trên đường dẫn tới nhà thờ, đến nỗi đi bộ tới nhà thờ sau khi xuống xe mất nhiều thời gian hơn là lái xe từ nhà chị Lettie đến đó. Vị mục sư rất phấn khởi khi đón chúng tôi: “Chúng ta có hơn 400 người ở trong đó!”

Khi chúng tôi đi vào nhà thờ, Terri ghé tai tôi nói nhỏ: “Anh nhớ nhé, đừng nhắc đến chuỗi Mân Côi đấy!”

Nàng nói chưa dứt, thì có một phụ nữ trẻ Công giáo tên Eugenie, mà tôi đã gặp tại Mễ Du, tiến đến gần tôi, nhìn quanh rồi nói nhỏ: “Anh Wayne, nếu anh muốn nói với họ về chuỗi Mân Côi, thì tôi có sẵn 100 cỗ đây nè!” rồi chị vỗ vỗ vào túi xách to tướng của chị. Tôi không nhìn Terri.

Khi đã ở trước mặt thính giả, tôi không thấy có micro; họ không thể ngờ người ta sẽ đến đông như thế. Không thành vấn đề, tôi tin chắc Chúa Thánh Linh sẽ phóng lớn âm thanh, nếu cần. Khi bài thánh ca khai mạc xướng lên, tôi nhận ra tôi sung sướng biết bao vì được chia sẻ những điều này với các anh em Tin Lành Lutêrô của tôi.

Tối hôm ấy, tôi cảm thấy bổn phận phải làm sống lại Giáo hội Lutêrô đè nặng trên tôi đến nỗi tôi đã đi vào đề mạnh bạo hơn bình thường. Tôi nhấn mạnh tới sự cần thiết phải quan tâm nhiều hơn đến đời sống thiêng liêng, cũng như phải mở lòng ra với Chúa Thánh Linh. Đến khi đang thao thao nói về sự kiện Mễ Du được nửa chừng, đột nhiên tôi khựng lại. Trong tôi bỗng nổi lên một thôi thúc mãnh liệt phải nói với họ về chuỗi Mân Côi.

Rút từ trong túi ra tràng hạt của mình, tôi giơ cao lên và nói: “Tôi sẽ nói với các bạn chuyện này: tôi lần tràng hạt này mỗi ngày. Nhiều người trong các bạn thậm chí không hiểu chuỗi Mân Côi là gì, và nhiều người khác sẽ nhìn xâu chuỗi này mà nói: Cái đó là của Công giáo...” Tôi ngưng một lát và tiếp: “Được rồi, để tôi nói cho các bạn nghe, tôi không xem cái này là của Công giáo. Đối với tôi, đó là lời cầu nguyện với Chúa Giêsu Christ. Và đó là cách tôi đọc kinh này, như là lời kinh dâng lên Chúa Giêsu. Khi các bạn đi từ đầu đến cuối tràng hạt Mân Côi, các bạn đang đi xuyên suốt cuộc đời của Chúa Giêsu từ lúc giáng sinh, đến cái chết thập giá, rồi đến Phục sinh. Và nếu các bạn cầu nguyện thật lòng, không do thói quen, nhưng suy niệm Đức Giêsu là ai và Ngài đã làm gì, thì tràng hạt Mân Côi không làm gì khác hơn ngoài việc lôi kéo các bạn đến gần Chúa Giêsu. Có thể các bạn sẽ không cảm thấy gần gũi gì mấy với Ngài khi các bạn bắt đầu, nhưng khi kết thúc thì các bạn đã ở đó rồi, sát bên Ngài...”

Liếc nhìn về phía Terri, tôi thấy nàng đang tròn xoe đôi mắt nhìn lên trời. Tôi kết luận: “Trong tất cả các việc đạo đức có liên quan đến kinh nguyện tôi học được từ Mễ Du, đây là kinh nguyện tôi trìu mến hơn cả.” Tôi kết thúc bằng cách báo cho họ biết: một phụ nữ trẻ tuổi ở cuối nhà thờ đang có 100 cỗ tràng hạt sẵn sàng biếu cho những ai muốn có.

Tôi vừa dứt lời, một tràng pháo tay nổ ra như sấm. Và khi người ta báo có giải lao với cà phê và bánh ngọt trong phòng họp, thì ở cuối nhà thờ diễn ra một cảnh lộn xộn. Người ta đang sấn tới Eugenie để dành được tràng hạt. Về sau, chị ấy cho biết chỉ trong hai phút, số tràng hạt đã hết sạch.

Thay vì đi giải lao, tôi rút êm ra bên ngoài. Đây có lẽ là lần thứ nhất trong suốt ba ngày tròn tôi được ở một mình. Tâm hồn tôi tràn đầy hạnh phúc, mặc dù thân xác tôi mệt lừ. Rồi ngay lúc ấy, tôi cảm thấy một niềm vui tột độ dâng lên trong lòng. Tôi có cảm giác Đức Maria đang ở ngay bên cạnh. Theo trực giác, tôi biết là Người đang có mặt ở đó với tôi, vì tôi đã nói về tràng hạt Mân Côi, và điều đó làm Người vui lòng. Tôi quyết định sẽ không bao giờ tránh né nói về tràng hạt Mân Côi, nếu đó là những gì Thánh Linh hướng dẫn cho tôi nói.

Chuyến đi New Orleans lần ấy dường như đã mở ra một đập xả nước lũ những lời mời đi diễn thuyết, và tôi bắt đầu đi khắp nơi: Indianapolis, Pittsburgh, Philadelphia... Tôi hết sức thích thú những chuyến đi ấy, không cần biết những nhọc nhằn do đó mà ra. Vì thật là hào hứng được thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động giữa dân Người.

Hiện nay, mặc dù tôi phải vắng nhà thường xuyên, Terri vẫn tán thành. Có lần tôi than phiền không biết làm sao đeo đuổi công việc ấy được, nàng nói: “Tại sao anh không tổ chức đi cách một tuần một chuyến - rồi thử xem sao?”

Tôi biết là nàng khổ sở lắm khi nói ra điều ấy. Không phải chỉ là sự vắng mặt của người chồng và người cha trong gia đình, nhưng còn vì nàng phải điều hành công ty in ấn hầu như một mình. Nàng phải đương đầu với mọi vấn đề nhức óc... Tôi chỉ biết nhìn nàng lắc đầu.

Vào khoảng lễ Phục sinh năm 1987, con số một triệu bản sao được phát hành mà tôi mơ tưởng đã bị vượt qua bởi một triệu bản nữa. Số lượng đơn đặt mua báo ngày càng tăng. Bây giờ chúng tôi cần thêm ba xưởng in mới đáp ứng đủ nhu cầu, và một hôm, Terri trầm ngâm nói: “Anh biết không, có lẽ mấy bài xã luận đó chính là quyển sách mà anh vẫn mong viết. Em nhớ là có nói với anh trước đây rồi, nhưng...”

Tôi lắc đầu lia lịa: “Không đâu, Terri, anh phải viết cuốn sách đó! Bây giờ có lẽ chưa đến lúc, nhưng trước sau gì anh cũng phải viết.”

Trong lúc ấy, việc đi đây đó để diễn thuyết thì quan trọng hơn. Đã đến lúc đưa sứ điệp lên đường.

---o0o---

hoanghac
09-02-2013, 03:46 AM
“Mẹ thúc giục các con dâng mọi hi sinh cho Chúa với lòng yêu mến. Mẹ mong muốn các con - vốn là những người trơ vơ không tự lo liệu được - hãy bắt đầu trông cậy...”
Chương 25
MARY MARGARET


Có hai chuyến đi khác vào mùa xuân năm 1987 cũng đáng chú ý. Chuyến thứ nhất đến Nashville, bang Tennessee, nơi tôi đã được các nữ tu Dòng Đaminh trường Trung học Aquinas mời. Khi đến diễn thuyết ở New Orleans, tôi đã nói rõ tôi không đòi hỏi một khoản thù lao nào, ngoài vé máy bay và một chỗ trọ. Đó sẽ là tiêu chuẩn cho tôi khi đến nói chuyện về Mễ Du ở các nơi.

Tôi giật mình khi biết giá vé máy bay đi Nashville là hơn 500 đô, và người liên lạc của tôi ở Aquinas là sơ Mary Louis cũng hoảng hốt không kém, vì thông báo về buổi nói chuyện đã được gởi đi khắp nơi, còn hội trường đã đặt thuê rồi.

Chị than thở với tôi: “Chúng tôi chỉ có 250 đô thôi, nhưng vì chúng tôi mong ông đến quá... Tôi không biết phải làm sao.”



Tôi trả lời: “Sơ đừng lo, tôi sẽ trả phần tiền còn lại.” Chị đón tôi tại sân bay, tôi nhận ra đó là một nữ tu tuyệt vời và khiêm tốn. Tối hôm ấy, tôi được đặc ân nói trước một cử tọa gồm toàn nữ tu Đaminh. Khi bắt đầu, tôi đã nghĩ một người tín đồ Tin Lành như tôi thì có thể nói cái gì, để tạo cảm hứng cho một nhóm phụ nữ đã hiến trọn đời mình phụng sự Chúa? Dầu vậy, tôi đã có thể vượt qua được sự ngập ngừng ban đầu, và đã kể cho họ về câu chuyện và vẻ đẹp của sứ điệp Mễ Du. Một lần nữa, Chúa Thánh Linh đã có mặt và tác động mạnh mẽ, và thời gian trải qua với các ái nữ đặc biệt của Chúa khiến cả hai bên đều hài lòng. Về sau, tôi nhận ra là họ cũng giống như bất cứ nhóm nào khác, họ cũng có nhu cầu, có nỗi sợ hãi, nghi nan và có một ước muốn được biết về những phép lạ chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.


Xế chiều hôm sau, tôi nói chuyện tại trường Trung học nói trên và dự kiến còn phải diễn thuyết một lần nữa vào tối hôm ấy. Hầu như đã trở thành tiêu chuẩn thông lệ, hội trường đông nghẹt thính giả, chỉ có điều gây ngạc nhiên vì đó là một buổi nói chuyện vào lúc xế chiều. Khi tôi kết thúc, có một phụ nữ chen lấn trong đám đông đang vây quanh để đến được gần tôi, níu tay tôi nói: “Ông Wayne, ông không biết tôi, nhưng tôi vừa đi Mễ Du về với một số người dân ở đây...”

- “Tuyệt quá! Tôi rất mừng vì chị đi được tới đó - và được thấy...”

Chị vội ngắt lời tôi: “Xin lỗi ông, nhưng vội quá, tôi đang đậu xe trái phép ngoài kia. Có nhiều người trong nhóm nhờ tôi đến nói với ông: chúng tôi mời ông dùng bữa tối nay, và chúng tôi không muốn ông từ chối chút nào. Tôi sẽ đón ông ở đây lúc 5 giờ chiều. Tôi hứa sẽ đưa ông về lại đây đúng giờ cho buổi nói chuyện tối. Như thế có được không sơ?” chị quay sang hỏi sơ Mary Louis đang đứng gần và cũng đang ngẩn ngơ như tôi.

Người nữ tu nhún vai với một nụ cười: “À, cái đó tùy ông Weible!”

- “Chắc cũng được thôi!” tôi nói một cách yếu ớt, vì lúc ấy tôi cảm thấy được thúc giục từ bên trong phải nhận lời mời bất thường ấy, mặc dù tôi không muốn rời khỏi khu vực này chút nào. Việc được người ta “quá mong chờ”, thật không hợp với tính tôi, vì tôi thường chỉ muốn quay về phòng, và tận hưởng vài giờ yên tĩnh.

Chị ấy la lên: “Hoan hô Wayne! Tôi sẽ đến đón ông ngay phía ngoài hội trường vào đúng 5 giờ chiều.”

Đúng như đã hứa, Mollie Gavigan, như người phụ nữ tự giới thiệu, đã có mặt lúc 5 giờ đúng. Trong khi lái xe về nhà, chị kể tóm tắt cuộc hành hương của 70 người dân Nashville đến Mễ Du và mới trở về. Chị bắt đầu câu chuyện: “Phần lớn chúng tôi đi Mễ Du là vì một cặp vợ chồng ở đây. Họ tên là Gino và Jeannie Marchetti, có một đứa con gái 2 tuổi là Mary Margaret bị xơ nang. Jeannie đem con đi Mễ Du, hi vọng được vào phòng “hiện ra” để con gái được chữa lành.”

Chị còn nói đã có một phóng viên và một người quay phim của một đài truyền hình địa phương đi theo nhóm, để làm một phóng sự đặc biệt, tập trung vào gia đình Marchetti và ước nguyện con gái họ được phép lạ chữa lành.

Nhóm 70 người này đã thấy thời tiết ở đấy vào đầu tháng ba lạnh và gió khủng khiếp - nhưng họ vẫn cảm thấy ấm áp cũng như nhiều người đã đến trước đó, vì sự hiếu khách đặc biệt của dân làng. Người bạn thân của tôi, cha Svetozar, lại một lần nữa nắm bắt được sự việc. Họ đã gặp cha lúc ngài đang đi đường, liền nhận ra ngài và xin ngài đặt tay cầu nguyện chữa lành cho Margaret. Cha Svet, theo cách đơn sơ và khiêm tốn của ngài, đã bảo Jeannie là tốt hơn nên cầu nguyện cho Margaret, con gái của họ, được hạnh phúc hơn là được khỏi bệnh.

Mollie nói thêm: “Jeannie thực sự thất vọng. Đã từng đọc sách và nghe nói rất nhiều về cha Svetozar, cô ấy chỉ biết có một điều là cha có thể làm phép lạ.”

Vào ngày trước khi nhóm hành hương phải ra về, gia đình Marchetti đã được phép vào trong căn phòng nhỏ của Nhà Xứ, để được có mặt lúc Đức Maria hiện ra. Sau lần ấy, Gino và Jeannie nhìn nhận rằng phép lạ đích thực là việc chính họ được chữa lành: bây giờ, họ có thể chấp nhận tình trạng của con gái họ. Mặc dù Mary Margaret trở về nhà vẫn đau đớn vì bệnh xơ nang, nhưng gia đình Marchetti đã biết vui lòng đón nhận Thánh Ý Chúa, bất luận việc gì sẽ xảy ra.

- “Chuyện hay quá, Mollie.” tôi thì thầm, xúc động, vì một lần nữa, phép lạ Mễ Du đặt trọng tâm vào việc chúng ta biết chấp nhận cuộc sống, dù nó ra sao. Tôi mong sao mọi người đều biết được điều này, và tập trung vào phương diện này của các cuộc hiện ra ở Mễ Du, chứ không nhắm vào các hiện tượng hoặc phép lạ, chẳng hạn như tràng hạt đổi thành màu vàng kim loại, hoặc mặt trời nhảy múa trên không trung, hoặc cây Thập giá biến mất khỏi đỉnh núi Krizevac. Mễ Du đơn thuần là một món quà của tình yêu vô biên Thiên Chúa tặng cho mỗi người chúng ta.

Nhưng, khi đến nhà Mollie và sau ít phút hỏi han Jeannie, lúc ấy đang bế Mary Margaret trên tay, tôi nhận thấy cô đang cố kềm chế những cảm xúc của mình. Cuối cùng, không chịu được nữa, cô òa lên khóc nức nở: “Tôi có thể nói chuyện với anh một mình, ở chỗ khác, được không?”

Chúng tôi đi ngay vào một phòng ở phía sau. Mary Margaret thì khác hẳn với thái độ bồn chồn, đau khổ của mẹ: em ngồi trên đầu gối mẹ, tươi vui và bình thản.

- “Anh nghe này, tôi biết Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi ơn biết chấp nhận bệnh trạng của con mình, và tôi đã chấp nhận. Nhưng tôi có sai không, nếu cứ tiếp tục nài nỉ xin cho con tôi được khỏi bệnh?”

Lúc ấy, Jeannie âu yếm đưa mắt nhìn xuống đứa con, và bình tĩnh nói thêm: “Có lẽ tôi đã không biết ơn Chúa cho đủ vì những gì Chúa đã ban cho chúng tôi trong chuyến đi ấy.”
Tôi biết phải nói gì hoặc làm gì cho người phụ nữ này bây giờ? Ai có thể hiểu được nỗi khổ của một người mẹ đối với đứa con, ngoài một người mẹ khác? Tôi bỗng nghe chính tôi nói: “Jeannie, cô mong muốn cho Mary Margaret được khỏi bệnh thì đâu có gì sai trái; tuy nhiên, điều cô phải làm là hoàn toàn đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, là yêu thương cháu bé và tạ ơn Chúa cho cháu, bất luận tình trạng của cháu như thế nào...”

Tôi ngừng lại, ngạc nhiên vì những lời lẽ tôi vừa nói đã đến một cách dễ dàng như thế. Đối với tôi, hoặc với bất cứ ai chưa hề trải qua thử thách như vậy, thì nói những lời ấy chẳng khó khăn gì. Nhưng mọi sự đã rõ: hãy hoàn toàn phó thác và chấp nhận mọi sự xảy đến cho đời ta.

Tuy nhiên, tôi vẫn linh cảm mạnh mẽ cháu bé sẽ được chữa lành, và tôi lại nghe thấy mình tự dưng nói với mẹ cháu: “Mary Margaret sắp được chữa lành.”

Tôi cho tay vào túi áo khoác, rút chuỗi Mân Côi của mình ra. Tôi quý xâu chuỗi này như là một phần của chính tôi. Một phụ nữ tuyệt vời sống gần Myrtle Beach đã tự tay kết tràng hạt này bằng những hạt gọi là “nước mắt ông Gióp”, rất hợp để làm thành xâu chuỗi. Và người ấy đã tặng cho tôi như một món quà đặc biệt. Tôi đưa xâu chuỗi cho Jeannie: “Đây, tôi mong cô giữ lấy và lần tràng hạt này để cầu nguyện cho Mary Margaret.”

- “Ồ, tôi không dám...”

- “Không, cô phải cầm lấy!” Tôi nói thêm: “Cô nghe này, tôi sẽ đặt tay trên Mary Margaret và cầu nguyện cho cháu - ngay bây giờ.”

Tôi không tin nổi mình đang làm chuyện này! Từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ đặt tay trên ai mà cầu nguyện cả, nhưng giờ đây, một điều gì đó đang thúc giục tôi. Trong lòng tôi như thể đang diễn ra một cuộc chiến, vì một tiếng nói khác dường như đang bảo tôi: “Mày điên hả? Mày tưởng mày là ai mà dám làm cho người phụ nữ này hi vọng con gái mình sẽ thực sự được chữa lành?” Khi cầu nguyện xong, tôi lặp lại với Jeannie là Mary Margaret sẽ được an lành.

Chúng tôi bước ra khỏi phòng, vừa sung sướng, vừa sửng sốt - và riêng tôi, khá sợ hãi. Nếu Mary Margaret không hết bệnh thì sao? Điều gì sẽ xảy ra cho người mẹ bất hạnh mà tôi đã gieo niềm hi vọng là con cô sẽ lành bệnh, nếu sau đó lại chỉ thấy là...? Tuy vậy, trong thâm tâm, tôi biết mọi sự đã diễn ra như vậy thì đúng như đã được định phải diễn ra.

Chúng tôi đã có một bữa tối ngon tuyệt, và đám đông tụ họp để nghe nói chuyện tại nhà trường tối ấy cũng lại đông hơn mọi lần. Tôi từ giã Nashville ngày hôm sau, mệt nhoài nhưng hạnh phúc.

Một chuyện tức cười đã xảy ra trên đường về. Số vé của chuyến bay từ Charlotte đến Myrtle Beach đã được bán nhiều hơn số ghế, nên hãng hàng không cần những người tình nguyện nhường vé lại, chờ đi chuyến sau. Vì hôm đó là thứ sáu, tôi không có gì phải vội, nên đã tình nguyện nhường chỗ - và tôi được thưởng một vé khứ hồi đến bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Bay được khoảng nửa đường, tôi mới ngạc nhiên khám phá ra rằng cái vé miễn phí này có trị giá cao hơn món tiền tôi đã bù vào chiếc vé khứ hồi đến Nashville. Một lần nữa, Thiên Chúa đã đáp lại gấp bội những gì Người nhận được.

Ba tuần lễ sau, khi sắp sửa rời văn phòng đến phi trường để bay đi Indianapolis, thì chuông điện thoại reo. Đó là Jeannie Marchetti.

- “Alô, Jeannie”, tôi nói, “Tôi nuốn nói chuyện lắm, nhưng nếu không chạy ra phi trường ngay bây giờ, tôi sẽ lỡ chuyến bay. Jeannie, tôi sẽ gọi cô từ Indianapolis, và...”

- “Anh Wayne! Mary Margaret khoẻ hẳn rồi!” Jeannie khóc, giọng cô run lên vì xúc động: “Cháu lành bệnh rồi...!”

Đầu óc, ruột gan tôi rung chuyển khi nghe chính mình nói một cách phấn khích với cô ấy: “Tất nhiên rồi! Tôi đã nói với cô là cháu bé sẽ khoẻ mà!”

- “Sao anh biết được?” Jeannie vừa cười vừa khóc vì quá vui sướng, “Tức là, sau khi cha Svet đặt tay trên cháu mà cầu nguyện, rồi sau đó được vào trong phòng hiện ra, và bây giờ thì...”

- “Jeannie, sự khỏi bệnh đã khởi sự từ Mễ Du. Lúc đó, cô không hiểu ý cha Svet, nhưng khi ngài bảo hãy cầu nguyện để cháu bé hạnh phúc, tức là ngài bảo cô hãy chấp nhận Ý Thiên Chúa, bất luận mọi kết quả. Tôi không hiểu làm sao mà tôi biết được, nhưng Thánh Linh của Chúa hành động theo những cách mà không một ai hiểu được. Tôi chỉ biết một điều là tôi cảm thấy tôi cần đặt tay cầu nguyện trên cháu bé, và tôi biết cháu sẽ khoẻ. Tôi sẽ gọi lại cho cô nhé, bây giờ tôi phải đi.”

Tôi tiếc phải ngừng ngang câu chuyện với Jeannie, nhưng máy bay không chịu chờ tôi - mặc dù trong lòng sung sướng cực độ, đến nỗi tôi cảm thấy như mình vẫn có thể đến được Indianapolis mà không cần có chiếc máy bay ấy. Được làm dụng cụ để Thiên Chúa thể hiện ơn chữa lành thật tuyệt diệu biết bao - và cũng đáng sợ biết bao!

Người đón tôi tại phi trường là cô Mary Ann Barothy, một chuyên gia về giao tế công cộng và là người đã sắp đặt chuyến đi Indianapolis này. Cô cho tôi biết chúng tôi sẽ lái xe tới Terre Haute, để thăm và nói chuyện ngắn tại tu viện St. Mary, thuộc Trường Woods College. Một lần nữa, tôi lại được nói chuyện với một nhóm nữ tu.

Khi chấm dứt buổi nói chuyện, tôi nhớ đến tràng hạt mà tôi đã tặng cho Jeannie Marchetti. Lòng vẫn còn tràn ngập sự ngạc nhiên và ngưỡng mộ về tình trạng đã cải thiện của cháu Mary Margaret, tôi kể cho họ nghe câu chuyện đó và việc tôi được thúc đẩy đặt tay cầu nguyện cho cháu bé như thế nào. Rồi tôi kết luận: “Các chị thấy đấy, Thiên Chúa đã lấy đi một món quà nhỏ như cỗ tràng hạt, vốn rất quý giá đối với tôi, và để đổi lại, Người cho cháu bé này cùng với cha mẹ cháu ơn được hạnh phúc. Mary Margaret đang lành mạnh.”

Khi chúng tôi từ giã Mẹ Bề Trên và một số nữ tu ở phía ngoài căn phòng tôi vừa nói chuyện, một nữ tu cao tuổi bước về phía tôi, hai tay bà chìa ra, trong đó là một cỗ tràng hạt bằng hồng ngọc tuyệt đẹp. Bà nói: “Anh hãy cầm lấy cái này!” đôi mắt bà long lanh giọt lệ, “Tôi giữ tràng hạt này đã hơn 25 năm, nay tôi muốn anh cầm lấy - và trao cho bất cứ ai cần được chữa lành.”

Chúng tôi ai nấy đều bàng hoàng. Hành động gần như một cái máy, tôi cho tay vào túi áo khoác và rút ra một cỗ tràng hạt nhỏ, gồm những hạt tròn bằng gỗ xâu lại với nhau bằng một sợi dây. Terri đã bỏ nó vào túi áo tôi khi tôi chuẩn bị lên đường, bảo rằng nàng đã mang tràng hạt ấy về từ chuyến đi Mễ Du - và nàng còn nói: “Có thể anh sẽ gặp ai đó cần đến tràng hạt này chăng.”

- “Thưa sơ, đây!” tôi vừa nói vừa trao tràng hạt cho bà. “Tôi xin tặng sơ cái này để đổi lấy cái kia. Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc đã chúc lành cho cỗ tràng hạt này tại phòng hiện ra ở Mễ Du.”
Thời gian như ngừng trôi, và tất cả chúng tôi được bao phủ bởi một bầu khí thánh thiện khôn tả. Tâm tình ấy đã theo tôi trong suốt chuyến đi 5 ngày tại vùng Indianapolis, và chính nó đã củng cố ơn gọi của tôi: Thiên Chúa thật sự muốn cho sứ điệp tình yêu của Người, được đổi mới qua những cuộc hiện ra tại Mễ Du, phải được lên đường truyền bá khắp nơi.

---o0o---

hoanghac
09-02-2013, 03:48 AM
“Hãy cầu nguyện sao cho lời cầu nguyện của các con, sự tuân phục của các con đối với Thiên Chúa, có thể trở nên một dấu chỉ dẫn đường...”
Chương 26
HOÀN TOÀN ĐẦU PHỤC

Tôi cứ tủm tỉm cười đang khi chuẩn bị trở lại Mễ Du lần thứ tư trong thời gian chưa đầy một năm. Ngôi làng đó có cách hấp dẫn người ta, khi đã đến một lần, thế nào bạn cũng khao khát được trở lại lần nữa. Thế gian này không có một nơi nào mà lại an bình đến thế.

Nhưng lần này, nhu cầu trở lại của tôi không chỉ đơn thuần thiêng liêng, mà tôi còn muốn nghỉ ngơi. Sáu tháng vừa qua, miệt mài với những chuyến đi, những buổi nói chuyện và những cuộc phỏng vấn liên tiếp đã lấy đi hết sức lực. Tôi như một bình điện rỗng, nên thấy mình cần phải khẩn cấp đem đi sạc lại.

Lần này sẽ hơi khác: tôi sẽ đi với nhóm Du lịch Toàn Cầu, cơ quan đã tổ chức các chuyến đi du hành cho Trường Đại học Steubenville.Trước biến cố Mễ Du, tôi chưa bao giờ nghe nói đến một trường thuộc dòng Phan Sinh, trong cái thị trấn mỏ than mờ mịt ấy bên dòng sông Ohio. Bây giờ, tôi mới biết đó là một nhà máy điện thiêng liêng, nơi các sinh viên - hiểu theo nghĩa đen - đặt Thiên Chúa lên trên hết, và là nơi sự đổi mới liên lỉ như đang tiến triển. Những nhóm cầu nguyện sinh viên họp nhau cầu nguyện vào mọi giờ, suốt ngày đêm, và ơn gọi tu trì được coi như một sự lựa chọn nghề nghiệp có thể thành tựu được. Nhưng điều quan trọng đối với tôi là Trường Đại học đã dấn thân loan truyền sứ điệp Mễ Du, kể cả tổ chức hành hương đến ngôi làng ấy.

Người đứng đầu tổ chức Du lịch Toàn Cầu tên Dale Krieger. Tôi biết ông lần đầu tiên qua điện thoại, và sau đó, gặp đích thân ông tại New Orleans. Gầy và cao lêu khêu, Dale là một người miền Nam rất thoải mái. Tác phong và hành động của ông bình thản như thể không gì khiến ông thật sự bối rối, lo lắng, mặc dù những bất trắc của ngành kinh doanh du lịch. Khi được biết rõ về ông hơn, tôi nhận ra sự bình thản phi thường ấy bắt rễ từ một niềm tin tưởng không thể lay chuyển: dù đời có thế nào, Thiên Chúa vẫn nắm quyền kiểm soát.
Đức tin của ông đã được tôi luyện qua cái chết thảm khốc của cô con gái 18 tuổi của ông sau một tai nạn xe hơi. Khi đợi ở bệnh viện và cầu nguyện cho con, ông phải vật lộn với chính lòng tin của mình. Cho đến lúc đó, đức tin Công giáo của ông không gì khác hơn là lễ lạy, kinh sách ngoài môi miệng. Trong thời gian bình phục về tâm lý sau khủng hoảng do cái chết của con ông gây nên, ông mới khám phá lại tình yêu ông dành cho Chúa Giêsu - mà về sau, điều này đã dẫn đến hoạt động tích cực trong việc đưa người hành hương đến Mễ Du.

Từ ngày mới gặp nhau, chúng tôi đã thấy tâm đầu ý hợp, và việc tôi đi chuyến sắp tới với nhóm của ông xem ra cũng hợp lý. Chương trình của tôi là đi cùng với họ vào cuối tháng bảy, rồi ở lại đó thêm một tuần, trước khi trở về nhà với một nhóm khác cũng của ông. Tôi sẽ được ở một mình trong suốt thời gian đó - hoặc ít ra tôi tưởng như vậy.

Khi chúng tôi đến Dubrovnik, tôi lại đến mấy hãng cho mướn xe hơi - và thấy rằng trong tám tháng giá thuê đã tăng lên gấp đôi! Rõ ràng là những hãng cho mướn xe biết những người hành hương đến Mễ Du nếu thích được độc lập, sẽ không chùn bước trước giá đắt cắt cổ, nên đã thẳng tay chặt đẹp. Nhưng đó chỉ là một điềm báo cho những thay đổi sau này.

Khi chiếc xe buýt của hãng Du lịch Toàn Cầu (có tôi trên đó) đi ngang qua cầu dẫn vào Mễ Du, tôi khó mà nhận ra được nơi này. Dọc hai bên đường bây giờ là những văn phòng du lịch, quán cà phê, những sạp đồ vật̀ lưu niệm bán rong đủ thứ từ tượng Đức Bà bằng thạch cao cho đến món pizza, nhiều thứ chẳng dính dáng gì đến Mễ Du.

Sững sờ, tôi hỏi Dale tại sao lại như vậy. Dale giải thích rằng đa số người buôn bán là dân du cư bohêmiêng (gypsies), vốn không quan tâm đặc biệt gì đến Mễ Du - nhưng đến đồng tiền của người hành hương. Những người lang thang này xâm nhập từ từ vào làng, và lấn đất dựng sạp cho đến khi chỉ còn cách nhà thờ khoảng 50 mét. Các linh mục đã kịch liệt phản đối và làm hết sức để họ dời đi, nhưng cho đến nay chính quyền vẫn tảng lờ.

Khi chiếc xe buýt của chúng tôi nhích đi từng chút trong một thứ đang diễn ra ngày càng tăng là những vụ kẹt xe, tôi chợt nhìn ra cửa sổ, khi một phụ nữ bôhêmiêng bước xuống khỏi một chiếc Mercedes (!) tay ôm một búp bê và một cái chăn mà bà ta vừa rút ra từ băng sau. Khi tôi tròn mắt nhìn bà ta, vì thấy không tin nổi, bà ta cuộn con búp bê vào trong chăn để che bớt các chi tiết. Rồi nhìn quanh, bà ta lấy điệu bộ thảm thương và ngửa tay ra xin. Thoáng chốc, nó đã đầy đô la do nhóm người hành hương đầu tiên mới đi ngang qua.

Buồn nôn quá, tôi kể lại cho Dale điều tôi vừa chứng kiến. Ông nhún vai, nói rằng các linh mục đã lưu ý khách hành hương đừng cho tiền hành khất. Còn ngoài ra, các ông ấy không thể làm gì hơn. Người ta cứ tưởng như vậy là thực hành theo sứ điệp của Đức Trinh Nữ Maria, cho nên họ tiếp tục bố thí cho những người nghèo khó giả dạng ấy.

Tôi lắc đầu. Điều gì đang xảy ra cho ngôi làng mà tôi quý mến và coi như gia đình thiêng liêng của mình? Một bọn trộm cướp từ xa đến đây đang biến ngôi làng thành một nơi buôn bán hỗn loạn. Tôi phân vân không biết những người hành hương mới sẽ có thể tìm thấy sự thánh thiện - vốn đã dẫn đến việc cải hối của hằng triệu người trong sáu năm qua - nữa hay không.

Nhưng vẫn chưa hết những ngạc nhiên đáng lo ngại. Sau khi đã ổn định chỗ ở tại nhà ông Grgo Vasilj, tôi tiến về nhà thờ Thánh Giacôbê. Ngôi nhà thờ vẫn luôn là một ốc đảo yên tĩnh cho tôi, bất luận những gì có thể diễn ra bên ngoài. Như thông lệ, người ta hay tụ họp dưới mấy lùm cây trước nhà thờ. Thình lình, một người chỉ về phía tôi, và họ liền ùa đến từ tứ phía, đặt câu hỏi và chụp hình lia lịa.

Tôi kinh ngạc và bối rối. Terri đã báo động với tôi rằng với ba triệu bản sao bài báo đã phát hành, cái thời không bị ai chú ý khi ở trong đám đông có thể đã qua, nhưng tôi vẫn hoàn toàn không được chuẩn bị cho chuyện này.

Cuối cùng, tôi cũng thoát được và leo lên bậc cấp dẫn vào nhà thờ. Một số người khác bắt đầu chạy về phía tôi, nhưng tôi làm như không thấy họ, vội vàng bước vào nhà thờ lúc ấy còn vắng người, vì chưa đến giờ hành lễ kế tiếp. Đi lên hàng ghế bên phải đối diện với tượng Đức Trinh Nữ Maria, tôi quỳ xuống cúi đầu tạ ơn Chúa đã đưa tôi trở lại đây. Chưa đầy một phút, tôi cảm thấy có bàn tay vỗ lên vai tôi. Quay lại, tôi thấy một phụ nữ tuổi trung niên, vai quàng một túi xách, trên đó có tên hãng du lịch đưa bà đến đây mà tôi không hề biết. Bà ấy cúi xuống hớn hở nhìn tôi, trong khi ông chồng đứng ngay phía sau.

Bà ấy bắt chuyện: “Xin lỗi ông, ông chính là Wayne Weible, phải không? Là người Tin Lành đã viết các bài báo về Mễ Du phải không?”

Tôi gật đầu, cố gắng mỉm cười.

- “Tôi xin lỗi đã quấy rầy ông, nhưng tôi phải cám ơn ông vì đã thay đổi cuộc đời chúng tôi. Nhờ ông mà chúng tôi có mặt ở đây. Một người bạn đã tặng các bài báo của ông cho tôi. Và mọi sự lạ bắt đầu từ đó. Lần đầu tiên trong đời, lòng tin là một cái gì có ý nghĩa đối với tôi. Chúng tôi phải đến thôi.”


http://www.khoi-nguon.com/BaiVo/MucSach/BaLaAi/images/Hinh083.jpg

Pho tượng Đức Mẹ Lộ Đức
tuyệt mỹ này được đặt bên
cạnh bàn thờ chính trong
Đền thờ Thánh Giacôbê Mễ Du.

Tôi gật đầu và cám ơn bà, đoạn quay lại cầu nguyện, đôi mắt khẩn khoản nhìn lên bức tượng Đức Maria tuyệt mỹ, thầm thì bày tỏ nỗi lòng: “Lạy Đức Maria Hồng Phúc, con không muốn được người ta chú ý quá xá như thế này!” Tôi mong đến đây để nghỉ ngơi, để chạy trốn. Cảnh an bình ở đây nay đâu rồi? Tôi nhìn lên mặt bức tượng gần như muốn xin được một dấu chỉ qua một nụ cười, một cử chỉ...

Câu đáp hoàn toàn không phải điều tôi mong đợi. Đột nhiên, tôi lại cảm thấy Đức Trinh Nữ Hồng Phúc nói với tôi: “Tại sao con tìm Ta trong các dấu chỉ? Ta ở với con bất cứ nơi nào con đang có mặt. Hãy đi ra ngoài với dân chúng và hãy làm những gì con đã nói con sẽ làm...”

Tôi đứng dậy và ra khỏi nhà thờ, cảm thấy nhỏ bé như chỉ cao có năm phân thôi, vì quá xấu hổ. Tôi hiểu ra rằng: làm một sứ giả của Thiên Chúa là một ơn gọi mà một ngày phải làm việc 24 giờ và một năm làm việc 365 ngày, chứ không phải chỉ khi ở trước đám đông vỗ tay hoặc khi ở trước đèn quay phim truyền hình. Phải làm việc bất cứ khi nào và nơi nào sứ điệp cần được loan báo - đang vào mùa hay đang hết mùa, lúc thuận hay lúc nghịch. Cuộc đời nhiều người đang thay đổi, và bất cứ một sự khuyến khích nào có thể làm cho người ta, đều là chuyện cần thiết để củng cố những đổi mới đó. Một cách ngoan ngoãn, tôi thề nguyền sẽ học để biết khoan dung, rộng lượng, kiên nhẫn và biết lắng nghe, dù tôi có mệt nhọc đến đâu, hoặc các câu hỏi của người ta có ngớ ngẩn thế nào.

Bên ngoài nhà thờ, dân chúng lại bắt đầu tụ tập, và lần này tự tôi tiến đến hỏi han họ. Có những nhóm đến từ California, Alabama, Phoenix... và mỗi nhóm đều nóng lòng cho tôi biết mấy bài xã luận của tôi đã khiến họ có quyết định đi đến đây. Bây giờ thì tôi mừng quá, mừng cho họ - và cũng mừng cho ơn gọi của mình nữa.

Một người hỏi tôi: “Nếu chúng tôi sắp xếp được thời giờ với người hướng dẫn, ông có vui lòng nói chuyện cho nhóm chúng tôi không?”

- “Vâng, được, được, nhưng vì tôi vừa mới đến, nên xin quí vị liên lạc lại với tôi.”

- “Ngày, giờ nào thì tiện cho ông?”

- “Lúc nào cũng được, trừ giờ Thánh Lễ tiếng Anh buổi sáng và lễ tiếng Croát ban chiều.”

- “Ông thích nói chuyện ở đâu?”

Tôi nhớ nhóm Caritas, mà tôi có dịp nói chuyện với họ trong chuyến đi trước, đã rất thích lùm cây phía sau nhà thờ. Tôi bèn hỏi: “Các bạn có biết cái nghĩa địa nhỏ trong trảng cây bách hương, trên đường mòn dẫn lên núi Krizevac không? Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó lúc 16 giờ nhé!”

Nghĩa trang cổ xưa với từng làn gió nhẹ thở dài qua những ngọn cây ngàn năm xanh ngắt, đã gây nơi mọi người cảm giác sâu đậm về sự bình an và hiện diện của Thiên Chúa. Chiều hôm ấy, khi nói chuyện với họ, tôi chỉ cần trút hết mọi tâm tư cho họ nghe.

Sau đó, tin đồn tôi đang có mặt tại Mễ Du lan ra nhanh như chớp. Tôi đã được yêu cầu nói thêm sáu lần nữa trong tuần đầu tiên, và cuối cùng, khi có quá nhiều yêu cầu mà tôi không thể đáp ứng hết, có người khuyên tôi đến gặp cha Philip Pavic, một linh mục người Mỹ, gốc Croát, hiện thường trú ở Mễ Du, để xin ngài cho phép thuyết trình trong nhà thờ Thánh Giacôbê.

Cha Philip, một nhà thần học cao lớn, có bộ râu xám với đôi mắt nâu ấm áp, trái ngược với vóc dáng oai phong của ngài, đã từng nghiên cứu nhiều năm tại nhà thờ Đức Bà Paris, sau 12 năm phục vụ tại Đất Thánh; chính khi đó, Đức Mẹ gọi ngài về Mễ Du. Ngài phụ trách các vấn đề liên quan đến người hành hương nói tiếng Anh. Khi tôi đã thắng được sự ngượng ngập lúng túng, và trình bày xong những khó khăn của tôi, cha sắp đặt cho tôi nói chuyện tại nhà thờ Thánh Giacôbê vào sau trưa thứ năm. Cha Svet thường từ Konjic xuống Mễ Du để giảng thuyết vào các ngày thứ năm, nhưng tuần này, ngài lại đến vào thứ sáu, cho nên mọi sự được sắp xếp êm xuôi.

Tôi vui sướng rộn ràng - nhưng không khỏi khiếp đảm. Ngay cả trong những giấc mơ điên cuồng rồ dại nhất của mình, tôi cũng không thể tưởng tượng tôi được một đặc ân như thế.
Trong khi chờ đợi, vẫn còn những buổi nói chuyện đã sắp đặt trước đó mà tôi chưa thực hiện: một buổi cho nhóm Trung Tâm Hòa Bình, cũng do sơ Margaret hướng dẫn, với Bernie và Ellen Hanley trợ tá. Tôi thích thú khám phá ra Rita Klaus và gia đình cũng đến đây như khách mời đến nói chuyện của nhóm “Trung Tâm Hòa Bình”. Chỉ mới hơn một năm sau khi được phép lạ chữa lành bệnh đa xơ cứng, Rita cuối cùng đã có thể đến được ngôi làng của những Cuộc Hiện Ra này.

Bernie đã yêu cầu hai chúng tôi nói chuyện với nhóm họ vào một bữa tiệc trưa đặc biệt. Rita nói trước và kết thúc trong nước mắt - thật ra thì cả nhóm đều khóc. Đến khi tôi bắt đầu, tôi nhận ra đây là lần nói chuyện khó khăn nhất mà tôi phải đương đầu. Đó là vì tôi bị choáng ngợp bởi cảm xúc đến từ những lời kể của Rita, cũng như bởi vai trò của Trung Tâm Hòa Bình đã giúp tôi dấn thân vào việc Mễ Du. Và rồi, ngay giữa cuộc nói chuyện, tôi gục xuống trong nước mắt. Điều này chưa bao giờ xảy ra, và tôi mắc cỡ quá - cho đến khi nhận ra mọi người khác cũng đang khóc như tôi. Đó đã là một bữa tiệc trưa thấm đẫm tình cảm - một bữa ăn ghi dấu ân tình Thiên Chúa, biểu hiện qua những giọt nước mắt hạnh phúc ấy.
Sau đó, Rita bằng lòng ngồi lại và cung cấp thêm một số tư liệu cho quyển sách của tôi. Cô xuất thân từ “một gia đình Công giáo gốc”, và cô đã nghiệm được ơn gọi của Chúa từ thời thơ ấu lúc 8 tuổi. Lên 16, cô vào một dòng tu ở Omaha, bang Nebraska, ở nhà tập 5 năm trước khi khấn hứa. Trong suốt thời gian này, cô bị một chứng bệnh ngày càng phát triển, và cuối cùng được xác định là bệnh đa xơ cứng.

- “Khổ nhất”, cô nói tiếp, “là bà Mẹ Bề Trên không tin tôi. Tôi trông khoẻ mạnh, nhưng có nhiều ngày tôi choáng váng và có khi không sao bước lên cầu thang được. Bà mẹ cứ tưởng tôi muốn được người khác quan tâm đặc biệt.”

Sau đó, Rita phải rời nhà dòng, và bị khủng hoảng nặng nề. Cô không hiểu tại sao điều này xảy đến với cô, trong khi cô hết sức mong muốn làm nữ tu để phụng sự Chúa. Các vấn đề khác bắt đầu nổi lên nữa. Cô không kiếm được việc làm, vì tình trạng sức khoẻ. Rốt cuộc, bác sĩ của cô khuyên cô đừng nói với những người có thể sẽ thuê cô làm việc rằng cô mắc bệnh đa xơ cứng. Ông ấy đoán bệnh trạng của cô sẽ còn ổn định ít nhất trong vòng năm hoặc sáu năm nữa, và tốt nhất cô nên đến sống ở miền duyên hải phía Đông hoặc phía Tây. Cô nói: “Tôi đã dạy học một thời gian ở tu viện, nên tôi quyết định đi Pennsylvania để tiếp tục học và thi lấy bằng. Tôi kiếm được một chỗ dạy học ban ngày, còn ban đêm thì tôi đi học.”

Rồi Rita gặp Ray, chồng cô, sau một thời gian dài tìm hiểu, hai người đã kết hôn. Cuộc sống xem ra phát triển êm đềm, nhưng cô cảm thấy rất đau đớn, cay đắng đối với Giáo Hội. Cô vẫn đi lễ, nhưng vì thói quen hơn là vì mộ mến. Sau này, khi cơn bệnh vượt quá mọi nỗ lực chống chọi của cô, cô đâm ra thất vọng và tự cô lập. “Tôi chạy đủ thầy đủ thuốc, trừ việc cầu nguyện. Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi vẫn ổn định, và Ray, chồng tôi, thì tuyệt vời. Chúng tôi có ba đứa con, nhưng tôi vẫn cay cú khủng khiếp, vì cho rằng đời đã chơi tôi một vố quá đau.”

Tôi gật đầu đồng ý - và tự hỏi có bao nhiêu tâm hồn bị tổn thương muốn giải bày những nỗi đau như hoàn cảnh nói trên?

- “Như anh biết đấy, sự đổi đời đã đến với tôi vào năm 1981, khi một cô bạn đến mời tôi đi dự một buổi cầu nguyện chữa lành với cô ấy. Anh Ray bảo là tôi đã chạy chữa đủ cách, tại sao cách này lại không thử?” Cô lắc đầu nhận rõ mình đã cẩu thả, thờ ơ như thế nào.

- “Thế là tôi đi. Khi đã tới đó rồi, tôi lại hối hận vì đã đến. Tôi chỉ biết rằng người ta đang chằm chằm nhìn tôi, làm tôi chỉ muốn độn thổ. Đã thế, khi các linh mục tiến lên từ lối đi, một vị bỗng nắm lấy vai tôi từ phía sau và đặt tay trên tôi cầu nguyện liên tục. Tôi cảm thấy nhục nhã và cứ tự hỏi cái gì đang diễn ra ở đây. Nhưng một cảm giác bình an rất sâu đậm như bao bọc tôi - và tôi bắt đầu cầu nguyện với linh mục ấy. Đó là lần đầu tiên trong một thời gian rất lâu dài, tôi mới có cái cảm giác như vậy. Tôi nhận ra đó là sự chữa lành về mặt tâm linh. Tôi không quan tâm đến bệnh tật nữa: bất cứ điều gì Chúa muốn, tôi sẽ chấp nhận và sẽ hạnh phúc.”

Tôi ngồi đó như bị thôi miên bởi sự đầu phục hoàn toàn của Rita trước Thánh Ý Thiên Chúa. Một lần nữa, đó là điều cốt lõi của sứ điệp xuất đi từ Mễ Du. Sự tùng phục của Rita đã đi đến chỗ trở thành một chứng từ chói lọi về tình yêu luôn hiến ban của Thiên Chúa bằng chứng là ơn chữa lành phần thể xác của cô.

Nhưng điều càng hiển nhiên hơn nữa là vẻ đẹp của sự chữa lành về phần tâm linh. Cô và cả gia đình giờ đây hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.

“Như anh đã biết phần cuối của câu chuyện: vào đêm 18 tháng 6 năm 1986 đó, tôi xin Thiên Chúa chữa tôi khỏi những gì cần được chữa, và ngày hôm sau, tôi không còn là nạn nhân của bệnh đa xơ cứng nữa.”

Tôi mở to mắt ngạc nhiên nhìn cô ấy. Tôi tắt máy ghi âm, đứng dậy bước ra xa vài bước. Cô ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy?” Tôi chỉ biết huơ tay, không nói nên lời. Hóa ra là cái ngày 18-6-1986 ấy! Ngày tháng ấy đã được ghi phía sau tấm ảnh!

Tôi kể lại câu chuyện tấm ảnh Chúa Giêsu mà Maureen Thompson và tôi đã nhặt được trên đỉnh núi Krizevac, nó hoàn toàn khô ráo trong khi mọi thứ khác ướt đẫm sương, và ngày 18 tháng 6 năm 1986 được ghi đơn độc ở mặt sau, còn chúng tôi thì nhặt được tấm ảnh vào ngày 7 tháng 5 năm 1986, sáu tuần lễ sớm hơn, (xem lại chuyện này ở chương 13).
Rita và tôi ngồi đó khá lâu, không nói được một lời. Cả hai chúng tôi đều không nghi ngờ chuyện đó liên quan đến ơn lành bệnh của Rita. Nhưng, tôi biết rõ, điều bí ẩn của ngày tháng ấy không quan trọng - nếu so với sự đầu phục hoàn toàn Thánh Ý Chúa của Rita. Đầu phục - đó là chìa khóa đích thực để mở cánh cửa cuộc sống mới của chúng tôi như những người truyền bá sứ điệp Mễ Du.

Bao giờ cũng vậy, thời gian ở Mễ Du đều rất hữu ích cho tôi. Trong chuyến đi với chủ ý nghỉ ngơi ấy, tôi đã giải quyết công việc bằng mười lăm buổi nói chuyện, kể cả buổi quan trọng nhất tôi sẽ̃ nói trong nhà thờ Thánh Giacôbê vào xế chiều một ngày thứ năm oi ả.

Khoảng một tiếng đồng hồ trước giờ thuyết trình, tôi ngồi trên khoảng sân bên ngoài, dựa lưng vào tường đá mát rượi của nhà thờ. Tôi không sao bình thản được, khi nhìn thấy mấy sạp hàng của người Gypsy dựng san sát nhau dọc con đường dẫn tới nhà thờ.

Đang khi tôi cố gắng tập trung và cầu nguyện, xin Chúa Thánh Linh ban cho tôi lời lẽ tôi sẽ cần đến, thì một người đàn bà hành khất tiến lại phía tôi, ba đứa trẻ rách rưới, bẩn thỉu lẽo đẽo theo sau. Bà ấy chìa tay ra, và khi thấy tôi không để ý đến bà, bà dùng một ngón tay của bàn tay kia gõ gõ vào lòng bàn tay bà đang chìa ra một cách đòi hỏi.

À, tôi biết là các linh mục không khuyến khích bố thí cho những người hành khất Gypsy, nhưng nếu đây là một thiên thần giả trang thì sao?

Tôi thò tay vào túi và lôi ra tất cả những gì có trong đó - khoảng bốn ngàn dinari (tương đương bảy đôla).

Bà ta cầm lấy rồi lắc đầu, nói: “Không, không! Đô la!” rồi bà lại ngửa tay ra.

Tôi chưng hửng vì bà còn xin thêm, trả lời: “Tôi chỉ có bấy nhiêu thôi!”

Bà ta đốp lại: “Không! Cho tôi đô la!” Tôi nhìn bà ấy, không tin vào tai mình, và bấy giờ bà trở bàn tay lại để cho tôi xem bà muốn cái gì. Trong bàn tay đó là một cuộn lớn tiền giấy đô la dày cỡ bảy phân. Chỉ tay vào đó, bà ấy xin: “Cho tôi đô la!”

Tôi chỉ biết lắc đầu xua tay cho bà ấy đi chỗ khác. Nhưng nhìn thấy cây Thánh giá nhỏ bằng vàng đeo ở cổ tôi, bà liền giơ tay ra lấy, rồi nói: “Ông cho tôi cái này!”

Bây giờ tôi đã điên tiết lên. Tôi đứng dậy xua bà ấy đi, nhưng mấy đứa trẻ níu tay tôi, xoa bụng và rên khóc. Rõ ràng chúng đã được mẹ huấn luyện cho làm như vậy, nếu quả thật bà là mẹ chúng. Tôi vội bỏ chỗ đó, vòng ra đằng sau nhà thờ để tránh bà, lúc ấy đang lộ vẻ thất vọng rất thiểu não. Bà ta có thể là một cái gì đó trá hình, nhưng chắc chắn không phải một thiên thần giả trang.

Bấy giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện sốt sắng và từ từ lấy lại được sự bình an. Thậm chí còn tạ ơn Chúa vì sự cố bẩn thỉu này, và đặc biệt vì nó xảy ra đúng lúc. Nó đã chỉ cho tôi thấy: bất chấp mọi thứ thương mại phàm tục của thế gian chộn rộn đang xâm phạm đến Mễ Du, nhưng cốt lõi sự thánh thiêng tuyệt đẹp – tức tác động siêu phàm của Đức Giêsu – vẫn không bị chạm tới. Đó là dòng hải lưu sâu thẳm tận đáy đại dương, cái còn lại chỉ lao xao trên mặt nước.

Tôi đi vào nhà thờ bằng cửa sau, rồi sau mấy lời giới thiệu vắn tắt của cha Philip Pavic, tôi bước lên bục giảng. (Xem hình, chỗ khoanh tròn).

Tôi cảm thấy đông cứng lại vì sợ. Tôi quen làm người tham dự cùng cộng đoàn trong nhà thờ chật cứng như nêm. Thế mà giờ đây, tôi đứng từ trên nhìn ngược xuống cộng đoàn ̀ ở phía dưới, điều đó tôi đâu có quen. Nơi thánh này... tôi làm sao lại dám...

Tôi liền nhớ lại: không phải tôi, nhưng chính Thiên Chúa đã đưa tôi đến đây. Chính Người đã mở cửa và đưa người ta vào đầy nhà thờ. Bây giờ, bởi Thánh Linh của Người, Người sẽ đặt nơi miệng tôi những lời mà Người muốn họ được nghe. Tôi chỉ có việc mở miệng ra mà nói những lời ấy.

Đó là một trong những bài thuyết trình về Mễ Du trọn vẹn nhất mà tôi đã làm. Nó đã được mọi người tiếp nhận, và sau đó, cha Philip trao cho tôi một cuộn băng thu lại toàn bài để tặng cho Terri. Tôi cám ơn cha, mà không ngờ rằng về sau, cũng giống những bài xã luận, con số những bản sao của cuộn băng ấy đã dần dần tăng lên đến hàng trăm ngàn, phân phát trên khắp thế giới.

Tôi không phải là người duy nhất có cuộn đó ngày hôm ấy. Trong cử tọa có Mary O’Sullivan, người Ai-len. Cô cũng xin cha Philip một cuộn – và đem về Ai-len. Ở đó, cô đã nhân bản lên và tung ra thị trường vài ngày sau, và dùng tiền lời để đưa các linh mục đến Mễ Du. Vào lúc tôi đến Ai-len lần thứ nhất, đã có hơn 15.000 cuộn băng được bán ra.
Cho đến lúc ấy, chuyến đi này không thể gọi được là chuyến đi nghỉ ngơi. Nhưng không sao, vì đó là thời gian tôi được học hỏi về sự đầu phục hoàn toàn.

HẾT