PDA

View Full Version : Ở lại để phòng ngừai



Triển
12-07-2012, 09:51 PM
Lạm dụng tình dục trong nhà thờ

Điều gì khiến những người linh mục trở thành tội phạm

Barbara Hans

http://cdn2.spiegel.de/images/image-435209-galleryV9-nuut.jpg



Hấu hết các linh mục từng lạm dụng tình dục trên các bé trai hoặc gái không phải bị bệnh ấu dâm. Đây là kết quả cuộc khảo sát của Hội nghị giám mục Đức. Các chuyên gia đã phân tích có hệ thống về sự lạm dục tình dục trong nhà thờ.


Hamburg - Câu trả lời khiến người ta vừa an tâm vừa hoảng loạn. Hầu hết các vị làm việc về tâm linh, từng lạm dụng tình dục trên thân thể các bé nam hoặc nữ, không những không bị bệnh tâm thần mà cũng không bị bệnh ấu dâm. Hội nghị giám mục Đức đã công bố kết quả cuộc khảo sát "Lạm dục tình dục bởi những người làm việc tâm linh ở Đức". Các tác giả đã giám định toàn bộ hồ sơ thu thập từ năm 2000 đến năm 2010 mục đích tìm hiểu những người đàn ông nào trở thành tội phạm? Họ có tiểu sử đáng chú ý nào không ? Họ có quan hệ gì với nạn nhân?

Hội nghị giám mục Đức đã giao việc thanh tra cho bốn nhà tâm lý học. Đó là ông Norbert Leygraf thuộc giám định tâm lý tòa án ở Essen và các đồng nghiệp danh tiếng của ông là ông Ludwig Kröber, ông Friedemann Pfäfflin và ông Andrej König. Các nhà khoa học giám định hồ sơ các linh mục và những người làm việc trong nhà dòng, là những người từng đứng trước tòa vì bị nghi ngờ lạm dụng tình dục và phải qua cuộc khám nghiệm tâm lý.

Vào năm 2002 sau khi hội thánh ra điều lệ đối xử với lạm dụng tình dục, hồ sơ đầu tiên của hội thánh đã được chuyển giao đến một người giám định tâm lý thuộc tòa án. Sau lần nổ ra xì căng đan lạm dụng tình dục vào năm 2010, con số hồ sơ cần giám định tăng lên nhanh chóng. Lúc đó hội thánh đã tuyên bố, từ bây giờ có bổn phận phải giao các sự việc lạm dục tình dục xảy ra sang các chuyên gia giám định. Mục đích là vạch ra hiểm họa những người đàn ông này gây ra. Đặc biệt Hội thánh muốn biết phải cư xử thế nào đối với những người làm việc tâm linh phạm tội, như đuổi họ ra khỏi hội thánh, điều đi nơi khác hay đơn giản là cứ để tiếp tục như vậy?

Hành động phạm tội của những người đàn ông bị thanh tra này đã xảy ra từ lâu, chuyện thường đã xảy ra từ nhiều thập niên trong quá khứ trong khoảng thời gian từ những năm 60 đến 90. Có 21 hồ sơ của 27 giáo xứ được mang ra xử dụng cho việc thanh tra tổng quát.

Sau cùng có 78 hồ sơ của các người làm việc tâm linh thuộc Ki-Tô giáo được mang ra phân tích. Các nhà nghiên cứu thì cần định dạng một mô hình tội phạm, còn hội thánh thì cần kinh nghiệm để đánh giá hiểm họa phạm tội chính xác hơn và có thể phòng ngừa tốt hơn. Và chưa phải là điều sau cuối, như việc tái tạo sự tín nhiệm đã mất vì các xì căng đan lạm dụng tình dục.


Các nhà làm việc tâm linh đã lạm dụng dưới hình thức nào?


Có 12 trường hợp bị thanh tra chỉ vì lưu trữ phim ảnh ấu dâm. Ngoài ra có 66 người làm việc tâm linh bị cáo buộc có 576 lần lạm dụng tình dục trên 265 nạn nhân.

Đa số các trường hợp xảy ra tập trung ở các hành động chân tay (hands-on) - thuộc loại đụng chạm thân xác giữa phạm nhân và nạn nhân, như hãm hiếp, cưỡng bách tình dục. Có mười trường hợp có hành động thuộc loại không đụng chạm tay chân (hands-off) - là những hành động không đụng chạm thân xác, ví dụ như yêu cầu nạn nhân phải tự kích dục, nạn nhân tự kích dục trước nhiều người, hoặc yêu cầu nạn nhân phải có hành động tình dục với người khác. Có 6 người làm việc tâm linh bị cáo buộc ở cả hai loại hành động, đụng chạm và không đụng chạm. Đa số các thủ phạm nhận tội.

Nói cho đơn giản, là sự giám định tổng quát đưa ra kết quả rằng, đa số các người làm việc tâm linh phạm tội không có bệnh tâm lý gì cả. Vừa nghe thì đây là một kết quả lạc quan đối với hội thánh, nhưng đã chứng thực sự chọn lựa hoàn hảo chức vụ linh mục của trong hội thánh của họ. Như vậy trong hàng ngũ của họ, tội phạm bị bệnh ấu dâm tìm thấy không đáng kể. Ông Leygraf cho biết, "theo kết quả như vậy thì không có sự khác biệt nổi bật nào so với dân chúng Đức bình thường".

Đa số những người đàn ông phải chịu trách nhiệm lạm dụng tình dục không có biểu hiện nào gọi là bị rối loạn tình dục. Ông thanh tra Leygraf gọi là "ở phạm vi tâm lý bình thường". Những người này không mang tâm bệnh nào đáng kể. Có đến 68 phần trăm trường hợp không có chẩn đoán bị tâm thần.


Vấn đề nằm ở cấu trúc


Suy luận theo kết quả tương phản thì việc này đối với hội thánh là có vấn đề nằm trong cấu trúc của hệ thống. Nghĩa là thể chế có căn bản chỉ qua sự tín nhiệm và quyền lực - và không được phép nghĩ bàn về sự minh bạch trong nhiều thập niên qua. Phòng xưng tội là thánh thiện, người linh mục ngồi trong đó cũng vậy. Cho nên không có chuyện nghi ngờ ai và ngờ vực có trường hợp nào xảy ra. Những người lãnh đạo tinh thần là Đức Chúa trời của giáo xứ. Thông thường nếu có mâu thuẫn sẽ bị xem là xúc phạm. Không khí của việc thanh tra và sự không minh bạch nằm trong hội thánh Ki-Tô dai dẳng hơn, mang nhiều dư âm hơn ở ngoài đời.

Trong cuộc giám định, điều này cũng tái diễn. Người ta đã chứng thực rằng phải tốn bao nhiêu thời gian qua đi, tính từ lúc một linh mục phạm tội lần đầu tiên, cho đến khi tin báo về giáo phận. Thông thường đến mấy năm để nhắm mắt lại, hoặc ít nhất là mấy năm trời chẳng phản ứng gì cả, trong khi nạn nhân thì phải câm nín. Trong trường hợp phạm tội tình dục ở giáo xứ thứ nhất, những thủ phạm trung bình 36 tuổi. Tin báo về giáo phận trung bình đến 14 năm sau mới xảy ra. Quá nhiều năm đủ cho những người linh mục này dễ thường tự tung tự tác trong giáo xứ của mình. Cho đến lúc có thanh tra lại kéo thêm vài năm nữa.

Hơn phân nửa các linh mục phạm tội tình dục đều từng gây tội lỗi trên hai nạn nhân hoặc hơn. Có một trường hợp đương sự cưỡng bức đến 22 nạn nhân.

Cũng như những quốc gia khác. Nạn nhân thông thường là nam giới nhiều hơn là nữ giới. Các thanh tra rút ra kết luận, là những đứa trẻ giúp lễ trong thập niên 80 gần như toàn là nam giới, không có nữ giới. Đơn giản là những linh mục phạm tội này không có cơ hội gần gũi phái nữ. Sự giao tiếp với các nữ nạn nhân sau đó, hầu hết xảy ra trong khung cảnh làm việc trong giáo hội.

Đặc biệt trong các hồ sơ được chuyển đi thanh tra, cứ hai trường hợp lại có một trường hợp, được chuyên gia tâm lý khuyên hãy cứ để tội phạm được tiếp tục làm việc trong giáo hội này hoặc ở giáo hội khác. Chỉ có 12 trường hợp tội phạm được chuyên gia tâm lý khuyên phải đình chỉ nghiệp vụ. Bây giờ ông giám định tâm lý tòa án Leygraf đi đến kết luận rằng: "các vị lãnh đạo tinh thần từng phạm tội ở lại giáo hội, thì sẽ được giám sát bởi một mạng lưới thanh tra và hỗ trợ, là điều mà nhìn dưới quan điểm xác suất tái phạm, có thể gọi là yếu tố phòng ngừa". Nghe hơi phức tạp, ý ông ta là: Hội thánh cứ nên để các vị lãnh đạo tinh thần này trong hàng ngũ của họ. Chỉ có nạn nhân là không thể nào hiểu nổi.



(* dịch lại từ "Was Priester zu Tätern werden lässt" (http://www.spiegel.de/panorama/gesellschaft/sexueller-missbrauch-in-kirche-bischofskonferenz-stellt-studie-vor-a-871614.html) )