PDA

View Full Version : Điểm



HoangVan
02-18-2013, 07:03 PM
Đi ...



Đường chiều lá rụng - Quỳnh Giao
Hà Thanh, họa mi xứ Huế - Quỳnh Giao
Lẽ ra... mùa mận - Nguyên Nhi
Phạm Duy Nhượng - Nguyễn Đình Toàn
Phở (trích đoạn)- Nguyễn Tuân
Phở ... (trích từ "Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường")- Thạch Lam
Phở bò - món quà căn bản (trích từ "Miếng ngon Hà Nội")- Vũ Bằng
Phở có từ bao giờ, ở đâu? - Sưu tầm đời sống
Phở, phởn, phịa... - Nguyễn Dư
Sương Xuân và hoa đào - Vũ Thư Hiên
Tô phở không mùi (trích từ “Văn phong, nhân cách”) - Võ Phiến
Trái đào của quí nữ - Ngô thị Đông Lai
Truyện ca của chúng ta - Quỳnh Giao




~o)

HoangVan
02-18-2013, 07:14 PM
Sương Xuân và hoa đào
Vũ Thư Hiên 1997 (theo Việt Luận-Tân Niên Quý Tỵ 2013)



.....Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có mùa đông. Mùa đông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn bị không thể nào thiếu được để cho ta bước vào một cái móc thời gian mới đối với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn vào những dịp Xuân sang tôi vẫn không thấy trong lòng mình một chút cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu những lời này làm các bạn phật lòng, nhưng mãi tới nay, sau nhiều cái Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ để là Tết. Đành phải viện hai câu thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã trở thành không kém thân thương:


Tự thuở mang gươm đi mở cõi,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.

Thực ra, chuyện đó chẳng có gì lạ. Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía ngoài kia.




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013021908.jpg




… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

bonita
02-19-2013, 01:39 AM
Đợi ... http://www.gifmix.net/3d-smileys/naughty-3d-smilies/0029.gif

...@};- ...

HoangVan
02-19-2013, 02:32 AM
http://www.gifmix.net/3d-smileys/naughty-3d-smilies/0029.gif



.....Người xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.

Người xông nhà,theo sự mê tín từ xưa, là một nhân vật rất quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng, chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.

Bác Nguyễn, nổi tiếng về tính kỳ quặc của mình, chắc hẳn chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chúng tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi thì ông cũng không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về danh giá, theo truyền thống hiếu học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về mặt tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.

Bố tôi quý Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông, Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp kẻ sĩ Bắc Hà mỗi ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như phù vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân nhất quyết phủ nhận. Ông luôn phô rằng mình cũng biết sợ đấy chứ, còn hơn thế, ông chẳng những sợ vừa mà còn sợ lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013021909.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-19-2013, 02:34 PM
.....Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen dân dã thường nhật. Trời rét ngọt, ông vận thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân, bao giờ cũng phải khác người.

Tôi mở cửa đón ông hơi ngỡ ngàng một chút. Tôi không chờ đợi người xông nhà không phải là người trong gia tộc. Vào những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Đến nhà người không được nhà cầm quyền ưa là chuốc vạ vào mình. Vạ có thể nhẹ, mà cũng có thể nặng, tùy theo nó từ đâu tới, từ cơ quan nào tới, từ cấp nào tới. Lại càng không chờ đợi người tới là Nguyễn Tuân, người luôn khoe khoang sự sợ hãi của mình. Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:


_ Nói thực, tôi đến đây vì chẳng biết đi đâu, anh ạ. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ?

Bố tôi nghe léo xéo bước ra, tươi cười ôm lấy bạn, dìu vào nhà. ...





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022001.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-20-2013, 02:52 AM
........ Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng mực. Bố tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không được ông đụng đến. Mà đúng thế, Nguyễn Tuân ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn phòng nhỏ của bố tôi. Bố tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng ấy chứ không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau, chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả bố tôi đều không thích những lời ồn ào.



_ Ngon tuyệt _ Nguyễn Tuân nhắp vài nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
_ Làng Văn đấy!



Bố tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt. Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được vui.


_ Tuyệt!
_ Mình phải đặt loại đặc biệt cho cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha tôi sau năm năm tù còn bị lưu đầy ở Nam Định.



_ Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ họng là biết ngay! _ Nguyễn Tuân xác nhận.



Phận con cháu, tôi được phép ngồi bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ, độc đáo mà không người nào có. Về đời sống cũng như trong văn chương, ông là người uyên bác.

Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người: “Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình đẳng, gia trưởng lắm”. Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong xưng hô lắm.

Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức họa cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi với Văn Cao ( “bà Băng – vợ Văn Cao – bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tý!” ), đến Nguyễn Sáng ( “Tết nhất mà nó có một mình, buồn muốn chết!” )






http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013021910.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

ntđl
02-20-2013, 02:46 PM
Bác HVn.
Cám ơn quá xá, đọc mê thôi là mê heng.
Bác làm ơn dán dài dài thêm chút nẹo dặng hôn ? Cám ơn bác trước (cám ơn rồi đó nha)

Cho tui hỏi cái... thế Vũ Thư Hiên này có phải là tác giả quyển "Đêm Giữa Ban Ngày" không. Tui đọc lâu quá thành hổng còn nhớ đích xác. Tui nhớ y hình gia đình ông theo công giáo, bố ông là người công giáo có thể là duy nhứt trong đảng cộng sản VN, nghe nói là bí thư riêng của họ Hồ, trước đó vào chủng viện sau xuất ra rồi theo ông Hồ làm cách mạng....

Tui nhớ vụ này là vì... ông bí thư gốc gác Trung Lao. Hồi đọc Đêm Giữa Ban Ngày thấy có đoạn ông Hiên nhắc tới bè bạn họ hàng quyến thuộc. Cách đây hổng lâu, trong phố mình thấy có ai đó cũng dùng bút hiệu Vũ Thư Hiên, tui tưởng ông Hiên này đây, sau té ra hổng phải.
Dà... ngoại tui họ Vũ, quê quán cũng Trung Lao.

Ông Vũ Thư Hiên y hình thích xài... double négation ha. Bác HVn có thấy vậy không ?
Cám ơn bác thêm cái nữa.

Để tui đi lục mấy thùng sách cũ kiếm dọc lại trước khi... cho đi. Dà thì hai vợ chồng sửa soạn dọn vào condo, buộc lòng phải downsize đám sách. Cuốn nào ngó chừng có người thích thì gởi tặng, phần còn lại mang vào thư viện thành phố để họ lựa đưa vào khu sách vở VN. Lóng rày người ta hổng đọc sách in nữa mà chỉ tuyền đọc ebook cho nhà cửa bớt chật. Nhưng cái thú ôm sách vào giường thì ebook hổng thể thay thế dược sách in, ít nhứt là với tui. Mà condo lại quá chật !

HoangVan
02-20-2013, 04:12 PM
Ha ha .. chị Ngô .. @};- ..
dán kẹo kẹo cho giống phơi-dơ-tông báo hồng-kông chưa wa kịp hén .. ;) ..


Dạ đúng, VTH của "Đêm giữa ban ngày". Tôi đọc báo tân niên, thấy bài này dễ thương nên "tà tà tàng tàng" gõ vô đây. Tôi có để ý đến double négation của VTH, và tò mò thay thế bằng assertion nhưng thấy không sát ý. Đọc VTH, tôi cảm được cái rét ngọt của ngày Tết Hà Nội, tôi thấy được ông bạn già hơ đôi tay cóng trên hỏa lò than be bé và ánh mắt nhìn nhau không lời, cùng trân quí ít rượu ngon cũng như tình bạn tràn đầy đêm đầu xuân ..

..

Tôi có một người bạn, khi về hưu 2 vợ chồng bán nhà dọn về condo có sân golf, rồi 1 năm đi du lịch 7, 8 tháng .. :) .. Khi dọn vào nhà mới, chàng và nàng áp dụng kỹ luật thép: rằng đồ đạc phải vừa vặn tủ kệ không nhồi nhét, và mua 1 món thì phải vứt 1 món .. ngay tấp lự .. :D ..
Nếu là tôi, và nếu hoàn cảnh tài chánh cho phép, thì tôi vẫn chọn nhà rộng, vườn rộng .. cho đầu óc thoải mái. Nhưng tôi hiểu là tùy khí hậu địa lý từng vùng, khi nhu cầu phòng ốc không còn thì một không gian nhỏ hơn bỗng trở nên tiện lợi muôn bề .. ~o) ..


@};- ~o) :) ..

HoangVan
02-20-2013, 07:33 PM
.....Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:


_ Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng Một này thiếu cái gì không?
Tôi không cần động não để tìm câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân.



_ Thiếu sương! _ Nguyễn Tuân, mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài _ Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi không trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó, thiếu sương.



Tôi ngạc nhiên trước sự nhận xét tinh tế của ông. Quả vậy, không có sương. Tôi nhớ đến những năm xa xưa, khi tôi còn rất nhỏ, những ngày đầu năm ấy ở Hà Nội đúng là có sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ bụi cây.



_ Thưa Bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu ở đây thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!

_ Đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà _ ông nhăn mặt cằn nhằn _ Tôi là tôi đang nói cái đang có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn của hiện tượng là việc của người khác.

_ Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất! _ Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự _ Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu được không? Nghèo hẳn. Đành vậy, sang năm tôi phải đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn gặp lại nó.



Rồi đột ngột ông quay sang chuyện khác: …







http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022102.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-21-2013, 03:44 PM
.....

_ Này, năm nay giáp Tết mưa thuận gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy bố con anh đi chợ hoa?

Đã thành cái lệ, năm nào bố tôi và Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà từ trưa đến tối mịt mới về đến nhà.


_ Thưa Bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc bận.

Tôi nói dối. Thật ra, tôi không thích đi vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược ngày thường đầy rác rưởi, trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào được cầm trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, cẩm chướng, thược dược… Ở đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch quá. Chưa kể những gương mặt hãnh tiến trong sự không may của số đông nhân quần trong thang bậc giàu nghèo. Tôi còn sợ nhìn cái cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.


_ Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố tìm được ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi sửng sốt: “Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!” Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Để ngắm cành đào của bố anh.

Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.






http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022201.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-22-2013, 06:43 PM
.....Bố tôi không phải là nghệ sĩ. Ông, nói của đáng tội, đã từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là lập dị. Có điều, như một người thuộc lớp nho sĩ cuối cùng còn rớt lại, mặc dầu có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù, ở nhà tôi là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.

Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ hoa: thủy tiên và đào.

Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức. Để cho thủy tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Bố tôi mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, phải nhập khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thủy tiên có bề ngoài giống củ hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một chút hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy tiên, bố tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại là thứ dành riêng cho nó.

Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của bố tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi ở trong tù, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.

Thủy tiên do bố tôi gọt khi nào cũng nở hết số hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của sự giao hòa giữa người cõi âm và người cõi dương, giữa tổ tiên và con cháu. Bố tôi đứng lặng trước bàn thờ ông bà, đầu hơi cuối. Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm ran.

Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn nấu, thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào. Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng Narkissos trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.

Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa …






http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022301.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

bonita
02-23-2013, 01:52 PM
hoa thủy tiên có phải là narcisse không anh HV ?
bo thích hương thơm của jacinthe hơn @};-



Hoa Thủy Tiên

Nhạc Sĩ Lê Thương - trình bày Khánh Ly (http://gachnoionline.com/depot/tieutot/Music/hoathuytien(lethuong)_khanhly.wma)


Một nghìn năm trước
Trong đời Trần Nam quốc
Có cô công chúa loà
Cả đời nuôi nấng hoa
Trời làm nắng gió
Sau một chiều giông tố
Các hoa trên gác lầu
Phải một cơn đớn đau
Nàng bạch mẫu đơn
Trôi lạc mất con
Khấn xin công chúa loà
Tạ đền nụ hoa cho bà
Lòng nàng công chúa
Thương người và hoa quá
Đến đêm xin khấn trời
Xin đền nụ hoa đã rơi
Nàng bày trên gác
Ước chừng mười tô nước
Khấn xin ba tháng ròng
Nhưng trời chỉ cho nước trong
Ngày tháng chóng qua
Thu hè đã xa
Cuối đông năm đó trời
Cho nàng thuỷ tiên xuống đời
Nằm chìm trong nước
Đang chờ thời gian lướt
Thấy cô công chúa loà
Cô nàng thuỷ tiên tiến ra
Trình bày trên bát
Ba lòng vàng thơm ngát
Khiến cho đôi mắt loà
Của nàng công chúa sáng ra
Nàng mở mắt xong
Trông vào tô nước trong
Thấy xuân năm đó trời
Cho nàng thuỷ tiên xuống đời

HoangVan
02-23-2013, 03:58 PM
.. Thủy tiên là Narcisse đó TT .. @};- @};- :) .. anh nhớ là Jacinthe thơm nhiều và nồng hơn, còn Narcisse thì thoang thoảng như VTH nói .. @};- @};- ..

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022401.jpg

HoangVan
02-23-2013, 05:48 PM
.....… Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.

Trước Tết một tháng, bố tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, bố tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, vào lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.

Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, bố tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.

Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào. Bố tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Đó là một cái lọ lớn, thường là lọ sành da lương mộc mạc, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.

Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.



_ Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên _ bố tôi ngồi ngắm nó, tâm sự với tôi trước cành đào _ Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải nó về với mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.



Bố tôi không thích những cành đào rực rỡ quá, khoe khoang quá, hợm hĩnh quá.



_ Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. _ bố tôi dạy _ Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nỗi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trong xa như một cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.







http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022402.jpg




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-24-2013, 06:48 PM
.....Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố tôi nhìn vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:


_ Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố tôi, đều đã khuất núi. Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi.


Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.



Sương Xuân và hoa đào
Vũ Thư Hiên 1997







http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013021906.jpg




… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
02-24-2013, 08:29 PM
Ðường Chiều Lá Rụng
Quỳnh Giao (theo nguoi-viet.com, 01-02-2013) (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/betaviewarticlesnvo.aspx?articleid=161277&zoneid=97#.USrdlKKLDfg)



.....Một buổi chiều cuối năm, chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng để anh chị em tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm và Ðường Chiều Lá Rụng.

Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.

Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã dùng những điều học được áp dụng cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.

Năm đó, khi vừa ráo mực, ông đưa tác phẩm cho nhạc sĩ Vũ Thành. Là trưởng phòng văn nghệ của đài Phát Thanh Sài Gòn và trưởng ban nhạc đại hòa tấu và hợp xướng Phương Hoa, Vũ Thành cũng cộng tác với đài Tiếng Nói Tự Do của Hoa Kỳ, chuyên phát các chương trình ra miền Bắc. Nổi tiếng khó tính, Vũ Thành lưỡng lự khi soạn hòa âm, vì Ðường Chiều Lá Rụng không dễ viết.

Nguyên tác của Phạm Duy là nhịp ý dìu dặt thiết tha trên ton Si thứ với nhiều quãng năm giảm (quinte diminué) làm nhiều ca sĩ trẹo lưỡi. Hát đúng giọng thì phải xuống nốt Fa thăng thấp (dưới hàng kẻ ba dòng) và lên nốt Fa thăng cao nhất (dòng kẻ thứ năm). Vũ Thành sửa lại, dùng nhịp 4/4 theo lối chậm rãi kể lể của một bản Slow và viết nhiều nốt liên ba (triolet) trong toàn bài, rồi còn hạ một cung, tức là ton La thứ. Viết xong, Vũ Thành quyết định thu thanh cho chương trình của đài Tiếng Nói Tự Do để phát ra Bắc, và vì thế trong Nam mình không được nghe.

Ông chọn Thái Thanh để trình bày tác phẩm bất hủ này. Ðấy là một chọn lựa tuyệt vời.
Thường ngày Thái Thanh vẫn nổi tiếng là cường điệu. Bà làm cho ca khúc thổn thức rũ rượi hơn và nồng nàn hơn nguyên bản. Nhưng với Ðường Chiều Lá Rụng qua hòa âm Vũ Thành thì mọi lối quằn quại điệu nghệ bỗng nhiên biến mất. Bài hát quá khó, khiến bà phải cẩn trọng từng chữ, hát sai và không theo dàn nhạc thì Vũ Thành “quạt” ngay, chẳng nể nang ai cả!
Thái Thanh hát nghiêm chỉnh, lại có cả dàn phụ họa của Anh Ngọc, Nhật Bằng, Phượng Bằng, Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao nữa, nên ca khúc là một tuyệt chiêu.
Như có lần người viết đã kể, khi di tản năm 1975, tài sản duy nhất được Vũ Thành đem theo là một số băng ghi âm các ca khúc quý giá ông làm cho đài Tiếng Nói Tự Do. Trong đó có Ðường Chiều Lá Rụng.

Tại hải ngoại, khi thực hiện đĩa nhạc thứ hai với tên Tiếng Chuông Chiều Thu, Quỳnh Giao chọn Ðường Chiều Lá Rụng vì yêu mến tác phẩm trứ danh này. Nhưng đưa cho Duy Cường nghe tape nhạc Vũ Thành thì bị lắc đầu: “Em không bao giờ làm giống ai và chẳng bị ảnh hưởng của ai hết!” Ðúng quá chứ! Rồi Duy Cường cũng loay hoay mãi không viết được. Anh không chịu đổi qua nhịp Slow như Vũ Thành, dù nhịp này dễ hát hơn nhiều.
Cuối cùng Duy Cường hòa âm theo kiểu ad lib, là tự do, chẳng có nhịp gì hết.
Cái khó là xưa nay ca sĩ hát ad lib thì nhạc sĩ đệm theo, chứ bao giờ lại có sự ngược là nhạc sĩ đàn ad lib và ca sĩ phải hát theo! Cường nói: “Chỉ có chị mới hát theo dàn nhạc được, và vì chị nên em mới thử nghiệm điều này.”

Hôm thu âm tại phòng thu Tomlinson, Phạm Duy đến nghe. Cô cháu hát thử câu đầu “chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều” bằng hai cách. Cách thứ nhất gần giống lối diễn tả của Thái Thanh, là láy vào chữ “vắng” và chữ “rơi.” Cách thứ hai là chỉ láy vào chữ “ta” mà thôi. Và hát rất đều giọng, nghiêm trang. Phạm Duy chọn cách thứ hai. Viết lại như vậy để chúng ta hiểu ý người sáng tác.

Cho tới giờ dường như số người hát Ðường Chiều Lá Rụng chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Riêng Phạm Duy thì nhắc đến ba người là Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao. Mà người nghe chắc cũng ít. Nhạc đã thế, lời ca lại chẳng nhắm vào cảm quan mà đầy não tính...

Quỳnh Giao đã viết nhiều nên không dám nói thêm về các lời từ của Phạm Duy khi ông đưa tình yêu lên tận cõi chết. Ðường Chiều Lá Rụng là một tiêu biểu rực rỡ và rã rời nhất với hình ảnh đầy chất siêu thực. Nhưng giờ đây, khi ông đã ra đi, mà mình hát lại với nước mắt lưng tròng thì ca khúc lại tái sinh như một bức họa. Ông chuyển cung như dùng màu sắc để đổi ánh sáng và có nhiều câu báo hiệu lối viết sẽ thấy ở Trịnh Công Sơn về sau.

Một kỷ niệm cuối là khi ghi âm bài này với hòa âm của Duy Cường, Quỳnh Giao đã ỷ vào chỗ thân tình mà xin sửa một chữ ở câu cuối! Phạm Duy nghe lại, gật gù và cho phép!



Chiều tan trên đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối, đang chờ phút đầu thai.

Quỳnh Giao xin phép hát là



“Hồn ta như gò mối, IM chờ phút đầu thai...”


Lá đã rụng, ông đã im. Chúng ta đang chờ ông trở lại.



Quỳnh Giao, 01-02-2013




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022501.jpg




… (về mục lục) …

HoangVan
02-27-2013, 09:45 PM
Tô phở không mùi
Võ Phiến - trích từ “Văn phong, nhân cách” (theo tienve.org) (http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=411)



… …

.....Văn chương nghệ thuật không phải là chỗ phô trương những phong cách người Trời, những phong cách anh hùng chí sĩ. Thường khi, trái lại. Trong hội họa có thứ tranh quyến rũ vì sắc màu xanh lướt bệnh hoạn, vì những chiếc cổ dài ngoẳng, những bộ mông tục tĩu, trong thi ca có thứ thơ thu hút người vì vần điệu âm u, ảm đạm.

Nhân cách được phân biệt theo thiện ác; văn phong không có văn phong thiện với ác, chỉ có văn phong đẹp với xấu. Và cái hỏng nặng nhất cho người làm văn thơ là không có được một phong cách, dù chuyên làm văn thơ yêu nước thương nòi. Ì ạch viết suốt một đời mà xem ra chẳng thấy một phong cách gì: Chuyện khổ não ấy lại xảy ra đều đều.

*

.....Ta liên tưởng đến một chuyện khổ não trần gian khác, cũng lại thường xảy ra: tô phở không mùi.

Trong tác phẩm của Thế Giang có lần hai người trẻ tuổi nói chuyện về phở Thìn ở Hà Nội. Một người bảo: “Cậu thử tưởng tượng xem, về khuya đi ngược gió đông, cách cả trăm thước mà cái thằng phù thủy ấy nó giở nắp thùng lên thì có sởn gai ốc không hả...? Trong túi không có tiền thì bỏ mẹ!” Rồi người ấy lại bồi thêm câu nữa: “Thế mới là phở chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào nồi cũng không hay, bát phở bưng đến trước mặt, mở mắt ra mới biết thì còn gì là phở?” (Thằng người có đuôi) Ôi! thật xứng đáng là những lời vàng ngọc về cái chân lý phở.

Hình như cổ nhân đã bận tâm nhiều lắm về mùi thơm của các món ăn. Trong vài món phổ biến như phở Bắc như bún bò Huế, mối bận tâm ấy từng thể hiện nơi chiếc muỗng và cái tô chẳng hạn. Tôi có cảm tưởng bát bún bò ngày xưa bưng ăn ở Huế nó nhỏ hơn ngày nay nhiều. Xưa kia, nó là cái bát tai bèo, vừa bé vừa cạn lại vừa dày cộm: dung lượng được mấy? Vì thế, thực khách có thể “thanh toán” bát bún bò tiền chiến thật nhanh chóng, thanh toán trong khi nó còn nóng hôi hổi, bốc hơi ngào ngạt. Bát bún bò mỗi ngày mỗi nở lớn thêm. Bát lớn quá, ăn mãi một hồi lâu chưa chịu hết, tất nguội lạnh, còn có mùi thơm nào bốc lên từ đống đồ ăn lạnh lẽo ấy nữa? Vả lại, bạn nghĩ coi: người hàng bún chỉ rắc hành tiêu lên mặt một lần, lúc làm xong bát bún bưng mời bạn xơi, chứ có ai đứng mãi bên cạnh mà hầu bạn, mà thỉnh thoảng lại chồm vào rắc hành rắc tiêu cho bạn đâu? Chút hương liệu rắc lên mặt làm sao thơm đến tận đáy bát? Thành thử bảy tám phần mười bát bún lớn, bạn ăn không mùi.

Tô phở nó lại càng lớn mạnh hơn nữa theo thời gian: phở tàu bay, phở tàu ngầm, phở xe lửa v.v... Toàn thể các loại phở “jumbo” ấy là những đấng khổng lồ làm khiếp vía các bậc phở tiền bối. Tại sao không tiếp tục giữ kích thước khiêm tốn cũ: mỗi lần ngon trớn, có đầy đủ yên-sĩ-phi-lý-thuần, ta gọi tiếp tô phở mini thứ nhì, có sao đâu?

Đó là chuyện cái tô. Lại còn vấn đề chiếc muỗng. Ngày còn học ở Huế, mỗi khi ăn bún bò, cả bọn chúng tôi ở cùng một nhà trọ thường ăn cái bún bò gánh đi bán dạo. Bà hàng bún làm xong bát bún hình như chỉ đặt ngang một đôi đũa trên miệng bát trước khi trao cái bát tai bèo đang bốc hơi vào tay thực khách. Tôi không nhớ có kèm theo muỗng. Chúng tôi vừa ăn vừa húp nước xùm xụp.

Trước kia, trên đường Nam tiến món phở chưa vượt qua sông Gianh, tôi không biết lối ăn phở theo phép tắc ngày xưa nó ra thế nào. Bây giờ thỉnh thoảng có bậc tuổi tác gốc miền Bắc nhắc rằng ăn phở trước kia cũng không hay dùng đến muỗng. Lý do là muỗng nó hại mùi.

Hãy tưởng tượng, nấu một món ăn vương giả thơm lừng dưới bếp, mà bao nhiêu vị khách quí thì say sưa bàn những vấn đề quốc quân trọng sự trên phòng khách. Để tỏ lòng ngưỡng mộ một vị thượng khách kính yêu nào đó, ta muốn cho vị ấy nếm thử món ăn đang ở thời điểm thơm ngon nhất. Ta lấy chiếc thìa con múc đầy một thìa, run rẩy mang lên phòng khách trút vào mồm thượng khách kính yêu. Kết quả ra sao? Kết quả là thượng khách đớp phải một món ăn vô vị: món ăn còn đó mà mùi thơm đã chết mất dọc đường. Món ăn dù quí đến chừng nào mà chỉ “trích tuyển” ra một muỗng con, mang đi vòng vo, thì cũng không còn giữ được hương vị nữa.

Vì thế cái muỗng phở trích tuyển đưa lên mồm nó cũng chịu ít nhiều thiệt thòi. Chịu khó bưng tô phở lên mà húp thì mồm chỉ húp một ngụm mà mũi hưởng được cái thơm của cả tô. Nếu quả thật trước kia ăn phở không dùng muỗng thì, một lần nữa, các bậc tiền hiền lại đáng ca ngợi.

E có kẻ cho rằng tôn kính tiền nhân thì nên để trong lòng, còn ngoài mặt hãy nên dung hòa với phép ăn uống của địa phương: ngồi ở một tiệm ăn trên đất Hoa Kỳ, bưng nguyên cái bát to tướng lên mà húp, có khó coi chăng? Lấy con mắt người Mỹ mà coi, có khó thật. Nhưng một khi người Mỹ cũng bưng bát lên húp, thì cái coi không còn khó nữa. Tại các tiệm ăn Nhật, thỉnh thoảng người ta vẫn có dọn những món xúp không ăn bằng muỗng. Thật tình mà nói, riêng phần tôi, tôi chỉ gặp một thứ xúp lỏng, ngửi qua mùi chẳng thấy thơm tho gì, thế nhưng theo phép vẫn bưng cả tô để thưởng thức cái mùi mà mình chưa quen. Các thực khách người Mỹ chung quanh cũng vui vẻ làm như thế cả. Không khó coi là mấy.

Mùi thơm của một món ăn, người ta bảo vệ nó cẩn thận như thế, vai trò nó quan trọng như thế, cái thế giá của nó cao như thế, mà sự lợi ích “cụ thể” của nó ra làm sao? Nói về phở chẳng hạn: Phở là món để ăn, không phải để ngửi. Xưa nay thiên hạ hăm hở vào tiệm phở không phải cốt mua lấy tô phở, ngồi ôm hít một lát rồi ra đi thỏa mãn. Đó không phải cách thưởng thức phở chính thống. Ấy thế mà cái phở không thơm, cái phở “đi sắp ngã vào nồi cũng không hay” thì lại không “còn gì là phở”! Có kỳ cục không chứ?

Phở cốt để ăn, vậy cái thực chất của phở là bánh phở, là nước dùng, là miếng thịt, là những sách những nạm v.v..., đó mới là những cái cụ thể để hưởng, còn thơm với không thơm thì hưởng ra làm sao? Thơm không phải là cái ngon của phở; chẳng qua nó chỉ báo hiệu cái ngon. Thưởng thức cái ngon thì được, thưởng thức cái... báo hiệu thì thưởng thức làm chi? Vậy mà không báo hiệu thì... “còn gì là phở”! Kỳ cục thật.


.....Kỳ cục như văn thơ. Đọc Nguyễn Tuân chẳng hạn là để xem chuyện cô Tơ chuyện cậu Lãnh Út, chuyện cái da cái tóc của chị Hoài, cái cười cái nói của phu nhân họ Bồ v.v... nó ra làm sao. Đó mới là thực chất cụ thể. Ăn phở thì ăn thịt ăn bánh, còn cái mùi chỉ để... ngửi chơi. Đọc sách thì đọc chuyện đọc ý, còn phong thái là cái vô hình phảng phất, chỉ để... ngửi chơi. Vậy mà chính cái đó mới làm cho Nguyễn Tuân thành Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính thành Nguyễn Bính, Phan Khôi thành Phan Khôi, cũng như xưa kia cái văn phong đó đã làm cho Lý Bạch thành Lý Bạch, Tô Đông Pha thành Tô Đông Pha v.v... Cái đó chứ không phải là những tài tả cảnh hay ho, là những tư tưởng cao siêu nào.


Hôm nay chúng ta nói lếu nói láo về cái mùi của văn thơ, về chuyện ngửi văn thơ, đừng tưởng là có gì mới mẻ. Người xưa đã từng có lần mắng cái mũi vô duyên của mình khi nó sục sạo, ngửi phải câu thơ thi xã đấy.



Võ Phiến, 09-1989




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013022802.jpg




… (về mục lục) …

Đậu
02-28-2013, 12:39 PM
Tô phở nó lại càng lớn mạnh hơn nữa theo thời gian: phở tàu bay, phở tàu ngầm, phở xe lửa v.v... Toàn thể các loại phở "jumbo" ấy là những đấng khổng lồ làm khiếp vía các bậc phở tiền bối. Tại sao không tiếp tục giữ kích thước khiêm tốn cũ: mỗi lần ngon trớn, có đầy đủ yên-sĩ-phi-lý-thuần, ta gọi tiếp tô phở mini thứ nhì, có sao đâu?


Trộm nghĩ, việc ăn phở cũng giống như lấy vợ. "Lấy vợ thì lấy liền tay". Ăn phở thì không chờ lúc nguội. Lấy vợ chỉ một lần là ngán. Ăn phở chỉ được bát đầu. Sang đến bát thứ hai là hết ngon. Cái nhẽ xưa nay vẫn thế. Chứ nề chi cái bát lớn nhỏ. Sách có chép "người ta không tắm hai lần trên cùng một giòng sông" thì sự ngán ngẩm khi ăn bát thứ hai là việc khả hiểu đặng.

HoangVan
02-28-2013, 02:33 PM
.. :) .. haha .. anh Đậu .. ~o) ..


"Lấy vợ thì lấy liền tay", đúng vậy! Nhưng trộm nghĩ lấy vợ không sánh được với ăn phở. Một đằng là kết bạn đời, nhận lấy hạnh phúc và trách nhiệm xây dựng một tân gia đình với người mình yêu thương. Đằng kia là để thỏa mản cơn đói và cái thèm của khứu vị giác.

Nói về phở, thì bát thứ hai ăn vẫn ngon nếu bát đầu là bát mini, húp một loáng đã hết, tránh cho người ăn không ngán vì phở nguội.

Khi ăn bát phở thứ nhì thì ta đã tắm trên giòng sông khác rồi, vì "không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông" .. ;) ..


~o)

ntđl
02-28-2013, 03:07 PM
Chào bác HVn.
Chào Đậu.

Cám ơn bác Hvn đã lôi về mấy bài viết quá xá thú vị.
Nói về hoa đào ngày tết, thì lại nhớ về một kỷ niệm với tía. Có lần... tía đi vét chợ hoa Tân định chiều 30 tết, lượm về một cành đào.
Chời ơi chời... đào ngày tết là chuyện hầu như hổng thể có, bị vì đào là hoa vương giả, mắc lắm cà, chở hổng như mai vàng dân dã.

Chợ Tân Định nằm trên đường Hai Bà Trưng. Nhà lồng của chợ nhỏ thôi, chung quanh 4 bên là những sạp rau trái. Và chợ hoa Tân định họp ngay lề đường khúc các rạp rau trái này đây. Tía đi công chuyện chi đó rồi tình cờ ngang chợ hoa chiều. Đây là những người từ miệt Bà Điểm Hốc Môn, hối hả bán tống bán tháo đám hoa ế đậng còn kịp về kịp giao thừa. Bán mà hổng hết thì dục đại lợi, ai muốn cứ việc mót việc rinh.

Tía mang cành đào xấu xí khẳng khiu, ngó miết mới thấy 1-2 cái nụ còn trốn kỹ trong chặng (hay ngạnh, lâu quá quên mất tên, là chỗ cành trồi ra). Rồi... tía lôi cái độc bình duy nhứt trong nhà, bỏ cành đào dô và xoay quanh nó mần màn cắt tỉa.
Cắt xong tỉa xong thì đốt gốc đào, xong mới châm nước vào bình. Nghe nói đốt gốc là để hãm cho đám nhựa hổng thể chạy ra ngoài thân từ chỗ cành bị cắt, có thế nó mới tiếp tực mang thức ăn cho đào tăng trưởng.
Chuyện châm nước bình sau đó là phần của quí nữ, và nó chăm chỉ với bổn phận trong suốt gần cả thàng dài.

Cành đào hổng thể nở kịp vào sáng mùng một tết, dĩ nhiên. Nhưng mùng 3, khi má sửa soạn nhang đèn tiễn ông bà đi thi nó rục rịch cựa mình thức giấc.
Hoa đào quê mình có lẽ cũng là loài mận loài mơ nhưng y hình là mận mơ đơn côi, nghĩa là cho hoa lẻ. Rải rác trên cành thấy điểm phớt phớt vài bông cô độc, chớ hổng từng chùm om xòm nở rộ như đám blossom kiểng quê người. Màu nó đằm thắm và tĩnh lặng, phải chú ý kỹ mới nhìn ra, và tía kêu đó là cái duyên ngầm của người đàn bà hương sắc tiềm ẩn. Dĩ nhiên đây là chuyện người lớn nói với nhau, quí nữ nghe rồi ấm ớ hổng để ý chi.

Đâu đó khoảng mùng 5 tết thì... xuất hiện một nụ con, nhưng hổng phải nụ hoa, rồi cái nụ nọ lớn dần để thành trái đào. Hú la... Dieu soit loué ! Con nghịch nữ mỗi bữa hổng biết xoay quanh trái đào nọ mấy lần đậng dòm chừng. Màu xanh lạt của cái vỏ nọ ửng vàng dần và phơn phớt lông măng. Trái đào là trái chi nó mới thấy đây là lần thứ nhứt và lòng nó rộn ràng mở hội hoa đăng.
Cùng với trái - 1 trái duy nhứt - cành đào bắt đầu lất phất lá non. Tình say đắm hoa của tía tỉ lệ ngược với độ dày của lá, đám lá tỉnh bơ lấn đất dành dân khiến các bông hoa hết còn chỗ "đứng", chúng lụi đi và rụng hết. Tía bỏ lơ cành đào ngay tắp lự. Còn con nọ, hổng tha với hoa mà cũng hổng thiết với lá, nó chỉ chắm chú tới trái đào, siêng năng châm nước gấp đôi trước để trái mau lớn đậng đớp.

Một bữa quí nữ qua dì hai chơi cuối tuần, chừng dìa thì... cành đào đã bị má dẹp gọn. Má rửa độc bình mang cất, còn nhánh đào thì bẻ đôi quăng thùng rác. Quí nữ vội vàng đi lục thùng, nhưng... trái đào đã biệt tăm. Má biểu... nó nhỏ xíu như hai hột điều nhập lợi, ăn gì được mà ăn, mà có ăn được thì rác trong thùng mất vệ sanh lắm lận ! Tiếc ơi là tiếc !

Nay ra xứ người, mận đào apricot bày đầy chợ. Có lẽ cành đảo cũ chính là cành apricot hổng khác ? Thỉnh thoảng ra chợ trái cây ngó ngó rờ rờ, rồi thổn thức kỷ niệm về cành dào của tía năm cũ. Tía mất đã 5 năm, vậy mà vẫn tưởng như mới hôm qua... ( trong lòng con lúc nào hương lài cũng ngào ngạt...)

Hello Đậu.
Y hình người ta chỉ bàn giảng giáo lý phở, bị phở mới có giáo lý đậm đức tin. Xưa rày chưa ai đâng đàn thuyết pháp hủ tíu mì, lại càng hổng bàn tán bún riêu hay bún bò huế. Tại sao vậy hở ? Thưa có lẽ phở là của bắc kỳ, và chỉ người bắc mới đủ "trình độ" để lẩn thẩn mần màn... chẻ tóc.

Ngộ cái... tía tui cũng cứ chẻ y chang, chẻ còn hơn cả má nữa lận, thành hổng hiểu cái gen nọ đã đến từ đâu. Hổng lẽ... tía nhiễm nó từ má vợ !
Nói nào ngay... tía và ngoại y hình hạp khẩu, tới độ... có lần ức má chi đó tía xài luôn tiếng đan mạch, lúc đó ngoại đứng ngay phía sau. Má hết hồn kéo tay tía lên lớp bài bản, rồi tía được ngoại binh lấy binh để, rằng thằng nọ nói trổng vậy chớ nó có nói mày đâu mà mày cằn nhằn nó.

Trờ về với tô phờ... hổng ai ăn phở hai tô. Ăn hai tô ớn cái cẳng.
Thời trước Bắc kỳ ăn phở bằng bát chỉ vì thức ăn hổng dư dả nhiều, ăn lấy hương lấy hoa - rồi ở không mới bức tóc mà chẻ - Đã ăn hương ăn hoa thì sao mà hổng ngon cho đặng hở giời. Nam kỳ cứ rảnh rang là y phép bày bàn nhậu, rượu vào lời ra ồn ào nhặng xị. Ngoắc cần câu xong lăn ra ngủ, chừng tỉnh dậy hết còn nhớ đã xảy ra chuyện gì. Cũng bởi... sống để ăn là slogan thứ thiệt !

À... bữa hổm đọc được một bài về phở vui qua xá vui, để đi kiếm dán dô cho bà con đọc ké héng.
Chào bác HVn, chào Đậu, chào cả phố.
Tui xin phép lui ra.

HoangVan
02-28-2013, 03:39 PM
.. trà hoa cho "Tía" .. ~o) @};- :) ..

Đậu
03-01-2013, 12:33 PM
.. :) .. haha .. anh Đậu .. ~o) ..


"Lấy vợ thì lấy liền tay", đúng vậy! Nhưng trộm nghĩ lấy vợ không sánh được với ăn phở. Một đằng là kết bạn đời, nhận lấy hạnh phúc và trách nhiệm xây dựng một tân gia đình với người mình yêu thương. Đằng kia là để thỏa mản cơn đói và cái thèm của khứu vị giác.

Nói về phở, thì bát thứ hai ăn vẫn ngon nếu bát đầu là bát mini, húp một loáng đã hết, tránh cho người ăn không ngán vì phở nguội.

Khi ăn bát phở thứ nhì thì ta đã tắm trên giòng sông khác rồi, vì "không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông" .. ;) ..


~o)




Chào buổi trưa Bác HoangVan, chị ntdl cùng Hàng phố,

Bác HoangVan nói thì em xin nghe nhưng trong bụng vẫn còn lấn cấn lắm. Cái tư duy về sự đồng điệu giữa "lấy vợ" và "ăn phở" còn nằm đâu đó trong dạ dầy dạ thưa. Chưa chịu tan biến. Em lo rằng nếu không xử lý kịp thời thì lâu ngày sẽ sanh chứng. Chả khó tiêu, đầy hơi, sình bụng thì cũng táo bón cấp tánh mô tê. Thì như làm vậy, em xin một lần đặng giải trình chi tiết cụ thể về tánh tương tự giữa "lấy vợ" và "ăn phở".

Ngày xửa ngày xưa, khi muốn động viên thúc đẩy giai giẻ làm đám cưới thì các cụ hay bảo "lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha". Nghe rất thơ rất thẩn nhưng lại mang hai (2) tính khoa học cũng rất cao. Thứ một là khoa tự nhiên. Thứ đến là tâm sanh lý.

Tự nhiên là vì các cụ nói đến nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan dẫn đến mọi thuận lợi hoặc bất lợi cho tiến trình lập vợ. Trong cái tự nhiên vô tư ấy lại có hàm chứa nội dung tâm sanh lý nữa. Thế mới kinh.

Xin nói về nguyên nhân chủ quan. Chủ quan là vì nói đến tâm sanh lý của đương sự, của người anh giai đương độ phừng phưng. Ấy là khi con tim đang thổn thức ở đỉnh cao, ấy là lúc lòng trí đầy ham muốn sống chung với người mình yêu, ấy là lúc sức giai còn phơi phới thì mau làm đám cưới, đình đám đi. Chớ khi trái tim nguội lạnh, lòng dạ muốn thoát tục, lưng còng gối mỏi thì mần đám cưới làm gì cho tốn ngân sách nhà mình. Giời ơi! Lúc ấy, còn ăn uống gì được nữa? Sợ là rượu chưa nhấp môi mà máu đã lên cao vời vợi? Lại có anh nắm tay vợ cưới cưới mà run rẩy như lúc nhấc quả tạ nặng chình chịch? Mà có vượt thoát những khó khăn như thế này thì đêm động phòng cũng phải mướn cái xe cấp cứu (em-bù-lăn) đậu ngoài cửa nhà cho chắc cú. Nhỡ việc gì xẩy ra gì thì có đứa chở mình vào nhà thương. Ơ hơ! Như vậy là mất sự riêng tư, pờ-rai-vợt-xì rồi thì miễn cưỡng mần chi cho thêm buồn lòng nhau.

Người ăn phở, dù là nghiệp dư, cũng có cái tâm sanh lý như làm vậy. Cái lúc bụng đói và lòng dạ khát khao có miếng phở thì chả có gì sướng hơn là được đụng tay đụng mồm vào nó. Nhưng cái cách ăn, nhiều khi, đã làm thoái hóa hoặc triệt tiêu cái sướng ấy mà khách chả hay. Phải ăn khi phở còn nóng, khi lòng dạ còn dậy mùi thèm muốn. Phải gắp liền tay. Nhai luôn mồm. Ăn, phở không kịp nguội. Ăn thế mới là ăn. Mới đáng đồng tiền bát gạo. Mới đã ông thần khẩu và xác phàm. Chứ ăn như khách, gắp nhẹ tay như con gái mới về làm dâu, thì hỏng to. Uổng tiền.

Lại nói về nguyên nhân khách quan. Là "chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha". "Lắm kẻ", ở đây, là mấy anh giai hàng xóm láng giềng với người mình yêu, cùng là những anh giai khác đang thầm yêu nàng. Họ nhòm thấy anh giai mình hạnh phúc thì đem lòng ganh tỵ. Cái tâm lý ganh tỵ này sẽ dẫn đến thao tác bắn sẻ anh giai mình bằng nhời dèm tiếng pha với người ảnh yêu. Ấy là từ tâm lý mà diễn biến sanh lý lúc nào không hay. Sách có chép "chửi cha không bằng pha tiếng". Nói nôm na là "nói pha bằng ba lần chửi cha." Tội nghiệp anh giai mình, sự thế gian là nhẽ làm vậy mà cứ tỉnh queo. Cứ vui như chưa vui lần nào. Chả xúc tiến, thúc đẩy tình yêu đến chỗ hôn nhân gì sốt.
Rồi ngày qua đi, qua đi, qua đi. Người yêu của anh giai mình nghe nhời dèm mãi thì coi anh giai mình như "pha". Cho anh giai mình ra rìa, về nhà sờ vú mẹ. Nàng ôm đờn bước qua thuyền khác vượt biên. Chấm hết một cuộc tình đang hay hóa dở. Anh giai mình khi hay nhẽ thế gian thì lòng dạ đau đớn lắm nhưng cũng không quên rút kinh nghiệm.

Ấy, cái sự ăn phở cũng vậy. Phải đề phòng cùng là nâng cao cảnh giác với các nguyên nhân khách quan có khả năng diễn biến làm hỏng bữa ăn. Nói giả dụ, là nếu có ai đi cùng, hoặc ngồi chung bàn với mình mà xin mình tí nước béo, miếng gầu, miếng sụn thì đừng cho. Nhất định không cho, dù người đó là bà xã minh, vì khi cho là tạo cơ hội cho họ chê cái mà mình đang thích. Cái cơ hội ấy, theo thống kê, là 50 phần trăm. Nói dại mồm, nếu họ chê thì khiến lập trường của mình giao động rồi dẫn đến việc chia trí trong lúc ăn. Chia trí làm giảm năng xuất tiêu thụ. Trì trệ trong tiêu thụ thì không theo kịo tiến độ nguội lạnh của bát phở. Thế là làm hỏng bát phở. Uổng tiền.

Em giải trình xong rồi, xin lui ra.

Háp-bi phay-đây

005
03-01-2013, 01:10 PM
Cưới vợ thì cười liền tay. Vợ thì phải cưới chứ không có lấy. Chồng thì mới lấy. Còn vợ thì phải cưới về. Ông bà mình trọng nữ khinh nam. ;)

Đậu
03-01-2013, 04:08 PM
Cưới vợ thì cười liền tay. Vợ thì phải cưới chứ không có lấy. Chồng thì mới lấy. Còn vợ thì phải cưới về. Ông bà mình trọng nữ khinh nam. ;)

Hóa ra em là chiến sỹ trên mặt trận đòi quyền lấy vợ cho phe liền ông. Trong niềm tự hào to lớn và lòng tin mãnh liệt vào chiến thắng sau cùng, em sẽ kiên trì phấn đấu đứng trong hàng ngũ nhân dân thế giới tiến bộ thắp sáng ngọn lửa đấu tranh vào ngày 8/3 sắp đến.

tư mã tai trâu
03-01-2013, 04:31 PM
Y hình người ta chỉ bàn giảng giáo lý phở, bị phở mới có giáo lý đậm đức tin. Xưa rày chưa ai đâng đàn thuyết pháp hủ tíu mì, lại càng hổng bàn tán bún riêu hay bún bò huế. Tại sao vậy hở ? Thưa có lẽ phở là của bắc kỳ, và chỉ người bắc mới đủ "trình độ" để lẩn thẩn mần màn... chẻ tóc.

Trờ về với tô phờ... hổng ai ăn phở hai tô. Ăn hai tô ớn cái cẳng.
Thời trước Bắc kỳ ăn phở bằng bát chỉ vì thức ăn hổng dư dả nhiều, ăn lấy hương lấy hoa - rồi ở không mới bức tóc mà chẻ - Đã ăn hương ăn hoa thì sao mà hổng ngon cho đặng hở giời. Nam kỳ cứ rảnh rang là y phép bày bàn nhậu, rượu vào lời ra ồn ào nhặng xị. Ngoắc cần câu xong lăn ra ngủ, chừng tỉnh dậy hết còn nhớ đã xảy ra chuyện gì. Cũng bởi... sống để ăn là slogan thứ thiệt !

À... bữa hổm đọc được một bài về phở vui qua xá vui, để đi kiếm dán dô cho bà con đọc ké héng.


Chị nói dzậy cũng không ổn. Cái ông vừa viết 1 bài về phở ở trên là ông Võ Phiến gốc Bình Định chứ bắc biếc gì chị.

Tôi nghĩ người ta hay nói về phở chỉ vì phở đã oanh liệt đánh bại anh cousin bún kia để làm thứ món ăn trade mark của VN. Nhất là từ khi có mấy triệu con cái mẹ Âu Cơ đã theo mẹ xuống biển lên thuyền làm người di tản buồn, phở đã được cả thế giới biết và mê, không chẻ thì cũng uổng đi cái tự hào dân tộc vốn đã ứ hự từ lâu nay trong lòng mọi người.

Mí lại hồi xưa (trước 75), hình như cũng hiếm có người viết về phở. Nổi tiếng nhất là ông Vũ Bằng trong Miếng Ngon Hà Nội có hai chương cho phở bò và phở gà. Không biết có phải vì thời đó vấn đề viết lách không phải là chuyện ai làm cũng được như thời đại in tơ nét bây giờ. Hay là khi chưa mất quê hương người ta cũng chưa biết quý những thứ bình thường đó. Chính ông Vũ Bằng, khi đã mất Hà Nội ổng mới quay quắt nhớ những món ngon của ổng.

thuykhanh
03-01-2013, 06:09 PM
Chào anh HV, chị Ngô, Đậu, anh 005, TMTT và Phố


Cảm ơn anh Hoàng mang hình gánh phở về Phố, y chang gánh phở tôi thấy ngày xưa, ông bán phở cũng mặc bộ quần áo nâu như vậy đó.
Quí vị đừng tiện dịp bảo là một trong mấy bé ngồi ăn phở đó là tk đó nghen, không phải đâu!

Hôm trước có nhận được một bài viết về phở qua điện thư, xem xong rồi xóa mất, bữa nay tìm đăng lại để bà con xem cho vui:


Đại sứ Pháp mê phở vỉa hè




http://www.thoibao.com/images/stories/Feb13TH/daisuphap%201502.jpg


Đại sứ Pháp tại Việt Nam Jean Noel Poirier là người rất yêu thích ẩm thực Việt, đặc biệt là món phở. Một buổi sáng mùa đông lạnh giá, nhiệt độ ngoài trời chỉ khoảng 10 độ C, ông Poirier một mình đạp xe đến một quán phở "Tư Lùn" có tiếng trên phố Hai Bà Trưng để thưởng thức phở vỉa hè.


Tới quán, Đại sứ Poirier chọn cho mình một chiếc chỗ ngồi trên chiếc ghế nhựa màu xanh, trước mặt cũng là một chiếc ghế nhựa màu xanh khác, cao hơn. Đó là "bàn ăn" bữa sáng hôm nay của ngài Đại sứ.

Ông đại sứ Pháp cho biết: "Tôi mê ẩm thực Việt về sự sáng tạo và hòa trộn của các nguyên liệu và gia vị trong chế biến thức ăn. Bát phở ngon chủ yếu là do nước dùng, phở bò tái chín tổng hợp được thật nhiều mùi hương và vị"
Bữa sáng của Đại sứ Poirier kết thúc bằng câu tiếng Việt rất sõi: “Anh ơi, tính tiền”. Gọi rồi, ông Đại sứ rút ví, trả tiền cho chủ quán.

Rời quán phở, Đại sứ Poirier thưởng thức tiếp ly cà phê nóng tại một quán cà phê đúng phong cách Hà Nội trong một quán cà phê ở trong một ngôi biệt thự.
.
Đại sứ Poirier cho biết ngoài phở, ông còn thích các món ăn như canh rau, cá ăn với cơm của người Hà Nội.

Nguồn: http://rbomtm.blogspot.com/2013/02/ai-su-phap-me-pho-via-he.html

HoangVan
03-01-2013, 07:23 PM
http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013030201.jpg


.. tặng chị TK tấm hình nguyên bản, để còn nhớ tuổi thơ .. @};- :) ..



Ông Poirier dường như đang ăn "tô phở không mùi", theo Võ Phiến, chị nhở .. ;) .. lại có đĩa quảy lạc đường phía trước.


:)

HoangVan
03-01-2013, 07:30 PM
...
Em giải trình xong rồi, xin lui ra.
...






.. http://www.gifmix.net/3d-smileys/naughty-3d-smilies/0029.gif :encouragement: ~o) :applause: ..

thuykhanh
03-01-2013, 08:15 PM
.....




.. tặng chị TK tấm hình nguyên bản, để còn nhớ tuổi thơ .. @};- :) ..



Ông Poirier dường như đang ăn "tô phở không mùi", theo Võ Phiến, chị nhở .. ;) .. lại có đĩa quảy lạc đường phía trước.


:)



Dạ đúng rồi đó anh HV, sau này người ta thêm thắt đủ thứ, tôi nhớ ngày xưa mình ăn "quảy" với cháo huyết mà.


Anh cho phép tôi mang hình gánh phở về QTH nha, cảm ơn anh! Không dám dán hình tuổi thơ ở đây.




.... @};-@};- ..~o) .. ~o)..~o) ..~o)~o)

005
03-01-2013, 08:57 PM
Đại sứ Pháp tại Việt Nam Jean Noel Poirier là người rất yêu thích ẩm thực Việt, đặc biệt là món phở. Một buổi sáng mùa đông lạnh giá, nhiệt độ ngoài trời chỉ khoảng 10 độ C, ông Poirier một mình đạp xe đến một quán phở "Tư Lùn" có tiếng trên phố Hai Bà Trưng để thưởng thức phở vỉa hè.

Tây cũng phải sống mà. Nhất là ông đại sứ này phải sống ở VN. Tập ăn món VN cũng nên. Phở thật ra là món dễ ăn. Nếu đưa bún mắm chắc ông Tây này phải suy nghĩ tí ti. :))




Hóa ra em là chiến sỹ trên mặt trận đòi quyền lấy vợ cho phe liền ông. Trong niềm tự hào to lớn và lòng tin mãnh liệt vào chiến thắng sau cùng, em sẽ kiên trì phấn đấu đứng trong hàng ngũ nhân dân thế giới tiến bộ thắp sáng ngọn lửa đấu tranh vào ngày 8/3 sắp đến.
Dạ vâng, xin rước tiến sĩ về VN chiến đấu, chứ bên này hết hi vọng rồi ạ. Đàn bà và chó là hai loài sinh vật luôn luôn có quyền ưu tiên rồi. Rớ vào quyền lợi của họ là đi tự sát đấy thây. :)

HoangVan
03-02-2013, 05:46 AM
Phở, phởn, phịa ...
Nguyễn Dư (theo chimviet.free.fr) (http://chimviet.free.fr/nddg/nddg061.htm)


(Kính tặng quý ông, quý bà đã từng mê mệt vì phở)



.....Hôm nay tôi xin được tập tễnh múa rìu qua mắt bá quan văn võ của viện hàn lâm ẩm thực, lạm bàn về phở.

Thật ra thì những điều cần nói về phở đã được các chuyên gia mổ xẻ, phân tích, ca tụng từ năm xửa năm xưa hết rồi. Chỉ cần lật mấy bài viết về phở của Thạch Lam (Hà Nội ba mươi sáu phố phường, 1943), Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội, khoảng 1952), Nguyễn Tuân (Phở, 1957) ra đọc là ai cũng có thể cảm nhận được hết cái ngon, cái thú, cái quyến rũ của một món quà cổ truyền của ta. Nếu vậy thì còn gì để phải nói nữa?

Ấy đấy, nếu chỉ ngừng ở chỗ ngon, ở cái thú thì chuyện đã xong từ lâu rồi. Khốn nỗi sau những giây phút no ấm ngất ngây, tinh thần sảng khoái, các chuyên gia ẩm thực lại bắt đầu... thắc mắc. Thế là chả ai bảo ai, tất cả cùng vung tay gạt bát đũa sang một bên, rủ nhau ngồi bàn luận hăng say, có người quên cả xỉa răng.




.....Câu hỏi quan trọng đầu tiên được các vị đặt ra là phở từ đâu ra?

.....Nguyên Thanh (Phở, Đoàn Kết số tháng 10, Paris, 1987), Nguyên Thắng và Xưng Xa Hột Lựu (Mũ phở khăn rằn, Đoàn Kết số tháng 7-8, Paris, 1988) đã luận bàn tỉ mỉ, chí lý về nguồn gốc của phở. Theo một số học giả thì phở vốn gốc Tàu, được Việt hóa. Tên phở đến từ chữ phấn của ngưu nhục phấn. Tuy nhiên thuyết này vẫn còn bị nhiều người phản đối khá gay gắt. Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam! Tại sao cứ phải mang mặc cảm, chối bỏ nguồn gốc như vậy?
Ta bị mặc cảm, nhưng tự ti hay tự tôn?

Đang còn phân vân thì bỗng nghe tin Pháp đòi bản quyền tác giả của phở. Các ông ấy được tư vấn, cố vấn ra sao mà cứ nhất định rằng phở bắt nguồn từ... pot-au-feu. Thoạt nghe thấy cũng có lý. Rõ ràng là tiếng phở của ta nghe rất giống tiếng feu của Pháp. Phở phải ăn nóng... như lửa mới ngon! Eo ơi! Thế là một số bà con Việt Nam ta thắc mắc, hoài nghi, cuối cùng ngả theo thuyết cho rằng phở là của Pháp chứ chẳng phải ta hay Tàu gì cả.

Nể tình mà nói thì thực dân Pháp đến cai trị nước ta trong khoảng gần 100 năm đã để lại dấu vết của sâm banh, bít tết, ba tê, ba gai, xà lách, xà lim, cà rốt, cà nông v.v. và v.v., như vậy thì món pot-au-feu cũng có thể là cha đẻ của phở lắm chứ?
Xét về lý thì pot-au-feu được Larousse định nghĩa là món ăn làm bằng thịt bò hầm với cà rốt, tỏi tây, củ cải v.v. hoặc là tên của miếng thịt dùng để nấu món pot-au-feu. Hai định nghĩa của Larousse cho thấy rằng phở chỉ giống pot-au-feu nhiều lắm là tảng thịt bò hầm, còn lại mớ cà rốt, tỏi tây, củ cải và đồ gia vị thì xin gác qua một bên. Thịt bò hầm kiểu này cũng có mùi vị đặc biệt không giống thịt phở chín. Hơn nữa, người Pháp ăn pot-au-feu với bánh mì, khoai tây... chứ chưa thấy ai ăn với bánh phở bao giờ! Xem vậy thì pot-au-feu khá xa lạ với phở.

Các hàng phở ở Hà Nội trước đây cũng đã thử nghiệm phở sốt vang (hai tiếng sốt vang hoàn toàn đến từ tiếng Pháp) để làm vừa lòng mấy ông tây bà đầm. Tôi chưa được ăn phở sốt vang, nghe nói khá đắt vì được xào xáo với rượu vang. Thuở bé xin mẹ được một đồng bạc, đánh chén một bát phở không, không thịt, là đủ sướng mê tơi rồi. Làm sao mà biết được phở sốt vang trong tiệm của người lớn. Sau này có tiền muốn ăn cũng không được vì món này chết yểu rất sớm. Đông và tây khó mà gặp được nhau trong bát phở.

Cái lý nó khuyên ta không nên lẫn lộn hai món ăn cổ truyền của hai quốc gia văn hiến. Nhưng nói như vậy chỉ là nói suông! Đành rằng ta vừa có tình vừa có lý, nhưng rốt cuộc ta mới phê bình pot-au-feu chứ ta vẫn chưa có bằng cớ gì về gốc gác của phở để bác pot-au-feu.
Xin lỗi các bạn, vì bực pot-au-feu nên tôi hơi dông dài. Bây giờ xin bàn có bằng cớ.


.....Hy vọng rằng 2 tấm tranh dân gian Oger (1909) tôi đem ra trình làng sau đây sẽ góp phần làm sáng tỏ được vấn đề nguồn gốc và tên gọi của phở.


http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013030203.jpg

Tấm tranh thứ nhất vẽ một hàng quà. Những ai đã từng sống ở Hà Nội năm xưa, trước 1954, chắc đều nhận ra dễ dàng đây là một hàng phở gánh. Tấm tranh vẽ một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên kia xếp tất cả những đồ cần thiết. Chúng ta nhận ra con dao thái thịt to bản, lọ nước mắm hình dáng đặc biệt, cái xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh đủ cho chúng ta biết rằng đây là một gánh phở, có thể nói rõ hơn là phở chín. Sực tắc không dùng hai dụng cụ này. Sực tắc nhúng, trần những lọn mì bằng cái vỉ hình tròn, đan bằng giây thép. Còn hủ tiếu? Cho tới năm 1954, đường phố Hà Nội chưa biết hủ tiếu. Vả lại những xe hủ tiếu (xe đẩy chứ không phải gánh) của Sài Gòn cũng không thái thịt heo bằng con dao to bản của hàng phở chín.

Tấm tranh này xác nhận rằng vào những năm đầu thế kỷ 20, ở ngoài Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, phở gánh còn do người Tàu (và có thể cả người Việt Nam?) bán.


http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013030204.jpg

.....Tấm tranh thứ nhì có tên là hàng nhục phấn, vẽ thùng nước dùng. Hai thùng nước dùng của hai tranh khá giống nhau. Tranh thứ nhì cho biết rằng chữ ngưu của món ngưu nhục phấn sang đầu thế kỷ 20 bắt đầu bị rơi rụng. Tên món ăn trở thành nhục phấn.

Nhưng dựa vào đâu để nói rằng chữ phở đến từ chữ phấn? Trong bài Đánh bạc của Tản Đà được viết vào khoảng 1915-1917 có đoạn:



(...) Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất đến lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được.
(...) Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ?



Tản Đà gọi nhục phấn là nhục phơ. Chữ phấn chuyển qua phơ trước khi thành phở. Phơ của nhục phơ (chứ không phải feu của pot-au-feu) mới là tiền thân của phở.

Tóm lại, ngưu nhục phấn đã được nói gọn thành nhục phấn từ đầu thế kỷ 20 (tranh dân gian). Nhục phấn được chuyển thành nhục phơ (Tản Đà). Ít năm sau nhục phơ được dân chúng đổi thành phở (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1933). Năm 1943 Thạch Lam đưa phở vào văn học. Kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng, tên phở được tất cả mọi người dùng. Mới bàn đến tên phở thôi mà đã ồn ào như thế, huống hồ bàn đến những vấn đề to lớn khác!




.....Tôi không đủ khả năng đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết lý, thẩm mỹ. Có cho húp cạn dăm ba thùng nước phở tôi cũng chịu không biết rõ mặt mũi một bát phở đúng điệu phải ra sao, một bát phở ngon phải như thế nào? Trước khi ngừng, xin kể vài mẩu kỷ niệm của những lần được tay nâng môi kề một bát phở.

.....Ai ơi bưng bát phở đầy... Khó quên được "phở" của bọn sinh viên chúng tôi vào những năm 65-70. Cái thời ở Pháp không kiếm đâu ra được bánh phở, nước mắm. Chúng tôi hầm thịt với muscat, đinh hương, viandox. Ăn với mì sợi, hành tây. Nghĩ lại mới thấy "phở" thời đó sao mà giống pot-au-feu thế. Thế mà đứa nào cũng khen ngon. Ôi, cái thời tuổi trẻ còn dễ tính.

.....Mấy năm đầu của thời kỳ Việt Nam đổi mới và mở cửa... Hà Nội như một người mới ốm dậy đòi ăn giả bữa, xối xả lao mình vào... ăn trứng. Vừa bổ, vừa sang! Các cửa hàng rộn vang tiếng đòi đập thêm trứng. Bánh cuốn cũng trứng. Phở cũng trứng! Một trứng chưa đủ, vẫn còn thèm. Cho hai trứng nhé ông hàng ơi! Nhiều con mắt liếc trộm khách hào hoa! Gọi một bát phở thường lúc này là chuyện hơi không bình thường.

Xế cửa nhà tôi ở trọ có một hàng phở bình dân. Không phải phở tiệm, cũng không phải phở gánh. Hàng phở kiểu này chưa có tên trong văn học. Tạm gọi là phở hè lè tè. Bàn ăn cũng như ghế ngồi của khách, của chủ chỉ cao cách mặt vỉa hè độ 20 phân. Ai thích nước phở trong và ngọt thì nên đến ăn ở đây. Trong vắt, không một váng mỡ! Dường như xoong nước dùng chỉ có nước, muối và bột ngọt. Mỗi bát phở được cô hàng tặng thêm lưng thìa cà phê bột ngọt. Khách muốn đậm đà hơn? Dạ có (muối trộn bột ngọt) đây ạ. Được cái phở cũng có ớt, chanh, hành hoa thái nhỏ.

.....Tại Huế, khu Gia Hội có một tiệm nho nhỏ nhưng chuyên làm cả một bảng các món đặc biệt. Hai ba kiểu mì xíu mại, hoành thánh, dầu chao quẩy. Ba bốn kiểu phở tái, chín, nạm, gầu. Có cả hủ tiếu Nam Vang, mì Quảng... Điểm độc đáo của tiệm là tất cả các món đặc biệt này chỉ cần một thùng nước dùng.

.....Một hôm tôi lang thang dưới Xóm Bóng (Nha Trang). Mải la cà chụp ảnh, quá ngọ mới đi ăn trưa. May quá còn tiệm phở mở cửa. Ông chủ vồn vã mời ăn phở đặc biệt (lại đặc biệt). Khoái quá, tôi gật đầu lia lịa. Làm xong bát phở, ông chủ đi nghỉ trưa. Cả tiệm chỉ còn tôi với bát phở đặc biệt! Ăn hết mấy sợi bánh tôi vẫn chưa hết dè dặt với cái khối gì là lạ nổi trong bát. Một lát tôi ngoắc thằng bé từ nhà trong đi ra, hỏi nó xem tôi đang ăn phở gì? Thằng bé chăm chú dòm bát phở. Con không biết, để con hỏi mẹ. Dạ mẹ không biết, chờ lát nữa hỏi ba. Dạ ba nói là phở giò. Phở giò của Vũ Bằng đây à? Ấy đấy, chữ nghĩa mà không rõ ràng thì thật là phiền.

.....Nhân dịp lên kinh đô ánh sáng, tôi được bạn rủ đi ăn phở. Mời ông ăn phở ngon nhất Paris, được sách hướng dẫn du lịch khen đàng hoàng. Cho 2 tô đặc biệt! Không đặc biệt hóa ra thua thiên hạ à? Ông bạn trịnh trọng múc tương tàu, tương ớt ra đĩa. Ủa, sao ông nói là ăn phở? Phở đặc biệt chính hiệu con nai vàng đây. Vừa chín, vừa tái, lại thêm bò viên, cổ hũ, lá sách. Nhiều thứ vui lắm. Ăn phở mà lại vui nữa thì nhất rồi! Giá mà thêm tí bê thui chấm tương gừng nữa thì vui hết xẩy!

.....Đến Mỹ mà không đi thăm khu Tiểu Sài Gòn thì...kể như chưa đến Mỹ. Nghe bên phải bên trái người ta nói như thế. Mới chân ướt chân ráo tới Cali tôi đã vội yêu cầu được tới thăm thủ đô thứ hai của Việt Nam.
Chúng tôi đi chợ, ăn phở. Hên quá, gặp lúc tiệm đang quảng cáo khuyến mại, mua một tặng một. Mua một bát phở người lớn, tặng một bát phở trẻ con. Theo thói quen, tôi bắt đầu bằng thưởng thức miếng thịt chín. Thôi nguy rồi! Không có tăm! Có chớ, để ở quầy trả tiền ngoài kia kìa. Mắc răng kiểu này thì chỉ còn nước ngồi ngắm mấy miếng thịt gân to bằng nửa quân bài tây, chờ mọi người ăn xong. Kỹ thuật thái thịt bây giờ tiến lắm. Đem đông lạnh, thái bằng máy, muốn to mấy cũng được.
Một lần khác, trong một tiệm phở khác, tôi bị bối rối. Tàu bay, tàu thủy, tàu hỏa, hàng không mẫu hạm... Cả một thời quá khứ, chọn gì đây? Bát thường thôi ông ạ. Mấy cái tàu to như...cái chậu, sức tụi mình không kham hết đâu! Việt kiều Cali rất hãnh diện là nơi đây thức ăn vừa rẻ, vừa đầy nồi!




.....Chúng ta có thể nói không ngoa là phở đã sống thăng trầm với người Việt Nam. Nơi thôn ổ hay chốn thị thành, tại quê nhà hay khắp năm châu, lúc khó khăn thiếu thốn cũng như buổi ấm no thanh bình, phở luôn ở bên cạnh mọi người. Xa xưa, phở là phở bò, phở chín. Ngày nay, phở thay da đổi thịt, muôn màu muôn vẻ. Cách nấu, cách ăn thay đổi không ngừng. Đã đến lúc phải phân loại, đặt tên cho bát phở để tránh ngộ nhận.

Đại khái chúng ta có thể phân biệt :


Bát phở bò của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân thì gọi là...phở.
Tàu bay, tàu bò, thịt to bánh nhiều cốt làm vui lòng giới ẩm thực vũ bão thì nên gọi là...phởn.
Ngầu pín, viagra, cổ hũ, lá sách, trứng, giò heo, thịt chó (có người định thử) thì phải gọi là...phịa!
Còn cái thứ chết tiệt của mấy ông sinh viên? Xin tự phê gọi nó là...phản.

Tiếng Việt vốn giàu âm thanh, ngữ nghĩa, còn nhiều chữ khác có thể dùng cho phở được. Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng yêu cầu các nhà văn học định nghĩa rõ ràng các chữ dùng kẻo lại gây ra những bàn cãi dài dòng cho mai sau. Trong quá khứ đã từng có một giáo sư thuyết trình tại hội Việt Mỹ (Sài Gòn) rằng


Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

Chuông chùa Thiên Mụ ngân nga thánh thót, chicken soup của Thọ Xương thì tuyệt, không đâu ngon bằng! Mới đây, trong một cuốn hướng dẫn du lịch Việt Nam rất đẹp, soạn công phu, có chậu hoa màu đỏ được chú là... fleur de théier.


Trà với chè tuy hai mà một,

Trà với trà tuy một mà hai.

Trà (camélia) và trà (théier), đằng nào chả là trà.


Cứ động đến ăn uống là các ông chỉ hay lý sự lôi thôi!



Nguyễn Dư (Lyon, 2-2001)





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013030202.jpg




… (về mục lục) …



~o) :)

HoangVan
03-04-2013, 08:38 PM
Phở có từ bao giờ, ở đâu?
Sưu tầm đời sống (theo champhay.com) (http://www.champhay.com/node/30)




_ Dựa vào tập phả kỳ của dòng họ để lại, nhà văn Siêu Hải - một người "gốc" 14 đời ở Hà Nội - muốn góp tiếng nói trong việc đi tìm nguồn gốc của phở..., một món ăn mà theo ông là thuần túy Việt Nam và mới chỉ xuất hiện ở Hà Nội từ đầu thế kỷ 20.






"Trong những món ăn quân tử vị
Phở là đáng quý nhất trên đời.
Một vài xu nào đắt đỏ mấy mươi
Mà đủ vị ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
Bánh cuốn, thịt bò, nước dùng sao nhánh mỡ
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.
Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm ớt điểm thêm
Khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi..."

(Trích thơ trào phúng của Tú Mỡ trên một số báo Phong Hóa năm 1937)


_ Biến tấu từ món "xáo trâu" thuần Việt

.....Phở, người Pháp gọi là soupe chinoise (cháo Tầu). Có thể từ đó, nhân dân ta ngộ nhận là của Trung Quốc. Sự thật phở là thuần túy Việt Nam và chỉ mới xuất hiện ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Từ lâu dân ta rất ít dùng thịt bò, cho là nóng và gây. Món ăn rẻ tiền, no bụng lúc đói là món thịt trâu xáo hành răm ăn với bún, gọi là xáo trâu, rất phổ biến ở các chợ nông thôn và xóm bình dân...

Người Pháp không ăn thịt trâu, chỉ dùng thịt bò. Từ ngày thực dân Pháp sang ta khai thác thuộc địa đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội bắt đầu có các cửa hiệu bán thịt bò, thường bán không hết, nhất là xương bò. Pháp sang, tàu thủy máy hơi nước chạy trên các dòng sông từ Hà Nội đi Hải Phòng, Nam Định... Bến phà Hà Nội thu hút nhiều công nhân bốc vác đến, kéo theo nhiều hàng quà bánh, món xáo trâu vẫn là phổ biến. Các gánh hàng này thường giống nhau, một bên là chiếc thúng lớn để chiếc nồi đất to đựng canh xáo nóng được ủ kỹ. Chiếc thúng bên kia đựng bún và bát, đũa, mắm, ớt...

Có một bà hàng nào đó, chiều chiều nhẹ gánh về nhà, qua các hiệu thịt bò, thấy còn treo lủng lẳng từng súc thịt và đống xương. Thịt bò ế, tất phải bán rẻ. Bà ta liền nảy ra sáng kiến làm xáo bò thay xáo trâu. Qua ít ngày, người ăn xáo bò với bún không hợp khẩu vị. Vậy phải thay bún bằng thứ gì, cũng bằng bột gạo? Đó là bánh cuốn mỏng, chay rất sẵn ở Hà Nội. Không ngờ xáo bò ăn với bánh cuốn chay thái thay bún lại rất ngon miệng và luôn được cải tiến cách hầm xương, thêm bớt gia vị, khi ăn lại có cả những lát thịt chín phủ lên trên.

Từ ngoài bãi, phở lan vào trong phố, khách ăn quanh một chõng tre hay bàn nhỏ, hoặc mua đem về nhà. Một số người ta, và vài chú Khách quẩy thành gánh hàng rong tới các ngõ, phố. Các gánh phở rong này đều giống nhau, một bên đặt nồi nước dùng, dưới có chỗ đun củi lom dom bảo đảm nước dùng lúc nào cũng nóng để chan vào bánh phở cho mềm sợi hơn. Còn bên kia để bát, đũa, dao, thớt và gia vị, dưới có một ngăn kéo đựng thịt chín.


_ Từ lời rao "Ngầu nhục phấn" mà thành tên

.....Người mình bán hàng thì rao là "xáo bò ơ". Còn mấy chú Khách thì rao "Ngầu nhục phấn a...". Ngầu, tiếng Hán là ngưu, nhục là thịt, phấn là gạo, tức bánh bột gạo. Tiếng Trung Quốc gọi trâu hay bò đều là ngưu, hắc ngưu là trâu, hoàng ngưu là bò. Tiếng rao "xáo bò ơ" nghe cụt lủn. Còn tiếng rao "Ngầu nhục phấn a..." nghe trầm bổng, tha hồ ê a kéo dài, mặt khác do tư tưởng sùng ngoại nên được khách ăn ơi ới gọi đến. Thấy thế, các gánh hàng của người mình cũng phải rao theo họ để tranh khách. Phở ngày càng được ưa chuộng nên số lượng gánh phở rong cũng ngày một nhiều. Lời rao gọn dần, chỉ còn "ngầu phớn ơ...", rồi "phở ơ", cuối cùng thành "phở".


_ Những hàng phở đầu tiên

.....Do là món quà bình dân, nên các cửa hàng bán phở đều xuềnh xoàng, được khách ăn gán cho những cái tên theo đặc điểm của chủ hiệu như: "phở Lùn", "phở Gù", "phở Sứt"... Cũng do tính bình dân của phở nên có một thời phở bị những người giàu tiền lắm bạc ở Hà Nội xem thường. Họ quen đến các hiệu cao lâu Hàng Buồm dùng các món ăn đắt tiền. Phải đến năm 1918 - 1919, phở mới được nhiều giới tìm đến. Cửa hiệu phở đầu tiên của Hà Nội mở ở phố Hàng Quạt (nay là Lương Văn Can) gần rạp tuồng Thông Sáng và tuồng Năm Trăn để đón khách. Một cửa hiệu khác ở phố Hàng Đồng, chủ hiệu đổi mới bằng cách thay các phản gỗ dài trên trải chiếu bằng những bộ bàn ghế. Sau đó có thêm nhiều hàng phở tại các phố Cầu Gỗ, Hàng Giấy... đều không cần biển hiệu. Năm 1937 duy nhất có một hiệu phở của Hoa kiều mở ở phố Mã Vũ (nay là phố Hàng Quạt kéo dài) lấy tên là Nghi Xuân. Các cửa hàng này đua nhau cải tiến chất lượng. Lúc đầu chỉ có phở chín, sau có phở tái. Thêm thịt mỡ gầu, nạm, sách bò nên thành tên tái gầu, tái nạm, tái sách... Sau nữa có hiệu dùng thịt bò nấu sốt vang, thịt áp chảo nên lại thêm tên gọi phở sốt vang, phở áp chảo nước, áp chảo khô, phở xào, v.v...




.....Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh cao của văn hóa ẩm thực Việt Nam,

với nghệ thuật lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia vị: thảo quả, quế chi...
thành món ăn độc đáo: "phở Hà Nội".



Sưu tầm Đời sống (Báo Thể Thao và Văn Hóa)





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013030501.png




… (về mục lục) …



~o) :)

HoangVan
03-12-2013, 08:04 PM
Phở ...
Thạch Lam - Hà Nội băm sáu phố phường (theo vi.wikisource.org) (http://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i_b%C4%83m_s%C3%A1u_ph%E1%BB%91_ ph%C6%B0%E1%BB%9Dng/Qu%C3%A0_H%C3%A0_N%E1%BB%99i)





.....(...)

.....Sao bằng ra đầu phố ăn một bát phở bã của anh hàng phở áo cánh trắng, gilet đen, và tóc rẽ mượt? Nồi nước sôi sùng sục, tỏa mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh phở ngon cả Hà Nội không có đâu làm nhiều, thì nuớc dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt, và hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn thêm bát thứ hai. Và anh hàng phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất định, cũng đủ bán một ngày hai gánh như chơi. Và người hàng phố tìm dấu hiệu để gọi tên anh cho dễ nhớ: anh phở trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ Dạ, anh phở Cao ... và dặn thằng nhỏ chớ mua hàng khác về "ông không ăn mà chết đòn".

Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì ở Hà Nội mới ngon. Đó là quà tất cả suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối.

Phở bán gánh có một vị riêng, không giống như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt tên và tưởng nhớ: phố Ga, phố Hàng Cót, phố Ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc v.v ...

Bây giờ nhiều tài năng trẻ trong nghề phở mới nhóm lên và trái lại, những danh vọng cũ trên kia không chắc còn giữ được "hương vị xứng kỳ danh" nữa. Có người nào thứ chịu khó đi khảo nếm lại một lượt xem sao? Một vòng quanh Hà Nội bằng vị phở, chắc có lắm điều mặn, chát, chua, cay đấy.

Nhưng có một nơi phở rất ngon mà không có ai nghĩ đến và biết đến: ấy là gánh phở trong nhà thương. Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng cây. Cái quyền bán hàng đó là cái quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon lành, giá cả phải chăng. Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ. Mà nhân tâm tùy thích, nhà hàng đã khéo chiều: ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc, có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng.

Cứ mỗi buổi sáng, từ sáu giờ cho đến bảy giờ, chỉ trong quảng ấy thôi, vì ngoài giờ gánh phở hết, chung quanh nồi nuớc phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.

(…)

.....Nói về phở, tôi còn quên không nhắc tới những sự thay đổi mới đây ở cái quà đặc biệt đó. Nghĩ rằng thay đổi là tiến bộ, có người đã bỏ phở cũ làm vị phở gà. Nhưng sự cải cách ấy hình như không được hoan nghênh.

Có người khác rụt rè hơn, chỉ thay đổi một vài thứ gia vi. Người thì thêm vị húng lìu (như gánh phở phố Mới hồi năm 1928), kẻ thì thêm dầu vừng và đậu phụ. Họ mệnh danh cái phở như thế là phở cải lương.

Như cái thứ phở thực cũng như bản tuồng chèo. Để nguyên tuồng chèo cổ thì hay, chứ đã pha cải lương vào thì hỏng bét. Có chăng muốn cải cách thì để nguyên vị, mà cách làm tinh vi hơn lên. Cái nội dung và thể tài vẫn cũ, mà tinh thần thì ngày một sắc sảo thêm vào.


Kẻ viết bài này vẫn trung thành với lối phở cổ điển cũng như ưa nghe tuồng chèo giữ đúng điệu xưa.




Thạch Lam ( Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường ) - 1943





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013031301.jpg




… (về mục lục) …



~o) :)

HoangVan
03-17-2013, 04:41 PM
Phở bò - món quà căn bản
Vũ Bằng - Miếng ngon Hà Nội (theo baomoi.com) (http://www.baomoi.com/Vu-Bang-Pho-bo--mon-qua-can-ban/84/6709308.epi)





Sao lại là quà căn bản?

.....Vâng, chính thế; người ta có thể nói rằng người Việt Nam có thể không ăn bánh bao, bánh bẻ, có thể không ăn mằn thắn hay mì, có thể không ăn xôi lúa, nhưng chắc chắn là ai cũng đã từng ăn phở.

Rẻ lắm. Theo giá trị của đồng bạc bây giờ năm đồng một bát phở, mà ba đồng cũng được một bát phở ngon như thường.
Vì thế, từ cô bán hàng trong một cửa hiệu buôn cho đến một ông công chức, từ một bà mệnh phụ nhà có cửa võng sơn son thiếp vàng, đến một người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai cũng ăn bát phở. Ngon miệng thì ăn hai, riêng tôi thì tôi đã từng thấy có người điểm tâm buổi sáng tới ba bát liền, mỗi bát tám đồng, vị chi hai mươi bốn, hai mươi nhăm đồng bạc.

Thật thế, phở đối với một hạng người, không còn là một món ăn nữa, mà là một thứ nghiện như nghiện thuốc lào, thuốc lá, trà tươi, thuốc phiện.
Ngay từ ở đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên đỉnh núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa ngoài. Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở, thật là cả một bài trí nên thơ. Qua lần cửa kính ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có... Người bán hàng đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh Tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.
Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa rét, có gió bấc thổi hiu hiu, mà thấy người ta ăn phở như thế, thì chính mình đứng ở ngoài cũng thấy ấm áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho được...

Ấy vậy mà người sành ăn phở, người ăn phở kỹ càng không thể dễ tính, nhất tề bước vào một cửa hiệu phở thứ nhất nào để mà ăn liều ăn lĩnh.
Bởi vì những người sành ăn đó, thường không tin gì cho lắm ở những hàng phở mở cửa hàng. Người ta bảo rằng phần nhiều những hàng phở mở hiệu như thế, nước dùng không được ngọt, hoặc có ngọt là cái ngọt của mì chính, chứ không phải là cái ngọt của xương bò, ấy là chưa nói rằng lại còn cửa hiệu phở quá vụng về muốn có nước dùng ngọt lại cho đường vào nữa. Ăn phải một bát phở như thế, không những tiếc tiền, mà lại còn thấy phí phạm cả cái công ăn, đến sinh ra lợm giọng, bực mình là khác.
Vì thế, người ăn phở muốn cho thật đúng cung cách, phải thăm dò, phải điều tra, phải thí nghiệm kỹ càng rồi mới ăn mà một khi đã chịu giọng rồi, ta có thể tin chắc rằng người đó sẽ là một người khách trung thành, cũng như một người đàn ông nghệ sĩ trung thành với hơi hướng của một người yêu, cũng như một người chồng mê vợ vì người vợ đã có tài làm một hai món khéo, ăn vào hợp giọng.


* * *


.....Chính vì lẽ đó, chúng ta đã từng thấy có những người vất vả vì ăn phở. Trước kia, còn thái bình, ta đã từng thấy có buổi sáng, hàng trăm người chen chúc khổ sở vào cái ngõ con bề ngang không quá một thước ở phố Hàng Khay, bên cạnh nhà Bát Si Nha hay xuống tận đằng sau chợ Hôm, trong một cái quán lá tồi tàn để thưởng thức cho kỳ được một hay hai bát phở mới yên tâm.

Thời đó, nổi tiếng có anh phở Sứt sáng lập ra món phở giò (lấy thịt bò quấn lại như cái dăm bông rồi thái mỏng từng khoanh nhỏ điểm vào với thịt). Phở Nhà thương Phủ Doãn ăn được nhưng nước hơi nhạt; phở Đông Mỹ ở phố Mới ăn êm, nhưng tẩy gừng hơi quá tay; phở Cống Vọng, kéo xe, ngon, nhưng nước dùng hơi hôi; phở Mũ Đỏ ở đằng sau miếu chợ Hôm vô thưởng vô phạt, ăn khá, nhưng chưa có gì quyến rũ.
Còn một anh phở nữa là anh phở Tàu Bay lúc đó cũng nổi tiếng lắm; sáng sáng, người ta đứng đầy cả ra ở ngã ba đầu Hàm Long, xế cửa Sở Hưu bổng để mà tranh nhau ăn, như thể lúc mới hồi cư, người ta tranh nhau đứng lĩnh “bông” sữa, bông vải vậy. Thịt mềm, nước cũng đã ngọt, nhưng thật ra thì chưa có thể gọi là trác tuyệt.

Phải đợi đến lúc hồi cư về, ta mới thấy, phong trào phở tiến nhanh và tiến mạnh như thế nào. Họa hoằn về phía chợ Đuổi mới thấy một hai hàng phở xe. Còn thì là phở gánh và phở hiệu.
Một gian nhà đổ căng một cái bạt, bắc vài cái ghế; một cổng đình chắn một tấm phên tre; một cái ngõ, che mấy tấm tôn và kê một hai tấm ghế dài: thế là đã thành ra một cửa hàng rồi, ngồi ăn được, mà rất có thể lại ngon lành là khác.
Bởi vì ta phải biết rằng, người đi ăn phở - nói cho thật đúng nghĩa chữ ăn phở - không kỳ quản lắm đến sự bài trí của chỗ ăn, cũng như người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ là phải nằm hút ở một chỗ sang trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc làm bằng bạc.
Nếu ta đã từng thấy có những người giàu có, nghiện thuốc phiện, chui vào những cầu gác bẩn thỉu, hôi hám để ăn thuốc mới thấy “đã thèm”. Thì ta lại cũng thấy biết bao nhiêu người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn để ăn cho được một hai bát phở.
Đó là do người ăn phở sành, hầu hết, chỉ chủ tâm đến cái điểm chính là phở mà thôi, chứ không quan tâm đến ngoại cảnh làm gì. Điều cần thiết là bánh phải mỏng và dẻo, thịt mềm, và nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt kiểu chân thật, nghĩa là ngọt vì nhiều xương, tẩy vừa vặn không nồng, mà lại tra vừa mắm muối, không mặn quá mà không nhạt quá.
Đạt được mấy điểm đó tức là ăn phở được đấy.

Vào khoảng 1948-1949, phở Phú Xuân ở phố Rixô ăn được; đồng thời có phở Đông Mỹ, phở Tứ. Phở Tứ, phở Tàu Bay (bây giờ đã dọn thành cửa hiệu) và một ít hàng nữa mà ta không kể hết. Nhưng phở nào hình như cũng chỉ có một thời. Vì thế, nhiều hiệu và nhiều gánh phở có tiếng bây giờ nằm ngủ ở trên danh vọng. Người ta nghiệm thấy điều này: phần nhiều hàng phở lúc còn gánh thì ngon, mà dọn thành cửa hàng rồi thì kém.
Có phải đó là vì chểnh mảng trong sự cố gắng, hay là vì thành kiến của người ăn?
Duy ta có thể chắc được điểm này là một hàng phở đương làm ngon mà sút kém đi thì chỉ trong một tuần lễ, nửa tháng, cả Hà Nội đều biết rõ; trái lại, mới có một hàng phở nào làm ăn được thì cũng chỉ dăm bữa, mươi ngày là cả Hà Nội cùng đổ xô ngay đến để mà “nếm thử”, không cần phải quảng cáo lên nhật báo lấy một dòng!
Âu đó cũng là một điểm đặc biệt trong thương trường vậy.
Nhiều người cho rằng sở dĩ thế ấy là vì món phở đứng cao hơn mọi sự lừa bịp của thời này: phở ngon là ngon, chứ không thể lừa dối người ta được.
Mà lừa dối làm sao?
Một người lầm, nhưng không thể một nghìn người lầm được. Người ta ăn phở có phải là tiêu hóa rồi mà thôi đâu? Không.
Cũng như đọc một áng văn hay, gấp sách lại mà còn dư âm phảng phất, còn suy nghĩ, còn trầm mặc, người ta ăn phở xong cũng đắn đo ngẫm nghĩ, rồi có khi đem thảo luận với anh em, nhất là các công chức và các tay thương gia rỗi thì giờ thì lại luận bàn kỹ lắm.
Thì ra phở không những là một món ăn, một sự thích thú cho khứu giác, mà còn là cả một vấn đề; vấn đề ăn phở, vấn đề làm phở.

Muốn thấu triệt hai phương diện của vấn đề, chúng ta cần phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa trường Hàng Than để quan sát một hàng phở nổi danh nhất bấy giờ: phở Tráng - mà có người yêu mến quá mức đã gọi (chẳng biết đùa hay thực?) là “vua phở 1952".
Tráng là tên ông “vua phở” này. Nhưng người ta không gọi anh bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi những hàng phở ngon bằng tên của người bán, mà gọi bằng tên phố người hàng phở đứng bán (như phở Tráng thì gọi là phở Hàng Than, phở Sứt thì gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sướt hiệu (như phở Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe đầu Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân) và có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tàu Bay, Tàu Bò)...
Vậy thì ông vua ấy tên là Tráng, nhưng người ta vẫn gọi là phở Hàng Than.

Hình thù, vóc dáng của anh ta trông thật nản. Người gầy, môi hơi thưỡi, mắt thì lờ đờ như người chết rồi. Bất cứ lúc nào, nhìn thấy anh, ông cũng cảm giác đó là một người vừa mới thăng đồng, đương sống trong một cái thế giới u minh; thêm vào đó, lại bịt ở trên đầu một cái mùi soa trắng, trông mới lại càng... “thiểu số”.
Người đâu mà lại “lỳ xì” đến thế là cùng! Hàng năm bảy chục người, hàng tám chín chục người đứng vòng lấy gánh hàng của anh ta, chật cả một cái hè đường để mua ăn, để “đòi ăn” - phải, họ đòi ăn thật - mà anh ta cứ làm như thể không trông thấy gì, không nghe thấy gì.
Anh ta cứ thản nhiên, thái thịt, dốc nước mắm, rưới nước dùng - ai đợi lâu, mặc; ai phát bẳn lên; mặc; mà ai chửi, anh ta cũng mặc.
Đi ôtô đến ăn cũng thế, mặc áo vải đến ăn cũng thế; các bà các cô đẹp đáo để, đến ăn cũng thế. Anh ta không đặc biệt riêng với ai - kể cũng dân chủ đấy! - nhưng có nhiều bà tức vì anh ta không nịnh đầm.
Ghét quá. Thế thì thuê một cái nhà rộng, mượn thêm người làm có phải lợi không? Hay là điều đình với xưởng củi người ta để cho một gian, bày mấy cái bàn, cái ghế, có người trông nom, tính tiền cẩn thận có phải không mất mát không?
Mặc cho ông cứ nói, anh phở Tráng không trả lời - nhất là không bao giờ cười.
Trông mà lộn ruột, muốn tát cho một cái. Chết một nỗi ghét người thì thế, nhưng đến cái phở của anh ta muốn ghét, không tài nào ghét được.
Có ai chen chúc vất vả, hò hét đứt hơi được một bát phở của anh, mà lại chưa ăn ngay, còn dừng lại một phút để ngắm nghía, phân tách bát phở đó ra thế nào không?

Thật là kỳ lạ! Bánh phở không trắng và dẻo hơn, thịt thì cũng chẳng nhiều, nhưng mà làm sao ngon lạ, ngon lùng đến thế? Chưa ăn đã biết là ngon rồi.
Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú. Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu... ba bốn thứ màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể của một họa sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.
Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái thịt bò từng miếng bày lên.
Đến đây thì Tráng vẫn không nói năng gì, nhưng tỏ ra biết chiều ý khách hàng một cách đáng yêu.
Ông muốn xơi chỗ thịt nào cũng có: vè, sụn nạm, mỡ gầu, mỡ lật, vừa mỡ vừa nạc, vừa nạm vừa sụn, thứ gì anh ta cũng chọn cho kỳ được vừa ý ông - miễn là ông đến xơi phở đừng muộn quá.
Ăn phở chín thì như thế là xong, chỉ còn phải lấy nước dùng và rắc một chút hạt tiêu, hay vắt mấy giọt chanh (nếu không là tí dấm).
Nếu ông lại thích vừa tái vừa chín thì trước khi rưới nước dùng, anh Tráng vốc một ít thịt tái đã thái sẵn để ở trong một cái bát ôtô, bày lên trên cùng rồi mới rưới nước dùng sau.

Thế là “bài thơ phở” viết xong rồi đấy, mời ông cầm đũa. Húp một tí nước thôi, đừng nhiều nhé! Ông đã thấy tỉnh người rồi phải không?
Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm... rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực, thiên nhiên, không có chất gì là hóa học... không, ông phải thú nhận với tôi đi: “Có phải ăn một bát phở như thế thì khoan khoái quá, phải không?”
Quả vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể “lâm li” hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở như thế, thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong vòng tay một người vợ đẹp mà lại đa tình vậy!
Y hẳn cũng có người cảm giác như tôi, cho nên biết bao nhiêu bận đứng chờ làm phở, tôi đã thấy những người đàn bà, đàn ông, người già, trẻ con, bưng lấy bát phở mà đôi mắt sáng ngời lên. Người ta chờ lâu thì bực thật đấy, nhưng cũng vẫn cứ chờ cho được, tuồng như đã đến mà không được ăn thì chính mình lại phải tội với mình, vì đã đánh lừa thần khẩu - hay nói một cách khác, đến đấy mà không cố ăn cho kỳ được thì rồi sẽ hối hận như một người tình đã để lỡ cơ hội chiếm người yêu...

Nhưng mà dù thiết tha đến bực nào, ông cũng rất có thể một hôm nào đó bị ra về mà không được ăn - dù một bát thôi. Ấy là vì chỉ độ chín giờ, chín rưỡi thì thường là phở Hàng Than đã hết.
Cho nên những người thật nghiện phở thường vẫn rủ nhau đi ăn thật sớm. Theo lời họ nói lại, muốn thưởng thức hoàn toàn hương vị phở Hàng Than, cần phải dậy đi ăn từ sáu giờ, vào lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó, trời mờ mờ chưa rõ mặt người, phố xá họa hoằn mới có dăm ba người qua lại. Anh đi ăn sẽ thấy một cái thú khác lạ nữa là ăn ngon trong tịch mịch, ăn ngon trong không khí trong lành.
Khách chưa có ai, anh muốn ăn kiểu gì, muốn xơi chỗ thịt nào, muốn dùng nước thịt bò tươi rưới lên bánh, muốn có mỡ lật, mỡ gầu, muốn nước trong hay béo, tha hồ mà hạch! Anh được như ý và anh sẽ vừa ăn vừa nhìn mấy thanh củi tạ ở trong lò kêu lách tách và bắn ra ngoài trời sắc sữa những hoa lửa vi ti màu đỏ tươi.


* * *


.....Dù sao, ta cũng phải nhận rằng đến vấn đề ăn phở thì người Việt Nam quả là khó tính lạ lùng.
Một người bạn đã từng nếm đủ hương vị của tất cả những hàng phở danh tiếng ở Hà thành khoảng ba mươi năm trở lại đây, một hôm, cho tôi biết rằng: “Đến cái năm 1952 này, phở hình như đã tiến tới chỗ tuyệt đỉnh của nó rồi, cũng như một bản nhạc tuyệt kỹ... không chê vào đâu được, nghĩa là không thể thêm một món gì hay giảm một món gì”.
Theo anh ta thì phở mà cho magi vào thì rất hỏng mà quấy “lạp chiếu chương” vào cũng lại dở vô cùng. Phải là hoàn toàn gia vị Việt Nam mới được: hồ tiêu Bắc, chanh, ớt, hành hoa, rau thơm hay là một tí mùi, thế thôi, ngoại giả cấm hết, không có thì là tục đấy!
Có người kể chuyện rằng trước đây mười lăm, hai mươi năm, đã có một hàng phở ở phố Mới tìm lối cải cách phở, cũng như Năm Châu, Phùng Há dạo nào cải cách cải lương Nam kỳ, tung ra sân khấu những bản “De đơ dà múa”. Họ cho mà dầu và đậu phụ vào phở, nhưng cố nhiên là thất bại.
Sau còn có người làm phở cho cà rốt thái nhỏ, hay làm phở ăn đệm với đu đủ ngâm giấm hoặc là cần Tây, nhưng thảy thảy đều hỏng bét vì cái bản nhạc soạn bừa bãi như thế, nó không... êm giọng chút nào.
Một chú khách ở chợ Hôm, chuyên về lối “phở nhừ”, bánh thì thái to, thịt thì thái con cờ hầm chín, nước cho húng lìu, một dạo cũng đã làm cho người nói tới, song những người sành phở chỉ dùng một vài lần thôi, vì không những đã không có vị phở, thịt ăn lại bã, mà nước thì đục mà ngấy quá.

Một hàng phở ngon là một hàng phở ăn một bát, lại muốn ăn hai và nếu còn sức ăn nữa thì phải ăn ba không thấy chán.
Gặp phải ngày ta se mình, ngửi mùi thịt thấy sợ, hàng phở ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với một bát phở chay, chỉ có bánh và nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế mới là ngon đấy.
Một bát phở vừa tái vừa chín ngon, chưa đủ để định giá trị của hàng phở được; muốn biết chân giá trị của nó, theo lời người biết ăn phở, phải là thứ phở chín không thôi, phở chín mà ngon thì mới thật là ngon đấy.
Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở là cái bánh, nhưng thứ nhứt, như trên kia đã nói, cần phải có nước dùng thật ngọt. Bí quyết là ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều giữ cái bí quyết ấy rất kín đáo, y như người Tàu giữ của, vì thế cho nên trong làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là một vấn đề then chốt để cho người ta tranh luận.
Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng muốn có một nồi nước dùng ngon, cần phải pha mì chính. Nhưng chưa chắc thế đã hoàn toàn là phải.
Thuyết cho đường nhất định là bị loại rồi. Có người cho rằng phải có nhiều đầu cá mực bỏ vào; có người chủ trương cần phải có thứ nước mắm tốt lại có người quả quyết với tôi rằng muốn có nước dùng ngọt, không thể thoát được món cua đồng - cua đồng giã nhỏ ra, lọc lấy nước, cho vào hầm với nhiều xương ống, nhưng phải chú ý tẩy cho thật khéo, mà cũng đừng ninh kỹ quá sợ nồng.
Đến bây giờ, ai đã thật biết cái bí mật ấy chưa? Riêng tôi, tôi cũng đã tìm tòi suy nghĩ rất cẩn thận mỗi khi trịnh trọng nâng một bát phở lên ăn, nhưng thú thực, tôi vẫn chưa biết rằng trong tất cả những “giả thuyết” về “phương pháp làm nước dùng phở” người ta kể ra đó, giả thuyết nào là đúng.



.....Kết cục, tôi đã gạt bỏ tất cả những sự băn khoăn đó sang một bên và không buồn nghĩ nữa, vì tôi thấy rằng ăn một miếng phở, húp một tí nước dùng ngon thỉnh thoảng điểm một lá thơm hăng ngát mà không biết tại sao phở lại ngon như thế


thì có phần hứng thú hơn là mình biết rõ ràng quá cái bí quyết ngon của phở.




Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội) - 1960





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013031801.jpg




… (về mục lục) …



~o) :)

bonita
03-18-2013, 02:49 AM
bo cảm ơn anh Hoàng Vân cho bo đọc một loạt bài về "Phở" ...@};-
cho bo hỏi xí nhen ... trong các bài ni viết "bát phở", bo người nam nên hiểu "bát" là "chén", vậy xưa người bắc ăn phở trong chén ??? :D

cảm ơn anh Hoàng Vân ... @};-

HoangVan
03-18-2013, 04:20 AM
hihi .. :) .. Bo nhìn hình trên, của một gánh phở xưa ở miền Bắc.
Bát phở trong hình miệng to, đáy nhỏ, giửa có eo, còn có tên là bát chiết yêu.

@};-

HoangVan
03-19-2013, 04:58 PM
Phở .. (trích đoạn)
Nguyễn Tuân 1957 (theo baomoi.com (http://www.baomoi.com/Tuy-but-Pho-cua-Nguyen-Tuan/84/6709305.epi))



.....Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạo. Cảnh và người Helsinki, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hòa bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi.

.....(…)

.....Quanh hồ khu Otaniemi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái gì xa xôi lắm. (…) Chúng tôi đã kéo cuộc nhân đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đỡ nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu: "Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát!". Tất cả đều reo lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữa. Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt-nam chân chính.

.....- Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ quặc không. Thịt bò rán, lại phiết mứt công-phi-chưa ngọt sắt lên trên. Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.


... (còn tiếp) ...




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032001.jpg






… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

thuykhanh
03-19-2013, 09:14 PM
Chào anh Hoàng Vân, Bo...

Hawaii cũng có Phở do người Việt nấu, đây là hiệu phở ở đảo Hilo, bà chủ trước kia ở Tân Định.
Như thường lệ, tô phở to quá, tk ăn không hết :)


http://i.imgur.com/jUmvqyV.png

HoangVan
03-19-2013, 09:42 PM
cám ơn chị TK cho xem hình phở Hilo .. @};- (*) :) ..
phở dễ nấu (ngon hay dở là chuyện khác), dễ bán, dễ ăn nên đâu có người VN là nơi ấy có phở .. ;) ..


chị TK vui nhiều với Hawai nhé .. @};- ~o) ..

HoangVan
03-20-2013, 08:37 PM
.....- Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tùy thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

.....- Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khỏe. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

.....- Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác và giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ "xương xẩu" là một tiếng đôi, và chữ xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt-nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu". Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn: "đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta đã Việt-nam hóa chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành một hình dung từ: cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật!

.....- Đố biết thế nào là mũ phở? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích người ăn trong phố. Những anh hàng phở "hùng cứ một phương" này lại còn thuộc cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông binh khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa. Không những thế, cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa. Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn phở xe, phở hình tàu thủy có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng-Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống.


... (còn tiếp) ...




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032101.jpg




… (xem từ đầu) …
… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

HoangVan
03-21-2013, 05:00 PM
.....- Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hay đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên người: Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ vì gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như "ông chủ" hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà-nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong", "Bạch Tuyết", "Nhất chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó.

.....- Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con: nhưng đó lại là chuyện khác.

.....- Lại còn phở ngầu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương.

.....- Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ xẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy bát. Có người đã dắt sẵn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẳn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia.


... (còn tiếp) ...




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032201.png



… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

thuykhanh
03-21-2013, 06:37 PM
Anh Hoàng Vân cho gởi một bài về Phở nhận được qua điện thư, xin cảm ơn anh @};-



Ăn phở ở trường đại học Mỹ



Bước vào Dining Hall (nhà ăn) tại Trường đại học Notre Dame (bang Indiana, Hoa Kỳ), chúng tôi rất bất ngờ khi nhìn thấy chữ “Traditional Vietnamese - Pho Soup” vì các nhà ăn của trường đại học Mỹ thường chỉ có những món ăn nhanh kiểu Mỹ.


http://img833.imageshack.us/img833/1773/77377376.jpg



Món phở Việt Nam tại Trường đại học Notre Dame - Ảnh: Hùng Trương


Sự bất ngờ ấy càng tăng lên khi các bạn sinh viên Âu Mỹ xung quanh tôi rất tự nhiên gắp bánh phở, thịt bò, gà hoặc tôm (tôi cũng không hiểu tại sao tôm lại có thể đi cùng với phở?!), hành tây cho vào chén của mình và đưa cho đầu bếp trực tiếp nấu thành chén phở nóng hổi.

Đứng nhìn các bạn phát âm bập bẹ chữ “phở” thành “po, po” í ới rủ nhau cùng ăn, bỗng nhiên tôi thấy cảm động và tự hào quá chừng, như một phần đất nước mình đang ở rất gần. Hỏi ra mới biết phở là món ăn bắt buộc trong thực đơn ở đây, cứ 12 ngày sẽ có một ngày có món phở.

Không bỏ lỡ cơ hội, tôi lập tức chọn bánh phở, thịt bò và háo hức đưa ngay cho người nấu trong quầy. Vui vẻ tới mức khi bác đưa chén phở cho tôi, tôi hít hà hương vị phở quen thuộc rồi buột miệng nói luôn: “Cảm ơn bác!”. Ngay lập tức, bác cũng tròn mắt, ngạc nhiên không kém, hỏi luôn bằng tiếng Việt: “Con là người Việt Nam à?”.

Thì ra dù sinh viên Việt Nam tại Notre Dame University chỉ đếm trên đầu ngón tay, khu vực bang Indiana cũng rất ít người Việt nhưng nhà ăn này lại có đến trên dưới 30 người Việt Nam đang làm việc. Ngay lập tức, các cô chú lần lượt tới tay bắt mặt mừng với chúng tôi.

Một cô tới cho đôi đũa, chú khác chỉ chỗ lấy nước tương, có cô còn mang cả nước mắm mang theo ăn trưa cho chúng tôi, những thứ thật khó tìm ở một nhà ăn rất Tây tại Mỹ như thế này. Nhận quà của các cô chú mà lòng đứa nào cũng thấy rưng rưng, tự nhiên thấy chén phở Notre Dame sao mà ngon!

Phở ở Notre Dame có thể lai Tây, có thể không đậm đà vì thiếu ngò gai, húng quế như ở nhà nhưng nhờ phở mà chúng tôi đã gặp lại cả quê hương, gặp lại tiếng Việt thân thương, hỏi làm sao mà không quý, không yêu, nhất là trong những ngày năm cũ vừa qua, "tết mình" vừa chạm ngõ như thế này…



__._,_.___

HoangVan
03-21-2013, 07:03 PM
nhìn cái khay thức ăn .. quá dễ thương .. :) ..
cám ơn chị TK mang Phở Notre Dame vào .. @};- (*) :x



~o)

005
03-22-2013, 06:18 AM
bo cảm ơn anh Hoàng Vân cho bo đọc một loạt bài về "Phở" ...@};-
cho bo hỏi xí nhen ... trong các bài ni viết "bát phở", bo người nam nên hiểu "bát" là "chén", vậy xưa người bắc ăn phở trong chén ??? :D

cảm ơn anh Hoàng Vân ... @};-


Đây, bát phở ....... ! ;)



http://i50.tinypic.com/2w68oe9.png

bonita
03-22-2013, 03:06 PM
bát phở trong hình ... cả nhà bo ăn mới hết ... hihihi ...

@};-

HoangVan
03-22-2013, 04:39 PM
hình như Phở Garden có thách thức: Ai ăn hết "bát" phở khủng long sẽ được tặng "bát" phở voi .. http://www.gifmix.net/3d-smileys/naughty-3d-smilies/0029.gif :encouragement: ..

HoangVan
03-22-2013, 09:15 PM
(…)

.....- Hình như Thạch Lam trước đây cũng có bàn về phở, nhưng còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà Nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng lìu, cả dầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đọa như người chế tạo. Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy. Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pantocrin Liên xô hoặc làm tễ thuốc Bắc, còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái "gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt nhận thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tỉnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất họa thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".

.....- Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người đã đập ngay lại: "Thôi đốt ông đi. Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt-nam còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà nội này xin trả lời ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy".



... (còn tiếp) ...




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032302.png




… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
03-23-2013, 04:48 PM
.....- Cái thế giới phở Hà nội trước đây hình như cũng có những thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông phán sở tòa, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy... Có những tay giàu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân. Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những kẻ sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả, "việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân... ".

.....Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thứ quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta.

Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.


(…)....................


Phở
Nguyễn Tuân 1957




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032401.jpg




… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
03-25-2013, 04:01 AM
Phạm Duy Nhượng
Nguyễn Đình Toàn (trích Bông Hồng Tạ Ơn – Tập 1)



.....Ông là bào đệ của Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm và bào huynh của nhạc sĩ Phạm Duy.

.....Tuy sáng tác không nhiều, nhưng ông vẫn được coi là một trong những tác giả quan trọng của nền tân nhạc Việt Nam. Ông cũng là người chuyển một số các ca từ của Phạm Duy sang tiếng Pháp để những người ngoại quốc quan tâm tới âm nhạc Việt Nam hiểu rõ Phạm Duy hơn, đồng thời biết thêm về nhạc Việt Nam.

.....Gia đình, bằng hữu của Phạm Duy Nhượng cho biết, ông có một đời sống nghiêm túc, kín đáo. Ông dạy học và có thời gian làm việc cho các hãng thông tấn. Dù công việc của ông liên quan tới các cơ quan thông tin, báo chí, và nhạc của ông được hầu hết các ca sĩ danh tiếng trình bày trên các đài phát thanh, truyền hình, sân khấu, nhưng ít người biết mặt ông.

.....Căn cứ vào những gì được nghe, người ta cho rằng, sáng tác đầu tay của Phạm Duy Nhượng là bài Say Thuốc Lào. Đây là một ca khúc vui và được lưu truyền vào những ngày đầu “kháng chiến”, tựa một nụ cười cho những người “từ phố phường rời ra thôn quê” [Phạm Duy] làm quen với những gian lao, vất vả:




Người đẹp tôi yêu
Có đôi bàn tay diễm kiều
Và một làn môi tươi thắm
Người đẹp tôi yêu
Lấy chồng để phụ tình tôi
Đời tôi tan nát rồi
Xóm làng biết không
Vì đâu nên nông nỗi ấy
Chỉ vì đêm nao
Đôi ta kề má bên song
Em tôi mới hỏi rằng:
“Anh có yêu em không?”
Cô em sao mà thơ ngây
Còn ngờ chi mối tình say
Nói sao cho cô em hay
Rằng anh yêu em nhất đời
Yêu em như một chiếc ngai vàng
Yêu em như ngàn tiếng tơ đàn
Yêu em như một bài thơ duyên
Yêu em như một viên thuốc lào
Người đẹp tôi yêu
Có đôi bàn tay diễm kiều
Và một làn môi tươi thắm
Người đẹp tôi yêu
Lấy chồng để phụ tình tôi
Vì tôi say thuốc lào


... (còn tiếp) ...



http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032501_phamduynhuong.jpg




… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

HoangVan
03-26-2013, 03:30 AM
.....Hình như bài Say Thuốc lào chưa bao giờ được in ra. Người ta chỉ thuộc bằng cách nghe hát truyền khẩu. Có một ca khúc rất hay khác, đã được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành khoảng đầu thập niên 50 là bài Nhạc Đường Xa. Theo ấn bản tác giả là Phạm Duy Nghĩa. Nhưng theo ca sĩ Mai Hương tác giả chính là Phạm Duy Nhượng. Không biết sự thực thế nào. Chắc nhạc sĩ Phạm Duy có thể làm rõ việc này. Chỉ bằng vào giai điệu, ca từ, tài hoa, tinh tế, thì có nhiều phần đây là một sản phẩm của Phạm Duy Nhượng.


Kìa lóc cóc vó ngựa rung rinh
Bên nhịp cầu cong bên suối
Hòa với tiếng gió nhịp xe xa đưa
Ta cười đón gió phiêu lưu
.....Dù tác giả là ai Nhạc Đường Xa vẫn là một trong những ca khúc hay nhất của nhạc Việt Nam.



.....Cũng là tình ca nhưng Tà Áo Văn Quân có một vẻ gì đó, đôi khi nghe như tiếng xé lụa, thích hợp với cái không khí nửa thần tiên nửa trần tục trong các truyện tình [sử] Trung Hoa. Trong nhạc Việt, có hai người dùng điển cố trong tiểu thuyết Trung Quốc để viết nhạc mà vẫn nghe ra nhạc Việt Nam là Văn Cao với Tiếng Địch Sông Ô và Phạm Duy Nhượng với Tà Áo Văn Quân.


Về đi thôi
Hán quân kia rồi
Ngu Cơ! Ngu Cơ! Hiền thê ơi!
Bỡi vì đâu Quân Vương chàng ơi
Chàng cho thiếp đi theo cùng
Dù có chết ngay chốn sa trường
Thiếp cũng cam lòng


[Tiếng Địch Sông Ô]




Tư Mã người ơi dừng đàn bên Văn Quân
Nâng phím hào hoa kề làn môi giai nhân
Về nhà bên suối cung đàn ấp má đào
Mộng chưa tàn khúc
Phượng Cầu lưu luyến nhau
Phượng ơi đàn vắng
Tìm chim Hoàng nơi nào


[Tà Áo Văn Quân]

... (còn tiếp) ...





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032601.jpg


http://k007.kiwi6.com/hotlink/u6j0xuk1tq/taaovanquan_lethu.mp3
tà áo văn quân
Phạm duy Nhượng / Lệ Thu




… (xem từ đầu) …
… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

HoangVan
03-26-2013, 07:00 PM
.....Chiều Đô Thị của Phạm Duy Nhượng vừa là một bức tranh vừa là một hoạt cảnh về thành phố. Hà Nội chăng? Sài Gòn chăng?

.....Chúng ta có nhiều nhạc sĩ nói về các thành phố, nói về vẻ đẹp, nét buồn của các thành phố, nhưng Chiều Đô Thị cho người thấy cả cái tương phản của cuộc sống ở các đô thị, vẻ quyến rũ và cả chất độc ngấm trong đó, người ta vừa bị nó hắt hủi, vừa bị nó mê hoặc, cuốn theo.
.....Chiều Đô Thị còn có một cái tên khác là Cười Đổ Kinh Thành. Trong nhạc Phạm Duy Nhượng luôn có một nụ cười ẩn giấu đâu đó. Chỉ những người nhìn thấu suốt cuộc đời mới giữ được nụ cười như thế trên môi. Cái cười của Phạm Duy Nhượng, trong loạt bài ông viết cho ban AVT trình diễn sau này, hơi “nặng” hơn. Có người cho rằng, hình như ông muốn “văng tục” vào cuộc đời trước khi ra khỏi. Cũng có thể nó chỉ nhắm một mục đích duy nhất: cười cho đỡ buồn.


Hình như các trí thức Việt Nam ai cũng có một chút máu tiếu lâm trong người.


Chiều Đô Thị

Chiều lắng hồn kinh kỳ
Cây dài trong bơ vơ
Nghe mái buồn thương mưa
Nghe bụi trút hương xưa
Nghe lá tàn duyên mơ
Nghe dư âm ngày qua
Ôi thành phố thân yêu
Bao mái nhà chìm trong sương chiều
Ôi lửa ấm cơ ngơi
Sau bức mành là cuộc đời vui
Ôi đường xá đêm khuya
Đôi mái đầu dìu nhau trên hè
Ôi trẻ khó lê la
Trong khói mờ gầm cầu trời mưa
Một hồi còi xa xé trời nôn nao
Một đoàn tàu đi biết về phương đâu
Tiếng giày lê vang góc hè đông
Hàng quà rao inh qua khuê phòng
Tiếng ngựa xe quanh miếng vườn hoa
Người về mau chân nơi nhà lá
A ha! Kinh thành bừng sáng
A ha! Kinh thành ầm vang
A ha! Kinh thành người đen lầu vàng
A ha! Kinh thành mạch máu
A ha! Kinh thành cần lao
A ha! Kinh thành mộng bền đêm sao
Dòng đời cuôn cuốn trôi mau
Người lặng nghe tiếng xôn xao
Đêm xuống trút gió bến tàu
Chiếc lá rơi chảy về đâu?



Phạm Duy Nhượng
(trích Bông Hồng Tạ Ơn - Tập 1)
Nguyễn đình Toàn 2000-2006





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013032701.jpg
........Phạm duy Nhượng

http://k007.kiwi6.com/hotlink/345vgje4ne/chieudothi_thaithanh.mp3
chiều đô thị
Phạm duy Nhượng / Thái Thanh




… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
04-26-2013, 06:21 AM
Lẽ Ra... Mùa Mận
Nguyên Nhi (theo dutule.com) (http://www.dutule.com/D_1-2_2-44_4-3044_5-50_6-1_17-21_14-2_15-2_10-47_12-1/le-ra-mua-man.html)





Một

..... Dù nghịch với cô, má tôi vẫn gởi tôi qua nhà cô những ngày lễ hoặc cuối tuần. Miết sau này, khi đã trưởng thành, tôi mới biết đó là những ngày nhà tôi thiếu gạo.

Cô tôi thấp choắt, lanh lợi, có thể vừa nhai trầu bõm bẽm vừa chửi bới tru tréo. Cô làm lụng quần quật như trâu để cho vay lấy lời cắt cổ. Cô chắt mót từng đồng cắc, thuộc loại người mà má tôi châm chọc là vắt chày ra nước. Làm mọi cho cô để đổi cơm, ăn ngủ tại chỗ, lớn lên chút nữa thì có vợ có chồng rồi đẻ đái luôn ở nhà cô, là mấy đứa cháu kêu cô bằng cô bằng dì. Họ từ ruộng hạn đồng khô ra tỉnh.

Tôi thuộc một dạng khác. Tôi thường theo anh Chắt lủi sâu vào những đám lá tối trời, những nghĩa trang hoang quạnh lau sậy um tùm, lùng hái rau mơ về pha màu bánh lá. Bánh lá làm từ bột pha nước cốt rau mơ có màu lam buồn. Tôi biết xắt chuối cây trộn cám cho heo. Riêng chuyện xay bột tôi không thể dù có cố gắng ít nhiều: đầu tôi chỉ cao vừa ngang mặt cối đá. Còn việc này, bây giờ nhắc lại tôi vẫn còn ghê ghê: gãi gầu và nhổ tóc ngứa cho cô.

Cô có một số con nợ trong cư xá. Dượng làm chức quản cơ, lại có quyền giám sát Cư-Xá-Gia-đình-Cảnh-sát-Hương-thôn này. Tuy gọi là hương thôn nhưng nó lại nằm ngay trong phố, sát trường trung học nữ Mỹ Tho, gần sân vận động tỉnh. Cô dượng không có con chung. Tôi nghe nói mù mờ là mỗi người đều có con riêng ở xa. Tôi nghĩ dượng biết đọc, dù rằng tôi vẫn phải đọc tờ Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia cho ông nghe trong khi ông lơ mơ ngủ trưa. Năm đó tôi mới thi đậu lên trung học. Trong họ hàng nhà tôi, học tới đó được coi là có chữ có nghĩa dữ dằn rồi. Thuộc bản cửu chương đã là thông thái, biết thêm chuyện thành tây có cảnh Bích Câu như tôi thì muôn phần quảng bác. Dượng khen chữ tôi đẹp. Có lần ông đọc để tôi viết thư lên ai đó kêu oan việc ông bị thả thư rơi tố cáo ăn hối lộ. Tôi nhớ ông dặn đi dặn lại mấy lần, không được quên câu “Xin quan lớn mở lượng hải hà, đèn trời soi xét, con xin hậu tạ.”

Buổi tối, tinh anh phát tiết sớm của tôi được khai thác một cách nhẹ nhàng, lãng mạn hơn: tôi thường đọc thư tình cho chị Tầm dưới chái bếp, chỗ chị ngủ, sát vách chuồng heo. Chị người ngoài họ, ở đợ trừ nợ cho má. Người yêu chị năm đó làm binh nhất gác cổng căn cứ không quân Biên Hoà. Thư anh viết về cho chị lần nào cũng kết thúc bằng câu “Hun em một ngàn cái”. Lần nào tôi cũng mắc cỡ mà cố tình bỏ qua câu này. Nhưng mấy người trai gái yêu nhau hình như có thần giao cách cảm hay sao đó! Chị cứ nhéo đùi non tôi, kỳ kèo: “Đó, chưa hết đâu, sao em đọc nhảy vậy! Chưa, chị biết em đọc còn thiếu mà! Thôi, ráng đọc cho đủ đi cưng, chị cho trái chuối cô Tư mới dú. Chỉ có mình chị biết chỗ dấu.” Nằm chung giường với chị, nghe ké cải lương từ chiếc radio Phillips sáu đèn trong phòng ngủ cô dượng là đã khoái, gặm thêm chuối muồi thì còn gì thích hơn! Tôi gồng mình, mím môi đọc câu đó cho chị. Lớn lên, dù có nhiều lần dại dột viết thư tình, tôi tự hào chưa bao giờ điên tới độ viết một câu u ám như vậy.



Hai

..... Tới khi cô mua được mấy mẫu đất ở Trung Lương thì mọi chuyện có phần hơi khác. Đất mới, trồng mận, ao đìa nhiều hơn liếp. Ngò tây mọc chen cỏ vòi voi và rau muống bò ngợp ao đìa. Buổi sáng dượng chở cô trên chiếc Vespa từ Mỹ Tho ra Trung Lương chăm vườn. Thời đó có được chiếc Vespa là hách xì xằng lắm. Tôi, ngày nghỉ học, sáng đi chiều về bằng xe lam. Tôi biết thêm tát mương bắt cá, nuôi cá tra bằng cám trộn mận rụng, làm cỏ vườn và đọc tạp chí Hương Quê học cách chiết cây, tháp cành.

Mận Trung Lương nức tiếng hồng đào, đi khắp Sài Gòn và lục tỉnh. Tôi mê mùa mận chín. Dưới những tán mận trĩu trái, lũ ve ran tiếng ca hè. Mận có nhiều loại nhưng người Trung Lương chuyên trồng mận hồng đào và mận da người. Mận hồng đào trái tròn, đỏ rưng rưng. Mận da người thon thả, chín ưng ửng màu da con gái. Hồng đào ngọt lịm, da người ngọt thanh. Tôi cùng dượng và những người hái mận dần công lúi húi dưới những tán cây rậm lá. Thỉnh thoảng, từ cuối vườn, gió đưa tiếng cô đốc thúc, chửi bới, đay nghiến lũ cháu và giọng lầm rầm trả treo của đám lái buôn trái cây.

Căn nhà vườn của cô tôi lần lần thành hình. Đó có thể nói là một trong những ngôi nhà bề thế nhất vùng: mái ngói, nền cao tới ngực, lót gạch bông, vách bổ kho. Khu vực thờ ông bà nội tôi chiếm vị trí then chốt trong căn nhà mênh mông. Tất cả mọc lên từ những trái mận hồng đào. Dựa vào cái cơ ngơi phòng kho bề bộn giữa vườn mận sum suê này, cô tôi củng cố thêm uy thế của mình trong họ tộc. Người bên nội tôi tấp nập về đây những ngày lễ giỗ. Riêng má tôi, chưa bao giờ tôi thấy bà lui tới Trung Lương. Nhịp cầu liên hệ dành cho tôi, vị sứ giả của hoà bình và hữu nghị.

Nếu người vắt kiệt tài năng văn học của tôi là chị Tầm qua những lần viết thư tình dùm chị thì người khai mở lãnh vực hội họa cho tôi lại chính là cô tôi. Cô là người rộng rãi bỏ tiền ra mua cọ sơn để tôi thực hiện tác phẩm hội họa trên tôn đầu tiên của mình: chân dung con Nô. Dường như tự bức chân dung con Nô với cái lưỡi đỏ chét lè dài lê thê, hai hàm răng trắng hếu chơm chởm chưa nói lên đủ điều cần nói, cô biểu tôi đề thêm vào đó cái tựa Coi Chừng Chó Dữ. Mặt con Nô sau vài hôm nắng gió thành bạc phếch, nứt nẻ, chảy dài giống mặt ngựa. Cũng không sao, đó cũng là một lời cảnh cáo tốt cho người ngoài: bên trong hàng rào, người giống cái, trừ cô ra, đều là "ngựa"! Cô kêu vậy! Nhân lúc bị cô mắng, dượng rỉ vào tai tôi: "Mày chỉ cần vẽ bả rồi treo ngoài rào là trộm đạo chạy tét" Dĩ nhiên là tôi không méc lại cô. Tội nghiệp, sự quật khởi của người đàn ông trong dượng chỉ có vậy!

Những lúc rảnh tay, tôi và dượng lén chơi cờ tướng. Ông chơi cờ dở, lại hay hồi nước. Tôi thì hiếu thắng, thường nện ông thẳng tay. Ông cay cú, hay đòi chơi thêm để gỡ gạc, nhưng khi cô tôi đằng hắng từ xa thì ông biết thân, tiu nghỉu hẹn hôm khác. Có bữa ông dắt tôi vào buồng kín, nơi ông dấu bình rượu thuốc. Dượng cháu mỗi người hai ly trước khi ăn cơm. Tôi biết uống rượu từ đó.

Tánh cô nghiệt ngã nên chị Bo phục dịch cô nấu ăn khá. Chị là chị họ tôi, con cô Sáu. Thì cứ cho là ngon, đối với một đứa nhỏ thiếu ăn như tôi! Nhưng một hôm phát giác hai bàn tay, và cả hai cánh tay của chị Bo nữa, đầy ghẻ ngứa, tôi đâm kén ăn. Nhìn chị ngồi tênh hênh gọt khoai mỡ rồi đập nhừ, lâu lâu ngưng dao, hít hà, gãi gãi tới tưa máu mấy mụn sần trên mu bàn tay, tôi thề suốt đời sẽ không ăn canh khoai mỡ.

Những người nuôi ong thường hay đem đồ lề tới vào đầu năm, khi vườn mận mới bắt đầu mùa hoa. Cô tôi có phần dễ dãi với thợ nuôi ong: ong giúp cho mận đậu thêm trái. Khi bầy ong tất tả đi đi về về đánh mật hoa, những người nuôi ong nấu nướng, ngồi uống trà khan dưới bóng râm. Họ ở lại năm ba ngày trong những lều vải. Cô tôi thường than vãn: “Mấy ông nuôi ong còn có mật, tui ngu mới làm chuyện nuôi ong tay áo. Nuôi một lũ cháu chẳng nhờ được đứa nào.”



Ba

..... Tôi ít gặp ba tôi, người em út của cô. Có thời ổng đi lính com măng đô, bị thương ở đèo An Khê. “May quá, nhờ vậy mà tao không bị trấn ra Điện Biên Phủ”, sau này ông hào hứng kể. Thời Ngô chí sĩ chấp chánh, ông làm hương quản gì đó, đâu ở miệt Vĩnh Kim, sau lại từ giã chính trường, chuyển sang quân đội, phục vụ trong Bảo An Đoàn. Coi lại những tấm hình ông thời trai trẻ, khó nói là ông được trai. Nhưng ông lại có thói trăng hoa và được số đào hoa. Do vậy mà tôi có tới gần hai mươi anh em không rõ mày mặt. Ông cứ lãng bạt kỳ hồ, khi đi khi về. Sau mỗi bận ông về ít lâu, tôi lại có thêm một đứa em ruột. Và lại nghe phong phanh một dì hai nào đó, ở đâu đó, đang ở đẻ.

Tôi thích sống xa ông vì ông cấm tiệt anh em tôi không được đọc tiểu thuyết. Đối với ông thì cứ hễ sách là tiểu thuyết, chẳng được cái tích sự gì. Vậy mà có một hôm tôi bắt quả tang trong xắc ma ranh của ông quyển Hồn Bướm Mơ Tiên với lời tặng ở trang đầu: Gởi anh Út- Thương nhau mới tặng sách này- Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau- Dù cho sách có nát nhàu- Cũng đừng thay dạ đổi lòng mới hay!!! Tôi thắp đèn dầu đọc đi đọc lại quyển sách trong tiếng ngoét ngoác à uôm của ếch nhái ểnh ương. Hồi đó thành phố còn hoang quẽ, hẻm sau xóm tôi còn con kinh đục ngàu hai bờ lúc nhúc nhà sàn, trại mộc, trại hòm. Chỉ cần một trận mưa đêm, nước rác ngập lềnh con lộ đá. Tôi lén lút đọc sách là bởi ba tôi nghiêm cấm: thường thì tôi khoái làm trái lời ông! Vậy nếu dạo ấy ông khuyên tôi đọc sách thì sau này ít ra tôi cũng là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Tỉnh. Dĩ nhiên ông liệt vào ngoại lệ những quyển sách giáo khoa mà má tôi đã tảo tần hết sức để mua cho chúng tôi.

Nếu có người nào trong anh em mà cô tôi có tỏ ra để tâm chăm sóc một chút, thì đó là ba tôi. Cũng dễ hiểu: tôi chưa hề thấy cô bước ra khỏi lãnh địa nhỏ bé của mình. Một tuần cô chỉ ra chợ vài bận, hỏi đon hỏi ren giá cả để coi chị Bo có gian lận tiền mua thức ăn mỗi ngày không. Đối với cô, ba tôi là người lịch duyệt sông hồ.

Lâu lâu tôi gặp người bác thứ năm từ khu kháng chiến nào đó dưới Cai Lậy lên thăm cô. Ông nhậu dữ! Bên họ nội tôi ai thịnh đạt đường phụ nữ thì thường suy kém mặt nhậu nhè. Và ngược lại. Bác Bảy tôi chết trẻ vì uống nhiều rượu. Một sớm người hàng xóm phát giác xác ông nằm duới mương, mùi xác mùi sình không át được mùi rưọu đế. Bác Chín tôi chết chưa kịp già vì có nhiều vợ. Ông gây gổ sao đó với một trong mấy đứa con trai, con riêng của một trong những bà vợ nhỏ, bị nó đập một cuốc lên đầu chết tốt. Riêng Bác Năm tôi sung cả đôi đường. Người vợ lớn của ông tuy quê mùa nhưng rất rành nghề cờ bạc. Một hôm phát hiện ra chỉnh vàng ông chôn bị đào lên, mấy lượng vàng y biến mất, ông chém bà một rựa chết tươi. Vừa được chôn cất xong, mấy người đàn bà đi chợ sớm hớt ha hớt hãi báo rằng bà hay hiện về trên đầu ngọn tre, đưa võng kẽo kẹt, ru con ầu ơ. Tin là bà chết trúng giờ linh, người làng Long Khánh lập miếu thờ. Phần Bác Năm tôi, mãn tù mười năm ra, cáp liền một bà nhỏ hơn ông tới hai mươi tuổi.Coi ra ông cũng là người có học: biết hò huê tình và biết hát Vân Tiên. Cô hỏi: “Mày cũng có ít vốn rồi, sao không bán ruộng ra thành tránh bom đạn, lại có dịp làm ăn lớn?” Ông tu cạn một ly xây chừng rượu đế, nuốt ực rồi trợn mắt: “Thôi đi chị ơi, gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới thấp mà chồm lên cao!” Chắc ông nói mỉa! Tôi chưa thấy ai, ngoài ông, dám trợn mắt với cô tôi. Tôi không để ý chuyện ông theo Việt Cộng, vài bữa đi bứng đồn nhổ bót một đêm, như lời ông kể. Tôi khoái ông vì tính tình ruột để ngoài da, nhưng cũng bực ông bởi mỗi khi hỏi ông chuyện thời sự nhân tình, ông chỉ khoác tay: “Lo chi chuyện đó mà lo- Kiến trên miệng chậu có bò đi đâu…”



Bốn

..... Tôi lớn mau rồi xa gia đình sớm. Những ngày phép lính, về Mỹ tho, tôi không hề ghé thăm cô. Một lần, má tôi nói cô nhắn gấp.Nghe đồn hồi này tụi du kích về Trung Lương lai rai nên tôi phải cẩn thận thay bộ quần áo trận, đi xe lam vô gặp cô. Thì ra cô định tính chuyện tôi với con nhỏ nào đó bên kia rạch Đạo Thạnh. Cô nói có bàn chuyện đó với ba má nó rồi. Nói thiệt, lần đó, tò mò, tôi có kêu đò qua con rạch lúc nhúc bông lục bình để tự mình coi mắt con nhỏ. Dĩ nhiên nó không biết và không thèm để ý đến thằng con trai là tôi đang đi đi lại lại lớ xớ trên bờ đò. Con nhỏ đứng dưới gốc mận hồng đào. Nhụy hoa mận trắng li ti cứ theo gió bay, vướng đầy tóc nó. Tôi nhớ Thôi Hộ xưa có một người thơ bên những áng hoa đào. Nhưng tôi không hứa hẹn gì với cô tôi hết: tôi cứ nhìn gương ba tôi mà phát lạnh! Tôi không muốn làm ai phải khổ. Nhiều lần, trong đời, tự thâm tâm, tôi rất kiêu hãnh về cá tính mình.



Năm

..... Mà thiệt, kiến trên miệng chậu có bò đi đâu… Không biết đối với những người khác thì biến cố đó có ý nghĩa gì chứ riêng với tôi, và những nhân vật tôi nhắc đến ở trên, thì cuộc đổi đời đó thật là dễ sợ. Ba cha con, là ba tôi- anh tôi và tôi, người ngồi tù trên Bảy Núi, kẻ bị giam miền cao nguyên, đứa đi cải tạo miệt Đồng Tháp. Nói nào ngay, năm đó ba tôi đã giải ngũ sớm. Nhưng ông có chịu ngồi yên đâu! Ông thống lĩnh một đội banh nữ ở một huyện biên giới, Châu Phú hay Tri Tôn gì đó, nghe nói thuờng xuyên đi đấu giao hữu khắp miền. Không biết đội banh nữ của ông có đạt được thành tích nào đáng kể không chứ với cương vị huấn luyện viên, ông đạt được một thành tích lớn: đá tung lươí một nữ cầu thủ trong đội, người mà sau này tôi có vài dịp gọi bằng dì hai. Dì nào đối với tôi cũng là dì hai hết! Bởi đội banh đó mà khi Việt Cộng thắng trận ông bị ghép vào thành phần… Thiên Nga! Không kỳ cục chút nào hết! Ông không táng mạng là phước bảy đời!

Ra tù, ba tôi lững thững vác bao bị trở về Trung Lương, chia lại một nền nhà từ ngôi vườn cô tôi. Ông không có gì thay đổi, vẫn thỉnh thoảng nhắc tôi đừng đọc sách báo. “Tụi mày là con mà chẳng bao giờ giống tao. Suốt đời tao có đọc sách báo gì đâu mà sao vẫn sống thọ?” Năm đó ông chưa tới sáu mươi, ý chừng cho rằng trong chiến tranh mà sống sót tới tuổi đó là đã đủ mãn nguyện rồi. Tôi năm đó vừa ba mươi, muốn trả lời ông rằng tôi được tuổi này cũng là quá thọ. Lại e là hỗn, nên thôi!

Căn nhà cô tôi ngày một hoang tàn. Nghe đâu dượng đau bệnh sao đó, bất trị. Một sớm cô phát giác dượng treo cổ lên xà nhà. Có tiếng đồn xa, xì xầm rằng cách đối xử của cô làm dượng uất. Đó là lúc tôi đang nằm trong trại cải tạo. Con cháu cũng tản xa, chỉ còn chị Bo. Chị có chồng, xẻ thêm một miếng đất của cô, dựng nhà sát bên. Phần vườn còn lại cô bán lần, ba tôi nhờ dành dụm mua được một ít, còn thì vô tay người lạ. Căn nhà thì sống ngắc ngoải. Và do đó chết uất nghẹn hơn. Trước hết cô bán gạch nền, sau đó phần vách ván, cuối cùng là ngói. Thoạt tiên là ngăn nhà thờ ông tôi bốc hơi. Rồi đến ngăn nhà khách… để cuối cùng thì cô còn lại cái chái bếp không rộng hơn cái chuồng heo, vách lá, mái che tôn vụn. Ngôi nhà bị lóc dần da, thịt, rồi xương. Như con trâu già bị thịt.

Dậu đổ bìm leo, cô ăn ngủ không yên, lại thường đau bụng. Sau khi mổ hai lỗ thăm dò mà không kiếm được nguyên nhân, người ta để mặc cô rềân rĩ suốt ngày. Tưởng thế nào cô cũng tiêu đời, anh Bo xích lô, chồng chị Bo ghẻ ngứa, đem xe vô nhà thương lén chở cô về chờ mai táng. Vậy mà cô có chịu chết đâu! Cô lành vết mổ, nhì nhằng chì chiết, nguýt hái xỏ xiên má tôi một thời gian nữa rồi mới chịu từ giã cõi đời. Tôi nhớ đó là một buổi sáng vườn nhà rụng đầy hoa mận trắng.

Người em cô, ông bác Năm hay ngâm Lục Vân Tiên của tôi, đã chết mấy tháng trước. Con ông, anh Chắt, người tôi đã kể hay chở tôi đi hái rau mơ hồi nào, suốt ngày nhậu nhè, chửi đổng và nói chuyện đóng tàu vượt biên. Chắc là tàu giấy! Có bao giờ anh có được một khoanh vàng lận lưng?

Chị Tầm thì cuộc đời coi vậy mà cũng không được bằng phẳng. Trong chiến tranh thì chị với anh binh nhất không quân đi đi lại lại, tới ngày hoà bình anh về thì chị đã gởi ngoại hai cháu. Phiền là sao lúc người ta thụt thò lén lút với nhau thì yên vui là vậy mà khi vai kề má dựa dài dài thì nảy sinh biến cố. Không biết vì lý do nào đó, anh bỏ một ngàn cái hun chạy lấy người. Hồi ở trại mới về, tôi có qua Giồng Trôm Bến Tre quê chị để thăm. Lúc đó chị lại có chồng, nguyên trước kia là du kích xã, mới vừa bị điều động sang Kampuchia. Chị khóc rấm rức, “Ước gì còn như những ngày xưa, chị em mình nằm nói chuyện tào lao, dù cho ở góc chuồng heo nhà cô Tư cũng được.” Tôi cũng nghe nghèn nghẹn, không hiểu tại sao. Qua những năm lính năm tù, tôi tưởng mình đã trở thành thằng con trai chai đá lắm!



Sáu

..... Mùa hè xưa, trong ngọn gió hâm hấp nóng, vườn mận bắt đầu ửng chín. Sau mỗi trận mưa đêm, sáng ra, dưới ánh nắng rưng rưng, vuờn mận như đổi thịt thay da thấy rõ. Những chùm mận tháng tư chín đỏ mọng nước. Một mùi thơm thoang thoảng đâu đây. Bầy chim trao trảo kéo về nhảy nhót, kêu lảnh lót khắp vườn. Chúng đến để chia mận ngọt đầu mùa. Hết kỳ bãi trường, mùa mận lại qua đi, vườn mận thêm những cây già cỗi, không còn cho trái sai như mùa trước. Gần bên gốc những cây mận lão người ta đặt sẵn cây con. Ngày nào đó, khi gốc già bị loại bỏ, cây mận con sẽõ bắt đầu cho trái chiến. Tôi là một thứ cây con không chịu ăn rễ đất này. Tôi muốn trổ lá đâm cành ở một bầu trời khác. Trong tôi, những kỷ niệm vui buồn thuở nhỏ đã ít nhiều rơi rớt. Chùm hoa mận trắng đã mờ nhạt trong tâm hồn tôi bạc bẽo cùn mằn.

Cây mận Trung Luơng đã có lúc mang lại sự ấm no, sung túc cho người. Nó đã làm nên cơ ngơi cô tôi. Còn bây giờ, nó phơi trần sự nhỏ nhoi và bất lực trong việc làm ra miếng cơm manh áo. Tôi giật mình khi nghe kể đem một tụng mận ra chợ, cả ngày cầy cục bán đổ bán tháo, bán hết, cũng chỉ đổi được một lon gạo. Không đủ nấu cháo một bữa! Trúng mùa mận, nhìn mận rụng đầy gốc, tiếc nhưng chẳng làm được gì. Giá rẻ mạt mà không lái nào tới mua. Một số nhà vườn đã đốn gần hết mận. Số phận cây mận mong manh như cuộc sống của những người đang trông cậy nó.

Cái đói xồng xộc tới thăm nhiều nhà. Người ta dửng dưng nhìn những gốc mận lão chết lần mà không màng trồng lại mận con. Đó cũng là bi kịch của vú sữa Vĩnh Kim, ổi xá lị Mỹ Thuận, cam sành Cái Bè, những loại cây trái phù phiếm không vực nổi phận người. Cây trái nhiều loại khác thực tế và do đó kinh tế hơn. Khu vườn nhà tôi mỗi ngày một thưa thớt mận. Ba tôi còn giữ vài cây làm cảnh chứ trong làng ngoài xã mọi người đã lên liếp trồng khoai. Rồi cao lương. Rồi cảm khung chỉ để làm thuốc dân tộc. Rồi bạc hà để lấy tinh dầu… Nhiều năm liền lụt về Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè, Mỹ Thuận. Không phải nước sông Tiền leo bờ mà nước từ Đồng Tháp tuôn ra. Đó là thành quả của những kế hoạch đào kinh tưới kinh tiêu!

Người ta bán cây mận làm củi. Ba tôi tiếp tục đốn nữa. Tôi đòi ông chừa lại gốc mận hồng đào mép cầu ao. Cây mận như vị lão tướng cuối cùng còn sót lại của một binh đoàn đang ùn ùn rã ngũ. Cô đơn. Buồn bã. Nhiều khi ghé vô thăm má, trời lộng gió, ngồi đưới những bông hoa mận rụng trắng đầu, tôi thử ráng mường tượng lại bức tranh thời niên thiếu. Nền bức tranh loang lổ đó là cái bệt màu xám xịt ghê khiếp: cái cảnh mấy đứa nhỏ làm mọi trừ nợ, kiếm cơm, suốt đời tính toán bằng năm ngón tay chai sạn.



Bảy

..... Từ Mỹ tôi về… Sau nhiều năm tôi trở về thì cây mận lão cuối cùng đó cũng không còn nữa. Thời gian mà, tùng bách rồi cũng thành củi khô, biển còn hóa thành ruộng! Cái ao có bắt nhà cầu nuôi cá trê phi ngày nào đã được lấp bằng làm chuồng bò. Thằng em tôi ngày nào còn chạy lông nhông ngoài ngõ bây giờ đã là một trang hán tử chăn bò. “Thoạt đầu còn mương còn ao, còn thả cá, chăn vịt. Sau này chuyển sang gà, heo. Rồi dê, bò. Mình phải nhanh nhạy với thị trường, nếu không muốn đói. Cái gì cũng có phong trào. Anh biết nếu bán bầy dê trễ mấy ngày thì coi như cụt vốn.” Những vườn mận Trung Lương từ năm não năm nao đã tụt hậu với phong trào, bất lực khi giải quyết vấn đề bao tử. Cái chết đáng đời, không có gì tức tưởi! Ở vườn sau, một vài gốc cà phê nấm ăn vàng lá, là những gì còn sót lại của một phong trào nữa vừa tàn lụi. Tôi nói thèm mận hồng đào, bữa trưa đứa em dâu đem về một rổ hồng đào Thái Lan.

Chị Bo ghé qua thăm tôi, hỏi chuyện nuớc ngoài. Nhòm chị như một bà lão hom hem, nếu tình cờ gặp giữa đường đố có nhận ra. Tóc chị bạc, hẳn nhiên. Đầu chị hói, điều tôi ít thấy ở phụ nữ. Chuyện trò, lâu lâu chị lại gãi gãi cánh tay và kẽ giữa những ngón tay. Lạ, tất cả mọi sự đều thay đổi, trừ chứng ghẻ ngứa của chị! Tôi bỏ ý định đòi má tôi buổi chiều nấu canh khoai mỡ nêm rắc ngò ôm ăn với cá lòng tong kho tiêu. Chị kể chuyện anh Chắt về sau lấy vợ quê nhưng khá giả. Nhân lúc đất hẹp người đông, anh bán hết mấy công mận cho người ta xây phố, rồi tiếp tục nhậu nhè và chửi đổng cho tới lúc chết năm ngoái vì bệnh gan.

Lẽ ra bây giờ là mùa mận! Nhà cửa san sát trong ngôi vườn cô tôi xưa, che khuất khu đất nghĩa trang gia đình, nơi hàng năm tôi sơn và tô chữ lại mộ chí ông tôi. Tôi biết cô nằm phía dưới chân ông, bên cạnh dượng: cô dượng đã chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi từ hồi tôi còn con nít. Ba má tôi không ai nhắc tôi ra thăm mộ. Còn tôi, cứ lần lữa mãi cho tới ngày lên máy bay, đành hẹn lòng chuyến sau.

Trong suốt những ngày về, tôi không hề muốn gặp lại những người quen cũ, những người một thời có dính líu tới cuộc đời tôi, hiện đang còn cắm rễ đâu đó trên vùng đất này. Tôi hiểu sự đổi thay không ngờ của mình. Tôi hiểu tôi là một thứ người phụ nghĩa bạc tình đáng ghét. Cũng có thể bởi tôi hình dung ra được sự đổi thay của người khác. Mỗi người tự nhích xa mình một chút, giữa chúng ta toác ra một khoảng cách mịt mù.

Nhưng đó là người sống, đã đành, còn người chết? Tôi không biết ông tôi. Ông mất khi tôi chưa có mặt trên đời. Những người nằm xuống khác là những người tôi gặp mặt đôi lần, nhớ cũng được mà quên cũng xong. Còn cô và dượng? Không cần đứng trước mộ phần, nhiều đêm xứ xa tôi vẫn tưởng tượng ra được cái thân hình xương xẩu của dượng trong bộ đồ bà ba trắng thùng thình đang đong đưa dưới sợi dây thừng, và văng vẳng giữa khuya là tiếng chì chiết chửi rủa của cô.



Tám

..... Buổi trưa nằm võng, nghe thằng em kể chuyện xóm chuyện làng, nghe bầy chuột chạy chíu chít trên ngọn dừa lão. Lẽ ra bây giờ là mùa mận! Cả ngôi vườn không còn gốc mận nào. Nhà vườn hàng xóm cũng vậy. Buổi chiều thả dọc con lộ 60, cửa nhà lúc nhúc. Biết bao mùa mận đã qua chốn này. Lẽ ra bây giờ là mùa mận!

Không chủ ý, tôi lơ ngơ băng qua bên kia con lộ bốn, rẽ xuống ngôi chợ nhỏ, trước kêu là chợ Bờ Đò. Con rạch cũ, nơi lưu trú cấm cố của những đám lục bình, ngày nay không còn nữa. Chỗ này hồi trước là bến đò ngang, ngó nghiêng qua hàng cau già là căn nhà gạch có con nhỏ mà xưa cô tôi tính chuyện cho tôi.

Phải nói chuyện với con nhỏ một đỗi tôi mới nhận ra nó. Tôi nhớ đúng ra năm nay tuổi nó chỉ vừa khoảng năm mươi. Nhưng sao dòm giống hệt như bà già bảy chục! Phần nó, tôi chắc chắn nó không thể nào nhận biết được tôi. Tôi chận con nhỏ ở chỗ hồi đó là cái quán cóc lụp xụp mé lộ đất, nơi nó tập bán buôn lụn vụn với người qua đò. Cũng hồi đó, quanh đây là những vườn mận Trung Lương nức tiếng. Tôi giả đò làm người ở xa, tới hỏi mua cây mận hồng đào con rặc giống. Nó dòm tôi như đứa từ sao Hỏa xuống. Tôi liếc thấy trên bàn thờ nhà nó dĩa trái cây; trong có mấy trái táo, chùm nho và mấy trái mận Thái Lan, thứ mận mà đứa em dâu tôi mua ở chợ hàng bông Mỹ Tho trưa qua. Tôi nhớ tới dấu răng nó để lại trên trái mận hồng đào Trung Lương hơn ba mươi năm về trước.

Tôi vốn người nhẹ dạ, xa xứ thỉnh thoảng đọc được đôi bài viết về quê hương, về trái mận Trung Lương nức tiếng, tưởng vẫn còn đây những vườn mận gió tung hoa rợp trắng trời. Ngờ đâu chỉ đọc được những hồi ức mơ hồ cũ kỹ. Thứ hồi ức được cập nhật bằng trí tưởng tượng nghèo nàn. Về đứng giữa trời Trung Lương mới biết đó chỉ là những nỗi niềm hoài cổ tội nghiệp. Vừa thôi! Lẽ ra bây giờ là mùa mận. Cho dù một góc vườn ai vẫn còn vài tán mận để những đứa con nít rún lòi đen thủi - mũi dãi xanh lè che mát tuổi thơ, nhưng đã không còn rồi một Trung-Lương-Mùa-Mận!


Khổ cho tôi, thiệt khổ thân tôi! Xưa Thôi Hộ trở về Đào Hoa thôn, người xưa biền biệt phương nao, chỉ cần thoáng nhìn hoa thắm mà nhớ má ai hồng.
Còn tôi, trở lại làng Trung Lương, vườn xưa cỏ cây còi cọc, chắc quý vị làm thơ tưởng tôi thấy má người mà nhớ ra được mùa hoa?
Người thì sờ sờ ra đó, nhưng đôi má hom hem tái nhợt kia làm sao có thể làm cho một đứa vốn vô tình, như tôi, liên tưởng lại nổi một trời hoa mận cũ?



Nguyên Nhi - 2009




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/diem_2013042601_leramuaman.jpg




… (về mục lục) …



~o) :(

HoangVan
06-26-2013, 03:57 AM
Hà Thanh, họa mi xứ Huế
Quỳnh Giao (theo nguoi-viet.com) (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=167748&zoneid=82#.UcqyiDtkNgt)




...........Không hiểu vì sao từ khi có tân nhạc, đa số ca sĩ ưa phát âm theo giọng Bắc. Người viết đoán là vì giọng Bắc nhẹ nhàng lên bổng xuống trầm với năm dấu rõ ràng. Phần lớn ca sĩ nổi tiếng của chúng ta là người miền Bắc. Từ Thái Thanh, Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà, Thúy Nga, Mai Hương, Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, đến Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Duy Quang...

Nhưng mình vẫn không quên tiếng hát của miền Nam.

Quỳnh Giao rời Huế vào Sài Gòn khi mới lên bảy. Lần đầu theo Mẹ đi xem hát thấy nghệ sĩ Trần Văn Trạch diễn bài “Tai nạn téléphone” mà cười sái hàm. Tài nghệ sáng tác và trình diễn hài hước làm ông được tôn là quái kiệt, chứ thật ra, Trần Văn Trạch là danh ca tân nhạc. Mấy bài ông trình bày rặt giọng Nam như “Dạ Khúc” của Nguyễn Mỹ Ca hay “Chiều Mưa Biên Giới” của Nguyễn Văn Ðông thì ít ai bằng. Ngoài Trần Văn Trạch, nam ca sĩ Trọng Nghĩa (thập niên 50), nữ ca sĩ Ngọc Hà hay Túy Phượng đều phát âm giọng Nam, nghe dễ thương và truyền cảm. Mình không quên là cũng có ca sĩ người Nam khi hát thì phát âm giọng Bắc, như Hoàng Oanh, Phương Dung, Bạch Yến, Tuyết Hằng, như Elvis Phương, Trung Chỉnh...

Ngoài hai miền Nam Bắc, thành phần ca sĩ người Trung cũng rất đông.

Trong địa hạt cải lương, điều thích thú cho người viết là khi biết danh ca Ngọc Giầu là “đồng hương.” Không chỉ là người Huế mà còn thuộc hoàng phái với tên thật là Tôn Nữ Ngọc Giầu. Vậy mà bà hát vọng cổ mùi tận mạng nên ít ai ngờ bà là thuộc diện “Huế mình” như người ở cố đô vẫn nói với nhau. Làng tân nhạc từ phôi thai đã có người miền Trung như Minh Trang, Châu Kỳ, Tôn Thất Niệm, Hương Thủy, Thanh Nhạn. Ðợt trẻ hơn thì có Thanh Thúy, Duy Khánh (người Quảng Trị), Nhật Trường (người Phan Thiết), cặp Lê Uyên Phương (người Huế sống ở Ðà Lạt), Hồng Vân trong ban tam ca Ðông Phương, sau này còn Phương Nga, Anh Dũng, Trần Thái Hòa... Con số rất đông mà người viết không ghi hết được. Vậy mà chỉ có một người được xứ Huế coi như chim họa mi của mình. Ðó là Hà Thanh. Nổi tiếng như Thanh Thúy cũng không được Huế dành lấy cho riêng mình.

Trong ba miền, người Huế quả là nặng tính địa phương hơn cả. Các trường học trung học của ba miền đều có hội hè hàng năm, như Chu Văn An, Petrus Ký, Trưng Vương, Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Quốc Học, Ðồng Khánh, v.v... Chỉ Huế là có “Ngày Nhớ Huế” hay “Ngày Hoàng Tộc.” Hai miền kia không có “Ngày Sài Gòn” hay là “Ngày Nhớ Hà Nội”...

Mà Hà Thanh có được Huế cưng quý như vậy cũng có lý! Trước hết là giọng ca thiên phú, trong trẻo cao vút. Ðây là một trong vài giọng soprano hiếm có của Việt Nam. Hà Thanh hát dễ dàng như hơi thở. Khi lên cao, giọng lồng lộng, thoải mái cho ta cảm tưởng chiếc diều phơi phới trên nền trời xanh ngắt. Vì sao lại sánh với cánh diều? Chính vì chất giọng trong trẻo nhẹ nhàng làm mình liên tưởng đến trời xanh và nắng ấm. Vì trình độ thưởng ngoạn, nhiều người cứ khen làn hơi rất mạnh. Không thiếu gì ca sĩ thời nay hay khoe làn hơi “mạnh” vì thấy hát trổ giọng lại càng được vỗ tay và huýt sáo vang lừng! Trong nghệ thuật thì khác, hát nhẹ và êm mà vẫn rõ lời mới là điều khó. Khi hát nhẹ, ca sĩ phải “kìm” làn hơi để phả từ từ, nhẹ nhàng mà vẫn đều đặn. Khó nhất là lúc ngân cho câu nhạc nhỏ dần, đến khi chỉ bằng sợi tơ mong manh mà không đứt, không tắt...

Hà Thanh hát như vậy, từng được các nhạc sĩ sáng tác trân quý và yêu cầu chị hát những tác phẩm tim óc của họ. Nguyễn Văn Ðông để mắt xanh đến Hà Thanh ngay lần đầu được nghe chị từ Huế vào Sài Gòn thăm người em gái, đến phòng thu của hãng đĩa hát thử. Quả là nhạc của ông đã được giọng hát Hà Thanh chắp cánh bay cao. Trịnh Công Sơn khi còn ở Huế đã đưa những ca khúc chưa ráo mực đến nhờ chị hát, và Hà Thanh đưa “Nắng Thủy Tinh”, “Lời Mẹ Ru” hay “Nhìn Những Mùa Thu Ði” vang vọng đất Thần Kinh. Dương Thiệu Tước cũng thích và Hoàng Trọng cũng mến Hà Thanh, Tuấn Khanh thì “mê” giọng hát này nhất. Nhưng thính giả ở Huế quá ít, phải đợi khi vào Sài Gòn thì Hà Thanh mới có đất dụng võ...

Ngoài cái nết, người viết rất ái mộ giọng của Hà Thanh, nên hơi tiếc là tiếng hát tuyệt vời này bị hãm trong cõi Huế như họa mi ở trong lồng. Ít người biết là khi ở Huế, Hà Thanh hát “Dòng Sông Xanh” còn tuyệt hơn Thái Thanh. Ca khúc được trình bày với “ton” nguyên thủy viết cho giọng soprano là Ré Trưởng. Lên nốt cao nhất là nốt La ngoài dòng kẻ. Trong nghệ thuật hát nhạc cổ điển, nốt “high C” (nốt Do trên hai dòng kẻ) được coi là cao nhất, khó nhất. Pavarotti có lần than là trong một vở opéra, ông phải hát nốt high C đến năm lần mệt nghỉ. Nốt La chỉ thấp hơn High C hai bậc mà thôi.


Vì thính giả chỉ thích những bài đậm sắc địa phương, tiếng hát Hà Thanh không có cơ hội bay xa hơn, vươn rộng hơn nữa...




Quỳnh Giao - 12 tháng 6, 2013






http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/diem_2013062601_hathanhbyquynhgiao.jpg
Hà Thanh hát Trịnh Công Sơn ngay từ đầu, tại Huế
(http://k002.kiwi6.com/hotlink/3h8zkofsu5/biennho_hathanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/3h8zkofsu5/biennho_hathanh.mp3




… (về mục lục) …



@};-

HoangVan
07-03-2013, 09:39 PM
Truyện ca của chúng ta
Quỳnh Giao (theo nguoi-viet.com) (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=168081&zoneid=97#.Uc_RZjtkNgs)



...........Phải chăng, biệt ly, chinh chiến và đợi chờ là một phần của đời sống dân ta nên mới để vết hằn trong nền văn hóa của nước nhà? Người viết nêu câu hỏi đó vì nghĩ đến sự tích “vọng phu”... Chúng ta đều biết chuyện thiếu phụ ôm con chờ chồng đi chinh chiến ở xa và chờ mãi cho đến khi hóa đá. Từ chuyện đó, ta mới có hòn vọng phu, là tảng núi đá có hình dạng của người vợ đợi chồng. Nhưng Việt Nam có đến năm hòn vọng phu như vậy! Từ Ðồng Ðăng ở tỉnh cực Bắc cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, Bình Ðịnh và trên một đỉnh núi tỉnh Ðắc Lắc...

Cũng hình ảnh hòn vọng phu đã gợi hứng cho nhạc sĩ Lê Thương trong ba bài “Hòn Vọng Phu.” Ðây là loại “truyện ca” đã trở thành một di sản văn hóa và nghệ thuật của dân ta.






http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc01_honvongphu1_1.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc01_honvongphu1_2.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc01_honvongphu1_3.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc01_honvongphu1_4.jpg


Hòn vọng phu 1
Lê Thương / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/6knfl75v67/tc01_honvongphu1_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/6knfl75v67/tc01_honvongphu1_thaithanh.mp3


@};- @};-





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc02_honvongphu2_1.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc02_honvongphu2_2.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc02_honvongphu2_3.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc02_honvongphu2_4.jpg


Hòn vọng phu 2
Lê Thương / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/q3wx290ei6/tc02_honvongphu2_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/q3wx290ei6/tc02_honvongphu2_thaithanh.mp3


@};- @};-




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc03_honvongphu3_1.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc03_honvongphu3_2.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc03_honvongphu3_3.jpg

http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc03_honvongphu3_4.jpg


Hòn vọng phu 3
Lê Thương / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/6g770f58sf/tc03_honvongphu3_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/6g770f58sf/tc03_honvongphu3_thaithanh.mp3


@};- @};-




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_lethuong01.jpg
Lê Thương





… (xem tiếp) …
… (về mục lục) …

HoangVan
07-04-2013, 08:01 AM
...........Nhưng hình như là dân mình không chỉ thích chuyện buồn mà còn có tinh thần lãng mạn. Gặp bất cứ kỳ tích nào thì cũng kể lại thành truyện, viết thành, thơ thành văn. Kho tàng văn hóa ấy lại là nguồn sáng tác cho đời sau. Ngoài ba bản Hòn Vọng Phu, Lê Thương còn viết nhiều truyện ca khác như Nàng Hà Tiên, Thằng Cuội, Hoa Thủy Tiên, hay cả Thằng Bé “Tí Non”...







http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc04_nanghatien.jpg

Nàng Hà Tiên 1
Lê Thương / Anh Khoa (http://k002.kiwi6.com/hotlink/jylgx0t1of/tc04_nanghatien1_anhkhoa.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/jylgx0t1of/tc04_nanghatien1_anhkhoa.mp3


Nàng Hà Tiên 2
Lê Thương / Mai Hương (http://k002.kiwi6.com/hotlink/ax9d10up03/tc05_nanghatien2_maihuong.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/ax9d10up03/tc05_nanghatien2_maihuong.mp3


@};- @};-





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc06_thangcuoi.jpg

Thằng cuội
Lê Thương / Bích Huyền (http://k002.kiwi6.com/hotlink/59i8k19cz9/tc06_thangcuoi_bichhuyen_.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/59i8k19cz9/tc06_thangcuoi_bichhuyen_.mp3


@};- @};-




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc07_hoathuytien.jpg

Hoa thủy tiên
Lê Thương / Khánh Ly (http://k002.kiwi6.com/hotlink/sx1ga766bc/tc07_hoathuytien_khanhly.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/sx1ga766bc/tc07_hoathuytien_khanhly.mp3


@};- @};-



http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc08_thangbetinon.jpg

Thằng bé tí non
Lê Thương / Diễm Quyên (http://k002.kiwi6.com/hotlink/y4bk4eoi3b/tc08_thangbetinon_diemquyen.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/y4bk4eoi3b/tc08_thangbetinon_diemquyen.mp3


@};- @};-


http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_lethuong02.jpg
Lê Thương





… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

bonita
07-04-2013, 09:46 AM
ngồi nghe nhạc Lê Thương mà bo nhớ hôm nào hát bài Ông Ninh Ông Nang để chọc ghẹo hai người bạn à bo qúy mến ... :x
cảm ơn anh cho bo thưởng thức những bản nhạc truyện ca xưa của Lê Thương @};-@};-@};-

HoangVan
07-04-2013, 04:39 PM
.. Bo .. @};- :) ..

HoangVan
07-07-2013, 06:15 AM
...........“Truyện ca” là các ca khúc lấy cảm hứng từ những truyện đã được lưu truyền từ trước.

Nói về sự lưu truyền thì trong kho tàng văn học dân gian nối tiếp từ đời này qua đời khác, chúng ta có nhiều truyện được gọi là cổ tích, thần tiên hay thần kỳ. Có lẽ, truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh xuất phát từ hiện tượng địa dư hay khí hậu mà được thi vị hóa thành hai ông thần núi và nước thi thố tài hô phong hoán vũ để lấy được công chúa Mỵ Nương của một ông vua Hùng Vương. Nguyễn Nhược Pháp hay Phạm Thiên Thư đã làm thơ từ truyện tích này. Nhạc sĩ Phạm Duy bắt vào cảm hứng đó từ thơ Phạm Thiên Thư mà viết ca khúc Qua Suối Mây Hồng, một trong mười bài “đạo ca.”




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc09_quasuoimayhong.jpg

Qua suối mây hồng
Phạm thiên Thư - Phạm Duy / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/f7x1j2942v/tc09_quasuoimayhong_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/f7x1j2942v/tc09_quasuoimayhong_thaithanh.mp3





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_phamthienthu_phamduy.jpg
Phạm thiên Thư & Phạm Duy



… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
07-07-2013, 06:00 PM
...........Cũng về truyện một nàng Mỵ Nương, có khi là cách gọi một “Mệ Nàng,” chúng ta có truyện cổ tích về anh Trương Chi, “người thì thật xấu hát thì thật hay.”

Cả Phạm Duy lẫn Văn Cao đều có tác phẩm về tích này. Văn Cao mượn truyện Trương Chi để viết về nỗi niềm riêng, còn Phạm Duy kể lại câu chuyện Khối Tình Trương Chi với nét tài hoa khác.





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_truongchi.jpg

Trương Chi
Văn Cao / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/02393g0by6/tc10_truongchi_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/02393g0by6/tc10_truongchi_thaithanh.mp3


Khối tình Trương Chi
Phạm Duy / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/5n561wq7i7/tc11_khoitinhtruongchi_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/5n561wq7i7/tc11_khoitinhtruongchi_thaithanh.mp3





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_vancao2.jpg http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_phamduy3.jpg
Văn Cao ......................... Phạm Duy


… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
07-09-2013, 10:59 PM
...........Hai nhạc sĩ này cũng tận hưởng sự lãng mạn trữ tình của truyện Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai mà viết hai ca khúc. Bản Thiên Thai của Văn Cao thì kể chuyện xưa với nét nhạc tân kỳ mới lạ. Tiếng Sáo Thiên Thai của Phạm Duy lại đi từ ý thơ của Thế Lữ diễn thành tiết điệu lả lơi, mờ ảo.




http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_thienthai.jpg

Thiên thai
Văn Cao / Thái Thanh (http://k005.kiwi6.com/hotlink/m2b881d80r/thienthai_thaithanh.mp3)
http://k005.kiwi6.com/hotlink/m2b881d80r/thienthai_thaithanh.mp3



http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_tiengsaothienthai.jpg

Tiếng sáo Thiên thai
Phạm Duy / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/ri780ru1y9/tc13_tiengsaothienthai_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/ri780ru1y9/tc13_tiengsaothienthai_thaithanh.mp3





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_phamduyviengvancao.jpg
Phạm Duy & Văn Cao


… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

ntđl
07-12-2013, 12:54 PM
Bác HVn.
Lău quá xá tui chưa hề nghe lại hai bản nhạc này heng : Trương Chi và Khối Tình Trương Chi. Mấy chục năm hổng ít !

Tui nghĩ... personal taste heng bác...
Phạm Duy không thể qua mặt nổi Văn Cao đâu bác à.
Tài hoa của Văn Cao đã toả sáng với bản Trương Chi này đây. Trong dòng nhạc việt, thuở sanh tiền, ông đã một thời là thái sơn bắc đẩu, đứng trên Phạm Duy một bậc.

Hổng phải tui nói à nha, đây là ý kiến của chính Phạm Duy, và ông Phạm Duy này đây, xưa rày đức khiếm tốn vốn thường khi... thiếu hụt !

Dà... nếu phải chọn một bản nhạc duy nhứt, tiêu biểu cho dòng nhạc việt, tui sẽ chọn bản Trương Chi này của Văn Cao.
Lý do hở ? Hổng phải chuyện con tim heng, vì con tim thì hổng có lý do chi dzáo. Đây là chuyện bài bản lý trí đàng hoàng. Cắt nghĩa vài chục hàng như sau :

Thứ nhứt về nhạc :
Nhạc của bản Trương Chi hổng theo thứ tự của một tác phẩm tân nhạc bài bản, chia làm 3 phần theo kiểu AA' B AA', trong đó thường khi và hầu như chỉ có một key nhạc duy nhứt, còn bằng không thì (may ra) đoạn B dùng một key khác.
Trong âm nhạc, đổi key như thế kêu bằng... modulations, và modulating vậy cốt để dòng nhạc khởi sắc, tránh chuyện đều đều một giọng buồn tẻ.

Nhạc cổ điển là một giòng nhạc modulating liên tục không dứt, chưa kể khi modutate như vậy, các nhà soạn nhạc tài hoa còn cài vào giữa chúng những kỷ thuật sở trường của đám nhạc cụ trình tấu, cốt để dòng nhạc thêm lóng lánh sắc mầu (kêu bằng embellissement).

Trong dòng nhạc đại chúng, modulating kiểu nớ là ... bất khả thi, là chết yểu và chết thảm. Thành ra chuyện modulating nếu có cũng chỉ sương sương sao cho dòng nhạc đừng trục trắc quá để ca sĩ có thể hát nổi.

Thứ nhì về lời :
Lời của bản nhạc việt phải là lời đậm chất thơ.
Thi tứ phải bàng bạc trong lời hát để nó ngấm vào tim gan phèo phổi, cả người hát lẫn người nghe, thế mới có... phiêu-ling (hello phiuling, bữa hổm qua đọc được của em một entry khúc nào đó quên rồi, cười thiếu điều mém... rớt).
Lời thiệt thà tới độ ngây ngô sẽ giết chết chất thơ, và do đó sẽ trở thành lời của đám... vừa đực vừa đẫn (tui thề tui chẳng yêu ai, vì người ta đã phụ.ụ.ụ. tui dzồi !
Cùng một ý là nhớ nhung trong nhạc việt, nếu ca " ôiiiii, kỷ niệm xưa làm tim anh rướm máu " thì sẽ hổng thể "bức xúc" cho bằng câu "bới trong tro tàn, tìm ánh sao xưa".

Thành ra rồi cũng cùng ngôn từ y chang nhau về thất tình, đám tây đầm bứt râu bứt tóc lăn đùng ra đất thì được, nhưng người mình thì không.
Ngôn ngữ tình cảm của dân mình là ngôn ngữ để cảm nhận chớ hổng phải để la làng. Ta hạnh phúc và âu sầu với tình yêu co84 nào thì cũng cứ chịu khó nín thinh im lìm, đóng cửa mở cửa mình ên (hoậc cúi đầu nói cùng cây cỏ như một kép tàu phù nào đó của LH trong tuồng In the mood for love), gào thét như tây đầm sẽ được dán nhãn sến nhớt ngay tắp lự.

(chưa kể là... tiếng việt vốn là tiếng đơn âm và có dấu, sai dấu làm mất nghĩa và thường khi gây... tai nạn. Đầy là lý do vì sao tiết tấu của nhạc không nhanh, thể loại rap hổng thể và sẽ không bao giờ fit với nhạc việt)

Trở lợi cùng bản Trương Chi.
Nhạc lý dĩ nhiên tui ấm ớ mà bản nhạc lại hổng có trước mắt, thành key nhạc đổi bao nhiêu bận tui thiệt sự bí lú, nhưng chắn chắn như bắp là đoạn kết thúc nhạc đã đậm âm hưởng ngũ cung (ngồi đây ta gõ ván thuyền...)
Bản Trương Chi gồm nhiều đoạn, mỗi đoạn là một "ý nhạc" riêng, hổng hề trùng lặp,
Dòng nhạc đã cứ thế êm ả tuôn chảy không hề gián đoạn, cá ý nhạc lẫn ý thơ. Tài hoa nó là như vậy.

Nói riêng về lời, ngó bộ chuyện Trương Chi đạ được tác giả tỉnh bơ sửa đổi chút đỉnh, còn bằng không thì... tâm tình của Trương Chi đã được tác giả nhìn qua lăng kính tâm lý nên đã xáo trộn cái kiểu rất chủ quan.
Cả Đẫn Trương Chi vốn là gã lái đò "người thì thậm xấu hát thì thậm hay". Trương Chi ngó thấy Mị Nương bèn si tình, tối tối chèo đò lượn qua lượn lợi mần màn serenade con quan trên gác ngọc, bằng những đoạn aria vọng cổ ướt át mùi riệu, Mị nương xao xuyến vì tiếng hát nhưng thấy người - hẳn là thấy xa xa heng - liền vỡ mộng kéo xiêm y chạy thiếu điều sút dép. Kết thúc là... Trương Chi thất tình rồi... tuyệt thực chết theo tình !

Muôn đời, cách nào đó, đẫn sẽ cứ hoàn đẫn....
Trương Chi của Văn Cao heavy duty đẫn tới vượt chỉ tiêu, nó hổng hề biết mính thất bại vì xấu xí, cứ hồ hởi yên trí mình đủ khả năng để được biệt nhỡn, chừng thất tình thì lăn ra đất đổ thừa tại nghèo (trách ai khinh nghèo phụ nhau)
Chời ơi chời... sao mà có vậy cho đặng hở chời !

Đó... tâm lý ái tình nó như vậy đó, chuyện "biết người biết ta, uýnh đâu thắng đó" hổng thấy trong ái tình, vì rằng ái tình vốn lúc nào cũng nhứt định triền miên đeo... kiếng mát !

Ý kiến ba xu.
Xin hết !

HoangVan
07-12-2013, 10:58 PM
.. chị Ngô .. @};- ~o) :) .. cám ơn chị bàn về Trương Chi của Văn Cao .. Đồng ý với chị là Trương Chi của Văn Cao tuyệt đẹp từ lời đến nhạc ..


So sánh 2 người, thì tôi cảm nhận là VC mơ màng trên mây mà PD thì tung hoành dưới đất. Tung hoành tám hướng đến cuối đời chưa thỏa, vẫn còn đất ... VC thì trên mây nên ở lại với mây Cộng Sản, rồi thấy sai thì dựng thêm một tầng mây, leo lên đó gật luôn ..


Vâng, ái tình nhất định đeo kính mát .. sét đánh rồi thì đờ đẫn ra, người chưa rõ mà ta quên ta .. http://www.gifmix.net/3d-smileys/naughty-3d-smilies/0029.gif ..

@};- ~o)

HoangVan
07-14-2013, 05:16 PM
...........Từ truyện Thiên Thai, ta còn có Hoàng Nguyên u uẩn với bài “Ðường Nào Lên Thiên Thai”, một tuyệt chiêu của tiếng hát Thanh Thúy. Người viết thì khó quên được thơ Tống Biệt và “lá đào rơi rắc lối Thiên Thai” của Tản Ðà, được Võ Ðức Thu phổ từng câu từng chữ vào nhạc, thành một ca khúc thuộc loại đẹp nhất của tân nhạc Việt Nam.





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_duongnaolenthienthai.jpg

Đường nào lên Thiên thai
Hoàng Nguyên / Thanh Thúy (http://k002.kiwi6.com/hotlink/5qx8q45yqx/tc14_duongnaolenthienthai_thanhthuy.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/5qx8q45yqx/tc14_duongnaolenthienthai_thanhthuy.mp3



http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_tongbiet2.jpg

Tống biệt
Tản Đà, Võ đức Thu / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/8c04yjd55q/tc15_tongbiet_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/8c04yjd55q/tc15_tongbiet_thaithanh.mp3





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_hoangnguyen.jpg http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_voducthu.jpg
Hoàng Nguyên .............. Võ đức Thu


… (xem tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …

HoangVan
11-08-2013, 04:56 AM
...........Cũng bi thảm ai oán như hòn vọng phu, ta còn có truyện nàng thiếu phụ ở Nam Xương đã dạy con chờ chồng đi đánh giặc ngoài xa mà gây ra ngộ nhận với cái bóng của mình in trên vách tối. Bài Thiếu Phụ Nam Xương của Thẩm Oánh là một truyện ca buồn.





http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_thieuphunamxuong01.jpg

Thiếu phụ Nam Xương
Thẩm Oánh / Thái Thanh (http://k002.kiwi6.com/hotlink/270d540n4j/tc16_thieuphunamxuong_thaithanh.mp3)
http://k002.kiwi6.com/hotlink/270d540n4j/tc16_thieuphunamxuong_thaithanh.mp3






...................................http://i284.photobucket.com/albums/ll1/mayvang_01/general/tc_thamoanh02.jpg
...................................Thẩm Oánh


… (còn tiếp) …
… (xem từ đầu) …
… (về mục lục) …