PDA

View Full Version : Cung Tiến & Hoàng Hạc Lâu ... (mộng đã thành ...)



LeThu
10-06-2013, 09:12 AM
.
.
.
.
Cung Tiến và Hoàng Hạc Lâu (http://banmaihong.wordpress.com/2013/05/06/hoang-hac-lau/)

Cung Tiến & Hoàng Hạc Lâu
( Quỳnh Giao)

Sinh tiền, Vũ Hoàng Chương là thầy dạy Việt văn của Cung Tiến. Ông sinh năm 1916, trước người nhạc sĩ tên tuổi này 22 năm. Nhưng với thói quen khoáng đạt của một nhà thơ, ông không hề câu nệ, vẫn coi Cung Tiến như người bạn vong niên hơn là một đứa học trò.
Có lần ông nói đùa. Rằng Cung Tiến phổ thơ biết bao người mà chưa từng phổ thơ Vũ Hoàng Chương! Cung Tiến không quên điều ấy nhưng biến cố 1975 trên cả nước và người nhạc sĩ thì lưu vong ra ngoài, còn nhà thơ kẹt lại ở bên trong với những Mai Thảo, Phạm Ðình Chương, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Xuân Ninh, Phan Lạc Phúc, v.v….

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/fb/YellowCraneTower.jpg/250px-YellowCraneTower.jpg

Trong nỗi bi phẫn về cảnh bạn bè tán lạc, Vũ Hoàng Chương đã cảm dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi nhờ bạn bè chuyển được ra ngoài, đến tay Cung Tiến khi ấy còn ở Canberra bên Úc… Thôi Hiệu là nhà thơ khét tiếng thời Thịnh Ðường vào đầu thế kỷ thứ tám. Bài thơ của ông khiến một người như Lý Bạch còn nghẹn lời không dám viết về lầu Hoàng Hạc nữa và được Kim Thánh Thán ngợi ca là “bút pháp tuyệt kỳ, tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Luật”.

Ðấy cũng là bài được người mình dịch sang Việt ngữ nhiều nhất. Có người đếm ra hơn bốn trăm bản dịch khác nhau, từ Tản Ðà, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Nguyễn Ðức Hiển, v.v… Với Cung Tiến và nhiều bằng hữu thì bài cảm dịch của Vũ Hoàng Chương là một sự tuyệt mỹ vì tâm cảnh mọi người vào lúc đó..

Từ bên ngoài, nhận được bản dịch, Cung Tiến nhớ thầy, nhớ bạn và nhớ lại cung cảnh xa xưa nên đã xuất thần phổ nhạc rất nhanh và tìm cách gửi về ngay năm sau. Nhưng không kịp nữa. Vũ Hoàng Chương bị cầm tù và bị kiệt sức mới được thả ra và tạ thế sau đó năm ngày nên không bao giờ được nghe ca khúc này. Bây giờ nhớ lại thì xin ghi bài cảm dịch của ông để chúng ta khỏi quên và cùng thưởng thức:

“Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Ðây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi…”

Khi còn sống, ông Nguyễn Ðức Hiển tại Houston Texas cho rằng bản dịch Vũ Hoàng Chương “còn hay hơn nguyên bản, mà nguyên bản vốn đã hay tót vời”. Ông Hiển có thể nói không ngoa vì bản thân đã dịch đi dịch lại mười mấy lần bài thơ của Thôi Hiệu! Ông còn dụng công so sánh hai câu thực của nguyên bản, gồm sáu thanh trắc liên tiếp:

“Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du”

Với câu “thực” do Vũ Hoàng Chương để lại mà ông cho là ảo diệu hơn:

“Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời…”

Khi đọc lại, làm sao mình không ngậm ngùi với những chữ tuyệt diệu như “vút” bóng người, hay chút “thơm” rơi…? Và câu kết, “Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi!”, nghe thê thiết hơn vần lục bát của Tản Ðà:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”

Cung Tiến đưa Hoàng Hạc Lâu vào nhạc với phần hòa âm soạn cho dương cầm và viết trên cung Ré giáng Trưởng, nhịp 4/4 chậm rãi tha thiết – andantino – và ý nhị. Piano mở đầu bằng hai ô nhịp, hai mesures, viết lối Arpège chùm hai nốt, thánh thót, êm đềm. Rồi lời ca cất lên bồi hồi day dứt như một truyện kể, mà dùng phép tả cảnh để tả tình:

“Xưa hạc vàng bay vút bóng người…
Ðây lầu Hoàng Hạc chút (ứ ư ) thơm rơi…”

Ðàn piano lại rải, nghe như tiếng chim hót, và cứ thế ca khúc dẫn người nghe vào một bức tranh cổ, với cánh hạc vàng ẩn hiện sau vầng mây bạc có nắng chiếu, có cây bến Hán Dương u buồn và cỏ bờ Anh Vũ vắng vẻ, chẳng còn ai chơi…
Ðoạn nhạc chuyển tiếp nỉ non đan lượn những ngậm ngùi rồi chợt mở ra tâm sự kẻ tư hương, nhớ quê, nhớ bạn…

“Gần xa chiều xuống nào quê quán
Ðừng giục cơn sầu nữa (ư ứ), sóng (à à) ơi…”

Rồi đàn lại buông arpège hai nốt nhẹ nhàng, lãng đãng chìm khuất, mơ hồ như cánh hạc vàng tan trong khói sóng…
Toàn bài, Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Ðông phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài “Clair de Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Ðông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái…..

Bài “Hoàng Hạc Lâu” là viên ngọc quý của thơ Ðường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết hợp lạ kỳ của tình cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ, của nhạc. Ðiều hơi tiếc là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam.

Hoàng Hạc Lâu, Nhạc: Cung Tiến
Thơ: Thôi Hiệu Dịch: Vũ Hoàng Chương
Tiếng hát: Quỳnh Giao


http://www.youtube.com/watch?v=vZTqvJNOABA

Lầu Hoàng Hạc thế kỷ 19 ( Ảnh trên wikipedia)

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/66/HuangHe_Tower.jpg/800px-HuangHe_Tower.jpg

Hoàng Hạc Lâu: 3 bản dịch độc đáo

( Nguyễn Khôi)

Trong ” Toàn Đường Thi” (gồm 42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường)- Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là “Hoàng Hạc Lâu” cuả Thôi Hiệu ?
”Hoàng Hạc Lâu” thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu ( Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ).Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc,rượu chè “của lạ” (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy,đến cuối đờiphong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi,sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm ,Bão Chiếu…Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ là vậy);Bạn ông nói đùa ” không phải Bác bệnh đến như vậy,bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy thôi” !
Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc,vốn là “tửu quán” -đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ ” Giang Nam hảo “nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ…Theo sách ” Cổ đại thi tứ cố sự” thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế : thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, “Tình Xuyên Các” bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày…Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả “Lầu”, còn 3 câu kia đều tả “người xưa”… trong đó câu 1 là tả “người xưa”, câu 3 là nghĩ “người xưa”, câu 4 là ngóng “người xưa”, cứ như phớt lờ không nhắc gì đến “lầu”.Câu 5-8 tiền giải là tả “người xưa”, hậu giải tả “người nay”, tuyệt nhiên không tả đến “lầu”… Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi “hương quan hà xứ thị” (ở nơi này) với cây thì “lịch lịch” (in rõ), bãi thì “thê thê” (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng “hương quan” là không biết “hà xứ” (nơi nào).Rồi với hai chữ “nhật mộ” (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để “đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn.”Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ “trắc” trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? – để nhấn mạnh cái ý “tiền bất kiến cổ nhân” – “nhất khứ” là một đi – “bất phục phản” là không trở lại… câu này nói lên cái lẽ vô thường của mọi người, mọi việc.Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữaHoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu “thôi miên” ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ “dịch” nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục (Nam Phong tạp chí – năm 1923)Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,Ở đây chi những lầu hạc trơ.Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.Sông bạc Hán Dương cây xát xát,Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?Mây nước trên sông khách thẫn thờ.Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.2. Bản dịch của Tản Đà:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937Đay là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?3. Bản dịch của Vũ Hoàng ChươngXưa Hạc Vàng bay vút bóng người,Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,Trắng một màu mây vạn vạn đời.Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!Như ta đã biết : Thôi HIệu (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh “trắc” liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản.
Bạch Vân thiên tải không du du

Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi… Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật ,nói theo Tô Thẩm Huy thì :đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:Vàng tung cánh hạc đi đi mãiTrắng một màu mây vạn vạn đờiMột màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh).
Đọc đến câu cuối “đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động”. Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: “Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế.”Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:- Yên ba giang thượng sử nhân sầu- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:- Vàng tung cánh hạc đi đi mãi. Nếu đưa chữ “hạc” lên đầu câu:- Hạc vàng tung cánh đi đi mãi Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế – và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010,

Nguyễn Khôi – Cẩn bút




... Trường thi Hoàng Hạc Lâu ... thêm tí nữa ... thôi đây!

(http://www.youtube.com/watch_popup?v=hOWoOy7uvPU)




.
.
.
.

LT..., các bài đã được đăng đâu đây đấy... đây! (https://dtphorum.com/pr4/search.php?do=finduser&userid=316&contenttype=vBForum_Post&showposts=1)

.
.
.
.
.

ốc
10-06-2013, 04:18 PM
Em thấy bác Chương dịch các câu 6, 7, 8 quá tầm thường, gượng gạo và câu 3, 4 thì chả đối xứng (nếu xét theo luật thơ Đường). Chắc là không đủ rượu.

tieudao
10-12-2013, 05:33 AM
Bản dịch Tản Đà đã quá xuất sắc bài thơ của Thôi Hiệu. Lý Bạch đã than:"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi hiệu đề thi tại thượng lầu". Thiết nghĩ Vũ Hoàng Chương cũng nên nghĩ về Tản Đà như vậy.

ốc
10-12-2013, 01:22 PM
Đừng ai dịch cả thì lại thật hay.

Ngày xưa tiên cưỡi hạc vàng
Ngày sau còn đấy một Hoàng hạc lâu
Hạc vàng cứ mãi đi đâu
Nghìn năm mây trắng trên đầu còn bay
Hán dương soi bóng hàng cây
Bãi xanh Anh vũ cỏ đầy lối qua
Hoàng hôn chợt nhớ quê nhà
Khói sông cuộn sóng trông mà buồn tênh

tư mã tai trâu
10-13-2013, 08:52 AM
Bản dịch Tản Đà đã quá xuất sắc bài thơ của Thôi Hiệu. Lý Bạch đã than:"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi hiệu đề thi tại thượng lầu". Thiết nghĩ Vũ Hoàng Chương cũng nên nghĩ về Tản Đà như vậy.

Tại hạ lại nghĩ khác với các hạ.

Hai bản dịch là hai phong cách hoàn toàn khác biệt. Không nên so sánh.

Cụ Tản Đà đã nhẹ nhàng túm gáy hạc vàng của đường thi rồi thả hạc bay ... bay lả bay la theo cánh cò VN. Và cụ đã làm rất đẹp.

Cụ Vũ Hoàng Chương thì hạc vẫn bay trên bến Hán Dương trên bờ Anh Vũ nhưng qua ngòi bút cụ hạc như đã hót bằng ca dao ... "vàng tung cánh hạc bay bay mãi ... trắng một màu mây vạn vạn đời ..." tuyệt chiêu.

Theo rất thiển ý, dịch theo thể thơ lục bát thì không ai có thể làm đẹp như cụ Tản Đà. Dịch theo khuôn phép đường thi thì tại hạ khoái nhất bản dịch của ông Trần Trọng San và cụ Vũ Hoàng Chương.

Ngoài ra có rất nhiều người cũng cố dịch nhưng đa số là dịch ... hạch, dịch dở như hạch.

Very ngu ... ý.:)

khờ khạo
10-13-2013, 04:49 PM
Ngoài ra có rất nhiều người cũng cố dịch nhưng đa số là dịch ... hạch, dịch dở như hạch.

Very ngu ... ý.:)

ậy ! chú tư quá lời rồi

chuyện văn chương nghệ thuật khó nói lắm, biết đâu khi chú tư hát bên quán lá cũng có người nghe không vô, nhưng họ chẳng nói hát dở như hạch là vì lịch sự đấy thôi

tư mã tai trâu
10-13-2013, 08:18 PM
ậy ! chú tư quá lời rồi

chuyện văn chương nghệ thuật khó nói lắm, biết đâu khi chú tư hát bên quán lá cũng có người nghe không vô, nhưng họ chẳng nói hát dở như hạch là vì lịch sự đấy thôi

Biết người biết ta.
Tôi biết tôi hát dở nên tôi chưa bao giờ dám chê Duy Trác hay Vũ Khanh hoặc Tuấn Ngọc và ai có nói tôi hát dở như hạch thì tôi cũng chịu thôi. Chính vì thế tôi mới chỉ dám hát ở quán lá vì mấy cô chủ quán thì lịch sự có thừa còn ai đó có vô nghe là lỗi tại họ không phải lỗi tôi:). Và chính ngay Ql tôi cũng chỉ dám nhận mình hát phụ chờ kéo màn thui mờ.
May là không có chữ hát ... hạch chỉ có chữ hát ... hỏng. :)

P.S ... wow hôm nay bên tui là thanksgiving bạn bè kéo đến nhâu xỉn quá thành ra viết lọng cọng và lung tung.

Ông khờ khạo nói đúng tui đã quá lời. Ý tôi chỉ muốn nói về những bản dịch Hoàng Hạc Lâu, so với hai bản dịch của các cụ TĐ và VHC những bản dịch khác đều không bằng. Dùng chữ dịch (như) hạch thì thật là quá lời. Thành thật xin lỗi những dịch giả.
Có thể họ dịch chỉ vì 1 niềm đam mê chữ nghĩa họ cũng biết bản dịch của họ không hay bằng bản dịch của những người khác nhưng vì niềm vui hay nỗi đam mê mà họ dịch, chỉ vậy thôi.

Thành thật xin lỗi một lần nữa.

Riêng tôi thì tôi vẫn hát dở như hạch hồi nào tới giờ rồi ... no big deal.:)

TL4
10-13-2013, 09:13 PM
Nhất ngôn ký xuất, Tư mã nan truy!:-|

ốc
10-13-2013, 10:56 PM
À, thì ra người nào có tên tuổi thì họ làm gì mình cũng phải khen, cấm không được chê. Thấy hàng hiệu thì cứ yên chí nhắm mắt mà thưởng thức.

6Quit
10-14-2013, 03:46 PM
ậy ! chú tư quá lời rồi

chuyện văn chương nghệ thuật khó nói lắm, biết đâu khi chú tư hát bên quán lá cũng có người nghe không vô, nhưng họ chẳng nói hát dở như hạch là vì lịch sự đấy thôi


Há há há …..cha khờ gan hơn tui …..:))


Để kể chuyện này mà tui chắc hầu như ai cũng biết.

Đa số người Việt mình, nhất là đàn ông, hay có cái tật “tự hào dân tộc” hay “tự cao tự đại” gì thì tui không biết, nhưng luôn luôn cho rằng mình là số một .

Đi làm trong hãng (bất cứ hãng nào) thì luôn luôn nói tôi làm giỏi nhất, không ai giỏi bằng, không có tui thì hãng phá sản.
Làm được việc gì thì nói chỉ mình tui làm được, không ai làm nổi.
Học được việc gì thì nói chỉ mình tui học được, không ai học nổi …..v.v…

Lứa tuổi cỡ tui (qua Mỹ khoảng 19,20), cái chuyện mà hầu như cha nào cũng tự hào sau 10, 15 năm ở Mỹ là : Tao nói tiếng Mỹ giỏi hơn mầy ….

Tui có thằng bạn cùng cỡ tuổi, qua Mỹ cùng năm 75, cùng làm chung sở, nói tiếng Mỹ thì dở như hạch nhưng lúc nào cũng tự hào là … tao nói tiếng Mỹ số zách ...
Làm chung có thằng Mỹ gốc Mễ (Mexican) tên Joe, cha mẹ nó là Mễ, nhưng nó sanh bên Mỹ và lớn hơn tụi tui cả chục tuổi, tiếng Mỹ của nó không bằng thằng Mỹ bản xứ, nhưng dĩ nhiên hay hơn tụi tui nhiều, nhưng thằng bạn tui không bao giờ nhìn nhận chuyện này và luôn miệng chê thằng Mỹ gốc Mễ này nói tiếng Mỹ dở như hạch …..

Mấy lần tui bảo thằng bạn: “Tao và mầy qua Mỹ đã 20 tuổi rồi, giọng mình đã cứng, tiếng Mỹ không bao giờ mất đi cái âm điệu bản xứ (native language accent) được, mầy nói tiếng Mỹ dở hơn thằng Joe nhiều, đừng có tự hào ….”

Thằng bạn tui không tin, còn đi hỏi thằng Joe: How is my English, Joe ? (Tao nói tiếng Mỹ ra sao ?)
Thằng Joe là thằng rất bụi đời và mất dạy, mấy lần nó cũng nghe được thằng bạn tui chê tiếng Mỹ của nó dở, nên nó đáp liền:
- You speak English like dog bit the cunt (Mầy nói tiếng Mỹ như chó cắn l… )
Thằng bạn tui giận lắm hỏi :
- Why do you say that ? (tại sao mày nói vậy)
- Hey, if you don’t believe me, go home and record your speech, then re-play and listen to it, you will know how good your English is. (Nếy mày không tin tao, về nhà thu lời nói của mầy rồi mở ra nghe lại, mầy sẽ biết tiếng Mỹ của mầy hay hay dở ).

Thằng bạn tui còn chưa tin, về nhà mua ngay cái máy thu băng làm liền …..Khi nó thu xong mở cho tui và nó nghe, tui cười ha hả, còn ảnh mặt mày sượng trân ……phải nói là còn tệ hơn what thằng Joe said ….:)):))

RaginCajun
10-15-2013, 06:21 AM
Tớ thì lại được mấy thằng Mỹ làm chung khen là giọng mày dạo này có tiến bộ. Tớ trả lời "là tụi bay nghe quen, chứ tiến bộ quái gì" :P

Đậu
10-15-2013, 06:36 AM
Em không biết chữ Tầu viết ra răng, không biết bến Hán Dương ở nơi mô, lại chả biết cỏ Anh vũ nom ra thao nên em chả thấy bài thơ "Hoàng Hạc Lâu" nguyên bản hay ở chỗ nào. Có nhẽ cái câu "xấu đẹp tùy người đối diện, ngon dỡ tùy mồm thực khách" là đúng. Đúng muôn năm.

Triển
10-15-2013, 09:23 AM
Tớ thì lại được mấy thằng Mỹ làm chung khen là giọng mày dạo này có tiến bộ. Tớ trả lời "là tụi bay nghe quen, chứ tiến bộ quái gì" :P

Làm chung nhiều năm mà dưng giờ mới khen thì chắc chắn sau đó mượn tiền hoặc có điều cậy nhờ chứ gì? ;)