PDA

View Full Version : BÁT NHÃ TÂM KINH - Dịch và chú giải



khúc dương
05-09-2015, 11:46 PM
Bài này được trích từ quyển sách LỜI PHẬT DẠY (KINH PHÁP CÚ - THE DHAMMAPADA SUTRA) do LS Đinh Sĩ Trang biên soạn.

Nguyện đem công đức ghi chép bản dịch và chú giải này hồi hướng đến tất cả các anh linh tử sĩ, chiến sĩ trận vong cùng tất cả đồng bào đã bỏ mình vì tự do, nhân quyền cho Việt Nam trước và sau 30/4/1975. Hồi hướng đến tất cả quân, dân, cán, chính, đồng bào bị tù đày chết chóc, tử nạn trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do sau ngày 30/4/1975.

Kính,




https://www.youtube.com/watch?v=XdPFbF57w1M

khúc dương
05-09-2015, 11:49 PM
BÁT NHÃ TÂM KINH
PRAJNA PARAMITA SUTRA

Cụ CHÁNH TRÍ - MAI THỌ TRUYỀN dịch và giảng giải.

Lời giới thiệu: BÁT NHÃ TÂM KINH



"Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa", nghĩa là "Kinh với Trí Huệ đưa người qua bờ bên kia" là bộ Kinh Đại Thừa với nội dung có mục đích hướng dẫn người tu đạt được trí Bát Nhã.

Đây là bộ kinh ngắn nhất của Phật Giáo Đại Thừa, vì chỉ có 260 chữ, nhưng là cốt lõi của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.

Về phương diện văn từ thì kinh này rất giản dị, nhưng về ý nghĩa thì thật là sâu sắc, cho nên " Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh" không phải dễ giải. Hiện tại có khá nhiều bản dịch và chú giải kinh này sang tiếng Việt. Nhưng theo sự thấy biết hạn hẹp của chúng tôi thì bản dịch của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là rất đầy đủ và dễ hiểu, nên chúng tôi xin mạn phép in lại tóm tắt sau đây để cống hiến quý vị độc giả, trước là làm tài liệu tham khảo, sau là để hiểu thêm ý nghĩa của kinh.

Trân trọng.
Đinh Sĩ Trang

(trích)

khúc dương
05-09-2015, 11:54 PM
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA TÂM KINH
(Hán văn)

Quán-tự-tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư pháp Không-tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố, Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý-thức giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc, cố Bồ-đề tát-đoả y Bát nhã Ba-la-mật-đa, cố tâm vô quái ngại. Vô quái ngại, cố vô hữu khũng bố, viễn ly điên đảo, mộng tưỡng, cứu cánh Niết bàn.

Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cố đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết :
"Yết-đế, yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba-la tăng-yết-đế, Bồ-đề tát-bà-ha.

---------------------------------------------------------------

TÂM KINH BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
(Dịch nghĩa)

Khi ngài Quán-tự-tại Bồ-tát thực hành sâu xa pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

Này ông Xá Lợi Phất ! Sắc chẳng khác gì Không, Không chẳng khác gì Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.

Này ông Xá Lợi Phất ! Tướng Không của mọi pháp, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

Cho nên trong "Chân Không" không có Sắc, không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý-thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết cái già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí-huệ cũng không có chứng-đắc.

Vì không có chổ chứng-đắc, nên Bồ-tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại.

Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà được đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Cho nên biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không sai.

Vì vậy nói ra bài chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Liền nói bài chú ấy rằng : "Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát-bà-ha."

khúc dương
05-10-2015, 12:00 AM
Chương 1


TÊN KINH VÀ Ý NGHĨA


Kinh mang tên nữa Hán nữa Phạn.
Phần Phạn văn là : Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Phần Hán văn là : Tâm Kinh.

Ma-Ha (maha) nghĩa là Lớn.
Bát-nhã (prajnà) nghĩa là Trí huệ
Ba-la-mật-đa (paramita) là "tới bờ bên kia"
Tâm kinh có nhiều nghĩa, tuỳ người giải.
Ở đây xin tạm hiểu là "Kinh tâm yếu" (của bộ Đại Bát Nhã).

Vậy trọn tên kinh có nghĩa : Kinh trọng yếu nói về cái Trí-huệ lớn có năng lực đưa người sang đến bờ bên kia.

***

Theo Đại sư Trí-Giả của Tông Thiên Thai (Trung Hoa) thì Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh thuộc về loại thuần lý, không có những sự tướng như nhân vật hay sự tích xen vào.

Vậy có thể nói kinh này là một bài triết học mà mục đích là trình bày một vấn đề triết học trên hai phương diện lý thuyết và kết quả.

***

CHỦ YẾU CUẢ KINH

Trước khi bắt đầu giải kinh, nghĩ chúng ta nên biết chủ yếu của Kinh. Như đã nói, Tâm Kinh, cũng nhưng nhiều kinh khác cùng trong một trường hợp, có thể ví như một bài triết học, dài vắn không chừng, nhưng mục đích không ngoài việc bàn rộng một đề tài được nêu ra, hoặc rõ ràng hoặc thâm kín.

Đề tài ở đây là gì ? Là "Bát-nhã Ba-la-mật-đa" hay "cái Sáng suốt có thể đưa người tới bờ bên kia", hay nói theo Đàm Hư Đại Sư, cái "Sáng suốt triệt để".

Cái sáng suốt ấy như thế nào ? Không thể nói được, vì nó không hình, không tướng. Không thấy được, không thể tả được, nhưng có thể biết nó có và như thế nào, xuyên qua các công dụng của nó.

Thật vậy, đố ai biết lòng lành (thiện tâm) là gì, nhưng biết có nó là nhờ ở việc làm của người sẵn lòng chia cơm xẻ áo; việc làm ấy là cái dụng của Thiện tâm.

Vậy công dụng của Bát-nhã như thế nào ? Theo Tâm-Kinh thì công dụng ấy là làm cho Bồ tát thấy "năm uẩn đều không".

Biết được năm uẩn đều không thì thoát được những "đắng cay, khổ nạn", y như câu đầu kinh nói : "Quán-tự-tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách".

Vậy tu tập cho có được "Bát-nhã" là vì cái lợi ích giải thoát.

Thấy năm uẩn đều không nghĩa thế nào?

Năm uẩn là : Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

Sắc uẩn chỉ cái thân xác thịt, vật chất, còn bốn uẩn sau (cảm giác, tư tưởng, tính toán, nhận biết) hợp lại làm phần tinh thần của con người. Vậy ngũ uẩn là một danh từ dùng chỉ "con người", hay rộng ra là chỉ toàn thể nhân loại. Đối với chúng ta, người là vật "thật có", "ta" là "thật có", vậy ngũ uẩn là "thật có", nhưng Phật bảo "thật không" (chiếu kiến ngũ uẩn giai không).

Quả là hai nhận xét trái ngược nhau, đưa đến hai ảnh hưởng cũng trái ngược nhau. Vì chúng ta nhận ngũ uẩn là thật có, nên chúng ta khổ. Phật và các vị Bồ tát, nhờ sáng suốt triệt để, thấy năm uẩn đều không, người cũng không mà ta cũng không, nên hết khổ não.

Ta đã là ta, thì ta không phải là người khác, và mỗi người khác cũng tự thấy mình là một cái "ta" riêng biệt, không giống một ai và cũng không có một cái gì chung với người khác, với những cái "ta" khác. Trên mặt đất này, có bao nhiêu triệu người là có bao nhiêu triệu cái "ta" riêng biệt. Đã là riêng biệt thì mạnh ai nấy lo cho mình; lòng ích kỷ do đó mà nẩy sanh. Mà ích kỷ là gì, há không phải là những ý nghĩ, lời nói, việc làm, quy về có một mục đích là bảo tồn sự sinh sống của cái "ta", và hơn nữa, làm sao cho sự sinh sống ấy được êm đẹp, sung sướng càng nhiều càng hay, còn lại những cái "ta" khác thế nào mặc kệ ! Lòng ích kỷ quả là lòng tham không đáy. Có tham là có tranh thủ, dành cái sướng cho mình, để cái không sướng cho người.

Mong mà được thì vui, mong mà không được thì buồn, được rồi sợ mất nên lo, sợ mà vẫn mất, cái lo trở thành cái khổ. Lắm khi quá bất đắc chí lại sanh giận, trách trời, oán người. Tham lam như thế, oán giận như thế, là tại si mê, là tại tối tăm, không thấy, không biết sự thật. Mà càng si mê, cái tham, cái giận càng tăng, mà tham giận càng tăng, si mê lại càng sâu, như con tằm càng nhả tơ, cái kén càng dày, mà cái kén càng dày thì cái tối trong lòng kén càng tăng.

Tham, giận và vô minh là ba chứng bệnh căn bản của nhân loại, của chúng sanh mà Phật giáo quả quyết là nguồn gốc của đau khổ. Cái nguồn đã biết, nếu làm cạn được nguồn ấy thì mạch khổ tự nhiên hết chảy. Phật giáo có nhiều phương cách làm cạn nguồn khổ, gồm lại trong thuyết "Bát Chánh Đạo" là tám con đường chánh.

1. Chánh kiến (thấy đúng).
2. Chánh tư duy (nghĩ đúng).
3. Chánh ngữ (nói đúng).
4. Chánh nghiệp (làm đúng).
5. Chánh mạng (sống đúng).
6. Chánh tinh tấn (siêng cần đúng)
7. Chánh niệm (tư tưởng đúng).
8. Chánh định (chú ý đúng).

khúc dương
05-10-2015, 07:57 PM
Tuy là tám, nhưng quan trọng nhất là Chánh Kiến. Thật vậy, nếu thấy sai, như thấy sợi dây nằm cong queo dưới đất mà cho là con rắn, thì tức nhiên phải nghĩ sai, nói sai, làm sai.

Tâm Kinh giúp chúng ta có Chánh Kiến nhờ Trí Bát nhã. Chánh Kiến là chìa khoá mở cửa địa ngục Tham, Sân, Si, để giải thoát chúng ta ngay trong đời sống hiện tại.

Phật sở dĩ thành Phật là nhờ thấy đúng. Chư Bồ tát sắp đạt đến ngôi vị Phật là nhờ tập thấy đúng và lần hồi thấy đúng cho tới mức triệt để. Nhưng thế nào là thấy đúng? Đúng với cái gì ?

Đúng "như thị", nghĩa là vạn vật như thế nào, mình phải thấy như thế ấy, như sợi dây là sợi dây, đừng mê lầm mà thấy là con rắn.

Đồng một đại ý, Đại sư Suzuki nói :

"Trạng thái tự tại chỉ thực hiện được khi nào ta không để cho những tư tưởng thuộc về ta, tức là ngã chấp, xen vào trong sự giải thích việc đời, và khi nào thế giới như thế nào ta thấy như thế ấy, chẳng khác mãnh gương kia; gặp hoa thì rọi hình là hoa, gặp mặt trăng thì rọi hình là mặt trăng. Đó là nghĩa của hai chữ "như thị" thường thấy trong kinh điển, mà ý nghĩa được xác nhận thêm trong câu : Việc đời và thế giới như thế nào, đức Phật nhận y như thê ấy, không tìm cách giải thích theo óc tưởng tượng của ngài. Và như thế có phải hay hơn là gán cho sự vật những cái ý nghĩa, những cái giá trị mà chúng không có ? Như cảnh vật là cảnh vật, cớ sao ta lại bảo là có cảnh vui cảnh buồn ? Phải chăng là tại ta đa sự, đem cái buồn cái vui của ta mà gắn cho cảnh để rồi lên án cảnh ? Cũng như người là người, tại sao ta lại chia có kẻ thân người sơ, để rồi ghét sơ mà thương thân ? Lại nữa có hai cái miệng cùng hả, cùng la, nhưng cái thì ta cho là ca hay, hát ngọt, còn cái thì ta cho là mắng chửi đinh tai. Nếu ta " như thị quán ", ta sẽ cười cho cái thấy không đúng của ta. Cái mà ta thích và gọi là tiếng ca với cái mà ta không thích và gọi là tiếng mắng, đều là tiếng, là âm thanh cả, vậy hơn kém nhau chổ nào, há không phải ở cái nghĩa, cái giá trị ta tự ban cho những tiếng ấy sao ?

khúc dương
05-10-2015, 08:07 PM
Vì thấy như thật, vì vật thế nào thấy như thế ấy nên Bồ tát thấy tất cả sự vật không phải thường còn mà cũng không phải không thường còn, không phải khổ mà cũng không phải vui, không phải có ta, mà cũng không phải không có ta, không phải "có" mà cũng không phải "không". Thấy như thế gọi là thấy với cái "tâm vô phân biệt", với cái tâm hết "vọng tưởng", với cái tâm hết "khởi niệm" nghĩa là không còn nghĩ tưởng gì hết.

Như trên đã nói, Chánh Kiến là đúng "như thị", vạn vật thế nào phải thấy như thế ấy, đừng tô son bôi lọ, đừng lên án, đừng bình phẩm. Phải thấy thấu tới cái Thực tướng của vạn vật, đó là chủ yếu của Tâm kinh.

Thực tướng của vạn vật là cái tướng chân thật của chúng.

Đại thừa Phật Giáo quả quyết vạn vật có hai tướng, một bề ngoài, một bề trong. Cái tướng bề ngoài là cái tướng chúng ta dùng ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) mà nhận, mà tiếp xúc được, hay dùng cái quan thứ sáu lá Ý mà xét được.

Tướng bề ngoài là gì ?

Chúng ta hãy lấy một thí dụ. Chúng ta có một số chai, hũ, vò, ghè, ly, chén, tô ..v.v.. trong đều đựng một thứ nước. Cái hình tướng bề ngoài của những vật ấy thì tròn, vuông, dẹp, ba góc, sáu góc, cao, thấp, sai khác nhau. Không cái nào giống cái nào, do đó mà chúng có những tên cũng sai khác nhau.

Nhưng trong những cái sai biệt bề ngoài ấy, có một cái chung cho tất cả, đó là nước. Ở đây, nước là cái tướng bề trong chung cho những cái vật chứa đựng nó, có tên là chai, hũ, vò, ghè v.v... Vì cái tướng bề trong ấy là một, không hai, nên gọi là "nhứt bổn" (một gốc).

Vạn vật trong thế gian, trong vũ trụ, cũng gần như thế. Tất cả đều chung có một cái tướng bề trong, ẩn nấp trong những cái tướng bề ngoài mà chúng ta đặt tên cho là mặt trời, mặt trăng, tinh tú, trái đất, cầm thú, thảo mộc, nhân loại ..v.v... Những cái tướng bề ngoài đó là những chai, hũ, vò, ghè v.v.. trong thí dụ trước. Chúng sai khác nhau, và ai cũng trông thấy, cũng nhận được. Đến cái tướng bề trong thì không một ai trông thấy, trừ những bậc có một trí tuệ triệt để (bát nhã ba la mật đa), vì tướng đó không hình, không sắc, do đó nên gọi là "tướng Không".

Tuy "Không", nhưng tướng ấy mới là tướng chân thật (Thực tướng) của vạn vật, còn cái tướng bề ngoài mà chúng ta ai cũng thấy lại là cái tướng giả dối.

Đạo Phật cho cái tướng bề ngoài là giả vì nó biến đổi từng giây, từng phút, rồi cuối cùng lại tiêu tán trong không gian và thời gian. Trái lại với cái tướng không hình sắc, không thấy kia mới là chân thật, vì đời đời kiếp kiếp, từ không biết hồi nào đến bây giờ, và từ đây cho đến không biết chừng nào cho cùng tận, nó như thế mãi, không thêm, không bớt, không trẻ, không già, không sanh, không diệt.

Cái tướng dị kỳ ấy là gì ?

Đó là cái gì vừa linh động, vừa sáng suốt hiểu biết, ở mỗi vật, ở mỗi người.
Linh động là sự sống.
Sáng suốt, hiểu biết là Trí Huệ, là Tâm.
Đó là nghĩa của danh từ "Thực tướng" hay "Không tướng" trong Tâm Kinh.

Sống trong thế gian, chúng ta đeo đuổi theo những cái sai khác bề ngoài để chia rẻ, để lấy bỏ, để thương ghét v.v...làm cho đời đã đắng cay càng đắng cay thêm. Phật thấy rõ cái tướng bề trong duy nhất cho tất cả, nên Phật không còn bị cái bề ngoài lừa gạt, không còn chia rẻ, lấy bỏ, ghét thương, nên Phật hết chịu đắng cay.

Trong kinh Bát Nhã này, Phật đem cái rõ ấy dạy cho đời, đồng thời Phật chỉ cái công dụng, cái lợi ích về mặt lìa khổ để được vui của "Bát nhã".

Đến đây, có thể nói là chúng ta đã minh định xong phần chủ yếu của Tâm Kinh và cũng đã có một vài xác nhận về ý nghĩa của những danh từ dùng trong kinh. Từ đây chúng ta sẽ đi sâu vào nội dung.

Điều cần thiết nên lập tâm ngay bây giờ, là phải cố hiểu kinh theo cái thấy, cái hiểu của Phật. Đừng thấy, đừng hiểu theo lối phàm phu của chúng ta. Sự cố gắng ấy thật là khó, vì ngược với thói quen, với quan niệm, với sự hiểu biết xưa nay của chúng ta. Nhưng có đi ngược mới thấy được sự thật. Chúng ta đã bỏ cả ngày, cả tháng để nghĩ những nước cờ, nước bài hay, chắc chúng ta không ngại gì mà không bỏ mỗi ngày mười lăm hai mươi phút để suy nghiệm những lời Phật dạy.

khúc dương
05-12-2015, 09:55 PM
Chương 2

NỘI DUNG

Chúng ta đã thí dụ Kinh Bát Nhã như một bài triết lý mà đề tài là "Bát-nhã Ba-la-mật-đa". Nhưng trái với thông lệ, ở đây không phải một đề tài để thuyết minh, mà cũng không phải là một luận án để bênh vực, hay một ức thuyết, một giả thuyết hay một nghi vấn để chứng minh, để giải quyết. Từ đầu đến cuối bài, toàn là những quyết đoán mà tự ý người đọc muốn lấy cũng được, muốn bỏ cũng được.

Nói quyết đoán là khi nào chuyện mình nói đúng với sự thật một trăm phần trăm, dù ai có tin hay không tin cũng mặc. Tại sao? Vì tin, chuyện ấy cũng như thế, mà không tin, nó cũng như thế, biện minh làm gì? Đó là tính cách của toàn bài Kinh mà mỗi câu là một sự quả quyết về Sự Thật mà một hạng người phi phàm gọi là "Bồ tát quán tự tại" đã nhận thấy nhờ các ngài có một lối thấy sáng suốt và bình tỉnh lạ lùng. Có thể ví các ngài như những nhà thám hiểm cung trăng thuật lại những gì họ đã thấy trên đó. Ta không tin, đó là quyền của ta, các nhà thám hiểm kia không làm thế nào cho ta đổi ý được, vì làm sao minh chứng những cái mà chính mắt họ đã trông thấy rõ ràng, nhưng khốn nỗi, không có ở thế gian, và vượt khỏi tầm nhận xét hay quan niệm của người đời? Muốn biết các nhà thám hiểm nói đúng hay sai, chúng ta phải như các ông ấy, lên tận cung trăng. Ở đây cũng vậy, chúng ta phải cố bay lên thượng từng không khí Trí Huệ mà các Bồ tát quán tự tại đã ngao du, đã quan sát mới mong hiểu các ngài. Chuyện ấy không phải dễ. Nhưng không lên được tới mức của các ngài, chúng ta cũng phải cố vươn mình, ngóng cổ dòm lên, hoạ may chúng ta mới thấy một phần nào những cái thấy của các ngài.

Đa số những nhà chú giải Tâm Kinh đều cho "Bồ tát quán tự tại" là "Quán Thế Âm Bồ Tát". Bảo như thế sợ không đúng lắm, dù rằng hễ "quán thế âm" được thì "quán tự tại" được luôn.

Ngài Tịnh Mại đời Đường, trong quyển "Bát Nhã Tâm Kinh Sớ" chủ trương rằng "quán tự tại" là một đức không phải chỉ riêng vị Bồ Tát đứng hầu phía tả đức Phật A Di Đà mới có, mà chung cho tất cả các Bồ tát từ sơ địa trở lên.

Tôi rất đồng ý với ngài Tịnh Mại về chỗ danh từ "Quán tự tại" không phải riêng chỉ Bồ tát Quán Thế Âm, nhưng tôi không dám quả quyết như ngài rằng hễ vào sơ địa là có cái khả năng "quán tự tại". Tôi tin rằng ngoài Bồ tát Quán Thế Âm, còn có nhiều vị Bồ tát khác đã được ngao du trên cái thượng tầng không khí nói lúc nãy, và như vậy, đã cùng "quán tự tại" như nhau.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại nội dung Kinh, tức là những quyết đoán đã nói ở phía trước.

khúc dương
05-12-2015, 10:00 PM
Bây giờ chúng ta hãy trở lại nội dung Kinh, tức là những quyết đoán đã nói ở phía trước.

1. Quyết đoán thứ nhứt :

Quyết đoán này nằm trong câu đầu của bài Kinh : "Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không", mà tôi xin tạm dịch cho dễ hiểu như sau : "Tất cả những gì do vật chất và tinh thần (ngũ uẩn) tổ hợp mà thành, đều là "Không". Đó là một sự thật mà hàng Bồ tát Quán tự tại đã nhận thấy khi các ngài đi sâu vào con đường quan sát sự vật bằng đôi mắt sáng suốt triệt để"

2. Quyết đoán thứ nhì :

Lời quyết đoán thứ nhì là : "Độ nhứt thiết khổ ách". Ở đây Kinh chỉ cái công dụng của sự nhận xét lạ lùng ấy là : "Vượt qua tất cả mọi sự khổ não, ách nạn".

3. Quyết đoán thứ ba :

Trong lời quyết đoán thứ ba này, Kinh chỉ cái tương quan giữa Ngũ Uẩn và "Không" tức là giữa những cái chúng ta cho là "Có" và cái "Không".

Không với Có, theo chúng ta, là hai cái chống đối và cách biệt nhau, nhưng Kinh bảo : "Sắc bất dị Không; Không bất dị sắc; Sắc tức thị Không; Không tức thị sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị". Nghĩa là : "Năm Uẩn không khác cái Không; cái Không không khác Năm Uẩn; những cái này là cái kia, cái kia là cái này" .

4. Quyết đoán thứ tư :

Năm Uẩn chúng ta đã biết và cũng hiểu là gì rồi. Còn Không là thế nào ? Kinh bảo : Thị chư pháp "Không - tướng" bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Đây là một lời quả quyết khác mà chúng ta phải tìm hiểu và xin dịch như sau :

"Cái tướng Không của muôn sự muôn vật không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt" , nghĩa là trước sau như một, không biến đổi, không bị không gian và thời gian chi phối.

Tới đây chúng ta tạm ngưng việc kể những quyết đoán kế tiếp, để tìm hiểu những gì Kinh nói. Có hiểu được đoạn đầu nầy mới mong hiểu được phần sau.

Điều chúng ta nên ghi nhớ thứ nhất là lối nhận thấy của các vị Bồ-tát quán-tự-tại không giống lối nhận xét của chúng ta. Chúng ta nhận thấy bằng mắt thịt, các ngài nhận thấy bằng mắt Bát nhã Ba la mật đa, tức là bằng mắt trí huệ sáng suốt triệt để. Hai lối quan sát đã khác, lẽ tất nhiên kết quả cũng trái ngược : Chúng ta thấy có, các ngài thấy không.

Cái gì có ?

Năm Uẩn là có, mà Năm Uẩn là thành phần căn bản của con người, của cái "ta" , của vạn vật, vậy đối với chúng ta, "Có" là vạn vật, là "ta", là con người.

Nhưng cái Có ấy phải "thật có" chăng ?

Chúng ta quả quyết là thật có vì chúng ta, nếu không lấy được, ngữi được, thì cũng nếm được, sờ được. Nhưng nếu thật có, tại sao có vật thấy đó rồi lại mất đó, vừa thấy dơ rồi lại sạch, hay vừa sạch rồi lại dơ, mới thấy đầy đó rồi lại lưng vơi, hay mới lưng vơi đó rồi lại đầy? Hãy lấy ta làm thí dụ. Hãy lấy những cái "ta" hồi mới sanh, hồi 5 tuổi, 20 tuổi, 50 tuổi mà xét. Bất luận vào tuổi nào, hễ cái "biết" nẩy nở nơi ta thì ta luôn luôn vỗ ngực xưng : Ta đây.

Sao chúng ta lại có nhiều cái "ta" như thế? Và cái nào thiệt là "ta". Nếu cái "ta" của lúc 5 tuổi thiệt là "ta", vậy cái "ta" của lúc mới sanh là gì? Rồi đến khi 20, 50 tuổi sẽ có những cái "ta" khác nữa! Như vậy quả có nhiều cái "ta" và không có cái nào thiệt cả.

Đem lối xét nầy mà áp dụng cho tất cả sự vật khác, dầu thuộc vật chất (sắc pháp), dầu thuộc tinh thần (tâm pháp), kết quả đều như thế cả : Có là giả có, không phải thiệt có. Vậy cái gì thiệt có?

khúc dương
05-14-2015, 09:51 PM
Cái "Thiệt Có" là "Không"

Cái Thiệt Có đã là Không, thì cái Không nầy nhất định không phải là không-ngơ, (ngoan không hay ngoan hư không), vì nếu thiệt là không-ngơ thì có gì mà bảo là Thiệt Có được? Cũng không phải là cái Không của người bảo chết là hết, là không! Cũng không phải cái không của suy luận, theo thuyết giả danh. Thí dụ chúng ta nói cái xe, nhưng cái xe thật sự là cái gì, và đố tìm ra cái xe ngoài những bánh, thùng, gọng v.v... Hay chúng ta nói "con người", nhưng con người là cái gì thử chỉ xem, trong khi sự thật là bao xương thịt kết cấu với một mớ tình cảm, tư tưởng .... vậy thôi! Vậy những cái mà chúng ta gọi là xe, là con người, toàn là giả danh, không có thật, là "Không". Nhưng cái "Không" nầy cũng không phải là cái "Không" đề cập trong kinh Bát Nhã.

Vậy cái Không mà Thật Có nầy là một cái gì chúng ta chưa khám phá ra được, mà dầu có khám phá ra được, cũng không biết gọi thế nào cho đúng, nên tạm đặt cho nó cái tên "Không", để chỉ rằng cái ấy khác với cái "Có" của thế tình.

Vì Không mà Thật, nên gọi là "Chơn Không".

Vì Không mà lại Có, nên gọi là "Diệu Hữu", một cái "Có" lạ lùng, bí hiểm, huyền diệu.

Trong cái trứng, đố ai tìm ra con gà, thế mà từ trong cái trứng lại xuất hiện một con gà. Phải chăng con gà là cái "Có" do một cái "Không" mà ra, nghĩa là do một cái gì mình không thấy được. Vậy phải chăng trong cái "Không" ấy có con gà, nhưng có một cách thần diệu lạ lùng, không thể nghĩ bàn.

Không có cái "Không" kỳ diệu ấy thì không có gì hết. Vậy giữa Không và Có quả có một sự tương quan mật thiết, hay để nói cho đúng, tuy hai mà một, vì như Kinh đã nói: Có tức là Không, Không tức là Có.

Cái Một ấy khi ẩn và tĩnh, là Không, mà hễ nó hiện và động là Có.

Tại sao biết "Ngũ Uẩn đều không" thì lướt qua mọi khổ ách?

Như đã nói, Ngũ Uẩn là thân và tâm, hay là "con người", một cá thể do vật chất và tinh thần hợp thành, hoặc nói rộng ra, là vạn vật trong vũ trụ, vì vạn vật cũng thế.

Tại sao hễ biết Ngũ Uẩn đều "Không" thì lướt qua mọi khổ ách? Ngài Minh Chánh thiền sư đáp: " Biết con người không thật có, cái "ta" không thật có, thì còn ai đâu mà thọ khổ? Huống chi khổ ách cũng "Không" như cái "ta", thì làm gì mà không lướt khỏi? ".

Chúng ta thử hiểu theo một lối khác.
Tất cả những phiền não, lo nghĩ, khổ sở của chúng ta do đâu mà ra, há không phải do cái thân ngũ uẩn mà chúng ta lầm tưởng là "ta" mà ra ư? Thân kêu đói, chúng ta tưởng lầm là "ta thật" đói, thân đòi xem hát, chúng ta cũng tưởng lầm là "ta thật" thèm xem hát. Gặp việc trái với thói quen, với quan niệm, với thành kiến của chúng ta, chúng ta giận và tin rằng "ta thật" giận, nhưng thật ra đó chỉ là một phản ứng hoặc của cơ thể, hoặc của thói quen, và không can cập gì đến cái "ta thật" hết.

Một tu sĩ Ấn-độ giáo, ngài Vivekananda có thuật một câu chuyện ngụ ngôn cổ như sau: Một con sư tử cái có mang gần ngày sanh, nằm đói xếp ve trong bụi rậm đã mấy ngày. Một đàn cừu đi ngang. Mừng quá, sư tử cái thu hết tận lực lao mình vào đàn cừu. Không dè vì nhảy quá mạnh, chị ta sảo thai và ngã chết. Sư tử con được đàn cừu nuôi dưỡng. Từ ấy, cho đến trưởng thành, sư tử con sống đời sống của cừu, ăn thì ăn cỏ, kêu thì be be. Một hôm, một con sư tử già đi kiếm mồi, khi gặp đàn cừu và vừa muốn ra tay thì cả đàn hoãng hốt phát chạy như giông. Sư tử già dợm đuổi theo bổng thấy trong đám cừu có một sư tử. Hết sức ngạc nhiên, sư tử già cất tiếng kêu. Nhưng anh càng rống, đàn cừu càng chạy bay, luôn cả cái chú sư tử nhỏ thấy trong bầy.

Sư tử già lập tâm khám phá cho ra cái bí mật nầy. Tình cờ một hôm anh ta gặp chú sư tử con nằm ngủ một mình dựa khe suối. Nhón gót lại gần, và để cho chú chàng đừng kinh khủng, sư tử già mới thò miệng vào tai nói nhỏ: "Mầy là sư tử, sao lại làm thói cừu non như vậy?" Chú chàng tỉnh giấc, mở mắt thấy ông đầu xồm, run lên như cầy sấy: "Lạy ông tha cho, tôi chỉ là một cừu non vô tội". Sư Tử già bèn lôi chú chàng đến sát mé khe và bảo:

"Mầy thử ngó xuống nước coi!" Chú chàng nhướng đôi mắt nom. Quái! Sao mình cũng giống đầu bờm, cũng nanh nhọn, oai phong lẫm liệt như ông tướng nầy ? À! đúng rồi, mình là sư tử chớ đâu phải cừu. Nghĩ tới đây, sư tử cừu ta gầm lên một tiếng chuyển động núi rừng rồi nhảy một cái vào rừng.
Thôi rồi đời sống cừu con!

Toàn thể chúng ta là sư tử mà vì cứ lầm tưởng mình là cừu nên bấy lâu nay đã sống đời cừu. Cứ ngó xuống dòng nước Bát Nhã, sẽ thấy mình không phải cừu phàm phu ngũ uẩn, sống trong sợ hãi ưu phiền, mà là sư tử Phật tánh Chơn không, chúa tể sơn lâm vũ trụ, không gì làm mình phiền sợ được. Hết phiền sợ, mà không bảo là "độ nhứt thiết khổ ách" thì bảo là gì?

khúc dương
05-16-2015, 09:19 PM
Tại sao Sắc không khác Không, Không không khác Sắc.
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như vậy?

Đã nói cái Có (ngũ uẩn) là do cái Không mà ra, thì Không là căn bản, là nguồn cội, là bản thể của cái Có.

Không có cái "Không" thì không có cái "Có". Có cái "Có" là vì có cái "Không".

Nhưng vì có thể có hai vật không khác nhau mà vẫn riêng biệt nhau nên Kinh lại thêm hai câu sau để chỉ, chẳng những không khác, mà cái nầy còn là cái kia và cái kia là cái nầy (Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc).

Phàm phu cho sóng là sóng, là một vật riêng biệt và Thực Có, không dè nó là một bóng dáng, một cái gì giả dối nhất thời. Tuy nhiên toàn những cái giả dối ấy đều là nước, vì sóng không khác với nước, cũng như Sắc bất dị Không.

Theo Đàm Hư Đại sư, Sắc (hay Sắc-Trần) là cảnh vật trước mắt chúng ta, ai cũng thấy, sao lại nói "Sắc" không khác với "Không"?

Chúng ta đều đồng ý với nhau mà nói mắt thấy vật, không dè tự nó, mắt không thấy gì hết. Sở dĩ chúng ta thấy đuợc vật nầy vật nọ là nhờ một cái khả năng của chúng ta là "tánh thấy". Nếu thật mắt thấy, sao mắt người mới chết, tuy còn nguyên vẹn, mà không thấy gì hết? Người chết, tuy còn mắt mà không còn thấy là vì cái "tánh thấy" ở người ấy đã lìa xác thân rồi. Nhưng cái "tánh thấy" ấy nó là gì, nó ở đâu? Không thể chỉ được, không thể nói được, chỉ suy nghiệm mà biết thôi vì nó không hình không tướng. Vậy nó thuộc về cái thể Không, hay nói cách khác, tánh thấy là một khả năng, một đặc tánh của cái "Không" nói trong Tâm Kinh.

Tâm ta có thể ví như tấm gương, tánh thấy ví như ánh sáng của gương. Ta nói ta thấy, thật ra không có cái thấy thật, mà chỉ có vạn vật soi bóng vào tấm gương lòng của ta mà thôi, cũng như vạn vật soi bóng vào tấm gương thuỷ tinh. Có soi được là nói có thấy, nhưng soi đuợc hay không soi được là tuỳ có vật hay không có vật, như ông thầy chữa mắt, muốn biết ta thấy hay không thấy, phải đưa bàn tay của ông ra trước mắt ta và hỏi ta có thấy hay không? Vậy "Tánh thấy" tuỳ vật mà hiện ra cái tác dụng của mình, cũng như vật phải tuỳ vào tánh thấy mới phô bày hình dáng của nó được. Nói cách khác, cái thấy, thật ra là kết quả của sự tương phản giữa tánh thấy và vật, bên nầy chiếu qua, bên kia chiếu lại, mới nảy sinh ra cái mà chúng ta gọi là thấy.

Vậy tuy chia có Tánh thấy và Sắc vật, nhưng hai cái nầy không thể tách rời ra, vì cái nầy nằm trong cái kia, cái kia nằm trong cái nầy. Nhận có muôn vật là đồng thời nhận có Tánh thấy, mà bàn đến Tánh thấy là đồng thời cũng nhận có muôn vật. Nay đã thấy cái thể của Tánh thấy là Không, thì sắc vật kia nằm trong Tánh thấy cố nhiên phải cùng một thể là Không. Do đó Kinh nói: Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.

Xét đến bốn uẩn khác là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cái lý cũng như vậy. Tại sao ? Tại vì có thân là Sắc, mới có cảm giác, tư tưởng, lo nghĩ và hay biết. Nay thân (Sắc) đã Không thì bốn cái tuỳ thuộc kia của thân làm gì chẳng Không luôn? Bởi vậy nên Kinh nói: Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

Triển
05-16-2015, 11:34 PM
Tại sao Sắc không khác Không, Không không khác Sắc.
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như vậy?

Đã nói cái Có (ngũ uẩn) là do cái Không mà ra, thì Không là căn bản, là nguồn cội, là bản thể của cái Có.

Không có cái "Không" thì không có cái "Có". Có cái "Có" là vì có cái "Không".



5 Triển gạt giò anh Khúc Dương phần 1:

=> Cái KHÔNG không thật sự có, thì làm sao là bản thể của cái CÓ?
Một cái giả lập (CÓ) thành lập, xây dựng trên một cái giả lập khác (KHÔNG) kết quả là sự không thành thật chăng?


Ví dụ:
5 Triển mơ mộng là tổng thống (Không phải tổng thống thật, ba xạo thôi, cái KHÔNG thiệt bự),
5 Triển phang đại là tổng thống nước Cộng Hòa Nổ Chết Người.
Anh Khúc Dương thình kinh đi ngang Cộng Hòa Nổ Chết Người quốc, tổng thống quốc gia này là 5 Triển ký cho cái văn thư đã có đi ngang đây, có chữ ký hẳn hòi và con dấu tổng thống chế ra (CÓ, cái CÓ hẳn hòi xây trên cái KHÔNG tưởng tượng). Anh Khúc Dương đi tiếp và đi đến đâu cũng khoe có chứng từ (CÓ) do tổng thống 5 Triển (tự phong, giả lập, KHÔNG có) của nước Cộng Hòa Nổ Chết Người (giả lập, cái KHÔNG) cấp cho.
Tờ chứng từ quả thật cầm trên tay (CÓ, giấy trắng mực đen, sờ mó vật lý hẳn hòi), con dấu đóng lên cũng là mực lem vật lý rõ ràng, nhưng tổng thống là chức ba xạo, nước Cộng Hòa Nổ Chết Người cũng là mộng tưởng, không có trên bản đồ, phạm vi chỉ là dốc láo ở ngã ba cây ngò thôi. Vậy thì cái CÓ kia là "ngụy dẫn", vì đặt trên nền tảng KHÔNG CÓ, không còn giá trị nữa. Nói chung là cái chứng từ của anh Khúc Dương là 'hàng nhái', 'bằng giả'.

Cái KHÔNG của ví dụ trên có thật là bản chất của cái CÓ trong ví dụ bên trên hay không, khi cái KHÔNG được gọi là "căn bản" đó lại không thật CÓ? Suy ra là có hay không có cái KHÔNG, cũng sẽ không có cái CÓ khi cái KHÔNG đó không thật CÓ. Rồi, rối loạn chưa? hahahaha :)







Phàm phu cho sóng là sóng, là một vật riêng biệt và Thực Có, không dè nó là một bóng dáng, một cái gì giả dối nhất thời. Tuy nhiên toàn những cái giả dối ấy đều là nước, vì sóng không khác với nước, cũng như Sắc bất dị Không.



5 Triển gạt giò anh Khúc Dương phần 2:

Sóng là hiện tượng, trong vật lý để chứng minh có sóng, chỉ cần để một thau nước, lấy cái quạt máy chỉa vào thổi. Sức gió đánh vào nước tạo nên sóng. Sóng có thật vì có thể lặp đi lặp lại (reproduction). Hiện tượng vật lý nào có thể chứng minh được sự hiện hữu lặp đi lặp lại thì gọi là CÓ. Sự nhấp nhô ấy gọi là sóng, chứ không phải nước. Sóng là tình trạng nhấp nhô của nước khi có gió, nước để không, không có nhấp nhô không gọi là sóng. Đây là hai trạng thái lỏng khác nhau. Một cái nhấp nhô có chiều cao vật lý, có amplitude, một cái phẳng lặng không nhấp nhô.

Tuy nhiên quy sóng về nước, vì nói cả hai đều là nước cũng sai. Vì nước cũng chỉ là một trạng thái trong vòng tuần hoàn ở thể lỏng. Khi gia tăng nhiệt độ môi trường, nước bốc hơi mất đất, không còn ở thể lỏng nữa, nên người ta mới gọi là 'hơi nước'.

Cho nên nói sóng không thật, là giả dối, vì sóng là nước, thì nước không thật vi không vĩnh cửu, giả dối cấp tám luôn, vì chỉ cần để cái nồi nước lên bếp, đun 3 sôi 2 lạnh là thể tích lỏng le đó một chập bay mất tiêu, biến thành hơi nước mất rồi, do đó nước cũng không thật luôn.

Hơi nước bay lên, học sinh lớp 4 bảo, ơ hơ chạy lên đỉnh Hy Mã Lạp Nhạp mà xem, hơi nước tụ thành mây, lại rơi xuống thành tuyết. Vậy hơi nước cũng không thật vì không vĩnh cửu, mới gặp lạnh thôi là sốt rét rồi, thành thể rắn rồi.
Hoa tuyết rơi linh tinh xuống đất chất đống, dồn cục lại thành băng đá, lại là một dạng thể vật lý khác nữa. Vậy rốt cuộc tuyết là cái gì? Băng đá gặp mùa hè đến thì lại tan thành nước, chảy ra sông, ra biển, ngấm xuống đất. Vậy băng đá cũng chỉ là một trạng thái mang tính cách giai đoạn, không bền vững, nghĩa là cũng không thật nốt. Vậy thì rốt cuộc trong cái vòng tuân hoàn này có cái gì thật không?

Không có cái nào thật hết, vì chẳng có cái nào vĩnh cửu. Nếu không có cái nào thật, thì chứng minh phản chứng, là thuyết KHÔNG ban đầu cũng không thật nốt. Bởi vì sao dám nói Sóng là giả dối, khi Nước cũng chỉ là giả lập mà thành?

Gạt giò anh Khúc Dương chơi cho vui thôi. Cách giải thích "tánh không" của anh Khúc Dương rất dễ kê cẳng ngỗng. :)

khúc dương
05-22-2015, 09:21 AM
Xét đến bốn uẩn khác là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cái lý cũng như vậy. Tại sao ? Tại vì có thân là Sắc, mới có cảm giác, tư tưởng, lo nghĩ và hay biết. Nay thân (Sắc) đã Không thì bốn cái tuỳ thuộc kia của thân làm gì chẳng Không luôn? Bởi vậy nên Kinh nói: Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

Tìm hiểu câu: " Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng, bất sanh bất diệt..."

Đối với Đàm Hư Đại sư, "Ngũ uẩn đương thể tức thị Chơn-không chi tướng".

Ngũ uẩn ở đây thay cho "chư pháp": là muôn sự muôn vật. Theo lời giải này, thể của muôn sự muôn vật là tướng của Chơn-không, nghĩa là bóng dáng do Chơn-không làm cho hiện bày, chớ không phải là thực.

Người phàm cho vạn vật có sanh có diệt, có dơ có sạch, có thêm có bớt, nhưng nay đã nói vạn vật là bóng dáng của Chơn-không, mà Chơn-không trước sau như một thì làm gì có sanh diệt?

Vì vậy Đại sư bảo toàn câu kinh có nghĩa là: Tất cả vạn vật đều không sanh. Tất cả vạn vật đều không diệt. Tất cả vạn vật đều không dơ. Tất cả vạn vật đều không sạch. Tất cả vạn vật đều không thêm. Tất cả vạn vật đều không bớt. Sự thật, sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt đều là những danh từ đối đãi, do chỗ so sánh mà hư tạo ra thôi.

Để kết thúc, Đại sư nói: "Thể của ngũ uẩn là Không, mà ngũ uẩn là chỉ tất cả muôn vật (chư pháp), vậy trong muôn vật, không vật nào là không phải tướng của Chơn-không. Đã là tướng của Chơn-không thì cũng như Chơn-không, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Nói cách khác, cái tướng Không của vạn vật đương nhiên là không sanh không diệt.Cứ như trên thì vạn vật, tuy có bề ngoài vật chất, uế trược, nhưng bề trong là Thực tướng, là Chơn không, là Chơn tâm, là Phật tánh, tức là cái gì hết sức thiêng liêng, trong sáng, thường còn, bất biến.

Nay xin lấy điện-khí thí dụ cho Thể (tức Thực tướng) vá ánh sáng của một ngọn đèn điện thí dụ cho Tướng (tức Ngũ uẩn, Giả tướng). Khi ta bật cái chốt, đèn cháy, sanh ra ánh sáng; khi ta khoá, đèn tắt, ánh sáng diệt. Nhưng dù ta mở, ta đóng, điện nằm trong dây, vẫn trước sau như một, không sanh không diệt, không thêm không bớt. Vậy nếu chúng ta cứ chỉ thấy bề ngoài là ánh sáng, thì ắt thấy có sanh có diệt đối đãi nhau, nhưng nếu chúng ta thấy được cái sự thực bề trong, tức là cái thể của ánh sáng là điện, thì không có sanh, không có diệt.

Cái thân tâm ngũ uẩn của chúng ta đây cũng như ánh sáng đèn kia. Ánh sáng đèn do cái Thể điện là hiện tướng, thì thân tâm ta cũng do cái Chơn thể mà hiện Tướng. Chơn thể là Diệu-hữu Chơn-không, là Chơn tâm, là Phật tánh, là Pháp thân... không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Vậy đứng trên phương diện bản thể mà soi xét thì thân ta giả sanh giả diệt, chứ không có thực sanh, thực diệt, cũng như ánh đèn kia, khi cái Thể (điện) hiện, thì có cái giả tướng sáng, khi không điện, thì có cái giả tướng tối.

Thấy được vật chất là hiện tướng của Thực-tướng là tự nhận mình không phải phàm phu, là tự thấy mình là sư tử, nhất định không làm cừu mà quyết sống đại hùng, đại lực.

Quý biết bao!

khúc dương
05-24-2015, 10:04 AM
5. Tìm hiểu câu quyết đoán thứ năm : " Thị cố không trung vô sắc, vô thọ...diệc vô đắc"

Vì câu kinh gồm nhiều đoạn khác nhau về phần ý, chúng tôi xin đề nghị lối phân tích như sau:

A/ Phá Ngã chấp :

Đoạn a): Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức.

B/ Phá Pháp chấp :

Đoạn b: "Thị cố, không trung vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới" (thế gian pháp)

Đoạn c): "Thị cố, không trung vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí, diệc vô đắc" (xuất thế gian pháp).

Toàn câu có nghĩa như sau: " Bởi cớ trong "Không" không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình sắc, không có tiếng tăm, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới cho tới ý thức giới, không có cái vô minh cũng không có cái hết vô minh, dẫn đến không già, chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc" .

Phá Pháp chấp: Vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.

Đoạn này có nghĩa như sau: Bởi cớ trong "Không" không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình sắc, tiếng tăm, không hương, không vị, không xúc, không pháp; không có cảnh giới của cái biết bằng mắt, cho đến cảnh giới của cái biết bằng ý cũng không.

Một vài nhận xét:

1. Về danh từ Nhãn giới : Trong kinh nói tắt là "Nhãn giới". Muốn nói cho đúng và đủ, phải nói "Nhãn thức giới". Vì lẽ này chúng tôi đã dịch: Cảnh giới của cái biết bằng mắt. Chúng ta có tất cả sáu lối nhận biết là: bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Mỗi lối có một cảnh giới riêng.

2. Về đoạn: "Nãi chí vô ý thức giới".
Đã nói rằng: Mỗi lối biết có một cảnh giới riêng, thì lẽ ra kinh phải kể cho đủ là Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỹ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới, Ý thức giới. Nhưng kể như vậy thì quá dài, nên kinh nói tắt: từ Nhãn thức giới dĩ chí Ý thức giới.

3. Về chữ "Giới" chúng tôi dịch là Cảnh giới, theo Hán Việt từ điễn của Đào Duy Anh. Tiếng Pháp là "Domaine" cũng có thể dịch là lãnh thổ, địa hạt.

4. Về danh từ Căn, Trần, Thức:
Căn chỉ Ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và Ý là quan thứ sáu. Chữ Căn đây tương đương với chữ "cơ quan".

Trần nghĩa thiệt là bụi, chỉ những cái gì làm mờ gương lòng con người. Những cái ấy không gì lạ hơn là vạn vật trong trời đất, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, mà Phật Giáo bao gồm trong danh từ "Sắc". Chữ Sắc này rộng nghĩa hơn chữ Sắc trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Sắc gồm có ba loại:

a) Loại tiếp xúc và thấy được (khả đối khả kiến). Đó là những hình dáng và màu sắc có thể dùng mắt mà tiếp xúc và nhìn thấy, tóm lại là tất cả những gì hoàn toàn vật chất. Tên chung của loại Sắc khả đối khả kiến nầy là chữ Sắc trong ngũ uẩn.

b/ Loại tiếp xúc được mà không thấy được ( khả đối bất khả kiến). Tức là âm thanh, các thứ mùi, các thứ vị, các thứ cảm giác.

c) Là loại không tiếp xúc được mà cũng không thấy được (bất khả đối bất khả kiến). Đây là những hình sắc, mùi vị, cảm giác mà chúng ta cảm thấy và hưởng thọ trong thâm tâm, lắm khi không cần có ngoại cảnh làm động lực, như khi ta tưởng tượng và do tâm phân biệt mà có.

Bây giờ đến chữ Thức.

khúc dương
05-31-2015, 11:59 PM
Bây giờ đến chữ Thức.

Thức nghĩa là biết, có những cái biết bằng mắt, gọi là "thấy", có những cái biết bằng tai, gọi là "nghe", mà thấy thuộc nhãn, nghe thuộc nhĩ, nên Phật giáo gọi những cái biết này theo tên riêng của mỗi căn, như nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Căn, Trần, Thức hợp lại thành toàn thể vũ trụ sắc pháp, hay thế gian pháp, tức là thế giới của hiện tượng, như chúng ta sẽ thấy sau đây :

Chúng ta hãy lấy con mắt mà nói trước, tức là nói về nhãn căn. Hiểu được việc của con mắt sẽ hiểu được việc của năm căn kia.

Mắt để làm gì? Để thấy. Thấy gì? Thấy những vật gì có hình dáng, có màu sắc. Vậy con mắt chỉ hoạt động có hiệu quả trong cái giới của Sắc, và giới nầy là giới dành riêng cho mắt, không một căn nào khác xâm lấn được, đó là Nhãn giới, cảnh giới của cơ quan thấy. Những vật để cho mắt thấy (hình dáng, màu sắc) hợp thành một lãnh vực khác, một thế giới khác, đó là giới của những vật bị thấy hay để cho thấy.

Có thấy được (như không đui chẳng hạn) và có vật bị thấy, lẽ cố nhiên phải nảy sanh ra một cái biết thuộc về loại thấy. Đó là Nhãn thức. Tất cả những cái biết về loại nầy hợp thành thế giới của những sự biết bằng mắt, gọi là Nhãn Thức Giới.

Vậy cái Thấy có ba giới :

Một thuộc căn : Nhãn giới
Một thuộc trần : Sắc giới
Một thuộc thức : Nhãn thức giới

Mấy cái khác (nghe, ngửi, nếm....) cũng có ba giới như thế, ví dụ về nghe:

Một giới thuộc căn: Nhĩ giới
Một giới thuộc trần: Thanh giới
Một giới thuộc thức: Nhĩ thức giới

Để dễ nhận, xin xem bãng sau đây :

Sáu giới của Căn:
Nhãn giới
Nhĩ giới
Tỹ giới
Thiệt giới
Thân giới
Ý giới

Sáu giới của Trần :
Sắc giới
Thanh giới
Hương giới
Vị giới
Xúc giới
Pháp giới

Sáu giới của Thức :
Nhãn thức giới
Nhĩ thức giới
Tỹ thức giới
Thiệt thức giới
Thân thức giới
Ý thức giới

Cộng thành 18 giới, gồm 6 căn, 6 trần và 6 thức, như chúng ta thường nghe nói "thập bát giới".

Mười tám giới nầy bao gồm vũ trụ, là toàn thể những gì mà chúng ta thấy biết được, nghe biết được, ngửi biết được, nếm biết được, sờ biết được và nhận được trong tâm ý.

Nhưng ai cảm thấy biết, ai cảm thấy nghe...? Lại nữa cái gì gọi là "cảm thấy"?

"Cảm thấy" là một cái gì do ba cái khác nhau tương phối, tương hợp mà thành.

1. Có mắt mà không vật thì không thành cái thấy.
2. Có vật mà không mắt thì không thành cái thấy.
3. Có mắt, có vật, mà không có cái tánh thấy, thì cũng không thành cái thấy.

Vậy phải có bộ ba nầy, cái thấy mới thành.

Ở đoạn đầu, Kinh nói: "Sắc tức thị Không"

Sắc là vật bị thấy đã là Không, thì mắt (nhãn căn) và nhãn thức cũng Không luôn, vì lẽ trong bộ ba nói trên, hễ một cái Không thì cả ba đều Không như nhau.

Về câu hỏi: Ai thấy biết? Ai nghe biết? Xin trả lời: Con người, Ta, Thân tâm, Ngũ uẩn. Nhưng Ngũ uẩn đã bị cho là Không, như vậy khác nào cây trụ chánh đã bị ngã. Trụ đã ngã thì những gì do trụ ấy chống chỏi làm gì chẳng ngã theo. Đây là một lẽ do đó Kinh nói 18 giới hay vũ trụ đều là Vô, đều không có.

Một lẽ nữa: Vũ trụ 18 giới thuộc thế gian pháp, tức là Tướng, còn Không là Thể.

Tuy biết Tướng là do Thể biến hiện ra, nhưng trong Thể nhứt định không có Tướng nằm trong đó.

Một lẽ thứ ba nữa, như ngài Minh Chánh thiền sư nói: "Tâm có sanh, pháp có sanh, nếu tâm diệt thì pháp cũng diệt". Nói cách khác, mọi sự mọi vật trên thế gian đều do tâm niệm của ta mà có hay không có.

Hai người cùng đi đường. Lúc đến ngang một rạp hát bóng đang hát, một người biết đó là rạp "hát bóng" còn một người lại không hay biết gì hết. Đối với người trước, rạp hát đó là một vật Có, nhưng vật Có ấy lại Không Có đối với người thứ hai. Phải chăng tại người thứ hai không để tâm đến những cái gì đã báo cho anh thứ nhứt biết đó là một rạp hát bóng, nhưng anh thứ hai chưa chắc là người "không tâm". Có thể anh đang nghĩ tới một vật hay một việc khác, tâm anh lúc ấy không ở với anh mà nó đang theo đuổi một cảnh nào đó. Như thế thì 18 giới đâu có trong cái Không ấy (là cái Không của những Bồ tát quán tự tại).

Để kết thúc đoạn nầy, chúng ta có thể nói: Theo Kinh dạy, một khi lòng đã lóng trong thì chỉ thấy cái Thể bề trong của vạn vật mà không thấy cái Tướng bề ngoài nữa. Cho nên dầu có nhà cao cửa đẹp, đàn ngọt hát hay đi nữa, những cái ấy hoàn toàn là "vô". Có "vô" như thế mới tự tại. Tới đây, chẳng những cái Thân tâm Ngũ uẩn đã chết mất với Bồ tát mà cả vũ trụ cũng chết luôn, tâm hồn sống trong cảnh vô vi, ngao du trong cảnh vô tận, thung dung tự tại như mây như gió. Đến đây cái say đắm sự vật ở thế gian đã bị đánh vỡ,cái "pháp chấp" bị phá tan. Nhưng "pháp" nầy chỉ mới là "thế gian pháp", còn một thứ pháp nữa là "Xuất thế gian pháp" cũng cần phá vỡ.

khúc dương
06-17-2015, 01:12 AM
Phá Pháp Chấp:

c) Đoạn Vô: "vô Vô-Minh, diệc vô Vô-Minh tận; nãi chí vô Lão Tử, diệc vô Lão Tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệc vô Đắc."

Đoạn nầy có nghĩa:

1. Không có "vô-minh" cũng không có cái "hết vô-minh", thậm chí cũng không có cái "già chết" cũng không có cái "hết già chết".
2. Không có sự khổ, không có nguyên nhân của khổ, không có sự diệt khổ, không có con đường dẫn đến sự diệt khổ.
3. Không có Trí Huệ cũng không có Được cái gì.

Ở đây, Kinh đề cập đến ba tầng giáo pháp của Phật đã dạy, nếu theo đó mà tu hành thì sẽ có một nếp sống phi phàm, nếp sống của bậc Thánh. Vì vậy pháp nầy được gọi là " Xuất thế gian pháp".

Sau đây là ba tầng giáo pháp ấy:

1- Tứ Thánh Đế
2- Thập Nhị Nhân Duyên
3- Lục Độ

I - Tứ Thánh Đế (Bốn chân lý về KHỔ)

1- Sự khổ có ở thế gian (Khổ đế)
2- Nguyên nhân của khổ (Tập đế)
3- Sự diệt khổ (Diệt đế)
4- Con đường diệt khổ (Đạo đế)

Vậy câu kinh "Vô khổ, tập, diệt, đạo" là một lối nói tắt. Lẽ ra phải nói "Vô khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế" tức là "Vô Tứ Thánh Đế". Đúng hơn nữa, chúng ta phải trở lại đầu câu mà nói "Thị cố, không trung vô khổ đế, vô tập đế, vô diệt đế, vô đạo đế".

Theo sự tin tưởng của các hàng đệ tử của Phật từ trước cho đến khi Phật nói Kinh Bát Nhã thì pháp Tứ Đế nầy là cỗ xe không thể rời bỏ được, nếu muốn đạt đến bốn ngôi vị thánh, gọi chung là Thanh Văn.

Do đó mà pháp Tứ Đế còn có tên là "Thanh Văn Thừa". Chính Phật đã bắt đầu dạy những chân lý nầy nhưng nay Phật lại đánh đổ. Vì lẽ nào? Về sau chúng ta sẽ thấy.

II - Mười hai Nhân Duyên:

Một giáo pháp của Phật vạch chỉ 12 nguyên nhân làm cho chúng sanh kẹt mãi trong vòng sanh tử luân hồi không thoát khỏi.

Mười hai nguyên nhân đó là:

1. Vô minh (ngu muội)
2. Hành (mê loạn tạo nghiệp)
3. Thức (biết phân biệt)
4. Danh sắc (tên gọi và hình tướng)
5. Lục nhập (sáu đối tượng của sáu căn)
6. Xúc (tiếp xúc)
7. Thọ (cảm giác)
8. Ái (ưa thích, khao khát)
9. Thủ (nắm giữ, trìu mến)
10. Hữu (có, làm người)
11. Sanh
12. Lão, tử (già chết)

Lẽ ra Tâm Kinh phải nói đủ như thế nầy: Vô Vô-minh, vô Hành, vô Thức, vô Danh Sắc, ...cho đến số 12 là vô Lão, Tử. Nhưng Kinh lại nói tắt và chỉ lấy phần đầu và phần đuôi, là "Vô-minh" và "Lão, Tử" mà nói thôi.

Cứ theo lời Phật dạy từ trước, ai hiểu và thực hành được giáo pháp "Thập Nhị Nhân Duyên" nầy, sẽ đạt đến một địa vị Thánh cao hơn bốn địa vị trước, gọi là Duyên Giác hay Độc Giác. Do đó mà giáo pháp nầy còn có tên là Duyên Giác Thừa.

III - Lục Độ hay Lục Độ Ba La Mật:

Đây là một phương pháp để độ mình, độ người, gồm có sáu điều cần phải tu tập như sau:

1. Bố thí (cho, để trừ lòng tham)
2. Trì giới (giữ giới, để trừ ô nhiễm)
3. Nhẫn nhục (nhường nhịn, để trừ giận hờn)
4. Tinh tấn (sốt sắng, để trừ lười biếng)
5. Thiền định (chuyên chú, để trừ loạn tâm)
6. Trí huệ (sáng suốt, để trừ ngu si)

Chữ "Trí" trong câu "Vô Trí" chỉ phần thứ sáu, là "Trí Huệ" trong Lục Độ. Nhưng vì Trí Huệ là bước cuối cùng của pháp Lục Độ, vậy nói "Vô Trí" tức là nói "Vô Lục Độ" (không có Lục Độ). Lại nữa, theo sự hứa hẹn của Phật, ai hành trọn vẹn sáu phép tu nầy thì được sáng suốt của quả vị Phật. Vậy chữ "Đắc" trong câu "Vô đắc" là ý nói: Vô Phật quả khả đắc (không có cái quả của Phật phải cố được). Ở đây cũng như ở hai đoạn trước, Phật đả phá những gì Phật dạy, từ thuyết "Tứ Thánh Đế" cho đến thuyết "Lục Độ" ngang qua thuyết "Thập Nhị Nhân Duyên". Mà hễ phá những "Xuất thế gian pháp" nầy tức cũng phá luôn những kết quả mà Phật đã hứa với người tu hành là bốn bậc Thánh gồm chung gọi là Thanh Văn, và bậc chót tột cao là Bồ Tát.

Tại sao có sự trái ngược như vậy ? Chúng ta hãy theo những kiến giải của chư Tổ mà thử tìm hiểu.


* * *

khúc dương
06-25-2015, 12:21 AM
Ai ở đời cũng cho rằng thân tâm Ngũ uẩn (ngã) là Có, và lấy cái "ta" làm trọng. Thân "ta" Có, thì những đối tượng của thân là vạn vật (thế gian pháp) cũng phải Có.

Cho rằng có Ta, là chấp có Ngã (ngã chấp). Cho là có vạn vật là chấp có pháp (pháp chấp).

Nay Kinh đã chỉ cho thấy "ngã" và "pháp" đều Không, thì ắt chúng ta không còn chấp ngã, chấp pháp nữa. Như thế là chúng ta bỏ con đường thế tục với tất cả những sai lầm bấy lâu. Nhưng Phật còn một điều ngại là nếu chúng ta không mê chấp việc đời, chúng ta sẽ lại mê chấp việc đạo, cho những gì nói trong ba tầng giáo pháp là thật có. Như nghe nói khổ, tưởng khổ là cái gì thật có, hay nghe nói vô-minh, tưởng vô-minh là cái gì thật có, hay nghe nói Trí huệ phải tu, Phật quả phải được, rồi cũng tưởng Trí huệ và Phật quả là những gì thật có.

Vì tiên đoán như thế nên Phật phá luôn những cái chấp của người tu hành, tức là phá cái chấp về "Xuất thế gian pháp".

Khi đã tưởng khổ là thật có, thì phải lầm tưởng luôn sự diệt khổ là thật có, y như việc muốn hết bị cọp ăn (khổ) thì phải giết cọp (diệt); hễ lầm tưởng Vô-minh là thật có, thì phải lầm tưởng luôn là phải chấm dứt Vô-minh (Vô-minh tận); hễ lầm tưởng Trí huệ là thật có, thì phải lầm tưởng luôn là có thể một ngày kia sẽ nắm lấy cái Trí huệ; hễ lầm tưởng Phật quả là một cái gì thật có, ắt phải lầm tưởng luôn rằng đó là một cái gì mình sẽ thu thập được (đắc).

Lầm tưởng như thế là bịnh của người đang di (hành giả) trên con đường "xuất thế gian", tức hạng tu hành cầu giác ngộ, giải thoát, nhưng chưa đi đến chổ cuối cùng.

Chổ cuối cùng ở đâu? Ở mức "hành thâm Bát Nhã Ba La Mật", ở cái phút mà trong thân tâm trống rỗng và vắng lặng hoàn toàn, bỗng một ánh sáng huy hoàng bộc phát làm cho con người thấy rằng:

Khổ, Tập, Diệt, Đạo chỉ là giả danh.
Mười hai Nhân Duyên chỉ là giải danh.
Trí huệ, Phật quả chỉ là giả danh.

Tất cả những pháp ấy đều là danh từ, không có gì là thực tế, và những niệm do những danh từ ấy tạo ra trong tâm não ta đều là nguỵ tạo, là giả, do đối đãi mà lập ra.

Chúng ta thử xét từng pháp một, coi giả dối chổ nào.

khúc dương
06-25-2015, 12:39 AM
I/ Về Tứ Thánh Đế:

Phải chăng vì chúng ta cho có thân là có khổ, nên đối lại Phật mới chỉ cho phương Diệt khổ, là thuyết Tứ Đế? Nay nếu chúng ta sống với chơn tánh trong chơn tánh (tức chơn không), mà không sống với thân và trong thân, thì thân dầu Có, đối với chúng ta, vẫn Không; và cái khổ do thân cảm thọ cũng tiêu mất. Huống chi khổ là cái gì? Nó có thực thể không? Xin trả lời là Không!

Cái gì không xứng ý vừa lòng, không thích với xác thịt, nói tóm là nghịch với sở thích của Ngũ uẩn thì chúng ta gọi là khổ chứ cái "khổ thật" không có. Nếu cay, đắng, là khổ, cớ sao có người thích ăn ớt, uống rượu, và có ớt có rượu mới sung sướng ? Nếu nói danh lợi đem hạnh phúc đến cho con người, làm cho con người sung sướng, cớ sao có người ngậm danh lợi như ngậm bồ hòn ? Vậy khổ là cái gì do lòng say đắm, tối tăm, do vọng tưởng mê hoặc của con người sống vì vật chất tạo ra, nó không thực có và nhứt là nó "không có" trong lòng người đã tỉnh ngộ, trong những tâm hồn trong sạch, sáng suốt triệt để, tức là chơn không.

Vậy đứng về cái góc chơn không tuyệt đối mà nhìn, rõ ràng không có khổ. Không có khổ thì không có nguyên nhân của khổ (tập), không có phương pháp diệt khổ (diệt), không có con đường diệt khổ (đạo).

Do đó mà Kinh nói: "Thị cố, không-trung vô khổ, tập, diệt, đạo".

khúc dương
06-27-2015, 11:59 PM
II/ Về Mười hai Nhân Duyên:

Chấp pháp Tứ Đế đã bị phá, nay tới pháp "Mười hai Nhân Duyên".

Theo thứ tự đã ghi ở phía trước thì tuỳ Vô-minh mà có Hành, tuỳ Hành mà có Thức, mà có lục nhập ...rốt hết tuỳ Sanh mà có Lão, Tử. Vậy nguyên nhân xa nhứt và xác thực nhứt của "già, chết" là Vô-minh. Trừ được cái khoen đầu tiên nầy thì tất cả sợi dây chuyền Nhân Duyên phải vỡ theo.

Nhưng Vô-minh là gì? Vô minh chỉ là một giả danh như chúng ta sẽ thấy trong lời nói sau đây của Minh Chánh Thiền sư.

"Không nhận, không biết, không hiểu rõ chân lý tuyệt đối thì gọi là vô-minh; để cho năm uẩn che đậy gọi là vô-minh; bị tham, sân, si, phiền não, làm chướng ngại nặng nề gọi là vô-minh; say sưa dính dấp với sáu trần, năm dục của thế gian gọi là vô-minh... Vậy không có cái gì thật sự là vô-minh, mà chỉ có những trạng thái mê mờ của tâm hồn, của trí huệ". Vô minh đã không thật có, thì làm gì có cái việc gọi là làm cho vô-minh tiêu mất hay làm cho "hết vô-minh" (vô-minh tận)? Vô-minh là như thế thì những cái khoen nối tiếp là hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão, tử cũng như thế cả, nghĩa là không có thực, và vì vậy mà cũng không có cái việc gọi là làm cho hết hành, hết thức và hết lão, tử (lão tử tận).

Để kết thúc đoạn trên, nên nói rằng pháp Mười hai Nhân Duyên cũng như pháp Tứ Đế là những phương thuốc mà Phật quyền biến chế ra để, trong tương đối, trị chứng mê lầm, lấy giả làm thật của chúng sanh.

Vì chúng sanh chưa sáng mắt, chưa có Bát Nhã, chưa được quán tự tại, cho nên còn thấy có vui buồn, sướng khổ, sanh tử, là những cái đối đãi. Phật nương theo đó mà dạy rằng nguyên nhân căn bản của dòng sống đau khổ, sanh, già, bệnh, chết là vô-minh. Phải cạn nguồn vô-minh nầy, dòng sống kia mới dứt, mới tận. Nhưng làm sao tát cạn nguồn ấy? Chỉ đừng vô-minh nữa. Mà muốn không vô-minh nữa thì phải hết say đắm.


Hết say đắm gọi là người sáng suốt.
Người sáng suốt là người hết vô-minh.

khúc dương
07-05-2015, 10:07 PM
III/ Về Lục Độ:

Vậy cái Trí Huệ mà người tu Lục Độ phải đạt đến ở mức cuối cùng, là một giả danh, và không có cái gì là "thật Trí huệ". Cũng thế, cái gọi là "được thành Phật" (đắc Phật quả) là một giả danh khác trong vòng tương đối, vì lẽ chấp có chúng sanh mê muội đau khổ, nên phải có cái chấp đối lại là có Phật sáng suốt an vui. Tóm lại, trọn đoạn kinh từ "Vô Vô-minh"... cho đến "vô Trí diệc vô Đắc" có nghĩa là: Trong chơn không, trong sự thật, trong tuyệt đối, không có những cái gọi là Tứ Đế, Mười hai Nhân Duyên, Lục Độ, cũng không có cái Trí huệ phải tu, Phật quả phải được.

Những pháp nầy là những giả danh, những ảo tưởng để đối trị những ảo tưởng nghịch lại. Đối với ai còn sống trong vòng mê muội tương đối, những pháp tương đối nầy rất cần, chẳng khác người lặn hụp dưới nước thì cần có phao, có thuyền. Nhưng ở đây Kinh đưa chúng ta sang một thế giới khác, thế giới của chơn không, của thực tướng, của tuyệt đối, trong ấy không có gì cả. Do đó mà những bậc đã thấy chơn không, sống trong cái Thể mà không thấy Tướng, không còn nói đến kinh sách mà cũng không còn biện luận bàn cải gì nữa, như người đã lên bờ không còn cần đến thuyền phao....


***

Hậu quả của sự phá chấp:

I. Dĩ vô sở đắc, cố Bồ đề tát đoả y Bát nhã Ba la mật đa, cố tâm vô quái ngại.

Muốn hiểu rõ phần nầy, cần định nghĩa danh từ "quái ngại".

Quái ngại là trở ngại, ngăn ngại. Tâm không có điều ngăn ngại là không còn chia ra có kẻ oán người thân, không còn bị cái tướng bề ngoài của vạn vật làm cho bị lầm.

Tâm ta có thể ví như nước ở sông. Thể của vũ trụ có thể ví như nước ngoài biển. Nước với nước lẽ ra phải lưu thông với nhau, nhưng vì "tâm nước sông" của ta bị cái đê "Ngũ uẩn" ngăn trở, chia cách với cái "thể nước biển", cho nên nước sông phải sống đời sống nhỏ hẹp, dơ bẩn, không được tự do tự tại, không được to lớn và trong sạch như đời sống của nước biển.

Người có "tâm vô sở đắc" là người đã trở về với đời sống của nước biển. Biết mình là biển rộng bao la chứ không phải là con sông nhỏ hẹp. Mà biết được như thế là vì đã phá tan cái đê Ngũ uẩn chia cách ngăn trở làm cho cứ tưởng lầm rằng Tướng là thật có, không dè đó là cảnh chiêm bao, là những hình ảnh trên màn bạc. Chẳng những thế, còn cho "tướng" là mình, rồi vì thấy tướng của mình và tướng của các loài chúng sanh khác nhau khiến cho sự chia cách, ngăn ngại càng dày chặt và chi chít hơn nữa. Điều quan trọng nhất là thấy mình là chúng sanh bất tịnh, khác với Phật thanh tịnh, tưởng chúng sanh và Phật khác nhau. Vì vậy mong được thành Phật, không dè chúng sanh bản nguyên là Phật, cũng như tằm kia bản sanh là bướm.

khúc dương
07-15-2015, 12:07 AM
II. Vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đão, mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

Ở đây cũng cần giải thích một số chữ:

Khủng bố: là sợ hãi. Có bốn thứ lo sợ cho bốn hạng người:

1. Phàm phu thì sợ chết vì mê chấp sắc thân (xác thịt) là mình, nên sợ xác tan là mình mất.

2. Hàng Thanh Văn thì sợ cái khổ khi làm người, vì chấp Khổ là có thật, Tam giới, Lục đạo, Sanh, Lão, Bệnh, Tử là có thật.

3. Hàng Duyên Giác thì sợ khó đoạn phiền não, khó dứt trừ Vô-minh, vì mê chấp cho rằng Mười hai Nhân Duyên là thật có như bánh xe lăn.

4. Hàng mới phát tâm Bồ tát thì sợ không thành Phật, vì còn chấp chúng sanh là riêng, Phật là riêng, mà chúng sanh thì đông vô số kể, làm sao độ cho hết để mình thành Phật ?

Tóm lại, kẻ ngu cũng như người mới phát trí huệ đều lo sợ không đúng, chỉ vì một nguyên nhân duy nhất là không thấy vạn vật ở cái Thể của chúng, mà lại thấy ở Tướng.

Viễn ly: là xa lìa. Đây là một lối nói, chứ thực ra còn xa lìa gì nữa, trong khi tất cả đều bị lên án là "Không"! Vậy nên hiểu: lúc nào mà ta không còn để cho "Mộng cảnh phiền não" làm cho ta lầm thì nói được là ta đã "Viễn ly".

Điên đảo: là đảo lộn giá trị của mọi vật.

Có bốn thứ điên đảo:

1. Trong chổ không trong sạch lại cho trong sạch.

2. Trong cái khổ lại cho là vui.

3. Trong cái không thường còn, lại cho là có thường còn.

4. Trong cái "vô ngã" lại thấy có "ngã".

Lấy dơ làm sạch, lấy khổ làm sướng, lấy vô thường làm thường, lấy vô ngã làm ngã, như thế không phải là đảo lộn giá trị sự vật sao ?

Mộng tưởng: Mộng là chiêm bao, là những cảnh thấy trong giấc ngủ, do ý thức tạo ra. Tưởng là ngầm nhớ, ngầm thấy hình tượng. Đây ám chỉ cảnh thế gian là cảnh ảo vọng, chẳng khác cảnh ta thấy trong chiêm bao.

Cứu cánh: Cuối cùng.

Niết bàn: có nghĩa là tắt dứt tất cả phiền não, mê hoặc, hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại. Vậy toàn phần nầy có nghĩa là: "Vì lòng không còn bị ngăn ngại nên hết lo sợ, không còn đảo lộn giá trị sự vật, không còn mê chấp như người nằm mộng cho nên rốt cuộc đến chỗ hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại".

Nghĩa Niết bàn là vậy. Niết bàn không phải là một cảnh giới như nhiều người lầm tưởng, mà chỉ là một danh từ tạm dùng để diễn tả cái ý nầy. Ai được hoàn toàn giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế tình, hoàn toàn sáng suốt, không còn một mảy may mê lầm, hoàn toàn biết mình là thiêng liêng và sống trong thiêng liêng, không còn lầm nhận mình là vật chất và sống trong vật chất, ai được như thế thì gọi người ấy là "được Niết bàn".

Vậy rõ ràng Niết bàn không phải là một cái gì thật có mà ta phải cố thu thập cho được. Nói cách khác, đó không phải là một kết quả của những nỗ lực tích cực mà là của những cố gắng tiêu cực. Ý muốn nói như thế nầy: Ở đời, muốn giàu phải cố làm ra tiền hằng ngày. Vậy mọi nỗ lực hằng ngày là một nỗ lực tích cực. Không làm là không có tiền, mà không tiền thì không giàu.

Trong đạo không phải như vậy. Chỉ đừng làm là được như ý. Đừng làm gì ? Đừng lấy Ngũ uẩn làm thật có, đừng lấy vạn vật, vũ trụ làm thật có, đừng để tâm mình bị ngăn che, đừng lo sợ hảo huyền, đừng sống mơ mộng, đừng nghĩ tưởng xằng bậy, đừng đảo lộn giá trị của sự vật như lấy khổ làm vui, lấy nhơ làm sạch v.v... chỉ làm những việc phá trừ, chỉ nỗ lực tiêu cực như thế là được ba cái mà Kinh sách gọi là "ba đức" của Niết bàn là Giải thoát, Bát nhã và Pháp thân, mà tôi đã dịch là: hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại.

Để kết luận đoạn nầy, xin nhắc lại câu của Minh Chánh Thiền sư : "Người tu hành, nhờ cái sáng suốt triệt để, soi thấy trước sau đều là trống rỗng và vắng lặng, không có một vật gì là thật có hết, chẳng khác nào người vừa chợt tỉnh giấc chiêm bao. Sự vật trong giấc chiêm bao đã là những sự vật không thể nắm lấy được thì sự vật ở đời cũng thế, toàn là cảnh giới do mình điên đảo mơ hồ mà tạo ra. Biết được vậy ắt không còn theo đuổi những ý nghĩ mong muốn ngông cuồng, như thế gọi là xa lìa. Bởi xa lìa mọi nghiệp mê lầm, sống trong chơn không luôn luôn thường còn vắng lặng, nên nói : cuối cùng là Niết bàn".

gopvui
07-17-2015, 08:20 AM
[QUOTE=

Gạt giò anh Khúc Dương chơi cho vui thôi. Cách giải thích "tánh không" của anh Khúc Dương rất dễ kê cẳng ngỗng. :)[/QUOTE]

Dường như bài nây không phải do bác Khuc Dương giải thich, Ơ bài đâu tiên có ghi là
"Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyên dịch và giảng giải".

khúc dương
07-18-2015, 11:56 PM
Dường như bài nây không phải do bác Khuc Dương giải thich, Ơ bài đâu tiên có ghi là
"Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyên dịch và giảng giải".

Chào anh/chị gopvui,

Đúng như a/c gopvui viết, bài nầy kd đã minh bạch và rõ ràng có ghi là của cụ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dịch và giảng giải. Kd chỉ đánh máy ghi chép lại.

Cụ Mai Thọ Truyền là một phật tử thuần thành, một đại cư sĩ còn là một học giả uyên bác và là một vị quan, một chính khách lỗi lạc, tài đức của VN và VNCH từ năm 1931, cụ mất năm 1973 thọ 69 tuổi. Cụ là người vận động và đứng ra xây dựng ngôi chùa lịch sử Xá Lợi. Năm bầu cử 1967, cụ ứng cử phó tổng thống chung liên danh với cụ Trần Văn Hương. Năm đó có 11 liên danh, liên danh Thiệu & Kỳ đắc cử.

khúc dương
07-19-2015, 12:29 AM
BÁT NHÃ LÀ ĐIỀU KIỆN CỐT YẾU THÀNH PHẬT


Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa, cố đắc A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề.

Câu nầy có nghĩa: Ba đời chư Phật, nhờ dựa vào Bát nhã Ba la mật (sự sáng suốt triệt để), nên được sự giác ngộ chân chánh vô thượng.

Tam thế chư Phật: chư Phật trong ba đời: quá khứ, hiện tại và tương lai.

A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề: Chữ Phạn Anuttara samyak sambodi, Tàu dịch là " Vô thượng chánh đẳng chánh giác" (sự giác ngộ chân chánh và cao tột hơn hết).

Ý của câu kinh nầy là: Trong quá khứ cũng như trong hiện tại và trong tương lai, tất cả chư Phật mà được thành Phật là đều nhờ dựa vào sự sáng suốt triệt để ở nội tâm (Bát nhã ba la mật đa). Vậy Bát nhã là điều kiện cần yếu cho sự thành Phật, bước cuối cùng của con đường giải thoát.

Nhưng đừng tưởng "Bát nhã ba la mật đa" và "Vô thượng chánh đặng chánh giác" là hai cái khác nhau. Theo bộ Luận Đại Trí Độ, A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức là Bát nhã, chỉ có khác tên gọi mà thôi.

Thật vậy, muốn được giác ngộ hoàn toàn, tới chỗ tột cùng, phải là người có một Tâm hoàn toàn thanh tịnh. Nhờ thanh tịnh mà con người trở thành sáng suốt triệt để.

Vậy, đứng về phương diện sáng suốt thì nói "Bát nhã", còn đứng về phương diện tỉnh thức thì nói "A nậu đa la..." hai phương diện của một Tâm hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, Bát nhã chẳng những cần thiết cho sự thành Phật, bước cuối cùng trên con đường giải thoát như đã nói, mà cũng cần cho tất cả những người tu hành theo hạnh Thanh Văn và Độc Giác, như Phật đã dạy trong kinh Đại Bát Nhã : "Nầy Kiều Thi Ca, ta nay đã thành Phật mà còn tuân theo Bát nhã Ba la mật đa, ẩn náu và đứng vững nơi đây, hà huống những kẻ muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề mà không hết lòng quay về và nương tựa vào đó để tinh cần tu học. Tại sao vậy ? Vì nếu là người tu học theo hạnh Thanh Văn thì sẽ nhờ đó mà được quả A La Hán; nếu là người tu học theo hạnh Độc Giác, thì sẽ nhờ đó mà được Bồ đề Độc Giác; nếu là người tu học theo hạnh Đại thừa thì sẽ nhờ đó mà được A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề".

* * *

khúc dương
07-29-2015, 12:12 AM
TÍNH CÁCH QUAN TRỌNG CỦA BÁT NHÃ:

Cố tri Bát nhã Ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵng chú, năng trừ nhất thế khổ, chân thật bất hư.

Nghĩa: Vậy nên biết: Bát nhã Ba la mật đa là chú có thần hiệu lớn, chú soi sáng lớn, là chú cao hơn tất cả các chú khác, là chú không còn chú nào hơn, chú ấy có công năng trừ tất cả sự khổ. Đây là sự thật, không chút dối trá.

Chú hay Đà la ni, nguyên chữ Phạn là Dharani, cũng gọi là chân ngôn.

Theo lời giải thích của chư tổ, Kinh là phần nói ra được của Chú, còn Chú là phần mật kín của Kinh. Kinh thường có hai phần, phần chữ nghĩa là phần nói ra được, phần để y chữ Phạn, không dịch là phần mật kín.

Phần chân ngôn trong Tâm Kinh là câu chót: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha."

Câu Kinh trên có nghĩa như sau:

1. Trí Bát nhã có thần lực phá ma ngũ uẩn, vì vậy có thể xem đó như một thứ chú có thần hiệu lớn, một "đại thần chú".
2. Trí Bát nhã là ánh sáng làm tan sự mê muội chấp tướng, vì vậy nên thí dụ như một thứ chú có năng lực làm phát sanh ánh sáng.
3. Trí Bát nhã làm dứt tất cả các thứ vọng tưởng sai lầm, là chú cao cả nhất, không có chú nào bằng.
4. Trí Bát nhã là sự bình đẵng tuyệt đối, vì muôn vật được xem y như nhau trên phương diện bản thể, do đó được ví như một chú san bằng mọi đẵng cấp.

Sợ có người không tin lời quả quyết nầy, Kinh thêm câu "Chân thực bất hư" nghĩa là: Đây là sự thật, không có một chút dối trá.

khúc dương
07-29-2015, 12:23 AM
KẾT THÚC BẰNG MỘT CÂU CHÚ:


Cố, thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.

Nghĩa: Bởi lẽ vừa nói, nay xướng lên câu chú Bát nhã Ba la mật đa. Câu chú ấy là: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.

Câu chú nầy chính là phần "mật" của Kinh. Bản dịch chữ Hán như sau:



Độ khứ, độ khứ
Cứu kính độ khứ
Cứu kính chúng độ khứ
Giác ngộ tốc viên thành.

Nghĩa:



Đi qua, đi qua
Qua đến bờ bên kia
Mọi người đồng qua đến bờ bên kia
Nguyện sự giác ngộ chóng tròn thành.



HẾT BÁT NHÃ TÂM KINH

khúc dương
08-06-2015, 10:41 PM
BÁT NHÃ TÂM KINH

(Dịch theo thể thơ cho dễ nhớ)


Quán tự tại thực hành trí tuệ,
Bát nhã ba la mật sáng ngời,
Bấy giờ Bồ tát quán soi,
Thấy rằng năm uẩn ba đời đều không.

Vượt tất cả các vòng khổ ách,
Hãy nghe nầy, Xá Lợi Phất ông!
Sắc nào có khác gì Không,
Không nào khác Sắc, Sắc không vốn đồng.

Cả Thọ, Tưởng, Thức, Hành cũng thế.
Tánh chân không các pháp viên thành,
Thảy đều chẳng diệt, chẳng sanh,
Chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng giảm gì.

Trong Chân không chẳng hề có Sắc,
Chẳng thọ, tưởng, hành, thức trong Không.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Sắc, thanh, vị, xúc, pháp, hương không còn.

Không Nhãn thức đến không Ý thức,
Không vô minh hoặc hết vô minh,
Không điều già chết chúng sanh,
Hết già, hết chết thực tình cũng không.

Không trí huệ cũng không chứng đắc,
Bởi có gì là chổ đắc đâu.
Bấy lâu Bồ tát dựa vào,
Trí Ba la mật thẳm sâu thực hành.

Mọi chướng ngại quanh mình tan biến,
Mọi việc đều chẳng khiến hoảng kinh,
Xa lìa mộng tưởng đão điên,
Niết Bàn rốt ráo an nhiên thanh nhàn.

Bát nhã ấy rõ ràng trí tuệ,
Mà ba đời chư Phật nương vào,
Chứng thành quả giác tối cao,
Nên xem Bát nhã thâm sâu đó là:

Lời thần chú sâu xa bậc nhất,
Lời chú thần rất mực quang minh,
Chú thần cao cả anh linh,
Là lời thần chú thật tình cao siêu.

Trừ dứt được mọi điều đau khổ,
Đúng như vầy muôn thuở không sai.
Ngài liền truyền nói chú nầy,
Để người trì niệm sáng bày chơn tâm:

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.