thuykhanh
04-01-2017, 03:35 PM
Sự Triệt Thoái Của Mỹ Trước Viễn Ảnh Thế Chiến III
https://3.bp.blogspot.com/-CUQ8vGOyxhM/WNlJQKgBKLI/AAAAAAAAjn8/4rigap0qLyA1NHJohDFmzUJUwPifMGHDwCLcB/s640/Putin-Jinping-Trump.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-CUQ8vGOyxhM/WNlJQKgBKLI/AAAAAAAAjn8/4rigap0qLyA1NHJohDFmzUJUwPifMGHDwCLcB/s1600/Putin-Jinping-Trump.jpg)
Nguyên văn bài báo Backing Into World War III (1) của tác giả Robert Kagan đăng trên foreignpolicy.com
ngày 06 tháng 02, 2017. Robert Kagan là senior fellow tại Brookings Institution và còn là tác giả của quyển
The World America Made.
Trần Trung Tín chuyển ngữ
"Nước Mỹ phải kiểm tra sức mạnh đang lên và cứng rắn của Nga và Trung Hoa trước khi quá trễ.
Chấp nhận những đòi hỏi về lãnh vực ảnh hưởng là phương thức của thảm họa."
Hãy nghĩ về hai đường thẳng tiêu biểu cho khuynh hướng nổi bật trên thế giới ngày nay.
Đường thẳng thứ nhất tiêu biểu cho khuynh hướng của tham vọng và chính sách chủ động hoạt động (activism) ngày càng tăng của hai cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng (revisionist powers) là Nga và Trung Hoa.
Đường thẳng thứ hai tiêu biểu cho khuynh hướng đang suy thoái của sự tự tin, năng lực, và ý chí của thế giới dân chủ, và nhất là của Hoa Kỳ, để giữ vững vị trí ưu thế trên trường quốc tế từ năm 1945.
Khi hai đường thẳng này đến gần nhau hơn, khi ý chí và năng lực để duy trì trật tự thế giới hiện nay của Hoa Kỳ và đồng minh đang suy thoái gặp đúng ngay sự khao khát và năng lực ngày càng gia tăng của những cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng, thì lúc đó chúng ta sẽ đạt đến thời điểm mà trật tự hiện hành sẽ sụp đổ và thế giới rơi vào một giai đoạn tàn bạo vô chính phủ, như đã xẩy ra ba lần trong hai thế kỷ qua.
Tổn phí của sự suy bại đó, tính theo mạng sống và của cải, tính theo tự do bị mất mát và hy vọng đã tan vỡ, sẽ rất là kinh hoàng.
"Ngày nay chúng ta đang chính xác đứng ở đâu trong kịch bản cổ điển, còn bao xa thì hai đường thẳng tiêu biểu cho hai khuynh hướng ghi nhận bên trên sẽ gặp nhau tại giao điểm, và vẫn luôn như tự thuở nào, đó là những gì hoàn toàn không ai biết được.
Còn ba năm nữa sẽ đến cuộc khủng hoảng toàn cầu, hay 15 năm?"
Người Mỹ có khuynh hướng xem sự ổn định căn bản của trật tự quốc tế là chuyện đương nhiên, ngay cả khi than phiền về gánh nặng mà Hoa Kỳ phải cưu mang để bảo toàn sự ổn định đó.
Tuy nhiên, lịch sử cho thấy trật tự thế giới cũng bị sụp đổ, và khi xẩy ra thì thường là bất ngờ, nhanh chóng và hung bạo.
Cuối thế kỷ 18 là cao điểm của Thời kỳ Khai sáng (Enlightenment) ở Âu châu, trước khi lục địa này đột ngột rớt xuống vực thẳm của Chiến tranh Napoleon.
Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, những đầu óc thông minh nhất của thế giới tiên đoán xung đột của quyền lực to lớn sẽ chấm dứt khi những cuộc cách mạng về truyền thông và giao thông nối kết kinh tế và con người lại gần nhau hơn.
Nhưng cuộc chiến tranh khốc hại nhất trong lịch sử đã xảy đến bốn năm sau đó. Sự bình yên rõ nét của những năm hậu chiến trong thập niên 1920s đã trở thành những năm bị khủng hoảng trong thập niên 1930s và rồi là một thế chiến khác.
Ngày nay chúng ta đang chính xác đứng ở đâu trong kịch bản cổ điển, còn bao xa thì hai đường thẳng tiêu biểu cho hai khuynh hướng ghi nhận bên trên sẽ gặp nhau tại giao điểm, và vẫn luôn như tự thuở nào, đó là những gì hoàn toàn không ai biết được.
Còn ba năm nữa sẽ đến cuộc khủng hoảng toàn cầu, hay 15 năm? Tuy nhiên, chúng ta đang ở đâu đó trên con đường này, và đó là
điều không thể lầm lẫn.
Và trong khi còn quá sớm để biết chính sách của Donald Trump sẽ có ảnh hưởng gì lên những khuynh hướng này, những dấu hiệu ban đầu cho thấy chính quyền mới có nhiều phần sẽ đưa chúng ta đến khủng hoảng nhanh hơn thay vì làm chậm hoặc làm ngược lại khuynh hướng này.
Càng nhượng bộ Nga thì chỉ có thể khuyến khích thêm Vladimir Putin và cứng rắn nói chuyện với Trung Hoa sẽ có thể đưa Bắc Kinh đến chỗ thử nghiệm quyết tâm về quân sự của chính quyền mới.
Việc tổng thống có sẵn sàng cho một cuộc đối đầu như vậy hay không thì đó là điều hoàn toàn không rõ rệt. Trong thời điểm này, dường như ông ta không suy nghĩ nhiều về những hậu quả trong tương lai
của xảo biện (rhetoric) và những hành động của ông.
Trung Hoa và Nga là điển hình của các cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng. Mặc dù so với quá khứ, hiện nay cả hai hưởng được một nền an ninh tốt đẹp hơn từ các cường quốc bên ngoài, phần Nga thì từ kẻ thù truyền thống ở phía tây, phần Trung Hoa thì từ kẻ thù truyền thống ở phía đông, nhưng Nga và Tàu vẫn không hài lòng với sự sắp xếp của quyền lực toàn cầu như hiện nay.
Cả hai đều tìm cách khôi phục lại ưu thế bá chủ mà họ đã có thời nắm giữ trong các khu vực tương ứng của họ.
Đối với Trung Hoa, có nghĩa là sự ngự trị Đông Á, với các nước như Nhật Bản, Nam Hàn và các quốc gia Đông Nam Á tuân phục theo ý muốn của Bắc Kinh và hành động theo khuôn khổ của các ưu tiên chiến lược, kinh tế và chính trị của Trung Hoa.
Điều đó gồm luôn việc ảnh hưởng của Mỹ phải bị thu hẹp lại về phía đông Thái Bình Dương, lùi lại phia sau quần đảo Hawaii.
Đối với Nga, điều đó có nghĩa là có ảnh hưởng bá chủ ở Trung Âu và Đông Âu, và Trung Á, mà Moscow theo truyền thống xem đó là một phần của đế quốc của họ hoặc một phần của phạm vi ảnh hưởng của họ.
Cả Bắc Kinh và Moscow đều tìm cách sửa đổi lại điều mà họ cho là một sự phân bố quyền lực, ảnh hưởng và danh dự không công bằng trong trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo sau thế chiến.
Là chế độ độc tài, cả hai đều cảm thấy bị đe dọa bởi những quốc gia dân chủ nắm ưu thế trong hệ thống quốc tế và bởi các nền dân chủ ngay trên biên giới của họ.
Cả hai đều xem Hoa Kỳ là chướng ngại chính đối với tham vọng của họ, và vì vậy họ đều tìm cách làm suy yếu trật tự an ninh quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo vốn đang đứng cản đường không để họ đạt được điều mà họ xem là vận mạng chân chính (rightful destinies) của họ.
Còn tốt đẹp trong khi còn tồn tại
Cho đến gần đây, Nga và Trung Hoa đã đối diện với những trở ngại đáng kể, gần như không thể vượt qua, để đạt được các mục tiêu của họ.
Trở ngại chính là sức mạnh và sự mạch lạc của chính trật tự quốc tế và người đứng trụ nâng đỡ và bảo vệ nó. Hệ thống các liên minh chính trị và quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo, đặc biệt ở hai khu vực quan yếu tại Âu châu và Đông Á, đã đưa ra cho Trung Hoa và Nga những gì mà Dean Acheson
từng gọi là "hiện trạng của sức mạnh" (situations of strength)(2) vốn đòi hỏi họ phải thận trọng khi
theo đuổi tham vọng, và, từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, để làm trì hoãn lại các nỗ lực nghiêm trọng nhằm làm rối loạn hệ thống quốc tế.
Trong kỷ nguyên mà người Mỹ dẫn đầu, Trung Hoa và Nga đã tham dự và phần lớn đã là những kẻ thừa hưởng những lợi nhuận từ hệ thống kinh tế quốc tế cởi mở mà Hoa Kỳ đã tạo ra và giúp duy trì; ngày nào hệ thống đó còn hoạt động, họ vẫn được hưởng lợi nhiều trong hệ thống đó hơn là thách thức và lật đổ nó.
Hệ thống quốc tế đó đã kiểm tra tham vọng của họ theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực.
Trong kỷ nguyên mà người Mỹ dẫn đầu, Trung Hoa và Nga đã tham dự và phần lớn đã là những kẻ thừa hưởng những lợi nhuận từ hệ thống kinh tế quốc tế cởi mở mà Hoa Kỳ đã tạo ra và giúp duy trì; ngày nào hệ thống đó còn hoạt động, họ vẫn được hưởng lợi nhiều trong hệ thống đó hơn là thách thức và lật đổ nó.
Tuy nhiên, các khía cạnh chính trị và chiến lược của trật tự này đã gây thiệt hại cho họ. Sự tăng trưởng và sống động của chính quyền dân chủ qua hai thập niên theo sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Xô Viết đã gây ra một mối đe dọa liên tục đối với khả năng của các nhà cai trị ở Bắc Kinh
và Moscow để duy trì được sự kiểm soát, và kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, họ đã coi mọi
tiến bộ của các thể chế dân chủ - đặc biệt là sự lan rộng về mặt địa lý của các nền dân chủ tự do
gần biên giới của họ - như là mối đe dọa cho sự sống còn của họ.
Đó là vì lý do rất rõ rệt: Quyền lực độc tài kể từ những ngày của Klemens von Metternich luôn luôn lo sợ sự lan truyền của chủ nghĩa
tự do.
Sự tồn tại của các nền dân chủ ngay trên biên giới của ho, luồng thông tin tự do toàn cầu mà họ không thể kiểm soát, sự nối kết nguy hiểm giữa chủ nghĩa thị trường tự do của tư bản và tự do chính trị -
tất cả đều đưa mối đe dọa đến cho các nhà cai trị (mà sự tồn vong của họ) bị lệ thuộc vào việc kềm giữ được các lực lượng bất mãn ở các quốc gia của họ.
Tính cách hợp pháp của luật tắc cai trị của
họ bị liên tục thách thức bởi trật tự dân chủ do Hoa Kỳ ủng hộ vì vậy đã nghiễm nhiên làm cho các quốc gia này trở nên thù địch với trật tự đó và cả với Hoa Kỳ.
Nhưng, cho đến lúc gần đây, sự vượt trội lên của các lực lượng trong nước và quốc tế đã khuyến cáo họ không nên trực tiếp đối đầu với các trật tự đó. Các nhà cai trị người Tàu đã phải lo lắng về những gì mà một cuộc đối đầu không thành công với Hoa Kỳ có thể làm nguy hại đến tính cách hợp pháp của họ tại Trung Hoa. Ngay cả Putin cũng chỉ gõ vào những cánh cửa mở, như ở Syria, một nơi mà
Hoa Kỳ đã phản ứng một cách thụ động trước những thăm dò của ông ta. Ông đã thận trọng hơn khi đương đầu với sự chống đối của Hoa Kỳ và Âu châu, dù chỉ là hạn chế, như ở Ukraine.
Ràng buộc lớn nhất cho tham vọng của Trung Hoa và Nga nằm nơi sức mạnh quân sự và kinh tế
của Hoa Kỳ và các đồng minh Âu và Á. Mặc dù càng ngày càng mạnh, Trung Hoa đã phải cân nhắc đến việc đương đầu với sức mạnh quân sự và kinh tế của siêu cường thế giới và một số cường quốc khu vực đáng gờm được nối kết bởi liên minh hay bởi lợi ích chiến lược chung - gồm Nhật Bản, Ấn Độ
và Nam Hàn cũng như nhỏ hơn nhưng vẫn có lực như Việt Nam và Úc. Nga đã phải đối diện với Hoa Kỳ và các đồng minh của NATO.
Khi hợp nhất, những liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo tạo ra một thách thức đáng gờm cho một cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng mà vốn chỉ có thể trông cậy vào một vài đồng minh để được trợ giúp. Ngay cả khi đạt được chiến thắng trong cuộc xung đột, chẳng hạn như áp đặt sự chiếm đóng quân sự lên Đài Loan hoặc sau một cuộc đụng độ hải quân tại Biển Đông hoặc Biển Đông Trung Hoa,
về lâu dài Trung Hoa sẽ phải đối phó với năng lực sản xuất kỹ nghệ của một số quốc gia giầu nhất và có kỹ thuật tân tiến nhất thế giới được kết hợp lại và Trung Hoa sẽ phải đương đầu với việc bị ngăn chận không cho tiếp cận (access) với các thị trường nước ngoài vốn là nơi mà nền kinh tế của Trung Hoa bị phụ thuộc.
Một nước Nga yếu hơn, với một dân số sút giảm và nền kinh tế bị lệ thuộc vào dầu khí, sẽ đối diện với một thách thức còn lớn hơn nữa.
Trong nhiều thập niên, vị thế toàn cầu mạnh mẽ của Hoa Kỳ và đồng minh đã làm nản lòng bất kỳ thách thức nghiêm trọng nào.
Chừng nào Hoa Kỳ vẫn còn được cảm nhận là một đồng minh đáng tin cậy, thì các nhà lãnh đạo Tàu và Nga vẫn sợ rằng những chuyển động gây hấn của họ sẽ có phản úng ngược và có thể hạ bệ chế độ của họ. Đây là những gì mà nhà khoa học chính trị William Wohlforth có lần mô tả như là sự ổn định cố hữu của một trật tự đơn cực (stability of the unipolar order)(3):
Khi các cường quốc bất mãn trong khu vực tìm cách thách thức hiện trạng, thời các nước láng giềng bị báo động của họ sẽ quay sang siêu cường Mỹ xa xôi để nhờ ngăn chận lại tham vọng của họ.
Và điều đó đã có kết quả tốt. Hoa Kỳ tiến bước lên, và Nga và Trung Hoa phần lớn đã lùi lại - hoặc lùi lại ngay cả trước khi Hoa Kỳ có hành động.
Phải đối diện với những trở ngại này, chọn lựa tốt nhất của hai cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng luôn luôn là hy vọng hoặc, nếu có thể, làm suy yếu trật tự thế giới do Hoa Kỳ hỗ trợ từ bên trong, hoặc bằng cách tách Hoa Kỳ ra khỏi đồng minh hoặc bằng cách tạo nghi ngờ về sự cam kết của
Hoa Kỳ và từ đó khuyến khích các đồng minh và đối tác để họ từ bỏ sự bảo vệ chiến lược của trật tự
thế giới tự do và mưu tìm một chỗ đứng dung hòa với những kẻ đang thách thức.
Vì vậy hệ thống hiện tại không chỉ tùy thuộc vào sức mạnh của Hoa Kỳ mà còn vào sự mạch lạc và thống nhất ngay trái tim của thế giới dân chủ.
Hoa Kỳ phải đóng vai người bảo đảm chính cho trật tự đó, đặc biệt là trong lãnh vực quân sự và
chiến lược, nhưng phần cốt lõi về tư tưởng và kinh tế của trật tự này - các nền dân chủ của Âu châu và Đông Á và Thái Bình Dương - cũng phải được duy trì một cách tương đối lành mạnh và tự tin.
Trong những năm gần đây, cả hai trụ cột nói trên đều bị lung lay. Trật tự dân chủ đã suy yếu và rạn
nứt nơi cốt lõi. Các điều kiện kinh tế khó khăn, sự hồi phục chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bộ lạc (tribalism - hàm ý nói đặt nặng lên bản sắc văn hoá hoặc sắc tộc - cultural or ethnic identity -
TTT), sự lãnh đạo chính trị yếu ớt và bấp bênh (uncertain) và các đảng chính trị dòng chính bị bất động (unresponsive), và một kỷ nguyên mới của truyền thông có vẻ như củng cố thêm chứ không phải là làm yếu đi chủ nghĩa bộ lạc đã cùng nhau tạo ra một cuộc khủng hoảng về sự tự tin không phải chỉ ở các nền dân chủ mà còn ở những gì có thể được gọi là dự án khai sáng tự do.
Dự án đó đã đề cao các nguyên tắc phổ cập về các quyền cá nhân và nhân loại chung để đứng lên trên những khác biệt về sắc tộc (ethnic), chủng tộc (racial), tôn giáo, quốc gia hoặc bộ lạc.
Dự án đó đã nhìn vào sự lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng để tạo lợi ích chung vượt qua biên giới và đến tới sự thành lập các tổ chức quốc tế để san bằng khác biệt và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia. Thay vào đó, thập niên vừa
qua đã nhìn thấy sự trỗi dậy của chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa dân tộc, càng ngày càng tập trung vào Kẻ khác (Other) trong tất cả các xã hội, và sự mất lòng tin vào chính quyền, trong hệ thống tư bản và trong nền dân chủ.
Chúng ta đang chứng kiến phần đối nghịch lại của "kết thúc của lịch sử" của Francis Fukuyama. Lịch sử đang quay lại phục hận và với nó tất cả những khía cạnh tối tăm của linh hồn con người, gồm luôn, đối với nhiều người, khát vọng lâu năm muốn có được một nhà lãnh đạo mạnh mẽ để đưa ra hướng dẫn vững chãi tại một thời điểm của lẫn lộn (confusion) và không mạch lạc.
(Còn tiếp)
Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (dslamvien.com)
https://3.bp.blogspot.com/-CUQ8vGOyxhM/WNlJQKgBKLI/AAAAAAAAjn8/4rigap0qLyA1NHJohDFmzUJUwPifMGHDwCLcB/s640/Putin-Jinping-Trump.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-CUQ8vGOyxhM/WNlJQKgBKLI/AAAAAAAAjn8/4rigap0qLyA1NHJohDFmzUJUwPifMGHDwCLcB/s1600/Putin-Jinping-Trump.jpg)
Nguyên văn bài báo Backing Into World War III (1) của tác giả Robert Kagan đăng trên foreignpolicy.com
ngày 06 tháng 02, 2017. Robert Kagan là senior fellow tại Brookings Institution và còn là tác giả của quyển
The World America Made.
Trần Trung Tín chuyển ngữ
"Nước Mỹ phải kiểm tra sức mạnh đang lên và cứng rắn của Nga và Trung Hoa trước khi quá trễ.
Chấp nhận những đòi hỏi về lãnh vực ảnh hưởng là phương thức của thảm họa."
Hãy nghĩ về hai đường thẳng tiêu biểu cho khuynh hướng nổi bật trên thế giới ngày nay.
Đường thẳng thứ nhất tiêu biểu cho khuynh hướng của tham vọng và chính sách chủ động hoạt động (activism) ngày càng tăng của hai cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng (revisionist powers) là Nga và Trung Hoa.
Đường thẳng thứ hai tiêu biểu cho khuynh hướng đang suy thoái của sự tự tin, năng lực, và ý chí của thế giới dân chủ, và nhất là của Hoa Kỳ, để giữ vững vị trí ưu thế trên trường quốc tế từ năm 1945.
Khi hai đường thẳng này đến gần nhau hơn, khi ý chí và năng lực để duy trì trật tự thế giới hiện nay của Hoa Kỳ và đồng minh đang suy thoái gặp đúng ngay sự khao khát và năng lực ngày càng gia tăng của những cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng, thì lúc đó chúng ta sẽ đạt đến thời điểm mà trật tự hiện hành sẽ sụp đổ và thế giới rơi vào một giai đoạn tàn bạo vô chính phủ, như đã xẩy ra ba lần trong hai thế kỷ qua.
Tổn phí của sự suy bại đó, tính theo mạng sống và của cải, tính theo tự do bị mất mát và hy vọng đã tan vỡ, sẽ rất là kinh hoàng.
"Ngày nay chúng ta đang chính xác đứng ở đâu trong kịch bản cổ điển, còn bao xa thì hai đường thẳng tiêu biểu cho hai khuynh hướng ghi nhận bên trên sẽ gặp nhau tại giao điểm, và vẫn luôn như tự thuở nào, đó là những gì hoàn toàn không ai biết được.
Còn ba năm nữa sẽ đến cuộc khủng hoảng toàn cầu, hay 15 năm?"
Người Mỹ có khuynh hướng xem sự ổn định căn bản của trật tự quốc tế là chuyện đương nhiên, ngay cả khi than phiền về gánh nặng mà Hoa Kỳ phải cưu mang để bảo toàn sự ổn định đó.
Tuy nhiên, lịch sử cho thấy trật tự thế giới cũng bị sụp đổ, và khi xẩy ra thì thường là bất ngờ, nhanh chóng và hung bạo.
Cuối thế kỷ 18 là cao điểm của Thời kỳ Khai sáng (Enlightenment) ở Âu châu, trước khi lục địa này đột ngột rớt xuống vực thẳm của Chiến tranh Napoleon.
Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, những đầu óc thông minh nhất của thế giới tiên đoán xung đột của quyền lực to lớn sẽ chấm dứt khi những cuộc cách mạng về truyền thông và giao thông nối kết kinh tế và con người lại gần nhau hơn.
Nhưng cuộc chiến tranh khốc hại nhất trong lịch sử đã xảy đến bốn năm sau đó. Sự bình yên rõ nét của những năm hậu chiến trong thập niên 1920s đã trở thành những năm bị khủng hoảng trong thập niên 1930s và rồi là một thế chiến khác.
Ngày nay chúng ta đang chính xác đứng ở đâu trong kịch bản cổ điển, còn bao xa thì hai đường thẳng tiêu biểu cho hai khuynh hướng ghi nhận bên trên sẽ gặp nhau tại giao điểm, và vẫn luôn như tự thuở nào, đó là những gì hoàn toàn không ai biết được.
Còn ba năm nữa sẽ đến cuộc khủng hoảng toàn cầu, hay 15 năm? Tuy nhiên, chúng ta đang ở đâu đó trên con đường này, và đó là
điều không thể lầm lẫn.
Và trong khi còn quá sớm để biết chính sách của Donald Trump sẽ có ảnh hưởng gì lên những khuynh hướng này, những dấu hiệu ban đầu cho thấy chính quyền mới có nhiều phần sẽ đưa chúng ta đến khủng hoảng nhanh hơn thay vì làm chậm hoặc làm ngược lại khuynh hướng này.
Càng nhượng bộ Nga thì chỉ có thể khuyến khích thêm Vladimir Putin và cứng rắn nói chuyện với Trung Hoa sẽ có thể đưa Bắc Kinh đến chỗ thử nghiệm quyết tâm về quân sự của chính quyền mới.
Việc tổng thống có sẵn sàng cho một cuộc đối đầu như vậy hay không thì đó là điều hoàn toàn không rõ rệt. Trong thời điểm này, dường như ông ta không suy nghĩ nhiều về những hậu quả trong tương lai
của xảo biện (rhetoric) và những hành động của ông.
Trung Hoa và Nga là điển hình của các cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng. Mặc dù so với quá khứ, hiện nay cả hai hưởng được một nền an ninh tốt đẹp hơn từ các cường quốc bên ngoài, phần Nga thì từ kẻ thù truyền thống ở phía tây, phần Trung Hoa thì từ kẻ thù truyền thống ở phía đông, nhưng Nga và Tàu vẫn không hài lòng với sự sắp xếp của quyền lực toàn cầu như hiện nay.
Cả hai đều tìm cách khôi phục lại ưu thế bá chủ mà họ đã có thời nắm giữ trong các khu vực tương ứng của họ.
Đối với Trung Hoa, có nghĩa là sự ngự trị Đông Á, với các nước như Nhật Bản, Nam Hàn và các quốc gia Đông Nam Á tuân phục theo ý muốn của Bắc Kinh và hành động theo khuôn khổ của các ưu tiên chiến lược, kinh tế và chính trị của Trung Hoa.
Điều đó gồm luôn việc ảnh hưởng của Mỹ phải bị thu hẹp lại về phía đông Thái Bình Dương, lùi lại phia sau quần đảo Hawaii.
Đối với Nga, điều đó có nghĩa là có ảnh hưởng bá chủ ở Trung Âu và Đông Âu, và Trung Á, mà Moscow theo truyền thống xem đó là một phần của đế quốc của họ hoặc một phần của phạm vi ảnh hưởng của họ.
Cả Bắc Kinh và Moscow đều tìm cách sửa đổi lại điều mà họ cho là một sự phân bố quyền lực, ảnh hưởng và danh dự không công bằng trong trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo sau thế chiến.
Là chế độ độc tài, cả hai đều cảm thấy bị đe dọa bởi những quốc gia dân chủ nắm ưu thế trong hệ thống quốc tế và bởi các nền dân chủ ngay trên biên giới của họ.
Cả hai đều xem Hoa Kỳ là chướng ngại chính đối với tham vọng của họ, và vì vậy họ đều tìm cách làm suy yếu trật tự an ninh quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo vốn đang đứng cản đường không để họ đạt được điều mà họ xem là vận mạng chân chính (rightful destinies) của họ.
Còn tốt đẹp trong khi còn tồn tại
Cho đến gần đây, Nga và Trung Hoa đã đối diện với những trở ngại đáng kể, gần như không thể vượt qua, để đạt được các mục tiêu của họ.
Trở ngại chính là sức mạnh và sự mạch lạc của chính trật tự quốc tế và người đứng trụ nâng đỡ và bảo vệ nó. Hệ thống các liên minh chính trị và quân sự do Hoa Kỳ lãnh đạo, đặc biệt ở hai khu vực quan yếu tại Âu châu và Đông Á, đã đưa ra cho Trung Hoa và Nga những gì mà Dean Acheson
từng gọi là "hiện trạng của sức mạnh" (situations of strength)(2) vốn đòi hỏi họ phải thận trọng khi
theo đuổi tham vọng, và, từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, để làm trì hoãn lại các nỗ lực nghiêm trọng nhằm làm rối loạn hệ thống quốc tế.
Trong kỷ nguyên mà người Mỹ dẫn đầu, Trung Hoa và Nga đã tham dự và phần lớn đã là những kẻ thừa hưởng những lợi nhuận từ hệ thống kinh tế quốc tế cởi mở mà Hoa Kỳ đã tạo ra và giúp duy trì; ngày nào hệ thống đó còn hoạt động, họ vẫn được hưởng lợi nhiều trong hệ thống đó hơn là thách thức và lật đổ nó.
Hệ thống quốc tế đó đã kiểm tra tham vọng của họ theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực.
Trong kỷ nguyên mà người Mỹ dẫn đầu, Trung Hoa và Nga đã tham dự và phần lớn đã là những kẻ thừa hưởng những lợi nhuận từ hệ thống kinh tế quốc tế cởi mở mà Hoa Kỳ đã tạo ra và giúp duy trì; ngày nào hệ thống đó còn hoạt động, họ vẫn được hưởng lợi nhiều trong hệ thống đó hơn là thách thức và lật đổ nó.
Tuy nhiên, các khía cạnh chính trị và chiến lược của trật tự này đã gây thiệt hại cho họ. Sự tăng trưởng và sống động của chính quyền dân chủ qua hai thập niên theo sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Xô Viết đã gây ra một mối đe dọa liên tục đối với khả năng của các nhà cai trị ở Bắc Kinh
và Moscow để duy trì được sự kiểm soát, và kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, họ đã coi mọi
tiến bộ của các thể chế dân chủ - đặc biệt là sự lan rộng về mặt địa lý của các nền dân chủ tự do
gần biên giới của họ - như là mối đe dọa cho sự sống còn của họ.
Đó là vì lý do rất rõ rệt: Quyền lực độc tài kể từ những ngày của Klemens von Metternich luôn luôn lo sợ sự lan truyền của chủ nghĩa
tự do.
Sự tồn tại của các nền dân chủ ngay trên biên giới của ho, luồng thông tin tự do toàn cầu mà họ không thể kiểm soát, sự nối kết nguy hiểm giữa chủ nghĩa thị trường tự do của tư bản và tự do chính trị -
tất cả đều đưa mối đe dọa đến cho các nhà cai trị (mà sự tồn vong của họ) bị lệ thuộc vào việc kềm giữ được các lực lượng bất mãn ở các quốc gia của họ.
Tính cách hợp pháp của luật tắc cai trị của
họ bị liên tục thách thức bởi trật tự dân chủ do Hoa Kỳ ủng hộ vì vậy đã nghiễm nhiên làm cho các quốc gia này trở nên thù địch với trật tự đó và cả với Hoa Kỳ.
Nhưng, cho đến lúc gần đây, sự vượt trội lên của các lực lượng trong nước và quốc tế đã khuyến cáo họ không nên trực tiếp đối đầu với các trật tự đó. Các nhà cai trị người Tàu đã phải lo lắng về những gì mà một cuộc đối đầu không thành công với Hoa Kỳ có thể làm nguy hại đến tính cách hợp pháp của họ tại Trung Hoa. Ngay cả Putin cũng chỉ gõ vào những cánh cửa mở, như ở Syria, một nơi mà
Hoa Kỳ đã phản ứng một cách thụ động trước những thăm dò của ông ta. Ông đã thận trọng hơn khi đương đầu với sự chống đối của Hoa Kỳ và Âu châu, dù chỉ là hạn chế, như ở Ukraine.
Ràng buộc lớn nhất cho tham vọng của Trung Hoa và Nga nằm nơi sức mạnh quân sự và kinh tế
của Hoa Kỳ và các đồng minh Âu và Á. Mặc dù càng ngày càng mạnh, Trung Hoa đã phải cân nhắc đến việc đương đầu với sức mạnh quân sự và kinh tế của siêu cường thế giới và một số cường quốc khu vực đáng gờm được nối kết bởi liên minh hay bởi lợi ích chiến lược chung - gồm Nhật Bản, Ấn Độ
và Nam Hàn cũng như nhỏ hơn nhưng vẫn có lực như Việt Nam và Úc. Nga đã phải đối diện với Hoa Kỳ và các đồng minh của NATO.
Khi hợp nhất, những liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo tạo ra một thách thức đáng gờm cho một cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng mà vốn chỉ có thể trông cậy vào một vài đồng minh để được trợ giúp. Ngay cả khi đạt được chiến thắng trong cuộc xung đột, chẳng hạn như áp đặt sự chiếm đóng quân sự lên Đài Loan hoặc sau một cuộc đụng độ hải quân tại Biển Đông hoặc Biển Đông Trung Hoa,
về lâu dài Trung Hoa sẽ phải đối phó với năng lực sản xuất kỹ nghệ của một số quốc gia giầu nhất và có kỹ thuật tân tiến nhất thế giới được kết hợp lại và Trung Hoa sẽ phải đương đầu với việc bị ngăn chận không cho tiếp cận (access) với các thị trường nước ngoài vốn là nơi mà nền kinh tế của Trung Hoa bị phụ thuộc.
Một nước Nga yếu hơn, với một dân số sút giảm và nền kinh tế bị lệ thuộc vào dầu khí, sẽ đối diện với một thách thức còn lớn hơn nữa.
Trong nhiều thập niên, vị thế toàn cầu mạnh mẽ của Hoa Kỳ và đồng minh đã làm nản lòng bất kỳ thách thức nghiêm trọng nào.
Chừng nào Hoa Kỳ vẫn còn được cảm nhận là một đồng minh đáng tin cậy, thì các nhà lãnh đạo Tàu và Nga vẫn sợ rằng những chuyển động gây hấn của họ sẽ có phản úng ngược và có thể hạ bệ chế độ của họ. Đây là những gì mà nhà khoa học chính trị William Wohlforth có lần mô tả như là sự ổn định cố hữu của một trật tự đơn cực (stability of the unipolar order)(3):
Khi các cường quốc bất mãn trong khu vực tìm cách thách thức hiện trạng, thời các nước láng giềng bị báo động của họ sẽ quay sang siêu cường Mỹ xa xôi để nhờ ngăn chận lại tham vọng của họ.
Và điều đó đã có kết quả tốt. Hoa Kỳ tiến bước lên, và Nga và Trung Hoa phần lớn đã lùi lại - hoặc lùi lại ngay cả trước khi Hoa Kỳ có hành động.
Phải đối diện với những trở ngại này, chọn lựa tốt nhất của hai cường quốc muốn thay đổi nguyên trạng luôn luôn là hy vọng hoặc, nếu có thể, làm suy yếu trật tự thế giới do Hoa Kỳ hỗ trợ từ bên trong, hoặc bằng cách tách Hoa Kỳ ra khỏi đồng minh hoặc bằng cách tạo nghi ngờ về sự cam kết của
Hoa Kỳ và từ đó khuyến khích các đồng minh và đối tác để họ từ bỏ sự bảo vệ chiến lược của trật tự
thế giới tự do và mưu tìm một chỗ đứng dung hòa với những kẻ đang thách thức.
Vì vậy hệ thống hiện tại không chỉ tùy thuộc vào sức mạnh của Hoa Kỳ mà còn vào sự mạch lạc và thống nhất ngay trái tim của thế giới dân chủ.
Hoa Kỳ phải đóng vai người bảo đảm chính cho trật tự đó, đặc biệt là trong lãnh vực quân sự và
chiến lược, nhưng phần cốt lõi về tư tưởng và kinh tế của trật tự này - các nền dân chủ của Âu châu và Đông Á và Thái Bình Dương - cũng phải được duy trì một cách tương đối lành mạnh và tự tin.
Trong những năm gần đây, cả hai trụ cột nói trên đều bị lung lay. Trật tự dân chủ đã suy yếu và rạn
nứt nơi cốt lõi. Các điều kiện kinh tế khó khăn, sự hồi phục chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bộ lạc (tribalism - hàm ý nói đặt nặng lên bản sắc văn hoá hoặc sắc tộc - cultural or ethnic identity -
TTT), sự lãnh đạo chính trị yếu ớt và bấp bênh (uncertain) và các đảng chính trị dòng chính bị bất động (unresponsive), và một kỷ nguyên mới của truyền thông có vẻ như củng cố thêm chứ không phải là làm yếu đi chủ nghĩa bộ lạc đã cùng nhau tạo ra một cuộc khủng hoảng về sự tự tin không phải chỉ ở các nền dân chủ mà còn ở những gì có thể được gọi là dự án khai sáng tự do.
Dự án đó đã đề cao các nguyên tắc phổ cập về các quyền cá nhân và nhân loại chung để đứng lên trên những khác biệt về sắc tộc (ethnic), chủng tộc (racial), tôn giáo, quốc gia hoặc bộ lạc.
Dự án đó đã nhìn vào sự lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng để tạo lợi ích chung vượt qua biên giới và đến tới sự thành lập các tổ chức quốc tế để san bằng khác biệt và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia. Thay vào đó, thập niên vừa
qua đã nhìn thấy sự trỗi dậy của chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa dân tộc, càng ngày càng tập trung vào Kẻ khác (Other) trong tất cả các xã hội, và sự mất lòng tin vào chính quyền, trong hệ thống tư bản và trong nền dân chủ.
Chúng ta đang chứng kiến phần đối nghịch lại của "kết thúc của lịch sử" của Francis Fukuyama. Lịch sử đang quay lại phục hận và với nó tất cả những khía cạnh tối tăm của linh hồn con người, gồm luôn, đối với nhiều người, khát vọng lâu năm muốn có được một nhà lãnh đạo mạnh mẽ để đưa ra hướng dẫn vững chãi tại một thời điểm của lẫn lộn (confusion) và không mạch lạc.
(Còn tiếp)
Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (dslamvien.com)