PDA

View Full Version : Thơ Hư Vô, Ngọn Lửa Đang Cháy Bùng Trong Yên Lặng



Hư Vô Úc Châu
12-07-2011, 11:02 PM
Thơ Hư Vô,
Ngọn Lửa Đang Cháy Bùng Trong Yên Lặng

Kiên Nguyễn


Hầu như về tất cả mọi phương diện, thế giới chúng ta sống ngày nay đã khác quá xa với thế giới đã được biểu lộ qua những dòng thơ của Hư Vô. Trong thơ của Hư Vô, Sàigòn là miền đất của những cặp tình nhân trẻ trung, yêu đời, yêu người. Thật vậy, tình yêu là một đề tài bất hủ khi ông viết về khoảng thời gian đó.


Tại em bước vội qua cầu,
Đâu hay ngọn tóc vướng vào vai anh…
(Người Tình Hư Vô)

Hoặc:

Nắng trong veo, thấu lụa là
Áo em mỏng quá lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn.
(Aó Hạ Vàng)

Đó là một thế giới tình yêu thật thà, đơn giản, thơ mộng, thủy chung, hiếm hoi và bất diệt dường như không còn thấy trong thế giới yêu đương thời hiện đại.

Đâu biết trước đời nhiều dâu bể
Chạy loanh quanh tóc đã hai màu
Tìm được lối về, trăng rơi xuống đất
Chúng mình mất hết, chỉ còn nhau
(Chúng Mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau)

Với phong cách phóng bút điêu luyện thơ tình của Hư Vô thủ thỉ với độc giả như những câu hò, lời ru tiếng hát không phải chỉ để tiêu khiển trong giây phút ngắn ngủi. Nó hàm chứa nhiều sự rung động của trái tim chan chứa tình yêu cùng thú đau thương tuyệt vời mà tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được.

Cuồng say hơn rượu phạt
Uống cho đầy một hơi
Cạn ly chưa cạn cuộc
Bên môi xưa rã rời.

Em ơi, đừng bối rối
Đời còn có bao lâu
Chắc gì nụ hôn cuối
Hay chỉ mới bắt đầu.
(Lận Đận Tìm Môi Nhau)

Giống như những bài hát trữ tình, thơ của ông cô đọng được nhiều nỗi ngọt ngào cay đắng của một mối tình lãng mạn. Tình yêu là linh hồn của tác giả, trong mỗi bài thơ dường như là một hơi thở từ tâm linh giục giã gọi nhau về. Ông đã mở rộng lối để có thể quay đi hoặc bước tới trước ngưỡng cửa của tình yêu.

Sau cánh cửa là thiên đàng.
Mở ra. Lạ chỗ, bàng hoàng hương đêm,
Khép vào. Một cõi vô biên.
Giữa đường trăng mật còn thơm môi trần.
(Lạ Chỗ)

Mối tình mà ông mong đợi, như ẩn như hiện, mơ hồ ảo vọng, hình bóng “ai” như có như không, thoảng qua như bóng như vang, chốc đã trôi về phương trời biền biệt... xa thẳm…

Gửi em sợi nắng vô thường
Về phơi nhan sắc hoang đường bên song
Em hình như có. Như không
Ta nghiêng cổ xuống giữa thòng lọng cao…
(Như Không)

Hoặc:

Hồn phách chia lìa đêm lạnh cóng.
Thật có em, thật có ta không?
(Sắc Không)

Tác giả tâm sự với độc giả qua ngòi bút điêu luyện, mỗi câu thơ là một âm vang lên xuống nhịp nhàng, tha thiết, mối tình tuyệt đẹp đã từng đến và đi ngang qua cuộc đời - êm ả, cuồng bạo như một luồng gió mạnh cuồn cuộn qua một cánh đồng mênh mông rồi tan biến vào hư vô.

Tôi vo tròn sợi tóc em huyền tuyệt
Buộc lại trần ai mối gút thăng trầm
Lần mò mãi vuột tay vào vô tận
Níu áo em về một nhúm hư không!
(Valentine, Mùa Vàng Son Đã Mãn)

Nếu văn chương được thể hiện qua một cuốn tiểu thuyết dài thì độc giả có nhiều thì giờ để hiểu rõ về những nhân vật trong truyện. Người viết bỏ rất công phu để tô điểm cho những nhân vật chính trong truyện của họ. Nhưng trong một bài thơ ngắn ngủi văn chương rất là bị hạn chế bởi vì người viết cũng như người đọc chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là dành rất ít thời gian cho nhân vật trong thơ. Bởi vì sự hạn chế này thì làm sao có thể bộc lộ được nỗi buồn vô hạn của một mối tình tuyệt vọng đã không còn nữa?

Đường đã cùng đã tận
Đâu còn chỗ rút chân
Lạnh tanh dòng trăng rụng
Nguyệt khuyết dấu lưng trần...
(Động Nguyệt)

Từ một cõi riêng của Hư Vô, với ngòi bút lão luyện và tâm hồn gắn bó trong văn chương ông đã chú trọng đến giá trị nghệ thuật văn học, vẻ đẹp gợi cảm, âm điệu nhịp nhàng, trang nhã và sang trọng của từ ngữ, cùng với những dòng thơ xúc tích ông đã gói ghém và trừu tượng hóa tình yêu của ông. Những uẩn khúc của tác giả trong tình yêu đã giúp ông che đậy những vết thương lòng.

Cõng cùng cái nỗi buồn tôi
Chân chưa động đất đã còi cọc em
Đường xa lạ hoắc lạ quen
Đâu còn ai đợi mà chen chúc vào.
(Cõi Không Chân)

Những dòng thơ càng ẩn dụ chừng nào thì từ ngữ trong thơ của ông dùng càng điêu luyện chừng đó và vì thế sự đớn đau mất mát càng sâu sắc và thâm thúy. Vì những lý do đó vết thương của trái tim tan vỡ đã được trang trải lên những bài thơ bằng những từ ngữ tượng hình, bóng bảy với âm điệu trữ tình lãng mạn.

Hỏi ta hồn phách đong đưa
Nghiêng hai con mắt cho vừa vặn đau
Một đời chổng cẳng hư hao
Đợi trăm năm nữa có lâu lắc gì!

Ta ngồi giữa lúc ta đi
Đường trần riêng một lối về, đó em
Mất nhau chưa kịp gọi tên
Trăng khuya mãn nguyệt, miếu đền bỏ hoang…
(Đợi Trăng)

Những dòng thơ hợp lại với nhau thành một tập thơ đã kết tụ một luồng ánh sáng chiếu thẳng vào tâm hồn của tác giả, phản ảnh tình yêu của ông với một người yêu độc nhất vô nhị - người yêu trong thơ đã cùng với tác giả rong chơi đắm say trên con đường tình ái trầm luân nghiệt ngã.

Nói tóm lại tập thơ bất hủ này đã cho tác giả một giọng nói mãnh liệt, diễn đạt được những ý tưởng thầm kín, lột tả được từng chi tiết nhỏ nhất, sống động của một ngọn lửa tưởng chừng như đã nguội tàn nhưng vẫn còn âm ỹ cháy trong tâm hồn đau đớn của tác giả với người tình qua những tháng năm dài chia cách.

Nhưng bạn hãy coi đi, tình yêu thơ mộng tuyệt vời đau đớn này sẽ còn dư âm văng vẳng mãi đến bất tận.

Kiên Nguyễn

ốc
12-08-2011, 09:09 PM
Không thấy được những cái "tình ái trầm luân nghiệt ngã" và "tình yêu thơ mộng tuyệt vời đau đớn" trong những câu thơ được trích dẫn. Cảm nhận chung chung là sự bình thản, thâm trầm, và đôi khi thêm một phần than thở.

Anh Kiên Nguyễn chả biết có tưởng tượng thêm, hay là biết được tâm sự riêng tây của tác giả nên nói vơ vào.

Hư Vô Úc Châu
12-11-2011, 05:25 AM
Nét Khúc Xạ Duy Thực Luận
Trong Thơ Tình Lãng Mạn Của Thi Sĩ Hư Vô…

Vương Thiên Vũ


Trong bài thơ Uất kim hương, Thi sĩ Hư Vô đã cho thế nhân một ý niệm, một định nghĩa về thơ tình lãng mạn như là niềm tin vĩnh cửu vào giá trị đích thực của những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hằng ngày hơn là đi tìm chân lý hữu thể “Chân thiện Mỹ “của lời thơ:

Đừng hỏi những câu thơ vô nghĩa
Vội vàng anh viết <<Qu’est – ce que l ‘amour?>>
Chính anh viết, anh còn không hiểu
Tự điển nào cắt nghĩa nổi chữ yêu.
(Uất kim hương, Qu’est – ce que l’amour? Thơ Hư Vô)

Nếu thế nhân lạc vào vườn thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô, nếu có thời gian mà ngâm vịnh theo bốn mùa của đất trời để tìm hiểu nhiều khía cạnh về con người, lòng yêu thương, cảm xúc, tình cảm …như là tìm về con người thực của chính mình (Hữu Tự Tại = Tiểu Ngã) trước không gian bao la của vũ trụ, thì hỡi thế nhân xin hãy đừng ngần ngại chi, mời vào lâu đài văn chương, đắm mình theo lời thơ, tiếng nhạc …của thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô để được tắm gội trong suối nguồn vô thức của dòng sông biến dịch Heraclitus, và hiểu rằng đàng sau thân thể và tâm trí, con người còn có một cái gì khác và chính cái khác này cấu tạo nên cái tôi đích thực của mỗi cá nhân:
Con người là sinh vật cảm nhận được những biến chuyển của tâm linh và những biến động của vũ trụ và thường ghi nhớ bao nỗi niềm thương cảm chất ngất tình người để biết rằng con người đang hiện hữu: Sự quay nhìn về thời xưa cũ và soi mình vào quá khứ của thời gian để ghi nhận những nét diễm kiều, huy hoàng, rực rỡ … của những hoàng hôn dĩ vãng và đón nhận những bình minh rạng rỡ của ngày mai như là tình yêu mến những tâm hồn sinh động của thế nhân, được thi sĩ Hư Vô ghi lại bằng lời thơ như là ông đã khắc lên vũ trụ vạn lời yêu thương:

Cõi ta, như đã mơ hồ
Cõi em, từ độ hư vô tượng hình
Giật mình hồn vía phiêu linh
Cơn đau đã đến thình lình đó em
(Cõi hoang – thơ Hư Vô)

Thi nhân đi tìm những bí ẩn sinh động trong cuộc sống với không biết bao nhiêu ưu phiền, trầm luân…bao gồm cả một dòng sông dĩ vãng, cả một thời xưa cũ, cả một dòng năm tháng đã trôi xa …và nó vẫn hiện hữu và biến động để hình thành một tương lai với những ước mơ, những kỳ vọng …cho một ngày mai tươi đẹp …
Mời thế nhân buông bỏ những ưu phiền buồn khổ của kiếp nhơn sinh ngắn ngủi, hãy để tâm hồn mình lắng động mà nghe lời thơ tạ tình thay hồn vô ngôn với những ẩn dụ vẫn hằng hiện hữu và mãi trường tồn trong dòng sông biến dịch của sinh thức: tình yêu thương và những tuyên ngôn của lòng trắc ẩn, chất chứa bao niềm thương cảm về sự hiện hữu của con người trong vũ trụ bao la, dẫu biết rằng thời gian thì biến dịch, không gian thì vô tận…và tất cả luôn luôn chuyển động ngoài tâm thức của con người nhưng ý chí, tâm hồn, tình cảm ….của con người thì nó vẫn hiện hữu và sừng sững như cội thông già trên trường sơn lộng gió …

Anh một đời nghiệt ngã
Cát lùa vàng dấu chân
Em bến bờ xa lạ
Khóc hoang phế đường trần.
(30 năm chưa gặp - thơ Hư Vô)

I - Ngôn Ngữ Thơ Hư Vô Với Ẩn Dụ Văn Chương

1 – Vài nét về nhà thơ Hư Vô

Thi sĩ Hư Vô tên thật là Hùng Võ, quê quán An xuyên, tỉnh Cà Mâu cuối trời Việt Nam, tuổi Kim Ngưu, nghề nghiệp kiến trúc sư, tốt nghiệp viện đại học kiến trúc Saìgon,
Đã có nhiều bài viết đăng trên sách, báo, tạp chí văn chương…xuất bản tại Huê Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi … và trên những trang Web trên thế giới ,
Hiện là chủ biên trang thơ trên bán tuần báo Việt Luận Úc Châu, Phó chủ bút Văn Đàn Đồng Tâm tại Huê Kỳ.
Những tác phẩm đã phát hành: Thành Phố Anh Đến (thơ 1974), Chúng Mình Mất Hết , Chỉ Còn Nhau (thơ 2007), Người Tình Hư Vô (tập thơ 2011) và CD Người Tình Hư Vô (2011, gồm 12 bài thơ Hư Vô, nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ nhạc).
Đường Vào Bể Dâu (hồi ký), Lưng Nguyệt (tập thơ), Bản Thảo Một Cõi Thơ Hư Vô (tạp bút) sẽ xuất bản.

2 – Khái luận về ngôn ngữ thơ

Trong tác phẩm Văn Đàn Bảo Giám của học giả Trần Trọng Kim xuất bản năm 1926 có bài thơ
“Khóc Bằng Phi “của thi hào Dục Tông (Hoàng đế Tự Đức) có hai câu thơ mà hồn thơ ngân vang lời yêu thương miên viễn, ý thơ gợi bóng và hình quyện vào nhau trong một lời thơ mang nặng âm hưởng Duy thực Luận với những nét đẹp tính thủy chung trong tình yêu diễm ảo:

Đập cổ kính ra tìm thấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi

Hỡi thế nhân! hãy xếp tàn y lại mà nghe tình yêu thăng hoa, tỏa mùi trinh nguyên ónh ánh, những ngại ngùng thẹn thùng, da diết, quấn quít…của đôi tâm hồn son trẻ, có cùng một hướng nhìn về tương lai…theo những bản tình ca dìu dịu; tràn ngập hương nồng của những nụ hôn đầu đời không vướng bận những hạt bụi trần :

Có gì đâu để phân vân
Ta và em, hạt bụi trần, thế thôi
Đời sau, em được làm người
Đừng quên da thịt, một thời cõi ta…
(Cõi hoang - thơ Hư Vô)

3 -Vài nét về cấu trúc ngôn ngữ thơ Hư Vô:

Ngày nay khoa ngữ học văn chương đã xử dụng phương pháp đối chiếu ngôn ngữ để phân biệt ngôn ngữ văn học thông dụng và ngôn ngữ thơ nhạc:
Ngôn ngữ văn học bao gồm ngôn ngữ đối thoại, thư từ, thông cáo, quyết định …. lấy ý niệm thực tế làm căn bản, mang tính thực dụng và đặt trên quan hệ viết và đọc vì thế phải rõ ràng, trong sáng, thực dụng … và ngôn ngữ thơ mang nặng tính trừu tượng với nhiều ẩn dụ, có tính hư cấu…vì thế nó những đặc tính sau :
-Tính đích thực và hàm nghĩa (Connotation): mang nặng nhiều cảm tính nhưng vô thủy vô chung, hiện hữu thực tế, trường tồn và bất biến …nó phản ảnh chính nó bao gồm những ưu tư, phiền muộn, tương đắc, lãng mạn, tha thiết, ray rức, cảm thông ...

Lần đầu môi biết tìm môi
Nhọn tựa chiếc lá đâm chồi gai non
Đẹp như con gái Sàigòn
Đêm ngồi xõa tóc cho còn thơ ngây
(Lá đêm - thơ Hư Vô)

-Tính nghịch lý (Paradox): mang nặng tính hư cấu, không cụ thể, thiếu tính thực dụng, quy chiếu “tri và hành“…nên nó vươn mình theo óc tưởng tượng của thi nhân mặc cho không gian có đổi thay, thời gian có lửng lờ trôi theo ngàn năm mây bay…: nó vẫn hiện hữu như từng hiện hữu: đây là một thực tế sinh động với muôn ngàn hệ lụy: ….

Tám mươi năm, mẹ vẫn còn ngồi đợi
Thằng con trở lại với cội với nguồn
Để thấy tóc mẹ trổ màu bông bưởi
Rụng xuống thơm tho, trắng cả góc vườn
….
Tám mươi năm mẹ vẫn ngồi vá áo
Mắt nhạt nhòa theo mũi chỉ đường kim
Kim khâu cả đời chưa lành nỗi nhớ
Thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim…
(Tám mươi năm , mẹ vẫn ngồi đợi - thơ Hư Vô)

Mẹ Việt Nam ơi! tám mươi năm mẹ vẫn ngồi đợi, vẫn chờ những người con vong thân trên bờ ảo mộng duy vật, đã gây không biết bao nhiêu chinh chiến điêu linh, bao hoang tàn đổ nát, bao hận thù dân tộc…với hàng triệu thây người gục ngã…và bây giờ đây quê hương Việt Nam mãi điêu linh khốn khổ… và đang đứng trên bờ hiểm họa diệt vong thì sợi chỉ nào vá nổi trái tim của Mẹ! Mẹ Việt Nam ơi!….. : Thơ Hư Vô mang bầu nhiệt huyết sục sôi niềm uất ức, nghẹn ngào, thương cảm mẹ Việt Nam và niềm hy vọng vẫn là ước mơ những người con lầm đường lạc lối hãy quay về với cội nguồn dân tộc…

-Tính đa hiệu (Plurisignation): Ngôn ngữ thơ dù được dù được gieo mầm ở bất cứ khung trời nào và dù phải trải qua bao tình huống khó khăn khắc nghiệt của thời tiết nó vẫn mãi cưu mang những tình cảm của con người như: suy tư, cảm xúc, thương yêu ….và luôn luôn được thi nhơn thẫm mỹ hóa bằng những thực hữu cho lời thơ thăng hoa vậy.
Trong ngôn ngữ thơ phải ẩn tàng, chất chứa ngữ âm, điệu bộ, dáng dấp …của nhà thơ
Qua cảm xúc của thi nhân, ngôn ngữ thơ mang đầy đủ nhạc điệu, tiết tấu, âm thanh .. được gói trọn vẹn trong lời thơ cho nên ngôn ngữ thơ luôn luôn mang tính đồng nhứt, toàn diện, mạch lạc, trong sáng ..
Tính thực dụng hay khả năng cảm nhận qua những mẫu đối thoại, những tình tiết, những cảnh ngộ, những tâm tình … của từng nhân vật được thi nhân diễn tả…và người đọc cảm nhận bằng trực giác, tri giác, tình cảm…: Thì hồn thi ca sẽ xuất hiện như ngôn ngữ mà nó được mô tả, nhưng nó cũng chính là nó …
Vậy tính đa hiệu của ngôn ngữ thơ dẫn người đọc đến ý niệm chủ định (Intentionalism), cho nên chữ nghĩa thơ văn mà nhà thơ Hư Vô xử dụng đầy tính“Duy Thực Luận“ phản ảnh những tình cảm, những thương yêu, những cảm xúc…thật tuyệt vời với bao nhiêu sinh thức vẫn hiện hữu trong con người …từ lúc môi trần..

Từ đêm tháng bảy môi trần
Em ngồi trang điểm dự phần dung nhan
Tim tôi cửa nẻo hoang tàn
Có em khép mở ngổn ngang một đời
….
Cũng may còn nửa đời sau
Để mưa ngâu kịp bắc cầu em qua
Mong manh như dãy lụa là
Em từ huyền thoại bước ra muôn trùng
(Sinh nhật tháng bảy – thơ Hư Vô)

Thi nhân sống với niềm cảm xúc dâng trào quyện vào với bao kỷ niệm của những tháng ngày dĩ vãng…được diễn tả bởi những ngôn ngữ về dĩ vãng như: buị thời gian, đằng đẵng mấy mùa thu, héo hon đợi chờ, thời ấu thơ, mơ ước của ngày xanh ….

Như dòng sông chia hai nhánh rẽ
Lòng vẫn y nguyên những ngọt ngào
Mơ ước một lần, dù ít ỏi
Có em bên đời, sống chết như nhau
(Chúng mình mất hết, chỉ còn có nhau – thơ Hư Vô)

“Sống chết như nhau“, một ý niệm về sự hiện hữu của thân xác và tâm linh được thi nhân xử dụng để diễn tả ý niệm thời gian theo quy trình tạo dựng và phá hủy của mọi vật thể hữu hình: một tri thức bắt đầu bằng trực giác và nó cũng chính là cảm giác.
Vào Duy Lý Luận của đại triết gia Kant, Immanuel ( 1724 – 1804 ) thì đối tượng của trực giác là hiện tượng ( Erscheinung, Appearance ) bao gồm yếu tố vật chất và hình thể của hiện tượng và hình thể thuần tuý của cảm giác là không gian và thời gian mà không gian là hình thức của tất cả cảm giác ngoại tại và thời gian là hình thức cảm giác nội tại.
Vậy căn cứ vào những yếu tố kể trên, mọi người thừa nhận rằng đại triết gia Kant, Immanuel và ngay cả thi sĩ Hư Vô có cùng một nhận thức mang dấu ấn Duy Lý Luận trong văn chương.
Quả thực vậy con người nhận biết vạn vật qua hiện tượng (Erscheinung, Appearance) và trí năng (understanding): vậy trí năng là khả năng suy tư các dữ kiện bằng ý niệm và kết hợp với cảm giác tạo thành tri thức về các đối tượng: ngôn ngữ thơ của thi sĩ Hư Vô mang dấu ấn Duy Lý Luận trong cuộc hành trình tìm kiếm giá trị đích thực của Chân, Thiện, Mỹ là tìm về bản thể (substance) là phạm trù đầu tiên cùa mọi vât thể :

Một ngày tháng tư đang cơn hấp hối
Tôi lao vào lửa khói tới đón em
Phố xá tan hoang mịt mù thuốc súng
Chiếc ghế ngồi chung chổng cẳng ngỡ ngàng
(Saigòn tháng tư – thơ Hư Vô)

Thi hào Trần tử Ngang xúc động trước sự hửng hờ của thời gian: thời gian vẫn cứ quay đều, không ngừng nghỉ: một sự yên lặng kinh hồn: như vạn lời thơ vô ngôn :

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
Đăng U Châu Đài Ca thơ Trần tử Ngang
Dịch nghĩa : Ai người trước đã qua
Ai người sau sẽ tới
Ngẫm trời đất mông lung
Lòng ta rơi lệ thảm
Dịch thơ : Hướng về trước , người xưa vắng vẽ
Ngoảnh lại sau , quạnh quẽ cô đơn
Ô hay trời đất dài lâu
Lòng ta ngấn lệ, hạt sầu rụng rơi
(“Bài ca lên đài U Châu“ thơ TTN, VTV dịch)

Vậy căn cứ vào tính đa hiệu của ngôn ngữ thơ, thơ của thi sĩ Hư Vô hàm chứa tính minh triết của những sự vật hiện thưc và tính thực hữu của “Tiến trình thực hữu của những hiện thực“
(Ordre des coexistences và “Tiến trình biến thể của những sự việc sẽ hiện hữu“ (Ordre des successions possible) theo quy trình sinh diệt của thời gian
Ngôn ngữ thơ Hư Vô phản ảnh những hình thái sinh động của trực giác có được qua kinh nghiệm, xuất phát từ ý niệm chủ quan của chủ thể, được xếp vào loại lý tưởng siêu nhiên
(idéaltité hanscendantale) phát triển từ khối óc thông tuệ của một tâm hồn đầy huệ khí và được chứng nghiệm bởi những cảm nhận với chiều sâu thẳm của cảm tính tình cảm, tri thức được gạn lọc qua ý thức (donnée immediate de la conscience) và thăng hoa cho lòng thương yêu tràn ngập con tim thế nhân vì thế nó vượt ra khỏi phạm trù ngôn ngữ văn học và luận lý biện luận và phản biện; đây là hồn vô ngôn của thơ Hư Vô, là thủ pháp văn chương ẩn hiện những nét đẹp thẫm mỹ của ngôn ngữ (tính cân đối), vừa tinh anh trung thực như là chân lý hữu thể : Chân, Thiện, Mỹ;

Ngồi xuống đi em, chiều đã giáp
Cùng anh uống cạn chén bạc đầu
Ba muơi năm cũng đâu dài lắm
Chắc gì đã đủ để quên nhau
(Quán tao phùng – thơ Hư Vô)

II – Nét Khúc Xạ Trong Thơ Tình Lãng Mạn của Hư Vô

Vào thế giới chữ nghĩa văn chương của một nền văn hóa là con người mở một cuộc hành trình đi tìm “Chân, Thiện, Mỹ “để làm phong phú đời sống tâm linh nhằm xây dựng hạnh phúc của cuộc sống hiện tại và khai triển những ước mơ cho một ngày mai tươi đẹp.
Trong tiến trình đó, thi sĩ Hư Vô, đã xử dụng một bút pháp văn chương đầy tính khai phóng để diễn tả những tư tưởng mới, đầy màu sắc của những hoa thơm, cỏ lạ …của ngôn ngữ thơ…để tô điểm những cảm xúc tuyệt vời của thi nhân và trân trọng nó cũng như hơi thở của chính mình nhằm ca ngợi sự tự do suy nghĩ, viết lách…: mà tự do suy nghĩ và sáng tác chính là những tâm thức sinh động của tất cả những hữu thể tự quy.
Nếu định nghĩa: “văn hóa là tòan bộ những thụ đắc về văn chương, nghệ thuật, thủ công nghiệp, kỹ thuật, khoa học, phong hóa, luật lệ, cơ chế, tục lệ truyền thống, cách suy nghĩ, cách ứng xử và xử dụng thuộc mọi lãnh vực, những lễ nghi, những thần thoại và tin tưởng: tạo nên một di sản cộng đồng và đặc tính của cả nước, một dân tộc hay một nhóm sắc dân, một quốc gia …”
Căn cứ vào định nghĩa nói trên và dựa vào sự khai phóng ngôn ngữ thơ của Hư Vô , mọi người sẽ cảm nhận được lý tính văn học và những ý nghĩa tốt đẹp văn chương và những tư tưởng trong sáng của suy tư, của ước mơ … với mục đích hoàn thiện tâm linh của con người hay một cộng đồng thì có thể nói, thi sĩ Hư Vô: một nhà thơ khiêm ái, đầy mẫn cảm và là một người hoạt động văn hóa cộng đồng

Ghềnh khơi con nước động tình
Mùa thu cởi áo, phơi hình hài em
Tơ vàng trải lối chưa quen
Ngại em dốc lạ, đường trơn khó vào…
(Người tình Hư Vô – thơ Hư Vô)

Vào thu, muôn lá vàng bay và cây sẽ trơ trụi lá trong đông tàn lạnh lẻo: Nhưng cây vẫn sống và em vẫn sống, em phải sống cho dù em phải thay áo mùa thu, hơi thu khẻ lạnh khi gió heo mây về và vào những ngày đông tàn lạnh lẻo và khi niềm cô đơn đã lên ngôi: Cây phải thay lá và đổi màu lá theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông: Để cây sống còn, và cây vẫn sống và nó chính là nó: thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn.
Thơ Hư Vô: Hồn Vô Ngôn và Duy Thực Luận của triết gia Aristotle có cùng luận lý triết học và cả hai cùng có một nền móng tư tưởng về “cái chung của hữu thể sự vật“ .
Duy thực Luận của đại triết gia Aristotle đặt “cái chung của hữu thể sự vật“ trên các phạm trù bất biến và tri thức cảm giác của con người vào cái chung trong các phạm trù : “bản thể, phẩm chất, số lượng, liên hệ nhân quả, không gian, thời gian, vị trí, trạng thái , tác động và thụ động”.
Và nếu mọi người cảm nhận rằng tri thức của con người được hình thành như là bản thể của Đại Ngã, thì con người khi đã hiểu hay đã giác ngộ được thân phận nhỏ bé, sự hiện hữu vô thường, cái có và không, quy luật sinh diệt, cái chết ở một ngày mai …tất cả thuộc về tương lai vô định, tức là con người đã thoát ra khỏi Tiểu Ngã mê lầm mà hòa nhịp cộng hưởng cùng Đại Ngã mà Đại Ngã chính là nguyên nhân vận hành vũ trụ, có quyền năng trên sự sống của vạn vật: Đó chính là lẽ sinh tồn của vũ trụ,
Thơ Hư Vô đã thoát ra khỏi Tiểu Ngã của chính thi nhân và quyện vào Đại Ngã vũ trụ: Triết gia Aristotle, đại tiền bối và nhà thơ Hư Vô, tiểu hậu sinh, cùng quy chiếu vào Đại Ngã và cả hai có cùng nhân sinh quan nhóm màu Duy Thực Luận :

Hãy níu hồn nhau vào nhịp thở
Để em không còn kịp bỏ đi
Màu nắng trôi theo chiều tóc xõa
Áo em vàng góc phố Sydney
(Áo em vàng góc phố Sydney – thơ Hư Vô)

1 - Vẻ Đẹp Văn Chương Qua Chân Lý Hữu Thể Của Nhà Thơ Hư Vô

Những trang thơ tình lãng mạn của Hư Vô hiển lộ những nét chấm phá đầy tính khai phóng trong ngôn ngữ thơ và ẩn hiện tinh thần Duy Lý Luận văn chương của Ammunuel, Kant và lại có cùng bản thể Duy Thực Luận của Aristotle: Đó chính là những nỗi đam mê đầy cảm xúc tự quy khi tư tưởng của thi nhân trải dài theo không gian vô hạn và thời gian vô định của vũ trụ,và những cảm xúc tuyệt vời này chính là món quà vô giá mà thi nhân Hư Vô hiến dâng cho đời :

Một đóa dã quỳ ai đánh rớt
Nằm phơi lăn lóc lối tình nhân
Tôi biết ngày mai em sẽ khóc
Cho người khách lạ tưởng chưa thân…
(Quán tình nhân – thơ Hư Vô)

Và nếu men vào nền văn chương của nhân loại, mọi người đã rõ, đại thi hào Wordsworth, William ( 1770 – 1850 ) một thi nhân vĩ đại trong nền văn học nước Anh (một đế quốc mà mặt trời không bao giờ lặn = The empire on wich the sun never sets) thì nhận ra rằng thi hào đã để lại nhiều tác phẩm văn chương vô cùng giá trị: The prelude, The excursion , Description of the scenery of the lakes in North Angland, The white Doe of Rylstone, Letter to a friend of Burns, The river Dudlon , yarrow revisited, poems chiefly of early and late years ….
Với tính khai phóng văn chương và biệt tài xử dụng ngôn ngữ thơ, thi hào Wordworth, William đã diễn tả niềm cảm xúc tuyệt vời trước những nét hùng vỹ, uy linh của núi rừng xanh thẳm, của những huyền diệu kỳ bí của thiên nhiên, và như những vần thơ :

All things that love the sun are out of doors ,
The sky rejoices in the morning ‘s birth ,
The grass is bright with raindrops ; - on the moors
Thehare is running races in her mirth …

Thi hào Wordsworth, William đã khai sinh một trời thơ trữ tình lãng mạn của nền văn chương nhân loại, ông đã dẫn dắt thế nhân vào khung trời mộng mơ huyền diệu với biết bao nguồn cảm xúc với một văn phong đặc biệt mà cho đến mấy thế kỷ sau, một kẻ hậu sinh, thi sĩ Hư Vô cũng có cùng niềm cảm xúc, có cùng nguồn suối suy tư và biệt tài xử dụng ngôn ngữ thơ đầy nét tương đồng và mỗi người một vẻ:

Bàn tay mấy ngón tình nhân
Ngón nào đeo nhẫn đợi lần hứa hôn
Nhẫn tôi liễu óng tơ tròn
Kề em nhan sắc còn thơm da người..
(Đêm mơ Thánh nữ - thơ Hư Vô)

Thi hào Wordsworth William và kẻ hậu sinh Hư Vô đã xử dụng ngôn ngữ thơ vô cùng chính xác, chuẩn mực, trong sáng và thuần nhất về nội dung và hình thức văn tự. Về nôi dung là chất liệu căn bản, là bản thể bất biến của chính nó…và về hình thức, ngôn ngữ thơ phải mang đầy đủ tính cân đối, tính trong sáng và thẩm mỹ … như vẻ đẹp của một loài hoa, vẻ oai linh của núi rừng xanh thẳm, vẻ kiêu hùng của người lính chiến, vẻ đẹp đài cát quý phái của những mệnh phụ đầy hấp lực… và nó được xem là biểu tượng của chân lý nhưng nó vẫn không phải là chân lý vì chân lý không dựa vào ngôn ngữ mà có được, và chân lý tự nó tỏa ánh hào quang rực rỡ như hai vừng nhật nguyệt trong sáng trên bầu trời xanh thẳm: Nó trường tồn và bất biến

Em về soi lại dung nhan cũ
Thấy có còn tôi giữa muôn trùng
Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ .
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần …
(Lưng nguyệt – thơ Hư Vô)

Vẻ đẹp trong chân lý hữu thể của ngôn ngữ thơ Hư Vô chính là một nhân sinh quan sinh thực, ẩn tàng trong cuộc sống trầm lặng của thế nhân vì thế con người muốn khám phá, thưởng ngoạn những vẻ đẹp kỳ bí của thiên nhiên, của đất trời bao la, của những thăng trầm của cuộc đời … thì ít nhất cũng phải sống trọn vẹn, đầy tình nghĩa .. cho hiện tại sinh thực và không nhìn về dĩ vãng với bao niềm luyến tiếc của một thời quá khứ mà bất mãn với hiện tại đầy nhiêu khê trắc trở của cuộc đời và vẽ vời một tương lai không thực cho một ngày mai mờ ảo .
Vậy qua ngôn ngữ thơ Hư Vô, nếu muốn tìm về chân lý hữu thể, mọi người đều phải có một cái nhìn vô cùng khách quan, trung thực, chính xác…về cái Tiểu Ngã, bản thân tự quy, cái nhân sinh quan hiện thực vào cuộc sống của chính mình, cho mình về mọi khía cạnh của cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình:

Bài thơ viết nửa đời còn dang dở
Bởi anh quên tóc em chẻ bên nào
Tìm nhau theo dấu mòn ngày tháng cũ
Trăng quên tròn, biết tóc chẻ về đâu
….
Về đâu trăng chơi vơi bờ bến
Lối em qua bóng ngã bên nào
Anh nghiêng xuống nỗi buồn mọc nhánh
Bài thơ viết tiếp nửa đời sau…
(Mái tóc ngang đời – Thơ Hư Vô)

Nếu có người tìm kiếm hồn thơ Hư Vô mà giống như vô tình nhìn mặt nước hồ thu êm đềm, không một gợn sóng tung tăng thì có cảm nghĩ thi sĩ Hư Vô, một kiến trúc sư, một họa đồ sư hơn là một nhà phân tâm học hay một thi nhân mang nhiều ấn dấu Duy Thực Luận vì lời thơ đã nhóm màu triết học khi đi tìm chân lý hữu thể với một tâm thức sinh thực bằng một văn phong độc đáo như đã trình bày ở trên và cũng chính nó đã mang tính khoa học thực dụng để diễn tả một bản thể tự quy trên con đường tìm về Chân - Thiện - Mỹ: Hồn thi nhân cũng giống như lời thơ rồi sẽ lướt qua bao biển dâu khổ lụy, bao nỗi thăng trầm của thế giới vô thường, biến động của không gian, của thời gian … và hy vọng rằng nó sẽ mãi mãi trường tồn trong vũ trụ nhân luân, khá đẹp thay!

Nửa đêm pha rượu vào nhan sắc
Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
Theo bước em qua lối thăng trầm..
(Lưng nguyệt – thơ Hư Vô)

2 - Vào cõi Hư Vô

Thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư Vô thể hiện tình yêu mến thiên nhiên, những nét đẹp hùng vỹ của quê hương, những ân tình giữa những con người với nhau… , thi nhân đã cho người đọc những cảm giác bùi ngùi, nhớ nhung, thương tiếc… những giọt máu nhỏ xuống thành thơ …thi nhân đã mời thế nhân vào cõi Hư Vô… . Để: trả em nhan sắc buồn vô tội của những mùa thu lá bay ngập 36 phố phường …. quê hương yêu dấu

Tôi vẽ em, mùa Thu Hà Nội
Lá bàng trôi tím mặt Hồ Gươm
Em bước qua bóng còn ở lại
Để tôi mắc nợ những con đường .
….
Tôi vẽ em, mùa Thu phố lạ
Chờ nghe hương cốm ngọt môi quen .
Để nước mắt chia vào hai ngả
Chảy thành giọt máu xuống đời em ..
(Tôi vẽ em mùa thu Hà Nội -- thơ Hư Vô)

Nếu chúng ta đi tìm hiểu gía trị đích thực của cuộc sống mà vào cõi mù không của tâm thức và rồi phải từ biệt nó để ra đi và đi vào cõi hư vô ….và nếu luận gía trị đích thực này bằng ngôn ngữ “sắc -sắc, không – không“ theo kinh “Trí Huệ Đáo Bỉ Ngạn“ của Phật Giáo Đại Thừa thì chúng ta nhận biết rằng “sắc“ ám chỉ sự vật và “không“ám chỉ hữu thể, thì thế nhân nhận diện được những ẩn dụ tuyệt vời trong thơ tình lãng mạn của thi sĩ Hư vô trong cõi chân không vô thức :

Tôi lần mò giữa hư vô
Trượt chân vấp xuống cuối dòng nhân gian
Vườn em xưa đã lỡ làng
Trăng khuya quay mặt ngang ngang ngửa đời
….
Đường trần mất lối dấu yêu
Bóng tôi đổ dốc ngược chiều trăm năm
….
Ngày em tóc xõa theo chồng
Có nghe sám hối động phòng cô dâu?
(Chân không – thơ Hư Vô)

Và nếu một mai không còn một ai cùng ta chung bước đồng hành và cuộc hành trình đơn lẻ thì thế nhân cảm nhận nỗi cô đơn tận cùng của một kiếp người, thi sĩ Hư vô đã cho chúng ta hiểu những thấm thía của nỗi cô đơn của tâm hồn trước những mênh mông của không gian vô hạn và thời gian vô định;
Suy luận theo phân tâm học thì tiềm thức (vô thức) chi phối, điều khiển ý thức, thì chúng ta hiểu rằng chân lý của hữu thể không phải là ý thức, mà nó cũng không phải là tiềm thức (vô thức). Hữu thể không tìm thấy trong chủ thể dù là ý thức hay vô thức cho nên thơ của thi sĩ Hư Vô như niềm vô thức trào dâng mời gọi một ý thức tuyệt vời để ta được cùng em mãi sánh bước bên nhau để ngàn năm mãi mãi yêu em ….tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng: một sinh lộ mới cho cuộc hành trình của một ngày mai tươi sáng, mà hiện tại là dĩ vãng của ngày mai :

Ta thầm ước kim đồng hồ quay ngược
Cho nụ hôn còn được kéo dài thêm
Sân ga nhỏ, hắt hiu buồn man dại
Từng chuyến tàu đang chạy tới vô biên
….
Ta vẫn biết xoay lưng là vĩnh biệt
Tình nhân ơi! đã tới cuối đường cùng
….
Tay ta ngắn, vuốt chưa dài sợi tóc
Vói cả đời không giáp một mùi hương
….
Tàu chở bể dâu, biết đâu bờ bến ,
Đường trăm năm còn có lối quay về?!
(Tình nhân ơi, đã tới cuối đường cùng – thơ Hư Vô)

Và nếu một mai thế nhân ghi nhận những huyền diệu văn chương trong thơ tình lãng mạn mà thi nhân đã cống hiến cho đời thì những vần thơ chất chứa bao nỗi niềm, bao yêu thương, bao tâm sự của những thi nhân…qua những bài thơ tình lãng mạn mãi mãi được mọi người tìm đọc, suy gẫm, ca tụng …và mọi người rồi sẽ tự quay lại suy tư, hoài niệm cho tình cảm chân thành, những ngang trái trong tình yêu của chính bản thân mình, thì hỡi cố nhân ơi! người đang ở phương trời nào và có thấu cho hồn ta sẽ trôi dạt về đâu, khi ta mãi nhớ thương hình bóng của cố nhân :

Mưa dầm gió bấc cố nhân ơi!
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa
Vớt giùm trong nước lấy hồn tôi
(Gởi Cố Nhân – thơ Nguyễn Bính)

Khi nhà thơ gởi vào thi ca niềm tâm sự u hoài của một cuộc tình say đắm là thi nhân đã trải rộng hồn mình theo đất trời bao la như vạn lời than vãn, như là những thổn thức thật tuyệt vời của con tim đang ấm nồng vì đang yêu và muốn được yêu: Đó chính là nét đặc trưng của lời thơ tiếng nhạc quyện vào nhau; Thơ và nhạc là hai chị em song sinh, cho nên khi thế nhân tỏ lòng yêu thương và mong muốn được bên kia đáp trả là lúc đang khổ lụy vì yêu hay say đắm khi được yêu thì tình thơ lai láng và ý nhạc ngân vang :

Quấn vào nhau đêm đang bùng lửa
Đắm cuồng si theo phím nguyệt cầm
Đừng để mất nhau thêm lần nữa
Cuộc đời đâu dễ có trăm năm.
(Trăng mật – thơ Hư Vô)

Những trở ngại về gia cảnh, tôn giáo, chiến tranh… là những ngang trái, những nghịch cảnh có thể là những nguyên nhân của sự không trọn vẹn cho một cuộc tình; để niềm thương nhớ mãi là nỗi nhớ nhung ray rức, Xuân Diệu, một nhà thơ trong trường phái thi ca lãng mạn cũng là nòi tình như thi sĩ Hư Vô, vương mang mùi tục lụy của thế nhân, và có thể đồng bệnh tương lân …

Nằm đêm anh cứ thương em
Rơi nghiêng nước mắt một bên gối nằm
Thế này cho hết trăm năm
Đến muôn năm vẫn âm thầm thương em
(Nằm đêm Anh cứ thương Em – thơ Xuân Diệu)

Và trong cõi hư vô, từ thủa khai thiên, nỗi buồn giao phối vẫn còn nguyên hình hài

…Tìm nhau một cuộc trầm luân
Biển xa mất dấu mưa trần trụi đau ….
… Gọi tên em, gọi tình nhân
Từ đêm mông mị hóa thân ta về
Hình như đâu phải cơn mê
Bởi da thịt đã cận kề chiêm bao …
(Gọi tên em, tình nhân – thơ Hư Vô)

3 - Thay lời kết

Những tri thức dẫu mang nhiều những dấu ấn nhọc nhằn của cuộc sống, những oan khiên của tình yêu, những bi lụy và hoan ca của hạnh phúc….là những chất liệu của thơ tình lãng mạn và nó chỉ được thăng hoa khi tâm tình đã được phơi bày trên Dòng Sông Biến Dịch của tư tưởng của con người: Thi nhân đã hiến dâng cho đời những án thơ văn , những nhạc khúc diễm tình…trên con đường đi tìm chân lý hữu thể của tình yêu: Phía bên này của Dòng Sông Biền Dịch; thi nhân với lời thơ chất chứa không biết bao nhiêu say đắm, yêu thương, nhớ nhung ….mà không bút mực nào có thể diễn tả cái hồn vô ngôn của tình yêu …khi mất em rồi, xa em rồi :

Mất em rồi, đời anh kể bỏ
Nói năng gì cũng chỉ thất ngôn
Cho em dăm bài thơ viết dở
Mang theo chồng làm của hồi môn.
(Phá sản – thơ Hư Vô)

Bên kia bờ Bĩ Ngạn, thời gian vẫn cứ lững lờ trôi, không gian sẽ thay màu…định mệnh của cuộc đời vẫn cứ như những làn sóng xô đẩy nhau về chân trời vô định…và những tình cảm thương yêu trong thơ tình lãng mạn chỉ còn là những nối kết của tình yêu, nuối tiếc, hoài mong, nhung nhớ…để thế nhân mãi đi tìm “Chân Dung Tình Yêu“

Thương em mái tóc xõa dài
Chải trăm năm một hình hài đời sau
Này em, bước tới bể dâu
Chải chung hai nhánh cùng đau một lần
(Chải tóc- thơ Hư Vô)

Nếu ánh sáng mặt trời chạm vào vùng không gian có nhiều hơi nước thì nó sẽ khúc xạ nhiều lần và phát tán phổ quang thành “cầu vồng hay mống hoặc ráng“ với bảy màu tổng hợp: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím và thế nhân dựa vào đó mà tiên đoán thời tiết :

Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa
Ráng mở gà trời gió, ráng máu chó trời mưa …

Thơ tình lãng mạn của Hư Vô khi vào vùng trời thương nhớ…thì nó cũng bị luồng địa nhiệt ( Năng lượng từ lòng đất: từ lõi hay trung tâm trái đất nhiệt độ từ 5.000 đến 7.000 độ C ) làm khúc xạ nhiều lần để vào “Duy Thực Luận“ và cho thế nhân bao lời thơ ngọt ngào để ngợi ca tình yêu dẫu mai kia dù có thế nào thì tình yêu mãi mãi ngự trị trong lòng nhân thế và mãi mãi không bao giờ thay đổi :
Tình yêu rất dịu dàng, rất rực rỡ, rất ngọt ngào, rất hạnh phúc, rất vui tươi …nhưng nó vô cùng mong manh như sợi nắng vàng của những bình minh muôn chim ca hát, như ánh trăng huyền diệu để tiếng nhạc lời ca của 12 tình khúc do nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ từ thơ của Hư Vô mãi ngân vang trong lòng nhân thế :

Buồn ngang vết cắt da đau
Bóng em hóa hạt bụi đào ngây ngô
Này em, ôm sát hư vô
Chải vào hoang phế hương bồ kết xưa …
(Chải tóc – thơ Hư Vô)

Châu Đại Dương , Vùng Biển Mặn
Vương Thiên Vũ
(Lão Đưa Đò Trên Dòng Sông Biến Dịch)

Tài Liệu Tham Khảo :
Wordworth William, English Poet, Cambridge university 1947
Kant ‘ s Philosophy of Law, Berlin university 1932
Khảo luận Văn Chương Việt Nam – VTV
Mặc Giao - Một Cái Nhìn Khác Về Văn Hóa Việt Nam
Chân dung tình yêu: tiểu luận - VTV
Việt Nam Văn Hóa sử cương - VTV
The Burning Fountain, WhelWright, R : Astudy in the language of Symbolism, Indiana university Press, Blơmington
Tuyển Tập 6 Nhà Thơ Úc Châu - Australia 2010
Jacques Prévert, Paris university – 1954
Greek Teacher And Philosopher Aristotle ( c384 – 322Bc ) NY.U.1945

Triển
12-13-2011, 09:11 PM
ngay cả thi sĩ Hư Vô có cùng một nhận thức mang dấu ấn Duy Lý Luận trong văn chương.
Quả thực vậy con người nhận biết vạn vật qua hiện tượng (Erscheinung, Appearance) và trí năng (understanding)
Understanding là tri thức chứ. Và nếu dẫn trí thức thì nên dựa vào tri trức hơn là dựa vào thuyết thực tại của Aristole. Bởi vì bản thân thi sĩ có bút danh là Hư Vô, Vương Thiên Vũ áp đặt thêm tính cách thơ tự của thi sĩ là Hồn Vô Ngôn thì không thể đi tìm bản thể được. Ngoài ra tính cách diễn đạt đã thoát ra bản thể, hòa nhập vào vũ trụ vận hành như là một thành phần trong muôn một của Hư Vô thi sĩ, như Vương Thiên Vũ dẫn dắt lý luận theo "thoát tiểu ngã để hòa vào đại ngã"; cũng có nghĩa là Vương Thiên Vũ muốn biểu lộ chân lý vận hành biến chuyển không hằng trường tìm thấy trong thơ tự của thi sĩ Hư Vô. Và nếu đã đi về hướng này để kiến giải, thì tìm cách dẫn dắt theo Duy Thức Luận của Phật Giáo hơn là theo triết học của Aristole. Tôi nghĩ Aristole và Phật giáo chỉ có một điểm chung là phương thức suy luận bằng trải nghiệm chứ không do lý thuyết và một điểm đồng khác nằm ở vật lý trừu tượng (metaphysics, siêu vật thể) đó là sự kết hợp từng vi thể tạo thành lực lượng tiềm ẩn trong vật chất. Vương Thiên Vũ đi dạo mải mê trong vườn triết học phương Tây rồi rơi cái ào về thuyết Vô Ngã và Không tánh luận ở những đoạn sau. Tôi cho là Vương Thiên Vũ quá vội vã khi cố gắng vận dụng kiến thức triết học và tôn giáo để bình thơ.
Theo tôi những bài thơ đẹp là những bài thơ giản dị. Từ ngữ dù có bóng mượt hoa mỹ nhưng không trôi dạt về hướng trừu tượng. Bài thơ đẹp không ép buộc người đọc 88 lần mới hiểu thì đó là bài thơ đẹp. Còn vận dụng luôn đến kiến thức tôn giáo và triết học để bình thơ thì đã đi quá một bước đó là từ xem thơ chuyển sang ngắm người. Độc giả sau khi xem bài viết của Vương Thiên Vũ có cảm giác bị bao vây tư tưởng bằng nhiều sự áp đặt lên thơ của Hư Vô từ mọi phía. Cái phóng túng và lả lướt cần có trong thi ca bị gạn lọc mất rồi. Bingo ! Ý thơ bị khúc xạ qua lời bình.

ốc
12-13-2011, 09:55 PM
Còn em đọc đến đoạn
Hỡi thế nhân! hãy xếp tàn y lại mà nghe tình yêu thăng hoa, tỏa mùi trinh nguyên ónh ánh, thì biết không thể tiếp tục được nữa.