** Đức: Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc
Nhiều Đau Thương
Chương 16: Cuộc Chia Tay Dài Lâu Với Niềm Phi Lý
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
Trong những tuần lễ sau Tết Mậu Thân tôi bắt đầu nhận thức được rằng "kịch trường của sự phi lý" không còn là một đề tài để vui đùa nữa, ngay cả đối với các quan sát viên có đầu óc châm biếm nhất. Tất nhiên là anh chàng Eberhard Budelwitz, cái thước đo cho sự phi lý chưa hề sai bao giờ của tôi đã cảm nhận điều này từ lâu rồi. Bằng một hành động kỳ quái trước khi bị triệu hồi về lại Đức để đi cai rượu, và từ đó bổ nhiệm qua thủ đô của một quốc gia Á Châu khác, anh đã biểu lộ sự nhận thức này không phải bằng cách múa lưỡi trước khi trình bày ý kiến như trong quá khứ nữa. Anh không đặt những câu hỏi ngớ ngẩn tại các buổi họp "điên rồ vào lúc 5 giờ," chẳng hạn như các thắc mắc về tầu ngầm cho các nhà sư Phật giáo như là một phương tiện để ngăn ngừa lính TQLC đái bậy vào chùa nữa. Không, lần này Budelwitz đã thể hiện quan điểm của mình bằng hành động tuyệt vọng trong một cơn điên cuồng say xỉn.
Chuyện xẩy ra trong khách sạn Continental chỉ vài ngày trước khi tôi đi về Hồng Kông, nếu tôi nhớ không lầm. Văn phòng tạp chí Time-Life tổ chức một buổi tiệc chia tay náo nhiệt cho phóng viên James Wilde, một tay mặt đỏ gay, nóng tính người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã được lên bảng phong thần của những cách ngôn về chiến tranh Việt Nam bằng một câu nhận xét lạnh người: "Tử khí đã quyện vào da thịt tôi, phải mất hàng năm trời mới gột sạch nổi."
Jim được chuyển đi Canada và chúng tôi chọc phá anh bằng những câu hỏi về nhiệm sở mới của anh. "Làm sao bạn có thể giữ huyết áp ở mức cao được trong các ngày Chủ nhật khô khan tại Ottawa?" Có người hỏi anh ta như vậy. Rồi đột nhiên anh biến đâu mất. Sau một vài chầu rượu chúng tôi bắt đầu lo lắng nên tổ chức đi tìm anh, dĩ nhiên là bắt đầu trong phòng ngủ. Cửa phòng khép hờ. Ghé mắt vào trong, chúng tôi thấy một bãi chiến trường. Tủ quần áo mở toang và đồ đạc vương vãi mọi nơi. Một trong những cánh cửa sổ lớn kiểu Pháp đã bị rứt ra khỏi khung và bị đập vỡ trên sàn. Có những dấu chân đẫm máu khắp chỗ dẫn đến cửa sổ.
James Wilde đang nằm run rẩy trên giường với tấm chăn trùm kín tận đầu.
"Đi đi, đi đi!" Anh ta khóc.
"Jim, chúng tôi đây mà, bạn của anh đây! Chuyện gì xẩy ra vậy?" Chúng tôi nói.
"Ồ, các bạn đó hả? Cảm ơn Chúa!" Anh nói, "Tôi mới vào phòng tắm lên giường nằm nghỉ ngơi một chút rồi ngủ thiếp đi. Cửa phòng mở ra và cái thằng Đức cởi truồng vào làm tôi sợ vãi cả đái ..."
"Thằng Đức trần truồng nào, Jim?" Tôi hỏi, "Tao đứng ngay đây mà, và tao có mặc quần áo đàng hoàng mà."
"Không, đồ ngu, tao có nói mày đâu! Tao nói cái thằng Đức cứ hay hỏi những câu say khướt về tầu ngầm cho sư Phật giáo và những chuyện tại Follies. Tóm lại, hắn đi thẳng vào tủ quần áo của tao, lôi tất cả đồ ra, mặc cái áo khoác vào, đến gỡ cửa sổ ra đập xuống đất, dẫm một cách khùng điên lên những mảnh kính vỡ rồi đâm đầu nhẩy ra ngoài cửa sổ. Thật là kinh quá, kinh khủng quá!"
"Hắn bây giờ đâu rồi?" William Touhy của tờ Los Angeles Times hỏi.
"Tôi không biết, có lẽ nó chết trên vỉa hè rồi. Tôi nghe một tiếng bụp."
Chúng tôi ra ngoài cửa sổ nhìn xuống cái tán lớn che thêm bóng mát cho khách của mái hiên Continental bên dưới. Nằm trên cái tán đó là đồng nghiệp Eberhard Budelwitz của chúng tôi đang ngủ say, trên người chỉ bận cái áo khoác của Jim Wilde. Tay và chân của anh ta dính đầy máu nhưng ngoài ra thì anh không sao cả. Chúng tôi khiêng anh vào trong nhà, mặc cho anh đồ lót của Jim và mang vào phòng anh mà vẫn không làm anh thức dậy. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Budelwitz. Tôi vẫn luôn trân trọng anh vì những câu hỏi sắc bén dù có phần kỳ quặc và đặc biệt là cho thành tích cuối cùng của anh tại Sài Gòn mà suy nghĩ cho cùng không làm cho chúng tôi ngạc nhiên chút nào. Sự thôi thúc ném mình ra khỏi cửa sổ như là một dấu chấm than đằng sau sự nghiệp ký giả của anh tại Việt Nam đã gây được tiếng vang lớn đối với một số đồng nghiệp của anh.
Không phải bất cứ ai trong chúng tôi mang ý tưởng tự vẫn trong đầu; trường hợp tôi chắc chắn là không rồi, còn tôi không tin là Budelwitz cũng nghĩ như vậy. Cho dù trong trong tình trạng say xỉn anh cũng đủ thông minh để biết một cú nhẩy qua cửa sổ xuống cái tán không thể gây chết người được. Nhưng bằng một cách lập dị riêng, anh đã nói lên một điều mạnh mẽ: Những gì chúng tôi vừa trải qua trong dịp Tết Mậu Thân là kịch trường của sự phi lý đã lên đến mức độ lố bịch nhất. Biến cố này đã thuyết phục tôi là câu định lý La-tinh "in vino veritas" (Sự thật nằm trong chén rượu) có thể áp dụng cho các ly rượu pha "Screwdriver," ít nhất là trong trường hợp của Budelwitz.
Sáu tuần trong nhà ở Hồng Kông sau kỳ thử thách Tết Mậu Thân không giúp gì mấy cho lòng mong muốn của tôi được tỉnh táo trở lại. Hai diễn biến chính trị song song với nhau đã khiến cho một số phóng viên đóng tại Hồng Kông tự nhủ ai thực sự đang bị hoảng loạn đây: chúng tôi hay là cái thế giới mà chúng tôi có nhiệm vụ phải tường thuật? Trong cái xứ Cộng Sản Trung Quốc bên cạnh, Cuộc Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản Vĩ Đại đã đạt đến cực điểm. Chúng tôi nhận được các báo cáo sông Châu Giang bị tắc nghẽn bởi xác của các cán bộ Cộng sản bị đập đầu chết bởi các Vệ binh Cách mạng còn trẻ măng. Một số được tìm thấy trong vùng biển Hồng Kông với tay bị trói quặt ra sau lưng bằng dây kẽm và túi thì nhét Hồng Bảo Thư của Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, dưới một khía cạnh địa lý chính trị, các tin tức về một sự chia rẽ Liên Sô - Trung Cộng và sự kiện Bắc Kinh đã từ chối không cho vũ khí Liên Sô cung cấp cho Bắc Việt được vận chuyển bằng đường xe lửa xuyên qua lãnh thổ Trung Quốc lại càng quan trọng hơn nữa. Điều này đáng lẽ phải được tiếp nhận như là tin tốt đối với Hoa Kỳ nhưng hầu như không được chú trọng trong giới truyền thông Mỹ. Tiếp sau đó lại còn có một mẩu tin động trời hơn nữa.
Gillian và tôi đi dự một buổi tiệc nhỏ tại tư gia của tay trưởng trạm một cơ quan tình báo Tây Âu. Khách danh dự là một Đại tá Hoa Kỳ thông thạo sáu thổ ngữ Trung Hoa và có bằng Tiến sĩ về Hán học. Chúng tôi biết anh là sĩ quan tình báo quân đội Mỹ phụ trách phân tích các chương trình phát sóng trong phạm vi tỉnh và thông tin liên lạc nội bộ trong Cộng Hòa Nhân Dân (Trung Quốc). Chỗ làm việc của anh, cái trạm nghe lén khổng lồ của Mỹ chỉ cách chỗ ở của chúng tôi vài phút đồng hồ.
"Nói cho tôi biết đi, thưa quý vị," anh đột nhiên hỏi hai ký giả có mặt, "quý vị thỉnh thoảng có thấy khó khăn như tôi khi muốn gây sự chú ý của các xếp biên tập viên khi nắm trong tay một số tin tức sốt dẻo hay không?"
"Tôi thì chẳng bao giờ!" Tôi trả lời.
"Tôi không," anh đồng nghiệp Mỹ nói, "Nhưng tại sao anh lại hỏi?"
"Bạn thấy đấy, hiếm khi những gì tôi gởi về Washington đến tay Tổng thống trong bất kỳ hình thức thích hợp nào, bất kể tin tức đó có thể quan trọng hay không."
"Chẳng hạn như?" Tôi hỏi.
"Ví dụ như tôi đã báo với cấp trên rằng có bằng chứng càng lúc càng nhiều là một cuộc xung đột vũ trang sẽ nổ ra giữa người Hoa và người Nga. Mấy đứa nào đó ở Ngũ Giác Ðài làm nhẹ nó đi trước khi chuyển đến tay xếp tình báo quân đội. Hắn làm loãng thêm trước khi Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara nhận được cái tin đó. Mc Namara lại 'tưới nước' nó thêm trước khi đưa qua Bạch Cung."
"Như vậy thì Lyndon Johnson còn đọc được cái gì?" anh đồng nghiệp Mỹ hỏi.
"Một dòng chữ vô nghĩa nói rằng theo Trạm Hồng Kông, người Nga và người Hoa không hài lòng với nhau - hay đại loại một cái gì vớ vẩn như vậy."
"Tại sao anh lại nói cho chúng tôi biết chuyện này?" Tôi muốn biết thêm.
"Bởi vì tôi tin rằng Tổng thống Hoa Kỳ cần phải được chuẩn bị cho các cuộc đụng độ quân sự giữa hai cường quốc Cộng sản thế giới đó. Ông ta sẽ biết khi đọc câu chuyện này trên báo chí. Quý vị viết về sự kiện đó đi nhưng làm ơn viết nhằm loan báo chung và đừng tiết lộ nguồn."
Đêm hôm đó chúng tôi báo cáo cái mẩu tin và sáng hôm sau cả thế giới, chắc kể cả LBJ đều biết cuộc xung đột Trung Cộng - Liên Sô thật sự nghiêm trọng như thế nào. Tình trạng nguy hiểm này còn mất một thời gian nữa để đạt đến cực điểm, nhưng một năm sau cuộc trò chuyện trong bữa ăn tối đó của chúng tôi, các lực lượng Trung Cộng và Liên Sô quả nhiên có đụng độ nhau tại sông Ussuri. Lái về từ buổi tiệc của các tay gián điệp, tôi làm vui Gillian với mẩu chuyện Eberhard Budelwitz tự phóng mình qua cửa sổ như một màn trình diễn tối hậu của kịch trường của sự phi lý. Nàng cười ngặt nghẽo.
"Em hiểu ý anh rồi," nàng nói, "Những gì chúng ta vừa nghe là một màn nữa thuộc kịch trường của sự phi lý."
"Đúng vậy, kịch trường của sự phi lý ở mức độ cao nhất."
"Thật đáng sợ," nàng nói, "Đủ để muốn ném mình ra khỏi cửa sổ."
"Làm ơn theo nghĩa bóng thôi nhé!"
Sau đó, vào ngày 27 tháng 2 năm 1968 cái tin lớn bùng nổ: Phát ngôn viên Bản Tin Buổi Chiều của Đài Truyền Hình CBS, Walter Cronkite, trở về nhà từ sau một chuyến đi thăm chớp nhoáng tại Việt Nam sau cuộc Công Kích Tết Mậu Thân đã tuyên bố một cách ồn ào trước một cử tọa khoảng 20 triệu khán thính giả là không thể thắng cuộc chiến Việt Nam được. Điều này chối bỏ tất cả những gì các phóng viên chiến trường, bao gồm cả Peter Braestrup và tôi đã trải qua trong ngày Tết. Chúng tôi đã biết những gì mà bây giờ các sử gia đang tuyên bố: Người Mỹ, VNCH và các đồng minh đã đánh bại Cộng sản về mặt quân sự.
Tuy nhiên ý kiến của Walter Cronkite đã chối bỏ thực tế, chuyển một chiến thắng quân sự thành một thất bại về chính trị.
"Tôi mất Cronkite, tức đã mất thành phần trung lưu người Mỹ rồi," Lyndon B. Johnson nói, và một tháng sau ông tuyên bố tạm ngưng dội bom Bắc Việt, cũng như quyết định sẽ không tái tranh cử nữa. Với điều này, kịch trường của sự phi lý đã đạt đến cực độ. Chuyện xẩy ra là cùng ngày Johnson ra bản tuyên bố, tức ngày 31 tháng 3 năm 1968, Gillian và tôi đang cùng đi Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên nàng đến Việt Nam. Hầu hết các phóng viên chiến trường giữ gia đình của họ tại Hồng Kông, Singapore hay Bangkok, không chỉ vì sự an ninh của họ mà còn vì một lý do nghe ra chuyên nghiệp nữa: ký giả chiến trường phải có khả năng ra ngoài mặt trận với tính cách ứng chiến đột xuất mà không cần phải bàn cãi lâu lắc vào đêm hôm trước với các bà vợ trong bữa ăn tối.
Gillian chưa bao giờ tin vào cái lập luận này một cách quá đáng và càng lại không tin nữa khi chúng tôi đáp xuống Sài Gòn. Trên chuyến bay của hãng Cathay Pacific tôi đã cảnh cáo nàng là nhân viên Di trú VNCH có thể rất khó chịu như thế nào. Nhưng khi nàng trình thông hành Anh ra thì khuôn mặt của viên chức đó lại sáng lên.
(còn tiếp)