Đức: Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc
Nhiều Đau Thương
Chương 16: Cuộc Chia Tay Dài Lâu Với Niềm Phi Lý
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
( tiếp theo và hết chương 16)
Sau đó Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế với danh xưng Gia Long. Vua Gia Long đã tịch thu các mảnh đồng chiến cụ của quân Tây Sơn bại trận và ra lệnh đem nấu chảy đúc thành chín khẩu thần công. Năm khẩu được đặt tên theo ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, còn lại bốn khẩu thì đặt tên theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Những khí cụ này chưa bao giờ được khai hỏa trong chiến trận mà chỉ được sử dụng trong các dịp lễ lạc.
"Chi tiết lịch sử này rất sâu đậm trong tâm trí chúng tôi," Chuẩn tướng Bùi Thế Lân nói. Ông là tư lệnh TQLC VNCH và Bộ chỉ huy đặt trong Thành Nội Huế. Tôi quen với tướng Lân từ nhiều năm qua. Dưới mắt nhiều viên chức Hoa Kỳ, các tùy viên quân sự ngoại quốc tại Sài Gòn và các phóng viên thì người lính sinh trưởng tại Hà Nội này thuộc vào hạng chỉ huy có khả năng và dữ dằn nhất trong cuộc xung đột này.
"Nếu Huế rơi thì cuộc chơi của chúng tôi sẽ chấm dứt," Lân tiếp tục. "Đó là lý do tại sao chính phủ chúng tôi đã điều động các đơn vị tinh nhuệ nhất ra phía Bắc và phía Tây nơi đây. Nếu ngày nào Việt Nam được thống nhất thì Huế phải thành thủ đô trở lại. Bọn Bắc Việt biết điều này nên cuộc công kích hiện giờ cũng hoàn toàn nhằm vào điều đó." Ngày hôm sau, một tù binh Bắc Việt xác nhận với tôi chuyện này.
"Mục tiêu của chiến dịch này là gì, theo cấp chỉ huy của anh?" Tôi hỏi anh ta.
"Chiếm Huế và thiết lập một chính quyền cách mạng trong Thành Nội ngay lập tức," anh trả lời.
Chúng tôi phỏng vấn anh ta tại một vị trí tiền phương khoảng 20 dặm về hướng Bắc của Huế. Anh ngồi xổm dưới đất, bị trói và bịt mắt trong khi một Đại úy TQLC VNCH quạt đuổi ruồi khỏi mặt anh, một trung sĩ gắn trên môi anh một điếu thuốc đã châm sẵn và một hạ sĩ khác cho anh uống nước. Perry và tôi rất cảm động trước nghĩa cử đối với kẻ địch vào một thời điểm mà miền Nam còn đang phải chiến đấu cho sự sống còn của mình.
Anh lính mới chỉ 17 tuổi, xuất thân từ Nam Định, một thành phố cách Hà Nội 50 dặm về hướng Nam. Sau ba tháng huấn luyện căn bản anh được điều vào Trung đoàn 66 Bắc Việt đến Quảng Trị và lần xung trận đầu tiên cũng là lần cuối cùng của anh. "Ba phần tư người trong Tiểu đoàn tôi đã tử trận và tôi bị thương trên đầu," anh nói với tôi, "sau đó thì tôi bị bắt."
Lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH nghỉ ngơi bên những khẩu đại bác
Không đội trời chung với Việt Cộng, tuổi trẻ Huế xung phong chống cộng
Perry Kretz, Tướng TQLC Bùi Thế Lân và tác giả tại Huế
Chúng tôi lái lên hướng Bắc theo Quốc lộ 1 được người Pháp đặt tên là "Con lộ không niềm vui," do đã có quá nhiều lính tráng và dân thường đã bỏ mạng nơi này trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Chúng tôi biết là không thể đi xa được bởi vì hầu hết các đơn vị tiên phong của Bắc Việt chỉ cách Huế 20 dặm.
Mục đích của chuyến đi này là thử xem tình trạng của con đường này trong bối cảnh lịch sử của nó, so sánh với những gì tôi đã đọc trong các cuốn sách của Bernard Fall. Tôi cũng tự hỏi không biết những đứa trẻ chăn trâu mà tôi đã kể khá nhiều trong một chương trước có còn đây hay không. Té ra là chúng biến mất đâu cả rồi và điều này là một dấu hiệu đáng ngại. Quốc lộ 1 đã trở thành một con đường đáng sợ. Chiếc xe của chúng tôi là chiếc duy nhất trên con lộ đột nhiên trở thành chiến tuyến giữa vị trí quân Bắc Việt hướng Tây và các lực lượng VNCH hướng Đông. Đạn súng cối và pháo binh bay qua đầu từng đợt bất thường.
Perry ngồi trên ghế hành khách bên cạnh Hiền trong khi tôi thì ngồi đằng sau ngó chăm chú qua vai Hiền vào mặt đồng hồ tốc độ, càng lúc càng lo lắng. Mũi kim đồng hồ ít khi nào vượt qua mức 30 cây số một giờ. Dán sát mũi vào mặt trong kính chắn gió, anh chàng Hiền cận thị lái chậm rãi một cách nguy hiểm vô cùng trên đoạn đường gian nguy này.
"Lái nhanh lên đi, Hiền," tôi khẩn khoản nói với anh, "Chúng ta bị bắn sẻ mất. Chỉ có tốc độ mới thoát thôi."
"Tôi phải xem xét mặt đường kẻo có mìn, thưa ông," Hiền nói, "Nhưng mắt tôi không tốt lắm để có thể nhìn thấy chúng."
"Vậy thì để tôi lái đi, mắt tôi còn tinh," tôi nói.
"Không được thưa ông. Chiếc xe này chỉ được bảo hiểm dưới tên tôi thôi,"
anh trả lời một cách không thành thật lắm làm Perry nổi điên lên.
"Ya hoid him, ya schmuck..., lái nhanh lên!" Perry tru lên bằng một giọng có thể được kính nể tại New York nhưng hoàn toàn không phải là cách lý tưởng để thuyết phục một nhà trí thức người Huế.
Đến đây thì Hiền giận lắm rồi. Anh đạp mạnh thắng. Chiếc xe jeep đậu lại ở một chỗ tệ hại nhất có thể bị mắc kẹt trong một cuộc đụng độ: tại một nơi trống trải trên một con lộ thoáng ra mọi hướng, trong khi đạn pháo binh hai bên bay vun vút qua đầu.
Hiền và Perry cãi nhau càng lúc càng hăng bằng bốn thứ tiếng. Tiếng Hiền the thé pha lẫn tiếng Việt và tiếng Pháp trong khi Perry hò hét phần giống như dân New York, phần như dân sinh trưởng vùng Rhineland của anh. Kịch trường của sự phi lý đã đạt đến một mức độ mà có lẽ thần chết đã trở thành một khả năng có thể xảy ra. Tôi giựt lấy chìa khoá xe của Hiền và nói, "Tôi muốn sống sót qua trận này và tôi chạy đi núp đây. Nếu quý vị bình tĩnh lại trước khi mất mạng thì theo tôi vào cái mương kia." Tiếp theo tôi nhảy ra khỏi đằng sau xe và chạy lúp xúp khoảng 500 thước đến khi tìm được một một cái hốc bên cạnh đường đủ sâu để núp vào như một cái hố cá nhân.
Hiền và Perry còn tiếp tục cãi nhau một chập nữa nhưng không lâu lắm. Họ chạy theo tôi vào cái hố cho tới khi cuộc đụng độ lắng dịu dần. Thật là kỳ diệu, chiếc xe của Hiền không hề hấn gì.
"Tôi sẽ lái đây," tôi nói và vòng xe lại. Tôi nhấn ga và lái quanh co về lại hướng Huế, vừa cố gắng tránh bị bắn tỉa vừa lái vòng qua những khoảng mặt đường bị vá trông có vẻ như có dấu bị đặt mìn.
Trên đường về gần thành phố chúng tôi chỉ đi ngang duy nhất một chiếc xe dân sự khác. Đó là một chiếc xe buýt Lambretta ba bánh, hay xe Lam. Người tài xế có vẻ không màng gì đến chuyện bị bắn sẻ hay đạn súng cối gì cả. Đột nhiên anh ta ngừng lại, chúng tôi cũng vậy, khá ngạc nhiên về đồ chở trên xe và người hành khách. Chúng tôi thấy hai cỗ quan tài nhỏ và một người đàn bà có bộ răng nhuộm đen. Bà ta vật vã gào thét, "Ôi các con tôi, ôi các con ơi, tại sao con lại bỏ mẹ ra đi?"
"Chuyện gì vậy?" Tôi hỏi người tài xế xe Lam. Hiền dịch lại.
"Mấy đứa nhỏ bị chết đêm qua vì Bắc Việt pháo kích làm ngôi làng chúng tôi đằng kia bị phá hủy hoàn toàn," người tài xế trả lời, chỉ tay về hướng một cụm những túp lều đổ nát vài trăm thước về phía Nam dọc theo Quốc lộ 1. Tám người lính VNCH xuất hiện từ những hầm cá nhân cạnh bên đường tiến đến khiêng hai cỗ quan tài. Họ chôn chúng bên bờ một khúc ruộng, dặn dò người mẹ đừng đến quá gần. "Cẩn thận có mìn đấy!" Họ cảnh cáo.
Từ một khoảng cách ngắn, người phụ nữ ném một nắm kẹo vào ngôi mộ trước khi các binh sĩ lấp nó lại.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Đến vùng ngoại ô Huế chúng tôi đi ngang khoảng một chục thiếu niên có vũ trang ngồi xổm trên một bức tường. Trông họ còn quá trẻ để vào lính.
"Họ là ai vậy?" Tôi hỏi Hiền.
"Nhân dân tự vệ," anh nói. "Tất cả họ đều tình nguyện chiến đấu chống Cộng sản."
"Cái này mới à," tôi thăm dò, "Đặc biệt ở Huế mọi người có vẻ không muốn dính dáng đến chiến tranh."
“Không đâu,” Hiền giải thích. "Chúng tôi khi trước thường ghét người ngoại quốc, đầu tiên là người Pháp rồi sau đó là người Mỹ. Nhưng từ sau Tết Mậu Thân chúng tôi thù Cộng sản, tất cả mọi người từ học sinh cho đến
Hoàng Thái Hậu."
"Cái gì? Vẫn còn Thái Hậu à?"
"Dĩ nhiên rồi, bà là mẹ của Hoàng đế Bảo Đại. Tên bà là Hoàng Thị Cúc," anh trả lời, "Chúng tôi gọi bà là Đức Từ Cung, có nghĩa là một vị cung phi từ bi đức độ nhất."
"Đức," tôi thốt lên. "Biệt danh tôi cũng là Đức và có nghĩa là người Đức nữa. Như vậy chúng tôi cũng có điểm giống nhau đây."
Ít nhất một lần anh chàng Hiền đạo mạo cũng tự cho phép mình nở một nụ cười và đùa một chút:
"Ngoại trừ một điều, bà ta là Đức... Hoàng Tộc."
"Như vậy thì bà ta không phải đi theo con trai lưu vong qua miền Nam nước Pháp à?"
"Không, bà sống ngay đây trong một căn biệt thự trên đại lộ Lê Lợi."
"Anh có quen với bà không, có thể sắp xếp cho tôi phỏng vấn được không?" Tôi hỏi.
"Đúng, tôi có quen với bà. Nhưng không, bà sẽ không cho anh phỏng vấn. Thái Hậu không cho ký giả phỏng vấn, chỉ cho tiếp kiến thôi. Tuy nhiên tôi nghĩ có thể thu xếp được cho anh."
Hai ngày sau, Hiền đưa chúng tôi đến chỗ cư ngụ của Thái Hậu. Điều đầu tiên tôi nhận ra là hàng chữ nguệch ngoạc trên bờ tường vườn bà. "Cắt đầu," có nghĩa là cắt cổ họng. Nhưng chữ tiếp theo "Mỹ," có nghĩa là người Mỹ, đã bị sơn trắng đi, rõ ràng là một nhận định chính trị.
Một người cận thần thật gầy mặc bộ áo dài đã sờn nát hướng dẫn chúng tôi cung cách hành xử trước mặt Hoàng gia. Chúng tôi phải cung kính chắp tay trước mặt. Chúng tôi không được chạm vào người Bà và không được lên tiếng trước. Bà có đặc quyền được mở đầu câu chuyện.
Chúng tôi được dẫn vào phòng khách và Đức Từ Cung, một người phụ nữ bé nhỏ 83 tuổi mặc chiếc áo dài màu vàng, màu dành riêng cho vua chúa, ngồi trên một chiếc ngai vàng cầu kỳ đằng trước một bàn thờ cũng cầu kỳ không kém trên đó có hình phu quân của bà, Hoàng đế Khải Định và hình của người con xa xôi Bảo Đại. Bà luôn miệng hút thuốc lá Bastos là một loại thuốc lá đen rất nặng.
Triều kiến Đức Từ Cung Hoàng Thái Hậu
Nước trà ướp hoa nhài được dâng lên trong những chiếc tách sứ tráng men có viền vàng. Đức Từ Cung nói nhỏ nhẹ bằng tiếng Việt và người cận thần dịch lại. Bà nói rõ Bà chỉ là người giữ chỗ cho con trai là người cai trị chính danh của Việt Nam. Bà sẽ không bao giờ tự nguyện rời bỏ Huế trừ phi bọn Cộng sản tiến chiếm và bắt Bà. Tuy nhiên Bà đã không chịu rời nhà trong suốt ba tuần lễ khủng bố của bọn chúng trong đợt Tết Mậu Thân 1968.
"Tôi không thể lìa bỏ thần dân," Bà nhấn mạnh.
"Dân chúng Huế vẫn còn ủng hộ triều đình. Họ đến diện kiến tôi cả ngày, người giàu cũng như kẻ nghèo, quý tộc và thường dân, cao hay thấp. Tổng thống Thiệu và Phó Tổng thống Kỳ mới đây còn phái các vị phu nhân đến viếng thăm tôi để bày tỏ sự kính trọng và Đại tá Tôn Thất Khiêm, Tỉnh trưởng Thừa Thiên vẫn thường xuyên thỉnh ý kiến tôi."
Nghe Bà kể chuyện là một kinh nghiệm u sầu, giống như lần gặp Hoàng thân Norodom Sihanouk vào năm 1968. Có phải đây là một màn kịch trường của sự phi lý nữa chăng? Tôi không nghĩ như vậy. So sánh với những gì tôi đã trải qua tại Huế, điều này đánh động tôi một thoáng nhìn về một cuộc sống bình thường có văn hoá đáng lẽ cái xứ sở này phải có và lòng tôi trĩu buồn khi nghe kể là để kinh tài cho phong trào phục hoàng, Bà đã phải bán đi những chiếc bình sứ trong các ngôi đền tổ tiên hoàng gia.
Còn một chuyện nữa tôi phải làm trước khi vĩnh viễn rời Huế: là một người say mê về xe lửa, tôi muốn đi thăm một lần chót cái ga tầu hỏa cũ kỹ của Huế. Tất nhiên du lịch bằng xe lửa tại Việt Nam đã bị gián đoạn từ lâu rồi, nhưng tôi vẫn luôn bị xúc động bởi cái phong cách mà người Việt Nam gìn giữ, ít nhất về bề ngoài của một sự liên tục, với các thời khóa biểu và lịch trình giá cả được cập nhật hóa hết sức tỉ mỉ.
"Chúng ta có mặt ở đó tám giờ vào buổi sáng đi," Hiền đề nghị.
Chúng tôi đến sớm hơn một chút, tản bộ trên nền sân ga. Chúng tôi nhận thấy một tấm bảng mờ cho biết là Sài Gòn cách 1.041 cây số và Hà Nội 688 cây số. Một đầu xe lửa diesel đang nổ máy đậu tại đó. Cái đầu máy này cùng với một toa hành lý tạo thành Chuyến Tầu Tốc Hành Xuyên Đông Dương đã từng lừng danh một thời.
Ông trưởng ga xuất hiện, mở ra một lá cờ đỏ, vẫy lên và huýt một hồi còi. Chiếc đầu máy hụ còi và đúng tám giờ sáng chuyến tầu hỏa rời khỏi trạm ga. Năm phút sau, nó trở lại, chỉ di chuyển một vòng vỏn vẹn không hơn một cây số. Kỹ sư tầu, một người trạc 50 tuổi có tên là Dương tắt máy. Trưởng ga cuộn cờ đỏ lại và một ngày làm việc của họ chấm dứt. Một lần nữa họ đã chứng tỏ là Chuyến Tầu Tốc Hành Xuyên Đông Dương vẫn còn hoạt động.
Lạ lùng thay, hoạt cảnh này không có gì là phi lý đối với tôi mà nói lên niềm đức hạnh hay "Đức" trong tiếng Việt tức một lời chứng thực cho niềm hy vọng khi đối mặt với tai họa. Khi chúng tôi rời ga xe lửa, hai chục người phu xe đang chờ bên ngoài với những chiếc xích-lô xếp hàng thật ngay ngắn.
"Tại sao lại ở đây?" Perry Kretz hỏi anh xích-lô trưởng toán.
"Không ở đây thì chúng tôi ở đâu bây giờ?" Anh hỏi ngược lại.
Vào lúc đó và tại nơi đó, tôi chợt hiểu là có sự hợp lý trong cái kịch trường của sự phi lý.
Tài xế xích lô xếp hàng đợi khách vô hình trước cổng ga xe lửa
tầu đã ngừng chạy tại Huế
PS:
tk cảm ơn quí bạn đã ghé đọc, đôi khi tham gia, cho ý kiến;
đặc biệt là CCG.
Bài dài, tk không giỏi nên đã chuyển sang một cách vụng về nhưng
CCG vẫn kiên nhẫn theo dõi.