Bức Thư Thứ Tư - Quách Tấn
~~~:z57:~~~
Bức Thư Thứ Tư - Quách Tấn
Các bạn thân mến!
THƠ khác với VĂN chẳng những ở điểm chương cú của thơ ngắn gọn, mà còn ở điểm thơ giàu nhạc. Thơ không nhạc là văn, văn có nhạc là thơ.
Cổ nhân luận rằng “Thơ đời Tống trong thơ có văn, Văn đời hán trong văn có thơ”, là nói về nhạc trong thơ văn, và ngụ ý chê thơ Tống kém nhạc, khen văn Hán có nhạc.
Văn đời Hán có nhạc, thơ đời Đường giàu nhạc. Chính nhờ có nhạc, mà văn Hán thơ Đường được học giả khen là “Nhân gian tuyệt phẩm”. (Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm).
Thơ Tống không phải không hay, nhưng vì kém nhạc nên phải đứng sau thơ Đường.
Như vậy Nhạc là một yếu tố rất quan trọng trong văn chương, nhất là trong Thơ.
Muốn có nhạc, bài thơ cần phải điều chỉnh theo ba yếu tố: Thanh, Vận, Điệu.
Vận thuộc về Chương Pháp. Thanh thuộc về Cú Pháp. Điệu thuộc về vừa Cú Pháp vừa Chương Pháp.
Đáng lẽ phải nói về Vận trước để bức thư này liền mạch với bức thư thứ 3 nói về quy tắc trong 1 chương. Nhưng chưa nói rõ về Thanh mà đã nói đến Vận thì lời nói khó trôi chảy, e các bạn lãnh hội không được thoải mái.
Cho nên xin nói về THANH trước.
Mà muôn nói về THANH được rõ ràng thì không thể không nói về ÂM mà trong các sách nói về việc làm thơ xưa nay ít đề cập tới.
Do đó có lắm người không phân biệt được Âm và Thanh. Có người hỏi Viên Mai, một thi hào đời Thanh, thì Viên Mai đáp: “Thanh thành văn vị chi âm”, nghĩa là “Thanh thành văn rồi thì gọi là âm”.
Tôi không hiểu nổi lời giải thích đó, và liên tưởng đến lời nói của một nhà Tây triết: “Giải nghĩa là một cách làm cho tối nghĩa thêm”.
Nhưng rồi nghĩ lại: “Người Tàu giải nghĩa chữ Tàu bằng tiếng Tàu nên mình không lãnh hội được”, tôi bèn lật các bộ Hán Việt từ điển, và thấy giải Âm là Tiếng mà Thanh cũng là Tiếng. Như thế Âm cũng như Thanh, Thanh cũng như Âm sao?
Vâng, tuy hai nhưng một, tuy một nhưng hai.
Tôi xin nói rõ:
- Âm là tiếng gốc, giọng bằng phẳng, không xuống, không lên, không cao, không thấp.
- Thanh là giọng cao thấp, xuống lên của Âm, là cung bậc của tiếng gốc.
Âm mà phát ra được là nhờ cơ quan phát âm là lỗ miệng mà các bộ phận chính là Hầu (họng), Thiệt (lưỡi), Xỉ (răng), Thần (môi).
Phải đủ bốn bộ phận chính ấy, âm phát ra mới được trọn vẹn. Nhưng âm chịu ảnh hưởng khi thì bộ phận này nhiều hơn các bộ phận kia, khi thì các bộ phận kia nhiều hơn các bộ phận này.
Dựa trên mức độ ảnh hưởng ở họng hay ở lưỡi, ở răng hay ở môi… mà chia âm ra làm bốn loại chính, mỗi âm lại chia ra hai hay ba bốn âm nữa:
- Hầu âm (tiếng họng) thì có thâm hầu (họng trong) và thiển hầu (họng ngoài). Ví dụ: A, ê, ô, ơ, ư,… (thâm hầu), e, I, o, u (thiển hầu).
- Thiệt âm (tiếng lưỡi) thì có thượng thiệt và đầu thiệt. Ví dụ: da, danh, cây, cung… dung, danh, dang… khang, khôn, lân, lương… (Thượng thiệt); đa, đôn, đương…liên, nang, ra, ranh… tha, thiên…tre, trinh (Đầu thiệt).
- Xỉ âm (tiếng răng) chia làm chính xỉ và bán xỉ. Ví dụ: Sa, sanh, siêng… (bán xỉ); Xa, xanh, xiêng (chính xỉ).
- Thần âm (tiếng môi) chia làm khinh thần và trọng thần. Ví dụ: ba, bưng…qua, quanh (khinh thần); Ma, minh… pha, phiên… va, vâng… (trọng thần).
Nói tóm lại là khi phát âm, chúng ta nhận thấy phải dùng bộ phận nào nhiều hơn hết thì âm ấy thuộc bộ phận ấy.
Và ta nhận thấy những chữ nguyên âm a, e, i, o, u, ê, ô, ơ, ư đều thuộc về hầu âm; những tiếng khởi đầu bằng những phụ âm c, d, đ, g, h, kh, l, n, r, t, th, tr đều thuộc về thiệt âm; những tiếng khởi đầu bằng phụ âm s, x thuộc về xỉ âm; những tiếng khởi đầu bằng phụ âm b, m, qu, ph, v thuộc về thần âm.
Và nhìn trên mặt chữ, chúng ta nhận thấy Âm là những tiếng không có dấu. Vì không có dấu nên không có cung bậc lên, xuống, thấp, cao.
Thêm những dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã vào thì Âm trở thành Thanh có giọng thấp, giọng cao, giọng lên, giọng xuống.
Vì có 5 dấu, và vì một khi âm trở thành thanh thì tiếng gốc không dấu đó được coi là một thanh, cho nên mỗi âm chia làm 6 thanh độ:
- Thượng bình thanh, gồm những tiếng không dấu
- Hạ bình thanh gồm những tiếng có dấu huyền
- Thượng thượng thanh gồm những tiếng có dấu hỏi
- Hạ thượng thanh gồm những tiếng có dấu ngã
- Thượng khứ thanh gồm những tiếng có dấu sắc
- Hạ khứ thanh gồm những tiếng có dấu nặng
Chữ Hán không có dấu nên khách làng thơ Hán tự, bên Việt Nam cũng như bên Trung Hoa chia thanh ra làm bốn độ gọi là Tứ Thanh, gồm có:
- Bình thanh
- Thượng thanh
- Khứ thanh
- Nhập thanh
Làng thơ Quốc âm lấy nhập thanh đem chia làm 2 độ Thượng, Hạ để nhập vào 6 thanh Bình, Thượn, Khứ thành 8 thanh độ:
- Thượng nhập thanh gồm những tiếng có dấu sắc và có hậu phụ âm là t, p, c, ch
- Hạ nhập thanh gồm những tiếng có dấu nặng và có hậu phụ âm là t, p, c, ch
Có người chê là đa sự, chỉ gây thêm phiền phức chứ không có ích gì cho thơ.
Chê như thế là chưa nhập điệu. Thử hỏi tìm hiểu thanh độ của Âm làm gì, nếu chẳng phải để tạo thi nhạc khi điều chỉnh âm thanh. Cũng như âm giai trong môn nhạc. Thanh độ nhiều bao nhiêu thì thi nhạc giàu bấy nhiêu. Cũng như trên đã nói, Nhạc là một yếu tố quan trọng của thơ. Như vậy “gây phiền phức” để làm giàu cho thơ, sao gọi là “đa sự”, sao bảo là “vô ích”? Như vậy, làng thơ Việt Nam thêm 2 thanh độ nữa thành 8 thanh độ, chẳng những không đáng chê mà còn đáng khen.
Và, như đã nói trên đây, một khi Âm đã chuyển thành Thanh thì tiếng gốc không dấu đã hòa mình vào tiếng gốc có dấu thành 8 thanh độ, thì Âm trên danh nghĩa này vẫn còn. Cho nên cổ nhân hợp Âm và Thanh làm một, và gọi là Âm hay là Thanh, thì tùy nghi chứ không cố chấp. Cũng do đó mà các sách bàn về thơ Đường nói đến Thanh chứ ít khi nói đến Âm.
(Còn tiếp)