Mưa và cơn đau phố.
(Kỷ niệm về một bài hát cho phố Hàng Đồng, Hải Dương)
Chính xác là ngày nào thì không còn nhớ rõ, nhưng khoảng thời gian đó là vào đầu năm 2003, sau khi Mẹ tôi mất. Mấy anh chị em, lâu lắm mới có dịp gặp lại nhau tại Sài Gòn. Một số từ bên Mỹ về, một số còn ở VN. Thế là cả bọn quyết định làm chuyến ngao du ra bắc, thăm lại quê quán (gốc gác), và để tìm hiểu thêm chi tiết cho quyển gia phả (mà chi họ bên Mỹ đang chấp bút dở dang)…
Tân Sơn Nhứt vèo tới Nội Bài hơn tiếng đồng hồ, chúng tôi thuê taxi về khách sạn Thiên Nga tại phố Châu Long gần Hồ Tây (đầu đường là chợ Châu Long, cuối đường là thôn Ngũ Xã). Buổi chiều, chúng tôi nhẩn nha đi ăn chả cá và bàn kế hoạch “hành quân”. Người thì bảo ở Hà Nội chơi rồi vọt về SG cho chắc, người thì bảo đã đến thì phải xuống Hải Dương thăm ông Chú Út, kẻ thì toáng lên là cứ chơi hẳn ngay về nhà quê luôn … sợ hãi gì chứ! Tối đó, có lẽ mọi người đều trằn trọc thì phải? Vì tờ mờ hôm sau, mới non 6 giờ sáng, tôi lục đục dậy bật máy nước nóng đợi tắm, thì đã thấy ông anh thứ 3 đứng ở ngoài ô văng nhìn xuống con đường còn hơi đêm hiu hắt, rồi bà chị từ phòng trên lầu xuống bảo … người ta rao hàng sớm quá nên giật mình thức luôn … Tôi thì lại nghĩ, mọi người mất ngủ do nôn nao (hoặc háo hức) vì việc đi Hải Dương rồi tắp xuống làng hôm nay.
Khi tề tựu đủ, chúng tôi rảo bộ ra hướng chợ. Sáu giờ rưỡi sáng, mùa đông Hà Nội, khí hậu vừa hanh hanh, vừa se se, xung quanh bao phủ bởi sương sớm nhờ nhờ. Từ cửa tiệm phở, nhìn ra hướng hồ Tây, một vùng không gian bạc, lơ lửng thấp, chùng, như tơ như khói. Nếu đã ăn quen phở trong Sài Gòn rồi, thì tô phở bắc hôm ấy, thật mộc mạc đơn giản. Này nhé, bánh đa mỏng, hấp mềm, họ thái ra hơi to bản, vài lát thịt bò tái hoặc chín có hình dạng khiêm nhường, một nhúm hành lá gọt dài, và nước dùng, thế thôi. Buồn cười nhất là, bọn “vẹt khều”, đứa nào đứa nấy bổ ngửa ra hãi hùng khi thấy chị bán cho cả thìa bột ngọt sống (mì chính) vào bát…. Cứ thế là ơi ới “Chị ơi! Chị múc cái bột ấy ra đi”. Tuy chất lượng phở ít oi, đơn giản, nhưng ăn thật ngon.
Chiếm ưu tiên bộ bàn ghế con ngay lề đường, chúng tôi vừa hì hụp nhai, húp, vừa nhìn lác đác sinh hoạt tinh mơ qua lại. Trời, đôi lúc có vài cơn thuốt lạnh, len vào trong khe áo, rất trêu. Ngoại cảnh lắng trầm, nội cảm lâng lâng, giữa lòng phố ban mai - hương vị bát nóng trở nên đắc địa.
Ở nước ngoài về, hay trong nam ra, thật không biết bao lâu mới làm quen được (nghe quen) ngôn ngữ lồng lộng và đanh thép của hai chữ “mày, tao”. Cứ là nhớn gọi bé hoặc kẻ có quyền sức gọi người dưới thế, chả hề kiêng nể, lịch sự hay ái ngại gì cả…. Mà cái người bị gọi “mày” cũng có vẻ chấp nhận như bình thường.
Đang ăn, bỗng một ông anh bảo, "tao" thèm húng quế (ông nội này có máu Hà Lội thứ thiệt, nên trở giọng “mày, tao” nhanh quá!), rồi bà chị bảo, ước gì có bát giá trần nhỉ! Tôi gọi con bé con (bưng bát cho khách), hỏi xem tiệm có rau thơm không. Cháu ấy bảo, nếu bác muốn, cháu có thể chạy ù vào chợ tìm mua cho bác, chứ ở đây không có rau gì cả. Thật đúng là “bọn nam kỳ lắm chuyện?”. Thôi thì đành ẩm thực theo lối hương hoa mảnh dẻ của đất kinh kỳ văn vật vậy.
Hân hoan chả được bao lâu thì xảy ra chút ấm ức. Số là trong đám anh em chúng tôi, có một người tóc muối tiêu lông mày rậm, ngăm ngăm, tròn trịa…. Chợt bàn bên cạnh có 2 bác cỡ độ ngoài 60 xuân, mặc pi da ma (nom có vẻ sĩ khí bắc hà lắm cơ!) sà đến ăn sáng. Vừa an tọa xong, thì một bác trỏ ngay vào “ông muối tiêu”, phán – Bác này giống hệt như ông Nguyễn Đình Thi. Thế là tôi nổi cáu, quạng ngay cho một phát – Mặt mũi thì có giống, nhưng bụng dạ không bẩn hèn như tên đó. Hai cụ kia ớ mắt ra … chắc là không hiểu sao lại bị đổ ghè tương bất thình lình như thế…
Sau buổi điểm tâm, chúng tôi thuê ô tô con đi Hải Dương….
Ra khỏi Hà Nội tí là đã đầy cảnh quê mùa, đồng ruộng, rơm rạ… Đường cuốn bụi vàng lúc nắng hiện lên. Cả bọn không ai nói chuyện với ai, dường như mỗi người đều buông thả theo suy nghĩ riêng của mình. Hình ảnh xửa xưa trong từng câu chuyện kể của Bố, Mẹ lũ lượt tìm về. Rồi Bát Tràng, Đầm sét, Vạn Vân, làng Bần (nơi làm tương Bần) lớp lớp diễn ngang. Một số những huyền thoại, địa danh, di tích từng đọc trong sách vở, cũng hiện ra đó, đây, sừng sững với những bảng tên, làm sửng sốt.
Ô tô chạy ngoài 1 tiếng thì đến khu “Đường Vòng” đầu tỉnh. Xe rẽ vào Hài Dương! Thôi thì có lúc thấy cả một con phố thuần những hiệu bánh đậu xanh … Hết “đăc biệt”, "đặc sản", lại tới “nguyên thủy” rồi “gia truyền”. Đố ai mà biết được hiệu bánh nào ngon/dở hoặc thứ thật, thứ giả. May mà cả bọn đều không hảo ngọt, nên chất tò mò trong người cũng sụt xuống tận cùng bằng số. Ngoài bánh đậu là đầy dẫy, còn có bún ngan, miến ngan chen chân. Quái lạ là ở miền bắc, ít thấy ai ăn vịt, còn cái món miến thì 99% đi với ngan, 1% sót lại thì chừa cho gà
Mò mẫm bản đồ đường xá xong, rồi cũng tìm đến tận cửa căn nhà Chú tôi đang ở (phố Bắc Sơn, Hải Dương). Một ông gầy gầy, cũng muối tiêu đang ngồi trong nhà với phích, chè trước mặt và bình/dọc tẩu thuốc lào bên cạnh cái đèn dầu với một ống đóm. Ối giời, cái ông này sao mà giống cụ Nội tôi thế. Chả ai bảo ai, cả bọn đều tự đoán biết đích thị Chú Út đây rồi. Ông anh thứ 3 của tôi giả vờ như khách ghé mua (chả là cửa nhà có cái quầy nhỏ bán thuốc lá điếu và bán chè Thái Nguyên), hỏi mua 5 cân chè TN. Thế là chú tôi gọi “.. ơi, con ra xem có người mua chè”. Sau tôi mới biết ông gọi cô con dâu…..
Trêu chòng độ vài phút, ông anh tôi mới tự khai… “Thế chú không nhận ra cháu à? Cháu là thằng ..S.. đây!”. Lúc ấy, bên ngoài, trời đã hơi hực nắng, cây bàng vào đông nhuộm lá đỏ, vàng, không gian tan sương, khô ráo… Vậy mà, trong gian khách bé tẹo, mưa nước mắt đổ xuống, từ Chú tôi, từ anh tôi, từ chị tôi…..
Tuy vai trên, nhưng Chú Út chỉ lớn hơn anh chị tôi dăm ba tuổi và họ từng chơi với nhau, lớn với nhau từ tấm bé…. Thôi thì sau cơn mưa là cơn sấm chớp rầm rộ. Mạnh ai nấy nói, đủ thứ xa xưa bần cổ đều lôi tuột ra hết. Tôi thì chả biết "tâm sự của họ", nên cứ thế mà ngồi ệch mặt ra nghe. Thỉnh thoảng, anh hay Chú lại quay sang giải thích (kiểu bàn thêm như Thánh Thán Mao Tôn Cương bình phẩm Tam Quốc Chí vậy).
Rồi đó, chúng tôi mới rủ ông Chú và đứa em họ tập kích về làng (cách thị xã 17 cây số), nơi mà hầu hết mồ mả Cụ Kỵ từ ông tổ đầu tiên đến Hải Dương lập nghiệp cho đến Cụ Cố của chúng tôi. Nhờ có thổ địa, nên việc mướn vài chiếc xe gắn máy là điều dễ dàng. Mục đích tập kích, nghĩa là cả đoàn 6 người cộng 2 bằng 8 sẽ đèo nhau trên 4 chiếc Honda, chạy thẳng vào làng. Những mục tiêu cần tọa độ thì đã có ông Chú chỉ điểm, ví dụ như nhà của Ông Bà, nhà Bố Mẹ tôi, mấy cái ao (mà chúng tôi hay được nghe kể) nơi trẻ con học bơi lội, nơi bắt được con cá trắm to nhất làng, hoặc chỗ cây Hòe là nơi Mẹ tôi hay cho các con ăn cơm sau chiến dịch "tiêu thổ kháng chiến" của bọn thổ tả v..v.. Xong đâu đấy, cả bọn sẽ đi thắp hương cho từng mộ nào mà ông Chú còn nhớ được. Vì là lần đầu về và chả ai hiểu rõ được tâm tình họ hàng bản xứ ra sao, nên không ghé thăm ai trong làng là quyết định chung. Các anh chị tôi xa quê cũng suýt soát 50 năm rồi. Người đi thì ghét cs, người ở lại thì phải theo cs thôi, chuyện không thể khác được. Thời gian 50 năm thì đã có biết bao vật đổi sao rời. Tình đời, tình người ai dám đo, dám lường, với lại cái đám quan chức tẻo tẹo trong làng, chúng nó dở hơi lắm (nghe ông Chú bảo thế). Thôi thì ghé thăm nơi, chốn, gốc gác để thổn thức với tấm lòng thật thà của hậu sinh cũng đủ lắm rồi.
Vừa lái xe vừa lội bộ, hết thôn này qua thôn kia, hết gò đống này đến gò đống kia, tính ra phải tốn hơn 2 tiếng đồng hồ mới thắp hương được cho 6 mộ Tổ Ông và một mộ Tổ Bà (vì ông Chú chỉ biết được có thế). Hai ngôi mộ mà dòng họ (xửa xưa) mua thế đất để táng Cụ Nhị và Cụ Tam là chúng tôi “chiêm ngưỡng” và làm cỏ sạch nhất. Đúng là cái bọn con cháu này chỉ biết trục lợi (ha ha ha) để hy vọng hưởng (Vớt vát? Ăn theo?) – Một thế đất là “Phượng Hàm Thư” phát về văn chương, một thế đất “Kim Ngưu” phát về làm ăn, tiền bạc. Ngoài ra còn một thế đất “Phục Sư” phát về nhà binh của vị tổ thứ 5 mà chú tôi không rõ vị trí ở thôn/huyện nào. Ngày xưa, con cháu hay táng các Cụ Ông vào đất thế, chứ các Cụ Bà thì chỉ nằm chỗ khoáng khoát (đồi, đống) ngoài đồng. Buồn thế đấy - sống thì đồng tịch đồng sàng, nhưng chết thì lăng ba vi bộ hết, nói nôm na là hồn ai nấy giữ, ông theo đường ông, bà theo đường bà, ngứa lưng thì đừng hòng nhờ gãi hộ.
Mãi đến xế trưa, chúng tôi mới rời ngôi mộ cuối cùng (cụ Tổ Bà – Tam Tổ), quay ngược về làng Mái, vượt qua dãy bạch-đàn khá dài rồi rẽ sang hướng phủ Bình Giang để sang quốc lộ 17. Dọc bờ sông, tre vàng (loại tre đực, thân to bằng bắp tay hoặc hơn) mọc uốn lượn, san sát, êm ả. Đường ngang thôn vắng vẻ! Chốc chốc lại thấy vài chú bò vàng nhẩn nha hoặc mấy mẹ con gà, te te chạy tránh xe. Trời đông miền bắc, nắng biêng biếc như mắt người yêu, mảnh mai ẻo lả. Chốc chốc, một cơn mưa lén sà xuống rồi bay lên cao làm cho khí hậu miết miên âm ẩm. Bây giờ ở thôn quê, người ta nuôi bò nhiều, vì công việc cày, xới những cánh đồng lớn, họ có thể mướn máy làm với năng xuất gấp 10 lần trâu. Bò thì dùng phụ những khoảnh ruộng bé, mà khi cần bán cho hàng thịt lại được giá hơn trâu nhiều. Thế nên, hình ảnh mục đồng với đàn trâu tuy vẫn còn, nhưng phải đi xa hơn nữa, lên mạn cao như Yên Báy, Phú Thọ... chứ ở trung du, thì coi như cứ hiếm hoi dần.
Hôm trước, lúc mới đến, ông Chú có hỏi – thế các cháu về chơi, có muốn ăn uống món gì lạ không? Tôi buột miệng thốt – cháu muốn ăn thử chả rươi thì là! Tội nghiệp, mùa sang đông rồi làm sao mà còn rươi nhưng ông vẫn bắt cô con gái chạy lên Hải Phòng tìm. Chả hiểu ra làm sao, mà nó khuân về được một bọc rươi đúng lúc cả bọn dừng xe trước cửa nhà. Thà đừng nhìn thấy, thì món chả chắc sẽ thơm ngon! Bữa cơm quá giấc (độ 3 giờ chiều) hôm đó, tôi chỉ gắp chả rươi như hương, như hoa, còn thì thuần “đánh quả” chỗ đĩa thịt gà lá chanh cho chắc dạ.
Ngồi tán gẫu sau bữa chừng hơn tiếng đồng hồ, thì một ông anh của tôi nhờ Chú dắt cả bọn đến hàng Đồng để thăm lại căn phố ngày xưa (năm 45 hay 46?) mà Bố tôi đã phải bán tháo, bán đổ điền, thổ nhà quê, mua nó để đưa đám con trai đi lánh cộng sản, rời hẳn xó xỉnh làng, thôn. Tội nghiệp, công sức làm việc bao năm, ấy thế mà bọn thổ phỉ kia, chúng móc nối với vài người giúp việc đồng áng trong nhà… xì xào là sẽ mổ bụng ông cụ. Từ đó, Bố tôi ở hẳn thị xã với 3 người con trai lớn. Mẹ tôi với 2 con nhỏ thì ở nhà quê vì ruộng vườn vẫn đó, dù là không còn nhiều nữa. Hai ông bà “ly thân” cho đến mãi sau, lúc cả gia đình sắp sửa chạy lên Hà Nội năm 50-51 khi những vụ giết người, đấu tố lén lút bắt đầu hoành hành dữ tợn nơi thôn dã.
Mẹ tôi kể, có lần đưa 2 con lên thăm ông, tờ mờ bốn, năm giờ sáng đã phải lấy quần áo bó cho trẻ con khỏi lạnh, đặt ngồi (hay nằm?) lên 2 thúng, chất rơm ngụy trang, cùng với một người chị họ vờ như ra ruộng sớm, hay đi buôn thúng bán mẹt gì đó, và gánh xuyên bao nhiêu cánh đồng. Cứ thế mà đi bộ đến gần trưa mới ra tới Hải Dương, rồi sập mặt trời mới lại gánh xuyên làng mạc, mang con về làng… Khổ thân! Nghĩ đến cái cảnh, mới 5, 6 tuổi đầu, chỉ biết tranh ăn, giành phá, cựa quậy suốt ngày, mà phải im thin thít, chịu đựng rơm rạ ngứa ngáy cả buổi. Lũ tai mắt, cỏ đuôi chồn thì gớm lắm, chúng mà thấy người lớn dắt trẻ đi, thì đồ là trốn ra tề hoặc qui tội giao liên cho Pháp, tìm cách hoạnh họe ngay. Con nít đã khổ mười mươi, thì người lớn còn khốn nạn đến thế nào nữa!?
Lại nói đến căn phố ở hàng Đồng, một thời các anh tôi được nuôi nấng, sống và học trên đó. Thuở phôi thai, bon chen thành thị, nhà chỉ là một cái nền bằng đất bỏ không, khá rộng. Bố tôi vừa tự làm, vừa thuê thợ phụ giúp đưa xà, đưa cột lên (sản nghiệp chắc chỉ có vài trăm đồng bạc Đông Dương – mà đã vay mượn của họ hàng 100 rồi). Cậu cả, thì phải theo bố tôi buôn bán lăng nhăng kiếm sống. Cậu thứ, mới trên 10 tuổi thì làm công cho một tiệm chụp ảnh. Nói chung là đời sống chật vật lắm (vẫn là nghe kể thế), suốt thời gian, ăn dè, sống sẻn để vừa tồn tại, vừa trả nợ vay. Thế rồi, lúc nhà quê loạn lạc quá, mẹ tôi với 2 người con bị lùa phải sơ tán lên mãi tận Phú Thọ, không chạy ra Hải Dương được (dù chỉ có 17 cây số) vì đánh nhau khắp nơi. Có lẽ gần một năm sau, tình hình lắng dịu, họ đẩy dân về lại thôn làng, đồng thời gài cán bộ, tai mắt nằm vùng khắp nơi. Lúc ấy, gia đình tôi có Ông Chú thứ 5 bị kẹt lại, nên phải tham gia đoàn thể của họ. Cái chiến dịch vườn không nhà trống (tiêu thổ kháng chiến học lại của Tàu) đã chẳng những làm kiệt quệ kinh tế nông thôn, hoa màu chết rụi mà còn gây ra nạn đói tràn lan. Tây nó chả chết thêm thằng nào mà chỉ toàn dân mình chết do thiếu ăn, đói khát. Sau, Chú 5 tôi liên lạc được với Bố tôi và tìm cách nào đó đưa Mẹ tôi với 2 người cháu ra được tỉnh. Ông ở lại và bị chúng thủ tiêu giữa đoạn đường xuống Thái Bình (có lẽ nghi ngờ chú tôi là phòng nhì của Tây?).
Gia đình quây quần ở Hải Dương chỉ hơn năm thôi. Trong khoảng thời gian đó, Mẹ tôi phải gánh hàng xén qua chợ bán mỗi ngày, Bố tôi thì cũng đi buôn thập cẩm đủ món. Nhưng, cơ ngơi cũng khá dần lên. Rồi căn phố ấy, bố tôi chia làm hai gian: một bên thì cả nhà chen chúc, một bên mở một hiệu bán giấy, bút, sách, vở như văn phòng phẩm ngày nay vậy….. Cuộc sống êm đềm cho đến lúc thị xã (Hải Dương xưa được gọi là Thành Đông) không còn được yên nữa, thì toàn bộ cơ ngơi của cải đó phải bỏ hết để chạy lấy thân ra Hà Nội ….. Ôi!
Chúng tôi đi qua, đi lại phố hàng Đồng năm ba lượt chứ không ít. Mọi người chỉ nhìn và chụp ảnh nhà cũ từ xa. Bây giờ nó chia hẳn ra 2 căn với 2 chủ, cũng bán buôn lễ mễ. Chú tôi bảo – Xem chán rồi về nhé. Tôi không chịu, nên nói – Để cháu đến thú thật với họ đây là nhà cũ của mình và cháu muốn vào thăm, nhìn lại. Thật ngại quá, nào ai biết ai là ai, nhưng đã muốn liều thì phải lĩnh vậy. Tôi lân la đến ông chủ hiệu đang ngồi sau cái tủ kính nhỏ, rồi nói thẳng ý định mình. Gặp phải người lành tính, thân thiện, và cũng ngây thơ nữa, ông ta ngập ngừng hỏi – Thế bác định về đây đòi lại nhà cũ à? Tôi cũng mua lại của chủ trước độ vài năm thôi. Tôi cười xòa – Chúng tôi ở miền nam ra, nhớ lại cơ ngơi cũ của Bố, Mẹ nên ghé ngang chụp vài tấm ảnh kỷ niệm thôi bác ạ! Thế là ông ta vồn vã cho cả bọn vào, lại còn mời nước chè nóng nữa chứ. Qúy hóa vô cùng!
Đâu đấy xong xuôi, ra tới cửa thì tất cả 6 anh chị em tôi đều nước mắt ngắn, nước mắt dài. Chị tôi không chịu nổi sự xúc động, níu vai tôi và khóc nấc lên…. Trời bỗng lất phất mưa. Căn 2 tầng đối diện có treo lá cờ (chắc là ủy ban gì đó) vừa bị gió lay vừa bị mưa ướt vỗ lên hàng hiên nghe phần phật. Tôi quay qua hỏi ông anh – Anh còn nhớ mấy câu thơ của ông Trần Dần không? Anh trả lời – Tôi nhớ chứ chú! Mà cảnh sao có vẻ giống nhỉ!?
“Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà”
“Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” ... (T.D.)
Đi bộ đến ngã 3, men theo vỉa hè, vì trời vẫn mưa lất phất… Mọi người nép vào nhau để tránh vòi nước nhỏ lách tách chảy xuống theo mái hiên. Bất chợt, từ quán nước ngay sát lề, một giọng hát thoát ra …. “Lệ mãi thương về cố hương xa vời, lệ nhớ mong ai mờ trang giấy....” Dường như tất cả đất trời chợt sững lại (chả hiểu sao mãi Hải Dương mà lại có người vặn nhạc Lam Phương để nghe?). Chị tôi quay nhìn rồi bảo – Bài hát quá hay, quá cảm động. Tôi nghĩ, chẳng qua bài hát với lời lẽ đó đến đúng lúc tâm trạng chúng tôi vẫn còn nghẹn ngào, xao xuyến nên nó cắt thẳng vào trong lòng nhanh, nhọn như lưỡi dao lá trúc vậy.
Từ bấy đến nay, mỗi lần nghe bài hát đó, thì con phố Hàng Đồng với căn nhà hai gian lại hiện ra trong trí nhớ, giữa mưa bụi lất phất, và một bên lề đường tất tả những giọt nước rơi. Tôi hình dung thấy Bố tôi trong chiếc áo dài lương đen, khăn đóng, đang bước đi ở một đầu ngõ nhỏ, và hình ảnh mờ mờ của Mẹ tôi, quang gánh nghiêng vai, trĩu trệ thấp cao trên con đê nhòa hơi sương sớm.
Bố, Mẹ tôi mất cùng năm, người đầu năm, người cuối năm, khi tôi vừa đủ khả năng để phụng dưỡng. Cứ bảo rằng chưa kịp là đồng nghĩa với muộn màng. Nhưng thật ra, đời sống quá thiết tha và vội vã, mình phải tự hiểu điều nên làm, ngay cả lúc mình cứ đinh ninh là chưa kịp. Có lắm vết thương quên đi cho dù thành sẹo, nhưng có những vết thương không sứt mẻ vẫn đau đáu mãi khôn nguôi.
Ghi chú:
*** Phố Châu Long: lấy tên người vợ của ông Dương Lễ trong truyện Lưu Bình - Dương Lễ.
*** Thôn Ngũ Xã: Bài hát Cô Hàng Nước.
*** Câu vè truyền miệng: Dưa La, húng Láng, cà Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét (Nguyên thủy là cà Báng chứ không phải nem Báng)
MM