Register
Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 16 of 16
  1. #11


    Gọi tên là biết Sài Gòn

    Ngày 1-2-1865, Phó đô đốc Pierre Paul Marie de la Grandière (1807 - 1876) của nhà cầm quyền Pháp tiến hành đặt tên cho 26 con đường trên địa bàn thành phố Sài Gòn vốn trước đó chỉ được đánh số thứ tự.

    Trải qua 311 năm xây dựng và phát triển, Sài Gòn - Saigon hiện có hơn 1.500 con đường lớn, nhỏ và từ lâu đã rối như canh hẹ bởi chuyện đường trùng tên, thiếu tên đặt cho đường. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có một điểm trọng yếu là chúng ta không mặn mà với những tên gọi gắn liền với lịch sử, văn hóa của vùng đất mình đang sinh sống.

    Đường xưa lối cũ

    Đường Mã Lộ nằm trên địa bàn phường Tân Định, Q.1, dài chừng 120m, lộ giới 14m, bắt đầu từ đường Nguyễn Hữu Cầu đến đường Bà Lê Chân. Đường này ngắn nhưng thuộc loại rất xưa của vùng Sài Gòn, có từ khi xây cất chợ Tân Định, năm 1928. Thời Pháp thuộc, đường này mang tên Lê Văn Duyệt. Từ ngày 16-10-1955, chính quyền Sài Gòn đổi là đường Mã Lộ và được dùng cho đến ngày nay.

    Con đường này nằm phía sau chợ Tân Định. Ngày xưa chưa có các loại xe lam, xích lô, ba gác thì phương tiện đi lại chủ yếu để người ta đi lại và chuyên chở hàng hóa là xe ngựa. Những chiếc xe thổ mộ lóc cóc từ các vùng ngoại ô: Hóc Môn, Bình Chánh, Gò Vấp, Tân Bình… chở người và hàng về chợ bán mua. Sau khi đổ hàng, xuống khách, các xà ích cho xe ngựa tập trung ở một đoạn đường sau chợ cho ngựa nghỉ chân, ăn cỏ, uống nước, người tranh thủ chợp mắt hay túm năm tụm ba trò chuyện, chờ chợ tan lại đón hàng và người về. Lâu dần, đoạn đường này được gọi bằng cái tên thân thuộc: Mã Lộ (đường của ngựa).

    Ở Q.3 có một con đường mà khi gọi tên ta đã nghe giăng mắc ô thửa, đó là đường Bàn Cờ, chạy từ đường Nguyễn Đình Chiểu đến đường Điện Biên Phủ, thuộc địa bàn phường 2 và 3, dài khoảng 460m. Lịch sử tên gọi đường này cũng rất độc đáo. Năm 1910, dưới thời Pháp thuộc, TP Sài Gòn được mở rộng về phía tây. Khu đất phía trong đường Nguyễn Thiện Thuật được quy hoạch, xẻ ngang, vạch dọc như bàn cờ để phân cho dân chúng xây nhà. Thấy đường sá ở đây cắt ô như bàn cờ tướng, người ta liền gọi là khu Bàn Cờ. Con đường chính băng qua khu này mặc nhiên được gọi là đường Bàn Cờ. Theo truyền văn thì khi mới làm tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho đặt ga đầu ở khu này. Đầu máy về tới đây, muốn quay lại để đi xuống Mỹ Tho, phải trướn lên một cái mâm hình tròn, quay trên một trục vững chắc để công nhân đẩy xoay đầu lại. Cái mâm ấy gọi là bàn cờ. Đường chạy qua khu có cái mâm ấy được gọi là đường Bàn Cờ.

    Ở Q.4 có một đường mang tên nghề gắn liền với giấc ngủ của con người từ xưa đến nay: đường Xóm Chiếu. Con đường thuộc địa phận phường 15 và 16, dài 905m này mang tên một địa danh của đất Gia Định xưa, có từ đời vua Minh Mạng (1884). Chả là, từ thời Gia Long, vùng này chỉ có thôn Khánh Hội và Bình Ý nằm gần kinh Bến Nghé và sông Sài Gòn. Phía trong toàn bưng sình, mọc đầy cây bàng (thảo câu) và lác. Tận dụng nguồn nguyên liệu này, dân chúng quy tụ thành một xóm làm nghề dệt chiếu và lập chợ để bán. Từ đó, tên Xóm Chiếu ra đời.

    Cũng thuộc ngạch đường mang tên nghề nghiệp của người dân sở tại, ở Q.5 có đường Xóm Cải (thuộc địa bàn phường 11, dài 125m, chạy từ đường Nguyễn Trãi đến đường Mạc Thiên Tích; Xóm Cải là địa danh của đất Chợ Lớn xưa kia, là nơi cư ngụ của những người chuyên nghề trồng rau cải để bán), Xóm Chỉ (thuộc địa bàn phường 10, từ đường Phan Phù Tiên đến đường Tản Đà, dài khoảng 118m; Xóm Chỉ là địa danh của đất Chợ Lớn (cũ), xưa kia, dân vùng này chuyên làm nghề kéo chỉ), Xóm Vôi (địa danh cũ của đất Gia Định, nơi có người dân lập thành xóm chuyên chở đá xanh từ vùng Hà Tiên lên để nung vôi bán cho người ta xây dựng, ăn trầu), Q.6 có đường Lò Gốm, quận Tân Bình có đường Vườn Lài (dân sở tại trồng cây hoa lài (nhài) để ướp trà, Q.9 có đường Lò Lu, huyện Củ Chi có đường Xóm Thuốc (thuốc lá để hút)...

    Ai có tâm hồn ăn uống, nhắc đến tên đường Vườn Thơm, thuộc xã Lê Minh Xuân và Bình Lợi, huyện Bình Chánh, chắc phải tứa nước miếng. Quả vậy, dưới thời Pháp thuộc, đây là một đồn điền bạt ngàn thơm (dứa).

    Ở tỉnh Chợ Lớn cũ có một vùng kênh rạch chằng chịt, ghe thuyền đi lại tấp nập. Dân trong vùng trồng rất nhiều cây sao để lấy gỗ đóng ghe, thuyền. Hằng năm, từ tháng 12 đến tháng 4, là mùa cây sao ra bông, đậu quả, không biết cơ man nào mà kể. Mỗi cơn gió thoảng qua, bứt bông sao khỏi cành thổi bay lơ lửng trên không trung một hồi rồi mới rơi xuống rải đầy mặt đất, mặt nước, trông đẹp như tiên cảnh. Thế là người dân lấy tên Bông Sao để gọi con đường chạy qua vùng. Nay đường này thuộc P.4, Q.8.

    Chỉ về sự ấm no thì ở P.15, Q.8 có đường Mễ Cốc, dài 2.350m, lộ giới 20m. Mễ Cốc nguyên là một kho lúa, sau thành địa danh. Nghe tên đường, ta đã gợi nhớ đến vùng đồng bằng Nam Bộ, vựa lúa của miền Nam. Từ ngày một số người Hoa không phục nhà Thanh, qua đây xin chúa Nguyễn cho lập nghiệp ở vùng Chợ Lớn, lúa được xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á. Rồi từ ngày người Pháp lập cảng Sài Gòn thì vùng này mỗi ngày có hàng trăm ghe, thuyền từ các tỉnh miền Tây đổ về Chợ Lớn, lúa được bốc lên các kho, vựa trên bến để rồi chuyển đến các nhà máy xay xát. Thế là bến mang tên Mễ Cốc (bến lúa gạo).

    Để gợi nhớ thưở đất rộng người thưa, ta hãy về xã Phước Thạnh, huyện Củ Chi tản bộ trên đường Mít Nài dài 1.500m. Mít nài là giống mít mọc hoang dại ở ven rừng, có trái na ná mít vườn nhưng không ăn được, gỗ chỉ dùng làm củi. Xã Phước Thạnh trước đây cả thế kỷ chỉ là rừng, mít nài mọc hoang vô kể. Cũng trên địa bàn huyện Củ Chi, có những tên đường mà khi gọi lên ta đã thấy thiên nhiên gần gụi: Cây Bài (xã Phước Vĩnh An), Cây Điệp (xã Nhuận Đức), Cây Gõ (xã An Phú), Cây Trắc (xã Phú Hòa Đông), Cây Trôm (xã Phước Hiệp, Thái Mỹ).

    Ai yêu chim muông, mời về xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh đi trên con đường dài khoảng 6.000m thỏa thê nghe tiếng le le lội nước và ngắm cánh cò bay lả bay la. Đường tên là Láng Le - Bàu Cò mà! Đây là địa danh cũ của tỉnh Gia Định chỉ một vùng đất sũng nước, nơi cư ngụ của cơ man nào là le le và cò. Đường Hố Bò ở xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi thì nhắc ta rằng thời xa xưa, vùng này sâu trũng, cây cối rậm rạp, là nơi nương náu của rất nhiều loài bò rừng.
    Để trí tưởng tượng bay xa hơn nữa, mời bạn đến đường Gò Cẩm Đệm ở P.10, quận Tân Bình. Sở dĩ con đường dài 840m, lộ giới 12m này mang tên vậy là do nơi đây xưa kia là một gò đất cao, rộng 3 dặm, nằm phía sau Giác Lâm cổ tự, thuộc địa phận xã Phú Thọ Hòa, huyện Bình Dương. Khi xưa trên gò, cỏ thơm mọc dày như trải đệm, cây cao bóng mát tỏa như lọng che nên dân chúng gọi tên là gò Cẩm Đệm rồi thành địa danh, từ ngày 13-7-1899 thì là tên đường.
    Đất Sài Gòn - Gia Định rộng lớn, người hào sảng mà tâm hồn mơ mộng nên cũng luôn là đất văn chương thi phú. Điều ấy ghi dấu ở tên đường Bình Dương Thi Xã, P.5, Q.1 mang tên một hội thơ nổi tiếng và bề thế nhất tại huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định hồi đầu thế kỷ XIX. Nổi danh nhất của thi xã này là 3 danh sĩ: Trịnh Hoài Đức (chủ hội), Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh mà đương thời gọi là Gia Định tam gia…
    Quyến rũ chừng… 10%

    Tôi ngồi tỉ mẩn đếm đếm tính tính theo các tài liệu về tên đường ở Saigon, quỹ tên đường của Hội đồng đặt mới, sửa đổi tên đường, công viên, quảng trường và công trình công cộng Saigon thì thấy một con số đáng báo động, những tên đường độc đáo, thân thuộc, gọi là biết ngay Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định như kể trên chỉ chiếm chừng 10%.
    Trong khi đó, xưa nay, chúng ta quá say sưa với những tên nhân vật lịch sử. Tất nhiên, việc tôn vinh công đức của tiền nhân là điều cần thiết, nhưng cũng đừng hồn nhiên nghĩ rằng cứ đặt tên một con đường, xây dựng một tượng đài thì chắc chắn sẽ làm được việc giáo dục truyền thống.
    Có một chuyện nhỏ diễn ra đã dăm năm rồi nhưng vẫn làm tôi mỉm cười mỗi khi nhớ lại. Lần ấy, Alain Thomas - bạn tôi - từ Pháp sang. Theo bản năng, đến bữa, tôi dẫn anh đến một nhà hàng Pháp thuộc loại sang ở thành phố. Tưởng anh sẽ vui lắm khi có một người bạn Việt Nam chiều chuộng mình, đến một nơi xa lạ mà vẫn được sống trong không khí quê nhà. Ai dè, anh chối đây đẩy và nằng nặc đòi tôi dẫn đến một quán vỉa hè. Và chúng tôi đã ngồi bên hồ Con Rùa uống bia Sài Gòn xanh, ăn bò bía và tán chuyện hăng say về vùng đất của tôi. Alain bảo đó mới là điều thu hút anh ấy “chứ sang đây mà vẫn ăn đồ Pháp, nói chuyện nước Pháp thì tôi ở nhà cho xong”.
    Trở lại chuyện tên đường cũng vậy. Đến mỗi địa phương, đi trên những con đường mang đậm dấu tích văn hóa của vùng đất, con người nơi ấy, chắc chắn chúng ta thấy thú vị hơn rất nhiều khi gặp những tên đường mà ở đâu cũng có.
    Chẳng hạn, ở Sài Gòn, 146 năm trước, me là cây đầu tiên được người Pháp mang trồng ở hai bên đường. Hầu hết các con đường trên địa bàn thành phố đều có bóng me; me đã là nhạc, là thơ, là hơi thở của người dân xứ này! Đến Sài Gòn mà được tản bộ trên con đường mang tên Lá Me Bay và giơ tay bắt những lá me chao trong gió, nếm vị giôn giốt của trái me thì thật là ấn tượng đặc biệt. Ai biết ở Saigon, từ giữa tháng 5, trái dầu rái bứt khỏi cành, tạo thành những chiếc chong chóng xoay tít khắp phố phường để mơ về một con đường mang tên Dầu Rái?
    Cũng vậy, nếu chúng ta cởi mở và lãng mạn hơn, trên những nẻo đường đất Việt sẽ có những tên đường, phố độc đáo, gắn với những sản vật của địa phương như: đường Hoa Ban ở Điện Biên, phố Hoàng Lan ở Hà Nội, đường Phượng Bay (từ cảm hứng trong những chiều đi trên đường này, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết “Đường phượng bay mù không lối vào” (Mưa hồng) ở Huế… là một nét thi vị và luyến nhớ cho cả dân địa phương và du khách. Đồng cảm với chúng tôi về vấn đề này, TS khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu - Phó tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Saigon chia sẻ: “Theo tôi, nên lưu giữ những địa danh dân gian để đặt tên đường phố hay tên đơn vị hành chính mới trong quá trình đô thị hóa. Dân gian hay đặt tên cho một khu vực nào đó theo đặc điểm về tự nhiên hay truyền thuyết của khu vực ấy, hoặc cũng hay gọi một cách không chính thức nhưng lại dễ nhớ, dễ tìm. Vì vậy, tên các loài cây, hoa - nếu là đặc điểm, đặc trưng của một khu vực, một con đường, một ngõ hẻm... rất nên dùng để đặt tên cho khu vực, đường, hẻm ấy. Nó sẽ làm cho người dân trân trọng và gìn giữ các loài cây, hoa đó, góp phần bảo vệ môi trường, tạo nên nét đẹp văn hóa đa dạng của TP. Những giá trị văn hóa vật thể như thế qua thời gian sẽ lắng đọng, trở thành di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của từng địa phương”.
    Cũng theo bà, trong các khu đô thị mới hiện nay, cần khuyến khích người dân trồng các loại cây, hoa làm đẹp, mang lại bóng mát cũng như mảng xanh cho thành phố. Và cũng rất hay nếu như đặt tên đường, khu phố mới theo tên các loài thực vật đó.
    ... Biết đâu chừng, một ngày, giữa Sài Gòn ồn ã, kẻ lãng đãng là tôi lại được tủm tỉm nhắn nhe lũ bạn rằng: «Nhà tôi ở hẻm Cây Điệp, đường Chiêu Liêu. Sáng sáng, sau khi tản bộ trên đường Nhạc Ngựa, tôi đến đường Đủng Đỉnh uống cà phê rồi về làm việc ở đường Long Não»...

    Box:
    - Năm 2008, Hội đồng thị trấn Dartford, London, Anh đã phê chuẩn đặt tên 13 đường phố trong một khu dân cư mới xây dựng lấy cảm hứng từ tên các ca khúc của ban nhạc Rolling Stones như: Sympathy Street (cảm hứng từ ca khúc Sympathy for the devil), Cloud Close (từ ca khúc Get off of my cloud), Rainbow Close (She’s a rainbow), Babylon Close (Bridges to babylon), Dandelion Row (Dandelion), Ruby Tuesday Drive (Ruby Tuesday)...
    - Nếu chúng ta cởi mở và lãng mạn hơn, trên những nẻo đường đất Việt sẽ có những tên đường, phố độc đáo, gắn với những sản vật của địa phương.
    - Đến mỗi địa phương, đi trên những con đường mang đậm dấu tích văn hóa của vùng đất, con người nơi ấy, chắc chắn chúng ta thấy thú vị hơn rất nhiều khi gặp những tên đường mà ở đâu cũng có.


    Hàn Mai Tự
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  2. #12



    Sài Gòn đâu đó trong tiếng gọi

    Sài Gòn đâu đó trong tiếng gọi
    mà nghe hoài mỗi tối chưa quên
    nên nhiều lúc chính mình tự hỏi:
    con đường nào có những lối đi quen?

    như con đường từ Bến Thành, ngược Bắc
    qua khỏi cầu Công Lý tới Dakao
    ở đó, một dạo nào mình gặp
    dáng lụa vàng khua guốc mộc kiêu sa!

    Bẵng thật lâu hơn phần tư thế kỷ
    sống ở đâu cũng nghĩ đến Sài Gòn
    thế mới biết tấm lòng người viễn xứ
    còn thiết tha lời guốc mộc âm vang

    Sài Gòn đâu đó trong tiếng gọi
    nên mãi chờ về lại lối xưa quen
    nhìn áo lụa vàng, nghe lời guốc mộc
    đẹp như thơ theo dòng nghĩ vào đêm!

    Cao Nguyên

    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  3. #13
    GIỌNG SÀI GÒN



    Với tôi, giọng nói Sàigòn mãi mãi hay hơn giọng Bắc Kỳ Hà Nôi gốc Nghệ đang lan tràn trong nước.

    Tôi sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, trong đầu lúc nào cũng có một ý định là sẽ “thở đều” trên mảnh đất ồn ào này, ý định đó chắc sẽ giữ mãi cho đến lúc một ngày nào đó âm thầm không bứt rứt cắn tay áo mà mỉm cười he he he xuống dưới ấy…

    Gọi là yêu Sài Gòn thì có phần hơi quá ! Không dám gọi thứ tình cảm dành cho Sài Gòn là tình yêu, nó chưa thể đạt đến mức ấy. Cái tình với Sài Gòn là cái tình của một thằng ăn ở với Sài Gòn hơn 20 năm, cái tình của một thằng mà với nó, Sài Gòn còn quá nhiều điều níu kéo, quá nhiều chuyện để mỗi khi bất chợt nghĩ về Sài Gòn, lại thấy nhơ nhớ, gần gũi…
    Hồi còn đi học, vẫn hay chọc mấy đứa bạn bằng 2 câu thơ nhại :


    Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Gái Sài Gòn cái mỏ cong cong


    ***



    Chuyện con gái Sài Gòn “mỏ” có cong không thì hổng có biết, chỉ biết con gái Sài Gòn có cái dẩu môi cong cong dễ làm chết người lắm, nhất là khi cánh môi be bé ấy cong lên một chữ “hônggg…” khi đứa con trai rủ rê đi đâu, năn nỉ gì đó. Lúc đó, đem gương hay kiến soi, chắc cái mặt của đứa con trai đó tội lắm. Mà con gái Sài Gòn có điệu đà, õng ẹo chút thì mới đúng thiệt là con gái Sài Gòn. Ai mà chẳng biết vậy. Gọi đó là cái duyên ngầm của người con gái đất Gia Định cũng chẳng có gì sai. Ai hiểu được, người đó sẽ thấy sao mà yêu mà thương đến vậy…

    Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách trú (người Hoa hay chú ba tàu), những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…

    Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến cái giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ còn có giọng tha thiết của người con gái xứ Huế trầm tư mới cùng được ví von như thế…

    Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào… mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt. Giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, thứ giọng chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, nó chính là cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.

    Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang, sang sảng riêng… Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có thích hay khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này.

    Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen !” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen !”.

    Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen !”. “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên lên tiếng “Hay hén mậy ?” bằng giọng điệu thoải mái…

    Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau, lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen !”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen !”… Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!”

    Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à !” khá nhiều, như một thói quen, như cái “duyên” trong giọng Sài Gòn. Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy.

    Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn..

    Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy !” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen !”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó. Nghe một người Sài Gòn phát âm những chữ có phụ âm “v” như “về, vui, vườn, võng” có cảm giác sao sao ấy, không đúng là giọng Sài Gòn chút nào…
    Nhìn lại một quãng thời gian hơn 300 năm hình thành và phát triển của Sài Gòn từ Phiên Trấn, Gia Định Trấn, Gia Định Thành, Phiên An, Gia Định Tỉnh… cho đến Sài Gòn, dân Sài Gòn đã là một tập hợp nhiều dân tộc sinh sống như Việt, Hoa, Kh’mer… Các sử sách xưa chép lại, khi người Việt bắt đầu đến Đồng Nai – Gia Định thì người Kh’mer đã sinh sống ở đây khá đông, rồi tiếp đó là khách trú (người Hoa), và một số dân tộc láng giềng như Malaysia, Indonesia (Java) cũng có mặt. Sự hợp tụ này dẫn đến nhiều sự giao thoa về mặt văn hóa như đàn ông không mặc quần mà quấn sà rông, nhà giầu quê bận bộ áo bà ba mầu trắng, làm ăn khi giao tiếp phải có chầu “nhậu”, cũng như những mặt khác của đời sống, trong đó dĩ nhiên phải nói đến ngôn ngữ.

    Tiếng nói của người Sài Gòn không chỉ thuần là tiếng Việt, mà còn là sự học hỏi, vay mượn nhiều từ ngữ của dân tộc bạn, đâm ra mang nhiều “hình ảnh” và “màu sắc” hơn. Những từ như “lì xì, thèo lèo, xí mụi, cũ xì,cái ki …” là tiếng mượn của khách trú, những từ như “xà quầng, mình ên…” là tiếng của người Kh’mer. Nói riết đâm quen, dần dần những từ ngữ đó, những tiếng nói đó được người dân Sài Gòn sử dụng một cách tự nhiên như của mình, điều đó chẳng có gì lạ…Thêm vào đó, nó được sửa đổi nhiều cho phù hợp với giọng Sài Gòn, thành ra có những nét đặc trưng riêng.

    Vậy nói cho cùng thì người Sài Gòn cũng có những tiếng gọi là “tiếng địa phương” (local dialect !?). Những tiếng này thể hiện rõ nhất khi người Sài Gòn nói chuyện cùng người miền khác. Nghe một người Sài Gòn nói chuyện cùng một người khác vùng, dễ dàng nhận ra những khác biệt trong lời ăn tiếng nói giữa hai người, hai miền. Có một số từ người Sài Gòn nói, người miền khác nghe rồi… cười vì chưa đoán ra được ý. Điển hình như tiếng “địt”, có nghĩa là cái bụng nó sả hơi. Cũng như khi nghe người Huế dùng một số từ lạ lạ như “o, mô, ni, chừ, răng…” trong khi nói chuyện vậy thôi. Khác là mấy tiếng người Sài Gòn nói, vẫn có chút gì đó nó… vui vui tai, là lạ, ngồ ngộ làm sao.

    Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt.

    Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa !”; “Mới dìa/dzề hả nhóc ? – Dạ, con mới! “… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳng hay…
    Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”… người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó xinh ghê !” nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy.)

    Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.
    Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem… “Nhỏ đó xinh lắm !”, “Nhỏ đó ngoan !”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.

    Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề… nhìn phát bực !” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe !” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều, tiền ít coi !”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, kiểu bắt chước Tây, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho”ở đây là mua đó nghen.

    Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi !” “Ngon làm thử coi !” “Cho miếng coi !” “Nói nghe coi !”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà.

    Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta ?” “Sao rồi ta ?” “Được hông ta ?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.

    Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi !”. Mà giọng Sài Gòn đã thế, cách người Sài Gòn xưng hô, gọi nhau cũng có phần mang “màu sắc” riêng.

    Người Sài Gòn có cái kiểu gọi “Mày” xưng “Tao” rất “ngọt”. Một vài lần gặp nhau,nói chuyện ý hợp tâm đầu một cái là người Saigon mày tao liền. Nếu đúng là dân Sài Gòn, hiểu người Sài Gòn, yêu người Sài Gòn sẽ thấy cách xưng hô ấy chẳng những không có gì là thô thiển mà còn rất ư là thân thiện và gần gũi.

    Mày-tao là kiểu xưng hô hay thấy trong mối quan hệ bạn bè của người Sài Gòn. Cách xưng-hô này thấy dàn trải từ đủ các mối quan hệ bạn bè; từ bạn học giữa mấy đứa nhóc chút xíu, cho đến mấy bác mấy anh lớn lớn tuổi. Hổng biết cái máu dân Sài Gòn nó chảy mạnh quá hay sao mà thấy mấy cách gọi này nó… tự nhiên và dễ nói hơn là mấy từ như “cậu cậu – tớ tớ” của miền Bắc. Nói chuyện bạn bè với nhau, thân thiết mà gọi mấy tiếng mày mày tao tao thì nghe thật sướng, thật thoải mái tự nhiên, và khoai khoái làm sao ấy. Gọi thế thì mới thiệt là dân Sài Gòn.

    Đấy là ngang hàng, ngang vai vế mà gọi nhau, chứ còn như đám nho nhỏ mà gặp người lớn tuổi hơn, đáng bậc cha, chú thì khác. Khi ấy “tụi nhỏ” sẽ gọi là chú, thím, cô, dì, hay bác và xưng “con” ngọt xớt. Có vẻ như người Sài Gòn “ưa” tiếng chú, thím, dì, cô hơn; cũng như đa phần dân miền Nam khác vậy mà. Mà có lẽ cách gọi này cũng còn tuỳ vào việc ước lượng tuổi của người đối diện. Gặp một người phụ nữ mà mình nhắm chừng tuổi nhỏ hơn mẹ mình ở nhà thì “Dì ơi dì…cho con hỏi chút…!” – còn lớn hơn thì dĩ nhiên là “Bác ơi bác…” rồi. Khi gọi một cách thân mật có ý khuyên bảo với một em nhỏ, người Sài gòn thường nói “Nầy, chú em…”
    Những tiếng mợ, thím, cậu,… cũng tuỳ vào vai vế và người đối diện mà gọi. Có người chẳng bà con thân thuộc gì, nhưng là bạn của ba mình, lại nhỏ tuổi hơn, thế là gọi là chú và vợ của chú đó cứ thế gọi luôn là thím. Gọi thì gọi thế, còn xưng thì xưng “con” chứ không phải “cháu cháu” như một số vùng khác. Cái tiếng “con” cất lên nó tạo cho người nghe cảm giác khoảng cách giữa mình với đứa nhỏ đang nói kia tự dưng… gần xịt lại. Nghe sao mà quen thuộc, và gần gũi đến lạ lùng. Tự dưng là thấy có cảm tình liền.

    Nói tiếp chuyện xưng-hô, người Sài Gòn có kiểu gọi thế này : Ông đó = ổng – Bà đó = bả – Anh đó = ảnh – Chị đó = chỉ

    Không hiểu sao mà dấu hỏi tự nhiên cái trở nên giữ vai trò quan trọng… ngộ nghĩnh vậy nữa. Nhưng mà kêu lên nghe hay hay đúng hông ? Gọi vậy mới đúng là chất Nam Bộ – Sài Gòn á nghen.
    Người Sài Gòn cũng có thói quen gọi các người trong họ theo… số. Như anh Hai, chị Ba, thím Tư, cô Chín, dượng Bảy, mợ Năm…Mà nếu anh chị em họ hàng đông đông, sợ gọi cùng là chị Hai, anh Ba mà hổng biết nói về ai thì dzậy nè, thêm tên người đó vào. Thành ra có cách gọi : chị Hai Lý, chị Hai Uyên, anh Ba Long, anh Ba Hùng, anh Sáu Lèo …

    Thêm nữa, nếu mà anh chị em cùng nhà thì tiếng “anh-chị-em” đôi khi được…giản lược mất luôn, trở thành “Hai ơi Hai, em nói nghe nè…” và “Gì dzạ Út ?”… Tôi thích cách gọi này, đâm ra ở nhà gọi Dì Út tôi chỉ là một tiếng Út gọn lỏn. Có chuyện nhờ là cứ “Út ơi…con nhờ chút !” hoặc với mấy chị tôi thì “Hai ơi Hai… em nói nghe nè !”. Cách gọi này của người Sài Gòn nhiều khi làm người miền khác nghe hơi…rối. Có lần, kể cho người bạn ở Hà Nội nghe về mấy người anh chị trong gia đình. Ngồi kể lể “anh Hai, chị Hai, dì Hai, Út, cậu Hai, mợ Hai, chú Ba…” một hồi cái bị kêu là hổng hiểu, xưng hô gì rối rắm quá chừng, làm phải ngồi giải thích lại suốt một hồi…lâu.

    Cách xưng hô của người Sài Gòn là vậy. Nghe là thấy đặc biệt của cả một mảnh đất miền Nam sông nước. Cứ thế, không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh. Cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ !” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương…
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  4. #14



    Theo dấu thời gian:
    Sài Gòn "tiếng lóng"



    Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời "tiếng lóng" khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.

    Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng "sức mấy" để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám".
    Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; "sức mấy" đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt "tính tính tè tè, tè ti tè ti té", làm cho đường phố càng náo loạn hơn.

    Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng "xưa rồi Diễm ơi", mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe muốn gạt phăng đi.





    Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng "Cai gà", gọi cảnh sát là "mã tà", vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành "mã tà". Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: "gác-dang" tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói "de cái đít" tức lùi xe arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi "tiền boa", sau này chế ra là "tiền bo".

    Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là "con cò", còn nếu gọi "ông cò" là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi "thầy cò" tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói "cò mồi" là tay môi giới chạy việc, "ăn tiền cò" thì cũng giống như "tiền bo", nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.





    Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi "xế hộp", đi xe ngựa gọi là đi "auto hí", đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là "xe điếc", đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là "đi cấp", đi khiêu vũ gọi là "đi bum", đi tán tỉnh chị em gọi là đi "chim gái", đi ngắm chị em trên phố gọi là "đi nghễ", gọi chỉ vàng là "khoẻn", gọi quần là "quởn", gọi bộ quần áo mới là "đồ día-vía". Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là "đi xòe", đi đánh chắn gọi là "múa quạt", đi chơi bài mạt chược các ông gọi là "đi thoa", đi uống bia gọi "đi nhậu", đi hớt tóc gọi đi "húi cua". Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài Gòn, đó là "đi đầu dầu", tức các chàng trai ăn diện "đi nghễ" với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là "hết sẩy", quê mùa chậm chạp gọi là "âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".

    Tiền bạc gọi là "địa", có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lão đa địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù tình", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là "bắt địa", ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của mình.

    Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng "hia mão", có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu", có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.



    Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là "đào thương", kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là "kép độc". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi" tức uống café thiếu ghi sổ...Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi "nhật trình". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu", các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là "luộc bài", chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài", truyện tình cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3 xu", các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải". Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa", nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư".

    Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là "tịch", "hai năm mươi", "mặc chemise gỗ", "đi auto bươn", "về chầu diêm chúa", "đi buôn trái cây" hay "vào nhị tỳ", "nhị tỳ" thay cho nghĩa địa và "số dách" thay cho số một... đều ảnh
    hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.

    Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là "vòng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Tề Thiên", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi". Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé... Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời. Thời Mỹ đến thì một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám". Bỏ học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.




    Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà", "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi". Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lý do không rõ ràng để trốn việc. Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành "quả tó", gọi chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy 100USD là "vé", đi ăn cơm bình dân gọi là "cơm bụi", xuống phố dạo chơi gọi là "đi bát phố", gọi người lẩm cẩm là "dở hơi"...




    LÊ VĂN SÂM
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  5. #15
    SÀI GÒN SAU HIỆP ÐỊNH GENÈVE (20-7-1954)

    Ðịa vị của Sài Gòn trong lịch sử Việt Nam: Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Ðông

    .

    Trước thế kỷ thứ 17, tại Miền Nam đã có các dân tộc Phù Nam, Bồn Man, Chàm, Chân Lạp...(chúng ta thường gọi là người Miên hay Khmer) đến khai thác những chỗ đất cao như vùng Trà Vinh, Sóc Trăng, v.v... Ða số phần đất còn lại chưa có người ở là một vùng đất mênh mông, nhiều chỗ còn hoang vu, đồng lầy ngập nước với những cánh rừng tràm và cây đước mọc um tùm, muỗi mòng, rắn rết, cá sấu, cọp beo, thú dữ, đĩa đói... Qua các đợt Nam tiến, các chúa Nguyễn đã quy tụ những những người dân có máu phiêu lưu mạo hiểm, có tinh thần tranh đấu, cho đi lập nghiệp ở đất mới. Họ đã phải đối đầu với quân thù, với ma thiêng nước độc, cọp beo thú dữ, cá sấu, rắn rết, muỗi mòng, đỉa đói... Bàn tay của họ đã dựng nên nhà cửa, ruộng vườn, lập thành làng mạc. Trên phần đất vô chủ nầy, ai có sức mạnh thì làm chủ, ai có công lao khó nhọc thì tạo nên ruộng vườn, nhà cửa, làng mạc.

    Thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) quân đội của chúa Nguyễn rất hùng mạnh, hai danh tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đã đem quân đánh chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam của vua Lê chúa Trịnh trong 06 năm và đã đốt cháy 03 chiếc tàu của Hòa Lan do Van Liestvel chỉ huy ở trên biển Ðông, chỉ còn một người sống sót chạy về Batavia (Nam Dương), đã làm cho tất cả các nước trong vùng phải kiêng nể. Vua Chân Lạp đã chịu thần phục chúa Nguyễn và triều cống hàng năm. Năm 1692, đầu đời chúa Nguyễn Phúc Chu, toàn bộ lãnh thổ Chiêm Thành đã thuộc về chúa Nguyễn.

    Ðể bảo vệ những nơi có người Việt đến khai khẩn đất hoang, chúa Nguyễn đã cho đóng quân bên cạnh quân đội Chân Lạp. Tại những vùng đất mới, chúa Nguyễn đã cho tổ chức những lực lượng tự vệ gồm có binh sĩ và gia đình của họ kết hợp với dân đến định cư, lập nghiệp. Họ đã thành lập những làng gọi là “đồn điền”, thời bình thì làm ruộng, khi có chiến tranh thì họ là lực lượng chiến đấu tự vệ. Ðó là chính sách “tịnh vi nông, động vi binh” đã có từ thời Lý, Trần, Lê... ở nước ta.

    Lợi dụng lúc chú cháu vua Miên là Nặc Ông Chân và Nặc Ông Ðài tranh quyền, chúa Hiền lấy lý do bảo vệ người Việt nên ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh đem 3000 quân vào đóng ở Bà Rịa, bắt được Nặc Ông Chân, sau đó tha cho về và bắt phải triều cống nước ta. Sau khi Nặc Ông Chân chết, Nặc Ông Nộn và Nặc Ông Ðài tranh nhau ngôi vua. Ðài qua cầu viện vua Xiêm (Thái Lan), Nộn thì chạy sang cầu cứu với chúa Nguyễn. Quân chúa Nguyễn đánh Nặc Ông Ðài tại Sài Gòn, Ðài bỏ chạy qua Nam Vang và chết ở trong rừng. Chúa Nguyễn chia đôi nước Chân Lạp cho Nặc Ông Thu (là con dòng trưởng) làm vua một nửa nước và Nặc Ông Nộn làm vua phần còn lại. Hai vua Miên đều dưới quyền của chúa Nguyễn, hằng năm phải triều cống. Người Miên (Chân Lạp) dần dần suy yếu, cho đến thời chúa Nguyễn Phúc Ánh (1790-1800), thì còn lại 12 thủ lãnh người Miên chiếm cứ 12 vùng chung quanh Gia Ðịnh. Trước khi Nguyễn Phúc Ánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước vào năm 1802, tất cả 12 thủ lãnh người Miên nầy đã theo về với ông.

    Từ thời lập quốc đến thế kỷ thứ 10, biên giới nước ta mới đến Ðèo Ngang (Hà Tĩnh sang Quảng Bình). Cuộc Nam tiến thời Lê Thánh Tông (thế kỷ 15,16) quân ta mới đến Ðèo Cả (tỉnh Phú Yên). Bảo vệ và phát triển vùng đất mới từ Ðèo Ngang trở vào là công lao của Nguyễn Hoàng và con cháu của ông. Cho đến đời Nguyễn Phúc Tần (1649-1687), Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) thì người Việt mới có mặt ở vùng Ðồng Nai, Cửu Long (Miền Nam ngày nay). Diện tích xứ Ðàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn mở mang còn lớn hơn diện tích nước Việt Nam từ thời Ðinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê. Nói lên điều đó để thấy rằng việc nhà nước CSVN hiện tại xóa bỏ tên Sài Gòn là phủ nhận công lao của tiền nhân đã ba trăm năm mở mang vùng Ðồng Nai - Cửu Long tức Miền Nam nước Việt của chúng ta ngày nay.

    Tổ tiên của những người Miền Nam chính là dân Ngũ Quảng vào (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ðức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi), những danh tướng như Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng Bình), Nguyễn Cư Trinh (Thừa Thiên), Châu Văn Tiếp (Bình Ðịnh), Ðỗ Thanh Nhân (Thừa Thiên), Nguyễn Văn Thành (Thừa Thiên), Lê Văn Duyệt (Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu, Quảng Nam), v.v...

    Sự có mặt của người Hoa (Minh hương) dưới thời các chúa Nguyễn:

    Dưới thời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) người Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa, lật đổ nhà Minh, lập ra nhà Thanh. Những người trung thành với nhà Minh đã bỏ nước ra đi, đem quân đội và gia đình đến nước ta xin theo chúa Nguyễn. Sách “Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên” và “Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên” do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên soạn (ghi chép công nghiệp các chúa và các công thần thời các chúa Nguyễn) cho biết:

    “Vào một ngày tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1679) tức năm thứ 31 dưới triều đại chúa Hiền Vương, hai quan phòng giữ cửa biển Tư Hiền (Thừa Thiên) và Ðà Nẵng (Quảng Nam) bỗng phát hiện một đoàn chiến thuyền của Trung Quốc kéo đến nước ta. Lệnh cấp báo được ngựa trạm trình về kinh đô Phú Xuân (Huế) và toàn bộ hải quân của xứ Ðàng Trong được lệnh phải phòng giữ cửa biển thật nghiêm ngặt. Nhưng đoàn chiến thuyền kia đã dừng lại ở ngoài khơi và một chiếc thuyền nhỏ chở phái đoàn khách đã đáp vào bờ với những lễ vật và tờ tấu trình bày hoàn cảnh của họ: Ðó là những quan quân nhà Minh, bị người Mãn Châu (Nhà Thanh) xâm lăng, không chịu khuất phục cường quyền và để tỏ lòng trung thành với nhà Minh nên họ đã bỏ nước ra đi, đến xứ Ðàng Trong, xin được phục vụ và thề hứa tuyệt đối trung thành với chúa Nguyễn. Ðạo quân thứ nhất do Dương Ngạn Ðịch (nguyên Tổng binh Long Môn) chỉ huy, với phó tướng Hoàng Tiến. Ðạo quân thứ hai do Trần Thượng Xuyên, (nguyên Tổng binh ở Cao Lôi Liêm, tỉnh Quảng Ðông) chỉ huy, với phó tướng Trần An Bình. Toàn bộ lực lượng của họ gồm có 50 chiến thuyền với 3.000 binh sĩ và gia đình”.

    Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (tức Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Ðế của nhà Nguyễn), sinh năm 1620, lên nối nghiệp chúa cai trị xứ Ðàng Trong từ năm 1648 đến 1687 là người anh hùng đã từng đem quân đánh chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam (Nghệ An) của họ Trịnh trong 6 năm và cũng đã tiêu diệt Chiêm Thành và thôn tính đất Chân Lạp, biến xứ Ðàng Trong thành một nước giàu có, hùng mạnh vào bậc nhất ở vùng Ðông Nam Á thời bấy giờ, uy danh vang dội đến nhà Minh, nhà Thanh bên Trung quốc. Thương nhân người Hoa, Nhật Bản, Mã Lai, Thái Lan (Xiêm La), Phi Luật Tân và các nước Tây Phương như Hòa Lan, Tây ban Nha, Bồ Ðào Nha, Pháp, Anh,v.v... cũng đã vào ra buôn bán ở các cửa biển nước ta, đã làm cho Hội An (Quảng Nam) và các nơi khác ở xứ Ðàng Trong trở thành những thành phố thương mãi sầm uất.

    Ðược tin cấp báo, Hiền Vương liền triệu tập một cuộc họp tại Huế để bàn về vấn đề nầy. Các quan trong triều đã nhận định rằng: “Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dùng, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt” (Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, bản Hán văn, quyển 6 tờ 14 b bản dịch của Trần Vinh Anh, Lê Ngọc Bích, Nguyễn Ðức Cung, Nguyễn Lý-Tưởng, nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974 và Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch, Hà Nội , 1962, q.5 trang 125)

    Với lập luận trên, triều đình chúa Nguyễn đã có hướng giải quyết là chấp thuận cho họ vào tỵ nạn ở nước ta và được làm dân của chúa Nguyễn, phục vụ xứ Ðàng Trong. Tờ trình của các quan tâu lên chúa Nguyễn có đoạn viết như sau: “Nay đất Ðông Phố, nước Chân Lạp, đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm. Triều đình chưa rỗi mà kinh lý (khai thác, mở mang), chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai thác để ở, làm một việc mà lợi ba điều” (Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch, Hà Nội, 1962, q.5 tr.125). Chúa theo lời bàn, bèn đặt yến tiệc ủy lạo khen thưởng, trao cho quan chức, khiến đến ở đất Ðông Phố.

    Họ đã được chúa Nguyễn cho vào khai phá vùng Bến Tre, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Biên Hòa... ngày nay. Họ lập chợ ở bờ sông, mở sòng bài, tổ chức hành chánh, kiểm tra dân số, thu thuế ruộng, đất, thuế bến đò, thuế buôn bán để nuôi quân và nộp cho chúa Nguyễn. Họ có công dẹp yên các cuộc nổi loạn của người Miên ở trong vùng. Thuyền buôn Quảng Ðông, Quảng Tây, Phúc Kiến đến buôn bán, bà con người Hoa nghe tin tìm đến lập nghiệp... đã biến vùng nầy thành một nơi trù phú. Về sau, phó tướng là Hoàng Tiến nổi loạn giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch để tranh quyền. Chúa Nguyễn ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh, (Khâm Sai Kinh Lược ở Biên Hòa) đem quân bắt Hoàng Tiến giết đi, rồi đưa sĩ quan người Việt vào chỉ huy lính người Minh, cho lập ra những làng dành cho người Hoa gọi là Minh hương.

    Trần Thượng Xuyên, là người có công lớn trong việc bình định nước Chân Lạp, vào sinh ra tử, nhiều trận đánh thắng người Miên, đem lại ổn định cho dân chúng. Sau khi qua đời, dân những nơi ông đã đóng quân trấn nhậm, lập đền thờ để nhớ ơn. Hiện nay tại Biên Hòa và Vĩnh Long đều có đền thờ Trần Thượng Xuyên. Con trai của ông là Trần Ðại Ðịnh cũng đã phục vụ chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh, là người trung thành, ngay thẳng, lập được nhiều công và cũng được ghi tên vào sử sách.

    Mạc Cửu ở Hà Tiên là người Lôi Châu, tỉnh Quảng Ðông, trung thành với nhà Minh, không chịu theo tập tục của nhà Thanh (Mãn Châu), đem gia đình theo đường biển chạy về phương Nam, đến đất Sài Mạt nước Chân Lạp (Kampuchia), chiêu dụ người Hoa, Mã Lai, Nam Dương, Ấn Ðộ, Chân Lạp (Miên)... đến tụ tập buôn bán, bèn mở sòng bạc kiếm lời; lại gặp được hầm chôn giấu tiền bạc nên chẳng bao lâu trở nên giàu có, bèn bỏ Sài Mạt đi đến xứ Phương Thành, chiêu dụ dân phiêu bạt các nơi đến Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mâu lập được 7 xã. Nghe đồn nơi ấy thường có tiên hiện ra trên sông nên đặt tên là Hà Tiên. Ðất nầy dựa vào núi, dọc theo biển có thể tụ tập buôn bán làm giàu được.

    Người nước Xiêm (Thái Lan) thường đến xâm phạm, dân Chân Lạp nghe giặc đến bèn bỏ chạy, Mạc Cửu bất đắc dĩ phải xin hàng tướng Xiêm, được vua Xiêm cho ở tại núi Vạn Tuế. Nhân nước Xiêm có nội biến, ông liền bỏ núi Vạn Tuế về đất Lũng Kỳ, dân phiêu bạt về với ông mỗi ngày một đông. Nhận thấy đất Lũng Kỳ chật hẹp nên ông dời về Phương Thành, dân buôn bán theo về với ông càng ngày càng đông, chẳng mấy chốc đất Phương Thành càng ngày càng phồn thịnh.

    Lúc bấy giờ chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) đang cai trị xứ Ðàng Trong, là người văn võ kiêm toàn, tiếng tăm lừng lẫy đến tận nhà Thanh và các nước Ðông Nam Á, người Trung Hoa, Nhật Bản và Âu Châu tới buôn bán tấp nập ở các cửa biển, nhất là Hội An. Người Hoa và người Việt tuy khác tiếng nói nhưng cùng chung một văn tự (chữ Hán) nên Mạc Cửu tuy ở xa mà cũng biết rõ tin tức. Nhân có người bạn là Tô Quân, khuyên Mạc Cửu: “Người Chân lạp tính tình gian xảo, thiếu trung hậu, nên theo về với chúa Nguyễn để vạn nhất có điều gì còn có chỗ nhờ cậy lâu dài”. Mạc Cửu nghe theo. Tháng 8 năm Mậu Tý (1708) tức năm thứ 17 đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu cùng đàn em là Trương Cầu, Lý Xá mang lễ vật đến Huế yết kiến chúa Nguyễn, dâng đất Hà Tiên. Nguyên đất nầy là do chính Mạc Cửu khai phá, xây dựng nên. Chúa Nguyễn không nhọc công chinh chiến mà có, lại thấy bọn họ tướng mạo oai hùng, tới lui cung kính và có lòng trung thành bèn thu nhận đất mới nầy, đặt tên là trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh. Mạc Cửu được chúa Nguyễn ban cho ấn kiếm, cờ hiệu, được quyền cai trị dân trên một dải đất bao gồm vùng Hà Tiên, Châu Ðốc, Rạch Giá, Long Xuyên, Cà Mâu... ngày nay. Chúa cho mở yến tiệc khoản đãi rồi tiễn chân ra về. Mọi người đều hoan hỷ vui mừng.

    Với danh nghĩa quan Tổng Binh của chúa Nguyễn, danh chính ngôn thuận, Mạc Cửu cho xây thành quách, tổ chức quân đội, hành chánh, đặt quan cai trị tại địa phương, xây dựng cơ sở, kiểm tra dân số, chiêu hiền đãi sĩ, đón tiếp nhân tài, tổ chức làng mạc, khai khẩn đất hoang... dân chúng theo về mỗi ngày một đông, chẳng bao lâu Hà Tiên trở thành phố thị phồn hoa, đô hội. Ông mất năm 1735, hưởng thọ 80 tuổi. Ông là người đã đóng góp công lao rất lớn cho việc bình định mở mang vùng Châu Ðốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau ngày nay, được tặng chức Nhai trấn Thượng trụ quốc Ðại tướng quân Võ nghị công, năm 1823 dưới thời vua Minh mạng, ông được phong Thuận Nghĩa Trung Ðẳng Thần, cho phép dân xã Mỹ Ðức ở Hà Tiên được thờ tự như cũ.
    Con ông là Mạc Thiên Tứ, một người văn võ song toàn vừa là danh tướng đánh Ðông dẹp Bắc, giữ vững giang sơn, mở rộng bờ cõi; vừa là nhà thơ, nhà văn, đã lập ra Chiêu Anh các tiếp đãi nhân tài, có tác phẩm Hà Tiên Thập Vịnh để lại cho đời sau. Khi Tây Sơn nổi lên, chúa Nguyễn bị giết, ông theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh lưu lạc qua Xiêm, bị người Xiêm bắt giam và chết trong tù.

    Họ Mạc vì trung thành với nhà Minh, không chịu làm tôi người Mãn Châu (nhà Thanh), đã bỏ nước ra đi đến quy thuận chúa Nguyễn và trải qua nhiều đời trấn giữ vùng biên cương, vào sinh ra tử, mở mang bờ cõi, xây dựng phố chợ, làng mạc làm cho đất Hà Tiên trở nên phồn thịnh. Họ Mạc đã tận trung với chúa Nguyễn, một lòng chết sống với quê hương dân tộc Việt Nam.

    Người Hoa đối với nước ta thời đó, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng cùng chung một văn tự (chữ hán) nên việc giao thiệp giữa họ với ta không khó khăn lắm. Sống ở nước ta một thời gian, họ dần dần hiểu và nói được tiếng Việt, trải qua một hai thế hệ, con cháu của họ đã thực sự trở thành người Việt.

    Trong cuộc Nam tiến, người Việt đã không đi sâu vào vùng Rừng Lá (là vùng đất dọc theo quốc lộ I từ Phan Thiết đến Long Khánh ngày nay) theo kiểu tằm ăn dâu, mà lại theo đường biển xâm nhập vùng Bà Rịa, Ðồng Nai, Bến Tre, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên...

    Sau khi Sài Gòn, Gia Ðịnh, Biên Hòa đã thuộc về người Việt thì vùng Rừng Lá đương nhiên là phần lãnh thổ của nước ta. Nhưng mãi cho đến giữa thế kỷ 19, khi người Pháp dòm ngó nước ta thì vùng nầy mới được khai thác. Ðầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp mở mang quốc lộ I nối liền Sài Gòn với Phan Thiết thì vùng nầy càng phát triển mạnh nhất là ngành khai thác gỗ và lập các đồn điền cao su, cà phê và trồng cây ăn trái... Sau 1954, dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đưa dân từ miền Trung và miền Bắc vào và nhất là sau 1975, khi đất nước hòa bình toàn bộ vùng nầy, từ bờ biển cho đến tận rừng sâu đã tràn ngập người Việt đến định cư, sinh sống.
    Xin trích dẫn một vài sử liệu chứng minh sự quan trọng của Sài Gòn (Gia Ðịnh) đối với dân tộc Việt Nam:

    Sách Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, Ðệ I Kỷ, 1963, trang 113 ghi lại công tác xây thành Gia Ðịnh vào năm Canh Tuất (1790) dứơi thời chúa Nguyễn Phúc Ánh như sau:

    “Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái Miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt cục chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm toà vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu cho các quân. Thành xây xong gọi tên là kinh thành Gia Ðịnh... Tám cửa thành đều xây bằng đá ong, phía Nam là cửa Càn Nguyên và cửa Ly Minh, phía Bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiểm, phía Ðông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấn Chỉ, phía Tây là cửa Tốn Thuận và cửa Ðoài Duyệt. Ngang dọc có tám đường, Ðông sang Tây dài 131 trượng 2 thước. Nam sang Bắc cũng thế, cao 13 thước, chân dày 7 trượng 5 thước. Phía ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước, có cầu treo bắc ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng. Ở ngoài là đường phố chợ búa, dọc ngang la liệt đều có thứ tự. Hai bên đường quan đều trồng cây thích nghi, gọi là đường thiên lý” (chú thích: Toà vọng đẩu bát giác là xây theo kiểu bát giác không có mái che. Có mái thì gọi là vọng lâu)

    Năm 1822, một phái đoàn Anh Quốc do ông Crawfurd dẫn đầu có yết kiến Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Ðịnh. Trong dịp nầy, Crawfurd đã có nhận xét như sau:

    “Ðây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt, trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hoá phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng” (trích Nguyễn Thanh Liêm: Tìm hiểu văn hoá Ðồng Nai - Cửu Long, đăng trên Tập san Tìm Hiểu Văn Hoá Ðồng Nai - Cửu Long, số 2, trang 31)
    Crawfurd cũng đã nhận xét về sinh hoạt của thành phố Sài Gòn dưới thời Lê Văn Duyệt, như sau:

    “Thành phố Saigun (Sài Gòn) không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm; thành phố Pingeh (Bến Nghé) gần đó cách thành phố Saigun (Sài Gòn) độ 3 dặm. Dinh tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông Hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Ðịnh. Ðông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha thứ cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng.

    “Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị tổng trấn của họ.

    “Con người này ít học. Nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng Giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Ðịnh này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng Biển Ðông” (sđd, trang 32)

    Năm 1863, Phạm Phú Thứ đi theo phái đoàn Phan Thanh Giản vào Sài Gòn để đi qua Pháp thương lượng chuộc lại 03 tỉnh miền Ðông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng dưới thời vua Tự Ðức. Ông đã có nhận xét về thành phố Sài Gòn vào thời đó như sau:

    “Trước dinh soái phủ, bên kia đường đi là nơi làm việc của tham biện (1). Bên tay mặt, cách vài trăm trượng, xây sở xem xét khí hậu (2); bên tay trái là nhà ở của các quan tham tán (3) và lãnh binh. Tiếp theo đó là kho thuốc súng. Cách chừng một dặm, ở phía trước và bên trái là bãi tập bắn súng tay (4). Sau dinh soái phủ, dựng một vọng gác, trên nhọn, dưới vuông, chân rộng vài trượng, cao đến năm thước, rỗng ở giữa và có xây bậc thoai thoải, giống hình kỳ đài. Xa một chút, bên tay mặt và bên tay trái dinh (5) là trụ sở của phủ Tân Bình. Phía Ðông Bến Nghé là kho, gồm hơn mười dãy nhà lợp bằng lá “phạn cái” (6), chứa gỗ, sắt cùng mọi vật liệu kềnh càng. Kế theo là trại lính và xưởng sửa chữa thuyền sắt và kế theo nữa là kho chưa than đá. Phía Tây Bến Nghé, là nhà ở của các quan bố chính, án sát Tây và nhà ở của sở cảng; ngoài chỗ ở của quân ra, tùy theo vùng đất, người ta chia ra từng khu, nơi này thì xây dựng phố xá, nhà tầng cho những người buôn bán và nơi kia thì vét cửa, đào mương hoặc làm đường, đắp lộ. Các thứ cơ xảo của phương Tây như máy luyện thép, máy xay bột máy điện lôi để truyền tin, đều đã được dùng.” (trích Nhật Ký Ði Tây của Phạm Phú Thứ, bản dịch của Quang Uyển, nhà xuất bản Ðà Nẵng, 1999, trang 58)

    * Chú thích: (1) inspecteur des affaires indigènes (2) đài khí tượng (chiêm hậu sở) (3) tham mưu (4) pháo thủ trường (5) tức dinh soái phủ (6) tre hay dừa nước.

    Năm 1894 (Thành Thái thứ 6), nhân dịp Toàn quyền De Lanessan về Pháp, Hoàng Cao Khải, đang giữ chức Phụ chính đại thần, Thái tử thiếu bảo, Võ hiển điện đại học sĩ, Khâm sai Bắc Kỳ kinh lược đại sứ tước Diên mậu tử, hiệu Thái Xuyên... từ Huế vào Gia Ðịnh để trình bản dự thảo thỏa ước... lần đầu tiên được đặt chân lên đất Sài Gòn - Gia Ðịnh, đã phải ngạc nhiên khâm phục sự trù phú, thịnh vượng của miền Nam:

    “Ðất Gia Ðịnh nguyên là đất của bản triều từ thời long hưng (thời dựng nghiệp của nhà Nguyễn), từ ngày thuộc quyền cai trị của nước Pháp, kể đã hơn 30 năm rồi, xe thuyền kéo đến như góp gió, bến đò, đường sá, quán chợ được mở mang mỗi ngày một đẹp đẻ, thấy được sự tươi tốt sầm uất” (trích văn bia của Lê Văn Duyệt do Hoàng Cao Khải lập ngày 1 tháng 8 năm 1894 tức 1 tháng 7 năm Giáp Ngọ, Thành Thái thứ 6, nguyên bản Hán văn, do Nguyễn Lý-Tưởng dịch ra quốc văn, đăng trong sách Nhà Bè Nước Chảy Chia Hai, 2003, trang 85)

    Và đây, tâm tình của một học sinh từ Bắc di cư vào SàiGòn năm 1954, đã so sánh Sài Gòn với các thành phố lớn của Miền Bắc như sau:

    “Tôi vốn là một cậu bé Bắc Kỳ, ngây ngô, theo gia đình vào Nam năm 1954, người lớn gọi đó là cuộc di cư tránh nạn Cộng Sản, còn tôi, với tuổi 12 lúc đó, chỉ đơn thuần cho là một cuộc phiêu lưu hứa hẹn nhiều lý thú. Quê tôi là một làng ngoại ô thành phố Hải Phòng, hàng ngày tôi cuốc bộ khoảng 2 cây số lên tỉnh học, cuộc sống nửa, tỉnh nửa quê đã cho tôi được nhìn những văn minh của đời sống thời đó, nghĩa là không lạ lùng gì với những máy móc, xe cộ, v.v.... nhưng khi biết được gia đình tôi sẽ di cư vào Nam, lòng tôi vẫn cứ nôn nao khi nghĩ rằng, mai kia tôi sẽ được đến Sài Gòn, lúc đó có mỹ danh là “Hòn Ngọc Viễn Ðông”, mà theo lời của một vị Linh Mục quen với gia đình tôi, đã có dịp ghé qua kể lại, thì Sài Gòn là một thành phố đèn điện sáng suốt đêm, xe taxi, xe xích lô máy chạy như mắc cưỡi, người bình dân thì có xe buýt, cứ năm mười phút lại có một chuyến, sự đi lại ngày đêm tấp nập. Ðúng là nơi phồn hoa đô hội. Ngoài lòng háo hức muốn sớm biết một thành phố nổi tiếng ra, tôi không còn một ý nghĩ nào khác” (Nguyễn Văn Học, tập san Biệt Ðộng Quân số 17, phát hành tại California Hoa Kỳ, tháng 4/2006, trang 10)


    Không phải chỉ có thế hệ 1954 mới mơ ước được thấy tận mắt Thành phố Sài Gòn mà ngay sau 1975, biết bao thanh niên, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ở Miền Bắc cũng mơ ước được đi vào Nam một chuyến cho biết Sài Gòn. Người Miền Bắc được đặt chân đến Sài Gòn cũng như được đi ra ngoại quốc vậy!

    Trước 1954, mặc dù đất nước đang ở trong tình trạng chiến tranh, nhưng Sài Gòn vẫn như hồi thái bình, không bị Việt Minh phá hoại. Từ 1954 trở về sau, dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cũng như thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nói chung là dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Sài Gòn càng phát triển hơn nữa. Nếu kể từ thời các chúa Nguyễn cho đến 1975, trải qua hàng mấy trăm năm với hàng triệu triệu người đã góp công sức mồ hôi và cả xương máu của mình để mở mang, xây dựng Miền Nam, xây dựng Sài Gòn xứng với tên “Hòn Ngọc Viễn Ðông”.

    Sài Gòn là thành phố quan trọng nhất về kinh tế, văn hoá, chính trị của nứơc Việt Nam, là thành phố quốc tế, thành phố đa văn hoá gồm đủ mọi sắc dân, mọi ngôn ngữ; là nơi mọi người được sống hạnh phúc, yên ổn làm ăn, nơi đất lành chim đậu, nơi mọi ngừơi mơ ước, tìm đến lập nghiệp... Sài Gòn là trục giao thông quốc tế, đường bộ, đường biển, đường hàng không đều thuận lợi. Trong thế kỷ thứ 18 (năm Canh Tuất, 1790) chúa Nguyễn Phúc Ánh gọi Gia Ðịnh là Kinh Thành; trong thế kỷ thứ 19, thời Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn, Sài Gòn được sánh ngang hàng với Bangkok, thủ đô nước Xiêm (Thái Lan), Sài Gòn được gọi là “hòn ngọc Viễn Ðông”. Từ 1862 trở đi, sau khi ba tỉnh miền Ðông Nam Kỳ bị quân Pháp chiếm đóng, Sài Gòn đã đi tiên phong trong các cuộc cải cách giáo dục, các phong trào học chữ Quốc Ngữ (thay vì học chữ Hán, chữ Nôm) và viết sách báo, tiểu thuyết bằng tiếng Việt, dịch truyện Tàu bằng chữ Hán ra tiếng Việt... với các nhà trí thức tân học trẻ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của,v.v... trứơc các cuộc vận động tại miền Trung, miền Bắc hơn nửa thế kỷ! Tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời tại Sài Gòn (Gia Ðịnh báo, 1865) do Trương Vĩnh Ký chủ trương, trứơc tờ Nam Phong (1917) do Phạm Quỳnh chủ trương tại Hà Nội 52 năm! Sài Gòn là đất mới nhưng đã được xây dựng và phát triển qua nhiều đợt để trở thành một thành phố lớn và quan trọng nhất Việt Nam.

    Từ năm 1949, Sài Gòn đã trở thành Thủ Ðô của Việt Nam
    Năm 1802, sau khi thống nhất đất nứơc, lên ngôi Hoàng đế, vua Gia Long đã chọn Huế (Phú Xuân) làm Kinh đô của nứơc Việt Nam. Cuối thế kỷ 19, sau khi thôn tính toàn cõi Việt Nam, người Pháp đã đặt Phủ Toàn Quyền tại Sài Gòn (và một Văn Phòng tại Hà Nội) để cai trị toàn cõi Ðông Dương gồm 5 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Mên và Quảng Châu Loan (nhượng địa của Pháp tại Trung Hoa). Từ đó địa vị của Huế lu mờ dần. Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp tại Ðông Dương, vua Bảo Ðại tuyên bố độc lập ở trong khối Ðại Dông Á của Nhật và xé bỏ các hiệp ước bất bình đẳng mà Triều đình Huế đã ký với Pháp trong thế kỷ 19. Nhưng chính phủ Trần Trọng Kim lúc đó chưa kịp củng cố nền độc lập của Việt Nam thì Nhật đã đầu hàng Ðồng Minh (8/1945) và Việt Minh (do Hồ Chí Minh lãnh đạo) đã tổ chức cướp chính quyền thành công tại Hà Nội (19/8/1945) và 01 tuần sau đó, vua Bảo Ðại đã tuyên bố thoái vị (25/8/1945) trao chính quyền cho Việt Minh.

    Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Ðộc Lập, ra mắt Tân Chính Phủ và đã chọn Hà Nội làm Thủ đô của Việt Nam. Nhưng chỉ ba tuần sau, quân Pháp đã trở lại thay thế quân Anh tại Sài Gòn, chiếm đóng và thiết lập bộ máy hành chánh trên các tỉnh, thành phố Miền Nam, đồng thời tiến dần ra Trung, Bắc... Sau những cuộc thương thảo với Pháp thất bại, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Từ 1947 đến 1949, hầu hết các thành phố, thị trấn Việt Nam đều bị Pháp chiếm đóng và thiết lập chính quyền lâm thời... Trước 1954, Hồ Chí Minh đã phải bỏ Thủ đô Hà Nội, bỏ thành phố, rút toàn bộ lực lượng ra miền quê hoặc vào chiến khu ở vùng rừng núi miền Trung và miền Bắc... Trên thực tế, Hà Nội không còn là thành phố thủ đô nữa.

    Hoàn cảnh những ngừơi quốc gia, không Cộng Sản lúc đó phải “lưỡng đầu thọ địch”, vừa chống Pháp, vừa chống Cộng Sản, một số chạy theo quân Tưởng Giới Thạch qua Trung Hoa, một số ở lại và đã bị Việt Minh bắt giam hoặc bị thủ tiêu. Có ngừơi theo Việt Minh để chống Pháp (gọi là thành phần kháng chiến) về sau đã bị nhuộm đỏ, trở thành Cộng Sản. Những ai không hợp tác với Việt Minh, chạy về thành phố thì bị mang tiếng Việt gian, theo Tây, chống lại tổ quốc, chống lại đồng bào... Người quốc gia, theo Việt Minh hay theo Pháp đều mất chính nghĩa. Nếu lập chiến khu tự vệ thì trứơc sau gì cũng sẽ bị tiêu diệt, không chết về tay Cộng Sản thì cũng sẽ chết về tay ngừơi Pháp. Chính vì thế mà các tôn giáo và đảng phái quốc gia nghĩ đến giải pháp Bảo Ðại. Chỉ có Bảo Ðại mới có đủ tư cách đoàn kết các tôn giáo, đảng phái và chỉ có Bảo Ðại mới có đủ tư cách đại diện cho Việt Nam nói chuyện với Pháp.

    Trong lúc đó, tại Sài Gòn, Bolaert, đại diện cho nứơc Pháp, kêu gọi những ngừơi “không Cộng Sản” trong hàng ngũ kháng chiến trở về hợp tác. Vì thế đại diện các tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ trí thức tại Sài Gòn, Huế, Hà Nội, v.v... đã qua Hồng Kông gặp cựu hoàng Bảo Ðại, yêu cầu ông đứng ra vận động Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Với hậu thuẫn nầy, Bảo Ðại đã lên tiếng tranh đấu đòi hỏi Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam.
    Từ 1947 đến 1949, sau gần hai năm vận động ngoại giao, cựu hoàng Bảo Ðại đã đạt được nhiều thắng lợi... Từ thông cáo chung ngày 5/6/1948 tại Vịnh Hạ Long đến thỏa ứơc ngày 8/3/1949, Bảo Ðại đã trở thành Quốc Trưởng của nứơc Việt Nam độc lập, có chính phủ, có quân đội, có nền tài chánh và ngoại giao riêng, được quốc tế thừa nhận. Quân đội Pháp có nhiệm vụ bảo vệ cho chính quyền Việt Nam đang còn mới mẻ, đợi khi nào Việt Nam tổ chức được một Quân Ðội hùng mạnh thì Pháp sẽ rút lui. Mỹ đã viện trợ cho quân Pháp tại Ðông Dương với danh nghĩa bảo vệ thế giới tự do chống lại sự bành trứơng của Cộng Sản. Việt Nam được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, xứ Nam Kỳ không còn là xứ thuộc địa của Pháp như trứơc nữa mà Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất với ba miền Trung, Nam, Bắc, mỗi miền có một bộ máy hành chánh do vị Thủ Hiến lãnh đạo trực thuộc Chính Phủ Trung Ương đặt tại Sài Gòn. Quốc Trưởng Bảo Ðại ban hành Sắc Lệnh bổ nhiệm Thủ Tứơng và thành phần Chính Phủ. Sài Gòn là Thủ Ðô của Quốc Gia Việt Nam.

    Sau Hiệp Ðịnh Genève (20/7/1954), nhân tài cả nứơc tập trung vào Sài Gòn
    Hiệp định Genève (20/7/1954) nước Việt Nam đã bị chia đôi: Từ vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị) trở ra Bắc gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (tức Cộng Sản) do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đặt thủ đô tại Hà Nội. Từ vĩ tuyến 17 trở vô Nam gọi là Việt Nam Cộng Hoà theo chế độ Tự Do (chủ nghĩa Quốc Gia) do Quốc Trưởng Bảo Ðại uỷ quyền cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lãnh đạo, đặt thủ đô tại Sài Gòn. Thủ Tứơng Ngô Ðình Diệm tranh đấu bắt buộc quân đội Pháp trú đóng tại miền Nam sau Hiệp định Genève phải rút về nước, giành lại chủ quyền cho người quốc gia và thành lập chế độ Cộng Hoà (1955), đối lập với Cộng Sản miền Bắc.

    Mặc dù Sài Gòn là thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà (miền Nam) sau Hiệp định Genève (20/7/1954) nhưng từ 1949, Quốc Trưởng Bảo Ðại đã chọn Sài Gòn làm Thủ đô của Quốc Gia Việt Nam. Ngoài ra, cũng sau ngày ký kết Hiệp định nầy, nhân tài của cả nước đều quy tụ về đây. Cả triệu ngừơi đã bỏ nhà cửa, ruộng vừơn, tài sản, cơ nghiệp, mồ mả tổ tiên, bỏ cả quê hương xứ sở, bỏ miền Bắc vào Nam tìm tự do, trốn thoát chế độ Cộng Sản Hà Nội. Các nhà trí thức, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ, thương gia, nghệ nhân lành nghề, họa sĩ, nhạc sĩ nổi danh... ngay cả những nhà hàng ăn, những đầu bếp giỏi, những món ăn ngon... từ Bắc, Trung, Nam cũng đều tập trung về Sài Gòn...

    Vào thời điểm đó, người ta không xem Sài Gòn là nơi dành riêng cho Nam Kỳ lục tỉnh nữa, mà là thủ đô của nước Việt Nam, vì nơi đây đã có mặt hầu hết dân Việt từ khắp mọi miền đất nước tụ hội. Tên Sài Gòn luôn luôn được mọi người nhắc nhở, sử sách ghi chép, nói đến Sài Gòn là nói đến miền Nam, là nói đến lịch sử của dân tộc Việt Nam, là nói đến công lao của hàng triệu triệu người, trải qua hơn ba trăm năm, với biết bao thế hệ đã đổ mồ hôi, xương máu, góp công khai phá miền Ðồng Nai-Cửu Long, xây dựng và bảo vệ Miền Nam. Vận mệnh của TP Sài Gòn đi liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.

    GS Nguyễn Lý Tưởng
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  6. #16



    Sàigòn Dĩ vãng

    Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, lại mang một cái tên khác lạ, chẳng đẹp đẽ chi, nếu không muốn nói là vô nghĩa. Bởi thế nên người ta vẫn gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới.

    Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sàgòn.

    Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa

    Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.

    Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi: Sàigòn ơi! Ta hứa rằng ta sẽ trở về. Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàgòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ, với ngọc ngà dĩ vãng..

    Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nữa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi nầy. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.

    Đường Richaud Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị , cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.



    Thanh Thúy

    Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau nầy. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát tứ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vuốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết, vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị từ nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông, bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.

    Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây.

    Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.

    Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì … bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận, đã bỏ hát vài năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác.



    Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca nầy lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng.

    Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tình khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác sỹ trở thành phu quân của nàng.

    Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Fami có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau nầy lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẽo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.

    Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.



    Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đổi tên và Sàigòn ngọc nát châu chìm. Những cột đèn tuy không biết đi, nhưng đã chắp cánh bay xa, thành bao nhiêu Little Sàigòn rãi rác khắp hải ngoại. Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do… Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau, khi hết Cộng sản.

    Sàigòn đã ra đi và Sàigòn tung cánh chim viễn xứ, quy tụ quây quần tại Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Đức v.v… Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu trái tim nồng nàn vẫn yêu thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn hòn ngọc viễn đông nay thắp sáng ở xứ người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu về Hiệp phố. Sài gòn khi ấy sẽ rực sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.


    Tâm Triều
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

 

 

Similar Threads

  1. Thành phố hồng cuối hạ
    By đoa hong tim in forum Truyện
    Replies: 28
    Last Post: 11-22-2015, 05:22 AM
  2. Thành Phố Mẹ
    By cao nguyên in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 4
    Last Post: 02-24-2012, 06:48 PM
  3. Thành viên mới, xin ra mắt :)
    By Lam SJ in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 9
    Last Post: 01-02-2012, 11:30 AM
  4. Thành viên mới
    By Cantho63 in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 14
    Last Post: 11-07-2011, 12:32 PM
  5. Thành viên mới.
    By Minhtuong in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 3
    Last Post: 10-26-2011, 12:37 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 01:58 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh