Register
Results 1 to 10 of 63

Hybrid View

  1. #1
    Người lính chưa qua sông



    (Cho cháu Trúc Vy khi cháu khôn lớn
    để cháu hiểu và thương ngày xưa của ông ngoại)







    Ngày thứ mười hai của trận chiến, từ khi lên Bộ Tư Lệnh họp và nhận lệnh trở về, Tiểu Đoàn trưởng luôn trầm tư. Nhiều lần Tiểu Đoàn trưởng nhìn Tiểu Đoàn phó như muốn nói gì đó nhưng rồi lại lắc đầu, yên lặng. Qua vô tuyến, các đại đội báo cáo vẫn tiếp tục hoạt động lục soát trong khu vực trách nhiệm và tìm thấy rất nhiều xác lính CS và các loại vũ khí của họ trong rừng cao su hướng Tây Nam thị xã. Tiểu Đoàn trưởng cho lệnh các Ðại Đội trưởng: “không cần thiết phải thu lượm chiến lợi phẩm.” Ðến sáu giờ chiều, Tiểu Đoàn trưởng họp các Đại Đội trưởng cho lệnh chuẩn bị di chuyển lúc sáu giờ ba muơi phút. Im lặng vô tuyến kể từ giờ phút này. Bảy giờ kém mười lăm, khi Tiểu Ðoàn vừa đến điểm tập trung tại ngã ba Tân Phong sát quận đường Xuân Lộc, Tiểu Đoàn phó và các Đại Đội trưởng mới biết lệnh bỏ Xuân Lộc. Mọi người tái mặt nhưng không ai nói gì. Tiểu Ðoàn Truởng nhìn sâu vào mắt Tiểu Đoàn phó Nguyễn Mạnh Tông như muốn san sẻ nổi buồn và sự lo lắng của bạn mình. Nguyễn Mạnh Tông có vợ và mẹ vợ đang ở Xuân Lộc. Bây giờ quân rút, số phận người thân ở lại sẽ ra sao khi quân lính CS tràn vào phòng tuyến trống nội ngày mai. Nguyễn Mạnh Tông nhìn Tiểu Đoàn trưởng gật đầu và nói trong xúc động:

    - Không chỉ riêng gia đình tôi mà còn rất nhiều gia đình vợ con binh sĩ Sư Ðoàn phải chịu ở lại. Buồn và lo thật nhưng đành chịu. Nếu Thiếu Tá có cho tôi biết trước, tôi cũng sẽ không về từ biệt gia đình. Mọi người ai cũng biết đến bài học rút quân đầy cay đắng của quân dân vùng Cao nguyên vừa mới tháng trước đây thôi. Gia đình kéo theo, lính không còn lòng dạ nào để chiến đấu…

    Rút bỏ Xuân Lộc theo tình hình biến chuyển của chiến trường, và tình hình chung của đất nước, nhưng dù sao đi nữa, lòng người lính Sư Ðoàn cũng vô cùng đau xót khi phải bỏ vùng đất nhà quen thuộc. Và còn nữa: sự liên hệ mật thiết với người ở lại, ra đi chẳng khác gì ruột cắt làm đôi. Ðêm đó trên đường hành quân, anh em binh sĩ nhận ra được Tư Lệnh Sư Đoàn kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, cùng di chuyển đường bộ với họ… Tại sao Tư Lệnh không xử dụng trực thăng riêng của ông? Buổi trưa họp ở BTL, Tiểu Đoàn trưởng nhận thấy Tư Lệnh không được khoẻ, gương mặt hốc hác với đôi mắt sâu và thâm quần của một người mất ngủ. Thế mà đêm nay rút quân ông lại không xử dụng trực thăng riêng của mình để được khoẻ thân và an toàn như nhiều cấp tướng lãnh chỉ huy khác? Thêm một lần nữa, vị Tướng trẻ chứng tỏ tinh thần sát cánh chiến đấu cùng với thuộc cấp, trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những giờ phút sinh tử. Với một cấp chỉ huy như vậy thì anh em binh sĩ làm sao mà không hăng say chiến đấu… Nhìn lại, ba năm giữ chức vụ Tiểu Đoàn trưởng dưới quyền ông, vỏn vẹn chỉ có ba chai Martel mình tặng ông trong dịp Tết. Ðáp lại khi Tiểu Đoàn về trú đóng gần bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, ông đã ưu ái tổ chức tiệc, dạ vũ cho tất cả sĩ quan Tiểu Đoàn và chính ông cùng tham dự, lên sân khấu đàn và hát cho anh em binh sĩ nghe.

    Sư Đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc, xe tăng và bộ binh càn qua chốt địch chận trên đường 22 mà đi, về đến Bình Giả vào sáng hôm sau gần như toàn vẹn. Chỉ riêng anh em chiến sĩ Lữ Ðoàn Dù tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc rút sau, trách nhiệm đoạn hậu nặng nề đã chạm súng với quân CS bám theo. Trở về căn cứ Long Bình vài ngày để bổ sung vũ khí. Ngày 25 tháng Tư, Tiểu Đoàn theo Trung Đoàn lên lập phòng tuyến tại vùng Trãng Bom, ranh giới Biên Hòa, Long Khánh. Cùng với một Chi Đoàn M113 thuộc Thiết Ðoàn 5 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Tiểu Đoàn dàn quân bên này hào sâu cắt ngang Quốc Lộ 1. Quân số Tiểu Ðoàn sau trận Xuân Lộc còn lại trên 300. Một điều khiến các cấp chỉ huy Tiểu Đoàn rất vui là không một người lính nào đào ngũ dù mấy ngày ở Long Bình, Biên Hòa, nơi anh em có nhiều cơ hội để bỏ về Sài Gòn, nơi có gia đình đang trông đợi. Tất cả anh em không đành lòng bỏ lại bạn bè, cấp chỉ huy, tất cả cùng chấp nhận đồng lao cộng khổ cho đến giờ phút cuối cùng.

    Sáng ngày 27 tháng Tư, xe tăng địch bò đến phía bên kia phòng tuyến. Hai chiếc M41 của Thiết Ðoàn 5 nguỵ trang chực sẳn bắn đại bác 90 ly trúng một tăng địch. Nhưng, từ hai mặt phải trái cách quốc lộ 1 khoảng trên 100 mét, cùng một lúc lính bộ binh và xe tăng địch xuất hiện. Thì ra lực lượng địch biết không thể băng qua hào sâu nên len lỏi trong rừng, bọc vòng tạo thành thế gọng kềm để kẹp chặt Trung Đoàn 48. Qua vô tuyến, lúc đó mới biết rằng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn 1 đóng trong đồn điền cao su Trãng Bom đã rút về hướng Nam từ lúc tờ mờ sáng. Như vậy tại tuyến đầu chỉ còn lại Tiểu Đoàn 3 và một Chi Ðoàn M113 trong lúc xe tăng và bộ binh địch ào ào tràn ra từ ba hướng. Sau lưng không còn lực để dựa thì còn đánh đấm gì được nữa!.Nếu không nhanh chân thì chắc chắn sẽ bị quân CS bao vây cắt đường rút và diệt gọn. Tiểu Đoàn trưởng lệnh cho các đứa em phân tán, rút nhanh ra đường. Tội nghiệp Chi Đoàn M113 của Đại Úy Sơn phải tức tốc phân tán để đón những người bạn bộ binh trong lúc tăng địch bắn phá dữ dội. Nếu thiếu tinh thần chiến đấu và đồng đội thì anh em thiết giáp đã bỏ bạn bè bộ binh, vì thật ra M113 đâu phải là đối thủ của tăng T54 CS. Ngay cả M41 của mình cũng đã quá già nua yếu ớt đối với T54. Nhưng nếu M113 mà bỏ chạy thì đâu còn là chiến sĩ Thiết Giáp Quân lực VNCH. Hơn nữa, Tiểu Đoàn 3/48 với Chi Đoàn 3 Thiết Ðoàn 5 đã quá quen biết giao tình qua bao cuộc hành quân chung khắp vùng 3 chiến thuật và bên kia biên giới Campuchea trong năm 1970. Chi Đoàn M113 của Đại Úy Sơn vốn đã quen địa hình nên sau khi đã gom được bộ binh liền rút rất nhanh. T54 địch đuổi theo, nhưng không làm được gì. Ðây thật sự là một cuộc rút chạy. Ðáng buồn thật. Ðáng buồn vì phải bỏ lại hai chiếc M41 anh hùng ở tuyến đầu, đáng buồn vì đơn vị chưa nổ một phát súng đã tìm đường thoát thân. Nhớ lại đêm nào ở mặt trận Bến Cát Bình Dương năm 1973, lính Tiểu Ðoàn đuổi tăng địch, bắn cháy tăng địch, và mới hai tuần trước đây thôi lúc còn ở mặt trận Xuân Lộc, tăng địch là miếng mồi ngon cho M72. Ðáng buồn khi nghĩ đến anh em chiến sĩ Ðịa Phương quân ở căn cứ Bầu Cá chiến đấu trong tuyệt vọng. Tội nghiệp cho những chiến sĩ và gia đình con bị bỏ lại trong căn cứ Bầu Cá nhỏ bé, cô đơn.

    Ngày 28 tháng tư, Tiểu Đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Nô, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 làm tuyến án ngữ mặt bắc căn cứ Long Bình. Ngày hôm đó, chỉ có tăng của hai bên bắn nhau, còn bộ binh ngồi chơi, la hét cổ võ mỗi lần tăng địch bị trúng đại bác 90 ly của M41. Lúc này mà có M48 lâm trận thì T54 của địch chắc phải cháy như cây đuốc nhiều hơn nữa. Từ đồi cao nhìn xuống Quốc Lộ, người lính Sư Đoàn hết sức khâm phục những người bạn Nghĩa Quân Hố Nai, chỉ với súng carbin và M16 trong tay cũng bố trí chận đánh bộ binh địch nếu địch dám xâm phạm vào vùng đất xóm làng thân thương của họ.

    Ngày 29 tháng tư, lúc 5 giờ chiều, Tư Lệnh gọi Trung Tá Thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 5 và Tiểu Đoàn trưởng 3/48 đến BTL trong căn cứ Long Bình để họp cùng Tướng Lê Minh Ðảo, Trung Tá Nguyễn Văn Nô và Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3/48. Khi đang họp thì chuông điện thoại reo vang . Tướng Tư Lệnh nhấc ống nghe. Một phút sau ông bỏ máy với vẻ chán nản và nói:

    - Tổng Thống Dương Văn Minh hỏi chúng ta có giữ được Long Bình Biên Hòa để chờ thương thuyết không?

    Ông nhìn thẳng hai thuộc cấp rồi chậm rải từng tiếng một:

    - Phải giữ bằng mọi giá, đây là vòng đai cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn!

    Ông nhướng đôi mắt sáng lên:

    - Thiết Ðoàn của Trung Tá Nô chưa suy suyển bao nhiêu phải không? Còn em, quân số Tiểu Đoàn còn được bao nhiêu ?

    - Thưa Thiếu Tướng, còn đủ, chưa mất mát người nào từ khi rời khỏi Xuân Lộc!

    Nhìn hai anh em chúng tôi, Thiếu Tướng nói với giọng cương quyết:

    - Các em phải chiến đấu toàn lực, không được để mất thêm một tấc đất nào!

    Trên tấm bản đồ hành quân vùng 3 Chiến Thuật, đầy ký hiệu màu đỏ chỉ các đại đơn vị địch: QĐ 1 từ hướng Bắc theo QL 13, QÐ2 và 4 từ hướng Ðông Bắc đang áp sát Biên Hòa, QÐ 3 từ Tây Bắc theo QL 1 gần Củ Chi, các Sư Đoàn, Trung Đoàn, tổng cộng gần 16 Sư Đoàn quân CS với những mũi tên đỏ cùng chỉ hướng Sài Gòn. Trung Tá Nô lắc đầu khi nhìn khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ và lo âu của vị Tư Lệnh. Mình cũng vậy thôi phải không Trung Tá, nhưng dù sao thì chúng ta ngày quần thảo với địch quá mỏi mệt, đêm nằm xuống đầu không kịp suy nghĩ đã bị hơi đất xông lên kéo giấc ngủ đến rất mau. Những giấc ngủ mệt nhưng có còn hơn không. Tư Lệnh thì chắc không ngủ được bởi cái đầu chứa đầy hình ảnh những mũi tên đỏ chỉ về Thủ đô. Ngày mai sẽ có giải pháp, Tổng Thống Dương Văn Minh vừa nói như vậy. Giải pháp như thế nào? Giải pháp gì khi chúng ta đang ở trong thế yếu? Nhượng bộ và nhượng bộ mà thôi! Lời nói của Tổng Thống khi ông nhậm chức ngày hôm kia rõ ràng đã tỏ ra quá nhiều nhân nhượng và sợ hãi kẻ thù, làm mất tinh thần toàn quân. Ông dùng hai chữ “anh em” để chỉ kẻ xâm lược như một đòn tình cảm, nhưng chắc chắn ông chẳng bao giờ được phe bên kia đáp ứng trong “tinh thần anh em” đó.

    Khoảng 11 giờ đêm 29 tháng Tư, đài phát thanh Sài Gòn phát lời huấn lệnh của Tướng ba sao Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH:

    - Các cùi cố gắng giúp Tổng Thống hoàn thành nhiệm vụ lịch sử!

    Có phải chăng đây là lời giả biệt của vị Tướng ba sao? Linh cảm cho anh em chiến sĩ biết rằng lại thêm một cấp chỉ huy cao cấp đào ngũ, bỏ nước ra đi. Có một chút gì cay đắng, buồn bực và khinh thường trong lòng những người chiến binh. Không! Chúng tôi không bỏ hàng ngũ! Vẫn còn những người lính Bộ Binh và Thiết Giáp đầy gian khổ nguy nan này, vẫn còn rất nhiều đơn vị trên các trận tuyến chung quanh Thủ Đô yêu quý. Sư Đoàn 5 ở Lai Khê của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Sư Ðoàn 25 ở Củ Chi của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ anh hùng các đại đơn vị Tổng trừ bị Dù, Thủy Quân Lục chiến, Biệt Ðộng Quân. Những cánh chim đại bàng của Không Quân VNCH vẫn còn bay, những hạm đội của Hải Quân vẫn còn trên sông ngòi, mặt biển Tổ Quốc.

    Ðêm đó, pháo địch từ mọi hướng rót xuống Long Bình như không ngừng nghỉ. Khoảng 3 giờ sáng toàn thể các đơn vị được lệnh rút khỏi Long Bình kéo về bờ Nam sông Ðồng Nai làm phòng tuyến. Lúc qua thành phố Biên Hòa, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy rất nhiều xe tăng tối tân M48 bố trí khắp nơi trong thành phố. M48 nằm đây để chờ T54 của địch vào thành phố rồi mới nổ súng hay sao ? Biết còn có cơ hội nổ súng hay không? Sao Tư Lệnh Quân đoàn Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn không tăng cường M48 cho chiến tuyến Trãng Bom mà giao trách nhiệm nặng nề cho những chiếc 41 có từ Ðệ Nhị Thế Chiến? Tiểu Đoàn Trưởng nuốt nước bọt đắng khô cổ nhưng nước mắt thì như muốn ứa ra đầy uất ức. Người ta quý những chiếc tăng 48 này hơn những mạng người. Một chiếc tăng M48 giá mấy triệu Mỹ kim trong lúc giá một người lính bằng 12 tháng tiền tử tuất. Thôi đi, đừng suy nghĩ vẩn vơ, ngươi chỉ là một sĩ quan chỉ huy nhỏ, cầm Tiểu Đoàn còn chưa xong, biết gì mà vội trách móc các cấp chỉ huy cao cấp của mình!

    Ngày 30 tháng Tư lúc trời vừa hừng sáng, đơn vị vừa xuống xe đang bố trí gần khu Nghĩa Trang Biên Hòa thì quân CS với xe tăng treo cờ MTGP dẩn đầu đoàn Molotova theo xa lộ hướng về Sài Gòn. Họ đi một cách ngang nhiên như đoàn xe diễn hành. Mấy chiếc tăng dẩn đầu, thỉnh thoảng còn nổ súng bắn vu vơ vào hai bên đường, còn bộ binh trên xe Molotova vẫn ngồi yên. Hỏa lực từ vài chiếc M113 trên đồi Nghĩa Trang bắn theo nhưng đoàn xe CS vẫn tiếp tục theo hướng đã định. Lúc này thì Bộ Binh đã tách rời Thiết Giáp. Không biết Thiết Ðoàn 5 sau đó về đâu, còn Bộ Binh gồm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 48 với Trung Đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Chí Công và toàn bộ Tiểu Đoàn 3 cùng băng đồng tìm cách về Sài Gòn. Trung Ðoàn phó là Trung Tá Khôi đi cùng Tiểu Đoàn 1/48 cũng trực chỉ hướng Thủ Ðô. Người lính lúc này sốt ruột lắm. Phải di chuyển cho nhanh về tiếp tay với các lực lượng bạn ở Sài Gòn để giữ cho được Thủ Đô yêu quý của người miền Nam. VC từ trong các làng, sau các lùm tre bắn đuổi theo, anh em cũng không cần bắn trả lại. Thỉnh thoảng nghe những tiếng nổ lớn từ hướng Sài Gòn, và nhìn những cụm khói đen bốc cao từ lòng Thủ Đô, bước chân người lính như muốn bốc lên khỏi những cánh đồng đất bùn đang làm chậm bước. Thấy lính Sư Ðoàn, anh em Ðịa Phương Quân bỏ đồn bót, xách súng đạn chạy theo để cùng về Sài Gòn chiến đấu. Ðồn bót làm gì nữa khi Sài Gòn sắp mất.

    Nhưng!!!… Lúc đó khoảng mười giờ, cái thời gian lạ hoắc và đáng nguyền rủa. Bàng hoàng, sửng sốt, tuyệt vọng bỗng ào đến giữ chặt cứng những bước chân, làm mắt hoa lên và tim như nghẹt thở khi tiếng nói của một người xa lạ vang lên từ chiếc radio nhỏ người lính mang theo bên mình. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông là ai? Chắc ông không phải là Nguyễn Hữu Hạnh, con cọp Ba Ðầu Rằn nổi tiếng, từng khiến Cộng Sản kinh sợ ở Biệt Khu 41 Phước Bình Thành? Nguyễn Hữu Hạnh này là Nguyễn Hữu Hạnh xa lạ vừa được Tổng Thống hai ngày phong chức Tham Mưu trưởng QLVNCH. Chúng tôi nghi ngờ ông không phải là một vị tướng lãnh của QLVNCH, bởi vì nếu thật ông là Tuớng từng cầm quân trận mạc thì chắc ông đã không quên ý chí kiêu hùng của người lính VNCH. Chúng tôi, những con xe đã ủi hết cuộc đời, những con tốt đã liều lĩnh qua sông, những con mã chạy không kịp thở, những con pháo tự nổ tung xác để làm gì trong bao nhiêu năm tháng qua, để bây giờ phải lắng nghe, tuân thủ cái lệnh buông súng đầu hàng nhục nhã!? Quý vị không thấy nhưng chúng tôi thấy những bạn bè đã hy sinh đang sống lại, khóc lóc và nguyền rủa… Ngay cả những oan hồn người lính CS chết trên đường vào Nam cũng đang cười vào đầu óc ngây thơ của quý vị đang ngồi trong dinh Ðộc Lập, trong bộ Tổng Tham Mưu!! Ðầu hàng! Thật quá dễ. Chúng tôi có thể làm được điều đó ngoài mặt trận, nhưng những người lính trực diện với súng đạn đã không làm vì còn danh dự, trách nhiệm đối với Quân Lực và Tổ Quốc. Không bao giờ chúng tôi nghĩ đến ngày QLVNCH phải đầu hàng. Thực tế tại các chiến trường trong nhiều năm chiến đấu đã cho chúng tôi niềm tin rằng QLVNCH mạnh hơn quân CS Bắc Việt trên mọi mặt. Chúng ta yếu kém hơn họ trên mặt trận tuyên truyền láo khoét mà thôi. Chao ơi, nào ai muốn chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhưng có ai nhận chúng ta là huynh đệ không? Và họ có nghĩ gì đến tổ quốc Việt Nam hay là chỉ phục vụ cho tổ quốc Cộng Sản bạo tàn? Chúng ta không muốn chiến tranh, chúng ta chỉ là kẻ tự vệ. Kẻ tự vệ bao giờ cũng sáng ngời lý tưởng, huống gì lý tưởng chiến đấu của chúng ta là hai chữ Tự Do. Này, các “người anh em”, hãy đến đây nhận lấy vũ khí, rồi trả thù, hành hạ, đánh đập, tù ngục chúng tôi. Khi buông súng là mặc nhiên chấp nhận tất cả. Và để rồi xem ý nghĩa hai chữ “anh em” mà thượng cấp chúng tôi dùng sẽ như thế nào! Anh em đồng đội của tôi ơi, cho đến giờ phút này, tuy lòng đau đớn nhưng chúng ta thật bình thản, không hề mảy may sợ hãi, bởi vì chúng ta đã cầm súng để tự bảo vệ mình. Chúng ta chiến đấu trong tinh thần dân tộc máu đỏ, da vàng, không thẹn với lương tâm bởi tinh thần mã thượng và nhân đạo của con nguời đối với con người nơi trận tuyến. Chúng ta quý mạng sống kẻ thù như mạng sống của mình. Chưa, chưa bao giờ chúng ta nhẫn tâm ném một trái lựu đạn xuống hầm VC vì tiếng khóc của bà mẹ, của người vợ van xin cho đứa con, cho người chồng lầm đường. Chưa bao giờ chúng ta căm thù, hành hạ kẻ vừa bắn ngã đồng đội anh em mình bởi vì chúng ta hiểu đó là quy luật của chiến trường. Những người lính hai bên ai cũng muốn mình chiến thắng. Người lính miền Nam chúng ta nổ súng không có thù hận đem theo. Và đó cũng là một nguyên nhân mà chúng ta thành kẻ chiến bại ngày hôm nay.

    * * *

    Lúc này là 11 giờ 30, mặt trời và mặt đất như chưa bao giờ biết nhau như những người lính chưa bao giờ phải buông súng đầu hàng. Gần ba trăm tay súng, bỗng chốc tự mình làm cho mình còn lại tay không. Tay không trong hiện tại đớn đau và tay không trong tương lai khốn cùng. Ba trăm con người sắp hàng bước đi trước họng súng của mười du kích CS. Có lẽ trong giây phút này đây quý vị trong dinh Tổng Thống cũng không hơn gì chúng tôi. Nơi đây, những du kích này còn lo sợ chúng tôi phản ứng còn quý vị thì đang ngoan ngoãn vâng lời dạ thưa tôi xin bàn giao, tôi xin đầu hàng. Trong dinh tổng Thống không có mẹ già khóc, không có những em nhỏ nhìn theo mến thương, trước đám đông, nhiều đồng bào còn hoan hô các anh chiến sĩ QLVNCH. Ðây là đồng bào thuộc xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Ðức, những con dân miền Nam nhân ái , yêu chuộng tự do. Họ đang đứng thành hàng hai bên đường, không phải để đón tiếp kẻ cầm vũ khí trong tay mà đón tiếp những người vừa bị lột trần giày, nón. Những nụ cười rất quen thuộc, thân thương mà kẻ chiến thắng cũng như quý vị cao chạy xa bay, đầu hàng không bao giờ được trao tặng. Cởi giày, cởi áo phải chăng là khúc cuối của vở bi kịch? Phải, chính là bi kịch, nhưng đoạn cuối thì chưa đến. Vì là bi kịch nên cha, mẹ, anh chị, em đứng hai bên đường rơi nước mắt. Tất cả mọi người đều sợ chiến tranh, giờ đây chiến tranh đã chấm dứt mà sao đồng bào nơi đây không cảm thấy có niềm vui. Phải chăng khi đã thật sự thấy tận mắt những gương mặt hốc hác, những nụ cười không lành lặn, trọn vẹn, những áo bạc màu rách vai, những đôi giày vẹt đế đầy bùn đất… đồng bào mới hiểu được có những chịu đựng tận cùng của con người nơi các chiến sĩ miền Nam của họ. Và chính đó là tình thương chân thật . Mừng cho các con còn sống! Mừng cho các anh yên lành! Chúng con nghe mẹ nói, muốn cầm tay mẹ và thì thầm mẹ ơi, chúng con đang chết từ giây phút này, một cái chết dưới thấp hơn tất cả cái chết trên đời thưa mẹ. Các anh muốn nói với em rằng có những vết thương đang hằn sâu, sâu hơn những vết thương các anh nhận từ chiến trận .




    * * *

    Một tên xã đội trưởng du kích hỏi:

    - Ai là cấp chỉ huy ở đây?

    Mọi người chờ đợi. Tiểu Đoàn trưởng trả lời:

    - Tôi!

    - Anh tập họp tất cả binh lính!

    Xã đội trưởng nói, giọng không được tự chủ khi đối diện với mấy trăm con người mắt nhìn hắn như trêu ghẹo… Lúc đó trong sân chùa Long Thạnh Mỹ, những người lính ngồi bệt xuống đất, cởi những chiếc vớ nhà binh rồi đưa lên mũi ngửi, mỉm cười nhìn nhau. Phải không bạn, chúng mình mang những đôi vớ này đã mấy ngày từ hôm rút khỏi Trãng Bom mà không có thì giờ để thay chiếc khác. Cởi những đôi vớ ra, bàn chân thật thoải mái nhưng tâm hồn sao lại u uất. Mùi hôi của vớ không nặng bằng mùi phiền muộn. Khi thấy anh em binh sĩ cởi giày, nhiều bà con chạy về nhà lấy dép ra cho. Lính và dân trao đổi giày nhà binh và dép nhẹ với những nụ cười như muốn nói với nhau: “Cám ơn em đã cho anh đôi dép, đôi dép khiến đôi bàn chân anh nhẹ nhàng. Cám ơn anh đã nhường cho em đôi giày lính, đôi giày này sẽ tiện lợi cho em trong những tháng ngày tương lai.” Thấy đồng bào vui mừng khi nhận đôi bốt mòn đế, người lính ngạc nhiên nhưng rồi chợt hiểu. Phải, chính từ giờ phút này đây, những cuộc đời sẽ thay đổi, những khốn khó đang chực chờ. Tội nghiệp các em đang độ tuổi lớn khôn, chỉ mới ngày đầu mà đã thấy ra con đường tương lai đen tối! Khoảng hai giờ chiều thì đồng bào đem thức ăn đến sân chùa Long Thạnh Mỹ.

    - Các con ăn cơm cho đở đói!

    - Các chú ăn cho thật no nghe!.

    - Các anh cứ tự nhiên như ăn cơm của mình!

    Ðồng bào trong xã mời các anh, thương các anh lắm! Ðã lâu lắm rồi, đây là bữa cơm thịnh soạn nhất mà người lính chiến đấu được hưởng. Cơm gạo trắng, thịt heo kho măng thơm phức. Nhiều đồng bào đứng xem lính ăn, cười mãn nguyện.

    - “Trưa nay ăn thịt kho, chiều nay ăn cá lóc kho nghe các con!” Mẹ nói.

    - “Ra giếng chùa tắm cho mát rồi đi nghĩ cho khoẻ nghe các con!” Cha bảo.

    Tội nghiệp vị sư già gần 70 tuổi, không quen mùi thức ăn sinh vật, nhưng cũng đi từ nhóm này đến nhóm khác thăm hỏi như là một người cha sau bao ngày xa xách con mình. Hầu hết anh em binh sĩ đều ăn uống tự nhiên, rất ngon lành. Những sĩ quan chỉ huy thì không bình yên như vậy. Có người không nuốt nổi vì nước mắt lưng tròng. Khóc vì tủi nhục và cũng vì sung sướng. Nếu chiến đấu không có lý tưởng, không vì tự do hạnh phúc của dân tộc thì sao có được bữa cơm đầy tình nghĩa đáp đền hôm nay.

    Buổi chiều sân chùa vắng lặng vì anh em binh sĩ vào chơi trong làng. Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Đoàn trưởng và vài sĩ quan ở lại nghe vị sư già nói chuyện. Trước đây, sư đã từng có chức vụ trong ủy ban kháng chiến Liên khu 5 ở miền Trung, nhưng sư bỏ trốn vào Nam khi nhận rõ bản chất của người CS. Sư nói:

    - Quân Ðội miền Nam có lý tưởng nhưng không tinh nhuần lý tưởng, lại thiếu khôn ngoan xảo quyệt, nhân nghĩa giả như Cộng Sản.

    Khi được hỏi về tương lai của miền Nam thì vị sư lắc đầu:

    - Thầy e rằng rồi đây ngay những chiếc áo tu nâu sồng nghèo khó cũng khó được mặc!

    Ðôi mắt vị sư buồn nhìn về xa xôi:

    - Từ khi cuộc chiến bùng nổ lớn, mất miền Trung, đồng bào hàng hàng lớp lớp chết vì chạy giặc, kinh kệ không vào trong đầu óc thầy nữa!

    Ðôi mắt sư nhìn sâu vào mắt mọi người với tiếng thở dài. Giọng một người run run:

    -Vì đau khổ của chúng sanh mà tâm thầy không an, đôi mắt thầy hướng ra ngoài cửa Phật, còn chúng con hôm nay có được giây phút an lạc hiếm hoi trong cuộc đời. Chỉ sợ mai đây khi bước ra khỏi bóng chùa…

    Sư chắp tay hướng lên bàn thờ Phật:

    - Mô Phật! Bây giờ thì mọi chuyện đã xong, chỉ mong rằng họ sẽ khôn ngoan giải quyết trong tình nghĩa huynh đệ, đồng bào ruột thịt thì mới mong oán oán không chất chồng!

    Lời Sư trầm hẳn xuống:

    - Các con rồi đây phải cố gắng nhẩn nhục chịu đựng, chấp nhận tất cả. Thầy tin rằng đồng bào mình không ai không thương các con. Hãy tạm quên lý tưởng mà luôn luôn nghĩ đến sự tồn tại thực tế của gia đình mình!

    Khi nghe Sư hỏi thăm gia cảnh mình, tự nhiên mọi người đều ứa nước mắt. Nước mắt sư cũng ứa ra. Vì thương nhớ quê nhà, lo âu cho đạo pháp hay biết trước số phận sắp tới của những con người còn trẻ đang quây quần trước mặt mà thầy khóc? Có lúc nào đó, lòng chợt nhớ đến mẹ. Không biết mẹ còn ở Huế hay lạc bước đến phương nào từ khi Huế mất.

    - Ðêm nay thầy không thỉnh kinh, các con vào chánh điện mà nghỉ!

    Sư nói, rồi nhẹ nhàng đứng dậy. Anh em cũng đứng dậy chào người. Sư bước đi, dáng gầy xiêu xiêu. Màu nắng chiều tháng Tư nhạt nhòa trên vai áo nâu sồng, màu nắng loang lổ trên bậc thềm chùa như những mảnh vá của tâm hồn những người tạm nương nhờ cửa Phật đêm nay.

    Buổi tối anh em binh sĩ về sân chùa đầy đủ. Dưới ánh trăng mờ mọi người nằm la liệt, có người ngủ say bất động như xác chết. Một vài tiếng ho, ú ớ từ đâu đó vang lên. Không ngủ được, Nguyễn Mạnh Tông ngồi dậy nói :

    - Anh Ba ơi, anh em mình đi một vòng trong sân thử xem!*

    Trần Văn Minh ÐÐT Ðại Ðội Chỉ huy, nghe nói cũng ngồi dậy:

    - Em đi với anh Ba và anh Tư!

    Tông hỏi: – Có cần đếm thử xem anh em còn đủ không?

    - Thôi khỏi cần. Chắc không có anh em nào bỏ đi đâu! Tiểu Đoàn trưởng nghĩ thầm: “Anh em ai bỏ đi lúc này cũng được nhưng chắc không ai nỡ, anh em biết rằng nếu có người bỏ đi thì ngày mai các sĩ quan chỉ huy sẽ bị làm khó dể. Anh em ở lại để tỏ rỏ tình huynh đệ và tính kỷ luật của đơn vị một lần cuối. Cám ơn các em. Chúng ta chỉ còn với nhau ở nơi yên tỉnh này một đêm thôi. Rồi ngày mai… “

    * * *

    Mọi người ngước mắt nhìn bầu trời phương xa đang treo lơ lửng một vài trái sáng. Chắc chắn đâu đó, quanh Sài Gòn và ngay trong lòng Sài Gòn giờ phút này vẫn còn có những người vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn Vùng 4 Chiến Thuật nữa. Vùng 4 không đầu hàng CS. Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng là những danh tướng, quý vị sẽ không tuân lệnh Tổng Thống Dương Văn Minh. Vùng 4 dân đông, kinh tế phồn thịnh sẽ là nơi quy tụ những anh hùng. Khi ba người trở lại chỗ cũ thì thấy mấy anh em thuộc trung đội Quân Báo của Thượng Sĩ Bé đang ngồi nhìn dáo dác chung quanh. Bé nói:

    - Em giật mình thức dậy không thấy Thiếu Tá và hai Đại Úy nên gọi anh em dậy đi tìm!

    Tiểu Đoàn trưởng cám ơn rồi bảo mọi người đi ngủ. Tình cảm anh em vẫn còn gắn bó quá, thật không có gì thay đổi dù Tiểu Đoàn trưởng bây giờ không còn là Tiểu Đoàn trưởng, sĩ quan không còn là sĩ quan… Ðặt lưng nằm xuống, nhưng ba người vẫn không ngủ được. Giờ phút này, thật sự chỉ có giờ phút này mới nghĩ đến gia đình vợ con, mấy ngày qua chỉ nghĩ đến sự an nguy của đơn vị. Chỉ có những người lính chiến đấu mới biết rõ điều này hơn ai hết. Một đêm yên lành, thể xác bềnh bồng trôi qua đêm. Sáng 1 tháng 5, nắng đã lên ngoài sân chùa.

    - Mời Trung Tá, Thiếu Tá uống trà! Nguyễn Toàn, nguyên là người phụ trách cơm nước cho Tiểu Đoàn trưởng, pha trà và mời.

    -Thôi anh Toàn, đừng gọi trung tá, thiếu tá, đại úy gì nữa, mọi người đều như nhau, cùng một hoàn cảnh cả!

    - Dạ, nhưng tụi em vẫn xem như không có gì thay đổi!

    Tiểu Đoàn trưởng quay qua người lính quân báo bên cạnh, hỏi nhỏ:

    - Cây súng nhỏ của tôi cậu còn giữ không?

    Người lính nở nụ cười:

    - Em xin lỗi, em cố giữ như lời Thiếu Tá dặn, nhưng mấy anh em khuyên em ném nó đi, coi chừng Thiếu Tá nóng nảy làm bậy, khổ cho gia đình. Tụi em thấy mấy người du kích có vẻ nể nang chúng ta, họ không dám làm nhục Thiếu Tá và các vị sĩ quan đâu. Loạng quạng tụi em bẻ họng tụi nó hết!

    Khoảng 11 giờ trưa, xã đội trưởng xuống gặp Tiểu Đoàn trưởng, yêu cầu tập trung binh sĩ để nhận giấy chứng nhận cho ra về. Theo lời Tiểu Đoàn trưởng, mọi người kéo nhau xuống tập họp tại sân xã. Tiểu Đoàn trưởng và các sĩ quan nhận giấy rồi phát lại cho anh em binh sĩ . Ðứng trước anh em đang tập họp, xã đội trưởng VC nghiêm sắc mặt rồi nói:

    - Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam khoan hồng cho tất cả các binh sĩ nguỵ về với gia đình. Yêu cầu khi về địa phương phải đến trình diện chính quyền Cách Mạng. Các sĩ quan cấp Úy cũng sẽ được ra về nội trong chiều nay. Riêng sĩ quan cấp Tá sẽ được chuyển lên Ủy Ban Quận quyết định. Ai nhận giấy tờ xong bây giờ có thể ra về!

    Xã đội tưởng dứt lời, đưa mắt nhìn anh em binh sĩ. Anh em vẫn đứng yên, mắt hướng về những người chỉ huy cũ chờ đợi. Tiểu Đoàn trưởng bước đến trước anh em nhưng miệng như không thốt ra được lời nào. Một phút rồi hai phút, bỗng trong hàng quân có tiếng khóc. Tiểu Đoàn trưởng ứa nước mắt. Anh em ứa nước mắt. Tiểu Đoàn trưởng nói và chớp chớp đôi mắt để làm khô nhanh hạt lệ đang ứa ra.

    - Ô kìa, sao lại… Anh em! Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thấy một anh em nào khóc, ngay cả khi chứng kiến sự hy sinh của bạn mình. Bây giờ hết chiến tranh rồi, hết chết chóc rồi, anh em sẽ ra về xây dựng cuộc đời mới, sống hạnh phúc với gia đình vợ con thì tại sao lại làm như đàn bà thế, phải vui cười lên chứ. Cười như tôi đây này! Tiểu Đoàn trưởng nói và cố mỉm cười. Cái mỉm cười lạ lùng nhất mà mọi người chưa bao giờ thấy. Anh em mỉm cười theo, có người cười thành tiếng nhưng vẫn có người còn sụt sùi. “TÐ 3/48 chưa bao giờ bại trận, ngay cả bây giờ cũng vậy, không được tỏ ra yếu đuối trước họ, không thể để họ xem thường tinh thần người lính miền Nam”. Tiểu Đoàn trưởng nói thầm với mình rồi quét đôi mắt sáng đầy cương quyết nhìn mọi người. Tiểu Đoàn phó Nguyễn Mạnh Tông gật đầu nhận hiểu. Anh em nhận hiểu như đã nhiều lần nhận hiểu khi nghe cấp chỉ huy mình nói trước giờ xuất quân . – Bây giờ anh em có thể ra về, nhưng hãy trả lời tôi trước khi chúng ta chia tay! Tiểu Đoàn trưởng chống hai tay vào hông, một cử chỉ quen thuộc mỗi lần đứng trước hàng quân. -Tất cả! Ngồi… – Xuống! – Ðứng… – Dậy! Cả ba trăm người trả lời cùng với động tác ngồi xuống và đứng dậy một lượt, âm thanh hùng hồn vang động làm rung rinh tâm hồn những cán binh VC và đồng bào có mặt khiến họ đều nhất loạt vỗ tay. Khi mọi người bắt tay nhau từ giả, Tiểu Đoàn trưởng quay qua hỏi trung sĩ Lê Văn Tạo:

    - Ngoài anh Tạo biết gia đình Sơn, còn có ai biết nữa không?

    - Chỉ một mình em biết thôi, em đã chuẩn bị tất cả rồi, xác Sơn đã được đưa lên xe lam, chốc nữa em sẽ đưa Sơn về nhà cho gia đình Sơn!

    Giọng Tạo thật buồn và anh nói tiếp:

    - Nó cố giữ cái máy truyền tin nên bị hụt cẳng khi qua sông, em kêu nó buông cái máy ra mà nó không chịu nghe… Ðánh nhau không chết bây giờ lại chết, may mà sáng nay xác nỗi lên còn không thì …

    - Có mấy trăm đây, em lấy mà trả tiền xe!

    - Thưa Thiếu Tá không, người chủ xe lam không lấy tiền!

    Sơn ơi! Cái chết của em đau lòng mọi người lắm, nhưng em sẽ bất tử trong lòng anh em bởi vì tất cả chúng ta không ai quên được những giờ phút Tiểu Ðoàn lội qua sông để mong đến với Sài Gòn đang kêu cứu.

    * * *

    Gã tù binh đứng như trời trồng giữa buổi trưa ngày cuối tháng tư nắng gắt. Gã nhắm mắt lại, tai nghe lao xao những lời từ giã. Tay gã muốn cử động khi có bàn tay ai nắm chặt nhưng bàn tay gã như khô đi và cứng ngắt. Gã đứng đó và thấy một dòng sông đang chảy xiết với hình ảnh những người lính vội vã lội qua sông. “Sơn ơi! Sao em không chịu buông cái máy truyền tin, còn giữ nó làm chi trong giờ phút sau cùng khi không còn gọi được một ai, không nghe ai gọi mình!” Hởi con sông đang chảy xiết và sẽ chảy mãi trong trái tim đau đớn của ta! Ta làm sao quên dòng chảy ào ạt của ngươi đã nhận chìm, cuốn trôi đôi tay người lính đang nâng chiếc máy truyền tin lên cao, lên cao. Hỡi người lính muốn qua sông về với Sài Gòn mà chưa qua được! Anh vẫn thấy đôi mắt em hướng về Thủ Ðô buổi sáng 30 tháng Tư. “Ngày xưa khi anh mở mắt chào đời, Mẹ yêu, theo gương người trước chọn lời,… đặt tên cho người nặng tình yêu nước vào nôi ( Phạm Duy). Không biết con sẽ hát bài ca này bao nhiêu lần trong cuộc đời lưu lạc Mẹ ơi!…



    Nguyễn Phúc Sông Hương


    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  2. #2
    Những Ngày Cuối Tháng Tư








    30 Tháng 4 Nỗi Đau Việt Nam



    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  3. #3
    Nghĩa trang xưa và tôi





    " Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ, Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào"!


    Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi hết chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời: tìm về nơi chôn nhau cắt rún, nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu , ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương giang khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa. Nổi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng, bởi ngổn ngang bao điều thúc bách. Ô hay , đau thương từ quá khứ như còn đâu đây , thoảng trên con hẽm về khuya khua đôi nạn gỗ hay bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước, một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu, nhưng xa hẳn thế giới đua chen, cần những bước chân ghé thăm và những nén hương lòng thắp lên...

    Trước đây mỗi lần đi qua khu vực này, tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc qui mô và nghệ thuật của nghĩa trang, và khi nhìn tác phẩm THƯƠNG TIẾC, lúc nào tôi cũng thấy bức tượng Người Lính sống động. Người LÍNH ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến. Trong tư thế nuối tiếc Đồng Đội, anh như còn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi. Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một đấu tích để lại. Tôi nghe nói, người công sản đã đổ hận thù lên cả NGƯỜI LÍNH bằng đồng, một tác phẩm điêu khắc hiếm có , bằng cách đập phá bệ tượng, giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi.

    Toàn cảnh đã đổi thay. Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất, chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này. Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi : Cổng TAM QUAN và đền TỬ SĨ.

    Từ cổng Tam Quan, hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ONG mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa .

    CON ONG KHÔNG THỜ HAI CHÚA,
    NGƯỜI LÍNH CHỈ CHẾT CHO MỘT NGỌN CỜ .



    Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn , nhìn thật rõ mới đọc được:

    VÌ NƯỚC HY SINH - VÌ DÂN CHIẾN ĐẤU.



    Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi. Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình. NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HOÀ : Nghĩa trang của những NGƯỜI LÍNH đã chết cho Quê Hương Việt Nam.Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền TỬ SĨ, ngự trên đỉnh đồi, ngày nào là nơi tôn nghiêm Vị Nguyên Thủ Quốc Gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong, ngày Quân Lực , ngày QUỐC KHÁNH.

    Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà , sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của Chính Phủ trước đây, vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ. Rừng bia mộ mênh mong nằm xen lẫn với cỏ cây u tùm, phân chia từng lô bởi những con đường đất. Rải rác đó đây là những ụ đất, những hố sâu, những cây cau su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ, còn lại là những ngôi mộ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói, có lẽ ba mươi năm nay , chưa một ai đến viếng. Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang, nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế. Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì đó trên mảnh đất này. Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại, tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm. Nhiều tấm bia bị đập bể, có những phần mộ bị dời vị trí. Một sự phá hoại qui mô đầy tính thù hận. Đột nhiên mắt tôi rưng rưng niềm phẩn uất.

    Người cộng sản đang chiêu dụ người Việt Hải ngoại về xây dựng đất nước, mời mọc đầu tư, cổ xuý hoà giải, vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả của những người đã nằm xuống. Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Mồ mã các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận, mồ mã nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẩn. Người cán binh cộng sản, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà , họ là ai ?Tất thảy là những người con dân Việt bất hạnh, là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng, phải được chia sẽ từng mảnh đất chôn cất, chia sẽ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù...

    Chiều xuống nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những ngôi mộ như hớn hở đi vào ống kính ,cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận ảnh vài tấm bia . Khi quay ống kính về phía ngôi tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI sừng sững trước mặt, tôi thật sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ này. Nhìn rõ những hình ảnh trên Màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những NGƯỜI LÍNH VÔ DANH ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình , ngày nay họ trở thành những vị anh hùng trong lòng Dân Tộc.

    Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của tháng ngày thao trường đổ mỒ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái anh gửi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ, tình quê hương đậm đà. Anh về Thủ đô, lòng em rộn rã. Những địa danh bỗng hiện ra, những trân đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thắm ngọn đồi chiến lược ? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành ?Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mãnh đất Miền Nam. Thế rồi Anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

    Bao nhiêu năm chiến tranh chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ nhưng không thể viết thành lời. Không thể viết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Người nằm đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quí giá . Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta biết bao điều suy nghĩ về sinh ký tử qui của con người, về tình tự Dân tộc muôn thuở của Quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản lại hô hào đoàn kết lại để chết cho một thiểu số người . Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức.

    Ôi quê hương ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của Dân tộc . Ta không dám mơ ước một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối. Kẻ nơi cỏi âm, người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nổi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn còn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thuỷ chung cho thế hệ ngày mai. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lây động theo nhịp thở của Anh từ lòng đất

    Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngú
    Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.



    Ngôi Đền TỬ SĨ, ngọn tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI, Vành khăn tang, rừng mộ bia, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. Những NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người VIỆT NAM hằng yêu thương Đất Nước và Giống Nòi.

    Chu Lynh (Thứ Năm, 26 Tháng 5 Năm 2011 20:57)
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  4. #4





    Từ Bản Nhạc “Người Di Tản Buồn”


    Tác giả là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù nhân chính trị, định cư tại Mỹ theo diện H.O. từ 1992, đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Bài viết dành cho kỷ niệm Tháng Tư năm nay là câu chuyện về từ một bản nhạc...

    ***

    Mỗi năm đến tháng tư tôi lại nhớ đến bản nhạc Người di tản buồn (NDTB) của nhạc sĩ Nam Lộc, những lời ca đầy tình cảm của bài hát nhắc nhở tôi về tháng tư 1975 mất miền Nam, dân chúng khắp nơi rơi vào cảnh hoảng loạn, người người tìm mọi cách di tản mong đến được bến bờ tự do, kẻ không may ở lại phải chịu tù đầy hay đủ thứ khổ ải sau đó.

    Đây cũng chính là bài hát tôi đã được nghe từ khi còn trong trại tù cải tạo ở VN và từ khi sang sống ở Mỹ đến nay tôi cũng đã nghe lại nhiều lần mà tôi nghiệm ra ở hoàn cảnh nào tôi đều đã có những cảm xúc sâu đậm, những suy tư miên man.

    Tôi nhớ rất rõ bản nhạc NDTB đã làm tôi xúc động mạnh nhất là khi lần đầu tiên được nghe bài hát này trong nhà tù cộng sản ở Việt Bắc vào một buổi tối giá rét cách nay gần ba mươi năm. Thật là một kỷ niệm thân thương đáng nhớ.

    Mùa đông năm 1980 chúng tôi bị giam ở trại VQ do công an quản lý, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt. Trong lán tôi có anh H, một đại úy trẻ có biệt tài đàn hay hát giỏi, anh hát những bản tình ca mà VC gọi là "nhạc vàng" xuất sắc không thua ca sĩ chuyên nghiệp thời trước 1975.

    Còn nhớ những năm sau khi miền Nam mất, "nhạc vàng" bị cấm chẳng những ngoài dân chúng mà còn tuyệt đối cấm ngặt trong các trại tù cải tạo. Biết thế nên H chỉ hát khi ở trong lán và sau khi được các bạn bảo đảm không còn tên lính canh nào đi xung quanh lán hay lảng vảng gần đâu đó có thể nghe được. Anh H có trí nhớ rất tốt, anh đàn hát được khá nhiều bản nhạc nổi tiếng ngày trước, những bản mà hầu hết đều quen thuộc với anh em đồng tù nên được anh em rất mến mộ. Nhưng bỗng một hôm anh em thấy anh tập đàn và hát nho nhỏ một bản nhạc lạ, hỏi ra mới biết bản nhạc vừa do một anh bạn trong lán được thân nhân đến thăm nuôi kín đáo đưa cho một anh đem vào được và trao cho H.

    Sau vài lần tập dợt, tối hôm đó, một tối mùa đông lạnh giá anh muốn hát cho các bạn trong lán cùng thưởng thức bản nhạc mới mà anh thấy nội dung rất thích hợp với hoàn cảnh và tâm tình của anh em tù. Nhờ vài anh canh chừng cẩn mật không có lính tuần canh quanh lán xong, số anh em còn lại ngồi sát bên nhau vừa để đỡ lạnh vừa để nghe cho rõ, tất cả quây quần quanh anh H. Sau khi tất cả anh em đã im lặng hẳn, anh mới bắt đầu ôm cây ghi-ta thùng sát vào người dạo đàn và chậm rãi cất tiếng hát; tiếng đàn bập bùng hòa quyện vào giọng ca thật trầm ấm, tha thiết, nhỏ nhưng vừa đủ cho anh em vây quanh thưởng thức hết được từng lời hát câu ca:

    Chiều nay có một người di tản buồn
    Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
    Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
    Và dâng dâng lệ vương
    mắt nhạt nhòa

    Bạn ơi đó là người di tản buồn
    Ngày ra đi lặng câm trong đớn đau
    Và đêm khuya về trong đôi mắt sâu
    Đời như chôn vào con phố u sầu

    Cho tôi xin lại một ngày
    Ở nơi nơi thành phố cũ
    Cho tôi xin lại một đời
    Một đời sống với quê hương

    Cho tôi xin lại đoạn đường
    Hàng cây vươn dài bóng mát
    Cho tôi an phận ngàn đời
    Bên bờ đê vắng làng tôi

    xxx

    Chiều nay có một người di tản buồn
    Gọi anh em còn ai hay mất ai
    Còn bao nhiêu thằng
    xông pha chiến khu
    Và bao nhiêu nằm trong chốn lao tù

    Ở đây có những chiều mưa rất nhiều
    Nhiều hơn khi hành quân trong tháng mưa
    Buồn hơn rừng thưa vắng tiếng bom
    Ngày vui ơi giờ đâu nữa không còn

    Cho tôi xin lại bờ rừng
    Ở nơi tôi dừng quân ngũ
    Cho tôi xin lại ngọn đồi
    Nơi từng chiến đấu bên nhau

    Xin cho tôi một lần chào
    Chào bao nhiêu người đã khuất
    Xin cho tôi một mộ phần
    Bên ngàn chiến hữu của tôi
    (Người di tản buồn.
    Nhạc và lời:Nam Lộc)

    Tiếng đàn lời ca đã dứt nhưng cả lán vẫn chìm trong im lặng. Nhiều anh đã không nén được nỗi nghẹn ngào. Trong hoàn cảnh đọa đày khổ ải tận cùng, thử hỏi không xúc động sao được khi biết được có người đã thoát được ra nước ngoài, nhưng vẫn còn nhớ tha thiết đến quê hương, nhớ đến anh em đồng đội cũ, đến thân phận những người trong tù như mình.

    Nghĩ đến xuất xứ của bài nhạc, đến "hành trình gay go của nó" từ một đất nước xa xôi vạn dậm qua bao nhiêu chặng kiểm soát gắt gao để cuối cùng đến tay người nhận, tôi cảm thấy vui vô cùng. Khi "màn văn nghệ bỏ túi với bản hát đặc biệt" chấm dứt, anh em lặng lẽ rời nhau về chỗ nằm riêng của mình. Trong đêm tối mùa đông lạnh giá, leo lét ánh đèn dầu ở cuối lán, dư âm bản nhạc khiến tôi miên man nghĩ đến thành phó Sàigòn đã mất tên, đến gia dình, bà con, bạn bè đang trong "tù ngoài".

    Hình ảnh Sàigòn ngày nào hiện dần lại trong trí tôi. Những ngày đầu đổi đời mà VC gọi là "giải phóng" cho đến hơn một tháng sau đó, trước ngày tất cả quân cán chính miền Nam trong đó có tôi lần lượt vào các trại tù cải tạo, là thời gian thành phố như biến dạng với bao thay đổi đau thương. Khắp đường phố nơi đâu cũng thấy những con người với nét mặt hốt hoảng, lo lắng xuôi ngược, bao cảnh chướng tai gai mắt của những "kẻ chiến thắng mới từ trong rừng ra", và bao nhiêu tin tức đồn đoán đầy buồn phiền...

    Nhớ đến cha mẹ già sau thời gian dài xa cách bây giờ hẳn già yếu lắm, biết chừng nào mới có ngày gặp lại; vợ và bầy con nhỏ dại từ ngày thiếu vắng chồng,vắng cha sinh sống khó khăn đến chừng nào. Lần thăm nuôi đầu tiên gần đây của vợ tôi từ ngày vào tù cứ ám ảnh tâm trí tôi mãi. Tuy có là niềm an ủi rất lớn nhưng cũng để lại trong lòng tôi bao nỗi thương cảm sâu xa, nhìn người vợ năm nào nay trông héo úa xơ xác mà não lòng. Mười lăm phút gặp gỡ trước cặp mắt cú vọ theo dõi của công an sau cả năm chuẩn bị, mấy tháng chờ đợi giấy phép, mấy ngày ngồi xe lửa ngất ngư từ Nam ra Bắc rồi lặn lội vượt suối băng rừng mới đến được nơi thăm nuôi, vợ chồng đã chẳng nói năng được với nhau bao nhiêu ngoài những cái nhìn nhau ái ngại, nghẹn ngào thương xót. Ngoài một ít tin tức chung chung mà tôi chắc là không đúng sự thật lắm cốt để tôi khỏi buồn phiền lo lắng, về tình hình cha mẹ con cái ở nhà, vợ tôi có báo một tin vui là anh bạn Ch. ở xa có gởi quà thăm hỏi. Vì có công an ngồi gần canh chừng, vợ tôi chỉ nói thế nhưng tôi biết đó là anh Ch. đã qua được Mỹ vào những ngày giáp 30-4-75. Tôi mừng cho gia đình anh và cũng mừng cho chính mình vì đã còn bạn cũ nhớ đến. Thế là ngoài tác giả bản nhạc NDTB nhớ đồng đội mà tôi cứ an ủi tự cho có mình trong đó, tôi còn được Ch, một bạn học xưa từ phương xa nhớ đến thân phận tù đầy của mình, thật là một chia sẻ tình cảm thân thương vô cùng hiếm quý. Tôi liên tưởng đến các bạn bè khác, bao nhiêu người được may mắn như Ch, bao nhiêu còn kẹt lại, hay đang trong một trại tù nào đó như tôi bây giờ...

    Sau buổi tối đặc biệt đó mỗi khi có cơ hội thuận tiện anh em lại yêu cầu anh H hát lại bản NDTB. Tất nhiên cảm xúc không như lần đầu được nghe nhưng những lời đầy tình cảm trong bản nhạc vẫn là nguồn an ủi lớn lao cần thiết trong hoàn cảnh tù đầy. Tự trong sâu thẳm tâm hồn, rất nhiều lần tôi thầm cảm ơn tác giả sáng tác bản nhạc tuyệt vời và cảm ơn người ca sĩ đã để hết tâm hồn vào lời ca tiếng hát giúp cho anh em đồng tù có những giây phút ấm lòng, một nguồn động viên tinh thần rất cần thiết mà trước đây chưa bao giờ anh em tù chúng tôi có được.

    Thế rồi sau gần mười năm lưu đầy khắp từ Nam chí Bắc tôi được thả về sống tiếp dưới chế độ cộng sản thêm mấy năm nữa trước khi đến đươc Mỹ theo diện HO, sống lại cuôc đời tự do mong đợi từ sau tháng tư đen 1975. Đấy là vào cuối năm 1992 tức là sau ngày mất miền Nam 17 năm. Thân quyến, bạn bè gần xa được tin tôi, người ở gần thì đến chia mừng khuyến khích, kẻ ở xa thì điện thoại hay gởi thư thăm hỏi an ủi, tôi hết sức cảm động và hạnh phúc. Dù vậy, những hình ảnh và lời lẽ thân thương trong bản nhạc NDTB, dường như vẫn vang vẳng trong tôi.

    Từ khi đến Hoa kỳ tôi đã biết được tác giả bản nhạc là nghệ sĩ Nam Lộc, qua báo chí,TV cũng như đài phát thanh. Ông là ngưòi rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt khắp nơi, không chỉ trong lãnh vực ca nhạc mà cả trong các hoạt động xã hội giứp đỡ đồng hương. Tôi cũng nhớ nhiều đến anh ca sĩ H, dò hỏi thăm các bạn HO đến Mỹ trước thì được một hai người cho biết loáng thoáng là sau khi được thả về H đã vượt biên và mất tích; Tin này làm tôi bàng hoàng nhưng không làm cho tôi tin chắc là có thật bởi người nói ra cũng chỉ được nghe lại từ một người khác, nên tôi vẫn hi vọng anh còn sống và đang định cư trên một đất nước tự do nào đó mà tôi chưa may mắn được biết. Anh là người trẻ tuổi có tài, can đảm và giầu nghị lực được các bạn đồng tù rất cảm mến. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh gầy yếu xanh xao trông thật xót xa của anh khi anh vừa ra khỏi xà lim biệt giam sau nửa tháng chịu cực hình đói khổ hành hạ chỉ vì tội hát nhạc vàng trong lán cho anh em nghe.

    Tôi đã nghe lại bản nhạc NDTB qua các làn sóng phát thanh, qua đĩa hát hay trên TV. và qua giọng hát của nhiều ca sĩ trong số tôi tâm đắc nhất là giọng hát của K.L khi trình bày bài hát này.

    Dù vậy, tôi vẫn thường thích nghe chính tác giả bài nhạc trỉnh bày tác phẩm của mình hơn. Trong những lúc trống vắng một mình trong phòng riêng tôi thường vào mạng Google/Nam Loc tìm nghe lại NDTB do chính tác giả trình bày với sự phụ họa của ban nhạc The Blue Sea Band. Mỗi lần nghe lại, tôi đều thấy lòng mình lắng đọng, ngậm ngùi nhớ về một quê hương mà tôi đã phải bỏ lại cùng với rất nhiều liên hệ thân thương.

    Năm 1992 tôi sang Mỹ thì bạn bè đồng đội của tôi còn kẹt lại ở VN rât nhiều. Tuy một số đã được tha nhưng một số lớn khác vẫn đang bị đầy đoạ trong các lao tù khắp từ Nam chí Bắc. Tôi băn khoăn không biết những anh bạn đồng tù ở chung trại năm xưa đặc biệt những anh đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm êm đẹp như anh ca sĩ H, người đã hát bài NDTB cho chúng tôi nghe, anh nhạc sĩ Đ chuyên độc tấu nhạc cổ điển tây phương, anh sửa đài N thỉnh thoảng rỉ tai cho biết tin tức nước ngoài...

    Tôi nhớ sau khi được tha tôi còn phải sống nhiều năm dưới chế độ VC rồi mới sang được Mỹ, đó là thời điểm những năm cuối thập niên 1980 tôi đã chứng kiến cảnh sa sút tệ hại của một Sài gòn mất tên, về mọi mặt văn hoá, đạo đức, xã hội...

    Dân chúng đại đa số nghèo nàn, khó khăn chật vật trong những hoàn cảnh khác nhau vì sự độc tài kềm kẹp, phân biệt đối xử của chế độ, nhưng nỗi đau thương nhất dưới mắt tôi là hình ảnh những người thương phế binh nguyên là những chiến binh VNCH ngày nào thì nay đang lê lết tấm thân tàn phế bán vé số kiếm sống nhọc nhằn qua ngày trên các lề đường thành phố.

    Rất may những năm sau này không rõ từ khi nào Cali đã có tổ chức chuyên gây quỹ để yểm trợ cho thành phần cựu quân nhân tàn phế kém may mắn này. Đó là Hội cứu trợ thương phế binh và cô nhi quả phụ được thành lập và hoạt động rất tích cực tại quận Cam. Mấy năm gần đây lại có thêm những đại nhạc hội "Nhớ ơn anh người chiến sĩ VNCH" được tổ chức quy mô với sự tham gia trình diễn tình nguyện của rất đông đảo nghệ sĩ tên tuổi trong đó nghệ sĩ Nam Lộc, tác giả nhạc phẩm NDTB, đã đóng góp công sức đặc biệt trong vai trò MC then chốt. Kết quả những buổi văn nghệ này thật là to lớn, tất cả những số tiền thu được đã được giao cho Hội trên đảm trách việc gởi về VN giúp đỡ các anh em thưong phế binh.

    Bài nhạc cũng khiến tôi liên tưởng đến các cộng đồng tị nạn VN trên khắp thế giới đặc biệt tại Hoa kỳ, Úc, Pháp ..., những nơi có đông đồng bào tị nạn mà dù ở đâu họ cũng không quên biến cố tháng tư mất nước, vẫn luôn thể hiện tinh thần chống cộng tích cực. Biết bao nhiêu đoàn thể tổ chức đã được thành lập dể biểu dương sức mạnh khi cần thiết và sẵn sàng yểm trợ các phong trào đối kháng trong quốc nội.

    Mội năm, tháng tư đến nhắc nhở ngày mất miền Nam tự do. Riêng trong tôi, từ một bản nhạc tình cảm đầy ắp niềm thương nhớ quê hương và tình người, tôi nhớ lại tháng tư 1975 đau thương nhất trong lịch sử cận đại của dân tộc mà ngoài những hồi tưởng và suy tư tản mạn, tôi còn nghĩ nhiều đến những diễn biến đang xảy ra khắp nơi với hi vọng nhiều vào một tương lai tốt đẹp sớm đến với tổ quốc VN thân yêu.

    Khanh Vũ
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  5. #5
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009

    Thương tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam


    Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khoa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam , người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng ! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệmẦ.đó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chổ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.
    1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huy ện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 dl. Năm 1927.
    Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sàigòn. Anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.
    2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường Ecole des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đầu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế, năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.
    3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sàigòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam, chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau, chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.
    Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó.
    Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thi không thay đổi được.
    Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sàigòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Uùy. Tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không? Anh cười và nói "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm". Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.
    Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sàigòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn Dù cử anh đi học kỹ thuật ở PAU (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-75. Thật ra thì ít khi về đây phần lớn thời gian ở trong đơn vị, và lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.
    Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang Ðại Uùy từ 1955-1964, qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá.
    Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND. Tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 Bộ binh tổ chức anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tấm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng trường Trung học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi.
    Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá, vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ". Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.
    Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Năm 1968, LÐ3ND về Sàigòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sàigòn Chợ Lớn.
    Năm 1969, được cử giiữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng thực thụ.
    - Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức.
    - Tháng 10 năm 1973 được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.
    Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lênh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sàigòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nữa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000$ tiền Việt Nam . Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.
    Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam .
    Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sàigòn về Cần Thơ xin hốt cốt lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning, bộ xương đã được thiêu liền khi đó, khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ , đem về Sàigòn ngay hôm đó.
    Vài ngay sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.
    Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi tôi cách xa nhau.
    Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.
    Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.
    Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Toạ đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp, các Cha, các Thầy cũng vậy thôi.
    Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ; hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc Trung học, đã là một Họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bầy ở Triển lãm, trong các năm tản cư 1946-1947 suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.
    Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo, ông luôn luôn lầm bầm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.

    Hồi Ký:




    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  6. #6
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009
    Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam

    Nguyễn Thái Dương


    Rời quê hương đã 25 năm mà hình ảnh cậu tôi thỉnh thoảng vẩn hiện về trong giấc ngủ chập chờn. Những ký ức về cậu tôi như là một bức tranh chấm phá. Cậu như là một thế giới riêng đối với tất cả mọi người.
    Còn nhớ lúc tôi khoảng 6,7 tuổi, gia đình ông ngoại chúng tôi ở bến đò Chợ Dinh. Nhà trên dành cho ông ngoại còn tất cả ở những căn nhà dưới. Gần đó là chùa Bà La của dòng họ Nguyễn Khoa. Là cháu ngoại đầu tiên, được ông ngoại cưng nhất. Thỉnh thoảng ông bảo mẹ tôi đưa lên nhà trên để ông cho ăn vài món dành cho ông. Cạnh nhà là một cây mộc lan rất lớn, đến mùa cả trăm cánh hoa nở ra thơm ngát cả vườn. Sau nhà là một vườn cam quít rồi đến một thửa đất rộng trồng bắp, sắn, rau cải tùy mùa. Cạnh sông là một nhà chòi cao mà trong những trưa hè nóng nực, mấy cậu cháu chúng tôi thường leo lên ngủ trưa để hưởng gió mát từ sông thổi vào.
    Một kỷ niệm vui mà tôi không bao giờ quên được là vào một dịp Tết, tất cả chúng tôi ăn mặc quần áo chỉnh tề lên chúc Tết ông ngoại để được lì xì. Sau đó cậu dẩn tôi, cậu Phước, cậu Lộc và dì Diệu Yến ra vườn để xem cậu đốt pháo mừng xuân. Cậu Lộc và dì Diệu Yến tuy vai vế lớn hơn nhưng cũng xấp xỉ tuổi tôi. Ra sau vườn đã thấy mấy cây pháo để trên một cái lon khá lớn. Chúng tôi xúm xung quanh để xem cậu đốt. Pháo vừa nổ là cả một mùi hôi thối bốc lên, quần áo chúng tôi lấm đầy đồ dơ. Thì ra cậu đã để cái lon trên một đống phân. Báo hại chúng tôi phải tấm rửa thay quần áo khác để đón xuân. Bị ông ngoại la, cậu cười khoái chí. Cậu thường xưng cậu và em với ông ngoại tôi.
    Vào khoảng năm 51, chúng tôi dọn lên nhà số 64 đường Gia Hội, sau này đổi tên là đường Chi Lăng, ngay lối đi vào đường Trung Bộ. Cậu lúc này đã đi làm việc trong thành nội. Cậu giống như một ông công tử đất Thần Kinh, luôn luôn mặc đồ bộ màu trắng và đặt cơm từ nhà hàng Morin. Cũng giống như ông ngoại, thỉnh thoảng cậu gọi tôi vào cho thưởng thức vài món ăn Tây. Trong vòng gia đình, ngoài cậu còn có anh Hiệp và anh Cẩm. Anh Hiệp là con bác Kinh, người anh kết nghỉa với ông già tôi. Anh Cẩm là chồng chị Yến, con của cậu Sỉ. Anh Hiệp đi Thiết Giáp, anh Cẩm chọn Pháo Binh. Sau này, cả ba đều trở thành những tướng lảnh của QLVNCH.
    Mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, cậu tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Vài người trong gia đình nói rằng đúng ra cậu là một nghệ sỉ hơn là quân nhân. Cậu có khiếu về hội họa, vẻ truyền thần và phong cảnh rất xuất sắc. Cậu cũng có khiếu về âm nhạc và giỏi về ngoại ngử, cả Anh và Pháp. Nghe nói cậu có yêu một người đẹp nhưng về sau người này đi Pháp lấy chồng bác sỉ, từ đó cậu không lập gia đình với ai cả. Trong tranh vẻ của cậu có phảng phất hình bóng của cô này. Có lẻ đây cũng là một vài huyền thoại trong cuộc đời của cậu.
    Trong khoảng thời gian cuối 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước, cậu chỉ huy một đơn vị nhảy dù tham dự các cuộc hành quân ở Bắc Việt và trở về Nam sau hiệp định Genẽve.
    Năm 62, sau khi tốt nghiệp trường Sỉ Quan Hải Quân Nha Trang, lên thăm cậu tại Sài Gòn, cậu nói: "Ðúng ra ngành Bác Sỉ thích hợp với mi hơn, để cậu nói với ông Quyền xem ông có thể giúp mi đi học Quân Y được không?" Cậu thường dùng chử "mi" của người Huế khi gọi tôi. Cậu là bạn học của HQ Ðại Tá Hồ Tấn Quyền lúc đó là Tư Lệnh Hải Quân. Tôi cũng chẳng để ý đến chuyện này cho lắm. Sau đó Ðại Tá Quyền là người đầu tiên bị đàn em sát hại trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào cuối năm 63.
    Cậu ở trong cấp bậc Ðại Úy khá lâu. Vài người nói rằng là Sĩ Quan Nhảy Dù mà cậu rất ít nói, cũng không ăn nhậu với bạn đồng ngũ nên đôi khi bị hiểu lầm từ cấp chỉ huy cũng như bạn bè.
    Ðến năm 66, hai cậu cháu có cơ hội gặp nhau ở Ðà Nẵng lúc cậu chỉ huy Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang hành quân tại Quảng Ngãi.
    Sau trận chiến thắng lẫy lừng của Lử Ðoàn 3 Nhảy Dù tại đồi Ngọc Văn, Kontum mà các anh em nhảy dù nói đùa là đồi Ngóc Văng, cậu được Tổng Thống Thiệu cho lựa chọn một trong 3 chức vụ: Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia hay Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Cậu nói rằng Sư Ðoàn 1 của Thiếu Tướng Trưởng quá xuất sắc, không thể làm hơn đưọc, vả lại ở Huế nhiều bà con quá còn ngành Cảnh Sát thì không thích hợp với mình. Với Sư Ðoàn 7 mình có nhiều cơ hội hơn. Cậu đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kể từ 1969.
    Hai vợ chồng tôi có xuống thăm cậu ở Ðồng Tâm vào đầu năm 70, cậu bảo ra ngoài dinh Tư Lệnh tại Mỷ Tho mà ở. Ông Thượng Sĩ quản gia mừng rỡ khi có khách: "Ông Tướng ít khi tiếp bà con, thỉnh thoảng mới ra Mỹ Tho một lần".
    Cuối năm 1971, tôi được thuyên chuyển về chỉ huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân trong nhiệm vụ yểm trợ cho hai Trung Ðoàn 11, 12 Bộ Binh hoạt động trong khu vực Mỹ Tho và Kiến Hoà sau hơn một năm chỉ huy Liên Ðoàn 3 Thủy Bộ yểm trợ cho Trung Ðoàn 32 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh trong chiến dịch U Minh. Cậu do dự khá lâu vì không muốn tôi ở gần cậu. Thỉnh thoảng, cậu gọi tôi qua phòng hành quân Sư Ðoàn vào buổi tối. Hai cậu cháu có dịp nói chuyện gia đình cũng như những lời chỉ bảo. Cậu thuờng dặn dò: "Mi còn trẻ, ở đơn vị chiến đấu nhiều, tương lai tốt, đừng để dính vào những chuyện rắc rối".
    Một câu nói mà tôi vẩn còn nhớ mãi đến ngày hôm nay. Khi nói chuyện về tham nhũng, cậu trầm ngâm nói: "Trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, mình không tham nhũng không có nghĩa là đàn em mình không tham nhũng, nhưng họ chỉ làm ăn vừa đủ sống. Nếu mình tham nhũng thì họ phải ăn gấp ba: một cho họ, một cho mình, một cho xếp mình. Bổn phận của cấp chỉ huy là phải giữ mình trong sạch". Tôi nhớ lại thời gian còn hành quân ở Cà Mâu, trong một lần mời Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh và Ðại Tá Thiều dùng cơm ở Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, hai ông thầy tranh luận về vấn đề tham nhủng. Phó Ðề Ðốc Minh cho rằng miền Nam không thắng được Cộng Sản là vì tham nhủng. Ông chỉ cần độ mười ngàn người trong sạch cùng lý tưởng là có thể đánh bức được Cộng Sản. Ðại tá Thiều cưòi trả lời nhẹ nhàng: "Bạn nói đúng trên lý thuyết. Trong thời chiến tranh, chỉ sống nhờ ngoại viện, một người lính hay cảnh sát lưong chỉ đủ sống mươi ngày. Nếu không kiếm chác thêm để nuôi vợ con thì họ đói hết chẳng còn ai để đánh Cộng Sản". Tôi chỉ biết ngồi cười không góp ý kiến. Cả hai ông thầy đều đúng trong một vài khía cạnh nào đó.
    Thỉnh thoảng nhận được trợ cấp từ Phủ Tổng Thống, cậu chia hết cho các Trung Ðoàn. Trong những lần hành quân phối hợp, vài vị Trung Ðoàn Trưởng nói đùa rằng tiền ông Tưóng cho ít quá, không biết thế nào chia cho đàn em.
    Cậu ở trong một trailer đơn giản do Quân Lực Mỹ để lại và hầu như ăn chay trường. Hàng tháng cậu đều gởi tiền về cho mẹ tôi. Thỉnh thoảng bà già vợ xuống Ðồng Tâm thăm chúng tôi, bà thường nấu đồ chay mời cậu. Cậu thường nói: "Mình ăn chay để đở chết lính".
    Cũng trong thời gian này, có dự tính giới thiệu một người bà con của bà Tổng Thống cho cậu. Tôi hỏi cậu chuyện này. Cậu cười: "Làm bà con với Tổng Thống thì khó làm việc lắm".
    Có vài điều mà khi còn ở Việt Nam , tôi không muốn chia xẻ với cấp chỉ huy. Mỗi lần có đoàn công voa Cửa Tiểu - Nam Vang là có lệnh điều động từ phòng hành quân Sư Ðoàn qua Kiến Hòa phối hợp với Trung Ðoàn 12, bỏ trống sông Tiền Giang cho dến khi đoàn công voa đi qua khỏi khu vực hoạt động của Sư Ðoàn. Cậu chỉ nói thoáng qua về những hoạt động tình báo chiến lược có từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm với sự phối hợp của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan. Những hoạt động này đòi hỏi ngân sách riêng không thể phổ biến đưọc.
    Ðây là khoảng thời gian thoả mái nhất trong đời binh nghiệp. Sự liên hệ với cậu đã giúp tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, giữ được sự trong sạch của mình mà không đụng chạm đến chuyện người khác. Tuy nhiên, đến cuối năm 72, một sỉ quan đàn em có gốc gác ở Mỷ Tho gặp tôi ngỏ ý hoán chuyển về Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức. Thấy mình ở chức vụ cũng khá lâu, tôi nói cho cậu biết ý định của mình. Cậu chỉ mỉm cưòi không nói năng gì hết. Tôi về Hạm Ðội thay vì Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức do trục trặc kỷ thuật tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rời Mỷ Tho được mấy tháng là xảy ra vụ còi hụ Long An mà báo chí thời đó có cơ hội tấn công chính quyền về vấn đề tham nhũng và buôn lậu. Vài anh em trong Hải Quân nói đùa rằng tôi đẻ bọc điều, vụ gì cũng tai qua nạn khỏi nhưng họ không biết rằng những chịu đựng mà tôi phải vượt qua vì đưòng binh nghiệp của mình. Vài lần nói chuyện phiếm với anh em: "Trong thời tao loạn, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết nhiều khi cũng ngất ngư".
    Về Hạm Ðội được gần một năm thì lại được biệt phái ra Ðà Nẵng cùng với HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc vì tình hình sôi động tại Hoàng Sa. Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, tôi được chuyển qua làm Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội I Duyên Phòng. Có vài nguồn tin nói rằng Hải Ðội sẽ là đơn vị đầu tiên đưọc trang bị các PTF nhưng sau đó mọi chuyện im luôn. Cậu vẫn tiếp tục dặn dò: "Mi ráng cẩn thận, Ðà Nẳng không khác gì Vũng Tàu, Mỷ Tho đâu". Vụ buôn lậu Mỹ Khê xảy ra sau đó, lại một lần lao đao.
    Cuối năm 74, được tin cậu đuợc bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV kiêm Vùng 4 Chiến Thuật trong khi ở Vùng 1 những biến chuyển dồn dập báo hiệu ngày tàn của cuộc chiến càng ngày càng đến gần. Tôi qua năn nỉ riêng Ðại Tá Thiều cho sửa tất cả các chiến đĩnh của Hải Ðội.
    Ðà Nẵng hỗn loạn trong trong những ngày cuối tháng 3 và sau cơn mưa pháo vào Tiên Sa đêm 29, Quân Ðoàn I cũng như Vùng I Duyên Hải xem như tan hàng. Trong những ngày cuối cùng ở Vũng Tàu sau khi di tản từ Ðà Nẵng và Cam Ranh, với tâm lý hoang mang và chán nản đến cùng cực, tôi cố gắng liên lạc lần cuối với cậu xem cậu có đồng ý để tôi về Cần Thơ không. Cậu chỉ cho một Sỉ Quan nhắn tôi cứ ở Vũng Tàu. Có lẻ cậu đã nhìn đưọc ngày tàn của cuộc chiến và những điều bất hạnh sẽ dáng lên đầu quân dân miền Nam .
    Qua Hoa Kỳ đang ở trại tỵ nạn thì những ngưòi qua sau cho biết cậu đã tự sát để khỏi đầu hàng địch quân. Cậu cũng như vài Tướng Lảnh khác của miền Nam đã chọn cái chết để giữ tròn khí tiết của người tướng không còn giử được thành. Dù rằng với một Quân Ðoàn IV đang còn nguyên vẹn, cậu đã không ra lệnh tử chiến để cứu sanh mạng của hàng trăm ngàn quân dân vô tội.
    Trong thời gian về Việt Nam làm việc cho một dự án tài trợ ngắn hạn, tôi thường lên chùa Già Lam ở Gò Vấp thắp vài nén hương trước bàn thờ thân phụ tôi và cậu. Nhìn nét mặt nghiêm trang của cậu trong bộ quân phục Nhảy Dù, những kỷ niệm gia đình lại hiện về trong tâm tưởng. Cậu vẫn sống mải trong lòng quê hương và dân tộc.

    Nguyễn Thái Dương



    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  7. #7
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009
    Hồi ký của một Tùy Viên:

    Những Giờ Sau Cùng Của Người anh hùng vị quốc vong thân

    Tướng Nguyễn Khoa Nam

    Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH

    (Trích sách "Nguyễn Khoa Nam ")


    Lời Tòa Soạn:
    Cuốn sách Nguyễn Khoa Nam là một tài liệu lịch sử rất giá trị, dầy gần 600 trang, gồm trên 60 bài viết của các tướng lãnh, chiến hữu cũng như thân nhân Tướng Nam. Ðặc biệt có bài cảm nghĩ của cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và nhiều hình ảnh, tài liệu chưa từng công bố.
    Muốn mua sách, xin liên lạc với Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết.
    Email: doanket@yahoo.com
    Ðiện thoại: (512) 346-5810
    Gía bán $20 Mỹ Kim
    Ông Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH, là Tùy viên Tư lệnh QÐIV-QK4 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông là người đã trực tiếp chứng kiến cảnh cả hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, Tư lệnh và Tư lệnh phó tự sát. Sau đây là chuyện ông kể trong "Hồi Ký Của Một Tuỳ Viên", trích từ sách "Nguyễn Khoa Nam ". Sách được ra mắt vào lúc 1 giờ chiều thứ bẩy 28 tháng Tư 2001 tại Hội Quán Little Saigon Radio.
    Tháng 4 năm 1975
    Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Ðộc Lập gặp Tổng thống, lúc ở dinh phó Tổng thống. Thời gian còn lại, Tư lệnh thường đến các Tiểu khu và Sư đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Ðịnh Tường, Kiến Tường và Châu Ðốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Ðịnh Tường và Long An. Sư Ðoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Ðịnh Tường còn Sư Ðoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiển 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Ðịch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.
    Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiển 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và tư dinh Tư lệnh. Vị trí pháo hướng đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.
    Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Ðéc. Trong lúc này, Tư lệnh rối bời lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu tướng ra lệnh các Tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân đoàn IV và nhất là giữ quốc lộ 4 đừng dd" VC cắt đứt. Tư lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Ðốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu khu và Sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
    Sáng ngày 24 tháng 4, Tư lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Ðịnh Tường, có tướng Trường tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao sao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.
    Áp lực địch vẫn nặng ở quốc lộ 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp Tư lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư lệnh viết Nhật Lệnh đưa thiếu tá Ðức, Chánh văn phòng chuyển đến phòng Chiến tranh Chính trị để đọc trên đài Phát thanh và Truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư lệnh và kèm theo là Nhật lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư lệnh phó vào gặp Tư lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư lệnh đã viết.
    Ðêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vỉnh Bình. Ðịch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, tiểu khu trưởng tiểu khu Vỉnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
    Sáng sớm 30 tháng 4, Tư lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Ðịnh Tường. Cuộc họp nhanh và xong bay về Cần Thơ. Trở lại Quân đoàn, nói rõ về phòng làm việc của Tư lệnh, phòng làm việc chia hai tầng. Tầng trên có sẵn từ trước, thêm tầng dưới là hầm dưới chân phòng làm việc chính thức. Ở hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư lệnh. Hầm làm việc này mới được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn.
    Tình hình sáng 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng thưa thớt đi lại, xe cộ hạn chế. Về tinh thần binh sĩ vẫn hăng say chiến đấu, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh.
    Vào 10 giờ sáng, tôi được báo cáo là Thiếu tá Chánh văn phòng rời văn phòng bỏ đi cùng với đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh đang ngồi và viết ở bàn làm việc. Tư lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:
    - Có gì không?
    -Trình Thiếu tướng, thiếu tá Chánh văn phòng và đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu."
    Tư lệnh điềm nhiên không giậnvà nói:
    - Ði hả! Ði làm chi vậy.
    Nói xong, Tư lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tỉnh không la không buồn. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 đi theo dõi tình hình ở Sài Gòn.
    Tư lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
    - Gọi đại tá Thiên gặp tôi.
    - Dạ.
    Ðại tá Thiên mới nhận chức vụ Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh kể từ sáng ngày 30 tháng 4.
    Bất chợt, tiếng của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:
    - Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .
    Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh và nói:
    - Tổng thống Dương Văn Minh đã .....
    Tôi nói chưa hết câu, Tư lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
    - Qua đã nghe rồi.
    Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư lệnh phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư lệnh. Qua điện thoại, Ðại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp gấp Tư lệnh, lần thứ hai, Ðại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.
    Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư lệnh được. Tư lệnh bấm loa gọi tôi:
    - Danh xuống đây tôi bảo.
    Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:
    - Danh tháo bỏ những ranh giới, những mủi tên trên bản đồ ." (Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ). Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mủi tên đỏ chĩa vào (Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:
    - Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.
    - Ðược rồi.
    Tư lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Ðộ 10 phút sau, Tư lệnh bấm loa gọi tiếp:
    - Danh vào tôi bảo.
    - Dạ.
    Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư lệnh nhìn tôi nói:
    - Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này.
    - Dạ.
    Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:
    - Trình Thiếu tướng, em đãtháo xong.
    Nói về phòng làm việc của Tư lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh.
    Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân cảnh ở phòng chờ đợi (Vọng gác 2) lên gặp tôi nói:
    - Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư lệnh. Tôi nói:
    - Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư lệnh."
    Tôi gõ cửa vào gặp Tư lệnh và nói:
    - Trình Thiếu tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu tướng.
    - Ðược, mời họ vào.
    Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tư lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này với tư thế sẵn sàng cách khoảng 4 thước, tôi sợ hai ông này ám sát Tư lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
    - Danh đi ra ngoài đi tôi nói chuyện.
    Tôi ấp úng trả lời:
    - Dạ ... em ở đây với Thiếu tướng.
    - Ðược rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
    - Dạ
    Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẻ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giả từ. Tư lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về.
    Tư lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi.
    Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Ðoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
    Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói: Tôi trung úy Danh, tùy viên Tư lệnh, xin lổi ai đầu dây? Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Ðàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:
    - A lô ai đó? A lô ai đó?
    Và tiếng lạ tôi không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư lệnh tôi không rõ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư lệnh phó gặp trung úy Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư lệnh và Tư lệnh phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để xử dụng máy PRC25 và đánh số thứ tự A, B, C, D ... để Tư lệnh nói chuyện kín hơn.
    Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư lệnh sữa soạn về tư dinh, Thiếu tướng nói với tôi:
    - Danh chuẩn bị xe đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
    - Dạ.
    Xe chở Tư lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư lệnh đến bên thương binh này hỏi:
    - Em tên gì?
    - Dạ em tên ...
    - Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
    - Dạ khỏe, em là Ðịa phương quân ở tiểu khu Vỉnh Bình.
    Tư lệnh nói tiếp:
    - Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
    Tư lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi quạ Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư lệnh đứng sát bên và hỏi:
    - Vết thương của em đã lành chưa?
    - Thưa Thiếu tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
    Với nét mặt buồn buồn, Tư lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư lệnh mếu máo:
    - Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
    - Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.
    Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
    - Em cố gắng điều trị .... có qua ở đây.
    Tư lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả, sự im lặng quá nặng nề, suốt trên đường về tư dinh, Tư lệnh không nói một lời nào.
    Về đến tư dinh, tôi thấy Quân cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Ngộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Ngộ, tôi nói:
    - Anh Ngộ bắt một con gà làm và luộc để Thiếu tướng dùng."
    - Dạ con gà nào Trung úy?
    - Ðàn gà nòi Thiếu tướng nuôi anh chọn một con.
    Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen ngịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Ngộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu tướng vào ăn cơm. Tư lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
    - Danh ngồi ăn cơm cho vui.
    Ði các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư lệnh, còn ở dinh Tư lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư lệnh hỏi:
    - Thịt gà đâu vậy?
    Tôi gượng cười nói:
    - Dạ mấy con gà Thiếu tướng nuôi ở sau, em bảo anh Ngộ làm một con đểThiếu tướng dùng.
    - Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn để nguội.
    Tư lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:
    - Dạ em ăn xong, Thiếu tướng dùng tiếp.
    Thiếu tướng nói:
    - Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.
    Vừa nói, Tư lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như ăn cây mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu tướng ra phòng làm việc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn trung úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
    - Có liên lạc với tướng Hưng không hè?
    - Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Tôi nói tiếp:
    - Dạ, Thiếu tướng muốn nói chuyện với Tư lệnh phó?
    - Qua muốn nói chuyện.
    Tôi nói với Tư lệnh:
    - Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó một số tần số PRC25 để lúc cần Thiếu tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.
    Tôi nói tiếp:
    - Ðể em đi lại dinh Tư lệnh phó nói mở máy PRC25 để Thiếu tướng nói chuyện.
    Tư lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh đến dinh Tư lệnh phó đối diện dinh Tỉnh trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽphải vào dinh Tư lệnh phó thì thấy phía bên trái trước dinh tỉnh trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mủi súng chỉa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
    - VC đã vô tới rồi.
    Tôi bảo tài xế:
    - Quay trở lại đi không ổn rồi.
    Tài xế lái nhanh về dinh Tư lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẻm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư lệnh:
    - Trình Tư lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh trưởng.
    Tư lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu tướng:
    - Em đi lần nữa, đểThiếu tướng nói chuyện với Tư lệnh phó. Tư lệnh nhỏ nhẹ nói:
    - Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
    - Dạ không sao!
    Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:
    - Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.
    Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Ngộ quản gia nói:
    - Em vừa thấy anh Thông ra cổng. Anh đã bỏ đi rồi.
    Bất chợt có một anh (tôi quên cấp bậc và tên):
    - Trung úy cần gì em giúp.
    - Anh muốn đến dinh Tư lệnh phó.
    - Ðược rồi để em đưa ông thầy đi.
    Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
    - Ði Honda tiện hơn Trung úy.
    Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư lệnh phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.
    Dinh Tư lệnh phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
    - Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
    Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời.
    Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:
    - Anh ráng chờ tôi một chút.
    Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:
    - Tôi trung úy Danh đừng bắn, tôi trung úy Danh đừng bắn. Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuột xuống đất. Gặp tôi, anh Nghĩa vừa nói vừa khóc:
    - Chuẩn tướng tự sát chết rồi Danh.
    - Lúc nào?
    - Mới đây, chắc có lẽ hồi nảy Danh nghe tiếng súng nổ.
    Anh nói tiếp:
    - Chuẩn tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư lệnh phó vào đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
    Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư lệnh phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
    - Thôi Danh đi về.
    Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: Tại sao Tư lệnh phó tự sát? Nếu Tư lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn tướng tự sát hay là ... tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bải đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió (giấy tờ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ dân hôi của vất ra đường từ hôm trước).
    Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư lệnh tôi vội vả nói:
    - Trình Thiếu tướng em đến dinh Tư lệnh phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư lệnh phó đã bắn vào ngực.
    - Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
    Tư lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư lệnh phó đã tự sát, chắc Tư lệnh sẽ tự sát theo.Tôi xuống nhà gặp trung úy Việt và nói Tư lệnh phó đã tự sát còn Thiếu tướng không biết thế nào? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.
    Lúc này khoảng 11 giờ đêm, cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mổi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang. Lần khác vào, Tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
    - Có gì không?
    - Em vào xem Thiếu tướng có sai bảo gì không?
    Tư lệnh nói:
    - Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
    Tôi nhỏ nhẹ nói:
    - Trình Thiếu tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu tướng?
    - Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
    Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
    - Danh cất tiền này dành để xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu tướng không dùng đểdành).
    Xong Tư lệnh đi vào trailer, tôi hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 400 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, tôi sợ Tư lệnh tự sát.
    Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư lệnh ra gặp tôi nói:
    - Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à?
    - Dạ em ngủ không được.
    Tư lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
    - Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
    Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nảy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Ngộ, Thiếu tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư lệnh có ý định gì?
    Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
    - VC tự động mở cửa vào dinh.
    - Anh bảo họ chờ tôi một chút.
    Tôi vội vả vào trailer để gặp Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
    - Trình Thiếu tướng, bọn VC đang vào dinh.
    - Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
    Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6, 7 người đang vẹt kẻm gai đi vào hướng cửa dinh. Ðến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lũng lẵng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẻm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẻm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
    - Anh làm gì ở đây?
    Tôi nói:
    - Tôi làm quản gia.
    Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
    - Anh cấp bậc gì?
    - Tôi Trung sĩ.
    Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mủi súng vào phía sườn tôi và nói:
    - Ði.
    Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:
    - Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.
    Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
    Súng ngộ và đẹp quá.
    Chị bới tóc tiếp theo:
    - Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
    Tôi nghe và thấy những việc trên cỏi lòng xe lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa luới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu P-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khact, trung sĩ Ngộ từ phòng Thiếu tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:
    - Thiếu tướng bảo Trung úy lấy thuốc lá hút.
    Có cớ vào gặp Tư lệnh, người mang AK bỏ thỏng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu tướng một điếu, 3 người mổi người một điếu (Tư lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc Capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư lệnh, người mang khẩu P-38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mủi súng hướng về phía Tư lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.
    Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lổ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư lệnh nằm yên, chắc Tư lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư lệnh lần nữa, thấy Tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngã lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
    Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu tướng. Thiếu tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
    - Ðêm qua, Danh ngủ được không?
    - Mệt quá em nằm nghỉ một chút.
    Tư lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư lệnh đến bên tôi hỏi:
    - Gặp tướng Trường được không hè?
    Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.
    - Dạ ... dạ. Tôi ấp úng trả lời. Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.
    Tư lệnh hỏi tiếp:
    - Có phải Trường không?
    - Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống tướng Trường.
    - Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
    - Dạ.
    Rồi Tư lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn trung úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư lệnh buồn buồn nói:
    - Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
    Tư lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư lệnh quay lại nói tiếp:
    - À, quên chìa khóa. Rồi Tư lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
    - Cái này của Danh, cái này của Việt.
    Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu tướng bật khóc. Tướng cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao?Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
    Tư lệnh sắp tự sát
    Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm thăm vợ con, còn trung sĩ Ngộ đang thập thò trước cửa. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong Tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt , Tư lệnh xoay qua bảo tôi:
    - Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
    - Dạ.
    Tôi tôi thầm nghĩ Tư lệnh và tôi độc thân chắc Tư lệnh nghĩ cách khác.
    Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước trung sĩ Ngộ thất thanh chạy la lên:
    - Ðại úy ơi! Ðại úy ơi! Thiếu tướng tự sát chết rồi.
    Trong lúc sợ hãi, anh Nghộ gọi tôi là Ðại úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hải hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thỏng xuống lòng Tư lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Ngộ thấy vậy vội nói:
    - Thôi mình chở Thiếu tướng đi bệnh viện.
    Tôi và anh Ngộ ôm chầm lấy Thiếu tướng vừa khóc vừa nói:
    - Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh qua ở lại với các em.
    Anh Ngộ nói tiếp:
    - Em đâu dám đến gần Thiếu tướng. Ðứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu tướng. Em thấy Thiếu tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu tướng nổ súng liền em chạy lại đâu kịp.
    Vừa nói anh Ngộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.

    Lê Ngọc Danh

    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

 

 

Similar Threads

  1. Thời gian và kỷ niệm ...
    By hoangtruc in forum Không Gian Riêng
    Replies: 53
    Last Post: 10-02-2015, 10:17 AM
  2. Ảo Tưởng
    By chieubuon_09 in forum Tùy Bút
    Replies: 8
    Last Post: 08-13-2014, 08:48 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 01-14-2012, 05:30 AM
  4. Mỹ tạo ra 200 ngàn việc làm vào tháng 12
    By Lotus in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 0
    Last Post: 01-10-2012, 11:07 AM
  5. Vần thơ tháng hạ
    By Man Ho in forum Thơ
    Replies: 18
    Last Post: 11-25-2011, 02:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 08:24 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh