Register
Page 5 of 7 FirstFirst ... 34567 LastLast
Results 41 to 50 of 63
  1. #41
    Nghĩa trang xưa và tôi





    " Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ, Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào"!


    Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi hết chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời: tìm về nơi chôn nhau cắt rún, nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu , ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương giang khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa. Nổi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng, bởi ngổn ngang bao điều thúc bách. Ô hay , đau thương từ quá khứ như còn đâu đây , thoảng trên con hẽm về khuya khua đôi nạn gỗ hay bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước, một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu, nhưng xa hẳn thế giới đua chen, cần những bước chân ghé thăm và những nén hương lòng thắp lên...

    Trước đây mỗi lần đi qua khu vực này, tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc qui mô và nghệ thuật của nghĩa trang, và khi nhìn tác phẩm THƯƠNG TIẾC, lúc nào tôi cũng thấy bức tượng Người Lính sống động. Người LÍNH ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến. Trong tư thế nuối tiếc Đồng Đội, anh như còn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi. Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một đấu tích để lại. Tôi nghe nói, người công sản đã đổ hận thù lên cả NGƯỜI LÍNH bằng đồng, một tác phẩm điêu khắc hiếm có , bằng cách đập phá bệ tượng, giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi.

    Toàn cảnh đã đổi thay. Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất, chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này. Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi : Cổng TAM QUAN và đền TỬ SĨ.

    Từ cổng Tam Quan, hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ONG mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa .

    CON ONG KHÔNG THỜ HAI CHÚA,
    NGƯỜI LÍNH CHỈ CHẾT CHO MỘT NGỌN CỜ .



    Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn , nhìn thật rõ mới đọc được:

    VÌ NƯỚC HY SINH - VÌ DÂN CHIẾN ĐẤU.



    Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi. Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình. NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HOÀ : Nghĩa trang của những NGƯỜI LÍNH đã chết cho Quê Hương Việt Nam.Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền TỬ SĨ, ngự trên đỉnh đồi, ngày nào là nơi tôn nghiêm Vị Nguyên Thủ Quốc Gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong, ngày Quân Lực , ngày QUỐC KHÁNH.

    Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà , sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của Chính Phủ trước đây, vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ. Rừng bia mộ mênh mong nằm xen lẫn với cỏ cây u tùm, phân chia từng lô bởi những con đường đất. Rải rác đó đây là những ụ đất, những hố sâu, những cây cau su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ, còn lại là những ngôi mộ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói, có lẽ ba mươi năm nay , chưa một ai đến viếng. Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang, nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế. Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì đó trên mảnh đất này. Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại, tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm. Nhiều tấm bia bị đập bể, có những phần mộ bị dời vị trí. Một sự phá hoại qui mô đầy tính thù hận. Đột nhiên mắt tôi rưng rưng niềm phẩn uất.

    Người cộng sản đang chiêu dụ người Việt Hải ngoại về xây dựng đất nước, mời mọc đầu tư, cổ xuý hoà giải, vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả của những người đã nằm xuống. Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Mồ mã các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận, mồ mã nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẩn. Người cán binh cộng sản, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà , họ là ai ?Tất thảy là những người con dân Việt bất hạnh, là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng, phải được chia sẽ từng mảnh đất chôn cất, chia sẽ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù...

    Chiều xuống nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những ngôi mộ như hớn hở đi vào ống kính ,cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận ảnh vài tấm bia . Khi quay ống kính về phía ngôi tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI sừng sững trước mặt, tôi thật sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ này. Nhìn rõ những hình ảnh trên Màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những NGƯỜI LÍNH VÔ DANH ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình , ngày nay họ trở thành những vị anh hùng trong lòng Dân Tộc.

    Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của tháng ngày thao trường đổ mỒ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái anh gửi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ, tình quê hương đậm đà. Anh về Thủ đô, lòng em rộn rã. Những địa danh bỗng hiện ra, những trân đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thắm ngọn đồi chiến lược ? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành ?Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mãnh đất Miền Nam. Thế rồi Anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

    Bao nhiêu năm chiến tranh chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ nhưng không thể viết thành lời. Không thể viết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Người nằm đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quí giá . Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta biết bao điều suy nghĩ về sinh ký tử qui của con người, về tình tự Dân tộc muôn thuở của Quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản lại hô hào đoàn kết lại để chết cho một thiểu số người . Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức.

    Ôi quê hương ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của Dân tộc . Ta không dám mơ ước một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối. Kẻ nơi cỏi âm, người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nổi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn còn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thuỷ chung cho thế hệ ngày mai. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lây động theo nhịp thở của Anh từ lòng đất

    Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngú
    Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.



    Ngôi Đền TỬ SĨ, ngọn tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI, Vành khăn tang, rừng mộ bia, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. Những NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người VIỆT NAM hằng yêu thương Đất Nước và Giống Nòi.

    Chu Lynh (Thứ Năm, 26 Tháng 5 Năm 2011 20:57)
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  2. #42





    Từ Bản Nhạc “Người Di Tản Buồn”


    Tác giả là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù nhân chính trị, định cư tại Mỹ theo diện H.O. từ 1992, đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Bài viết dành cho kỷ niệm Tháng Tư năm nay là câu chuyện về từ một bản nhạc...

    ***

    Mỗi năm đến tháng tư tôi lại nhớ đến bản nhạc Người di tản buồn (NDTB) của nhạc sĩ Nam Lộc, những lời ca đầy tình cảm của bài hát nhắc nhở tôi về tháng tư 1975 mất miền Nam, dân chúng khắp nơi rơi vào cảnh hoảng loạn, người người tìm mọi cách di tản mong đến được bến bờ tự do, kẻ không may ở lại phải chịu tù đầy hay đủ thứ khổ ải sau đó.

    Đây cũng chính là bài hát tôi đã được nghe từ khi còn trong trại tù cải tạo ở VN và từ khi sang sống ở Mỹ đến nay tôi cũng đã nghe lại nhiều lần mà tôi nghiệm ra ở hoàn cảnh nào tôi đều đã có những cảm xúc sâu đậm, những suy tư miên man.

    Tôi nhớ rất rõ bản nhạc NDTB đã làm tôi xúc động mạnh nhất là khi lần đầu tiên được nghe bài hát này trong nhà tù cộng sản ở Việt Bắc vào một buổi tối giá rét cách nay gần ba mươi năm. Thật là một kỷ niệm thân thương đáng nhớ.

    Mùa đông năm 1980 chúng tôi bị giam ở trại VQ do công an quản lý, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt. Trong lán tôi có anh H, một đại úy trẻ có biệt tài đàn hay hát giỏi, anh hát những bản tình ca mà VC gọi là "nhạc vàng" xuất sắc không thua ca sĩ chuyên nghiệp thời trước 1975.

    Còn nhớ những năm sau khi miền Nam mất, "nhạc vàng" bị cấm chẳng những ngoài dân chúng mà còn tuyệt đối cấm ngặt trong các trại tù cải tạo. Biết thế nên H chỉ hát khi ở trong lán và sau khi được các bạn bảo đảm không còn tên lính canh nào đi xung quanh lán hay lảng vảng gần đâu đó có thể nghe được. Anh H có trí nhớ rất tốt, anh đàn hát được khá nhiều bản nhạc nổi tiếng ngày trước, những bản mà hầu hết đều quen thuộc với anh em đồng tù nên được anh em rất mến mộ. Nhưng bỗng một hôm anh em thấy anh tập đàn và hát nho nhỏ một bản nhạc lạ, hỏi ra mới biết bản nhạc vừa do một anh bạn trong lán được thân nhân đến thăm nuôi kín đáo đưa cho một anh đem vào được và trao cho H.

    Sau vài lần tập dợt, tối hôm đó, một tối mùa đông lạnh giá anh muốn hát cho các bạn trong lán cùng thưởng thức bản nhạc mới mà anh thấy nội dung rất thích hợp với hoàn cảnh và tâm tình của anh em tù. Nhờ vài anh canh chừng cẩn mật không có lính tuần canh quanh lán xong, số anh em còn lại ngồi sát bên nhau vừa để đỡ lạnh vừa để nghe cho rõ, tất cả quây quần quanh anh H. Sau khi tất cả anh em đã im lặng hẳn, anh mới bắt đầu ôm cây ghi-ta thùng sát vào người dạo đàn và chậm rãi cất tiếng hát; tiếng đàn bập bùng hòa quyện vào giọng ca thật trầm ấm, tha thiết, nhỏ nhưng vừa đủ cho anh em vây quanh thưởng thức hết được từng lời hát câu ca:

    Chiều nay có một người di tản buồn
    Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
    Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
    Và dâng dâng lệ vương
    mắt nhạt nhòa

    Bạn ơi đó là người di tản buồn
    Ngày ra đi lặng câm trong đớn đau
    Và đêm khuya về trong đôi mắt sâu
    Đời như chôn vào con phố u sầu

    Cho tôi xin lại một ngày
    Ở nơi nơi thành phố cũ
    Cho tôi xin lại một đời
    Một đời sống với quê hương

    Cho tôi xin lại đoạn đường
    Hàng cây vươn dài bóng mát
    Cho tôi an phận ngàn đời
    Bên bờ đê vắng làng tôi

    xxx

    Chiều nay có một người di tản buồn
    Gọi anh em còn ai hay mất ai
    Còn bao nhiêu thằng
    xông pha chiến khu
    Và bao nhiêu nằm trong chốn lao tù

    Ở đây có những chiều mưa rất nhiều
    Nhiều hơn khi hành quân trong tháng mưa
    Buồn hơn rừng thưa vắng tiếng bom
    Ngày vui ơi giờ đâu nữa không còn

    Cho tôi xin lại bờ rừng
    Ở nơi tôi dừng quân ngũ
    Cho tôi xin lại ngọn đồi
    Nơi từng chiến đấu bên nhau

    Xin cho tôi một lần chào
    Chào bao nhiêu người đã khuất
    Xin cho tôi một mộ phần
    Bên ngàn chiến hữu của tôi
    (Người di tản buồn.
    Nhạc và lời:Nam Lộc)

    Tiếng đàn lời ca đã dứt nhưng cả lán vẫn chìm trong im lặng. Nhiều anh đã không nén được nỗi nghẹn ngào. Trong hoàn cảnh đọa đày khổ ải tận cùng, thử hỏi không xúc động sao được khi biết được có người đã thoát được ra nước ngoài, nhưng vẫn còn nhớ tha thiết đến quê hương, nhớ đến anh em đồng đội cũ, đến thân phận những người trong tù như mình.

    Nghĩ đến xuất xứ của bài nhạc, đến "hành trình gay go của nó" từ một đất nước xa xôi vạn dậm qua bao nhiêu chặng kiểm soát gắt gao để cuối cùng đến tay người nhận, tôi cảm thấy vui vô cùng. Khi "màn văn nghệ bỏ túi với bản hát đặc biệt" chấm dứt, anh em lặng lẽ rời nhau về chỗ nằm riêng của mình. Trong đêm tối mùa đông lạnh giá, leo lét ánh đèn dầu ở cuối lán, dư âm bản nhạc khiến tôi miên man nghĩ đến thành phó Sàigòn đã mất tên, đến gia dình, bà con, bạn bè đang trong "tù ngoài".

    Hình ảnh Sàigòn ngày nào hiện dần lại trong trí tôi. Những ngày đầu đổi đời mà VC gọi là "giải phóng" cho đến hơn một tháng sau đó, trước ngày tất cả quân cán chính miền Nam trong đó có tôi lần lượt vào các trại tù cải tạo, là thời gian thành phố như biến dạng với bao thay đổi đau thương. Khắp đường phố nơi đâu cũng thấy những con người với nét mặt hốt hoảng, lo lắng xuôi ngược, bao cảnh chướng tai gai mắt của những "kẻ chiến thắng mới từ trong rừng ra", và bao nhiêu tin tức đồn đoán đầy buồn phiền...

    Nhớ đến cha mẹ già sau thời gian dài xa cách bây giờ hẳn già yếu lắm, biết chừng nào mới có ngày gặp lại; vợ và bầy con nhỏ dại từ ngày thiếu vắng chồng,vắng cha sinh sống khó khăn đến chừng nào. Lần thăm nuôi đầu tiên gần đây của vợ tôi từ ngày vào tù cứ ám ảnh tâm trí tôi mãi. Tuy có là niềm an ủi rất lớn nhưng cũng để lại trong lòng tôi bao nỗi thương cảm sâu xa, nhìn người vợ năm nào nay trông héo úa xơ xác mà não lòng. Mười lăm phút gặp gỡ trước cặp mắt cú vọ theo dõi của công an sau cả năm chuẩn bị, mấy tháng chờ đợi giấy phép, mấy ngày ngồi xe lửa ngất ngư từ Nam ra Bắc rồi lặn lội vượt suối băng rừng mới đến được nơi thăm nuôi, vợ chồng đã chẳng nói năng được với nhau bao nhiêu ngoài những cái nhìn nhau ái ngại, nghẹn ngào thương xót. Ngoài một ít tin tức chung chung mà tôi chắc là không đúng sự thật lắm cốt để tôi khỏi buồn phiền lo lắng, về tình hình cha mẹ con cái ở nhà, vợ tôi có báo một tin vui là anh bạn Ch. ở xa có gởi quà thăm hỏi. Vì có công an ngồi gần canh chừng, vợ tôi chỉ nói thế nhưng tôi biết đó là anh Ch. đã qua được Mỹ vào những ngày giáp 30-4-75. Tôi mừng cho gia đình anh và cũng mừng cho chính mình vì đã còn bạn cũ nhớ đến. Thế là ngoài tác giả bản nhạc NDTB nhớ đồng đội mà tôi cứ an ủi tự cho có mình trong đó, tôi còn được Ch, một bạn học xưa từ phương xa nhớ đến thân phận tù đầy của mình, thật là một chia sẻ tình cảm thân thương vô cùng hiếm quý. Tôi liên tưởng đến các bạn bè khác, bao nhiêu người được may mắn như Ch, bao nhiêu còn kẹt lại, hay đang trong một trại tù nào đó như tôi bây giờ...

    Sau buổi tối đặc biệt đó mỗi khi có cơ hội thuận tiện anh em lại yêu cầu anh H hát lại bản NDTB. Tất nhiên cảm xúc không như lần đầu được nghe nhưng những lời đầy tình cảm trong bản nhạc vẫn là nguồn an ủi lớn lao cần thiết trong hoàn cảnh tù đầy. Tự trong sâu thẳm tâm hồn, rất nhiều lần tôi thầm cảm ơn tác giả sáng tác bản nhạc tuyệt vời và cảm ơn người ca sĩ đã để hết tâm hồn vào lời ca tiếng hát giúp cho anh em đồng tù có những giây phút ấm lòng, một nguồn động viên tinh thần rất cần thiết mà trước đây chưa bao giờ anh em tù chúng tôi có được.

    Thế rồi sau gần mười năm lưu đầy khắp từ Nam chí Bắc tôi được thả về sống tiếp dưới chế độ cộng sản thêm mấy năm nữa trước khi đến đươc Mỹ theo diện HO, sống lại cuôc đời tự do mong đợi từ sau tháng tư đen 1975. Đấy là vào cuối năm 1992 tức là sau ngày mất miền Nam 17 năm. Thân quyến, bạn bè gần xa được tin tôi, người ở gần thì đến chia mừng khuyến khích, kẻ ở xa thì điện thoại hay gởi thư thăm hỏi an ủi, tôi hết sức cảm động và hạnh phúc. Dù vậy, những hình ảnh và lời lẽ thân thương trong bản nhạc NDTB, dường như vẫn vang vẳng trong tôi.

    Từ khi đến Hoa kỳ tôi đã biết được tác giả bản nhạc là nghệ sĩ Nam Lộc, qua báo chí,TV cũng như đài phát thanh. Ông là ngưòi rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt khắp nơi, không chỉ trong lãnh vực ca nhạc mà cả trong các hoạt động xã hội giứp đỡ đồng hương. Tôi cũng nhớ nhiều đến anh ca sĩ H, dò hỏi thăm các bạn HO đến Mỹ trước thì được một hai người cho biết loáng thoáng là sau khi được thả về H đã vượt biên và mất tích; Tin này làm tôi bàng hoàng nhưng không làm cho tôi tin chắc là có thật bởi người nói ra cũng chỉ được nghe lại từ một người khác, nên tôi vẫn hi vọng anh còn sống và đang định cư trên một đất nước tự do nào đó mà tôi chưa may mắn được biết. Anh là người trẻ tuổi có tài, can đảm và giầu nghị lực được các bạn đồng tù rất cảm mến. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh gầy yếu xanh xao trông thật xót xa của anh khi anh vừa ra khỏi xà lim biệt giam sau nửa tháng chịu cực hình đói khổ hành hạ chỉ vì tội hát nhạc vàng trong lán cho anh em nghe.

    Tôi đã nghe lại bản nhạc NDTB qua các làn sóng phát thanh, qua đĩa hát hay trên TV. và qua giọng hát của nhiều ca sĩ trong số tôi tâm đắc nhất là giọng hát của K.L khi trình bày bài hát này.

    Dù vậy, tôi vẫn thường thích nghe chính tác giả bài nhạc trỉnh bày tác phẩm của mình hơn. Trong những lúc trống vắng một mình trong phòng riêng tôi thường vào mạng Google/Nam Loc tìm nghe lại NDTB do chính tác giả trình bày với sự phụ họa của ban nhạc The Blue Sea Band. Mỗi lần nghe lại, tôi đều thấy lòng mình lắng đọng, ngậm ngùi nhớ về một quê hương mà tôi đã phải bỏ lại cùng với rất nhiều liên hệ thân thương.

    Năm 1992 tôi sang Mỹ thì bạn bè đồng đội của tôi còn kẹt lại ở VN rât nhiều. Tuy một số đã được tha nhưng một số lớn khác vẫn đang bị đầy đoạ trong các lao tù khắp từ Nam chí Bắc. Tôi băn khoăn không biết những anh bạn đồng tù ở chung trại năm xưa đặc biệt những anh đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm êm đẹp như anh ca sĩ H, người đã hát bài NDTB cho chúng tôi nghe, anh nhạc sĩ Đ chuyên độc tấu nhạc cổ điển tây phương, anh sửa đài N thỉnh thoảng rỉ tai cho biết tin tức nước ngoài...

    Tôi nhớ sau khi được tha tôi còn phải sống nhiều năm dưới chế độ VC rồi mới sang được Mỹ, đó là thời điểm những năm cuối thập niên 1980 tôi đã chứng kiến cảnh sa sút tệ hại của một Sài gòn mất tên, về mọi mặt văn hoá, đạo đức, xã hội...

    Dân chúng đại đa số nghèo nàn, khó khăn chật vật trong những hoàn cảnh khác nhau vì sự độc tài kềm kẹp, phân biệt đối xử của chế độ, nhưng nỗi đau thương nhất dưới mắt tôi là hình ảnh những người thương phế binh nguyên là những chiến binh VNCH ngày nào thì nay đang lê lết tấm thân tàn phế bán vé số kiếm sống nhọc nhằn qua ngày trên các lề đường thành phố.

    Rất may những năm sau này không rõ từ khi nào Cali đã có tổ chức chuyên gây quỹ để yểm trợ cho thành phần cựu quân nhân tàn phế kém may mắn này. Đó là Hội cứu trợ thương phế binh và cô nhi quả phụ được thành lập và hoạt động rất tích cực tại quận Cam. Mấy năm gần đây lại có thêm những đại nhạc hội "Nhớ ơn anh người chiến sĩ VNCH" được tổ chức quy mô với sự tham gia trình diễn tình nguyện của rất đông đảo nghệ sĩ tên tuổi trong đó nghệ sĩ Nam Lộc, tác giả nhạc phẩm NDTB, đã đóng góp công sức đặc biệt trong vai trò MC then chốt. Kết quả những buổi văn nghệ này thật là to lớn, tất cả những số tiền thu được đã được giao cho Hội trên đảm trách việc gởi về VN giúp đỡ các anh em thưong phế binh.

    Bài nhạc cũng khiến tôi liên tưởng đến các cộng đồng tị nạn VN trên khắp thế giới đặc biệt tại Hoa kỳ, Úc, Pháp ..., những nơi có đông đồng bào tị nạn mà dù ở đâu họ cũng không quên biến cố tháng tư mất nước, vẫn luôn thể hiện tinh thần chống cộng tích cực. Biết bao nhiêu đoàn thể tổ chức đã được thành lập dể biểu dương sức mạnh khi cần thiết và sẵn sàng yểm trợ các phong trào đối kháng trong quốc nội.

    Mội năm, tháng tư đến nhắc nhở ngày mất miền Nam tự do. Riêng trong tôi, từ một bản nhạc tình cảm đầy ắp niềm thương nhớ quê hương và tình người, tôi nhớ lại tháng tư 1975 đau thương nhất trong lịch sử cận đại của dân tộc mà ngoài những hồi tưởng và suy tư tản mạn, tôi còn nghĩ nhiều đến những diễn biến đang xảy ra khắp nơi với hi vọng nhiều vào một tương lai tốt đẹp sớm đến với tổ quốc VN thân yêu.

    Khanh Vũ
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  3. #43
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009

    Thương tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam


    Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khoa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam , người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng ! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệmẦ.đó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chổ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.
    1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huy ện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 dl. Năm 1927.
    Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sàigòn. Anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.
    2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường Ecole des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đầu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế, năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.
    3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sàigòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam, chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau, chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.
    Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó.
    Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thi không thay đổi được.
    Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sàigòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Uùy. Tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không? Anh cười và nói "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm". Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.
    Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sàigòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn Dù cử anh đi học kỹ thuật ở PAU (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-75. Thật ra thì ít khi về đây phần lớn thời gian ở trong đơn vị, và lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.
    Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang Ðại Uùy từ 1955-1964, qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá.
    Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND. Tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 Bộ binh tổ chức anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tấm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng trường Trung học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi.
    Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá, vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ". Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.
    Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
    Năm 1968, LÐ3ND về Sàigòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sàigòn Chợ Lớn.
    Năm 1969, được cử giiữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng thực thụ.
    - Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức.
    - Tháng 10 năm 1973 được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.
    Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lênh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sàigòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nữa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000$ tiền Việt Nam . Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.
    Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam .
    Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sàigòn về Cần Thơ xin hốt cốt lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning, bộ xương đã được thiêu liền khi đó, khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ , đem về Sàigòn ngay hôm đó.
    Vài ngay sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.
    Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi tôi cách xa nhau.
    Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.
    Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.
    Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Toạ đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp, các Cha, các Thầy cũng vậy thôi.
    Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ; hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc Trung học, đã là một Họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bầy ở Triển lãm, trong các năm tản cư 1946-1947 suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.
    Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo, ông luôn luôn lầm bầm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.

    Hồi Ký:




    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  4. #44
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009
    Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam

    Nguyễn Thái Dương


    Rời quê hương đã 25 năm mà hình ảnh cậu tôi thỉnh thoảng vẩn hiện về trong giấc ngủ chập chờn. Những ký ức về cậu tôi như là một bức tranh chấm phá. Cậu như là một thế giới riêng đối với tất cả mọi người.
    Còn nhớ lúc tôi khoảng 6,7 tuổi, gia đình ông ngoại chúng tôi ở bến đò Chợ Dinh. Nhà trên dành cho ông ngoại còn tất cả ở những căn nhà dưới. Gần đó là chùa Bà La của dòng họ Nguyễn Khoa. Là cháu ngoại đầu tiên, được ông ngoại cưng nhất. Thỉnh thoảng ông bảo mẹ tôi đưa lên nhà trên để ông cho ăn vài món dành cho ông. Cạnh nhà là một cây mộc lan rất lớn, đến mùa cả trăm cánh hoa nở ra thơm ngát cả vườn. Sau nhà là một vườn cam quít rồi đến một thửa đất rộng trồng bắp, sắn, rau cải tùy mùa. Cạnh sông là một nhà chòi cao mà trong những trưa hè nóng nực, mấy cậu cháu chúng tôi thường leo lên ngủ trưa để hưởng gió mát từ sông thổi vào.
    Một kỷ niệm vui mà tôi không bao giờ quên được là vào một dịp Tết, tất cả chúng tôi ăn mặc quần áo chỉnh tề lên chúc Tết ông ngoại để được lì xì. Sau đó cậu dẩn tôi, cậu Phước, cậu Lộc và dì Diệu Yến ra vườn để xem cậu đốt pháo mừng xuân. Cậu Lộc và dì Diệu Yến tuy vai vế lớn hơn nhưng cũng xấp xỉ tuổi tôi. Ra sau vườn đã thấy mấy cây pháo để trên một cái lon khá lớn. Chúng tôi xúm xung quanh để xem cậu đốt. Pháo vừa nổ là cả một mùi hôi thối bốc lên, quần áo chúng tôi lấm đầy đồ dơ. Thì ra cậu đã để cái lon trên một đống phân. Báo hại chúng tôi phải tấm rửa thay quần áo khác để đón xuân. Bị ông ngoại la, cậu cười khoái chí. Cậu thường xưng cậu và em với ông ngoại tôi.
    Vào khoảng năm 51, chúng tôi dọn lên nhà số 64 đường Gia Hội, sau này đổi tên là đường Chi Lăng, ngay lối đi vào đường Trung Bộ. Cậu lúc này đã đi làm việc trong thành nội. Cậu giống như một ông công tử đất Thần Kinh, luôn luôn mặc đồ bộ màu trắng và đặt cơm từ nhà hàng Morin. Cũng giống như ông ngoại, thỉnh thoảng cậu gọi tôi vào cho thưởng thức vài món ăn Tây. Trong vòng gia đình, ngoài cậu còn có anh Hiệp và anh Cẩm. Anh Hiệp là con bác Kinh, người anh kết nghỉa với ông già tôi. Anh Cẩm là chồng chị Yến, con của cậu Sỉ. Anh Hiệp đi Thiết Giáp, anh Cẩm chọn Pháo Binh. Sau này, cả ba đều trở thành những tướng lảnh của QLVNCH.
    Mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, cậu tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Vài người trong gia đình nói rằng đúng ra cậu là một nghệ sỉ hơn là quân nhân. Cậu có khiếu về hội họa, vẻ truyền thần và phong cảnh rất xuất sắc. Cậu cũng có khiếu về âm nhạc và giỏi về ngoại ngử, cả Anh và Pháp. Nghe nói cậu có yêu một người đẹp nhưng về sau người này đi Pháp lấy chồng bác sỉ, từ đó cậu không lập gia đình với ai cả. Trong tranh vẻ của cậu có phảng phất hình bóng của cô này. Có lẻ đây cũng là một vài huyền thoại trong cuộc đời của cậu.
    Trong khoảng thời gian cuối 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước, cậu chỉ huy một đơn vị nhảy dù tham dự các cuộc hành quân ở Bắc Việt và trở về Nam sau hiệp định Genẽve.
    Năm 62, sau khi tốt nghiệp trường Sỉ Quan Hải Quân Nha Trang, lên thăm cậu tại Sài Gòn, cậu nói: "Ðúng ra ngành Bác Sỉ thích hợp với mi hơn, để cậu nói với ông Quyền xem ông có thể giúp mi đi học Quân Y được không?" Cậu thường dùng chử "mi" của người Huế khi gọi tôi. Cậu là bạn học của HQ Ðại Tá Hồ Tấn Quyền lúc đó là Tư Lệnh Hải Quân. Tôi cũng chẳng để ý đến chuyện này cho lắm. Sau đó Ðại Tá Quyền là người đầu tiên bị đàn em sát hại trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào cuối năm 63.
    Cậu ở trong cấp bậc Ðại Úy khá lâu. Vài người nói rằng là Sĩ Quan Nhảy Dù mà cậu rất ít nói, cũng không ăn nhậu với bạn đồng ngũ nên đôi khi bị hiểu lầm từ cấp chỉ huy cũng như bạn bè.
    Ðến năm 66, hai cậu cháu có cơ hội gặp nhau ở Ðà Nẵng lúc cậu chỉ huy Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang hành quân tại Quảng Ngãi.
    Sau trận chiến thắng lẫy lừng của Lử Ðoàn 3 Nhảy Dù tại đồi Ngọc Văn, Kontum mà các anh em nhảy dù nói đùa là đồi Ngóc Văng, cậu được Tổng Thống Thiệu cho lựa chọn một trong 3 chức vụ: Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia hay Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Cậu nói rằng Sư Ðoàn 1 của Thiếu Tướng Trưởng quá xuất sắc, không thể làm hơn đưọc, vả lại ở Huế nhiều bà con quá còn ngành Cảnh Sát thì không thích hợp với mình. Với Sư Ðoàn 7 mình có nhiều cơ hội hơn. Cậu đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kể từ 1969.
    Hai vợ chồng tôi có xuống thăm cậu ở Ðồng Tâm vào đầu năm 70, cậu bảo ra ngoài dinh Tư Lệnh tại Mỷ Tho mà ở. Ông Thượng Sĩ quản gia mừng rỡ khi có khách: "Ông Tướng ít khi tiếp bà con, thỉnh thoảng mới ra Mỹ Tho một lần".
    Cuối năm 1971, tôi được thuyên chuyển về chỉ huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân trong nhiệm vụ yểm trợ cho hai Trung Ðoàn 11, 12 Bộ Binh hoạt động trong khu vực Mỹ Tho và Kiến Hoà sau hơn một năm chỉ huy Liên Ðoàn 3 Thủy Bộ yểm trợ cho Trung Ðoàn 32 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh trong chiến dịch U Minh. Cậu do dự khá lâu vì không muốn tôi ở gần cậu. Thỉnh thoảng, cậu gọi tôi qua phòng hành quân Sư Ðoàn vào buổi tối. Hai cậu cháu có dịp nói chuyện gia đình cũng như những lời chỉ bảo. Cậu thuờng dặn dò: "Mi còn trẻ, ở đơn vị chiến đấu nhiều, tương lai tốt, đừng để dính vào những chuyện rắc rối".
    Một câu nói mà tôi vẩn còn nhớ mãi đến ngày hôm nay. Khi nói chuyện về tham nhũng, cậu trầm ngâm nói: "Trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, mình không tham nhũng không có nghĩa là đàn em mình không tham nhũng, nhưng họ chỉ làm ăn vừa đủ sống. Nếu mình tham nhũng thì họ phải ăn gấp ba: một cho họ, một cho mình, một cho xếp mình. Bổn phận của cấp chỉ huy là phải giữ mình trong sạch". Tôi nhớ lại thời gian còn hành quân ở Cà Mâu, trong một lần mời Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh và Ðại Tá Thiều dùng cơm ở Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, hai ông thầy tranh luận về vấn đề tham nhủng. Phó Ðề Ðốc Minh cho rằng miền Nam không thắng được Cộng Sản là vì tham nhủng. Ông chỉ cần độ mười ngàn người trong sạch cùng lý tưởng là có thể đánh bức được Cộng Sản. Ðại tá Thiều cưòi trả lời nhẹ nhàng: "Bạn nói đúng trên lý thuyết. Trong thời chiến tranh, chỉ sống nhờ ngoại viện, một người lính hay cảnh sát lưong chỉ đủ sống mươi ngày. Nếu không kiếm chác thêm để nuôi vợ con thì họ đói hết chẳng còn ai để đánh Cộng Sản". Tôi chỉ biết ngồi cười không góp ý kiến. Cả hai ông thầy đều đúng trong một vài khía cạnh nào đó.
    Thỉnh thoảng nhận được trợ cấp từ Phủ Tổng Thống, cậu chia hết cho các Trung Ðoàn. Trong những lần hành quân phối hợp, vài vị Trung Ðoàn Trưởng nói đùa rằng tiền ông Tưóng cho ít quá, không biết thế nào chia cho đàn em.
    Cậu ở trong một trailer đơn giản do Quân Lực Mỹ để lại và hầu như ăn chay trường. Hàng tháng cậu đều gởi tiền về cho mẹ tôi. Thỉnh thoảng bà già vợ xuống Ðồng Tâm thăm chúng tôi, bà thường nấu đồ chay mời cậu. Cậu thường nói: "Mình ăn chay để đở chết lính".
    Cũng trong thời gian này, có dự tính giới thiệu một người bà con của bà Tổng Thống cho cậu. Tôi hỏi cậu chuyện này. Cậu cười: "Làm bà con với Tổng Thống thì khó làm việc lắm".
    Có vài điều mà khi còn ở Việt Nam , tôi không muốn chia xẻ với cấp chỉ huy. Mỗi lần có đoàn công voa Cửa Tiểu - Nam Vang là có lệnh điều động từ phòng hành quân Sư Ðoàn qua Kiến Hòa phối hợp với Trung Ðoàn 12, bỏ trống sông Tiền Giang cho dến khi đoàn công voa đi qua khỏi khu vực hoạt động của Sư Ðoàn. Cậu chỉ nói thoáng qua về những hoạt động tình báo chiến lược có từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm với sự phối hợp của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan. Những hoạt động này đòi hỏi ngân sách riêng không thể phổ biến đưọc.
    Ðây là khoảng thời gian thoả mái nhất trong đời binh nghiệp. Sự liên hệ với cậu đã giúp tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, giữ được sự trong sạch của mình mà không đụng chạm đến chuyện người khác. Tuy nhiên, đến cuối năm 72, một sỉ quan đàn em có gốc gác ở Mỷ Tho gặp tôi ngỏ ý hoán chuyển về Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức. Thấy mình ở chức vụ cũng khá lâu, tôi nói cho cậu biết ý định của mình. Cậu chỉ mỉm cưòi không nói năng gì hết. Tôi về Hạm Ðội thay vì Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức do trục trặc kỷ thuật tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rời Mỷ Tho được mấy tháng là xảy ra vụ còi hụ Long An mà báo chí thời đó có cơ hội tấn công chính quyền về vấn đề tham nhũng và buôn lậu. Vài anh em trong Hải Quân nói đùa rằng tôi đẻ bọc điều, vụ gì cũng tai qua nạn khỏi nhưng họ không biết rằng những chịu đựng mà tôi phải vượt qua vì đưòng binh nghiệp của mình. Vài lần nói chuyện phiếm với anh em: "Trong thời tao loạn, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết nhiều khi cũng ngất ngư".
    Về Hạm Ðội được gần một năm thì lại được biệt phái ra Ðà Nẵng cùng với HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc vì tình hình sôi động tại Hoàng Sa. Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, tôi được chuyển qua làm Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội I Duyên Phòng. Có vài nguồn tin nói rằng Hải Ðội sẽ là đơn vị đầu tiên đưọc trang bị các PTF nhưng sau đó mọi chuyện im luôn. Cậu vẫn tiếp tục dặn dò: "Mi ráng cẩn thận, Ðà Nẳng không khác gì Vũng Tàu, Mỷ Tho đâu". Vụ buôn lậu Mỹ Khê xảy ra sau đó, lại một lần lao đao.
    Cuối năm 74, được tin cậu đuợc bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV kiêm Vùng 4 Chiến Thuật trong khi ở Vùng 1 những biến chuyển dồn dập báo hiệu ngày tàn của cuộc chiến càng ngày càng đến gần. Tôi qua năn nỉ riêng Ðại Tá Thiều cho sửa tất cả các chiến đĩnh của Hải Ðội.
    Ðà Nẵng hỗn loạn trong trong những ngày cuối tháng 3 và sau cơn mưa pháo vào Tiên Sa đêm 29, Quân Ðoàn I cũng như Vùng I Duyên Hải xem như tan hàng. Trong những ngày cuối cùng ở Vũng Tàu sau khi di tản từ Ðà Nẵng và Cam Ranh, với tâm lý hoang mang và chán nản đến cùng cực, tôi cố gắng liên lạc lần cuối với cậu xem cậu có đồng ý để tôi về Cần Thơ không. Cậu chỉ cho một Sỉ Quan nhắn tôi cứ ở Vũng Tàu. Có lẻ cậu đã nhìn đưọc ngày tàn của cuộc chiến và những điều bất hạnh sẽ dáng lên đầu quân dân miền Nam .
    Qua Hoa Kỳ đang ở trại tỵ nạn thì những ngưòi qua sau cho biết cậu đã tự sát để khỏi đầu hàng địch quân. Cậu cũng như vài Tướng Lảnh khác của miền Nam đã chọn cái chết để giữ tròn khí tiết của người tướng không còn giử được thành. Dù rằng với một Quân Ðoàn IV đang còn nguyên vẹn, cậu đã không ra lệnh tử chiến để cứu sanh mạng của hàng trăm ngàn quân dân vô tội.
    Trong thời gian về Việt Nam làm việc cho một dự án tài trợ ngắn hạn, tôi thường lên chùa Già Lam ở Gò Vấp thắp vài nén hương trước bàn thờ thân phụ tôi và cậu. Nhìn nét mặt nghiêm trang của cậu trong bộ quân phục Nhảy Dù, những kỷ niệm gia đình lại hiện về trong tâm tưởng. Cậu vẫn sống mải trong lòng quê hương và dân tộc.

    Nguyễn Thái Dương



    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  5. #45
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009
    Hồi ký của một Tùy Viên:

    Những Giờ Sau Cùng Của Người anh hùng vị quốc vong thân

    Tướng Nguyễn Khoa Nam

    Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH

    (Trích sách "Nguyễn Khoa Nam ")


    Lời Tòa Soạn:
    Cuốn sách Nguyễn Khoa Nam là một tài liệu lịch sử rất giá trị, dầy gần 600 trang, gồm trên 60 bài viết của các tướng lãnh, chiến hữu cũng như thân nhân Tướng Nam. Ðặc biệt có bài cảm nghĩ của cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và nhiều hình ảnh, tài liệu chưa từng công bố.
    Muốn mua sách, xin liên lạc với Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết.
    Email: doanket@yahoo.com
    Ðiện thoại: (512) 346-5810
    Gía bán $20 Mỹ Kim
    Ông Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH, là Tùy viên Tư lệnh QÐIV-QK4 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông là người đã trực tiếp chứng kiến cảnh cả hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, Tư lệnh và Tư lệnh phó tự sát. Sau đây là chuyện ông kể trong "Hồi Ký Của Một Tuỳ Viên", trích từ sách "Nguyễn Khoa Nam ". Sách được ra mắt vào lúc 1 giờ chiều thứ bẩy 28 tháng Tư 2001 tại Hội Quán Little Saigon Radio.
    Tháng 4 năm 1975
    Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Ðộc Lập gặp Tổng thống, lúc ở dinh phó Tổng thống. Thời gian còn lại, Tư lệnh thường đến các Tiểu khu và Sư đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Ðịnh Tường, Kiến Tường và Châu Ðốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Ðịnh Tường và Long An. Sư Ðoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Ðịnh Tường còn Sư Ðoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiển 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Ðịch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.
    Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiển 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và tư dinh Tư lệnh. Vị trí pháo hướng đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.
    Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Ðéc. Trong lúc này, Tư lệnh rối bời lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu tướng ra lệnh các Tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân đoàn IV và nhất là giữ quốc lộ 4 đừng dd" VC cắt đứt. Tư lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Ðốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu khu và Sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
    Sáng ngày 24 tháng 4, Tư lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Ðịnh Tường, có tướng Trường tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao sao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.
    Áp lực địch vẫn nặng ở quốc lộ 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp Tư lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư lệnh viết Nhật Lệnh đưa thiếu tá Ðức, Chánh văn phòng chuyển đến phòng Chiến tranh Chính trị để đọc trên đài Phát thanh và Truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư lệnh và kèm theo là Nhật lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư lệnh phó vào gặp Tư lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư lệnh đã viết.
    Ðêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vỉnh Bình. Ðịch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, tiểu khu trưởng tiểu khu Vỉnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
    Sáng sớm 30 tháng 4, Tư lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Ðịnh Tường. Cuộc họp nhanh và xong bay về Cần Thơ. Trở lại Quân đoàn, nói rõ về phòng làm việc của Tư lệnh, phòng làm việc chia hai tầng. Tầng trên có sẵn từ trước, thêm tầng dưới là hầm dưới chân phòng làm việc chính thức. Ở hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư lệnh. Hầm làm việc này mới được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn.
    Tình hình sáng 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng thưa thớt đi lại, xe cộ hạn chế. Về tinh thần binh sĩ vẫn hăng say chiến đấu, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh.
    Vào 10 giờ sáng, tôi được báo cáo là Thiếu tá Chánh văn phòng rời văn phòng bỏ đi cùng với đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh đang ngồi và viết ở bàn làm việc. Tư lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:
    - Có gì không?
    -Trình Thiếu tướng, thiếu tá Chánh văn phòng và đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu."
    Tư lệnh điềm nhiên không giậnvà nói:
    - Ði hả! Ði làm chi vậy.
    Nói xong, Tư lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tỉnh không la không buồn. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 đi theo dõi tình hình ở Sài Gòn.
    Tư lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
    - Gọi đại tá Thiên gặp tôi.
    - Dạ.
    Ðại tá Thiên mới nhận chức vụ Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh kể từ sáng ngày 30 tháng 4.
    Bất chợt, tiếng của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:
    - Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .
    Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh và nói:
    - Tổng thống Dương Văn Minh đã .....
    Tôi nói chưa hết câu, Tư lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
    - Qua đã nghe rồi.
    Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư lệnh phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư lệnh. Qua điện thoại, Ðại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp gấp Tư lệnh, lần thứ hai, Ðại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.
    Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư lệnh được. Tư lệnh bấm loa gọi tôi:
    - Danh xuống đây tôi bảo.
    Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:
    - Danh tháo bỏ những ranh giới, những mủi tên trên bản đồ ." (Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ). Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mủi tên đỏ chĩa vào (Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:
    - Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.
    - Ðược rồi.
    Tư lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Ðộ 10 phút sau, Tư lệnh bấm loa gọi tiếp:
    - Danh vào tôi bảo.
    - Dạ.
    Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư lệnh nhìn tôi nói:
    - Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này.
    - Dạ.
    Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:
    - Trình Thiếu tướng, em đãtháo xong.
    Nói về phòng làm việc của Tư lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh.
    Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân cảnh ở phòng chờ đợi (Vọng gác 2) lên gặp tôi nói:
    - Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư lệnh. Tôi nói:
    - Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư lệnh."
    Tôi gõ cửa vào gặp Tư lệnh và nói:
    - Trình Thiếu tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu tướng.
    - Ðược, mời họ vào.
    Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tư lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này với tư thế sẵn sàng cách khoảng 4 thước, tôi sợ hai ông này ám sát Tư lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
    - Danh đi ra ngoài đi tôi nói chuyện.
    Tôi ấp úng trả lời:
    - Dạ ... em ở đây với Thiếu tướng.
    - Ðược rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
    - Dạ
    Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẻ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giả từ. Tư lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về.
    Tư lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi.
    Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Ðoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
    Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói: Tôi trung úy Danh, tùy viên Tư lệnh, xin lổi ai đầu dây? Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Ðàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:
    - A lô ai đó? A lô ai đó?
    Và tiếng lạ tôi không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư lệnh tôi không rõ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư lệnh phó gặp trung úy Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư lệnh và Tư lệnh phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để xử dụng máy PRC25 và đánh số thứ tự A, B, C, D ... để Tư lệnh nói chuyện kín hơn.
    Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư lệnh sữa soạn về tư dinh, Thiếu tướng nói với tôi:
    - Danh chuẩn bị xe đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
    - Dạ.
    Xe chở Tư lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư lệnh đến bên thương binh này hỏi:
    - Em tên gì?
    - Dạ em tên ...
    - Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
    - Dạ khỏe, em là Ðịa phương quân ở tiểu khu Vỉnh Bình.
    Tư lệnh nói tiếp:
    - Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
    Tư lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi quạ Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư lệnh đứng sát bên và hỏi:
    - Vết thương của em đã lành chưa?
    - Thưa Thiếu tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
    Với nét mặt buồn buồn, Tư lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư lệnh mếu máo:
    - Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
    - Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.
    Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
    - Em cố gắng điều trị .... có qua ở đây.
    Tư lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả, sự im lặng quá nặng nề, suốt trên đường về tư dinh, Tư lệnh không nói một lời nào.
    Về đến tư dinh, tôi thấy Quân cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Ngộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Ngộ, tôi nói:
    - Anh Ngộ bắt một con gà làm và luộc để Thiếu tướng dùng."
    - Dạ con gà nào Trung úy?
    - Ðàn gà nòi Thiếu tướng nuôi anh chọn một con.
    Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen ngịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Ngộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu tướng vào ăn cơm. Tư lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
    - Danh ngồi ăn cơm cho vui.
    Ði các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư lệnh, còn ở dinh Tư lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư lệnh hỏi:
    - Thịt gà đâu vậy?
    Tôi gượng cười nói:
    - Dạ mấy con gà Thiếu tướng nuôi ở sau, em bảo anh Ngộ làm một con đểThiếu tướng dùng.
    - Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn để nguội.
    Tư lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:
    - Dạ em ăn xong, Thiếu tướng dùng tiếp.
    Thiếu tướng nói:
    - Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.
    Vừa nói, Tư lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như ăn cây mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu tướng ra phòng làm việc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn trung úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
    - Có liên lạc với tướng Hưng không hè?
    - Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Tôi nói tiếp:
    - Dạ, Thiếu tướng muốn nói chuyện với Tư lệnh phó?
    - Qua muốn nói chuyện.
    Tôi nói với Tư lệnh:
    - Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó một số tần số PRC25 để lúc cần Thiếu tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.
    Tôi nói tiếp:
    - Ðể em đi lại dinh Tư lệnh phó nói mở máy PRC25 để Thiếu tướng nói chuyện.
    Tư lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh đến dinh Tư lệnh phó đối diện dinh Tỉnh trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽphải vào dinh Tư lệnh phó thì thấy phía bên trái trước dinh tỉnh trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mủi súng chỉa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
    - VC đã vô tới rồi.
    Tôi bảo tài xế:
    - Quay trở lại đi không ổn rồi.
    Tài xế lái nhanh về dinh Tư lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẻm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư lệnh:
    - Trình Tư lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh trưởng.
    Tư lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu tướng:
    - Em đi lần nữa, đểThiếu tướng nói chuyện với Tư lệnh phó. Tư lệnh nhỏ nhẹ nói:
    - Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
    - Dạ không sao!
    Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:
    - Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.
    Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Ngộ quản gia nói:
    - Em vừa thấy anh Thông ra cổng. Anh đã bỏ đi rồi.
    Bất chợt có một anh (tôi quên cấp bậc và tên):
    - Trung úy cần gì em giúp.
    - Anh muốn đến dinh Tư lệnh phó.
    - Ðược rồi để em đưa ông thầy đi.
    Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
    - Ði Honda tiện hơn Trung úy.
    Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư lệnh phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.
    Dinh Tư lệnh phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
    - Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
    Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời.
    Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:
    - Anh ráng chờ tôi một chút.
    Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:
    - Tôi trung úy Danh đừng bắn, tôi trung úy Danh đừng bắn. Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuột xuống đất. Gặp tôi, anh Nghĩa vừa nói vừa khóc:
    - Chuẩn tướng tự sát chết rồi Danh.
    - Lúc nào?
    - Mới đây, chắc có lẽ hồi nảy Danh nghe tiếng súng nổ.
    Anh nói tiếp:
    - Chuẩn tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư lệnh phó vào đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
    Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư lệnh phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
    - Thôi Danh đi về.
    Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: Tại sao Tư lệnh phó tự sát? Nếu Tư lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn tướng tự sát hay là ... tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bải đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió (giấy tờ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ dân hôi của vất ra đường từ hôm trước).
    Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư lệnh tôi vội vả nói:
    - Trình Thiếu tướng em đến dinh Tư lệnh phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư lệnh phó đã bắn vào ngực.
    - Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
    Tư lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư lệnh phó đã tự sát, chắc Tư lệnh sẽ tự sát theo.Tôi xuống nhà gặp trung úy Việt và nói Tư lệnh phó đã tự sát còn Thiếu tướng không biết thế nào? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.
    Lúc này khoảng 11 giờ đêm, cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mổi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang. Lần khác vào, Tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
    - Có gì không?
    - Em vào xem Thiếu tướng có sai bảo gì không?
    Tư lệnh nói:
    - Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
    Tôi nhỏ nhẹ nói:
    - Trình Thiếu tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu tướng?
    - Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
    Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
    - Danh cất tiền này dành để xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu tướng không dùng đểdành).
    Xong Tư lệnh đi vào trailer, tôi hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 400 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, tôi sợ Tư lệnh tự sát.
    Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư lệnh ra gặp tôi nói:
    - Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à?
    - Dạ em ngủ không được.
    Tư lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
    - Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
    Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nảy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Ngộ, Thiếu tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư lệnh có ý định gì?
    Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
    - VC tự động mở cửa vào dinh.
    - Anh bảo họ chờ tôi một chút.
    Tôi vội vả vào trailer để gặp Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
    - Trình Thiếu tướng, bọn VC đang vào dinh.
    - Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
    Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6, 7 người đang vẹt kẻm gai đi vào hướng cửa dinh. Ðến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lũng lẵng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẻm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẻm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
    - Anh làm gì ở đây?
    Tôi nói:
    - Tôi làm quản gia.
    Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
    - Anh cấp bậc gì?
    - Tôi Trung sĩ.
    Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mủi súng vào phía sườn tôi và nói:
    - Ði.
    Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:
    - Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.
    Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
    Súng ngộ và đẹp quá.
    Chị bới tóc tiếp theo:
    - Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
    Tôi nghe và thấy những việc trên cỏi lòng xe lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa luới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu P-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khact, trung sĩ Ngộ từ phòng Thiếu tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:
    - Thiếu tướng bảo Trung úy lấy thuốc lá hút.
    Có cớ vào gặp Tư lệnh, người mang AK bỏ thỏng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu tướng một điếu, 3 người mổi người một điếu (Tư lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc Capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư lệnh, người mang khẩu P-38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mủi súng hướng về phía Tư lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.
    Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lổ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư lệnh nằm yên, chắc Tư lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư lệnh lần nữa, thấy Tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngã lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
    Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu tướng. Thiếu tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
    - Ðêm qua, Danh ngủ được không?
    - Mệt quá em nằm nghỉ một chút.
    Tư lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư lệnh đến bên tôi hỏi:
    - Gặp tướng Trường được không hè?
    Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.
    - Dạ ... dạ. Tôi ấp úng trả lời. Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.
    Tư lệnh hỏi tiếp:
    - Có phải Trường không?
    - Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống tướng Trường.
    - Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
    - Dạ.
    Rồi Tư lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn trung úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư lệnh buồn buồn nói:
    - Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
    Tư lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư lệnh quay lại nói tiếp:
    - À, quên chìa khóa. Rồi Tư lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
    - Cái này của Danh, cái này của Việt.
    Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu tướng bật khóc. Tướng cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao?Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
    Tư lệnh sắp tự sát
    Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm thăm vợ con, còn trung sĩ Ngộ đang thập thò trước cửa. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong Tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt , Tư lệnh xoay qua bảo tôi:
    - Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
    - Dạ.
    Tôi tôi thầm nghĩ Tư lệnh và tôi độc thân chắc Tư lệnh nghĩ cách khác.
    Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước trung sĩ Ngộ thất thanh chạy la lên:
    - Ðại úy ơi! Ðại úy ơi! Thiếu tướng tự sát chết rồi.
    Trong lúc sợ hãi, anh Nghộ gọi tôi là Ðại úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hải hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thỏng xuống lòng Tư lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Ngộ thấy vậy vội nói:
    - Thôi mình chở Thiếu tướng đi bệnh viện.
    Tôi và anh Ngộ ôm chầm lấy Thiếu tướng vừa khóc vừa nói:
    - Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh qua ở lại với các em.
    Anh Ngộ nói tiếp:
    - Em đâu dám đến gần Thiếu tướng. Ðứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu tướng. Em thấy Thiếu tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu tướng nổ súng liền em chạy lại đâu kịp.
    Vừa nói anh Ngộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.

    Lê Ngọc Danh

    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  6. #46
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Có những cái chết hào khí ngất trời , cũng có những cái chết muôn người phỉ nhổ
    Cám ơn anh nvhn đã post lên để nghĩ , để nhớ đến ngày 30-4

  7. #47


    TIẾP BƯỚC

    Tráng khúc thơ treo đầu súng
    chân còn vững nhịp Quân Hành
    trăng soi hồng bia đá dựng
    sao ai nói núi sông buồn!

    Khắp nơi vang lời hy vọng
    Việt Nam Tổ Quốc Vinh Quang
    Tuổi Trẻ vươn vai Phù Đổng
    sao ai nói mộng xưa tàn!

    Từ trong màn đêm bi hận
    vùng lên theo nắng Xuân về
    điệu kèn giục theo trống trận
    cùng đi nối mạch tình quê

    Tâm thơ gởi người Bạn Trẻ
    mừng mai vào lễ xuất quân
    nối bước tiền nhân ngạo nghễ
    lên đường bảo vệ Quê Hương!

    Cao Nguyên
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  8. #48
    Tổ quốc đang cần lý tưởng của người lính Việt Nam Cộng Hòa




    TỔ QUỐC

    Có được giải đất cong cong như hình chữ S nằm hiền hòa bên biển nước trong xanh hôm nay, thì sinh mệnh của Việt Tộc phải trải qua những cuộc trường chinh cam go đầy máu lửa. Cũng nằm trong chiều dài lịch sử đầy tràn biến động đó. Một cuộc chiến tranh mang tính Ý Thức Hệ đã xảy ra trong bạo lực.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến kết thúc. Kết thúc như lời thơ của Thanh Nam trăn trở:

    Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
    Cờ còn nước đánh phải đành thua


    Hay như tiếng lòng than thở của Song Nhị:

    Canh bạc đã về tay Bạo Chúa
    Tình người Đạo nghĩa đã nhường ngôi


    Mới đó thôi mà đã 34 năm rồi! Ba mươi bốn năm. Một thời gian không dài so với dòng lịch sử chinh chiến của quê hương. Nhưng với một phần ba của thế kỷ đã đi qua. Rất đủ cho người đời hôm nay hay hậu nhân mai sau có cái nhìn ý nghĩa về chân lý của thế hệ Cha Ông.

    Thưa bạn đọc, đặc biệt bạn đọc trẻ tại quốc nội Việt Nam,

    Tất cả đã trở thành lịch sử. Bóng tối của chiến tranh đã đi qua, đó đây trên các nẻo đường của quê hương Việt Nam, cây cối đã xanh màu trở lại nhưng tương lai của con người vẫn còn vàng úa. Khắp nơi trên đường phố Hà Nội hay Sài Gòn, hàng ngàn cánh tay của dân oan đang đưa lên để đòi công chính. Và e ngại rằng, một ngày không xa, màu xanh cây cối của đất nước và ước mơ của con người Việt Nam sẽ mãi vàng úa, và lụi tàn dưới bước chân dày xéo của dòng người Đại Hán phương Bắc đang ào ạt tiến vào Tây Nguyên.

    Một sự thật đau lòng đang xảy ra trên Tổ quốc chúng ta. Bạn đọc nghĩ gì?

    Nhìn lại giòng lịch sử đã đi qua và biết được hiện trạng của quê hương hôm nay. Chúng ta mới khẳng định được cái công lao và sứ mạng bảo vệ Miền Nam được tự do-dân chủ và phú cường của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

    Muốn hiểu hết được ý nghĩa nói trên thì chỉ cần một phút thôi. Bạn đọc sẽ nhớ lại giòng lịch sử của 34 năm về trước. Khi những người bộ đội Bắc Việt đưa cao khẩu hiệu “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” quyết sống chết để giải phóng Miền Nam và đem lại sự hòa bình cho đất nước. Một thứ hòa bình mà nhà báo Phan Nhật Nam đã chua chát: “Một thứ Hòa Bình quái dị, đắng như thuốc mà quê hương trong cơn thập tử phải uống vào”.

    Đúng vậy! Câu nói này chỉ phát ra sau một ngày Hiệp định Paris được ký kết, nó như một thông điệp xám, một tiên đoán buồn, một phân ưu cho một nửa Tổ Quốc. Một chế độ tự do và dân chủ bị cưỡng bức đi vào một tương lai tăm tối, và chỉ còn là hoài niệm của bao người tranh đấu cho tự do.

    Quả thật như thế, trải qua 34 năm dưới chế độ đương thời, ngay cả những người dồn hơi cao cổ thét to khẩu hiệu "Không Có Gì Quý hơn Độc Lập Tự Do", chính họ vẫn không được độc lập tìm cho mình một nhân tài, để tự do bỏ phiếu cho người lãnh đạo quốc gia mà họ muốn. Giản đơn như thế mà vẫn không có được. Từ đó, ai đã từng sống trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới hiểu ra hết cái chân lý. Có khi trở thành một nguyên lý của thể chế Cộng Hòa là: Chính quyền do dân cử và vì dân mà phục vụ. Rất có thể chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tuyệt đối hoàn hảo, nhưng rất đầy đủ về quan điểm và khuynh hướng chính trị yêu nước để cho những người lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải noi gương theo. Và phải chăng cũng vì thế, gần ba triệu con dân Việt Nam đang lưu vong đều đồng niệm: Việt Nam Cộng Hòa là Tổ Quốc của tôi.





    DANH DỰ

    Tự ngàn xưa, tiền nhân truân chuyên vất vả lắm mới tạo nên được giang sơn hùng vĩ như ngày nay. Giang sơn này đã kết tinh và hun đúc nên một dân tộc mang tính chí nhân quật cường. Đó là Dân Tộc Việt Nam. Cho nên trong giòng sử xanh của Việt Tộc. Lời của Nguyễn Trãi đã khẳng định về danh dự của Quốc gia và nhân phẩm của Con người như một Thiên Cổ Hùng Văn :

    Như nước Đại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Song hào kiệt thời nào cũng có


    Thế mà,
    Hơn 60 năm dưới chế độ Cộng sản Việt Nam. Danh dự của Quốc gia và thể diện của Con Người chỉ tóm gọn trong một câu nói ngắn ngủi của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt: "Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét"

    Phải!

    Không nhục làm sao được khi hàng chục chị em phụ nữ Việt Nam phải bị cởi lột trần truồng cho một người đàn ông Trung Quốc, Đài Loan hay Đại Hàn ngắm nhìn để chọn vợ!

    Không nhục làm sao khi chính nhân viên Đại sứ quán Việt Nam ở Nam Phi buôn lậu sừng tê giác!

    Không nhục làm sao được khi chính phi công Hàng Không Việt Nam ăn cắp và chuyên chở hàng lậu bị nước Nhật lên án!

    Không nhục làm sao được khi ngư dân Việt Nam bị Trung Cộng bắn chết ngay trên lãnh hải của đất nước mình!

    Không nhục làm sao được khi anh chị em công nhân lao động bần hàn đang thất nghiệp, thì giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam mở cửa cho công nhân Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên đào hầm bới mỏ. Phải chăng anh chị em người Việt không biết lao động chân tay!

    Làm sao nói hết tất cả nỗi nhục của người dân Việt Nam!

    Từ đó. Người ta mới thấm thía nhận ra được sự danh dự của một Quốc gia và thể diện Con Người. Qua câu nói của người lãnh đạo Quốc gia và cũng là người đứng đầu đại diện cho Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, cố Tổng thống Ngô Đình Diệm từng tuyên bố: “Nếu tôi tiến, thì đồng bào hãy tiến theo tôi. Nếu tôi bỏ chạy, thì đồng bào hãy bắn chết tôi”.

    Và Danh dự của Quốc gia cũng như phẩm chất của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã được Người khí khái khẳng định với ngoại bang trước giờ lâm chung: “Tôi mới là Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Chứ không phải các ông ở Tòa Đại Sứ Mỹ. Tôi sẽ lập lại trật tự của đất nước tôi”.

    Danh dự là như thế đó!

    TRÁCH NHIỆM

    Nhìn lại lịch sử cổ đại đến cận đại của Đông sử hay Tây sử. Thì sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Nam chứng minh hùng hồn một điểm. Chưa có một quân đội của một quốc gia nào trên thế giới có số lượng tướng lãnh và binh sĩ tuẫn tiết theo lý tưởng nhiều như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử cận đại Việt Nam ghi nhận: Họ đã vì Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm mà quyên sinh.

    Thưa bạn đọc hải ngoại, bạn đọc quốc nội,

    Hiện nay, Tổ quốc Việt Nam chúng ta đang lâm nguy. Lâm vào nguy cơ Hán hóa của Trung Cộng dưới nhiều hình thức. Mấy hôm nay, các cơ quan truyền thông Việt Nam hải ngoại cho phát đi một đoạn phim về cuộc chiến trước đây tại Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai quân đội Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Trung Quốc. Các bạn có đau lòng không khi thấy hơn 100 người lính bộ đội Cộng sản Việt Nam mình trần thân trụi với những vũ khí thô sơ, không có tàu bè che chắn, nhưng họ vẫn dũng cảm đứng dàn hàng ngang trên các gầm đá giữa biển khơi, chơi vơi và cô đơn giữa một đoàn chiến hạm tối tân của Trung Cộng đang bao vây chặt họ. Những tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lên sau những tiếng hô “Tả Tả” và “Sát Sát” nghĩa là “Đánh Đánh” và “Giết đi Giết đi”. Những tiếng la hét, cầu cứu vang lên... và chỉ trong 26 giây đồng hồ, hơn một trăm người bộ đội, hơn một trăm con dân nước Việt chúng ta nằm xuống, nằm xuống như những tấm bia dành cho người tập bắn súng. Chỉ có biển khơi mới nghe lời trăn trối của họ!

    Tại sao hôm qua họ phải chết trên những gầm đá kia?
    Tại sao hôm nay những gầm đá kia phải dâng nhường cho Trung Cộng?

    Đau đớn hơn, chính những thước phim đó được Quân đội Nhân dân Trung Quốc làm tài liệu để đào tạo lính hải quân. Họ đào tạo cách giết người Việt Nam sao cho nhanh chóng hơn, sao cho man rợ hơn.

    Bạn trẻ ở quốc nội Việt Nam hãy xem thước phim đó để đánh thức lòng tự ái dân tộc của mình. Đây là lúc tốt nhất, thời điểm hợp lý nhất để bạn đặt TỔ QUỐC- DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM của người Việt Nam lên hàng tối thượng. Như lý tưởng cao đẹp của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

    Nhân ngày 30 tháng 4, xin gởi đôi dòng suy tư và tưởng niệm đến cùng bạn đọc.
    Trân trọng kính chúc quý vị có một Ngày Tưởng Niệm đầy ý nghĩa trong tình Việt Nam.



    Kính chào,
    Hậu sinh Nguyễn Duy

    http://forum.trungtamasia.com/yaf_po...aspx#post97368

    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

  9. #49
    Thợ Né nvhn's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    2,009
    NHỮNG BỨC ẢNH LỊCH SỬ.


    Việt-Nam Cộng-Hòa


    http://www.aihuubienhoa.com/D_1-2_2-82_4-851_5-50_6-1_17-91_14-2_15-2/
    -Chúa Kitô không có tay mà chỉ trông chờ đôi tay của chúng ta thay đổi thế giới ngày nay.
    -Chúa Kitô không có chân mà chỉ trông chờ đôi chân của chúng ta dẩn bước thế giới nầy đến với người.
    -Chúa Kitô không có môi miệng mà chỉ trông chờ môi miệng của chúng ta nói với mọi người.
    ------ ĐGH Gioan Phaolô II -----

    "Mặt em giận dễ thương "
    "Mặt vợ giận dễ sợ "

    Hình Hội Tết Fairgrounds 2012 @ San Jose.

  10. #50
    Ngày Quốc Hận Là Ngày Quốc Hận







    Biến cố 30-4-1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn.


    1.- DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975

    Từ 26-4-1975, quân cộng sản bao vây Sài Gòn từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3 CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá vòng đai phòng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.

    Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị võ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.

    Chiều 28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5 chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản.

    Hôm sau 29-4, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài Gòn. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài Gòn, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:

    “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 358)

    Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.

    Lúc 11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến phòng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại úy Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có gì bàn giao cả. Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:

    “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn) (vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30-4.)

    Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ, trong khi còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV vẫn còn nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.


    2.- NGÀY QUỐC HẬN


    Thông thường, người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không còn, mà người ta bỏ chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn.

    Ngay khi CS chiếm Sài Gòn, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR, The State of the World’s Refugees – Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4, tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ. Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy còn hát bài “Nối vòng tay lớn”, nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết tội “phản quốc”.

    Sau ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương trình ODP (Orderly Departure Program) và chương trình HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, thì tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đã bỏ nước ra đi.

    Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. Còn biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ Trần Văn Trạch đã từng nói một câu bất hủ: “Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi.”

    Trước khi quân cộng sản vào Sài Gòn, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài. Trong số các chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.” Sau khi Trần Văn Hương giao quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, thì hôm sau, ngày 29-4 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần Văn Hương trả lời như sau: “Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.” Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 352-355.)

    Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh, chế độ Cộng hòa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.

    Khi mới chiếm được miền Nam, cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Số liệu nầy theo dư luận chung, còn thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù “cải tạo”. (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon’s fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:

    Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”, để đổi vàng giả.

    Cộng sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc chấm công để lãnh lúa, dân chúng gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.
    Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.

    Như thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay. Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển, quy lụy Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc hận. Hai chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

    3.- NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

    Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

    Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự mình muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng khao khát ra đi tìm tự do của dân chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.

    Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự áp đặt của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu nước, người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam.

    Hai sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, thì ở trong nước, dân số tăng lên mấy chục triệu người.

    Vì vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số 342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng thêm những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó, ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày27-4-2003, và từ đó là nơi diễn ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.

    Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ý nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và những người làm tay sai cho CS mới cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xóa bỏ được.

    Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại vì Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ vì một lý do đơn giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng hơn được.


    TRẦN GIA PHỤNG
    (Toronto, 01-02-2012)
    thời gian còn đủ không em
    cho mình nhớ lại mông mênh tình người
    @};-

 

 

Similar Threads

  1. Thời gian và kỷ niệm ...
    By hoangtruc in forum Không Gian Riêng
    Replies: 53
    Last Post: 10-02-2015, 10:17 AM
  2. Ảo Tưởng
    By chieubuon_09 in forum Tùy Bút
    Replies: 8
    Last Post: 08-13-2014, 08:48 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 01-14-2012, 05:30 AM
  4. Mỹ tạo ra 200 ngàn việc làm vào tháng 12
    By Lotus in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 0
    Last Post: 01-10-2012, 11:07 AM
  5. Vần thơ tháng hạ
    By Man Ho in forum Thơ
    Replies: 18
    Last Post: 11-25-2011, 02:18 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 05:34 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh