Register
Page 112 of 332 FirstFirst ... 1262102110111112113114122162212 ... LastLast
Results 1,111 to 1,120 of 3313
  1. #1111
    Vừa ăn sukiyaki (một loại lẫu của người Nhật ăn với thịt bò) vừa nghe nhạc sukiyaki




    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  2. #1112
    Hôm nay nghe nhạc cổ điển một chút.

    Bài Bolero dài khoảng 15 phút, giai điệu dập dồn từ nhỏ đến lớn. Nên nghe bằng headphone nếu sài computer để cản bớt tiếng ồn bên ngoài.

    ***
    Maurice Ravel (7 tháng 3 năm 1875 tại Ciboure – 28 tháng 12 năm 1937 tại Paris), tên thánh là Joseph Maurice Ravel, là một nhà soạn nhạc Pháp nổi tiếng với những giai điệu, kết cấu và hiệu ứng của dàn nhạc và nhạc cụ. Phần lớn các tác phẩm nhạc piano, thính phòng, nhạc hát và nhạc cho dàn nhạc của ông đều đã phổ biến với các buổi hòa nhạc.

    Cùng với bậc đàn anh Claude Debussy, Ravel là nhân vật có nhiều ảnh hưởng nhất đến âm nhạc Pháp trong thời đại của ông và là đại diện chính của trào lưu có tên ấn tượng vào đầu thế kỉ 20. Tác phẩm của ông, không đồ sộ về mặt số lượng (86 tác phẩm nguyên bản cùng 25 tác phẩm chuyển thể hoặc soạn lại cho dàn nhạc), là thành quả của sự kế thừa phức tạp từ Couperin và Rameau cho đến những sắc màu và giai điệu của nhạc jazz, cùng những ảnh hưởng mà sau đó đã phản hồi trở lại Tây Ban Nha.

    Các tác phẩm dành cho piano của Ravel, như Jeux d'eau, Miroirs, Le tombeau de Couperin và Gaspard de la nuit, đòi hỏi một sự điêu luyện của người biểu diễn, các tác phẩm dành cho dàn nhạc, như Daphnis et Chloé và bản cải biên Pictures at an Exhibition của Modest Mussorgsky, lại sử dụng âm thanh và nhạc cụ một cách đa dạng.
    Ravel nổi tiếng nhất với tác phẩm Boléro (1928) dành cho dàn nhạc giao hưởng, mặc dù đây lại là tác phẩm mà Ravel cho là tầm thường và ông từng mô tả Boléro như "một bản nhạc dành cho dàn nhạc mà thiếu âm nhạc".[1]


    Trong khi nhiều nhà phê bình âm nhạc đều khẳng định rằng Ravel chịu ảnh hưởng từ Debussy nhưng Ravel một mực phủ nhận điều đó. Thay vào đó, ông cho rằng mình chịuu ảnh hưởng từ Wolfgang Amadeus Mozart và François Couperin. Tuy nhiên, rõ ràng cả Ravel và Debussy mang đậm phong cách của chủ nghĩa ấn tượng. Tuy nhiên, có nhiều điểm để Ravel khác biệt với Debussy (và những điểm này đáng chú ý hơn)

    • Ngoài Debussy, ông cũng chịu ảnh hưởng từ nhiều phong cách âm nhạc khác nhau trên thê giớiː jazz của châu Mỹ, nhạc của châu Á và các khúc dân ca truyền thống của các quốc gia châu Âu. Ông cũng từng tuyên bố thẳng thừng rằng ông không viết một tác phẩm nào mà không chịu ảnh hưởng của Edvard Grieg.[2] Ravel cũng chịu ảnh hưởng của Camille Saint-Saëns, Erik Satie và Modest Mussorgsky. Xét một cách công bằng, Ravel tôn trọng hình thức cổ điển hơn Debussy. Âm nhạc của ông gần gũi với phong cách của Jean-Philippe Rameau hơn là Jules Massenet.[4]
    • Ravel không cho thấy ông là một nhà soạn nhạc theo chủ nghĩa ấn tượng đơn thuần. Trong tác phẩm Theo phong cách của Borodin, Ravel đã bắt chước đáng kinh ngạc khi vẫn giữ nguyên bản gốc. Còn ở A la maniere de Emmanuel Chabrier với độ phức tạp lớn hơn, Ravel đã lấy chủ đề từ Faust của Charles Gounod để biến đổi theo phong cách của Chabrier. Thậm chí khi viết với phong cách của người khác, chất Ravel vẫn dễ nhận thấy và có thể công nhận rằng nếu xét các tác phẩm này, ông vẫn là một nhà soạn nhạc.

    Những tiết tấuu nhảy múa luôn xuất hiện trong các tác phẩm của Ravel. Hòa thanh của ông thường ấn tượng về kỹ thuật. Nó được mở rộng phạm vi điệu tính bằng cách sử dụng những hợp âm không thông dụng và điệu tính kép. Các giai điệu của ông đôi khi có xu hướng điệu thức. Những thủ pháp nhắc lại, mô tiến và biến đổi được dùng nhiều hơn thủ pháp phát triển bình thường. Ngoài ra, ông còn là một cách tân lớn cho piano.

    Ravel không theo đạo, có thể ông là người theo chủ nghĩa vô thần. Có lẽ thế mà ông không ưa các tác phẩm mang có tính chất tôn giáo của Richard Wagner. Thay vào đó, Ravel ưa các yếu tố thần thoại.[2] Ravel là một con người rất tỉ mỉ trong việc viết bản thảo. Không may là các ấn bản của ông dễ bị lỗi. Chính vì thế, ông ngồi làm việc với Nhà xuất bản Durand để sửa lại. Ví dụ, sau ấn bản đầu tiên của L'enfant et les sortilèges, Ravel phát hiện ra tới 10 lỗi trên mỗi trang in. Dù mơ ước sáng tác một số lượng lớn tác phẩm, Ravel vẫn rất cẩn thận với các bản thảo, cẩn thận đến nỗi Igor Stravinsky đã ví Ravel với một "thợ sửa đồng hồ Thụy Sĩ".

    Cũng nói thêm một điều rằng vào năm 1928, Ravel khuyên các nhà soạn nhạc nên ý thức cả về cá nhân và dân tộc. Năm đó, Ravel đến Mỹ và Canada bằng tàu hỏa. Khi các nhà soạn nhạc Mỹ miễn cưỡng coi jazz và blue là phong cách âm nhạc dân tộc. Ông phát biểuː
    “ Nỗi sợ hãi lớn nhất của họ là thấy bản thân phải đối mặt với những thôi thúc không lý giải được phá bỏ những quy luật kiểu học thuật hơn là gây ra sự nhầm lẫn về nhận thức cá nhân. Bởi vậy sau đó, chính những nhạc sĩ này, làm rất tốt theo kiểu trưởng giả, họ sáng tác âm nhạc theo những quy luật cổ điển của châu Âu ”

    Trong một lần George Gershwin gặp Ravel để mong học hỏi từ nhà soạn nhạc đàn anh, Ravel đã đặt một câu hỏi rất có ý nghĩaː
    “ Tại sao ông lại nên làm một Ravel hạng hai trong khi ông có thể trở thành một Gershwin hạng nhất? ”

    Là một nhạc công chơi trong dàn nhạc giao hưởng, Ravel đã nghiên cứu khả năng của từng nhạc cụ một cách kỹ lưỡng để định rõ hiệu quả của chúng khi biểu diễn. Đó là lý do vì sao ông chuyển soạn thành công các tác phẩm của các nhà soạn nhạc khác.[2]

    Ravel – bolero

    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  3. #1113
    Lời giới thiệu: Xin mời quí vị đọc một bài viết của một cựu Sỉ Quan Hoa Kỳ đã từng chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng Nghị Sỉ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến Việt Nam. Thú thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiêu biết về cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu Hoa Kỳ được hiểu rỏ hơn cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện sống để viết - THG
    Chăn Gối với Kẻ Thù / Sleeping With the Enemy
    Author: James Webb, THG chuyển ngữ Source: Bất Khuất
    Reposted on: 2017-02-28

    Tác giả James Webb, cựu chiến binh với huân chương cao quý trong chiến tranh Việt Nam, cựu nghị viên tiểu bang Virginia, người khinh thường chính sách của chính quyền Washington.

    Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.
    Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

    Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

    Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam.



    Harold Ickes / Bill Clinton

    Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam.


    Jane Fonda và John Kerry, hai tên phản chiến chủ bại, giúp Cọng Sản bành trướng trên thế giới

    Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

    Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

    Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa… Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”

    Christopher Dodd / Thomas Downey

    Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau, “ chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay. ”

    Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

    Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt: “Tôi không còn đạn dược.” “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.” “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”

    Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là một tháng đen tối và tuyệt vọng.

    Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.

    (còn tiếp)
    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  4. #1114
    (tiep theo va het)

    Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

    Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận, “Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao? ” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô cùng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn..

    Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói :


    Bert schneider và cuốn phim "Hearts and Minds"

    "Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”

    Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.

    Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

    Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.

    Tại sao?

    Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.

    Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

    Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.


    Nixon vs McGovern

    Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

    Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “ Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

    Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

    Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này bị lịch sử phán xét.

    Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

    Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn "ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng" trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”

    Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  5. #1115
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431
    Xô gắn clip phim này lên cho anh Hiệp, anh Tôm & ACE coi chơi cuối tuần (có thể anh Hiệp đã xem qua rồi). ACE nhớ bấm hai mũi tên ở góc phải dưới cùng để mở màn ảnh lớn ra.

    _ Đường hầm vận chuyển ma tuý của tụi cartels và chiêu thức "sử dụng băng đảng để triệt hạ băng đảng" của DEA & CIA Mỹ là có thật 100%. Còn cảnh sát Mễ thì khỏi nói tới rồi. Tham nhũng cả đến những tay gộc trong guồng máy chính phủ luôn chứ đừng nói tới cảnh sát lương chưa đến 800 Dollars hàng tháng.


  6. #1116
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431

    _ Đoạn rước "khách quý" về đất Mỹ và "shoot out" ở biên giới, trong phim "SICARIO." Khúc phim này quay ngay cổng biên giới (El Paso) chỗ anh đi công tác đó anh Tôm.



  7. #1117
    XXG. thanks for good movie.

    Mới coi xong.

    Mặt tối của chiến tranh về drug giữa biên giới USA-Mexico.

    CIA, DEA, FBI dùng những mật báo viên và điểm chỉ viên là cần thiết để khám phá ra đường dây buôn lậu thuốc và đường hầm.

    Không có mật báo viên thì làm sao có thể tới tận hang ổ của ông trùm.
    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  8. #1118
    Biệt Thự chieubuon_09's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,162
    Huynh Hiệp, ở nơi anh cư ngụ lái lên San Diego không xa, huynh đi bộ qua biên giới USA-Mexico chưa ?

    Chiều đậu xe bên USA đi bộ qua bên Mexico, ăn hàng, đi chung với ông anh, xe họ chạy thấy sợ bạt mạng.

    " Đoạn rước "khách quý" về đất Mỹ và "shoot out" ở biên giới, trong phim "SICARIO." Khúc phim này quay ngay cổng biên giới (El Paso)"

    Vừa xem xong
    Last edited by chieubuon_09; 03-04-2017 at 11:25 PM.

  9. #1119
    Quote Originally Posted by chieubuon_09 View Post
    Huynh Hiệp, ở nơi anh cư ngụ lái lên San Diego không xa, huynh đi bộ qua biên giới USA-Mexico chưa ?

    Chiều đậu xe bên USA đi bộ qua bên Mexico, ăn hàng, đi chung với ông anh, xe họ chạy thấy sợ bạt mạng.

    " Đoạn rước "khách quý" về đất Mỹ và "shoot out" ở biên giới, trong phim "SICARIO." Khúc phim này quay ngay cổng biên giới (El Paso)"

    Vừa xem xong
    Chào chieu buon,

    Cách đây hơn 10 năm có qua Mễ chơi. Lái xe mất chừng 2 tiếng.

    Bên này biên giới và bên kia biên giới khác nhau một trời. Bên này rất trật tự nhà cửa tươm tất, vừa qua bên kia là thấy nhà cửa luộm thuộm.

    Cảnh giầu nghèo thấy khác biệt.

    Thành phố thì khỏi nói xô bồ. Lái xe mà chỉ sợ đụng. Trước khi qua biên giới có mua bảo hiểm xe bên đó để ngộ nhỡ có gì xảy ra.

    Một lần qua biên giới Mễ là chạy.
    Last edited by Lê Nguyễn Hiệp; 03-05-2017 at 07:50 AM.
    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

  10. #1120
    giới thiệu phim Donnie Brasco. Do hai tài tử gạo cội.

    Al Pacino vai ông trùm. Al thì lúc nào đóng vai cũng có vẻ ngô ngố.

    Johnny Depp vai undercover, Donnie Brasco, một nhân viên FBI.

    Phim này cho thấy nghề undercover rất nguy hiểm, căng thẳng mỗi ngày. Không nhờ những người anh hùng này thì rất khó mà bắt được ông trùm vì phải có chứng cớ.

    Tánh mạng như ngàn cân treo sợi chỉ. Bị phát giác là ông trùm thủ tiêu liền.

    Rút cục hoàn tất công tác, Donnie chỉ được phần thưởng là mề đay vàng và cái check $500 trước mặt vợ và 3 cô con gái. Quả là bạc bẽo.

    Gia đình Donnie đã phải đổi tên và sống ẩn dật để tránh sự trả thù của băng đảng.



    Mafia Ý coi như tạm yên. Nhưng bây giờ mối lo là mafia gốc Latino vùng nam Mỹ. Điển hình băng MS gốc latino.
    Last edited by Lê Nguyễn Hiệp; 03-05-2017 at 04:48 PM.
    Cãi Lộn, Cãi Lại, Cãi Lộn Nữa.

 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 07:22 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh