Register
Page 1 of 6 123 ... LastLast
Results 1 to 10 of 52
  1. #1

    Question Hình ảnh người Do Thái xưa và nay

    Nguồn http://www.jewishhistory.org.il/history.php
    http://www.aish.com/jl/h/
    Sưu tầm

    Sau đây là hình ảnh người Do Thái thời xưa đến thời nay

    Cuộc sống của người Do Thái ở Ba Lan trước khi chưa có Chiến Tranh thế giới thứ II



    Giai đoạn người Do Thái bị trù dập bị đem đến trại tập trung , những cuộc di tản chạy trốn



    hình ảnh Do Thái thời xưa
    [HIDE]
    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

  2. #2
    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái[/HIDE]

  3. #3
    hình ảnh Do Thái thời nay



    Những tẩm ảnh người Do thái thời nay , xưa với nay vẫn không khác biệt
    [HIDE]
    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái

    do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái do thái[/HIDE]

    Người Do Thái vẫn sống theo lối sống truyền thống mà tổ tiên họ để lại ,

    Người Do Thái sống vui vẻ với những người xung quanh .

    Người Do Thái sống Tách biệt với lối sống hiện đại vội vã

    Người Do Thái là những người từ thế kỷ của quá khứ

    Người Do Thái quá khác biệt với đa số nhân loại


  4. #4

    Question Ngôn Ngữ Kinh Thánh tiếng Hy Bá Lai




    Lời nói đầu


    Nếu có dịp nghiên cứu về cổ ngữ Hy bá lai, quí vị sẽ thấy vô cùng thích thú.Hy bá lai là một cổ ngữ từ ngàn xưa, bắt nguồn nơi thổ ngữ Tây bắc Se mi tíc. Dòng dõi Áp ra ham được mệnh danh là dân Hê bơ rơ . Trải qua hàng ngàn năm ngôn ngữ Hy bá lai vẫn giữ được tính chất thuần túy của nó. Cho đến khi người Y sơ ra ên bị lưu đày qua A si ri, Ba by lôn và bị các đế quốc đô hộ thì ngôn ngữ nầy bị pha trộn nhiều với tiếng Á ra mai. Hy bá lai văn có 22 chữ cái với 27 hình thức khác nhau, phát ra độ 30 âm. Cổ ngữ nầy vốn không có nguyên âm, toàn là phụ âm. Mãi đến cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII S. C. mới có một nhóm học giả Hy Bá Lai điểm thêm nguyên âm, tức là những dấu chấm, dấu gạch hay dấu phết cặp theo các phụ âm. Tuy nhiên không có một nguyên âm nào tách rời. Nhờ điểm thêm nguyên âm nên chữ Hy bá lai dễ đọc và dễ hiểu hơn. Một đặc điểm nữa là không có một vần nào bắt đầu bằng một nguyên âm cả chỉ trừ ra liên tự “và” trong trường hợp bị biến thể khi đứng trước một vài tiền trí từ hay phụ âm nào đó thì cách viết và phát âm giống như một nguyên âm. Hiện nay tại Hy Bá Lai người ta không dùng nguyên âm mà chỉ dùng toàn phụ âm thôi, vì thế rất khó đọc và khó hiểu. Thỉnh thoảng mới tìm thấy một ít sách có cả nguyên âm và phụ âm. Lối đọc và viết đều từ phải sang trái (chiều ngang). Loạt bài nầy không phải là học về Hy bá lai , nhưng chỉ nghiên cứu ý nghĩa thuộc linh của mẫu tự Hy bá lai. nếu có chỗ nào sơ sót kính xin quý vị lượng thứ cho. Xin đa tạ.


    Chữ Thứ Nhất ALEF Con Bò Đực Số tiêu biểu: 1





    א


    Chữ thứ nhất của tự mẫu nầy là chữ ALEF có nghĩa là con Bò Ðực. Nó là chữ thứ nhất đứng trước các chữ khác, như con bò kéo xe hay kéo cày đều đứng trước các vật ấy. Kinh Thánh thường dùng con bò đực tượng trưng cho ba điều: Sức mạnh – Phục vụ Hi sinh.


    Sức Mạnh


    Nói đến bò đực, chúng ta không quên câu chuyện lịch sử trong sách I Các Vua 19:19-21 cho biết khi Ê li sê được Ê li gọi thì người đang cầm cày, trước mặt ông có 11 đôi bò, ông cầm đôi thứ 12. Khi ông từ giã thân nhân để thi hành chức vụ thì đã giết đôi bò, lấy cày làm củi chụm lửa nấu thịt đãi các tôi tớ mình, đoạn ông theo Ê li và hầu việc người. Ðó là đặc điểm của bò đực, nó có sức lực hầu việc chủ và cũng hi sinh khi chủ cần đến.


    Ngày nay, thật khó tìm được những người có đủ ba điều kiện như trên. Tìm người có sức mạnh về thể xác thì rất dễ, nhưng muốn tìm một người khỏe mạnh phần thuộc linh lại là một việc khác. Ngày nay người ta chú trọng đến sự mạnh khỏe phần thể xác, điều ấy không có gì là sai cả, vì là một điều cần cho sự sống của con người. Nhưng vấn đề đáng chú ý là người ta mạnh để mà phạm tội, mạnh trong sự hư hoại, mạnh để làm những việc xấu xa ô uế như đã mô tả trong thơ La Mã 1:29-32. Người ta dùng hết sức mạnh để tiêu phí cho tội lỗi thì sức mạnh đó không có ích gì cho bản thân người ấy cũng như không ích lợi cho cho gia đình và xã hội.


    Phục Vụ


    Sự làm việc là một điều cần yếu cho sự sống của con người. Thời xưa, người La Mã và Hi Lạp không thích làm việc. Họ cho rằng nếu họ bắt tay làm một việc gì thì sẽ mất thể diện, nên mọi việc đều do đầy tớ làm cả. Về sau có người đứng lên đả phá lề thói ấy và khuyến khích mọi người phải làm việc vì là ích lợi cho thân thể, cũng ích lợi cho người khác nữa!


    Hi Sinh


    Con bò cũng tượng trưng cho sự hi sinh. Trên các phương tiện truyền thông: truyền hình, báo chí, chúng ta thường thấy người ta nói đến tinh thần yêu nước, xây dựng đất nước và thường kêu gọi sự đóng góp, hi sinh. Nhưng trên thực tế ít người dám hi sinh thật sự (hội đồng loài chuột).


    Chữ Thứ Nhì BET Nhà Số tiêu biểu: 2





    ב


    Chữ BETH là chữ thứ nhì trong mẫu tự Hy bá lai. Phát âm như chữ B. Nghĩa chữ nầy là nhà. Một lâu đài giống như một mảnh vườn, nó cần được săn sóc giữ gìn bởi chủ, nếu không thì gai gốc, cỏ dại sẽ phủ đầy mảnh vườn.


    Chữ Thứ Ba GIMEL Con Lạc Đà Số tiêu biểu: 3





    ג


    Chữ thứ ba trong mẫu tự Hy bá lai là GIMEL (như chữ G). Chữ này có nghĩa là lạc đà. Con lạc đà trong Kinh Thánh được biết có ba công dụng rất quan trọng: Ði đường xa, mang nặng và chịu đựng.


    Ði Ðường Xa


    Lạc đà là một con vật có biệt tài đi trong sa mạc rộng lớn mênh mông rất bền bỉ, không con thú nào bì kịp. Nó giống như một chiếc tàu lênh đênh trên “biển cát”. Cơ thể nó có thể chịu đựng sức nóng như thiêu, có thể đi nhiều ngày trong sa mạc, không uống nước mà không mệt nhọc gì cả. Nó cũng có tài định hướng đi rất đúng. Nó không biết nhìn trời để “lần bước theo ngôi sao” như các vị bác sĩ ngày xưa, cũng không có địa bàn như những vị thuyền trưởng trên đại dương bát ngát mà vẫn đi đúng đường trong sa mạc mênh mông như sa mạc Sahara chẳng hạn.


    Một khách lữ hành trên lưng lạc đà ở giữa sa mạc, điều cần yếu nhất cho người ấy là giếng nước, nếu không có nước thì thật là một tai nạn! Có hai điều làm cho viễn khách lo ngại cho cuộc hành trình của mình trong sa mạc là:


    1. Ði sai đường nên không tìm thấy giếng nước.


    2. Kẻ thù làm cho các giếng nước có chất độc.


    Trong trận chiến tranh giữa người Âu châu và Ả rập khi xưa, binh sĩ Âu châu thường phải thử nước của các giếng trong sa mạc trước khi uống vì sợ ngộ độc.


    Trong cơ thể lạc đà có một túi nước dự trữ, nên dù cuộc hành trình có dài bao nhiêu, nó cũng có thể chịu đựng được mà không chết khát.


    Mang Nặng


    Lạc đà có sức mạnh phi thường. Nó có thể mang những kiện hàng hóa nặng nề suốt đường xa kinh khủng. Với gánh nặng trên lưng, nào người, nào đồ vật, nó vượt hàng ngàn dặm mà không hề ngã quị giữa đường.


    Chịu Ðựng


    Con lạc đà lại có một đặc điểm nữa là “chịu đựng” cách bền bỉ dẻo dai. Nó vừa mang nặng, đi đường xa, chịu đựng lâu ngày dưới sức nóng như thiêu trong sa mạc.


    Chữ Thứ Tư DALET Cái Cửa Số tiêu biểu: 4





    ד


    Chữ DALET có nghĩa là cái cửa . Nó có hình dạng như cái cửa. Phát âm như chữ D


    Chữ Thứ Năm HEY Cửa sổ Số tiêu biểu: 5





    ה


    Chữ nầy (phát âm như chữ H) có nghĩa là cửa sổ. Trong tiếng Hy bá lai có tám từ liệu khác nhau chỉ về cửa sổ và được chia làm hai loại. Trong Kinh Thánh cho chúng ta biết hai loại cửa sổ ấy như sau:


    Cửa sổ trên trời (Sáng 7:11 và 8:2; II Vua 7:2,19; Ma-la-chi 3:10)


    Cửa sổ đền thờ hay cửa sổ nhà . (Sáng 26:8; Giô-suê 2:15,18; II Sa-mu-ên 19:12; II Sa-mu-ên 6:19; I Vua 6:4; II Vua 9:30,32; II Cô-rinh-tô 11:33 v. v…)


    Chữ Thứ Sáu VAV Cây đinh Số tiêu biểu: 6





    ו


    Chữ thứ sáu là VAV (tiêu biểu cho chữ W và V). Chữ nầy có nghĩa là “cây đinh” hay là “cái móc”. Một nghĩa khác nữa là “và” tức là một liên tự trong văn phạm. Cây đinh rất thông dụng trên toàn thế giới, mọi dân mọi nước đều biết dùng đinh. Vào thế kỷ thứ XVIII dân chúng ở thành phố Cradley Heath nước Anh đều là thợ làm đinh, họ chưa có máy móc tối tân như hiện nay. Trong nghề làm đinh họ chỉ dùng khuôn là những chiếc “thùng cát” nhưng đúc rất chậm. Song họ rất ưa thích nghề nầy, nên trải qua nhiều đời họ cứ tiếp tục làm đinh. Cho đến ngay kỹ nghệ làm đinh với phương pháp tối tân hiện đại vẫn thịnh hành tại đây.


    Cây đinh bằng gỗ, bằng sắt hoặc bằng bạc hay bằng vàng cũng đều ích lợi cả. Công dụng của cây đinh là liên kết hai vật lại với nhau. Từ bàn, ghế, tủ, nhà cửa đến xe cộ, tàu bè … đều cần đến đinh. Ðinh rất quan trọng, đôi khi vì thiếu đinh mà một công việc to tát phải bị đình chỉ.


    Chữ Thứ Bảy ZAYIN Khí giới Số tiêu biểu: 7





    ז


    Chữ thứ bảy trong mẫu tự Hy bá lai là ZAYIN (đọc như chữ Z) có nghĩa là “khí giới”. Danh từ chỉ về “khí giới” trong tiếng Hy bá lai có bảy từ ngữ, được nêu ra trong 23 câu Kinh Thánh. Nó bao gồm các loại như: gươm, giáo, áo giáp, thuẫn, giây nịt lưng, mũ, giày, cung, tên, búa, rìu …


    Trước cơn Ðại Hồng Thủy có một người sanh từ dòng dõi Ca in tên là Tu banh Ca in, là “người rèn đủ thứ khí giới bằng đồng và bằng sắt” (Sáng 4:22). Chúng ta không lấy làm lạ vì sao Tu banh Ca in biết rèn đủ thứ khí giới mà không cần thụ huấn nơi một trường huấn nghệ nào cả, vì tổ tiên của ông ta là Ca in, con đầu lòng của A-đam và Ê-va đã biết dùng khí giới để giết người trước tiên, nên các thứ khí giới bằng đồng và bằng sắt được sản xuất từ dòng dõi ấy.


    Từ ấy đến nay các loại khí giới được thông dụng hơn. Công dụng của khí giới là “tự vệ” và “tiêu diệt kẻ thù”. Người Ðông phương thuở xưa khi đi đường hay mang rìu trên vai (giống như dân tộc thiểu số hay mang rựa hoặc chà gạt) để tự vệ như đề phòng giặc cướp hay chống cự với thú dữ.


    Người đàn ông Tô cách lan được phép võ trang một “đoản kiếm” (gươm ngắn) để tự vệ. Mỗi cá nhân là một cảnh sát viên có quyền xử dụng loại đoản kiếm ấy, nhưng vì nhiều người lạm dụng thứ khí giới ấy để giết người cách dễ dàng nên đến năm 1828 họ bỏ lối trang bị vũ khí ấy, và thành lập một đội cảnh sát riêng biệt, huấn luyện kỹ càng và võ trang bằng súng ống như hiện nay. Một quân nhân, một cảnh sát viên có bổn phận bảo vệ an ninh cho quốc gia, chống ngoại xâm, trừng phạt những người phạm pháp vì vậy họ cần có khí giới để thi hành pháp luật.


    Chữ Thứ Tám CHET Hàng rào Số tiêu biểu: 8





    ח


    Chữ thứ tám của mẫu tự Hy bá lai là CHET phát âm như chữ KH ( tiếng việt ) và CH ( tiếng Anh ) . Chữ nầy có nghĩa là “hàng rào” hay là “vách” hoặc “thành”.


    Trên một con đường nguy hiểm, dốc cao, hố thẳm người ta thường làm những rào cản dọc theo mé đường để tài xế thấy chỗ nguy mà hãm bớt tốc lực và lái xe cẩn thận hơn.


    Chữ Thứ Chín TET Con Rắn Số tiêu biểu: 9





    ט


    Chữ thứ chín của mẫu tự Hy bá lai là TET phát âm như chữ T. Chữ này có nghĩa là con rắn trông giống như con rắn ngẩng đầu lên. Trong tiếng Hy bá lai có 11 từ ngữ chỉ về rắn, tiếng Ả rập có 4 và tiếng Hi lạp có 5.


    Chữ Thứ Mười YUD Bàn tay Số tiêu biểu: 10





    י


    Từ ngữ “bàn tay” là một trong 36 chữ được Kinh Thánh chép nhiều nhất. Nhưng với phạm vi của bài nầy không thể liệt kê ra hết các từ ngữ ấy. Theo cổ ngữ Ê thi ô pi chữ bàn tay là “Yaman” còn chữ La tinh là manus và do đó có chữ manufacture Anh ngữ tức là chế tạo.


    Chữ YUD là một chữ có hình dáng nhỏ nhất trong 22 mẫu tự Hy bá lai, trông tựa như một dấu phẩy. Chữ nầy thật nhỏ nhưng lại rất quan trọng. Nghĩa của nó là bàn tay mà cũng là số 10. Theo tiếng Hy bá lai thì mỗi chữ cái của mẫu tự tượng trưng cho một con số; như chữ ALEPH là chữ đầu tiên thì là số 1, BET là số 2 và chữ QUF (Q) là số 100. Chữ RESH (R) là số 200, rồi đến các chữ khác con số càng tăng đến chữ cuối là 400, rồi từ 22 chữ tức là 22 số đó mà làm thành số ngàn và thêm mãi …


    Bàn tay là một chi thể rất hệ trọng của thân; nó tỏ ra năng lực của con người. Trí óc điều khiển, bàn tay hành động. Mọi công tác hoặc nhỏ bé hay lớn lao đều do bàn tay của con người thực hiện cả. Không có bàn tay, con người mất đi lẽ sống trên đời. Dù khoa học có tiến bộ, có thể tạo ra những “bàn tay giả” để tháp vào cho những người xấu số chẳng may mất một hay cả hai tay , nhưng bàn tay giả chất lượng vẫn không linh hoạt và khéo léo bằng bàn tay thật


    Chữ Thứ Mười Một KAF Cánh Số tiêu biểu: 20





    כ ך


    Chữ nầy có nghĩa là CÁNH (như cánh chim)


    Loài chim có bộ lông cánh đẹp nhất là con công. Nhìn một con công xòe cánh và đuôi ra chúng ta sẽ thấy màu sắc của cái mống. Tại Nam Mỹ có một giống chim hết sức nhỏ, hình vóc chỉ lớn bằng con ong, mới xem qua người ta cứ ngỡ là con ong, nhưng khi bắt được nó mới biết đó là một giống chim tí hon kỳ lạ, giống chim này có nhiều màu sắc rực rỡ khác thường.


    Các loài chim định hướng rất chính xác, dù sương mù dày đặc hay bão tố dữ dội, chúng vẫn lướt gió tung mây bay về tổ ấm cách an toàn. Khi mới nở ra khỏi vỏ trứng, cặp cánh chim con nhỏ bé trơ trụi, bao phủ bằng một lớp lông non mềm mại dễ thương. Nhưng cặp cánh ấy vô dụng vì không đủ năng lực để nâng chim lên khỏi tổ. Cánh ấy phải được phát triển, tức là phải mọc thêm những chiếc lông cánh dài tùy theo loại chim. Rồi cặp cánh ấy phải được huấn luyện cách thuần thục, bấy giờ mới có thể bay lên khoảng không cách nhẹ nhàng mau lẹ.


    Trong sách Phục truyền luật lệ ký 32:11 cho ta thấy cách chim phụng hoàng tập bay cho chim con khi đã đủ lông cánh. Trước hết chim mẹ vất bỏ những vật mềm đã lót ổ khi đẻ trứng. Chim con phải nằm trên những cành cây khô cứng khó chịu, sau đó chim mẹ đùa chim con ra ngoài tổ dựa bên gành đá chơ vơ, đoạn hất mạnh chim con ra ngoài từ trên cao độ hai ngàn bộ. Chim con hốt hoảng liền tức khắc sử dụng cặp cánh. Nhưng vì cặp cánh ấy quá yếu ớt không đủ sức nâng lấy thân chim, nó chỉ bay phấp phới. Vài giây đồng hồ sau chim con đuối sức và từ từ rơi xuống. Chim mẹ lúc ấy bay loanh quanh theo con, khi thấy chim con đã rơi xuống giữa khoảng không, chim mẹ liền bay thấp xuống phía dưới xớt lấy chim con đem về tổ. Bài học ấy được lặp lại nhiều lần cho đến khi chim con thật quen thuộc, đủ sức bay một mình không cần sự giúp đỡ của chim mẹ nữa. Khi chim ưng con đã chịu huấn luyện sử dụng cặp cánh thuần thục rồi, lúc bấy giờ nó cũng bay cao như mẹ nó. Nó cũng tìm các ngọn núi cao để làm tổ và đường bay của nó cũng xa tít tận mây xanh. Kinh Thánh ghi nhận rằng đường chim ưng bay trên trời thật diệu kỳ, loài người không biết được (Châm ngôn 30:19a).


    Chữ Thứ Mười Hai LAMED (Cái đót bò) Số tiêu biểu: 30





    ל


    Cái đót bò xuất xứ từ Sy ri, các nông gia Sy ri khi cày ruộng thường dùng một cành cây thẳng cứng bằng gỗ sồi, dài chừng một thước rưỡi, một đầu bằng và một đầu chuốc nhọn. Ðường kính của đầu bằng độ ba phân tây dùng để thúc bò, đầu nhọn bịt sắt dùng để cạy đất dính vào lưỡi cày. Ðó là công dụng của cái đót bò.


    Cái đót bò trong tay Sam ga.


    Cái đót bò! Một dụng cụ đơn sơ tầm thường của các nông gia. Nó không phải là một khí giới chiến đấu; nó có hai công dụng: thúc bò đi cho mau hơn và cạy đất dính nơi lưỡi cày. Các nông gia thời xưa cày ruộng bằng bò không thể không cầm đót! Nó tầm thường nhưng ích lợi vô cùng. Tuy cái đót bò không phải bằng kim loại như gươm, giáo hay mã tấu, dao găm, nó chỉ là một đoạn gỗ nhỏ có thể bẻ gãy dễ dàng. Bình thường Sam ga dùng nó khi cày ruộng, nhưng thình lình kẻ thù tràn tới như nước vỡ bờ, trong trường hợp cấp bách đó ngoài cái đót bò ra Sam-ga không có một khí giới nào khác. Ông đã dùng nó giết 600 người Phi li tin trong một ngày, đem lại sự đắc thắng vẻ vang, giải cứu dân Y sơ ra ên khỏi tay quân thù. Thật là một chiến công hi hữu!


    Sam ga không phải là một chiến sĩ nổi danh, nhưng ông đã kịp thời đối phó bằng vật sẵn có nơi tay nên đã thành công mỹ mãn




    Chữ Thứ Mười Ba MEM nước Số tiêu biểu: 40





    מ ם


    Chữ thứ mười ba trong mẫu tự Hy bá lai là MEM, nghĩa là nước. Phát âm như chữ M. Hình dáng chữ nầy tựa như sóng biển. Kinh Thánh chép chữ nước 631 lần. Lần đầu trong Sáng thế ký 1:2; lần cuối trong Khải thị 22:17. Nước là một trong ngũ hành của công việc sáng tạo, là nhu yếu phẩm cho muôn vật mọi loài.


    Chữ Thứ Mười Bốn NUN Cá Số tiêu biểu: 30





    נ ן


    Chữ thứ mười bốn của mẫu tự Hy bá lai là NUN, chữ nầy nghĩa là cá. Phát âm như chữ N.


    Chữ Thứ Mười Lăm SAMECH Giúp đỡ Số tiêu biểu: 60





    ס


    Chữ nầy có nghĩa là giúp đỡ hay nâng đỡ, hỗ trợ


    Chữ SAMECH có nghĩa là người giúp đỡ


    Chữ Thứ Mười Sáu AYIN Con mắt Số tiêu biểu: 70





    ע


    Chữ thứ mười sáu là AYIN (đây là một chữ câm, như chữ ALEF, phiên âm như một dấu phẩy ngược, phát âm bằng những nguyên âm theo nó). Chữ nầy có nghĩa là con mắt (đơn).


    Chữ Thứ Mười Bảy PEY Cái miệng Số tiêu biểu: 80





    פ ף


    Chữ thứ 17 là PEY, phát âm như chữ P, nghĩa là cái miệng.


    Phần lớn mọi tội lỗi đều bởi miệng loài người gây ra, lại cũng bởi miệng mà người ta được phước. Con người nhờ miệng ăn uống nên mới sống, nhờ miệng nói ra lời hiền lành để yên ủi kẻ buồn rầu, cùng khổ. Miệng thốt ra lời khôn ngoan khiến người ta ưa thích,quí mến. Miệng hát những bài ca du dương êm ái. Miệng giảng dạy lời hay lẽ phải. Miệng vui cười vang dội để bày tỏ niềm vui … và miệng cũng là một khí giới nguy hiểm vô cùng. Do nơi cửa miệng loài người đã nói lời dối trá, xấc xược.Miệng nói lời kiêu ngạo, khoe khoang. Miệng nói lời chua cay hiểm độc. Miệng bày tỏ chuyện bí mật của người khác. Miệng nói lời tục tỉu. Miệng nịnh hót người ta. Miệng thày lay thóc mách. Miệng vu cáo người vô tội. Miệng phao đồn những tin thất thiệt. Miệng nói phạm thượng. Miệng chửi rủa. Miệng lằm bằm. Miệng khóc la rên rỉ. Miệng nói lời tầm phào, bá láp … Lợi ích và nguy hiểm do miệng gây ra thật nhiều


    Chữ Thứ Mười Tám TSADE Số tiêu biểu: 90





    צ ץ


    Chữ thứ mười tám trong mẫu tự Hy bá lai là chữ TSADE. Phát âm như TS.


    Chữ nầy có vài ý nghĩa nhưng rất lờ mờ không rõ ràng lắm. Nhưng một ý nghĩa được khẳng định là đầu phục hay đầu hàng. Chữ nầy cũng giống vài chữ khác trong mẫu tự Hy bá lai, tức là khi chúng đứng giữa những chữ khác cùng nhóm thì hình dáng như thường, nghĩa là có hình cong, còn nếu chúng đứng sau chót thì lại thẳng lên và dài thêm ra, cũng như chữ KAF, NUN, PEY … Riêng chữ TSADE nầy hơi khác một chút, ấy là khi nó ở giữa một nhóm chữ thì cong lại giống như một người quì gối đưa hai tay lên trời, còn khi nó ở sau chót thì hình dáng lại thẳng đứng lên giống như một cây có hai cái đọt.


    Khi chúng ta yêu mến một người, thường chúng ta bị người ấy chinh phục. Bất cứ về phương diện nào, tình cảm hay ý thích, khả năng hay nghệ thuật … chúng ta có thể bị khuất phục mà không ngờ. Dù người ấy không đòi hỏi gì cả nhưng chúng ta cũng tìm mọi cách làm cho người mình yêu mến được vui lòng.Nhất là trong tình yêu; chúng ta có thể bỏ nhiều thời giờ nghĩ đến người yêu, hay làm bất cứ điều gì dù khó nhọc đến đâu, miễn sao cho người ấy hiểu được lòng mình!


    Một lần kia có người hỏi tiến sĩ Kelman rằng: “Làm sao tiến sĩ có thể đọc nhiều sách như thế Thì giờ đâu để đọc những sách ấy?” Ông đáp rằng: “Tôi phải xếp qua nhiều việc khác để có thì giờ đọc sách”. Tại sao vị tiến sĩ nầy bằng lòng bỏ qua những việc khác Vì ông ta thích đọc sách hơn làm việc khác, đọc sách là lẽ sống của ông ta, đọc sách khiến ông ta vui thỏa hơn bất cứ làm việc gì khác. Ông ta đã đầu phục thú mê đọc sách của mình, cái thú đọc sách đã điều khiển được ông ta, khiến ông ta dành nhiều thì giờ để đọc sách.




    Chữ Thứ Mười Chín QUF (Cái lỗ của lưỡi rìu) Số Tiêu Biểu: 100





    ק


    Chữ nầy có nghĩa là cái lỗ của lưỡi rìu (để tra cán vào, phát âm như chữ Q)


    Lưỡi rìu và cái cán cả hai đều quan trọng, ích lợi một khi cái cán được lắp vào trong lưỡi rìu. Lưỡi rìu hạ cây đẵn gỗ chứ không phải cán, nhưng nếu không có cán thì lưỡi rìu cũng không thể đốn gỗ hạ cây được.

  5. #5

    Chữ thứ hai mươi RESH Cái đầu Số tiêu biểu: 200






    ר


    Chữ thứ hai mươi trong mẫu tự Hy bá lai là RESH, như chữ R. Chữ nầy có nghĩa là cái đầu, cũng có nghĩa là người cai trị, cầm đầu.


    Trong sách Sáng thế ký 2:10 có nói đến con sông bốn ngã, nhưng theo nguyên văn tiếng Hy bá lai thì viết là con sông chia ra bốn đầu. Cũng có nghĩa là một người cầm đầu một chi phái, một gia tộc. Lại còn có nghĩa là ban đầu (RESHITH).


    Chữ chấp sự có nguồn gốc từ hai chữ Hi lạp ghép thành”tức là chữ Dia nghĩa là suốt qua, và chữ Conia nghĩa là bụi đất, nghĩa chữ ấy là một con người bằng bụi đất làm việc nhọc nhằn.


    Chữ Thứ Hai Mươi Mốt SHIN Số tiêu biểu: 300





    ש


    Chữ thứ hai mươi mốt trong mẫu tự Hy bá lai là chữ SHIN. Chữ nầy có hai âm, nếu dấu chấm bên phải thì phát âm như chữ “s” còn nếu dấu chấm bên trái thì phát âm như chữ “x”. Chữ SHIN có nghĩa là răng trông như một cái chĩa ba răng.


    Chữ Thứ Hai Mươi Hai TAV Số tiêu biểu: 400





    ת


    Chữ thứ hai mươi hai trong mẫu tự Hy bá lai là chữ TAV. Phát âm như chữ TH, hơi nhẹ hơn một chút. Nếu có chấm ở giữa thì đọc như chữ T, cũng là chữ cuối cùng trong mẫu tự nầy. Chữ nầy có nghĩa là dấu ấn, như người đóng dấu chiên, bò, lạc đà …




    Nguồn


    http://hybalai.wordpress.com/

  6. #6

    Exclamation Tại sao người Do Thái đoàn kết ?

    Originally Posted by ongxayeu http://www.quehuongngaymai.com/forum....php?p=1182869

    Việt Nam mình thiệt sự thông minh & tài giõi không thua Do Thái, rất tiếc không được như Do Thái bỡi vì người VN không biết đoàn kết và ganh tỵ lẫn nhau . Thậm chí tranh chấp và ăn thua đũ với nhau từng lời ăn, tiếng nói ....thật là đáng buồn cho dân tộc VN mình, chĩ sợ thêm vài năm nữa thì thằng Trung Cộng nó xóa cái tên VN trên bãn đồ thế giới....

    Tại sao người Do Thái đoàn kết ?



    Cái keo kết nối những người Do Thái là đạo Do Thái Giáo

    Toàn thế giới biết đến người Do Thái. Cuộc đời nay đây mai đó mang họ đi khắp trái đất. Họ mang theo tôn giáo của họ mà hầu hết những người Do Thái trung thành mãnh liệt với tôn giáo của họ...
    CHÚA TỂ LÀ MỘT


    Toàn thế giới biết đến người Do Thái. Cuộc đời nay đây mai đó mang họ đi khắp trái đất. Họ mang theo tôn giáo của họ mà hầu hết những người Do Thái trung thành mãnh liệt với tôn giáo của họ. Khi mặt trời lặn vào lúc bắt đầu lễ Sabbath, nhiều triệu người Do Thái bắt đầu ngày nghỉ và thờ phượng. Số người của họ không nhiều so với tổng dân số trên thế giới. Nhưng thành công mà người Do Thái đã tạo dựng trên thế giới lại rất rộng lớn và có ý nghĩa đáng kể.

    Do Thái Giáo là "tôn giáo mẹ" của cả Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo. Ba tôn giáo này là những tôn giáo chính của thế giới Tây Phương. Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo thừa hưởng những khái niệm tôn giáo, luân lý và tu tập từ Do Thái Giáo. Nếu một sử gia không lưu ý đến việc đóng góp của người Do Thái vào việc phát triển văn minh Tây Phương, thì sử gia ấy không thể viết về quá khứ của nó và hiểu biết hiện tại của nó.


    Do Thái không thuộc một giống người nào. Đời sống lang thang khắp trái đất của họ khiến cho việc này không thể xẩy ra. Hàng ngàn năm qua, họ là một nhóm các bộ lạc, gọi là Hê Brơ (Hebrews). Bây giờ từ "Do Thái" áp dụng đúng cho bất cứ ai là người có niềm tin Do Thái. Nói về mặt quốc gia, người Do Thái là người Đức, Ả Rập, Mỹ, và hầu hết mọi thứ người khác.


    Mặc dù quê hương dân tộc trải rộng, người Do Thái vẫn giữ được nhiều thời đại ý thức gần gũi nhau Họ đã làm việc này bằng cách thực hiện cẩn thận giới luật tôn giáo của họ. Họ đã làm việc này do nhấn mạnh có một mục đích duy nhất chân lý mà họ gọi là Shema: "Hãy nghe đây này người Do Thái, Vị Chúa tể Thượng Đế chúng ta, Chúa tể là Một". Đây là điểm chính yếu trong mỗi khóa lễ tôn giáo Do Thái. Hơn thế nữa, nó là điểm mấu chốt của Do Thái Giáo.


    MỘT THƯỢNG ĐẾ


    Những người Hebrews thời cổ tìm cách hiểu ý nghĩa và mục đích cuộc đời, giống như những nhà hiền triết cổ Ấn Độ và Trung Hoa. Vì băn khoăn đó, người Hebrews từ lâu cảm thấy sự quan hệ đặc biệt với trung tâm vũ trụ. Truyền thống Do Thái nói người ấy là Abraham. Abraham tin vào thượng đế riêng. Ngài đặc biệt quan tâm đến số phận và mơ ước của mình. Người Do Thái vẫn tôn kính người huyền thoại này như người cha dân tộc. Những người khác tiếp nhận niềm tin của Ngài và tìm thấy trong đó những câu trả lời cho những câu hỏi riêng của họ về thế giới.


    Cuối cùng, xuất hiện một nhân vật vĩ đại, Moses. Ngài làm rõ ràng và sáng tỏ khái niệm về một thượng đế riêng. Ngài tin rằng thượng đế đã đồng ý đặc biệt với Abraham và với tất cả những người nối dõi. Những người này đã hứa trung thành và tận tâm. Đổi lại, Thượng Đế tạo cho họ một quốc gia hùng mạnh.

    Dân Do Thái theo truyền thống vẫn tin rằng Thượng Đế đã tiết lộ những qui luật lệ của đời sống cho Moses tại Núi Sinai. Họ coi Moses là người sáng lập ra tôn giáo của họ. Họ công nhận Moses có công cho họ những thâu thập quan trọng về những luật lệ tu tập, đối xử và ăn uống theo tôn giáo. Moses là nhà lãnh đạo được Thượng Đế chọn để giải thoát người Hebrews khỏi sự nô lệ ở một nước xa lạ thành đất của chính họ.


    Những niềm tin như vậy căn cứ vào chuyện cổ tìm thấy trong Sách Genesis (Cuốn "Chúa Tạo Ra Thế Giới") và Exodus (Sự rời khỏi Ai Cập của người Do Thái). Như nhiều học giả Do Thái lúc nào cũng sẵn sàng lưu ý, những chuyện này không thể được cho là lịch sử theo nghĩa đen. Những huyền thoại này cuối cùng được viết lại sau nhiều thế kỷ tồn tại trong ký ức của người Hebrews, những người đã kể lại chúng hết từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những huyền thoại cho thấy lúc đầu Thượng Đế là một thượng đế thuộc bộ lạc, người bảo vệ và ân nhân của người Hebrews, con cháu Abraham. Thượng Đế được biết đến và được thờ phượng bởi Abraham, người con Isaac và người cháu Jacob sau này được gọi là Israel (Do Thái).


    Dần dà Người Hebrews - Do Thái tin chắc thượng đế bộ lạc ấy chỉ là một Thượng Đế duy nhất của tất cả sáng tạo. Đương nhiên, tiến trình này mất nhiều thời gian hết thế kỷ này đến thế kỷ khác, qua những thời kỳ của những nhà lãnh đạo lớn người Hebrews -- những người cha bộ lạc, Moses, David và những hoàng đế khác, Isaiah và phần còn lại của các nhà tiên tri. Dần đà dân chúng đạt đến một quan niệm toàn diện có lẽ đã không có lúc khởi thủy khi còn là những bộ lạc lang thang nay đây mai đó.


    Nhưng bây giờ, qua 2500 năm, sự khẳng định quan trọng nhất của Do Thái Giáo đã là: "...Vị Chúa tể Thượng Đế của chúng ta, Vị Chúa tể là Một." Sự phát triển thờ phượng một Thượng Đế phản ảnh những kinh nghiệm và tính khí độc đáo của người Do Thái. Trong đường lối riêng, họ đi đến kết luận mà tất cả những tôn giáo hiện tiền ngày nay chia sẻ: nằm dưới sự đa dạng vô tận mà chúng ta thấy trong đời sống là một mục tiêu, một thực tại.


    Đã từ lâu, Người Do Thái thấy chẳng có gì quan trọng trong việc thảo luận về bản chất của Thượng Đế. Thượng Đế hiện hữu, Ngài là Một, Ngài là thực tại. Cả đến ngày nay, không có lấy một tín ngưỡng mô tả những đặc tính của Thượng Đế. (Chân lý) Shema là đủ.


    Tuy nhiên một số giáo sĩ Do Thái và triết gia đã lưu ý đến việc mô tả những đức tính của Thượng Đế dù rằng không một người Do Thái nào đã từng đòi hỏi xác nhận khái niệm này. Thượng Đế ngay thẳng. Ngài là Đấng Sáng Tạo. Ngài là tinh thần. Thượng Đế là người sẵn sàng giúp đỡ con người, cung cấp phương tiện cho con người có thể tự cứu mình khỏi những hạn chế của ngu muội và tội lỗi. Thượng Đế đã tạo ra con người như con Ngài; bởi vậy, họ phản ảnh bản chất của Ngài.


    CHÍNH TRỰC
    Không một người Do Thái nào có thể nói là yêu Thượng Đế, trừ phi người ấy có quan hệ thương yêu với người láng giềng. Người láng giềng gồm cả người thuộc chủng tộc khác hay người lạ trên đất nước của mình, người xa lạ này được đối xử như người Do Thái đối xử với người đồng chủng. Hơn thế nữa, người Do Thái được đòi hỏi phải làm:"... thương yêu người láng giềng như thương yêu chính mình".


    Sau đó rất lâu khi điều này được viết ra, một người nào đó đã đưa ra thách thức tới giáo sĩ nổi tiếng Hillel sống và dạy học vào cùng thời với Jesus. Người thách thức đòi giáo sĩ hãy nói tất cả những gì quan trọng về Do Thái Giáo trong khoảng thời gian một con người có thể đứng bằng một chân. Giáo sĩ Hillel tuyên bố:"Cái có hại cho ngươi, không có hại cho người láng giềng. Đây là toàn bộ học thuyết. Phần còn lại chỉ là lời dẫn giải. Bây giờ hãy tiến lên và học hỏi".


    Ngay thẳng quan trọng đối với người Do Thái đến nỗi chúng ta có thể nói người Do Thái có hai mối quan tâm giống nhau -- tính chất duy nhất của Thượng Đế và tính ngay thẳng của con người. Không khó khăn gì đối với con người khi đi theo luật lệ và ý Thượng Đế. Được tạo ra theo hình ảnh của Thượng Đế, chúng ta có khả năng tự nhiên học hỏi về điều thiện. Người Do Thái nói rằng không làm được điều phải, là chối bỏ bản chất của chính bạn.


    LUẬT LỆ

    Thường thường người Do Thái coi Thượng Đế như người đưa ra luật cho dân tộc họ. Luật lệ mà Thượng Đế ban ra được gọi là Torah, có nghĩa là lời "giáo huấn". Torah gồm có năm cuốn đôi khi được gọi là Pentateuch (Năm quyển đầu của Kinh Cựu Ước). Những cuốn này là Genesis (Chúa Sáng Tạo Ra Thế Giới), Exodus (Sự Rời Khỏi Ai Cập), Leviticus (Phép Tắc của Tu Sĩ), Numbers (Kinh Điển Do Thái và Cơ Đốc), và Deuteronomy (Luật Moses và Chuyện Kể). Tất cả những người Do Thái đều được khuyến khích nghiên cứu những cuốn sách ấy. Toàn bộ Torah thường được đọc đều đặn mỗi năm trong những giáo đường Do Thái, và một phần trơng mỗi lễ Sabbath.


    Torah chứa đựng những huyền thoại về nguồn gốc của chính nó. Theo những huyền thoại này, Thượng Đế trao Luật cho Moses tại núi Sinai, trong khi người Hebrews cắm trại tại vùng hoang dã sau khi thoát khỏi Ai Cập. Tại đây người Hebrews khẳng định lại với Thượng Đế, hứa tuân theo luật của Ngài. Truyền thống kể thêm rằng Thượng Đế nói về Mười Điều Răn mà người ta tìm thấy ở Chương hai mươi trong Exodus.


    Có rất nhiều điều răn, chắc chắn là hơn sáu trăm cả thảy. Những điều răn nói về nhiều đề tài: chế độ ăn uống, tội ác và hình phạt, tu tập, ngày lễ, và sự quan hệ của con người. Nhiều người Do Thái là những người đầu tiên khẳng định những luật này không thể được làm cùng một nơi và một lúc. Thực tế họ có một tập sưu tầm về luật mà người Hê Brơ - Do Thái trình bày có hệ thống một thời kỳ nhiều năm cùng chung sống.


    Trong Kinh Thánh Do Thái, phần hai được gọi là "Những nhà Tiên Tri". Nhiều người tin rằng đỉnh cao của tư tưởng và hiểu biết Do Thái đã đạt được trong giáo huấn của những nhà tiên tri. Những nhà tiên tri không nói trước tương lai; họ "có nói" cho Thượng Đế. Trước nhất họ là phát ngôn viên cho Thượng Đế, cảnh báo những hậu quả tàn khốc nếu ý Thượng Đế không được tuân theo.


    Chính những nhà tiên tri này cố gắng trình bày cho người dân thấy sự tận tâm với Thượng Đế không chỉ nằm trong việc đi theo luật trong chi tiết nhỏ nhất. Tại sao con người phải bận tâm về về việc tuân thủ chi tiết hơn sáu trăm luật? Sự tận tâm nằm trong việc gìn giữ tinh thần của Luật.


    Theo Isaiah, đây là thuộc tính của người đã cân nhắc tinh thần của luật. Đó là:


    - Người bước thẳng và nói thành thực
    - Khinh miệt lợi lộc giành được bằng áp bức
    - Không nhúng tay vào của đút lót
    - Không chịu nghe tiếng chém giết
    - Không chịu đứng nhìn tội lỗi.


    Nhà tiên tri Micah rút gọn những luật lệ quan trọng thành ba trong lời tuyên bố nổi tiếng về nhiệm vụ tinh thần của một người:


    Ngươi đã được bảo, này con người, thế nào là thiện
    Và Chúa đòi hỏi gì ở nơi ngươi:
    Chỉ thực hiện sự công bằng, và yêu điều tốt đẹp
    Và khiêm tốn đi cùng với Thượng Đế của ngươi.


    Với Amos, (nhà tiên tri người Hê Brơ ở thế kỷ 8 trước Công Nguyên), tinh thần của Luật là: "Hãy tìm Chúa, Bạn có thể sống".


    Tuy vậy Chương Ba của Kinh Thánh Do Thái ai cũng biết là "Những Tác Phẩm". Nó gồm có những sách sử kể lại những cuộc phiêu lưu của người Hê Brơ-Do Thái và hiểu biết thế giới ngày càng tăng của họ. Nó cũng gồm có những bài thánh ca và những tập thi văn khác. Trong khi những thứ này không được coi là Luật căn bản như năm cuốn đầu, chúng vẫn nằm trong tinh thần của Luật.


    Những người Do Thái đương đại không chỉ dựa vào ba chương này trong tác phẩm thiêng liêng của họ. Có một số tác phẩm khác không phải là một phần của Thánh Kinh, nhưng được tôn thờ sau Kinh Thánh. Đó là Talmud. Talmud trên thực tế chính là sự mở rộng của Torah được viết trong nhiều thế kỷ sau khi các tác phẩm khác được hoàn tất. Talmud xuất hiện để đáp ứng những điều kiện mà người Do Thái phải đương đầu trong những thời kỳ sau này. Khi chỗ ở và môi trường chung quanh thay đổi, nhu cầu tôn giáo và văn hóa thay đổi. Luật lệ gia tăng vì nhu cầu mới. Những điều này được truyền miệng từ thế hệ này đến thế hệ kia. Thỉnh thoảng, những giáo sĩ có học thức bình luận về những luật truyền khẩu này và những luật thành văn trước đó, tìm cách giải thích lại chúng vì thời buổi thay đổi.


    Do sự bình luận không ngừng như vậy về truyền thống quá khứ và những luật dưới ánh sáng của tình thế mới, Luật của Do Thái Giáo vẫn còn tồn tại. Người Do Thái đương đại có thể thích nghi một cách sáng tạo trước những đòi hỏi không bao giờ tưởng tượng được bởi Moses hay những bậc thầy lớn khác thời thượng cổ.
    PHẬN SỰ CỦA NGƯỜI DO THÁI
    Truyền thuyết cổ về sự đồng ý đặc biệt giữa Thượng Đế và người Hê Brơ đã làm nhiều người Do Thái tin là Thượng Đế đã chọn họ là những người được ưa chuộng hơn tất cả các dân tộc khác trên trái đất. Họ cảm thấy họ có đặc quyền, và một số coi những dân tộc khác như hạ cấp. Tuy nhiên, những vị thầy sau này đã giải thích khái niệm "chọn lựa" theo một cách khác. Họ nói rằng người Do Thái được chọn lựa để phụng sự Chúa và dạy người khác về một Thượng Đế của tất cả thế giới.


    Vẫn còn có một số Do Thái khăng khăng nghĩ về tính độc quyền. Điều này khiến các nhà tiên tri rất quan tâm. Hãy nghe một nhà tiên tri xa xưa cố sửa chữa những khái niệm lầm lẫn của họ:


    "Phải chăng bạn không giống những người Ethiopians dưới mắt tôi,
    Này những người Do Thái "; phải chăng lời tiên tri của Chúa.
    "Ta đã không nuôi dưỡng người Do Thái từ đất nước Ai Cập,
    Cũng như người Philistines từ Caphtor và người Syrians từ Kir?"


    Một nhà tiên tri vô danh trình bày Thượng Đế của họ là Thượng Đế của tất cả các dân tộc. Nhà tiên tri này trích dẫn lời Thượng Đế nói: "Diễm phúc thay Ai Cập dân tộc của ta, và Assyria tác phẩm của bàn tay ta, và Do Thái di sản của ta". Nhiều người Do Thái thời ấy cho rằng toàn bộ cuốn Jonah chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và khái niệm "dân tộc được chọn lựa"


    Lúc nào cũng có nhiều người Do Thái hành động theo sự nhấn mạnh của những nhà tiên tri. Những người Do Thái này không bao giờ tin họ là những người được chọn lựa một cách thiêng liêng hơn các dân tộc khác. Có người Do Thái truyền thống khoan dung với những tín đồ tôn giáo khác. Tính kiên nhẫn và sự chịu đựng của họ trong vấn đề tôn giáo rất gần gũi với quan điểm của người Ấn Giáo và Phật Giáo thành thật.


    Về khái niệm Thương Đế và Luật của họ, người Do Thái tìm thấy giá trị quý nhất của họ. Vì những điều ấy, họ cảm thấy được nhiều may mắn. Nhưng hầu hết không tin rằng sự phù hộ chỉ dành riêng cho họ. Những người khác cũng tìm thấy giá trị trong ý niệm của riêng họ, và người Do Thái chấp nhận khác biệt này cho thêm phong phú. Về phần họ, người Do Thái không mong muốn thuyết phục người khác về tôn giáo của họ. Đó không phải là cách cứu rỗi. Đó là lối sống. Và tuy có nhiều người đổi sang Do Thái Giáo, nhưng người Do Thái không bao giờ tích cực trong công việc đổi đạo người khác.


    VƯƠNG QUỐC CỦA THƯỢNG ĐẾ


    Người Do Thái bao giờ cũng quan tâm đến tính ngay thẳng. Họ không bao giờ cảm thấy chính phủ hay đoàn thể như người ta biết về chúng, tốt bằng họ. Cho nên người Do Thái hy vọng sau này mọi người sẽ ngay thẳng và gia đình và xã hội sẽ phản ảnh tính ngay thẳng đó. Theo truyền thống những người Do Thái gọi thời tương lai này là "Vương Quốc của Thượng Đế". Sẽ đến lúc luật ngay thẳng của Thượng Đế mở rộng khắp thế giới.


    Những người Do Thái hiện đại và truyền thống có ý kiến khác nhau về việc điều đó sẽ đến như thế nào và điều đó sẽ là gì. Người Do Thái truyền thống vẫn nhắc tới Messiah, Đấng Cứu Tinh được chọn bởi Thượng Đế để đưa vào Vương Quốc này vì con người cho đến nay không thể làm việc đó một mình được.


    Những người Do Thái phóng túng thích nghĩ rằng mỗi người là một đấng cứu thế, người này làm bất cứ gì có thể để thúc đẩy sự nghiệp về tính ngay thẳng tiến bộ. Dần dần, Vương Quốc này sẽ tới.

    Niềm hy vọng của người Do Thái và Thiên Chúa Giáo về một trật tự đạo đức thế giới rất giống nhau -- dù rằng chúng được diễn đạt bằng những từ ngữ khác nhau. Và những người Do Thái tuyên bố rằng điều đó sẽ là cho tất cả mọi người vì họ tin rằng sự ngay thẳng của mọi quốc gia góp phần trong thế giới tương lai.


    Quan tâm nhiều đến cách sống đúng hiện nay và làm cho thế giới tốt lên của người Do Thái đã giảm bớt lo lắng về đời sống bên kia thế giới. Ngay trong số những người Do Thái cũng có những người không đồng ý về vấn đề này. Một số người Do Thái truyền thống vẫn tin vào đời sống bên kia thế giới gồm có thưởng phạt, phục sinh và tính vĩnh viễn trong Thiên đường hay Địa ngục Những người Do Thái phóng khoáng hơn lại không coi những đức tin này là quan trọng. Dù họ tin rằng đặc tính của cá tính (hay linh hồn) không thể chết, nhưng họ cũng không cần lo tạo ra những lý thuyết về việc ấy. Đối với họ, cuộc đời này là cách sống, cái đó mới chính là quan trọng. Làm điều phải ngay bây giờ có giá trị hơn là tin vào cái gì. Nhiều người Do Thái cảm thấy hối cải và những hành vi tốt trong một giờ ở thế giới này còn tốt hơn là toàn bộ đời sống ở thế giới tương lai.


    MIỀN ĐẤT HỨA
    Người Do Thái được thế giới biết đến là nhừng người nay ở chỗ này mai ở chỗ khác. Hơn hai ngàn năm trước đây, những biến chuyển trên thế giới khiến họ không có một ngôi nhà vĩnh viễn và họ bị đẩy đi lang thang trên trái đất. Bất kỳ họ định cư nơi nào, họ vẫn tiếp tục truyền thống của họ và sự thờ phượng Thượng Đế. Thường thường họ cùng nhau sống trong cộng đồng của họ, để họ có thể duy trì tốt hơn những ngày lễ và những luật lệ về chế độ ăn uống.


    Người khác thấy người Do Thái sống khác và đôi khi khó hiểu. Những dị biệt khiến một số người phàn nàn, và thậm chí ngược đãi người Do Thái. Người Do Thái đã bị đối xử rất khắc nghiệt bởi những người láng giềng hơn bất cứ một tôn giáo nào khác. Đặc biệt người Thiên Chúa Giáo kết tội người Do Thái đã giết chết Đức Jesus -- và đã phạm tội ngược đãi như vậy. Đến tận ngày nay, có những nhà lãnh đạo không đắn đo biến người Do Thái trở thành kẻ dơ đầu chịu, gây hận thù đối với người Do Thái. Tại sao người Do Thái lại bi cư xử như thế là một vấn đề nghiêm trọng vẫn còn liên quan đến những người học lịch sử, xã hội học, nhân chủng học, và tôn giáo.


    Họ buộc phải chịu sự cô lập, và sự ngược đãi bởi láng giềng qua nhiều năm khiến người Do Thái phải dựa vào lẫn nhau và dựa vào truyền thống nhiều hơn. Hơn hai ngàn năm, họ đã nhớ lời hứa xa xưa của Thượng Đế về mảnh đất phải là của họ. Đó là huyền thoại về miền đất hứa được tìm kiếm bởi những người Hê Brơ bỏ Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Moses. Mảnh đất này đã một thời gian là của họ, nhưng đã bị xâm chiếm bởi hết quốc gia này đến quốc gia khác, chỉ để rồi cuối cùng bị đuổi ra khỏi miền đất này.


    Nhiều người Do Thái vẫn tiếp tục hy vọng một lần nữa đất của Palestine sẽ là của họ. Để giúp mang hòa bình cho mảnh đất tranh chấp gây ra bạo động giữa những người Do Thái cực đoan nhất gọi là Zionist (người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái), và những kẻ thù truyền kiếp của của họ, người Ả Rập, vào năm 1948 Liên Hiệp Quốc chấp thuận chia một phần Palestine cho Do Thái và một phần Jordan cho người Ả Rập. Đương nhiên, những biên giới độc đoán này đã không thể giải quyết hoàn toàn sự thù địch lâu đời, trở nên phức tạp hơn bởi sự kiện cả hai quốc gia đều tuyên bố Jerusalem là của mình, thành phố thần thánh của Hồi Giáo, cũng như Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo. Liên Hiệp Quốc chấp thuận nghị quyết quốc tế hóa thị xã này nhưng không được Do Thái lẫn Jordan ủng hộ. Rồi, thành phố này vẫn cón là mảnh đất bị phân chia. Lý do để cay đắng hơn là nhiều người Do Thái phải bỏ nhà trên phần biên giới Jordan, và nhiều người Ả Rập phải di chuyển từ phần đất Do Thái khi vùng này bị chia cắt. Hiện nay hồ như có một sự hòa bình không thân thiện giữa các quốc gia; nhưng căng thẳng càng sâu xa.


    Do Thái đã mở cửa cho tất cả những người Do Thái trên thế giới. Tuy nhiên có thể còn quá sớm để thấy điều gì sẽ ảnh hưởng đến Do Thái Giáo đã từ bao thế kỷ dài không có quê hương cho chính mình. Nhiều người Do Thái không coi quốc gia mới thực sự quan trọng đối với tôn giáo, vì họ tin rằng đời sống tôn giáo của họ có thể sống được ở bất kỳ nơi đâu mà họ là người biết mình. Sự thờ phượng Do Thái không dựa vào tổ quốc.


    GIÁO ĐOÀN DO THÁI

    Không có một nhà lãnh đạo trung tâm nào trong Do Thái Giáo. Mỗi giáo đoàn đều tự trị. Giáo sĩ là những cư sĩ - không phải là thầy tu. Các giáo sĩ dạy dân và cố gắng làm sáng tỏ Luật. Giáo sĩ không nói với Thượng Đế hộ người dân. Dân chúng là các thầy tu của chính họ, họ thờ phượng Thượng Đế cho chính họ.


    Trong một thời gian dài, tất cả những người Do Thái đều là "chính thống" nghĩa là họ đều tuân theo những luật lệ ghi trong kinh thánh theo sự hiểu biết và khả năng tốt nhất của họ. Nhưng những sức ép và thay đổi trong đời sống hiện đại đã làm điều đó ngày càng khó khăn. Một số tin là nhận thức thế giới hiện đại đòi hỏi thay đổi biểu hiện cá nhân trong tu tập tôn giáo. Cho nên, ở thời đại tương đối hiện đại, nhiều người Do Thái đã rời bỏ những giải thích nghiêm ngặt về niềm tin, luân lý, và cách tu tập của cha ông.


    Do Thái Giáo Chính Thống: Những ai vẫn cố gắng trung thành với truyền thống cổ để được giải thích một cách nghiêm ngặt, được coi là người Do Thái "Chính Thống". Họ coi toàn bộ kinh Torah đã được thôi thúc một cách tuyệt diệu và được tiết lộ bởi Thượng Đế cho Moses. Họ giữ tất cả những luật của Moses, gồm có những hạn định về ăn uống và những hạn chế nghiêm ngặt trong lễ Sabbath. Họ dùng tiếng Hebrews trong tất cả những buổi lễ tại giáo đường Do Thái. Những trường học đặc biệt do họ hỗ trợ dạy con cái họ về lịch sử Do Thái và nguồn gốc của tiếng Hebrew. Nhiều người Do Thái Chính Thống vẫn trông chờ Messiah đích thân xuất hiện.


    Do Thái Giáo Bảo Thủ: Những người Do Thái "Bảo Thủ" là những người tôn trọng và tôn kính Torah, nhưng họ tin vào sự giải thích Torah qua sự nghiên cứu uyên bác thời hiện đại về kinh thánh để hiểu rõ hơn. Họ tin rằng tiếp tục dạng thờ phượng truyền thống là quan trọng với sự dùng tiếng Hebrew trong các buổi lễ. Vào ngày lễ Sabbath, họ chỉ làm việc thật cần thiết, và họ cố gắng làm cho nó trở thành ngày cầu nguyện.


    Do Thái Giáo Cải Cách: Một phong trào hiện đại của Mỹ Quốc đã lôi cuốn nhiều người Do Thái vào xứ này. Đó là Do Thái Giáo Cải Cách và nó là kết quả của sự cố gắng áp dụng Do Thái Giáo vào đời sống Tây Phương ở thế kỷ hai mươi này. Những người Do Thái Giáo cải cách đọc Kinh Torah với sự đánh giá chân lý của nó như đã được xác định bằng sự đồng ý với lẽ phải và kinh nghiệm. Toàn bộ truyền thống của dân tộc là điều họ kính trọng. Sự thờ phượng cũng giống như các nhà thờ Thiên Chúa Giáo Tin Lành. Các gia đình cùng nhau ngồi trong các buổi lễ gồm nhạc đàn ống và các đội hợp ca, với nghi thức tế lễ bằng tiếng Hebrew, nhưng thuyết giảng bằng Anh ngữ. Cả trai lẫn gái đều được làm lễ kiên tín.


    NHỮNG BÀI HỌC CỦA DO THÁI GIÁO


    Những bậc thầy lớn của Do Thái Giáo đã góp phần to lớn vào tư tưởng tôn giáo của con người. Họ dạy thương yêu Thượng Đế và cùng đi với người đồng loại. Đời sống là một giống như Thượng Đế chỉ có một. Tự do, phẩm giá, và trách nhiệm của mỗi người có gốc rễ ở chính bản chất của vũ trụ. Bởi vậy chắc chắn là, nếu đời sống của ta được đáp ứng thỏa mãn thì ta phải thương yêu người láng giềng như chính mình. Có được điều này là do thương yêu Thượng Đế "với tất cả tâm ý, với tất cả linh hồn, và với tất cả những gì mà bạn có thể".


    Người Do Thái tán thành là chúng ta không thể biết câu trả lời cuối cùng về những điều huyền bí của đời sống và Thượng Đế. Nhưng người Do Thái tuyên bố rằng trong cái thiện của các lối sống ngay thẳng, cái thiện của Thượng Đế được biết như sau:


    Ôi lạy Chúa, làm sao chúng tôi có thể biết Người? Nơi đâu tôi có thể tìm thấy Người? Người gần gũi với chúng tôi như hơi thở nhưng Người cũng xa chúng tôi hơn ngôi sao tít đàng xa. Người huyền bí như sự tịch mịch mênh mông trong đêm trường nhưng Người cũng thân thuộc với chúng tôi như ánh sáng mặt trời. Đối với nhà tiên tri thời cổ, Người không nói: Người không thể nhìn thấy mặt tôi, nhưng tôi sẽ làm cho tất cả điều thiện của tôi đến trước mặt Người. Dù vậy Người làm cho điều thiện đến trước chúng tôi trong lĩnh vực của thiên nhiên và trong hàng loạt kinh nghiệm về đời sống của chúng tôi. Khi công lý bừng cháy giống như ngọn lửa mãnh liệt trong lòng chúng tôi, khi tình thương yêu đem lại sự sẵn sàng hy sinh của chúng tôi, và để đánh giá thật đầy đủ sự tận tâm quên mình khi chúng tôi tuyên bố niềm tin của chúng tôi vào chiến thắng cuối cùng của chân lý và công bình, chúng tôi không cúi chào trước vẻ đẹp lạ thường về điều thiện của Người? Người sống trong tâm chúng tôi như Người đã tỏa khắp thế giới và chúng tôi bằng sự ngay thẳng chiêm ngưỡng sự hiện diện của Người.


    14. LỄ HỘI VÀ NGÀY THÁNH


    Người Do Thái luôn luôn trân quý truyền thống của họ. Nhiều tập tục gia đình và tôn giáo có ý nghĩa nhất tập trung vào các lễ hội và ngày thánh.


    Lễ Sabbath. Vào lúc hoàng hôn chiều thứ Sáu, những cây nến được thắp sáng trong hàng triệu nhà người Do Thái trên khắp thế giới. Đó là dấu hiệu quy tụ gia đình và lễ Sabbath bắt đầu với hai mươi bốn giờ thờ cúng và nghỉ ngơi. Khi người cha và những đứa con trai lớn trở về sau buổi lễ tại các giáo đường Do Thái, có những nghi thức gia đình đặc biệt về việc tạ ơn Chúa và cầu nguyện. Họ quây quần ăn bữa cơm ngon nhất và hạnh phúc nhất trong tuần, thường thường dùng bữa với một số khách mời về nhà sau buổi lễ tại giáo đường.


    Buổi sáng hôm sau toàn thể gia đình tham dự buổi lễ tại giáo đường, nam giới và những con trai ngồi tại phòng hội họp, phụ nữ và con gái đi vào hành lang dành cho phụ nữ. Buổi lễ thay đổi tùy theo giáo đoàn. Thường thường, nó gồm có cầu Kinh Torah và hát những bài thánh ca được chỉ huy bởi người lĩnh xướng, một cư sĩ Do Thái có tài về việc này. Có những lúc dành cho những lễ cầu kinh và đọc kinh Torah. Cũng có thể có bài thuyết giảng của giáo sĩ.


    Sau khi trở về nhà, người Do Thái nghỉ ngơi theo cung cách tùy thích của mỗi người, mặc dù người Do Thái Giáo Chính Thống có nhiều hạn chế về làm việc, chơi, và đi lại. Vào buổi chiều, người đàn ông và con trai trở lại giáo đường để đọc kinh và thảo luận. Người Do Thái Chính Thống trù liệu rất cẩn thận cho ngày này, việc nấu nướng và làm vệ sinh phải hoàn tất trước ngày lễ Sabbath. Người Do Thái Bảo Thủ chỉ làm những công việc cần thiết, và Người Do Thái Cải Cách dành ngày này làm một ngày nghỉ ngơi và thờ cúng, không có giới hạn đặc biệt nào cho những hoạt động của họ. Tối đến, gia đình lại quy tụ để ghi nhớ mục đích của Lễ Sabbath và bắt đầu tuần lễ mới.


    Đã rất nhiều năm, Sabbath đã là một trung tâm đặc biệt trong đời sống gia đình người Do Thái. Tập tục thời đại cổ sử dụng một ngày trong bẩy ngày để nghỉ ngơi và thờ phượng là một đóng góp to lớn mà người Do Thái cống hiến cho thế giới. Điều đó từ lâu đã được chia sẻ bởi những người Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo -- dù những ngày khác đã được chọn cho mục đích này.


    Lúc đầu, lễ Sabbath Do Thái là một lý tưởng mới đối với quảng đại quần chúng làm việc cực nhọc nhiều giờ ngày này qua ngày khác không có ngày nghỉ cuối tuần và nghỉ lễ. Người Do Thái được yêu cầu cử hành lễ Sabbath và giữ nó trong sạch, cho bất cứ ai cần sự nghỉ ngơi và thay đổi như vậy. Có thể là kế hoạch xen kẽ đều đặn hàng tuần giữa nghỉ ngơi và hoạt động, giữa làm việc và lễ bái, đóng góp nhiều vào sự thành công của người Do Thái trong nhiều lãnh vực.


    Trong mười điều răn, người Do Thái được nhắc nhở về tấm gương của Thượng Đế: "...trong sáu ngày, Chúa tạo ra thiên đàng, trái đất và biển, cùng với tất cả những gì trong đó, nhưng nghỉ vào ngày thứ bẩy: đó là cách Chúa đến ban phước lành vào ngày thứ bảy và làm nó trở thành thiêng liêng. Điều này tăng thêm tầm quan trọng của tôn giáo đối với nhu cầu nghỉ ngơi. Những giáo sĩ uyên bác dạy rằng lễ Sabbath phải phục vụ nhu cầu cho con người cũng như của Thượng Đế. Đối với người Do Thái, đời sống con người bao giờ cũng là mối quan tâm lớn lao hơn là phép tắc trừu tượng.


    Rosh Hashonah: Năm Mới. Vào tháng thứ bẩy của lịch Do Thái, người Do Thái dành một thời gian dài để suy xét và sám hối. Ngày bắt đầu năm mới được tổ chức trọng thể tại giáo đường với tù và thổi, gọi là shofar. Âm thanh này mở ra đợt thời gian mười ngày cho người Do Thái kiểm điểm lại đời họ và tìm sự tha thứ cho các lỗi lầm của mình.


    Vì lịch Do Thái căn cứ vào chu kỳ mặt trăng chứ không phải mặt trời, cho nên chính xác ngày này thay đổi từng năm. Rosh Hashonah có thể đến sớm vào tháng Chín hay đầu tháng Mười.


    Đối với hầu hết người Do Thái, giai đoạn mười ngày này là thời gian phán xét. Truyền thống cổ nói rằng trong thời gian này, Thượng Đế quyết định ai sẽ sống, ai sẽ chết; ai sẽ được nghỉ ngơi, ai sẽ phải lang thang; ai sẽ được an ổn, ai sẽ bị phiền nhiễu; ai sẽ trở nên nghèo khó và ai sẽ trở nên giàu có; ai sẽ bị sa sút, và ai sẽ được đề cao. Truyền thống cổ xa xưa hơn nói Rosh Hashonah là ngày Thượng Đế viết Thiên Phán Xét vĩ đại ghi hồ sơ cuộc đời mỗi người.


    Mười ngày cho người ta thời gian suy nghĩ về cuộc sống của mình và những gì có thể làm được về đời sống. Mười ngày này cho người ta thời gian và cơ hội thấy những lỗi lầm của mình và cố gắng sửa chữa những lỗi lầm này. Mười ngày thật trang nghiêm vào những ngày lễ thần thánh. Người Do Thái truyền thống tin rằng người ta có thể thay đổi được hồ sơ trong Thiên Phán Xét nếu thành thực, tử tế, và ăn năn sám hối đủ. Họ tin là Thiên Phán Xét sẽ đóng lại vào lúc kết thúc mười ngày.


    Đỉnh điểm của lễ tiết năm mới là Yoni Kippur, ngày thứ mười của năm mới. Nó bắt đầu vào lúc mặt trời lặn (như tất cả những ngày lễ Do Thái) và tiếp tục trong 24 giờ. Theo truyền thống, những người Do Thái trưởng thành không ăn uống vào ngày này. Họ dành tất cả thì giờ vào việc suy tư và cầu nguyện. Có một khóa lễ trang trọng tại giáo đường mà người Do Thái nào cũng cố gắng tham dự. Buổi lễ bắt đầu với giai điệu luôn âm vang trong đầu, bài ca Kol Nidre. Đó là sự cầu xin thoát khỏi những lời nguyện tôn giáo không giữ được -- nhắc đến những ngược đãi mà người Do Thái bị đau khổ không biết bao lần trong tay những người không phải là Do Thái. Chấm dứt lễ Yoni Kippur cũng lại bằng tiếng tù và thổi. Nó có ý nghĩa là đóng lại Thiên Phán Xét cho đến năm sau.


    Khái niệm về Thiên Phán Xét và Thượng Đế với tư cách là Quan Tòa vĩ đại cũng được thấy ở các tôn giáo khác. Và người Do Thái, giống như những dân tộc khác, đã giải nghĩa truyền thống theo nghĩa đen. Hoặc họ có thể giải nghĩa theo ý nghĩa tinh thần và cá nhân sâu xa. Đôi khi họ gọi là "Những Ngày Kinh Sợ" là những ngày mà người Do Thái hỏi những vấn đề quan trọng về đời sống và tiếp tục phát triển tinh thần. Do Thái Giáo không đưa ra cho tín đồ những câu trả lời dễ dãi trước những vấn đề tôn giáo. Thay vì, Do Thái Giáo khuyến khích họ tự vấn và tìm ra cách sống tốt đẹp hơn.


    Người Do Thái không được dạy bảo rằng nhân loại căn bản là tội lỗi hay những nhu cầu bình thường và lợi ích là sai. Không có thầy tu hay nữ tu sĩ trong Do Thái Giáo. Thay vì, người Do Thái nhấn mạnh cái đẹp tuyệt vời của đời sống gia đình. Trong dịp năm mới, người Do Thái được khuyến khích suy nghĩ về mối quan hệ với những người khác. Họ đã hành động bằng tình thương yêu chân thật và công bằng không? Họ đã khiêm nhường, nhớ đến những giới hạn của mình chưa? Họ có cần xin tha thứ cho những tội lỗi gây ra cho người đồng hương không?


    Những hành động thương yêu-khả ái là những phương tiện tốt nhất để đền bù. Như những giáo sĩ nói, "Ai có tội phải thú nhận và ngại ngùng làm như vậy, hãy để cho người đó đi và làm điều thiện và họ sẽ tìm được sự tha thứ".


    Trong khóa lễ Yoni Kippur, một số tiết được đọc từ cuốn của Isaiah. Những tiết này vạch rõ cho người Do Thái đi lễ rằng trọng tâm của tôn giáo là sự quan tâm thương yêu người khác:


    Không phải tôi ăn chay?
    Có thể nới lỏng những vòng dây ác,
    Xóa bỏ những gánh nặng,
    Và để những người bị áp bức được tự do?
    Không phải là chia miếng bánh cho người đói,
    Cũng chẳng phải cái bạn mang lại cho người nghèo bị đuổi ra khỏi nhà?
    Khi bạn thấy người trần trụi, bạn cho họ manh áo;
    Bạn không che dấu mình bằng da thịt của chính bạn?
    Rồi ánh sáng sẽ phá màn đêm khi ban mai...
    Và sự ngay thẳng của bạn sẽ vượt lên trên.


    Lễ Succos: Tabernacles. Một trong những ngày lễ Do Thái vui nhất là lễ Succos, lễ này đến vào mùa gặt, khi những cây nho nặng trĩu trái nho, và những hạt lúa chín vàng đầy đồng. Đó là ngày hội tạ ơn, kéo dài chín ngày. Nó nhắc nhở người Do Thái thời điểm phải rời khỏi Ai Cập khi họ bắt buộc phải sống trong những chòi nhỏ (gọi là succos) ở dọc đường. Người Do Thái thường làm mô hình những chòi này cũng được gọi là tabernacles Họ trang hoàng những cái chòi này bàng hoa, quả và cành cây để tưởng nhớ đến lòng bao dung của Thượng Đế.


    Những người Do Thái hiện đại nghĩ đến lịch sử khổ đau của những tín đồ đồng hương cũng như về dân tộc khác. Vào ngày Sabbath trong dịp lễ Succos, lời cầu nguyện sau đây được tụng:


    Hôm nay với lòng biết ơn chúng con nhớ đến Thượng Đế thương yêu đã hướng dẫn cha ông chúng con trên bước đường lang thang qua sa mạc hoang vu, và nơi hoang dã không có đường qua... Chúng con cảm ơn Thượng Đế với lòng nhân từ không bao giờ cạn đã hướng dẫn và che chở chúng con, những đứa con trong tất cả năm tháng hành hương của chúng con... Chúng con cầu nguyện rằng ân hưởng sự phù hộ của Thượng Đế sẽ thức tỉnh trong chúng con, tinh thần thỏa mãn và dũng cảm chịu đựng mà chúng con không bao giờ tự đắc do thành công và chẳng bao giờ cay đắng bởi thất bại.


    Cầu mong chúng con cảm tình với những ai mà hy vọng của họ đã bị thất bại và công lao của họ đã không kết quả. Cầu mong cho bàn tay của chúng con sẽ được giang ra với những người đau khổ, và tấm lòng của chúng con sẽ mở rộng cho những ai cần đến. Đội ơn Thượng Đế, Ôi lạy Chúa, Người cho tất cả điều thiện. A Men.


    Vào ngày thứ chín của lễ Succos, có một lễ mừng tại giáo đường, khi những cuộn kinh Torah được rước bởi một đoàn người vui vẻ. Đôi khi mọi người tham gia nhảy múa và ca hát. Đó là một cách nữa để người Do Thái bầy tỏ lòng thương yêu kinh Torah. Vào ngày này, những tiết cuối cùng của Kinh Torah (Deuteronomy 34) được đọc lên. Rồi người giáo sĩ quay về với tiết đầu của Genesis (Chúa Sáng Tạo Ra Thế Giới):"Khởi đầu, Thượng Đế..." Hàng năm họ bắt đầu đọc toàn bộ kinh Torah như thế ở mỗi giáo đường.


    Hanukkah: Lễ Dâng Hiến. Lễ Hanukkah là lễ dâng hiến thường đến vào tháng Chạp. Người Do Thái cử hành lễ này trong tám ngày, trong những ngày này có những buổi lễ đặc biệt tại giáo đường, thức ăn cho ngày lễ đặc biệt và quà tặng. Hanukkah nhắc nhở người Do Thái hiện đại một biến cố có ý nghĩa trong quá khứ khi tổ tiên của họ tranh đấu cho tự do tôn giáo.


    Vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, người Xy Ri nắm quyền kiểm soát Palestine và cố gắng ép buộc người Do Thái đình chỉ hoạt động tôn giáo. Một số người Do Thái đã ngưng theo lệnh. Một số khác từ chối mặc dù có sự trả thù của người Xy ri. Một thầy tu già, Mattathias, bắt đầu cuộc nổi dậy. Sau này, con của ông ta, Judah Maccabee, đưa cuộc nổi dậy tiến xa hơn nhiều và giành được chiến thắng cuối cùng chống lại quân đội Xy ri. Trong cuộc lễ giành lại được tự do, người Do Thái vào thành Jerusalem tẩy uế ngôi đền, và tái lập sự thờ phượng tại đây. Họ tìm thấy một hộp đựng dầu đóng kín thường dùng trong những buổi lễ của họ. Theo truyền thống, dầu này được thắp trước bàn thờ trong tám ngày.


    Bây giờ người Do Thái đốt tám ngọn nến trong lễ Hanukkah, thường thường đốt một ngọn vào tối hôm đầu, ngọn thứ hai vào đêm thứ hai và cứ thế tiếp tục. Họ cũng gọi lễ Hannukkah là Hội Hoa Đăng. Hanukkah là lúc cực kỳ vui sướng và cũng là lúc trang trọng nhớ lại tự do quý giá nhường nào. Lức này người Do Thái đặc biệt cảm tạ về sự tự do được lễ bái theo lương tâm của chính họ Cuộc tranh đấu cho tự do tư tưởng và thờ cúng không bao giờ có thể hoàn toàn chấm dứt. Đây là một nhiệm vụ đang tiếp diễn và người Do Thái xác nhận điều này khi họ đọc kinh cầu nguyện lể Sabbath đặc biệt trong lễ Hanukkah:


    Ôi lạy Chúa, hãy ban phước cho chúng con, đem ánh sáng Hanukkah tỏa chiếu nhà chúng con và đời sống chúng con. Cầu xin ánh sáng này nhen lên trong chúng con ngọn lửa của niềm tin và lòng nhiệt tâm giống như Maccabees thời xưa, chúng con chiến đấu can trường vì chính nghĩa của Thượng Đế. Xin hãy làm cho chúng con xứng đáng với lòng thương yêu và phước lành của Thượng Đế, cái khiên và người bảo vệ chúng con. Amen.


    Lễ Purim. Vào đầu xuân -- thường vào tháng Ba - người Do Thái cử hành một ngày lễ mừng đặc biệt. Trong các giáo đường người ta qui tụ để nghe đọc về Megillah, cuốn sách về Esther. Trái với sự lưu ý nghiêm trang thông thường trong buổi lễ, người Do Thái trong ngày này phát cho trẻ em những đồ gây tiếng ồn để dùng ở một vài chỗ trong lúc đọc. Sau này trẻ em có thể chuyển thành kịch một câu truyện cổ. Bạn bè và thân quyến thường trao đổi quà tặng, và nhiều người Do Thái rất thích loại bánh quy đặc biệt, gọi là bánh Haman.


    Câu chuyện mà họ nghe trong giáo đường liên quan đến một phụ nữ Do Thái đẹp thuở xưa, Esther là vợ của Hoàng Đế ở Persia. Cậu của Esther, Mordecai tình cờ khơi dậy lòng thù ghét một vị quan cao cấp trong triều tên Haman.


    Để trả thù, Haman bắt đầu một kế hoạch tiêu diệt tất cả người Do Thái, buộc tội họ không trung thành với nhà vua. Khi Esther biết được kế hoạch này, bà liều chết vạch trần âm mưu của Haman, bộc bạch dòng dõi Do Thái của chính bà với nhà vua. Kết quả, nhà vua vinh danh Mordecai -- và Haman bị treo cổ, một hình phạt mà chính y định sửa soạn cho Mordecai.


    Người Do Thái vui mừng nghe đọc truyện này hàng năm. Họ sung sướng với bàu không khí hội hè linh đình tràn ngập giáo đường vào đêm đó với những trẻ em sử dụng mạnh mẽ những đồ gây tiếng ồn ào bất kỳ ở đâu tên Haman được nói đến. Chính họ cũng không quan tâm nhiều đến truyện có thật hay không khi đem đọc. Nhiều học giả Do Thái cho rằng truyện đó chỉ là cuốn tiểu thuyết lịch sử.


    Tuy nhiên ý nghĩa của câu chuyện là có thật và đúng. Đó chính là chuyện hận thù hướng vào người Do Thái, chỉ vì họ là người Do Thái. Lời buộc tội chính của Haman chống lại người Do Thái là vì lối sống của họ "khác biệt". Việc buộc tội này, cũng như những thứ tương tự như vậy đã được phóng đi chống lại người Do Thái nhiều lần không kể xiết trong quá khứ. Thảo nào mà họ cử hành lễ này hàng năm về chuyện sa sút của một kẻ áp bức chống người Do Thái.


    Người Do Thái cử hành lễ Purim không phải chỉ vì lý do này, mà cũng là để công nhận tình anh em chung. Nhiều giáo sĩ nói rằng khái niệm căn bản của ngày này là những dị biệt giữa con người không cần phải gây ra chia rẽ bất đồng. Sâu xa hơn tất cả những dị biệt là lòng nhân đạo của chúng ta. Trong truyện này, nhà vua chấp nhận dân tộc có lối sống khác biệt cho thấy ông đã nhìn thấy nhân loại bị chia sẻ dưới tính đa dạng bên ngoài.


    The Passover (Lễ Quá Hải). Người Do Thái, giống như tất cả các dân tộc khác, có một lễ hội vào mùa xuân. Xa xưa, người dân cử hành lễ cầu nguyện cho đất mầu mỡ lại, những con vật mới sinh trong bầy của chúng, và cây non phát triển trong đời sống cỏ cây. Hàng trăm năm qua, người Do Thái tổ chức lễ hội mùa xuân để tưởng nhớ những biến cố huyền thoại được mô tả ở những chương đầu của Cuốn Exodus (Sự Rời Khỏi Ai Cập).


    Trong nhiều năm, người Do Thái đã bị giữ làm nô lệ tại Ai Cập. Moses trở thành người phát ngôn của họ và tìm cách giải thoát họ khỏi Vua Pharaoh Ai Cập. Nhưng ông vua này trở nên hết sức bướng bỉnh, theo huyền thoại, mặc dầu nhiều tai họa do Thượng Đế giáng xuống người Ai Cập. Cho nên Thượng Đế đã sai một tử thần giết tất cả những gì mới sinh trên đất Ai Cập, cả người lẫn vật. Tuy nhiên người Do Thái không bị giết. Họ đánh dấu nhà họ bằng máu cừu. Cho nên tử thần "bỏ qua" nhà họ. Vua Pharaoh thuần tính lại, và người Do Thái hấp tấp bỏ đi. Đến nỗi họ không có thì giờ cho men vào bánh. Người ta phải nướng bánh mà không có men.


    Trong thời gian cử hành lễ Passover, tất cả men đều được mang đi khỏi nhà Do Thái truyền thống tám ngày. Người Do Thái ăn Matzos, bánh không men, để tưởng nhớ đến những sự đau khổ của tổ tiên. Đôi khi họ gọi lễ Passover là Lễ "Bánh Không Men". Bánh đặc biệt, cỏ đắng, và những đồ ăn tượng trưng khác giúp họ kỷ niệm sự giải thoát dân Do Thái khỏi xiềng xích.


    Nhiều người Do Thái không bao giờ chấp nhận chuyện về những tai họa và phép lạ trong Cuốn Exodus theo nghĩa đen hay là sự thật lịch sử. Đó là vấn đề cá nhân hay phê bình giải thích những bản văn của thánh kinh. Một số giáo sĩ dạy "tai họa của tăm tối" tỷ dụ chỉ là cái tên khác của dị đoan, và sự mù quáng tinh thần. Cho nên một số người Do Thái cử hành lễ Passover không chỉ là sự giải thoát khỏi một bạo chúa độc ác, mà còn là giải thoát khỏi xiềng xích của những thói xấu và ý định tội lỗi.


    Những ngày lễ Do Thái không đơn giản cử hành và trang nghiêm những việc cho là đã xẩy ra trong quá khứ. Những ngày lễ bao giờ cũng có một ý nghĩa trọng đại cho hiện tại. Đó là vì tập quán Do Thái được trải nghiệm trong nội tâm người Do Thái -- không phải là đồ mặc vào những dịp lễ. Đúng như vậy, vào ngày lễ Passover, trong khi người Do Thái nghĩ về cảnh nô lệ xa xưa, họ cũng cầu nguyện cho người bị làm nô lệ ngày nay:


    Thượng Đế của tự do, các con của Ngài vẫn rên xiết dưới gánh nặng của người phân cắt công việc độc ác. Sự nô lệ hạ thấp giá trị của thân và tâm của họ, và làm họ mất đi niềm vui về lòng hào phóng của Ngài. Nỗi sợ hãi về độc ác và sự hiểm họa của cái chết đã làm hại linh hồn con người. Xin Thượng Đế hãy phá vỡ những xiềng xích đã trói buộc họ. Xin hãy dạy cho con người hiểu rằng rèn đúc xiềng xích cho người khác là rèn đúc xiềng xích cho chính mình, chừng nào còn có người vẫn ở trong gông cùm thì không một người nào thực sự được tự do. Xin hãy giúp cho họ thấy rằng tự do chính là điều cần thiết, hơi thở của cuộc đời và chỉ trong bầu không khí của tự do thì chân lý, thịnh vượng và hòa bình mới có thể thăng hoa.


    Lễ hội Shavuos. Người Do Thái cổ cử hành lễ hội này vào lúc gặt lúa mạch tại Palestine. Sau này, người Do Thái cử hành lễ hội Shavuos để tưởng nhớ đến Thượng Đế đưa kinh Torah cho Moses. Việc gìn giữ lễ hội này nhấn mạnh đến niềm tin tôn giáo căn bản của họ là vũ trụ có luật lệ, trật tự, và mục đích.


    Trong những buổi lễ tại giáo đường, cuốn Ruth được đọc trước giáo đoàn. Trong những giáo đường Cải cách và Bảo Thủ, dịp này gồm cả lễ Kiên Tín cho trẻ em. Trẻ em đã hoàn tất khóa học dưới sự chỉ dẫn của giáo sĩ, tuyên bố trước giáo đoàn lòng trung thành với Thượng Đế và ý định sống theo luật của Ngài.


    Trên những phương diện đó, người Do Thái đứng trước những đòi hỏi và bí ẩn của đời sống, vững tin vào Thượng Đế, và hãnh diện về truyền thống của họ. Từ ngàn năm qua, dù phải đối đầu với vấn đề gì, người Do Thái vẫn tin vào Luật của Chúa. Họ có được sức mạnh từ lời tuyên bố đơn giản: "Chúa là Một"
    Last edited by Long4ndShort; 11-06-2012 at 06:30 PM.

  7. #7
    Better New Year ốc's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Ốcland
    Posts
    9,595
    Em thấy họ cũng chả có đoàn kết lắm đâu. Từ ban đầu khi mới xuống núi lập nghiệp anh em đã giết nhau, xong rồi cha suýt tí nữa thì giết con, xong rồi vua giành vợ của tướng, xong rồi xứ Du đê a thì ghét xứ Xa ma ri ta, xong rồi nguời Pha ri xê thì không ưa người Xa đu xê, xong rồi còn bắt chúa Giê xu đi nộp cho chính quyền thuộc địa La mã... Not very kosher.

  8. #8
    ( Ngô Thị Lú tự Lú-Xì ) ntđl's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,436
    *

    Chào chủ nhà.
    Tui vẫn theo dõi mạch bài về do thái bên kia, bị vì... theo như định nghĩa trong bài viết dán lần này, tui rất có thể thuộc nhánh do thái giáo. Vậy xin có đôi lời.

    Judaism, Islam và Christianism có chung nguồn gốc và tổ tiên : Cụ Abraham.
    Theo như sách sáng thế ký, cụ Abraham là ông tổ nhơn loại vì cụ là hậu duệ của Adam, và Adam do tay Thương đế đích thân tạo thành. Toàn nhơn loại trên mặt đất ni là con cháu hai ông đó ráo nạo.

    (Đây là nhìn vào thánh kinh ha, và thánh kinh kể những chuyện xưa tích cũ rất khó kiểm chứng - Adam sống tại vùng địa đàng (khúc Posotamie) nớ một hồi thì di cư sang trung Hoa và cải tên thành Bàng Tổ, rồi lại đi lô ca chân sang Việt Nam và đổi tên nữa nhưng tui hổng nhớ tên chi, con cháu Adam ở đây trở thành họ Hồng Bàng và sau khai sanh triều đại Hùng Vương kéo dài 18 đời, kiên trì dựng nước và giữ nước. Vụ này sử sách chưa kịp update heng, thành có kiếm cũng... hổng ra - )

    Biểu đạo Hồi và đạo thiên chúa xuất phát từ do thái giáo là nói có hơi xa... sự thật !
    Cựu ước kể chuyện tạo dựng đất trời cùng con người, rồi có vụ chia ra 3 hướng thành 3 tôn giáo khác nhau, và 3 tôn giáo nớ có cùng nguồn gốc. Hổng hề có cái này xuất xứ từ cái kia.

    Rồi... tại sao người do thái đoàn kết hở ?
    Việc đoàn kết ni là chuyện tương đối do góc đứng nhìn vào.

    Do thái tại Israel cũng chia năm xẻ bảy, kỳ thị tùm lum. Do thái gốc âu châu chê do thái gốc ả rập. Do thái ả rập chê do thái phi châu (ethiopia) v.v..
    Thông thường tại Israel, sắc dân nào sống với sắc dân ấy, hổng thích trộn lộn. Chánh sách hoà nhập do chánh phủ đề ra, suốt từ thời lập quốc (cuối thập niên 40) tới nay vẫn chưa thể làm dân chúng xích lại gần nhau được. Chưa kể là cũng đã có những hướng đi khác biệt ngay trong đạo do thái, tạo những hàng rào cản làm việc thống nhứt thành khó khăn hơn.

    Tại quốc ngoại, đám do thái kiều sống rải rác trên toàn thế giới phần lớn thành công. Sảy sàng xuống nia (chời ơi chời, sao bữa nay chữ nghĩa tui sáng rỡ vầy nè chời) an cư lạc nghiệp xong xuôi, rảnh rang ra họ mới lo cho... khúc ruột ngàn dặm. Và cái khúc ruột nớ là một khúc ruột bình thường, hổng bịnh hoạn táo bón ung thư chi dzáo.

    Đại khái nó là như vậy, và dĩ nhiên cũng đã có những trường hợp ngoại lệ.
    Trong thập kỷ trước, hổng rõ vì sao, thinh không ngay tại đất do thái, đã nứt ra một nhóm trẻ, tỉnh bơ mần màn viết lại lịch sử.
    Lịch sử viết lại nó như vầy : Chuyện 6 triệu mạng người do thái âu châu chết vì Đức quốc xã là chuyện hoang đường hổng có thiệt, dân do thái ở đâu ra mà chết lắm vậy. Đây là âm mưu của đám cánh phải cực đoan, thổi phồng con số lên nhằm mục đích nhóm lại ngọn lửa ái quốc !

    Dĩ nhiên là đã có tranh luận dẫn đến tranh cãi và... xả rác !
    Mới đây, thinh không một ông bishop công giáo đất mỹ, dựa vào đâu hổng rõ, cũng ra trước công chúng mần màn rộng đường dư luận y chang, rồi ông bị Vatican khiển trách ra lệnh... ngậm mỏ !

    Dà, tui theo dõi loạt bài Do thái trong phố ngay từ đầu đó nha.
    Hồi chủ nhơn L4&S dán mấy tấm hình được cho là "kỳ cục" bên kia - hay cái chi tương tự vậy - thì tui ngợ ra, rồi cũng thấy kỳ cục y chang.
    Vì rằng... đã theo dõi tìm hiểu dân tộc do thái và đạo do thái tường tận như rứa, hổng ai thắc mắc vì sao nhánh do thái chánh thống ấy còn cứ khư khư giữ tập tục và lối sống xưa cũ, nhứt định hổng thay đồi.
    Trừ phi... sự việc hình ảnh được mang ra để kích thích óc tò mò của độc giả - những người đọc trong nước thôi, chớ người ngoài nước vẫn thấy họ như cơm bữa, hổng kỳ cục lạ đời chi dzáo nạo.

    Dài dòng vậy để kết luận ra sao hở ?
    Thưa... y chang những quốc gia khác, con dân đất nước do thái cũng có những vấn đề của riêng họ. Chuyện hướng về quê nhà của Do thái kiều thì cũng y chang như việt kiều hướng về VN vậy thôi. Mà mọi chuyện cứ xuôi chèo mát mái với dân tộc do thái là vì Do Thái là nước dân chủ tự do, hành pháp lập pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Người trong nước an cư, người ngoài nước an lòng.

    So sánh VN với do thái là so sánh khập khiễng, bị vì đất do thái là đất để trở về, và VN là đất để... đi luôn.
    Bao lâu cái đám mafia thổ phỉ nớ còn nhơn danh lợi dụng để hưởng lộc thì người dân vẫn còn mần màn mass-exodus khi có thể.

    Nói chi cho xa, so sánh VN với Đại hàn ngó bộ chánh xác hơn. Đại Hàn cùng VN hầu như giống nhau về văn hóa phong tục và hoàn cảnh chánh trị.
    Từ 1949 tới nay, Đại hàn đã bỏ xa VN tới hơn một trăm năm, và Nam Hàn đã bỏ xa Bắc hàn hơn 200 năm lận.
    Tại sao hở ? Hỏi tức là trả lời vậy.

    Xin hết.
    Make the long story... short !

  9. #9
    Tui tạo ra 1 đống tư liệu hình ảnh video clip về do thái ,
    để cho sau này ai muốn tra cứu thì dễ dàng tìm kiếm hơn thôi

    mà văn hóa do thái nó cũng ngồ ngộ , lúc hát hò mà nghe nó có chất miền quê

    mặc dù tụi do thái mặc đồ châu âu ,
    nhưng mà lúc nghe tụi nó hát vẫn có một chút gì đó Á Đông
    ( ở clip trên , gần khúc cuối )
    Last edited by Long4ndShort; 11-07-2012 at 02:01 PM.

  10. #10
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    566
    Chào quí vị

    Vì biết dân Do thái là dân của Chúa , lại hay đoàn kết nên các đấng đỉnh cao trí tuệ loài người mời Thủ tướng Do Thái Benjamin Netanyahu qua bàn chuyện làm ăn và học hỏi . Ông này mới hỏi TT Dũng là chúng tôi qua thăm đất nước VN chừng trăm người rồi đi thăm viếng lăng Bác . Nghe vậy các d/c lớn mặt mày xanh rờn , chân cẳng rụng rời muốn té . Hỏi sao vậy , d/c Trọng mặt nhợt nhạt giả nhời : " Chúng tui nghe nói ở đâu có đông dân Do Thái tụ tập là hay có sự cố người hồi sinh lắm . Chúng tui sợ Bác đội mồ sống lại , cứ để yên Bác nằm nghỉ trong lăng . Xin đa tạ các vị .

 

 

Similar Threads

  1. Hình ảnh xưa hiếm quý
    By nvhn in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:07 AM
  2. Hình ảnh xưa hiếm quý
    By nvhn in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 0
    Last Post: 01-09-2012, 08:47 AM
  3. Thử Đăng Hình
    By ngocdam66 in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 244
    Last Post: 01-06-2012, 08:35 PM
  4. Thử Đăng Hình
    By ngocdam66 in forum Thử Chữ Việt
    Replies: 219
    Last Post: 12-02-2011, 04:23 PM
  5. Hình ảnh đi mượn
    By timrim in forum Thú Tiêu Khiển
    Replies: 32
    Last Post: 10-30-2011, 09:25 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 03:12 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh