Register
Page 1 of 7 123 ... LastLast
Results 1 to 10 of 68
  1. #1
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    ĐỒI MAI VÙI KIẾM (Thơ Truyện Lục Bát)- TácGiả: Huyền Hạc BÙI THANH KIÊN-Người Đăng: NhàQuê


    ĐỒI MAI VÙI KIẾM

    - Tác Giả: Huyền Hạc BÙI THANH KIÊN

    -Người Đăng: NhàQuê


    Tác Giả:



    - Tên thật: Bùi Thanh Kiên

    - Bút Hiệu: Bùi Thanh Kiên, Huyền Hạc, Hải Chu, Nam Chi ...

    - Hiện cư ngụ tại Sài Gòn


    Tác Phẩm:

    - Truyện Thơ ĐỒI MAI VÙI KIẾM -

    - Tuyển Tập Thơ Hải Chu - Huyền Hạc
    (Đường và Xướng Họa, Lục Bát, Mới, Vườn Quỳnh)

    - Phương Ngữ Trong Ca Dao Nam Bộ -

    - Nói Lái - Một Lối Chơi Chữ Trong Dân Gian -

    - Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ (Nam Chi BÙI THANH KIÊN) -
    (Hội Văn Nghệ Thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre Xuất Bản)



    ĐỒI MAI VÙI KIẾM

    của Huyền Hạc, bút danh của anh Bùi Thanh Kiên, cựu GS/TH Kiến Hòa

    Tập Thơ Truyện nầy trải dài 4554 câu không kể các Bài Biểu, Văn Tế, Thơ Phó Thác ...,

    gồm Phần Mở Đầu, Bảy HỒI và Phần Kết Thúc

    Đây không đơn thuần là Tập Thơ Truyện bình thường

    mà là một Tỷ Sánh, Liên Hệ Cổ Kim và Nhất Là Chuyển Tải Tâm Sự.....

    Xin được giới thiệu đến các bạn

    và mời xuyên suốt thưởng ngoạn

    NhàQuê




    Tập truyện thơ


    ĐỒI MAI VÙI KIẾM:


    Mấy lời tự ngôn:



    Văn chương vốn dĩ là cái của báu của con người. Nó muôn đời nay vẫn giữ được nét thanh tân cao quí của nó. Vậy mà trong đời biết bao nhiêu kẻ vô sỉ lạm dụng cái ảo diệu thần kỳ, cái hào quang của nó để mê hoặc lòng người, xum xoe miệng lằn lưỡi mối để xu nịnh hòng tìm cầu chút manh áo miếng cơm. Bổn thân tôi thì không, không bao giờ. Bước vào cuộc đời thân trần lưng trụi, mảnh vải che thân cũng phải nhờ xã hội thì sống trên đời có cần gì cái lợi cái danh? Tôi tâm niệm: sống là nhập cuộc, là xuống thuyền (Nous sommes embarqués), đóng xong một vai trong tấn trò đời rồi lại phiêu du lưu diễn nơi khác. Đi vào đời là một bổn phận, một trách nhiệm chớ không phải để ma mảnh kiếm tiền, đoạt của thiên hạ sống sung túc giàu sang. Cuối đời nhìn lại, có nhiều kẻ còn sống như đã chết, trốn vai diễn mà cuộc đời giao để chun vào cánh gà ngủ say mặc cho thế sự. Cũng có những kẻ diễn tồi mà vẫn đòi thù lao trọng hậu, cố xin những vai đội mão mang râu để khỏi dọn lớp, kéo màn. Đóng vai vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan mà vẫn nghinh ngang tự đắc, tự cho mình là nhơn vật trọng yếu, không có mình thì màn kịch, vở diễn sẽ chảy re.

    Kẻ bất tài muốn chiếm địa vị cao phải ngoác mồm nói phét. Tôi từ chối hành động của bọn vô lương lạm dụng tánh chất cao thượng vô tư của văn chương để hùa theo tội ác.

    Viết tập truyện thơ nhỏ này là tôi chỉ muốn nói chuyện với riêng mình và các mặc khách tri âm tri kỷ. Thế giới của nó thu gọn trong hột cải mòng, trong đầu kim nhỏ xíu an bình giữa cái thế giới bao la bát ngát mà hỗn độn xô bồ của giống người cư xử với người như loài lang sói.Sự kiện lịch sử đời Đường chỉ là một phần nhỏ, còn bao nhiêu là phiêu bồng trong sương trong khói, còn lại bao nhiêu là mỏi cánh hạc bay trong thế giới huyền nhiệm của ước vọng tâm tư. Ta mơ ước một mẫu người hoàn thiện sống trong một xã hội thuần lương. Tinh hoa triết lý tam giáo hòa quyện vào nhau phối hợp với hồn thiêng sông núi tạo ra một mẫu người, một xã hội như vậy. Dùng cảnh để gợi tình rồi cũng dùng cảnh mô tả tình. Cảnh và tình hòa quyện lấy nhau thành một thế giới ý niệm bất phân ly không biên cương mà cũng không thể tách riêng ra được. Đừng bao giờ đặt vấn đề nhơn vật kia, địa danh đó có thiệt không, giữa nơi này xa cách nơi kia là bao nhiêu dặm, sao không nghe nói trong chánh sử? Tất cả chỉ là nét phóng bút thô kịch theo dòng tâm tư nhưng cố tạo ra một thế giới thuần ý niệm,-người đời cho là đúng cũng đúng, cho là sai thì cũng đúng. Nó có phải viết cho đời đâu mà phê phán?-Không lẽ quá vô công rồi nghề, mà lấy con mắt nhị nguyên vụn vặt để nhận xét bàn tán chuyện của người. Bản thân tôi vốn dĩ rất ghét bọn lấy tâm lý hẹp hòi của mình để suy đoán chuyện của thiên hạ. Hãy coi nó như một thực thể vô hại có mặt trên đời này. Hãy để nó yên và đừng bao giờ bận tâm tới nó.



    *
    * *


    Ngẫu hứng


    (đề tựa tập Đồi mai vùi kiếm)


    Riêng tặng đám bạn bè xa vắng.
    Miên man con sóng vỗ bờ,
    Đất cay lửa hạ, trăng mờ thềm rêu.
    Tay buồn gom nắng đìu hiu,
    Hong tơ mướt cũ một chiều chiêm bao.
    Tương tư tắt lối nguồn đào,
    Lệ tình si đẫm nhịp cầu tầm tiên.
    Lưng khòm nặng gánh nghiệp duyên,
    Kiếp con tằm,-giấc ưu phiền ngàn năm.


    Mùa hè 1972.




    PHẦN MỞ ĐẦU:


    1-Nghiệp duyên, canh bạc lộn sòng,
    Sấu hùm bỏ rọ, giam lồng mà chơi!
    Thân tàn, chí luyến mây trời,
    Xây nền lễ trị, dựng đời thăng hoa.
    Chơn trần thương giọt máu pha,
    Sân quê, mai nẩy chồi ba bốn lần.
    Ngựa cuồng giậm vó bâng khuâng,
    Nhớ ngày biển Sở sông Tần dọc ngang.
    Chim chiều gọi nuối bóng tàn,
    10-Cánh hồng mút mắt tách ngàn bay cao.
    11-Canh dài, đợi sáng còn lâu,
    Hắt heo bóng lẻ, giọt sầu giá đông.
    Muôn ngàn con nước đục trong,
    Hỏi về đâu?- Vẫn thuận dòng chảy xuôi.
    Đất kia, bồi lở lở bồi,
    Phù sa doi vịnh, bùi ngùi dấu xưa.
    Lầu vàng gác tía, ai ngờ,
    Hoang vu phủ lớp bụi mờ thời gian.
    Mượn oai mưa gió chiến tràng,
    20-Nên công hiển hách giữa làng giáo gươm.
    21-Cũng theo nắng úa chiều hôm,
    Phôi pha tắt ngấm lạc vòm trời mây.
    Ai say, ai tỉnh đời này?
    Dại khôn rồi cũng ra ngoài gò hoang.
    Hụp sâu dòng đục Thương lang,
    Vàng phai, thắm dợt, ngỡ ngàng nét son.
    Cảnh phù du có gì còn?
    Song trăng gác lạnh, nghe hòn sỏi rơi.
    Vào đời: nhập cuộc đùa chơi,
    30-Tàn canh: giủ áo bước dời lối xa.
    31-Giấc trăm năm, cõi người ta,
    Thảnh thơi, ngắm sắc yên hà mới hay.
    Phòng văn hé cánh mưa bay,
    Trà lan khơi mạch, một hai góp lời.


    Chú thích:

    Nghiệp: (Ph): ảnh hưởng việc làm trong kiếp trước mà mình phải gánh chịu trong kiếp này.
    Duyên: (Ph): điều kiện đưa đẩy để tạo ra nghiệp.
    Lễ trị: (Nho) - dùng lễ, đức dộ để trị dân, khác vớii pháp trị là dùng luật lệ, hình phạt.
    Thăng hoa: vươn lên tới chỗ tốt đẹp.
    Hồng: loại chim lớn có cánh rộng, bay cao và xa,-chỉ người anh hùng có chí lớn.
    Câu 23-24: lấy ý trong hai câu thơ cổ:
    Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị,
    Mãn nhãn bồng cảo thổ nhứt khâu.
    (tạm dịch: Những kẻ dại khôn xưa nay là những ai?
    Chỉ thấy khắp nơi một gò đầy cỏ dại)
    Thương lang: sách Mạnh tử có câu:
    Thương lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh,
    Thương lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc.
    (tạm dịch: nước sông Thương lang trong ư?-có thề giặt dải mũ của ta. Nước sông Thương lang đục ư?- có thể rửa chân ta).
    Phù du: (éphémère)- con thiêu thân, sinh vật nhỏ, đời sống chỉ kéo dài một ngày, thường lao đầu vào ánh sáng đèn đêm.

  2. #2
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527


    HỒI THỨ NHỨT:

    TRƯỜNG AN THẤT THỦ, HUYỀN TÔN TỚI CẨM THÀNH,
    ĐỒNG QUAN SA CƠ, ANH HÙNG LÂM MẠT LỘ
    .


    A-LOẠN AN LỘC SƠN.


    35-Trung nguyên sóng gió tơi bời,
    Sông khô núi sụp, đổi dời phù vân.
    Tôi loàn con giặc Lộc Sơn,
    Tiếm xưng đế hiệu, khinh lờn điện loan.
    Đất bằng sấm nổ sét vang,
    40-Xiên đồn đạp luỹ, phá tan thành trì.
    41-Thói thường quỉ lộng thời suy,
    Quốc Trung là đứa vô nghì ác gian.
    Ngựa trâu tầm loại hợp đoàn,
    Manh tâm xô ngã miếu lang Đường trào.
    Hương trời sắc nước bấy lâu,
    Tấn cung Dương thị làu làu bóng gương.
    Gác son kín cổng cao tường,
    Gấm phong lụa rũ hải đường mặt hoa.
    Lan vóc ngọc, huệ da ngà,
    50-Thẹn thua dung mạo, Hằng nga khom mình.
    51-Minh mông biển ái trời tình,
    Hồ thu dợn sóng long lanh đầu mày.
    Vẫy vùng thước kiếm khiên mây,
    Dễ no đáy mắt đầu mày hường nhan!
    Ngửa nghiêng nệm thuý màn loan,
    Vườn lê tơ trúc rộn ràng thâu đêm.
    Cầu vồng rỡ áo ngời xiêm,
    Men lừng lửa dục, lòng mềm dáng xuân.
    Bướm già si sắc hoa rừng,
    60-Ác tà thỏ lặn tưởng chừng phút giây.
    61-Trễ tràng triều ngự hôm mai,
    Nỗi dân việc nước đoái hoài chi đâu.
    Mây mưa càng đắm càng sâu,
    Võ vàng long thể, âu sầu hình mai.
    Éo le con tạo khéo bày,
    Non mòn sông cạn hoạ tai gần kề.
    Biên cương lửa ngập trời mê,
    Chập chùng xương chất, bộn bề thây phơi.
    Ngư Dương trống thúc chiêng hồi,
    70-Quân reo dậy đất, núi đồi chuyển nghiêng.
    71-Lũ cuồng thác loạn mọi miền,
    Chẻ tre, nát ngói, binh Yên ập vào.
    Cam Tuyền chìm giữa ba đào,
    Dập dìu quỉ dữ xôn xao lạ thường.
    Ngoài thành, vút múa nanh giương,
    Bình Lư hợp sức Phạm Dương dấy loàn.
    Mưu thần chước thánh khó toan,
    Thở dài bó gối khôn đường tới lui,
    Hôi tanh, sâu bọ lằng ruồi,
    80-Bu đeo hào luỹ, dập vùi cỏ hoa.
    81-Điều binh khoá chặt đường ra,
    Sục sôi lửa giận bốc hoà máu say.
    Được thua, quyết chỉ trận này,
    Danh thơm cõi suối làng mây muôn đời.
    Sá gì tên lạc đạn rơi,
    Sử xanh bia miệng nối lời muôn thu.
    Chốt đầu chận lối Thành Đô,
    Kình Dương ải vững, cơ đồ mới an.
    Trướng hùm, tướng sĩ luận bàn,
    90-Ngăn đường giặc tấn, bảo toàn đế kinh.
    91-Thuồng luồng quấy động biển xanh,
    Cọp điên cậy sức băng gành ào qua.
    Đông tàn, bấc lạnh cắt da,
    Lộc Sơn mở thế trận ra tung hoành.
    Vạc kêu sương hé bình minh,
    Sói lang cản lối, ngạc kình ngăn sông.
    Ra oai rõ mặt anh hùng,
    Đẩy lui sóng gió vẫy vùng dọc ngang.
    Bày xe, dọn pháo rộn ràng,
    100-Cửa viên dạ sắt gan vàng giáp công.
    101-Cao xanh đành đoạn phụ lòng,
    Bọc thây da ngựa tận trung dưới cờ.
    Phách nương gió phất dật dờ,
    Con thơ, vợ dại,-bơ vơ tìm về.
    Nực nồng máu nhớp bốn bề,
    Điêu tàn cõi ấy, thảm thê dường này.
    Ô chuỳ gió thốc bụi bay,
    108-Trường An tốc thẳng nội ngày tới nơi.


    CHÚ THÍCH:

    -Trung nguyên: (cn: trung thổ): chỉ Trung quốc.
    -Phù vân: mây nổi, do câu thơ Đỗ Phủ:
    Thiên thượng phù vân như bạch y,
    Tu du hốt biến vi thương cẩu.
    (Đám mây nổi trên trời giống như chiếc áo trắng,
    Bỗng chốc biến thành con chó xanh)
    :chỉ sự thay đổi mau lẹ nhanh chóng của cuộc đời.
    -tiếm xưng đế hiệu: tự xưng làm vua.
    -điện loan: nơi vua ngự, chỉ triều đình.
    -Kim loan điện: điện của vua thiên tử,
    -Ngân loan điện:điện của vua chư hầu.
    -Quốc Trung: tức Dương Quốc Trung, tễ tướng nhà Đường, anh ruột Dương quí phi.
    -Vô nghì: (nghì, đọc trại từ chữ nghĩa): gian trá, bất nhơn bất nghĩa.
    Không râu là đứa vô nghì,
    Đàn bà không vú, lấy gì nuôi con?
    (ca dao)
    -ngựa trâu tầm loại: do câu:" Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" (trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa),-ý nói người xấu tìm kẻ xấu để kết bạn.
    -miếu lang: (cg: lang miếu), (miếu: chỗ thờ các vua đã băng hà; lang: chỗ các quan làm việc): chỉ triều đình.
    -tấn cung: đưa đàn bà con gái vào cung để làm phi tần, cung nữ.
    -Ngư Dương, Bình Lư, Phạm Dương:tên các địa danh mạn Bắc sông Trường giang, các cứ điểm nổi loạn của An Lộc Sơn.
    -Cam truyền: địa danh phía Bắc Trường An.
    -vút: (từ Nam bộ): móng vuốt.
    -lằng: (Đ.ng: nhặng),- (từ Nam bộ):loại ruồi lớn, mình xanh bóng, mắt đỏ, bám bu thịt cá hôi thúi.
    -cõi suối làng mây: chỉ cõi chết.
    -Thành Đô: (cg: Cẩm Thành),- thủ phủ đất Thục (Tứ Xuyên).
    -cửa viên: tức viên môn, lối ra vào có hai cây dáo gác tréo bên trên làm cổng, xung quanh là xe cộ vây kín,- chỉ chỗ đóng quân.
    -Ô chuỳ: tên con ngựa của Tây Sở bá vương Hạng Võ,- dùng để chỉ ngựa chiến.

  3. #3
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527


    B-DẤU XE HẠNH THỤC.


    Chợt nghe tin gấp rụng rời,
    110-Trong tay cầm chắc đủ mười lao đao.
    111-Hãi kinh, tôi chúa bôn đào,
    Noi gương Huyền Đức lánh vào Tứ Xuyên.
    Lẻn chuồn, bỏ mộ tổ tiên,
    Nhọc nhằn trăm họ, oan khiên dân lành.
    Hận tràn ngất ngọn mây xanh,
    Cuốn phăng công đức bình thành lâu nay.
    Ùng ùng gió giục mưa bay,
    Nắng nung mặt rát, đường dài mắt hoa.
    Màu chiều vàng ố bóng tà,
    120-Mây giăng mù Mã Ngôi pha mịt mùng.
    121-Nhạn đơn tiếng lẻ não nùng,
    Trắng phau dặm cát minh mông đất trời.
    Lìa nhành, nhớ cội,-lá rơi,
    Sương pha quạnh núi, lệ trôi xót mày.
    Băng truông lướt bụi mệt nhoài,
    Vợ con đeo thẹo, chơn tay dắt dìu.
    Nách mang tay xách đơn biều,
    Cũng đành nhắm mắt theo liều quân đi.
    Trẻ thơ có tội tình gì?
    130- Ốm đau, bú mớm, bù chì, nào ai?
    131-Già run, gậy lạc khỏi tay,
    Bơ vơ đất lạ, rủi may vận thời.
    Cỏ bồng tróc gốc bay khơi,
    Thềm hoang rêu đậm, bước dời tha hương.
    Mỏn hơi, tàn kiếp Vô thường,
    Nắm xương vô chủ, lửa hương đâu nào?.
    Xanh xanh trời mấy từng cao,
    Tiếng than xé ruột, nỡ nào làm ngơ!
    Trăng liềm thiêm thiếp bóng mơ,
    140-Chim côi xa ổ, hững hờ về đâu?
    141-Thẹn thùng nắng vắt nhành cao,
    Nước khe cơm gói đi vào Mã Ngôi.
    Tâm tư héo hắt theo người,
    Ngày mai nào biết,-một đời tha hương.
    Mặt chai, cát bốc bụi vương,
    Lòng đau quán cỏ giường sương canh dài.
    Tranh hơn thua, kiếp đoạ đày,
    Trăm năm nháy mắt, đổi thay khó tường.


    CHÚ THÍCH:

    -Huyền Đức: tức Lưu Bị, nhân vật thời Tam quốc,chiếm Tứ Xuyên xây đại nghiệp nhà Thục Hớn.
    -Hạnh Thục: chỉ nhà vua đi vào đất Thục.
    -Mã Ngôi pha: tên ngọn đồi nơi xử tử Dương quí phi.
    -Đeo thẹo (từ NB): (đeo:bám riết theo; thẹo: dùng dây cột chặt vào nhau thành một chùm để dễ mang xách),-ý nói đi theo vướng vít.
    -Bù chì: biến trại từ chữ phù trì, có nghĩa là giúp đỡ.
    -Đơn biều:bầu nước và giỏ cơm,-chỉ cuộc sống đạm bạc của người nghèo khổ.
    -Vô thường (Phật):chỉ tính chất bất định của mọi vật, khó đoán trước được.

  4. #4
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    C-DƯƠNG QUÍ PHI CHẾT


    Thuý hoa kiệu tía tàn hường,
    150-Dùng dằng quân kỵ mở đường không đi.
    151-Đổi dòng sông nước bất kỳ,
    Rủi may suy thạnh, một khi biến dời.
    Khói un mờ mịt mây trời,
    Ngựa chồm xiên ải, tơi bời phong ba.
    Ngán thay! Mắt phụng da ngà,
    Xô xiêu đồn ải,-nụ hoa hải đường.
    Dồn năm dụm bảy tán bàn,
    Phải đồng lòng giết được nàng mới yên.
    Siết tay rập tiếng thề nguyền,
    160-Nhổ cho tiệt cỏ, cường quyền dễ nao!
    161-Dầu ai bện sáo, ngăn rào,
    Cũng không chận nổi nhịp trào sóng xô.
    Lâu nay có mắt như mờ,
    Nào ai đoán được sự cơ lạ thường.
    Điện tiền Ngự sử Lý Phương,
    Quành cương xuống ngựa giữa đường tâu lên:
    -" Nghiệp truyền vua trước dựng nên,
    Xác xây bờ cõi, vững bền giang sơn.
    Mây đen vẩn đục trời quang,
    170-Máu hoen cửa gấm, lửa tràn dầu sôi.
    171-Sống mòn, chết thảm nơi nơi,
    Biên cương sấm động, ngòi nơi cung đình.
    Lở tan núi, sụp nghiêng thành,
    Quân đòi Dương thị hành hình ngay đây.
    Ví bằng Vương thượng riêng tây,
    Tài Gia Cát cũng khó xoay cơ đồ,
    Vận xui nghiêng chích thế cờ,
    Thánh hoàng mau quyết, chần chờ không hay!"
    Quí phi phách rụng hồn bay,
    180-Sắc hoa chàm đổ, mặt mày ủ ê.
    181-Trăng trong, vườn ngự oanh đề,
    Chén hà thất tịch, câu thề bá niên.
    Nghê thường điệu múa cung tiên,
    Vành ngân còn tạc lời nguyền trăm năm.
    Dầu khi hoa gãy bình trầm,
    Chung cành liền cánh, sắt cầm bền lâu.
    Áo là lả chả dòng châu,
    Huyền Tôn dựa gối, màu sầu ngẩn ngơ.
    Thuyền tình vội tách xa bờ,
    190-Hường nhan phận mỏng, ai ngờ chăng ai!?
    191-Mưa Xuân chớm bén cành mai,
    Nào hay én nhạn lạc bầy Bắc Nam.
    Tuyệt tình ca khúc thương tâm,
    Dòng Tương ngăn lối, dương âm cách vời.
    Gây chi oan nghiệt bấy trời!
    Chia quyên rẽ thuý cho người hợp tan.
    Xót tình nặng nghĩa tào khang,
    Thương cây đoái cội tấc đàng hiểm nguy,
    Non tình biển ái cuồng si,
    200-Non sông máu lửa tức thì chìm sâu.
    201-Vô tâm lòng phụ lòng nhau,
    Nhơ danh bạc ác,-Đời sau chê cười.
    Vò tơ ngàn mối rối bời,
    Đứng trên đống lửa, lại ngồi lò than.
    Thôi đành ngọc nát vàng tan,
    Vuông tròn điều nghĩa, lỡ làng mối duyên.
    Tri âm , dám phụ lời nguyền!
    Vào ra phải lẽ, kinh quyền gồm hai.
    Mực nghiên giấy viết kíp bày,
    210-Tam ban trào điển phê ngay cho nàng.
    211-Bút sa gà chết rõ ràng,
    Mưa sầu ướt chiếu, lệ tràn đẫm mi.
    Bốn tên giáp sĩ nể gì,
    Giựt văng khỏi kiệu, bắt quì trước xe.
    Sắn bìm, tùng cả khó che,
    Phút giây tuyệt mạng gần kề một bên.
    Rác bèo, nước giạt linh đinh,
    Ôi thôi! Mặc sóng cuối gành cuốn xuôi.
    Cồn dâu biển thẳm biến dời,
    220-Xót chi sao lạc lưng trời đầu mây.
    Dùn mình, lụa trắng cầm tay,
    Cao xanh cay độc, rẽ hai lối tình.
    Đồi cây dặm cát lặng thinh,
    Ngùi thương nửa kiếp phù sanh má đào.
    Gò hoang lạnh ngắt sậy lau,
    Vùi nghiêng chôn sấp, mặc dầu gió mưa!
    Quốc Trung nào hãn sự cơ,
    Vừa dong cương tới, đâu ngờ tai ương.
    Gươm trần, kích chĩa, nõ giương,
    230-Đâm ngang sả ngược rộn ràng kiếm đao.
    Cát vương bụi vấy áo bào,
    Ộc vòi máu phún, đỏ đầu cỏ sương.
    Phân minh đen trắng đã tường,
    Kỵ binh sải vó rút đường Thành đô.
    Mây vần, gió giục, sóng xô,
    Lạnh căm lạc ngựa, bụi mờ đồng hoang.
    Vọng lâu, nom rõ tàn vàng,
    Phát hồi pháo lịnh, trải đàng chiếu hoa.
    Điếu kiều, hào rộng gác qua,
    240-Tiếp nghinh xe trận, long xa nhập thành.
    Cắt quân gác đại bổn dinh,
    Đúc rèn khí giới, luyện binh làm đầu.
    Râu mày thoả mộng cung dâu,
    Gót Văn bến Vị tìm cầu Tử Nha.
    Hịch truyền muôn dặm bay qua,
    246-Non gần tướng trấn, sông xa sáo hàn.

    CHÚ THÍCH:

    -thuý hoa: cờ hiệu trong quân.
    -Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, phò tá Lưu Bị dựng nhà Thục Hớn.
    -chích (từ NB): chếch, nghiêng lệch.
    -Vương thượng: tứ của các quan gọi nhà vua.
    -Riêng tây: riêng tư.
    -Oanh đề: tiếng chim oanh hót.
    -chén hà: chén ngọc có màu đỏ tía, giống màu ráng mây.
    -thất tịch: đêm mùng 7 tháng 7, Ngưu lang và Chức nữ gặp nhau trên cầu ô thước bắc ngang sông Ngân hà, nước mắt rơi xuống thành mưa ngâu.
    -Nghê thường: tức khúc hát Nghê thường vũ y,khúc múa hát của tiên nga mặc áo lông màu sắc cầu vồng.
    -Vành ngân: vành trăng bạc.
    -Hoa gãy bình trầm , lấy trong Tình sử:
    Nhứt phiến tình châu phương đáo ngạn,
    Bình trầm hoa chiết dĩ đa thời.
    (Một mảnh thuyền tình vừa tới bờ, thì bình chìm hoa gãy đã lâu rồi).
    Nguyễn Du mượn ý đó viết thành:
    Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
    Thì là trâm gãy, bình rơi bao giờ.
    -Chung nhành liền cánh: lấy ý trong "tị dực, liên chi" của Bạch Cư Dị diễn tả lời nguyền của cặp tình nhân trên trời làm chim liền cánh, dưới đất làm cây liền cành.
    -Dòng Tương: do các câu thơ trong Tình sử:
    Quân tại Tương giang đầu,
    Thiếp tại Tương giang vĩ,
    Tương tư bất tương kiến,
    Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
    (Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương,
    Nhớ nhau mà chẳng thấy được nhau, cùng uống nước sông Tương)
    Lại nữa, hai nàng con gái vua Nghiêu là Nga Hoàng và Nữ Anh tới sông Tương khóc chồng là vua Thuấn đi tuần du, chết ở Thương Ngô.
    Vậy, hình ảnh sông Tương chỉ sự ngăn cách của đôi tình nhân.
    -tào khang: tấm mẳn và cám. Vua Hán Quang Võ có người em gái goá chồng là Hồ Dương công chúa. Thấy Tống Hoằng là người tài giỏi lại có đức độ,vua ngỏ ý muốn Hoàng bỏ vợ lấy Hồ Dương công chúa. Hoằng trả lời:" Tào khang chi thê bất khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong" (Vợ cưới lúc nghèo hèn, phải ăn tấm cám thay cơm, không thể bỏ được. Bạn bè lúc nghèo khó, không thể quên.)
    -kinh quyền: tức chấp kinh và tòng quyền. Chấp kinh:theo khuôn phép đã qui định; tòng quyền:uyển chuyển du di xử sự cho phù hợp hoàn cảnh.
    -chiếu: lời phán truyền của vua.
    -tam ban triều điển: ba lối bức tử dành cho hoàng hậu, phi tần và các công thần:bình thuốc độc, kiếm vắn để tự tử, đoạn lụa trắng để thắt cổ.
    -giáp sĩ: lính mặc áo giáp hầu cận vua hay vị tướng soái.
    -sắn bìm: do chữ cát đằng, lấy ý trong Kinh Thi;" dây cát đằng là dây leo quấn quít theo bóng cây tùng để nhờ bóng mát chở che,-ý nói đàn bà con gái nương nhờ chồng.
    -Hản: hiểu rõ.
    -Vọng lâu: chòi cất cao để leo lên nhìn có thể quan sát địch từ xa.
    -điếu kiều: bửng gỗ lớn, kéo lên thì dùng làm cửa thành,hạ xuống gác qua hào thì làm cầu cho xe, ngựa và binh lính ra vào.
    -long xa: xe rồng, xe vua đi.
    -đại bổn dinh: (Đ.ng:đại bản doanh): nơi đại quân đóng trấn.
    -Râu mày: do chữ tu mi, chỉ người con trai.
    -cung dâu: do chữ tang bồng hồ thỉ (cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng):chí vẫy vùng ngang dọc trong năm châu bốn biển của người con trai.
    -gót Văn: Văn vương nhà Châu đem xe tới Bàn khê, sông Vị rước Khương Tử Nha làm nguơn soái hưng binh phạt Trụ, dựng nghiệp nhà Tây Châu.
    -Hịch: bài văn dạy răn binh sĩ hay kể tội giặc.
    -Sáo:hàng rào tre bên, đặt giữa dòng sông để ngăn tàu thuyền giặc.
    Chẻ tre bện sáo cho dày,
    Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp nhau.
    (ca dao)

  5. #5
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    D-ẢI ĐỒNG QUAN,- GIA THẾ HỌ CHÂU.


    247-Ải Đồng diệu vợi quan san,
    Đối đầu giặc cỏ Khiết Đan trùng trùng.
    Cột rường danh rạng anh hùng,
    250-Phơi gan tuấn kiệt, vẫy vùng chiến y.
    Xông vào lửa, cứu nước nguy,
    Lịnh nghiêm quân sĩ, thành trì kim thang.
    Đường đường chủ soái Thiên Lương,
    Tài văn đức võ tiếng vang giang hồ.
    Dọc ngang non Sở trời Ngô,
    Ngăn biên ải vững, hoàng đô Đường trào.
    Thông minh thiên bẩm dành trao,
    Rèn tinh trận pháp, luyện làu binh thơ.
    Lẫy lừng muôn trận dưới cờ,
    260-Trải ba đời chẳng phai mờ lòng trung.
    Phước lành ấm đức gia phong,
    Hạ sanh con trưởng má hồng Nam Vân.
    Hà Châu làng cũ nương thân,
    Dưỡng nuôi bà nội tảo tần nông tang.
    Chồng con nhà cửa đã an,
    Cày sâu cuốc bẵm thanh nhàn thú quê.
    Thứ hai, Mạnh Đạo tên đề,
    Hồn theo gác khói, vẹn thề núi sông.
    Cuối cùng đẻ muộn Trọng Thông,
    270-Mày thanh mắt đẹp nối dòng Nho gia,
    Rồng bay phụng múa tài hoa,
    Sớm hôm đạo cả bên cha hầu kề.
    Phòng văn lửa đóm mải mê,
    Sân Thi nền Lễ đi về sớm trưa.
    Nghề riêng tao nhã cầm thơ,
    Ban Siêu nét viết, Tương Như giọng đàn.
    Thần cơ diệu toán ai đang,
    280-Dưới thông địa lý, trên tường thiên văn.
    Ngọn mây, vút mút cánh bằng,
    Lợi danh ràng buộc gạt phăng đâu màng.
    Hạc đồng nội rộng thinh thang,
    Non xanh in dấu, mây vàng theo chơn.
    Ngại gì áo mỏng mền đơn,
    Trăng theo dặm liễu, mây vờn trúc hiên.
    Quận châu nức tiếng côn quyền,
    288-Tài lành đường kích gia truyền bấy nay.


    CHÚ THÍCH:

    -Kim thang: do chữ" kim thành thang trì" -thành vững như đồng, chắc như kim loại, hào ao xung quanh không thể qua được, thang là nước sôi.
    -Đức võ: tức là võ đức, đức độ người cầm quân.
    Sách Binh thơ của Tôn Võ tử có câu:" Trước khi luận chiến thuật, thì phải xét võ đức.
    -Thiên bẩm: tánh khí trời ban phát cho mỗi người.
    -Cột rường: tức lương đống,-quan to giữ vai trò trọng yếu trong triều đình.
    -Âm đức: đức của ông cha để lại do ăn ở hiền lành, người ngoài khó thấy.
    -Gia phong: nề nếp tốt, việc giáo dục con cái theo đúng luân lý lễ nghi của gia đình.
    -Nông tang: việc làm ruộng và nuôi tằm.
    -Gác khói: tức Lăng Yên các, do Đường Thái Tôn lập ra để thờ các công thần.

  6. #6
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    E-RƯỚC SỨ


    Cỏ non sè cánh én bay,
    290-Bông đào lấm tấm, hoa mai trắng ngần.
    Đua chen trai gái tưng bừng,
    Lam Kiều dẫn lối, hội Xuân chật đàng.
    Kết hoa cuối ấp đầu làng,
    Thiên Lương đoái cảnh ngổn ngang tấc lòng,
    Trách người không cạn đục trong,
    Đua đòi trau lục chuốt hồng mà chi.
    Hận chung, đền báo được gì,
    Quần điều áo tía, pháo đì đùng reo.
    Nhục vui vui nhục trăm chiều,
    300-Sao chưa thức tỉnh, đắm điều mê say?
    Ủ ê án sách hương đài,
    Xảy nghe có sứ,-thành ngoài bẩm tin.
    Thay xiêm đổi áo tiếp nghinh,
    Phân ngôi chủ khách, trần tình khúc nôi.
    Rằng:"Câu răng lạnh hở môi,
    Rủi may vận nước nằm nơi ải Đồng.
    Trăm năm xin chớ phụ lòng,
    Giữ gìn hoa gấm thuỷ chung trọn niềm.
    Địch kia mở thế gọng kềm,
    310-Bủa vây bốn mặt, nhận chìm Thành Đô.
    Cẩm Thành,đất dựa ban sơ,
    Kén binh chọn tướng chờ giờ phản công.
    Ví bằng tay trắng hoàn không,
    Nghiệp ngàn năm hết, núi sông còn gì!"
    Lễ bày tiếp chỉ tức thì,
    Dọn bàn hương án, cúi quì nghe qua.
    Chiếu ban, ngự bút giở ra,
    Long phù ấn tín phương xa gởi về.
    Truyền rằng:" Vận nước nhiêu khê,
    320-Bụng phơi hùm sấu, lưng kề sói lang.
    Mồ hôi đẫm áo giáo trường,
    May ra đánh đổi bước đường thương vong.
    Sửa sang vách sắt thành đồng,
    Dàn binh bày trận giao phong tranh cường".
    Vó câu lướt cỏ sũng sương,
    Hoa ngàn trải nhị đưa hương ngạt ngào.
    Trướng huỳnh tim lụn dầu hao,
    Thành nghiêng, nước sụp, lẽ nào ngủ yên.
    Một mình trằn trọc gối nghiêng,
    330-Thẩn thờ trở gót, khuê triền quạnh mây.
    Vòm Đông đêm nuối mộng dài,
    Lét leo lửa bấc, hao gầy mắt môi.
    Lơ mơ ngửa mặt dòm trời,
    Trán nhăn, má cóp,-Đổi dời biển dâu.
    Niềm riêng, rượu cạn mấy bầu,
    Trắng canh bạc tóc xua màu xuân xanh.
    Đêm tàn, trống thúc vọng canh.
    Bồi hồi đếm bước mai đình ngẩn ngơ.
    Mây hường rựng lợt núi mờ,
    340-Bầu trời xám, vạc lửng lờ kêu thương.
    Bình minh bươn bả thăng đường,
    Họp bàn tướng cạnh liệu phương ngăn phòng.
    Tập tành thao duợt tinh thông,
    Cất chòi gác nhặt, rải chông đặc hào.
    Tuốt trần thép lạnh gươm đao,
    Ba quân hào khí ào ào như sôi.
    Sao trời, hăm hở nuốt trôi,
    Không dung lũ hái trái rồi đốn cây.
    Đặt quân kỳ chánh trong ngoài,
    350-Lưới giăng, bẫy mở rập loài tinh ma.

    CHÚ THÍCH:

    -Rồng bay phụng múa: do "đằng giao khởi phụng" chỉ văn tài hơn người.
    -Đạo cả: do chữ" thần hôn trọng đạo" hoặc " hôn định thần tỉnh" ( tối đưa cha mẹ vào đúng chỗ nằm nghỉ ngơi, sáng sớm tới thăm hỏi và đánh thức cha mẹ dậy. Đó là bổn phận lớn của con cái đối với cha mẹ.
    -Lửa đóm: tức huỳnh hoả,-Xa Dận đời Tống nhà nghèo không có đèn, dùng lửa đom đóm để đọc sách,-chỉ gương hiếu học.
    -Thi Lễ: tức Kinh Thi và Kinh Lễ, hai pho sách lớn và có giá trị của cổ đại Trung quốc,-chỉ tài học rộng và lối cư xử phải đạo.
    -Ban Siêu: danh tướng đời Hán, một danh sĩ tài hoa, có nét chữ rất đẹp.
    -Tương Như: tức Tư mã Tương Như, quê ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, đàn giỏi, tác giả khúc hát Phụng cầu hoàng.
    -Thần cơ: đoán biết cơ số, biết việc xảy ra như thần.
    -Diệu toán: tính toán giỏi.
    -Bằng:loại chim lớn sải cánh rộng, bay cao và xa,- chỉ người có chí khí lớn.
    -Côn quyền: (Nam bộ đọc là côn quờn):
    *-côn:gậy, roi. Có hai loại côn: trường côn (gậy dựng đứng thẳng từ mặt đất đến mút ngón giữa của bàn tay vói thẳng), đoản côn (gậy vắn, còn gọi là tề mi côn, cao từ mặt đất đến đỉnh đầu người).Cả hai còn được gọi là roi trường, roi đoản.
    *-quyền / quờn: bàn tay nắm lại. Lối đánh võ bằng tay không, chẳng dùng binh khí.
    -Lam kiều: dẫn tích Bùi Hàng gặp tiên nữ Vân Anh.
    -Long phù: phù hiệu có in hình rồng, tượng trưng nhà vua.
    -Ấn tín: cái triện, cái ấn đóng vào giấy,-cái dấu ngọc tỉ đóng trong tờ chiếu.
    -Khuê triền: đường đi của sao Khuê.
    -Rựng: (từ NB): rạng, sáng ửng lên.
    -Bươn bả (từ NB): vội vã.

  7. #7
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    F-AN LỘC SƠN ĐÁNH ĐỒNG QUAN


    351-Hận tình tan Mã Ngôi Pha,
    Lộc Sơn huy động trảo nha rửa hờn.
    Tấn binh đá chạy cát vờn,
    Thây chồng tối mắt cao hơn đầu người.
    Vó câu hốt bụi mịt trời ,
    Voi bầy xông lướt lạch ngòi vỡ toang.
    Trốt bồng, lửa xoáy ải quan,
    Lũ dưng suối thấp, bão đàn nhành cao.
    Huỳnh hôn tím ngắt hơi sầu,
    360-Kỵ binh, bộ tốt bào hao tranh hành.
    Giương binh khí, múa vút nanh,
    Lung lăng coi dưới mắt mình không ai.
    Lập loè đom đóm ma trơi,
    Chòm cây lối tắt ẩn rồi hiện ra.
    Binh triều nhóm bảy tụ ba,
    Dáo cờ thưa thớt, mâu qua ngại ngần.
    Quân Yên giục ngựa bén chân,
    Rần rần đuổi giết lính tuần ải quan.
    Tra roi, cướp lối, chận đàng,
    370- May vần vũ nổi, sương vàng cuộn bay.
    Nửa chừng rẽ quặt truông mây,
    Đưa đoàn mao nhẫn nạp thây Tân Hồi.
    Ngựa chồn lê bước lôi thôi,
    Dây chằng vướng vít, sóng nhồi mưa tên.
    Khó lui, chẳng thể tiến lên,
    Máu loang đỏ giáp, tiếng rên thấu trời.
    Đồng lầy đùa với lửa chơi,
    Giữa vòng tên đạn,-khóc cười biết sao!
    Trùng vây chèn kín gươm đao,
    380-Lưỡi câu móc sắt xuông vào thịt da.
    Vận xui tưởng đã thoát qua,
    Đường mòn dẫn lối rừng già gian nan.
    Chim say lịm giấc sương ngàn,
    Quạnh hiu lá rụng canh trường cuối thu.
    Cỏ đan, rơm lợp xây cù,
    Hầm sâu, bẫy sập làm mồ giặc An.
    Thê lương lạnh gót sa tràng,
    Núp khe gươm tuốt, len tàn tên bay.
    Bàn cờ thế, phút sa tay,
    390-Rớt tòm hố thẳm, chông dài đâm xiên.
    Đốc quân thị sát trận tiền,
    Hang beo trỏ kích, Long tuyền cầm tay.
    Bập bùng đuốc rực trời mây,
    Thét oai sấm động, ra tài hùng anh.
    Vai gầy, dáng dấp thơ sanh,
    Áo bào trắng, Bạch hổ tinh hiện về.
    Ngựa hồng giậm cẳng bên khe,
    Công đầu ắt hẳn đã về tay Châu.
    Ém hơi chờ chực rừng sâu,
    400- Hiệp đồng mai phục, đón đầu dăng cây.
    Siết dồn khoá chặt vòng vây,
    Xương vùi mương rãnh, hồn hoài cố hương.
    Vọng canh nguyệt lạnh mờ gương,
    Giáp vàng mũ trụ, Thiên Lương thăng đường.
    Đầm đìa cành muộn đọng sương,
    Tít xa núi lợt vấn vương đêm dài.
    Đương cơn lửa đỏ cháy mày,
    Họp cùng tướng sĩ liệu bày mưu cơ.
    Nắng hoe, hoa cỏ dật dờ.
    410-Mây đùn trời thẳm, khói mờ non xanh.
    Toán quân canh gác vào thành,
    Báo tin giặc rải đại binh mấy vòng.
    Bủa vây không lọt mảy lông,
    Nhổ từng rễ cỏ ải Đồng mới nghe.
    Quân triều thét một lời thề,
    Gan đồng dạ đá chẳng hề núng nao!
    Nước non nghĩa nặng tình sâu,
    Dân đen khổ cực, nỡ nào khoanh tay.
    Trăm viên hổ tướng dững mày,
    420-Quyết gìn chánh khí dẫu dài gian nan.
    Ngọn thành gươm lợp dáo đan,
    Thiên Lương mão sắt giáp vàng oai nghi.
    Kích giương, mắng chẳng nể vì:
    -" Bầy sâu lũ bọ biết gì ngỡi nhơn.
    Tịu tằng với ả Thái Chơn,
    Rình mò ăn vụng tiên đơn khác gì!
    Mặt mo giở thói vô nghì,
    Mưu đồ phản nghịch, bọn mi một loài.
    Khá khen bộ vó anh tài,
    430-Chồn mang lốt cọp, khéo bày trêu ngươi!"
    Lộc Sơn gằn giọng cả cười:
    -"Khá khen cho đó biết người biết ta.
    Bạc đầu, mỏi gối, dùn da,
    Còn ham quờn tước vinh hoa nhơ hình.
    Hươu Tần thiên hạ giựt giành,
    Long Cơ dâm đãng, bất minh vô tài.
    Mắt che, ngựa chạy đường dài,
    Ngu trung cam kiếp, kẻ cười người chê.
    Biết điều cởi giáp theo về,
    440-Cúi đầu hàng phục, đề huề chúa tôi.
    Diệt Đường, ta quả xứng ngôi,
    Dẹp tan châu quận, thâu hồi hai kinh.
    Móc mưa rưới xuống sẵn dành,
    Con sang vợ trọng,- bất bình nỗi chi?
    Ví bằng cạn nghĩ, vụng suy,
    Đồng quan bình địa, một khi san bằng".
    Thiên Lương điểm mặt mắng rằng:
    -"Trèo thang cóc muốn lăng nhăng đua đòi.
    Ngốc như mi cũng dạy đời,
    450-Răng thưa, môi mỏng bày lời lố lăng.
    Hang cùng nào biết lễ văn,
    Luông tuồng cẩu hợp, thói gần chim muông.
    Gian tham ngu ác một xuồng,
    Đổi ơn làm oán, tìm đường quay lưng.
    Ta đây trượng ngãi chuộng nhơn,
    Giá trong tiết sạch, nát thân đâu nài.
    Sá gì chớp giựt mưa bay,
    Chỉ nguyền sống thác một hai dưới cờ.
    Về hang ổ, rửa cổ chờ,
    460-Binh trời hỏi tội, định giờ phanh thây".
    Lá vàng run rẩy hơi may,
    Nắng chiều úa sắc, trời Tây bóng tà.
    Đầu mây phớt điểm ráng pha,
    Chim hôm chiu chít nhánh sà mặt sông.
    Vượn đơn kêu thảm não lòng,
    Rã rời thưa thớt trống thùng vọng canh.
    Gió cuồng rứt lá lìa cành,
    Đại kỳ gãy tốt, mặt thành đưa tin.
    -" Ô hô! Trời chẳng thương tình,
    470-Cung rơi đạn lạc cũng đành mạng căn.
    Cao dày nỡ bẻ cánh bằng,
    Ép người vào cuộc lăng nhăng sắp bày".
    Kíp truyền tướng sĩ trong ngoài,
    Sửa sang hầm hố, dàn ngay trận đồ.
    Chiến trường đã ước hẹn giờ,
    Nực cười giặc khéo giở trò trẻ con.
    Nửa đêm, pháo lớn nổ giòn,
    Tường rung sấm động, sóng cồn vượt mây.
    Mặt thành ném đá quăng cây,
    480-Lửa lan giáp đất, tro bay mịt trời.
    Nổ ầm quả lựu mấy hồi,
    Pháo bầy ong nện bời bời bủa quanh.
    Mở then cửa đột phi hành,
    Đức Tâm rút soạt hai thanh kiếm trường.
    Đột xông ngang dọc tranh cường,
    Chém người như chuối, Đơn Dương chẳng tày.
    Lợi Trinh phóng ngựa cửa Tây,
    Điều quân mã kỵ hiệp ngoài Châu Thông.
    Trùng vây vòng lại siết vòng,
    490-Kích gươm loảng xoảng, địch trong giặc ngoài.
    Đeo tường nhún ngọn thang bay,
    Sói muông cầy cáo chắp dài dáo lan.
    Nơi nơi hỗn độn dọc ngang,
    Hào nào ngăn nổi lớp hàng Phiên binh.
    Da dê quấn chặt quanh mình,
    Dao con giắt bụng, lưng thành đu dây.
    Pháo thần vạn hoả đặt ngoài,
    Đạn như mưa bấc rót ngay xuống thành.
    Kho lương lửa dậy thình lình,
    500-Chống ngăn gắng gượng đua tranh sống còn.
    Binh triều phút mỗi hao mòn,
    Tường bay, đất sụp,-luỹ đồn tan hoang.
    Quân Yên ngây máu sa tràng,
    Nghinh ngang binh khí, rộn ràng nõ cung.
    Đuốc rà hang hố sục lùng,
    Quyết lòng bôi sổ ải Đồng mới thôi.
    Nặc nồng mùi bốc tanh hôi,
    Thấy nguy, Châu vội phản hồi dinh trung.
    Giục cha liệu nước cờ cùng,
    510-Vượt tầm dáo mác, thoát vòng tử sanh.
    Sức dùng thần khiếp quỉ kinh,
    Cản quân đuổi gấp liều mình cứu cha.
    Thiên Lương gót thúc roi tra,
    Mở ra đường máu, tràn qua biển người.
    Kích quay xé gió lưng trời,
    Rồng thiêng tung sóng giữa vời biển xanh.
    Bất thần hét tiếng thất thanh,
    Ôm hông,-Bão cuốn ghe mành ngửa nghiêng.
    Châu Thông lướt tới đỡ liền,
    520-Xốc bồng lên để ngồi yên ngựa mình.
    Chật chen lớp lớp tướng binh,
    Nặng nề chơn bước, hành trình gian nan.
    Đục trầm va sắt chạm vàng,
    Phóng phi nước đại cướp đàng ruổi giong.
    Quanh co ngỏ tối mịt mùng,
    Ngửa tay chẳng thấy,-Quân không đuổi dồn.
    Lách luồn, len lỏi truông mòn,
    Lần men dặm thỏ, dò con suối rừng.
    Trời Đồng quan ửng lửa lừng,
    530-Tro đùn thành lạnh, mắt trừng hờn căm.
    Máu tuôn thấm áo ướt dầm,
    Giọt châu dài vắn, khôn cầm đau thương.
    Ngại ngần rón rén cỏ sương,
    Gà rừng gáy rộ đêm trường lũng xa.
    Từng không vụt ánh sao sa,
    Dựa lưng gốc lớn, đặt cha tạm ngồi.
    Mũi lòng, tấc dạ bùi ngùi,
    Thuốc thầy đâu biết rước mời trị thương.
    Xé toang vạt áo buộc choàng,
    540-Thiên Lương nửa tỉnh, nửa dường hôn mê.
    Khều con, má áp tai kề,
    Phều phào giọng nói, giải giề tâm tư:
    -" Tuổi năm mươi đã có dư,
    Lòng vui làm tướng dưới cờ qui tiên.
    Một mai phách lạc cửu tuyền,
    Ngậm cười giữ trọn lời nguyền quân thân.
    Sóng đưa bèo bọt phù vân,
    Bóng đèn, tia chớp,-Gẫm thân đáng gì!
    Mồ hoang mưa đọng trăng đi,
    550-Xương tàn, huyệt lạnh,- kể chi mạng già.
    Báo ơn nước, giữ tình nhà,
    Bủa nhơn đức, luyện tài ba khuông phò.
    Phận trai, trung hiếu, phải lo,
    Đường xa gánh nặng sao cho vẹn toàn,
    Giàm danh khoá lợi buộc ràng,
    Đừng tham bổng lộc, gác vàng lầu son.
    Tình người, coi nặng bằng non,
    Cắn răng chịu đựng, lo toan việc đời.
    Minh mông biển học mù khơi,
    560-Biết như giọt nước, vậy thời mới khôn.
    Ngô nghê, vụng dại làng thôn,
    Quê mùa cũng dạy được con ít nhiều.
    Sử kinh làm mốc, làm nêu,
    Luân thường đạo lý làm điều tu thân".
    Nghẹn lời, lẩy bẩy tay chân,
    Mắt lờ đờ khép, ngưng thần đứt hơi.
    Tim đau lói, dạ rối bời,
    Vùi sâu hài cốt lưng đồi Huỳnh sa,
    Hỏi chưa cặn kẽ tin nhà,
    570-Cội huyên sóng giạt biết là về đâu?
    Ngán thay con tạo cơ cầu,
    Đất bằng xui hoá biển sâu làm gì?
    Rừng hoang cỏ tối rậm ri,
    Từng cơn gió trút, lá vì vèo bay.
    Núi đồi rờn rợn lạnh vai,
    Ngôi sao xa lắc cuối trời buồn tanh.
    Lẻ đơn đèo dốc lặng thinh,
    Cú sầu điểm một ngồi rình canh thâu.
    Đi đây, nào biết về đâu?
    580-Dặm mây thăm thẳm một màu bao la.
    Bẽ bàng thay, cõi người ta,
    Trán hằn vất vả, mắt loà lo âu.
    Gương nga xô ngã bóng sầu,
    Bình minh thoáng điểm hường đầu non Đông.
    Biển trời khó sánh được công,
    Hứng hoa, nâng trứng, ẵm bồng chắt chiu.
    Nồi kê quán trọ đìu hiu,
    Tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha.
    Gối quì, lạy giã biệt cha,
    590-Thay xiêm đổi áo, bôn ba đăng trình.
    Hang sâu, giấu dạng tăm kình,
    Hoà thân cát bụi, gởi mình ngàn phương.


    CHÚ THÍCH:

    -trảo nha: móng vuốt và răng,- chỉ bọn bộ hạ của kẻ xấu.
    -kỵ binh: lính cỡi ngựa.
    -bộ tốt: lính đánh bộ.
    -bào hao: với oai thế hung hăng, dữ dội.
    -mâu qua: (mâu:binh khí có mũi nhọn cán dài để đâm; qua: cái mác để chém):chỉ binh khí.
    -mao nhẫn: đoàn quân thám thính.
    -Long tuyền: tên thanh gươm quí,-chỉ binh khí.
    -dăng cây: (từ NB): rặng cây ở xa.
    -Bạch hổ tinh: tên một ngôi sao trong thiên văn TQ, tương trưng tướng giỏi.
    -Ngỡi nhơn(từ NB):nghĩa nhân.
    Ngỡi nhơn mỏng dánh tợ cánh chuồn chuồn,
    Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay.
    (cd NB)
    -tịu tằng: (cn: tằng tịu),-trai gái có quan hệ bất chính, không được xã hội chấp nhận.
    -Hươu Tần: nước Tần sẩy mất con hươu, thiên hạ đua nhau đưổi bắt, ai được thì làm chủ. Chũ này dùng để chỉ đất nước, mọi người cứ đua nhau tranh đoạt để giành quyền làm bá chủ.
    -Long Cơ: tên tộc của Đường Minh Hoàng.
    -Ngu trung: kẻ trung thành ngu si mù quáng.
    -Trượng ngãi: (phát âm theo NB): trọng nghĩa.
    -Lợt: (từ NB): nhạt.
    -quả lựu: hoả cụ chứa thuốc nổ để ném.
    -Pháo bầy ong: pháo bắn tung ra những viên đá nhỏ.
    -Cửa đột : cửa thấp và nhỏ ngoài cửa lớn của thành trì. Cửa này dùng để ra vào lúc nguy cấp.
    -Phi hành: đi lẹ như bay.
    -Đơn Dương: nhắc lại chuyện Triệu Vân, tự Tử Long, anh hùng Hớn Thục thời Tam quốc, xông pha trận Đơn Dương để bảo vệ ấu chúa Lưu Thiện.
    -Cửu tuyền: chín suối,-chỉ cõi chết.
    -Quân thân: đạo vua tôi và đạo con cái với cha mẹ.
    -Giàm danh khoá lợi: (giàm: dây xỏ mũi trâu bò),- do chữ danh cương lợi toả, ý nói sự ràng buộc của danh lợi.
    -cội huyên: (cn: huyên thào, huyên đường): chỉ người mẹ.
    -đã năm mươi tuổi có dư: lấy ý trong câu:
    Tam thập nhi lập,
    Tứ thập bất hoặc,
    Ngũ thập tri thiên mạng.
    (Khổng tử)
    (Ba mươi tuổi thì đứng vững, tuổi lập thân; bốn mươi tuổi không còn nghi ngờ; năm mươi tuổi biết được số mạng của trời)
    -Nồi kê: do chữ huỳnh lương mộng (giấc mộng kê vàng): Lư sanh rớt khoa thi hội ở kinh về nhà.Bụng đói, đường xa, chàng ghé vào quán xin ngủ trọ. Chủ quán biểu Lư sanh nằm nghỉ, xuống bếp nấu nồi hột kê vàng. Lư nằm thiếp đi, thấy mình thi đậu làm quan to, được vua gả công chúa cho, giàu sang oai quyền đến tột bực. Sau đó, nước có loạn, vua sai Lư dẹp giặc. Chẳng may thua trận, vợ chết. Về triều, chàng bị lột hết chức tước bổng lộc. Giựt mình tỉnh dậy, thấy nồi kê của chủ quán vẫn chưa chín. Mộng huỳnh lương hay mộng kê vàng chỉ đời là mộng ảo và ngắn ngủi.
    -tóc mai tơ mướt, đầu chiều tuyết pha: lấy ý trong thơ Lý Bạch:
    Triêu như thanh ti, mộ như tuyết.
    (Buổi sáng sớm, tóc xanh mướt như tơ, tóc buổi chiều trắng như tuyết)
    Chỉ cuộc đời ngắn ngủi, thời gian qua mau.

  8. #8
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    HỒI THỨ NHÌ

    NƯƠNG CỬA PHẬT, CHÂU THÔNG LÀU TRẬN PHÁP,
    CẢN QUÂN YÊN, GIÁC HẢI THỌ TAI ƯƠNG.


    A-NƯƠNG BÓNG CỬA THIỀN.

    593-Gót qua dặm nứa truông bương,
    Nhành khô mưa áy, cỏ lan lối sầu.
    Chùa xưa nom rõ trên cao,
    Phất phơ ngọn phướn lụa đào gió mai.
    Mái rêu xanh ẩn tàn cây,
    Khói hương tịnh độ ngát ngoài tam quan.
    Lỗ loang thếp nếp chữ vàng,
    600-Linh sơn cổ tự bạt ngàn gió mưa.
    Sân thiền đêm quạnh còn lưa,
    Bóng người vắng ngắt, dật dờ thảo hoa.
    Bước liều bực đá vôi nhoà,
    Chờ coi động tĩnh lăng già am mây.
    Lặng trang cửa ních then gài,
    Ngăn đôi,-tịch mịch trong,-ngoài lợi danh.
    Ghé dòm khe hở phên tranh,
    Xếp bằng thanh thản, niệm kinh chuỗi lần.
    Hững hờ, khép mắt ngưng thần,
    610-Dĩa dầu tam bảo cạn lần, trắng canh.
    Từ bi sức cả minh minh,
    Mười phương tế độ mặc kinh Đại thừa.
    Bè hồng bát nhã qua bờ,
    Siêu linh pháp tướng, khói mờ không gian.
    Chuyển xây võ trụ tuần hoàn,
    Lục trần, tứ khổ mê đàng trầm luân.
    Cúc vàng hực nắng đầu sân,
    Lao xao trúc động, lâng lâng bóng lồng.
    Nhìn quanh sơn tự một vòng,
    620-Xanh um chóp ngọn, chập chùng rừng hoang.
    Sư già rời nệm bồ đoàn,
    Lần then hoa, sịch mở toang cửa sài.
    Châu Thôngsụp lạy hiên ngoài,
    Chút thân lưu lạc giải bày đôi câu:
    -"Rộng thương phận mỏng ảnh bào,
    Bước chân tục luỵ lạc vào thiền môn.
    Đẩy đưa lớp lớp sóng cồn,
    Nép bèo bến đục, nương hồn sông mê.
    Bủa vây kinh khiếp bốn bề,
    630-Mắt cay bão lửa, nẻo về xa khơi.
    Đắm chìm biển khổ đầy vơi,
    Linh đinh hột bụi cuối trời tang thương,
    Chướng căn oan trái còn vương,
    Thành tâm nguyện được Phật đường tạm dung"
    Cả cười:" Cá nước tương phùng,
    Cơ duyên đã tới lạ lùng chi đâu!
    Rủi may đưa đẩy lựa cầu,
    Đất người vầy bạn, dễ đâu chuyện thường".
    Dắt tay nhau xuống hậu đường,
    640-Ngôn từ mở rộng dặm trường gian nguy.
    Rằng:" Xem tướng mạo phương phi,
    Chẳng tay cung kiếm cũng bề bút nghiên.
    Phong tư tài bộ thiếu niên,
    Sân che đào lý, phước truyền trâm anh.
    Cớ chi gió bãi trăng gành,
    Gác Đằng đưa lối rừng xanh cửa thiền?
    Khá bày tơ tóc căn nguyên,
    Biện minh hư thiệt, trắng đen cho tường!"
    Thưa rằng:" Nặng gánh thơ hương,
    650-Rớt khoa thi Hội, lỡ làng kiếp trai.
    Kinh kỳ bụi cuốn tro bay,
    Ngập đầu binh lửa, giăng dày tanh hôi.
    Hành trang khăn gói phản hồi,
    Nước non cách trở, trải mùi phong sương.
    Trông vời mây phủ cố hương,
    Cầu hoang quán lạnh, giọt thương giọt sầu.
    Quê nhà xa lắc Hà Châu,
    Chim ngàn bạt gió biết đâu lối về.
    Những mong bảng hổ tên đề,
    660-Nào hay phận hẩm,-não nề tay không.
    Phòng văn mới được tin hồng,
    Cha già cỡi hạc non Bồng dạo chơi.
    Trêu ngươi, vật đổi sao dời,
    Ngùi trông non Thái mây trời che ngang.
    Sách đờn thâu xếp vội vàng,
    Dầm mưa dãi nắng qui hoàn cố viên.
    Đường đi gặp cảnh ưu phiền,
    Đầu non cướp đón, của tiền còn chi.
    Cúi xin đức lớn từ bi,
    670-Rưới cho giọt nước dương chi tịnh bình.
    Nguyện lòng kết cỏ ngậm vành,
    Hải hà chi lượng đoái tình xót thương".
    Sư rằng:" Phật pháp hoằng dương,
    Dang tay tiếp dẫn mười phương muôn loài.
    Số phần trót đã an bài,
    Con chim bay mãi không ngoài khuôn thiêng.
    Kệ kinh nguôi mối ưu phiền,
    Giong buồm biển giác, lánh miền mê tân.
    Mịt mù sóng hoạn phù vân,
    680-Bôn ba mỏi gối mòn chân ích gì!
    Đắm vòng tham muội sân si,
    Gẫm câu:" Bạng duật tương trì " mà đau.
    Hương hoa đàm ngát trời cao,
    Vun bồi cội phước, tiêu dao lâm tuyền,
    Mái Đông đơn bạc thơ hiên,
    Kiểng trồng trăm loại, Xuân riêng bốn mùa.
    Qua cơn mưa đẩy gió đùa,
    Chuyện về quê cũ, khá tua đợi ngày ".


    CHÚ THÍCH:

    -Bương: loại tre rừng cây lớn và cao.
    -Áy: hư mục.
    -Tịnh độ: (Phật),-cõi bờ yên tĩnh.
    -Lưa: còn kéo dài
    -Lăng già: chỉ nhà Phật.
    -Tam bảo: ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
    -Từ bi: lòng yêu thương rộng rãi đối với vạn vật.
    -Minh minh: mờ tối, khó thấy rõ.
    -Tế độ: cứu giúp.
    -Mặc kinh: kinh điển có ý nghĩa sâu xa khó hiểu.
    -Đại thừa: (Phật),-(cg: Đại thặng) có mục đích tu hành để tự cứu mình và sau đó cứu độ kẻ khác (tự giác nhi giác tha). Quả vị cao nhất của Đại thừa là Bồ tát. Phái Tiểu thừa chủ trương tự tu tự độ nên quả vị cao nhất chỉ là A La Hán.
    -Siêu linh: vượt lên trên những cái mà người ta có thể nhận thức được.
    -Pháp tướng: (Phật),-chỉ những gì hiện hữu trên thế gian.
    -Lục trần: (Phật),-sáu thứ bụi bặm:sắc (màu sắc), thanh (tiếng), hương (mùi thơm), vị (mùi), xúc (sự đụng chạm) và pháp (cái mà người ta dùng tâm trí suy tưởng được).Lục trần xâm nhập vào con người do lục căn (sáu cội rễ): nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỉ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (thân mình) và ý (tâm trí).
    -Sơn tự: chùa trên núi.
    -Bồ đoàn: nệm đươn bằng cỏ.
    -Ảnh bào: bóng và bèo bọt dễ tan dễ mất,- chỉ xác thân tứ đại giả hợp của con người.
    -Cửa sài: cửa gỗ, cửa bằng cây.
    -Tục luỵ: cảnh khổ não của cuộc đời.
    -Sông mê: (cg: bến mê) do chữ mê tân của nhà Phật, nơi đó con người đắm đuối trong ngu muội, thần trí bị vô minh che lấp, không tìm được lối giải thoát.
    -Chướng căn: những cội rễ, nguyên do ngăn trở, làm cho con người đau khổ, đắm đuối trong vòng luân hồi.
    -Oan trái: nhửng oan khiên, nợ nần từ kiếp trước mà mình phải gánh chịu trong kiếp này.
    -Lưa: (từ NB): còn kéo dài.
    -Đào lý: nhà quyền quí.
    -Trâm anh: (trâm:cây cài vào búi tóc; anh: cái giải cột mão): chỉ con nhà quyền quí.
    -Gác Đằng: do chữ Đằng vương các. Vương Bột đời Đượng, đi thăm cha ở Giao Chỉ (tên nước ta ngày xưa), bị gió đưa đi lạc đến gác Đằng vương, làm bài Đằng vương các phú, nổi tiếng một thời. Gác Đằng chỉ vận may.
    -Biện minh: giải bày ra rõ ràng.
    -Thơ hương: (cn: thư hương): nghiệp học hành thi cử của giới Nho sĩ ngày xưa.
    -Bảng hổ: Bảng vẽ hình con rồng (long bảng), bảng có hình cọp (hổ bảng), bảng vàng (kim bảng) đều ghi tên người thi đậu.
    -Tin hồng: (cg: tin nhạn / tin sương): đều chỉ tin tức.
    -Non Bồng: theo Thần tiên truyện: có ba hòn đảo tiên ở là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Cỡi hạc non Bồng hay lên tiên đều có nghĩa là chết.
    -Trêu ngươi: chọc tức, chọc giận.
    -Non Thái: Đông nhạc Thái sơn, ngọn núi lớn trong Ngũ nhạc, ở tỉnh Sơn Đông, Trung quốc,-thường được ví với người cha.
    Mây giăng non Thái: do Vân tế Thái sơn: chỉ cha mất.
    -Qui hoàn cố viên: trở về quê cũ.
    -Dương chi tịnh bình: Bình nước cam lộ có nhành dương liễu của Phật bà Quan Âm. Bà rải nước để hoá giải khổ ách, khổ nạn cho sanh linh. Cho nên trong kinh Phật có câu:
    " Nam mô Quan Âm Như lai cam lồ sái tâm nguyện".
    -Kết cỏ ngậm vành: Nguỵ Khoả không nỡ chôn nàng hầu của cha khi cha chết. Sau này, Nguỵ Khoả đi đánh giặc, gặp tướng Đỗ Hồi. Chân ngựa Đỗ Hồi bị cỏ quấn chặt nên Đỗ Hồi bị Nguỵ Khoả chém. Thành ngữ này chỉ sự đền ơn đáp nghĩa.
    -Hải hà chi lượng: (cg: lượng hải hà): lượng to lớn như sông biển.
    -Đoái: quay lại, nhìn lại, nghĩ tới mà thương.
    -Phật pháp hoằng dương: Phép Phật mở ra rộng khắp.
    -An bài: đã được sắp đặt sẵn.
    -Khuôn thiêng:
    a)- chỉ bầu trời.
    -(ngh.r): lẽ huyền diệu của trời đất.
    -Biển giác: do chữ giác hải, chỉ sự thức tỉnh, giác ngộ giúp ta nhận ra chân tướng của cuộc đời.
    -Sóng hoạn: hoặc biển hoạn do chữ hoạn hải, con đường làm quan.
    -Tham muội sân si: (Phật): lòng tham lam, sự u mê của tâm hồn, sự giận dữ. Sự say đắm. Tham, sân, si là ba cái làm cho con người đằm đuối trong mê muội, đoạ lạc trong vòng luân hồi.
    -Bạng duật tương trì: do câu:" Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi" (con trai, con cò kéo níu nhau, ông già đánh cá được lợi).
    -Hoa đàm: tức Ưu đàm hoa, một loại hoa quí, cứ ba ngàn năm mới nở một lần,-tượng trưng cho nhà Phật.
    -Tiêu dao: (Lão Trang); sống tự do thong thả theo bản tánh tự nhiên.
    -Lâm tuyền: rừng suối,-chỉ phong cảnh thiên nhiên.
    -Khá tua: từ cổ, có nghĩa là hãy nên.

  9. #9
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527


    B-TRỞ LẠI HUỲNH SA


    Nâu sồng hẩm hút mì khoai,
    690-Ngày đi chớp mắt đã ngoài ba trăng.
    Gió đưa liễu yếu mai oằn,
    Ngổn ngang núi chận, trắng ngần mây đi.
    Hồn nương cõi mộng phân kỳ,
    Nơi chôn nhau rún, biết gì tin sương.
    Thái Hàng mưa ám ngăn đường,
    Mồi da bạc tóc, muôn ngàn thương mong.
    Huỳnh sa nắng héo cội thung,
    Bơ vơ truông bụi, lạnh lùng khói hương.
    Dọc ngang cung kiếm mười phương,
    Trường văn trận bút chi nhường cho ai.
    Bó tay khom gối đi đày,
    Gà què ăn quẩn cối xay lần quần.
    Sư già lầm lũi một thân,
    Non xa tầm thuốc trót gần tuần qua.
    Đìu hiu lẻ bóng vào ra,
    Vọng đều mõ sớm, ngân nga chuông chiều.
    Dưng hoa cúng trái chắt chiu,
    Công phu thí thực mọi điều thay sư.
    Song thưa hắt ánh nguyệt mờ,
    710-Mài nghiên mực cũ, dỡ tờ sách xưa.
    Giấc hồ,-khép cánh bụi mưa,
    Hương thoang thoảng nụ, gió lờ lững qua.
    Trầm thơm khói tỏa la đà,
    Nến soi chữ nghĩa nở hoa thánh hiền.
    Ngát mùi lan cúc sân hiên,
    Nhành giao ngọn lợp, nghiêng nghiêng gương lồng.
    Khẳng khiu thân thẳng cội tùng,
    Lá dầu lửa hạ, mưa đông,-xanh rì.
    Nhớ từ mẫu, đọc Kinh Thi,
    720-Thấy trong linh cảm sự chi khác thường.
    Khêu đèn soi rạng quyển vàng,
    Có gì cồm cộm gò làn giấy tơ.
    Phong thơ nét mực chửa mờ,
    Rành rành tuồng chữ còn lưa đây rồi.
    Cố ngăn mà lệ cứ rơi,
    Mơ hình tưởng dáng, nghe lời di ngôn.
    Hoa tiên gởi tấm lòng son,
    728-Mây che bóng hạc, tiếng còn thoảng lâu.

    Thơ rằng:


    “ Thiên Bảo, năm thứ…,
    Giác Hải hiền huynh nhã giám,


    Từ độ:


    1-Anh em cầm tay chia biệt, bạn bè nuối mắt phân kỳ,


    2-Liễu rũ đôi bờ, ai đi phương nấy,
    Mây giăng muôn lối, kẻ ngóng chốn này.


    3-Uống cạn mấy bầu rượu cúc, luyến lưu mây ngụ đảnh Huỳnh mai,-
    Nhắp ngon đôi chén trà lan, ngậm ngùi trăng mờ dòng Xích Bích.


    Thế rồi,


    4-Không hẹn mà nên cuộc tao phùng, đủng đỉnh gành Nam chèo quế,-
    Sẵn duyên thì có ngày hội ngộ, thung thăng bãi Bắc thuyền mây.


    5-Ráng ửng chiều hôm,-khói mờ cây sớm.


    6-Lời khí tiết in hằn ngọn bút, nghĩa kim bằng ghi đậm tấc son.


    7-Lần tay bấm đốt, lòng lại nhủ lòng,-Tính tháng đếm ngày, mặt chưa tạn mặt.


    8-Kỷ niệm quẩn quanh gang tấc, mộng hồn vương vấn canh gà.


    Nhớ xưa,


    9-Chừa vá trái đào, mài nghiên viện sách.


    10-Óc non dại ước cá rồng đổi dạng, cửa Võ nên công,-
    Tuổi thơ ngây đè sóng gió giong buồm, trường văn khởi nghiệp.


    11-Biển thẳm muôn trùng nào phỉ chí, kình ngạc giương vi,-
    Trời cao ngàn trượng chửa thỏa lòng, hạc hồng sải cánh.


    12-Chung bóng tập tành,-châu đầu rèn luyện.


    Khi lớn lên,


    13-Ven mây bắn nhạn, trả nợ hiếu trung,-
    Biên ải trừ hung, giúp dân no ấm.


    Thế rồi,


    14-Vật đổi trời Nam, sao dời cung Bắc.


    Nay hiền huynh:


    15-Biết lẽ hợp tan,-Rõ tuồng suy thạnh.


    16-Gót ẩn sĩ không vấy màu bụi bẩn, nước khe rau núi, tám tiết thong dong,-
    Dạ cao tăng nào hoen sắc bùn nhơ, chuông sớm kinh chiều, tư mùa thanh thản.


    17-Giếng trong vằng vặc trăng đầy,-trúc biếc làu làu lóng thẳng.


    Còn tiểu đệ:


    18-Bày tỏ khúc nôi thẹn mặt,-Phân trần nguồn cội ngại lời.


    19-Chẳng phải đắm mê danh lợi mà lặn hụp vũng hẹp vinh hoa,
    -Không vì tham luyến đảnh chung mà vui đùa ao nông sĩ hoạn.


    Đó chẳng qua là:


    20-Nỗi lo dân chưa vẹn,-Niềm thương nước chưa tròn.


    Giựt mình nghĩ lại:


    21-Trán lỏng gối mòn,-Chí cùn trí lụt.


    Thôi thì:


    22-Liều nhắm mắt theo cơn lốc dữ,-Dại xuôi dòng dấn bước đường mê.


    23-Nơi gác phụng thèm dấu hài Huỳnh Thạch,-chốn cửa viên mơ khóm liễu Đào Tiềm.


    Song ngặt vì:


    24-Nước non nặc mùi binh lửa,- Rẫy nương đẫm máu gươm đao.


    Có việc này xin thưa:


    25-Dạ những ước thầm,- Lời chưa trút cạn.


    26-Cõi quân lữ cận kề hổ trướng, vợ chồng tôi còn lại một trai,-
    Cửa song hồ mài miệt bút nghiên, tuổi tác nó vừa tròn đôi chín.


    27-Bác Lãng giương ngọn chùy trí mạng, xe Tần Vương hăm hở đập tan,-
    Tinh vệ ngậm đá sỏi quên thân, biển Đông hải lăm le lấp cạn.


    28-Thuyền con sóng cả, ai dám liều lĩnh cầm lái ra khơi,-
    Tài thấp sức hèn, ai lại ngông cuồng giong cương xông trận.


    Hơn nữa:


    29-Đạo dân nước muôn vàn hệ trọng, tài Phạm Tăng khó dựng nghiệp Sở bang,-
    Nợ kiếm cung lắm nỗi đa đoan, mưu Bàng Thống khó vượt truông Lạc Phụng.


    Dám xin hiền huynh:


    30-Ban oai đức góp tay rèn trẻ, nên tôi hiền giúp nước phò vua,-
    Dạy binh cơ điều tướng cầm quân, rành mưu giỏi an dân dẹp loạn.


    31-Ngàn vàng khôn đổi, nghĩa trượng ơn sâu,-
    Muôn thuở khó quên, tình nồng đức cả.


    32-Dầu da ngựa bọc thây,-dầu đường gươm nát mạng,


    Thiên Lương này vẫn:


    33-Làm Tử Kỳ nhớ đức độ Bá Nha,- làm Bảo Thúc khắc ân tình Quản Trọng.


    Kính mong vậy thay,
    Châu Thiên Lương cẩn chí.
    Nhịp thời gian chảy xuôi mau,
    730-Giang hồ chán bước nghêu ngao núi rừng.
    Trăng ngà vằng vặc giữa lừng,
    Gót chai sỏi đá ngập ngừng về đây.
    Châu Thông đón tận lối ngoài,
    Nghẹn ngào giọt vắn giọt dài tuôn rơi.
    Rằng: “Thân tên lạc cung rơi,
    Thuyền con sóng đuổi nửa vời linh đinh.
    Biển sâu đâm sấu chém kình,
    Đồng quan ngươn soái vốn tình cha con.
    Lòng trung chăm chắm chẳng mòn,
    740-Gãy cờ giữa trận, gởi hồn Huỳnh sa.
    Ghé đây chưa rõ tin nhà,
    Thầy cùng tiên phụ lại là đồng song.
    Bèo trôi gió dập long đong,
    Kiếm lời giấu giếm để hòng tạm nương.
    Hờ cơ bóng lẻ đêm sương,
    Khêu đèn đọc sách mới tường đục trong.
    Ơn người sâu tợ biển Đông,
    Rộng thương tha thứ, con lòng chẳng quên.”
    Sư rằng: “ Hỉ xả làm nền,
    750-Bụi hồng phiền não, ơn trên hộ trì.
    Sen vàng nở đức từ bi,
    Sắc không, chơn giả, có gì khác đâu!
    Mấy tuần chung đụng với nhau,
    Tướng đi dáng đứng, làm sao chẳng ngờ?
    Đương khi thất thế sa cơ,
    Cao bay xa chạy bơ vơ lánh nàn.
    Họ tên dẫu chửa hản tàng,
    Liếc sơ diện mạo biết trang anh hùng.
    Tới nay, con tỏ sự lòng,
    760-Cội khô ướm trổ chồi bông khác gì!
    Đế kinh gặp cảnh hiểm nguy,
    Cẩm Thành khó tránh vận thì gian nan.
    Lũ kên kên uống máu tràn,
    Trông tìm bạn cũ, bặt khan tin hồng.
    Đầu cành quyên giục đêm ròng,
    Non Càn ruột thắt, thơ phòng châu rơi.
    Tang thương cát lở bùn bồi,
    Đất bằng ngập lũ, biển khơi hóa cồn.
    Thành tâm vẹn đạo thần hôn,
    770-Theo thầy len lỏi truông mòn vượt qua.
    Nửa ngày, chắc tới Huỳnh sa,
    Nách mang lưng nước bầu hoa lên ngàn.”
    Gà rừng vọng nhặt râm ran,
    Trăng tà gác núi, tơ vàng vương cây.
    Lối mòn sương sũng canh chầy,
    Truông xa vắng vẻ, rừng dày thâm u.
    Tàn xanh bụi rậm, chim gù,
    Hương thơm dẫn lối, mây mù vướng chân.
    Nhắm sao xa, lội suối gần,
    780-Huỳnh sa đồi cũ dò lần tới nơi.
    Tạnh mây, cảnh sắc sáng ngời,
    Bông đùa giỡn gió, gió lay lắc nhành.
    Buông rèm, lá mịn liễu xanh,
    Cội thông bóng ngã, thác gành nước reo.
    Lau già vàng úa buồn theo,
    Đất pha sỏi cuội đìu hiu một gò.
    Châu Thông bước đến bên mồ, :
    “ Trời Tây sao rụng, trăng mờ nơi đây!”
    Hoa chưng, nhang thắp, trái bày,
    790-Nỗi niềm u uất một hai tự tình:
    -“Đôi ta xưa, bóng với hình,
    Ai cơn hoạn nạn lại đành bỏ sao!?
    Vẽ duyên, tạo hóa hiểm sâu,
    Phút lìa đời chẳng thấy nhau một lần.
    Người vì nghĩa lớn nát thân,
    Còn ta bùn bụi bám chân sông hồ,
    Người vai nặng gánh cơ đồ,
    Ta mong giải thoát qua đò sông mê.
    Một đi, đâu đã hẹn về,
    800-Ngắm trăng sương, nhớ chén thề, mà thương.
    Hiền lành mắc phải tai ương,
    Ai xui đây đó âm dương cách vời.
    Đôi ta sanh chẳng gặp thời,
    Chí lăm luyện đá vá trời được đâu!
    Than ôi! Thỏ chết chồn rầu,
    Sụt sùi giọt thảm thâm bâu canh dài.
    Ghi tâm khắc dạ câu này,
    Gươm thiêng tuốt vỏ, ra tài kình côn.
    Bạn vàng khắn khít keo sơn,
    810-Xin vì ai, đáp tiếng đờn tri âm.
    Mưa cuồng, gió loạn, tối sầm,
    Huơi thương thúc ngựa, sanh cầm Yên binh.
    Nhận làm nghĩa tử minh linh,
    Dưỡng nuôi dạy trẻ sử kinh từ rày.
    Đợi thời, cuốc nguyệt cày mây,
    Tóc bay gió lộng, hươu nai bạn cùng.
    Bàn khê, cần trúc ven dòng,
    Tỉnh say hồn bướm gởi lòng Kỳ sơn.
    Nắng chan, bạc mảnh áo đơn,
    820-Đầu trần lửa đổ, đâu sờn chí cao.
    Sợ gì bắt cọp hang sâu,
    Kiếm vung, thủy quái rụng đầu doành khơi.
    Thương dân là thuận ý trời,
    Dáo đâm giặc dữ, tay dời đẩu tinh.
    Giập tàn dông bão đao binh,
    Cấy mùa lúa mới, ấm tình đất xưa.”
    Im hơi, thôn thở khói mờ,
    Mong manh gió gợn, vàng mơ ráng chiều.
    Nằm dài, cây đổ bóng xiêu,
    830-Thác ngàn tiếng vọng, lối tiều cỏ đan.
    Huỳnh hôn len nhịp thời gian,
    Quyện nhau chậm rãi, tỏa lan mọi miền.


    CHÚ THÍCH:

    -Nâu sồng: màu áo nâu nhuộm vỏ cây dà,- chỉ cuộc sống đạm bạc của các tu sĩ Phật giáo.
    -Thái Hằng: dãy núi Nam Trung quốc, có Tần Côn lãnh là đỉnh cao nhất. Địch Nhơn Kiệt, danh tướng đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, chỉ đám mây trên ngọn Tần Côn lĩnh mànói với tướng sĩ: “ Ngô thân xá ư kỳ hạ.” ( Nhà mẹ ta ở dưới đó). Vì vậy, mây Thái Hằng hay mây Tần được dùng chỉ người mẹ.
    -Cội thung= cội xuân: chỉ người cha.
    -Công phu: thời kinh cúng Phật lúc sáng sớm hoặc chiều.
    -Thí thực: thí cơ hồn.
    -Giấc hồ: (cg: giấc bướm), tức hồ điệp mộng. Trang tử nằm mơ thấy mình hóa bướm. Giấc hồ chỉ giấc ngủ.
    Ta nhớ tiền thân phòng bỏ ngỏ,
    Giấc hồ thơm tóc gái liêu trai.
    (Vũ Hoàng Chương).
    -Quyển vàng: do chữ huỳnh quyển, chỉ quyển sách.
    Một ngọn đèn xanh, một quyển vàng,
    Bốn con làm lính, bố làm quan.
    (Trần Tế Xương).
    -Di ngôn: lời nói còn để lại của người đã khuất.
    -Hoa tiên: tờ giấy có vẽ hoa, dùng để viết thơ.
    -Thiên Bảo: niên hiệu của Đường Minh Hoàng.
    -Nhã giám: xem,-từ dùng cho người mà mình kính trọng.
    -Xích Bích: tên con sông ở tỉnh Hồ Bắc, nơi xảy ra trận thủy chiến ác liệt giữa Châu Do và Tào Tháo đời Tam quốc.
    -Khí tiết: sự cứng cỏi, lòng ngay thẳng của tâm hồn người chánh nhân quân tử.
    -Kim lan: do chữ kim bằng (bạn vàng),- lan hữu (bạn quí như hoa lan).
    Kim lan từ thuở nhỏ chơi bời,
    Bè bạn như ta được mấy người.
    (Nguyễn Khuyến)
    -Tạn mặt: gặp giáp mặt.
    -Hóa rồng: cá chép hóa rồng sau khi vượt Võ môn tam cấp,-ý nói sự thành đạt.
    -Ẩn sĩ: kẻ không muốn đua chen với đời nên tìm chỗ vắng vẻ để an nhàn.
    -Cao tăng:tu sĩ Phật giáo ngộ được đạo, có đức hạnh cao cả.
    -Tư mùa: (từ Nb): trải hết bốn mùa.
    Biển Đông sóng dợn tư mùa,
    Ai cho em uống thuốc bùa, em mê?
    (ca dao)
    -Tám tiết: do chữ bát tiết (tám giai đoạn thay đổi thời tiết trong năm): lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí.
    -Đảnh chung: (cg: chung đảnh),-(Đ.ng: đỉnh chung) ,- đảnh:cái nồi lớn, cái vạc lớn để nấu cơm; chung: cái chuông để gọi các môn khách về ăn cơm. Ngày xưa, các nhà quyền quí thường nuôi nhiều môn khách để sau này có dịp dùng tới khi mưu đồ việc lớn. Đảnh chung chỉ bổng lộc mình nhận được.
    -Lụt (từ Nb): không sắc bén.
    -Gác phụng: (cg: phụng khuyết, phụng các): chỉ triều đình.
    -Huỳnh Thạch: tức Huỳnh Thạch Công, ẩn sĩ đời Tần đã trao cho Trương Lương bộ bimh thơ giúp Lưu Bang dựng nghiệp Hớùn.
    -Đào Tiềm: tự Uyên Minh, hiệu Nguyên Lượng, phò vua Tấn. Sau Tấn bị Tống thôn tính, ông lui về ở ẩn, trồng năm cây liễu trước nhà. Người đời thường gọi ông là Ngũ Liễu tiên sinh. Liễu và cúc vì thế tượng trưng người ẩn dật.
    -Lữ: một đơn vị trong tồ chức quân đội ngày xưa, có quân số chừng 5000 người gồm có nhiều cơ và đội.
    -Hổ trướng: màn có hình con hổ, nơi tướng soái làm việc.
    -song hồ: cửa sổ có dán giấy, nơi thư sinh đọc sách.
    Mưa hoa khép kín song hồ,
    Sớm khuya có bức họa đồ làm đôi.
    (Bích câu kỳ ngô
    -Chùy Bác Lãng: Trương Lương đời chiến quốc, người nước Hàn. Hàn bị Tần thôn tính. Trương Lương muốn trả hận cho nước, mướn một lực sĩ cẩm chùy núp ở gành Bác Lãng. Đợi Tần Thủy Hoàng đi xe ngang thì xông ra hành thích. Mưu không thành, Lương bỏ trốn, sau giúp Lưu Bang dựng nghiệp nhà Tây Hớn rồi theo Huỳnh Thạch Công đi tu tiên.
    -Tinh vệ: con vua Viêm Đế, vượt biển, bị cheat đuối. Hồn hóa thành chim ngậm đá sỏi để lấp biển.Ý chỉ việc làm khó thành công do suy nghĩ không chin chắn.
    -Phạm Tăng: mưu thần của Tây Sở Bá vương Hạng Võ, tài giỏi nhưng không gặp thời vận.
    -Bàng Thống: tự Phụng Sồ, có mưu lược cao, nhưng không nghe lời Khổng Minh nên bị bắn chết ở truông Lạc Phụng.
    -Da ngựa bọc thây: do câu “ mã cách khỏa thi” (lấy da ngựa bọc thây chết người lính),-ý nói chết trận.
    -Tử Kỳ: tức Chung Tử Kỳ, bạn tri âm của Bá Nha thời Chiến quốc.
    -Bảo Thúc:tức Bảo Thúc Nha được Quản Trọng giúp đỡ và thông cảm hoàn cảnh nhiều nhất. Bảo Thúc nói “ Sinh ra ta đã có cha mẹ, hiểu biết ta chỉ có Quản Trọng”. Họ là bạn tri kỷ với nhau.
    -Hờ cơ: (từ Nb): ngẫu nhiên, tình cờ mà gặp, không hẹn trước.
    -hản tàng: tức hản tường, hiểu rõ mọi việc.
    -Tiên phụ: (cn: tiên nghiêm),-từ để gọi người cha quá cố.
    -Đồng song: bạn học.
    -Hỉ xả: vui vẻ mà bỏ qua tất cả.
    -Sắc không: (Phật): cái có và cái không.
    -chơn giả: cái thật và cái không thật.
    -Anh hùng: (anh: vua loài hoa; hùng: vua loài thú). Tào Tháo, khi luận về anh hùng có nói: “ Phù anh hùng giả, hung tàng đại chí, phúc hữu lương mưu, bao tàng vũ trụ chi cơ, thôn thổ thiên địa chi chí” ( Phàm làm người anh hùng, ngực chứa chí lớn, bụng có mưu cao, bao gồm then máy của vũ trụ, mang chí cả nuốt trôi cả trời đất).
    -Vận thì: vận thời.
    -Non Càn: tên một ngọn núi tưởng tượng.
    -Trời Tây: tức Tây thiên, chỉ cõi chết.
    -Giải thoát: (Phật): cởi bỏ mọi phiền não để lòng được thanh tịnh.
    -Luyện đá vá trời: theo thần thoại, bà Nữ Oa luyện đá vá trời,-ý nói làm việc lớn.
    -Thỏ chết chồn rầu: do câu “ thố tử hồ bi”, chỉ lòng cảm thương đối với đồng loại.
    -Thâm bâu: nước mắt đọng làm thâm cổ áo.
    -Huơi: (từ Nam bộ),-< HV: huy: quay tít.
    -Sanh cầm: bắt sống.
    -Nghĩa tử minh linh: con nuôi.
    -Hai câu 817-818 lấy ý trong hai câu thơ cổ:
    Vị thủy đầu can nhựt,
    Kỳ sơn nhập mộng hồn.
    (Khương Tử Nha ban ngày gieo cần câu trên sông Vị, hồn đi vào giấc mộng Kỳ sơn. Kỳ sơn là tên ngọn núi ở phía Tây Trung quốc, nơi vua Châu Võ vương Cơ Phát hưng binh phạt Trụ, dựng nghiệp nhà Tây Châu.

  10. #10
    Biệt Thự NhàQuê's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Connecticut-USA
    Posts
    527

    C-TRAO TRUYỀN VÕ NGHỆ


    Trăng liềm vòm lá chiếu xiên,
    834-Lờ mờ trãng cỏ, mây biền biệt bay.
    Đèn nhang hương án kíp bày,
    Lạy thầy tạ lễ công dày võ môn.
    Đỉnh trầm hơi ngát khói tuôn,
    Đài sen nến rạng, giọt luồn chảy quanh.
    -“ Bẻ tên, thề tấc lòng thành,
    840-Gìn lời giao phó vẹn tình sắt son.
    Điêu tàn tám cõi nước non,
    Trong làng gươm giáo, mất còn: Người, Ta.
    Thề xưa, chứng có trăng già,
    Quyết truyền con trẻ nghiệp nhà kinh luân.
    Cước quờn, miếng mọn phòng thân,
    Trận đồ biến hóa mười phần công phu.
    Điều hòa uyển chuyển cương nhu,
    Kê vai gánh vác cơ đồ ngửa nghiêng.
    Hiếu trung khắc một lời nguyền,
    850-Luyện nghề cung kiếm giữ yên quê nhà.
    Phơi gan trải mật sức già,
    Những mong chồi mọn trổ hoa kịp thời”.
    Rằng “ Con nương náu đúng nơi,
    Tiết Đông lạnh lẽo đã dời sang Xuân.
    Cúi đầu cảm đội thâm ân,
    Những lời gia huấn mười phần ghi tâm”
    Rằng “ Cân nhắc kỹ chớ lầm,
    Tính suy mực thước khi cầm ba quân.
    Trui rèn thao lược cho thuần,
    860-Miệt nào trận nấy, con đừng lãng quên.
    Được thua, lấy đức làm nền,
    Xót người số vắn dựng lên thành dài.
    Kiếm vung che kín trong ngoài,
    Đối đầu cung nỏ, tên bay khó vào.
    Mưa dầm, nước mới thấm sâu,
    Vuốt ưng, tay khỉ duợt lâu mới nhuần.
    Trụ như ngọn đảnh Côn Luân,
    Đi như bão cuốn sóng thần biển xa.
    Đá, thoi hiệu quả chẳng qua,
    870-Bộ, thân, cước, chỉ, thủ là cơ nguyên.
    Con nên trọng thế hơn quyền,
    Tùy cơ ứng biến, mới nên tay già.
    Nhược bằng ham múa mỹ hoa,
    Mua vui trẻ nít chẳng ra trò gì.
    Tới lui ảnh hoán hình di,
    Mau như lá rụng, lanh bì tên bay.
    Lẹ làng dai dẽo chơn tay,
    Mười hai thế đá không sai tơ hào,
    Giữ mình là sách lược cao,
    880-Bàng long cước giải địch bao giáp vòng.
    Gậy tre đuổi cọp chạy cong,
    Khăn đầu nắm chắc để hòng thoát nguy.
    Dưới làu thế đất chi li,
    Trên rành thiên tượng, các vì đẩu tinh.
    Rạch ròi kỳ chánh phân minh,
    Đánh đồn lượng sức, giữ thành mưu cơ.
    Thủy, sơn, địa chiến, ngày giờ,
    Lũy dinh Lý Tịnh, trận đồ Ngọa Long.
    Sớm trưa sách vở nằm lòng,
    Văn ôn võ luyện cho thông mọi đường.
    Ngoắt tay sấm động mười phương,
    Rồng phun bão lửa, cọp giương móng ngà.
    Lấy can qua dẹp can qua,
    Cứu dân thoát ách máu hòa thây phơi.
    Theo lòng người, thuận mạng trời,
    896-Hoa thêu gấm dệt đời đời nước non.



    Chú thích:

    -Kinh luân: (kinh: việc kéo tơ; luân: việc quay tơ vào guồng): tài khéo léo sắp xếp việc chánh trị, quân sự.
    -Cước: gót, thế võ dùng gót để đá.
    -Quờn (từ Nb): quyền: nắm tay,-thế võ đánh bằng tay không.
    -Thâm ân: ơn sâu.
    -Gia huấn: lời dạy dỗ của cha mẹ trong gia đình.
    -Miệt: (từ Nb)-vùng, miền, không kể rộng hẹp.
    -Thao lược: (thao: gồm có lục thao: văn thao, võ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao; lược: gồm tam lược: thượng lược dùng nhân, trung lược dùng trí, hạ lược dùng dũng): Thao lược chỉ cách cầm quân.
    -Vuốt ưng: hay móng chim ưng, tức ưng trảo công,-một thế trong chỉ pháp của võ thuật, gồng cứng bàn tay, các ngón tay co vào lòng bàn tay như móng vuốt chim ưng.
    -Tay khỉ:thủ pháp nhanh lẹ và mềm dẽo như tay con khỉ,-thường được dùng trong hầu quyền.
    -Duợt (từ Nb): duyệt, làm đi làm lại, xem lại để khi làm đạt hiệu quả cao.
    -Trụ: đứng.
    -Côn Luân: ngọn núi lớn ở phía Tây Trung quốc.
    -Đá thoi: tức dùng cước và quyền, dùng gót để đá, dùng bàn tay nắm lại để thoi đấm.
    -Bộ: tức bộ pháp,- phép di chuyển từng bước.
    -Thân: tức thân pháp,-phép cử động thân mình.
    -Cước: tức cước pháp,-các nguyên tăc sử dụng gót chân.
    -Chỉ: tức chỉ pháp,- cách dùng các ngón tay.
    -thủ: tức thủ pháp,- phép sử dụng hai tay.
    -cơ nguyên: nguồn gốc, căn bản.
    -tùy cơ ứng biến:tùy tình thế mà thay đổi cho phù hợp.
    -mỹ hoa: rực rỡ, đẹp đẽ.
    -ảnh hoán hình di: (cn: hoán ảnh di hình):thay hình đổi bóng,- ý nói lanh lẹ khó lường.
    -Khăn đầu: tức đầu cân pháp,- dùng khăn vải quấn đầu để tấn công, đỡ đòn hay bắt lấy binh khí của địch.
    -Thiên tượng: vẻ đẹp, hình thể và những biến động thay đổi của bầu trời.
    -Đẩu tinh: chòm sao và ngôi sao.
    -Kỳ: tức kỳ binh, phép rải quân từng đơn vị nhỏ họat động rải rác khắp nơi.
    -Chánh: phép điều động đại quân.
    -Thủy chiến: trận đánh trên mặt nước.
    -Sơn chiến: trận đánh vùng núi non hiểm trở.
    -Địa chiến: trận đánh trên đất liền, trên đồng bằng.
    -Lý Tịnh: danh tướng đời Đường, đóng quân lập dinh trại hình bán nguyệt.
    -Ngọa Long: tức Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng với Bát trận đồ, vây Đô đốc Đông Ngô là Lục Tốn.
    -Can qua: (can: ngọn dáo; qua: cái mác),-chỉ binh khí hay chiến tranh.

 

 

Similar Threads

  1. HÀNH HƯƠNG - NhàQuê
    By NhàQuê in forum Thơ
    Replies: 359
    Last Post: 07-11-2023, 07:25 AM
  2. Replies: 14
    Last Post: 03-17-2012, 11:06 AM
  3. Thử Đăng Hình
    By ngocdam66 in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 244
    Last Post: 01-06-2012, 08:35 PM
  4. Huyền thoại Steve Jobs ...
    By maitq in forum Lượm Lặt Khắp Nơi
    Replies: 6
    Last Post: 10-10-2011, 12:23 PM
  5. Đăng
    By Triển in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 19
    Last Post: 10-08-2011, 10:57 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 11:14 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh