Register
Results 1 to 10 of 11

Hybrid View

  1. #1
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Đà Lạt Quê Hương Tôi


    Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Thành Phố Đà Lạt
    Tác giả: Hứa Hoành
    (Phần 1)

    ***




    Lập trên cao nguyên Lâm Viên đồi núi chập chùng, Ðà Lạt là một đô thị nghỉ mát xinh đẹp nằm giữa những khu rừng thông, thác nước thơ mộng: Ðà Lạt là thành phố của tuổi trẻ, tình yêu và kỷ niệm. Ai đã đến đó một lần, chắc chắn sẽ giữ lại trong lòng những hình ảnh và kỷ niệm thân thương. Tài liệu viết bài này ngoài quyển sách Những Ðứa Con Của Rừng Núi (The Sons of Mountains) của Gerald Cannon Hickey, còn nhiều tài liệu khác mà chúng tôi sưu tầm trong sách báo cũ.

    Trong chương viết về Ðà Lạt, tác giả G. Hickey có nhắc đến tác phẩm, bài báo kê cứu hiếm như báo Indochine năm 1943-1944, Monographie de la province Dalat do trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội in năm 1931, tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hue năm 1938.

    Trong các Toàn Quyền Ðông Dương chỉ có Paul Doumer, Pasquier và Decoux để lại nhiều kỷ niệm trên đất nước ta hơn hết. Mặc dù khi tạo lập đường xá, cầu cống, tiện nghi công cộng, người Pháp không nghĩ đến phúc lợi cho người bản xứ, nhưng dầu sao đi nữa các cơ sở hạ tầng ở các thuộc địa cũng đem lại lợi ích lâu dài. Chúng tôi còn nhớ ngày 10 tháng 12 năm 1896, toàn quyền Rousseau lâm trọng bện và từ trần ở bệnh viện Hà Nội thì Paul Doumer được lệnh qua Ðông Dương kế vị. Vừa đến Việt nam, Paul Doumer liền nghĩ đến một chương trình kiến thiết đầy tham vọng. Mục đích nhằm khai thác kinh tế Việt nam. Hai dự án lớn lao nhất của Paul Doumer là:

    * Tìm các địa điểm lập các đô thị nghỉ mát ở miền núi Trung Kỳ.
    * Lập lại đường xe lửa xuyên Việt.

    Năm 1879, Paul Doumer gặp bác sĩ Yersin là người đã hướng dẫn nhiều cuộc thám hiểm sâu vào vùng rừng núi Tây Nguyên để thảo luận việc tìm kiếm những địa điểm thuận tiện có thể lập khu nghỉ dưỡng. Nơi đó phải có khí hậu mát mẻ để các kiều dân Pháp và các viên chức Pháp ở Ðông dương đến nghỉ hè thay vì mỗi năm phải về Pháp. Bác sĩ Yersin khuyến cáo nên chọn đỉnh Lâm Viên (Lang Biang). Sau đó Paul Doumer ra lệnh cho một đoàn thám hiểm quân sự tìm kiếm một con đường từ miền duyên hải lên Lâm Viên. Năm 1898, Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai Thượng, cơ sở hành chánh đặt tại Ðà Lạt. Ngoài ra, còn có một tỉnh nhỏ mới thành lập ở Tánh Linh, nằm trên đường mòn trao đổi hàng hóa giữa cao nguyên và đồng bằng.

    Một đoàn thám hiểm khác khởi hành vào năm 1908 để phát quang dọn dẹp con đường mòn từ đồng bằng lên cao nguyên. Công việc này hoàn tất năm 1899. Với sắc lệnh 1 tháng 11 năm 1899, người Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai Thượng với trung tâm hành chính đật tại Ðà Lạt, một tỉnh nhỏ hơn là Tánh Linh với cơ sở hành chánh tại Djirinh (Di Linh).


    Một ngôi nhà bằng thiết đầu tiên được xây dựng coi như ngôi nhà nghỉ mát đầu tiên tại đây. Mấy năm sau, nhận thấy rằng vùng rừng núi này có nhiều vách đá dốc đứng, cheo leo, khó thiết lập đường xe lửa, nên họ chọn cách làm đường lộ cho xe hơi chạy. Từ đó, Pháp bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, còn đại lý hành chánh Djirinh sát nhập vào tỉnh Phan Thiết và Ðà Lạt nhập vào Phan Rang. Công việc đang tiến hành thì năm 1902, toàn Quyền Paul Doumer đột ngột về Pháp, khiến nhiều chương trình kiến thiết bị đình trệ.

    Tuy là một thành phố sinh non, nhưng nhiều người Pháp có đầu óc làm giàu chú ý ngay đến Ðà Lạt. Lợi dụng sắc luật nhượng đất đai của chính phủ, vào ngày 1 tháng 4 năm1900, một người Pháp tên Gresieu được cấp cho không 885 mẫu đất thuộc Đồng Nai Thượng. Ngày 18 tháng 10 năm 1901, một người Pháp khác tên Armavon được cấp 300 mẫu ở gần Ðà Lạt.

    Ngày nay du khách đi chơi Ðà Lạt thường theo Quốc Lộ 20, từ Ngã Ba Dầu Giây lên Định Quán, Bảo Lộc, rồi Di Linh tới Ðà Lạt, hay dùng Quốc Lộ 21 từ Phan Rang đi lên, chớ ít ai ngờ rằng con đường lộ đầu tiên nối liền giữa Sài Gòn và Ðà Lạt đi qua ngã đường Phan Thiết. Ðường ấy bắt đầu từ Ma Lâm, qua đèo Datrum đến Di Linh, rồi từ đó mới đi tiếp lên Ðà Lạt. Từ năm 1914 đến 1915, Phan Thiết là trạm dừng chân của lữ khách đi Ðà Lạt.


    Từ năm 1908, Ðà Lạt mới có ngôi nhà gạch đầu tiên là Tòa Công Sứ Pháp. Năm 1912 toàn Quyền Albert Sarraut kế tục chương trình dang dở của Paul Doumer, phát triển Ðà Lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng. Ban đầu người Pháp khởi công làm con đường từ Phan Rang lên Ðà Lạt qua Ða Nhim và đèo Ngoạn Mục (Bellevue). Con đường ấy sau này mở rộng thành Quốc Lộ 21. Từ năm 1914, hãng xe hơi chở khách “Société des Correspondances Automobiles du Lang Biang” cho chạy những chiếc xe hiệu Lorraine-Dietrich trên lộ trình Sài Gòn - Phan Thiết - Di Linh tới Ðà Lạt. Người cố cựu cho biết rằng hồi đó người ta gọi tắt hãng xe đò này bằng chữ “SCAL.”

    Năm sau, tỉnh Lang Biang thành hình vẫn lấy Ðà Lạt làm tỉnh lỵ. Ðà Lạt bắt đầu thu hút du khách đến nghỉ mát và săn bắn vào mùa hè. Năm 1916, Lang Biang Palace Hotel là khách sạn đầu tiên được xây dựng theo kiểu nhà sàn, nhưng có hành lang rộng và mái che. Cũng năm đó, Ðà Lạt có trạm bưu chính, sở công chánh và trắc địa, tòa công sứ, cảnh binh. Còn người Việt nam (kinh) đầu tiên đến cư ngụ Ðà Lạt là những người phu khuân vác trắc địa hay những người buôn bán.

    Năm 1920, Pháp tái lập tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh, trong khi Ðà Lạt trở thành một khu vực tự trị về hành chánh, do một tổng ủy viên cai trị. Năm 1922, Ðà Lạt bước qua một giai đoạn phát triển mới, kiến trúc sư được chỉ định vẽ đồ án nới rộng Ðà Lạt, mở rộng thành phố thành một đô thị tân tiến. Ðặc biệt theo đồ án này không được xây cất gì che khuất đỉnh Lâm Viên để giữ vẻ đẹp cho thành phố thơ mộng. Pháp muốn thành phố Ðà Lạt sẽ là một góc của nước Pháp ở miền núi Alpes của Á Châu. Do đó Ðà Lạt phải có hồ nhơn tạo, hàng trăm biệt thự rải rác trên các sườn đồi, xây dựng ngôi chợ trung ương hình khối chữ nhật với tháp chuông vươn cao. Ðó là vị trí rạp hát Hòa Bình hiện nay.

    Kể từ năm 1930 trở đi, Ðà Lạt phát triển thành một đô thị có vườn hoa xinh đẹp, nhiều công viên cây xanh, ngàn hoa khoe sắc thắm vào mùa xuân. Người Mỹ đầu tiên có mặt tại Ðà Lạt là vợ chồng nhà truyền giáo Tin Lành Hebert Jackson. Ông này đến Ðà Lạt năm 1930, lập nhà truyền giáo đầu tiên cho đồng bào Thượng, có một mục sư Việt nam làm thông ngôn.

    Năm 1925, Ðà Lạt có chương trình gắn điện các đường phố chính bằng cách xây đập thủy điện Ankroet. Dự án này không thực hiện được vì thiếu ngân sách. Năm 1929 một nhà trồng tỉa Pháp làm một máy phát điện nhỏ sử dụng thác nước Cam Ly để cung cấp điện lực cho Ðà Lạt. Tháng 7 năm 1932, con đường Quốc Lộ 20 từ Sài Gòn lên Bảo Lộc đi Ðà Lạt hoàn thành.

    ĐÀ LẠT: MỘT TRUNG TÂM GIÁO DỤC

    Các nhà khoa học đều nhận định rằng môi trường, khí hậu trong lành, mát mẻ rất thích hợp cho các hoạt động trí tuệ. Từ đó, Ðà Lạt sớm phát triển thành một trung tâm giáo dục quan trọng nhất nước. Năm 1927, nhằm phục vụ cho con em người Pháp và số gia đình người Việt giàu có, Pháp cho lập ra Petit Lycée de Dalat. Ngôi trường Việt nam đầu tiên do cụ Bùi Thúc Bàng mở ra năm 1927, gần rạp Ngọc Lan. Cùng năm đó, dòng nữ tu Soeur St. Paul mở trường Crèche de Nazareth, dành riêng cho trẻ em. Trước năm 1932, trường Petit Lycée de Dalat đổi thành Grand Lycée de Dalat và chương trình học dạy tới bực tú tài Pháp. Năm 1935, trường này lấy tên Lycée Yersin cho tới nay, để kỷ niệm bác sĩ Yersin, ân nhân của Việt nam và cả nhân loại nữa.
    Cuối năm 1932, người Pháp xây dựng cơ sở giáo dục cho nhà dòng sư huynh (trường Christian Brothers) và trường Collège d’Adran cho các chủng sinh. Năm 1935, nhà dòng Notre Dames mở rộng thêm bằng cách thiết lập chương trình giáo dục đệ nhị cấp, còn gọi là “Notre Dames de Lang Biang” và sau này chúng ta quen gọi trường ấy là Couvent des Oiseaux. Trường nữ này dành riêng cho các thiếu nữ con các gia đình Pháp và Việt giàu có cùng các gia đình quan lại. Trường này thu nhận các nữ sinh từ Cam Bốt và Lào theo học nữa.

    Ðến ngày 27 tháng 6 năm 1939, Ðà Lạt có thêm trường Thiếu Sinh Quân đầu tiên dành cho các thiếu nhi và thiếu niên các gia đình quân nhân Pháp Việt. Năm 1936 bác sĩ Yersin lập ra viện Pasteur ở Ðà Lạt, sau này trở thành Nha Địa Dư, nằm trên ngọn đồi gần trường Yersin và ga xe lửa Ðà Lạt. Ngày 1 tháng 1 năm 1953, Trường Quốc Gia Hành Chánh thành lập tại Ðà Lạt để đào tạo công chức cao cấp cho chánh phủ. Nhiều người Việt nam tốt nghiệp khoa này, về sau đều làm tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và giám đốc các công sở.

    Trường trung học Trần Hưng Ðạo khởi thủy lập gần chợ Hòa Bình, có hoàng tử Bảo Long theo học, nên sau lấy tên là trường Bảo Long. Còn trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lúc mới lập lấy tên công chúa Phương Mai, sau đổi thành trường Quang Trung.
    Trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam nguyên thủy là Trường Sĩ Quan Huế, thành lập năm 1948 bên cạnh sông Hương. Năm 1950, trường này di chuyển về Ðà Lạt, lấy cơ sở Trường Chỉ Huy Tham Mưu sau này làm địa điểm. Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, trường này lấy tên là Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt.

    Ðến năm 1960, trường này đổi tên thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam trên ngọn đồi 1515. Đến năm 1967, trường này có cơ sở hiện đại nhất so với các trường võ bị Ðông Nam Á. Áp dụng chương trình huấn luyện quân sự và phần lớn chương trình văn hóa của trường Võ bị West Point (từ Hoa Kỳ), trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam dạy văn hóa bậc đại học 4 năm, đào tạo các sĩ quan hiện dịch đủ trình độ kiến thức chỉ huy và kiến thiết sau này. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp tốt nghiệp do trường Võ Bị cấp phát, mỗi sinh viên còn được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng.

    Cho tới ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, trường Võ Bị đã đào tạo được 29 khóa sĩ quan hiện dịch (khóa 30 và 31 đang trong thời kỳ huấn luyện) làm nòng cốt cho quân đội Việt Nam Cộnhg Hòa (VNCH). Viện Ðại Học Ðà Lạt thành lập năm 1957. Tiền thân của viện đại học này là Trường Sư Huynh Công Giáo ở Huế do giám mục Ngô Ðình Thục thành lập với sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman ở New York. Viện Ðại Học Ðà Lạt xây cất trên khu đất rộng 38 mẫu tây, có khoảng 1,500 sinh viên theo học các phân khoa Chính Trị, Kinh Doanh, Sư Phạm, Khoa Học nằm tại số 1 đường Phù Đổng Thiên Vương.

    Thật là một sự ngạc nhiên lạ lùng, Ðà Lạt trước năm 1975 có độ 80,000 dân mà có đến 4 cơ sở giáo dục đại học: Viện Ðại Học Đà Lạt, Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Phía Giáo Hội còn có trường Giáo Hoàng Pio X. Ngoài ra còn có 15 trường trung học đệ nhị cấp và 56 trường tiểu học.

    VÀI NHÂN SĨ THƯỢNG Ở ĐÀ LẠT

    Ðà Lạt nguyên thủy là quê hương của người Thượng. Khi nói đến Ðà Lạt mà không nhắc qua vài tên tuổi lớn người Thượng thì thất là thiếu sót. Từ cuối năm 1920, Ðà Lạt phát triển bề rộng lẫn chiều sâu, mà vài người Thượng đã đóng vai trò quan trọng. Tại thung lũng Ða Nhim, có bộ tộc Churu (Chru) tuy dân số ít (độ 1,500 người) nhưng được coi là bộ lạc tiến bộ nhất cao nguyên Lâm Viên, vì lịch sử của họ có liên hệ với lịch sử người Chiêm Thành.

    Là thị dân Ðà Lạt, tôi chắc nhiều đồng hương còn nhớ con đường Ya Gut, nằm giữa đường Trần Bình Trọng và Hoàng Diệu, gần Trung tâm Y Tế Toàn khoa? Theo Touneh Han Tho thì Banahria Ya Gut được coi như lãnh tụ người Churu nhiều thập niên đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1870 tại một buôn làng thuộc vùng Ðơn Dương ngày nay, Ya Gut kết hôn với một người chị bà con của thân phụ Han Tho. Ya Gut có một đứa con gái tên Ame Mabo, cho đến năm1975 vẫn còn sống tại làng Diom là quê hương của ông ta. Ông Ya Gut là một người có tâm hồn nghệ sĩ, môt Nguyễn Du của người Churu, từng sáng tác nhiều thên anh hùng ca cho dân tộc Churu. Tài năng ấy Ya Gut thừa hưởng của tổ tiên.

    Năm 1909, Pháp lập một đồn hành chánh tại Dran (Ðơn Dương) và phong cho Ya Gut làm tri huyện cai trị vùng này, giống như trường hợp tù trưởng có thế lực Khunjenob cai trị tại Ban Mê Thuột. Hồi đó Ya Gut đóng vai trò trung gian giao thiệp giữa Pháp và dân chúng. Ngoài chức vụ hành chánh, Ya Gut còn đóng vai thẩm phán hòa giải các vụ xung đột, làm trọng tài giải quyết các cuộc tranh chấp của đồng bào ông ta.

    Theo Touneh Han Din, một người bà con với Han Tho, thì trong thời gian làm tri huyện ở Dran, nhiệm vụ căn bản của Ya Gut là chiêu mộ dân Thượng làm phu đắp đường giao thông. Dân Thượng cũng bị bắt buộc phải khiêng cáng cho các viên chức Pháp Việt và vợ con của họ. Ðối với các bà vợ công chức Việt nam, những người Thượng này gọi đùa rằng đó là các “bà đầm mũi tẹt.”

    Một lãnh tụ khác là Touneh Han Dang, sinh năm 1880 tại Diom, trong một gia đình có 7 anh em. Ba mẹ là người thuộc chi tộc Banahria. Cũng như cha, thuở nhỏ Han Dang theo cha làm rẫy. Thời gian nhàn rỗi cậu thường đi săn bắn thú rừng. Ðến tuổi 15, Han Dang tháp tùng theo các thường nhân người Churu buôn chuyến từ Phan Rang lên Dran. Chuyến xuống họ mang mật ong, thịt rừng phơi khô, vài loại măng, xuống Phan Rang đổi lấy muối, nước mắm, vải vóc. Là một thanh niên cường tráng, có chí tự lập, chỉ mấy năm sau, Han Dang tự mình tổ chức các chuyến hàng riêng biệt. Tại Phan Rang có làng An phước là nơi nổi tiếng văn vật của người Chàm, có trường tiểu học. Nhờ vậy Han Dang được theo học các môn Pháp Việt và Chàm ngữ.

    Thấy việc học thích thú và có lợi, Han Dang rất tích cực trau dồi. Nhưng có một điều làm cho Han Dang lo lắng đó là cha mẹ cậu sợ cậu ở mãi dưới An Phước sẽ lưu lạc rồi bỏ rơi ông bà. Vì thế ông bà thu xếp cho hai người anh lớn đang làm giáo viên, dạy kèm tiếng Việt và Chàm cho Han Dang tại nhà ở Diom. Hàng ngày, sau khi tập ca hát cùng các ban hợp ca trong hai giờ, Han Dang học kèm với anh, và sau đó, học võ với một võ sư người Việt.

    Năm 1905, Pháp bắt đầu làm con đường từ Phan Rang lên Ðà Lạt. Han Dang và cha đều bị bắt đi làm sưu. Thấy cha già yếu, Han Dang tình nguyện làm việc cho cả hai người, nhưng lại từ chối khiêng cáng cho các “bà đầm mũi tẹt.” Con đường từ Krong Pha lên Ðà Lạt có nhiều dốc cao, mỗi ngày Han Dang chỉ mang vác vượt 15 cây số thôi. Hàng hóa thường là những két rượu vang dành cho các công chức Pháp ở Ðà Lạt. Trong thời gian ấy Han Dang dành dụm được một số tiền, bắt đầu mua ngà voi, mật ong ở Roglai đem xuống Phan Rang bán.

    Năm 1907, Han Dang có ý nghĩ sẽ cải tiến đời sống người Churu. Ðầu tiên, Han Dang yêu cầu một người đàn bà Chàm đến Ða Nhim dạy bộ lạc Churu dệt vải. Kế tiếp, Han Dang gởi cô em họ là Ba Cam xuống Phan Rang học kỹ thuật làm nồi đất nung. Khi trở về, Ba Cam bắt đầu làm toàn bộ nồi đất mới cho cả làng.

    Han Dang còn học được kỹ thuật cày ruộng: cày sâu và hiệu quả hơn. Có một điều không thành công lắm là bắt đàn bà Churu mặc quần thay vì mặc váy.

    Năm 1910, Han Dang được bổ làm lý trưởng Diom. Năm sau Pháp lập huyện Tân Khai, sau này gọi là Di Linh và Han Dang trở thành thông ngôn cho Ya Gut. Ðến năm 1919, tri huyện Ya Gut hưu trí và Han Dang được cử thay thế chức tri huyện của Ya Gut. Mãi đến ngày 22 tháng 2 năm 1922, triều đình Huế (Khải Ðịnh) mới bổ Han Dang làm “Thổ Huyện Tân Khai” và gọi là “tri huyện Mọi.” Trong thời gian này, Han Dang đề nghị mở trường ở Ða Nhim bị công sứ Cunhac và quản đạo Trần Văn Lý phản đối với lý do “người mọi không cần giáo dục, vì họ chỉ làm những việc nặng nhọc, không cần đến sự khéo léo.”

    Dù thất bại, Han Dang không nản, tiếp tục tranh đấu để cải tiến mức sống của đồng bào ông. Năm 1922, người Pháp làm đường Sài Gòn đi Ðà Lạt qua ngả Bảo Lộc, cần nhiều phu người Thượng. Với tư cách tri huyện Mọi, Han Dang có bổn phận cung ứng dân phu, nhưng đồng thời cũng nhắc lại yêu sách mở trường học. Lần này có kết quả. Tại các buôn người Lat, người Chil, người Churu, bắt đầu có trường sơ cấp, nhưng mỗi trường chỉ có độ 10 học sinh. Cho đến năm 1927, quản đạo Trần Văn Lý liên tục bất đồng ý kiến với Han Dang, và bỏ qua các đề nghị của Han Dang về những cải cách nâng cao mức sống của đồng bào Thượng.


  2. #2
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Thành Phố Đà Lạt

    (Phần 2)


    Các thế kỷ trước khi chinh phục các quốc gia nhiệt đới làm thuộc địa, người Âu Châu thường gặp phải vấn đề khí hậu oi bức so với đất nước họ. Hàng năm, các công chức thuộc địa phải về chính quốc để nghỉ hè. Việc ấy rất tốn kém thì giờ và tiền bạc. Chính vì lẽ đó mà người Anh lập thành phố Darjeeling ở Ấn độ,người Mỹ lập Baguio ở Philippines, người Hòa Lan lập Bogor, rồi Thái mở rộng Chiang Mai, và Pháp ở Ðông Dương tìm kiếm những vị trí trên núi cao mát mẻ như Sapa, Tam Đảo, Bạch Mã, Bà Ná, và Ðà Lạt ở Việt nam ra đời.

    Ðà Lạt được khai sinh dưới thời toàn Quyền Paul Doumer. Khi đọc báo cáo của bác sĩ Yersin về cao nguyên Lâm Viên, Doumer tỏ ra thích thú. Trong một chuyến du hành bằng ngựa từ Bắc vào Nam, toàn Quyền Paul Doumer đã yêu cầu bác sĩ Yersin dẫn mình đi quan sát địa điểm nói trên. Ðến nơi, thấy địa thế lý tưởng, khung cảnh mát mẻ, Doumer tỏ ra hài lòng. Về Hà Nội, Paul Doumer liền ký sắc lệnh thành lập đô thị nghỉ mát Ðà Lạt.
    Một nhà nghiên cứu khác có mặt rất sớm ở Ðà Lạt, đã viết trong một hồi ký nhan đề Connaissance de Dalat như sau: “Ở nơi hồ nước, có dòng suối của bộ tộc Lat chảy qua, người ta gọi là Dalat.”

    Lúc đó thác Cam Ly (ở cuối đường Yersin trước năm 1975) là một dòng suối nhỏ, mùa mưa nước chảy khá mạnh. Tên Cam Ly ngày nay bắt nguồn từ tên người tù trưởng bộ lạc Koho. Ông ta tên là K’mly, sau khi chết, bộ lạc này dùng tên ông mà đật tên cho con suối đó mà họ xem như là quê hương của người Koho ở cao nguyên Lâm Viên. Về sau người Việt đọc trại thành Cam Ly. Trong một tấm bưu ảnh hồi thập niên 1950 chụp thác Cam Ly, phía dưới có hai câu thơ:

    Cam Ly nước chảy về đâu?
    Cho ta nhắn gửi mối sầu cố hương
    .

    Thác Cam Ly trở thành một thắng cảnh để du khách thăm viếng bắt đầu từ năm 1912. Nằm trên ngọn đồi lộng gió gần đó là lăng ông bà Nguyễn Hữu Hào, tức ông bà Quận Công Long Mỹ, nhạc phụ hoàng đế Bảo Ðại. Ông Hào là một người theo đạo Công Giáo, có quốc tịch Pháp, người quê ở Gò Công, có nhiều đồn điền ở Ðà Lạt, Cầu Ðất. Ông Hào là rể của ông Huyện Sĩ, thân phụ bà Nam Phương Hoàng Hậu, mất năm 1939.

    Con đường nối liền cao nguyên Lâm Viên với đồng bằng Phan Rang hoàn tất năm 1899, chỉ dùng cho voi, ngựa chở đồ và người đi bộ. Năm 1912 ngôi chợ đầu tiên Ðà Lạt được xây cất bằng gỗ, ngay vị trí rạp hát Hòa Bình bây giờ. Năm 1936 chợ Hoà Bình mới với hình tháp chuông nhô lên một góc, được xây dựng lại. Ngôi chợ mới Ðà Lạt do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu, xây dựng hồi năm 1958.

    Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ bên Âu Châu, con đường hàng hải qua lại bị gián đọan, nên các công sứ, tham biện, thống sứ ngưòi Pháp thường lên nghỉ hè trên Ðà Lạt. Năm 1923 toàn quyền Maurice Long giao cho kiến trúc sư Hébrard vẽ đồ án mở rộng thành phố, giữ lại bối cảnh sân cù nhìn lên đỉnh Lâm Viên, không cho xây dựng.


    Con đường xe lửa Ðà Lạt - Tháp Chàm phải xây dựng trong nhiều năm, vì đèo Ngoạn Mục dốc đứng, cao 980 mét trên mặt biển. Do đó người Pháp phải thuê kỹ sư Thụy Điển là những chuyên viên làm đường sắt có răng cưa trên các triền núi cheo leo bên nước họ, qua xây dựng con đường rầy.

    Khởi công từ năm 1928, con đường phải chia làm nhiều đoạn, có răng cưa ở giữa cho xe leo dốc khỏi tuột, cuối cùng khánh thành vào năm 1933 cùng một lượt với nhà ga Ðà Lạt. Ðó là một kiến trúc độc đáo hoàn toàn kiểu Âu Châu màu đỏ, có những cửa kính hình vuông, xa trông như một tòa lâu đài. Ngày khánh thành đường xe lửa Ðà Lạt - Phan Rang, có mặt Toàn Quyền Pasquier và Khâm Sứ Trung kỳ Thibaudau. Từ đó Pháp chở nhiều vật liệu nặng cho việc xây dựng các biệt điện.

    Cũng như nhiều thành phố khác, tới đâu Pháp cũng lo hưởng thụ các tiện nghi. Khu vực xây dựng đầu tiên gọi là “khu phố Tây” nằm trên đồi, thuộc khu vực rạp hát Ngọc Lan, chạy qua khách sạn Thủy Tiên, tới đường Phan Ðình Phùng, với nhiều nhà phố kiểu Tây phương, trên lầu có ban công nhìn xuống đường lộ để chiều chiều họ ra đó nhìn xuống đường phố.

    Dinh Toàn Quyền, còn gọi là Biệt Điện Số 2, nằm trên một ngọn đồi gần ngã tư đường Nguyễn Tri Phương và Trần Hưng Ðạo, khởi công năm 1933 có 25 phòng, ba năm sau mới hoàn thành. Biệt Điện Quốc Trưởng dành riêng cho vua Bảo Ðại gọi là Dinh Số 3, nằm cuối con đường Huyền Trân Công Chúa. Từ lúc xây cất xong cho đến năm 1945, biệt điện được gọi là Hoàng Cung Ðà Lạt. Ðây cũng là chỗ để hoàng đế tổ chức lễ vạn thọ (sinh nhật), tiếp tân các toàn quyền, khâm sứ, và sau này là cao ủy Pháp.

    Trong biệt điện chia ra nhiều phòng:
    * Văn phòng Hoàng đế, có bức tượng hình người thật của nhà vua bằng thạch cao và một bức tượng khác nhỏ hơn, bằng vàng, của vua Khải Ðịnh. Sau năm 1975 tượng này đã bị Cộng Sản lấy mất.

    * Trong phòng này cũng có ngọc tỉ, ấn tín. Phía trên lò sưởi, ngay giữa phòng là bức chân dung hoàng đế mặc triều phục, Hoàng Tử Bảo Long và Nam Phương Hoàng Hậu.

    * Tầng lầu thứ hai dành riêng cho hoàng gia họp mặt. Phòng màu vàng dành cho Thái Tử Bảo Long. Phòng hình bán nguyệt dành cho hoàng hậu và các con, nơi cả gia đình họp mặt.

    Ngoài ra, còn Dinh Số 1 nằm trên một ngọn đồi từ ngã ba Trại Hầm đi lên. Những biệt điện kể trên xây cất cách nay hơn nửa thế kỷ, nhiều chỗ hư mục nhưng không được tu bổ hoàn toàn.
    Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963), vợ chồng ông Ngô Ðình Nhu có xây một biệt thự nghỉ mát gọi là “biệt điện mùa hè” ở Ðà Lạt. So với các Dinh Số 2, Dinh Số 3, biệt điện này nhỏ hơn, nhưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật, vật liệu mua từ ngoại quốc, trang bị tối tân hơn. Lần đầu tiên, một hồ tắm kiểu vua chúa Tây phương được du nhập dành cho cấp lãnh đạo thụ hưởng. Biệt điện xây trên một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng thơ mộng, và đồi ấy được đật tên là Châu Lâm (Jewel Forest).

    Mùa hè năm 1964, khi chế độ Ngô Ðình Diệm sụp đổ, gia đình chúng tôi có ra thăm biệt điện này. Biệt điện được trang hoàng theo sở thích của từng người. Phần bà Nhu là hồ tắm bằng cẩm thạch, nước trong vắt, có máy làm nuớc nóng về mùa đông. Trong nhà, phòng ngủ, bếp nấu ăn đều trang bị những tiện nghi đắt tiên vì bà là một trưởng giả khó tánh. Phòng khách có đến năm lò sưởi. Tường, trần nhà, sàn nhà đều lót bằng những phiến gỗ tếch hình vuông, đánh bóng.

    Khu vườn hoa là của ông Ngô Ðình Nhu, có trên một trăm loài hoa hiếm quý được mua từ ngoại quốc đem về. Mỗi lần ra thăm, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thường bước ra sân im lặng ngắm hoa, như theo đuổi một ý tưởng riêng. Biệt điện chỉ có độ 12 phòng nhưng phải xây dựng mất năm năm mới hoàn thành. Riêng chiếc cổng vào, phải xây lại đến lần thứ năm.

    Cũng trong thập niên 1930, Pháp xây dựng nhiều dinh thự khác như tòa công sứ, dinh quản đạo (cho tỉnh trưởng người Việt), trường trung học Yersin, trường Couvent des Oiseaux, khách sạn Du Parc, nhà thờ chính tòa gần Ðà Lạt Hotel được xây dựng sớm hơn, nhưng mãi đến năm 1942 mới hoàn thành. Cây thánh giá trên nóc tháp chuông, cách mặt đất tới 47 mét, dáng dấp một giáo đường thời trung cổ bên Âu Châu. Khách sạn lớn nhất là Ðà Lạt Hotel nằm cùng khu vực với nhà thờ, trên đường Yersin, được xây dựng sớm nhất, từ năm 1907, có 65 phòng. Sau năm 1945 khách sạn ấy bị hỏa hoạn làm hư hại một phần.
    Tới đầu thập niên, Ðà Lạt trở thành một đô thị tân tiến với các dinh thự to lớn, hơn 800 biệt thự, nhà nghỉ của tư nhân, các gia đình quý tộc, giàu có khắp nơi trong nước. Mỗi biệt thự kiến trúc khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ có sân cỏ, vườn hoa, và chỗ để xe hơi. Thuở đó, người Pháp hãnh diện coi Ðà Lạt như “La Petite Paris” (tiểu Paris).

    Năm 1949 Quốc Trưởng Bảo Ðại từ Hồng Kông về chấp chánh. Ðà Lạt là nơi quốc trưởng cư ngụ nên trở thành thủ đô hành chánh, các chính khách rộn rịp lên xuống yết kiến ngài. Lúc đó, Ðà Lạt cũng còn là một địa điểm săn bắn hấp dẫn. Chỉ cách Ðà Lạt chừng hai giờ lái xe, chúng ta sẽ lạc vào những khu rừng có đầy nai, mễn, heo rừng, chim phụng hoàng, gà rừng, gấu và cọp nữa. Năm 1972 có lần chúng tôi gặp bốn người Thượng khiêng một con cọp vừa mới bẫy được, đem ra chợ Ðà Lạt bán. Món thịt nai gần như ngày nào cũng có, nhất là khi trời bắt đầu mưa cho đến tháng 11 hàng năm.

    Theo thời gian, chế độ Hoàng Triều Cương thổ bị bãi bỏ, Ðà Lạt thu hút thêm nhiều người Việt từ ba miền lên lập nghiệp. Vì có khí hậu miền ôn đới nên Ðà Lạt là nơi thích hợp cho các loại hoa và rau cải, trái cây xứ lạnh. Hồi đầu thập niên, người Pháp muốn mở rộng nghề trồng rau cải và trồng hoa để phục vụ nhu cầu của họ, nên cho phép một số người có kinh nghiệm trồng rau lên Ðà Lạt lập nghiệp.

    Theo lệnh Pháp, Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu tuyển mộ mấy mươi gia đình từ các làng chuyên canh rau cải, trồng hoa ở Ngọc Hà, Nghi Tam, Quang Ba, Tây Từ… lên Ðà Lạt, được cấp đất trồng hoa. Lớp người này lập ra ấp Hà Ðông để tưởng nhớ quê hương của họ. Ấp Nghệ Tĩnh do Phạm Khắc Hoè khi làm quản đạo Ðà Lạt lập ra năm 1942, cũng tập họp những người phát xuất từ hai tỉnh đó.

    Dưới thời Ðệ nhất Cộng hòa, chính phủ Ngô Ðình Diệm cho thiết lập nhiều cơ sở văn hoá tại Ðà Lạt. Viện Ðại Học Ðà Lạt thành hình năm 1957, xuất phát từ Chủng Viện Công Giáo thuộc giám mục địa phận Huế cai quản. Viện Ðại Học Ðà Lạt ra đời với sự đỡ đầu của Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục và sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman ở New York, phát triển liên tục cho đến năm 1975.
    Về tôn giáo, một trong các ngôi chùa cổ nhất là chùa Linh Phong trên đường đi Trại Hầm, chùa Linh Sơn, chùa Thiên Vương, chùa Sư Nữ. Nhà thờ Domain là nơi tu hành của các bà sơ, chuyên làm bánh kẹo, trồng hoa để bán. Vợ của Toàn Quyền Ðông Dương Jean Decoux tên Suzanne Humbert là bạn của Hoàng Hậu Nam Phương, là người đóng góp nhiều tiền bạc cho nhà thờ này. Bà bị tai nạn xe hơi trên đường Ðà Lạt nhân một chuyến lên chơi với bà Nam Phương. Thi hài được chôn phía sau nhà thờ.

    Nói đến chùa Linh Sơn Ðà Lạt, người ta nhớ đến một thầy trụ trì từ năm 1945. Thầy là người cha Nhật mẹ Việt, sinh năm 1926. Khi Nhật vào Ðông dương, thầy bị bắt đi làm thông ngôn một thời gian. Năm 1951 thầy tốt nghiệp trung học Yersin. Trong thời gian trụ trì ở chùa Linh Sơn, thầy vẫn cầu học, dịch kinh sách, và ghi danh theo học ở Viện Ðại Học Ðà Lạt, phân khoa văn chương và triết học. sau đó thầy chuyên về môn văn chương Anh Mỹ, tốt nghiệp cử nhân với đề tài tiểu luận “William Faulkner” vào năm 1975.

    Ngoài ra, ở Ðà Lạt còn có Trung Tâm Nguyên Tử Lực do chương trình “Nguyên Tử Phụng Sự Hòa Bình” của Mỹ viện trợ.Trung tâm này sử dụng lò phản ứng nguyên tử Triga Mark II do Hoa kỳ chế tạo, áp dụng chất phóng xạ đồng vị trong nông nghiệp. Trung tâm được khánh thành dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm trước sự hiện diên của đại sứ Henry Cabot Lodge.
    Ngoài ra, hai công trình quân sự tốn kém khác nhưng có tính cách văn hóa hơn là trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam, nằm trên một ngọn đồi cao, kiến trúc tối tân, gồm hàng chục dãy nhà lầu ba, làm cư xá cho sinh viên, khu văn hoá, bộ chỉ huy, nhà thí nghiệm nặng, để phục vụ chương trình giáo dục bốn năm cho các sinh viên sĩ quan hiện dịch. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp quân sự, các sinh viên còn được cấp phát văn bằng cử nhân khoa học ứng dụng. Kế đến là Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Chỉ Huy Tham Mưu, cung cấp kiến thức chuyên nghiệp về quân sự cho các sĩ quan.
    ĐÀ LẠT: THÀNH PHỐ HOA NỞ BỐN MÙA
    Mới viếng Ðà Lạt, du khách sẽ ngạc nhiên không phải vì cái khung cảnh của một thành phố Âu Châu nằm lọt trong lòng một vùng rừng núi xích đạo nước ta, mà chính là cái cảm giác khoan khoái, lâng lâng như vừa bước vào một căn phòng gắn máy lạnh. Xung quanh Ðà Lạt là rừng thông hai lá và thông ba lá. Tiến vào rừng sâu, người ta còn tìm thấy một vài loại cây xứ lạnh khác như tùng, tắc bá diệp, bạch đàn.

    Sống ở Ðà Lạt nhiều năm, tôi nghiệm ra rằng mỗi năm ở đây có hai mùa rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Lúc đó, ra đường chỉ cần khoác một chiếc áo len mỏng nhẹ. Nhưng nếu phải đi bộ lên dốc xuống đồi thì chắc chắn cảm thấy nực vì mồ hôi. Mùa lạnh từ tháng 11 trở đi, khí hậu lạnh dần cho đến hết tháng 12 là cực điểm. Mùa Giáng sinh có những đêm ở phi trường Cam Ly nhiệt độ xuống đến số 0. Ban ngày, bầu trời trong vắt, nắng hanh vàng, tuy nhiên nếu ra khỏi nhà phải mặc đồ đủ ấm, nếu không sẽ bị cảm lạnh. Trời lạnh đi bộ là một cái thú, cũng là một cách nạp lại năng lượng cho cơ thể.

    Trước cửa nhà, nhìn qua bên kia đồi, mấy biệt thự mái ngói đỏ au. Theo một con đường đất đỏ ngoằn ngoèo đẫm ướt sương đêm là hình ảnh quen thuộc mỗi buổi sớm mai. Buổi sáng hay chiều đều có cái thú riêng của nó mà những người ở Ðà Lạt lâu năm mới tìm thấy riêng cho mình. Mùa mưa, vừa thức giấc, sương mù còn tỏa trên các thung lũng một màu trắng đục. Thấp thoáng xa xa, mấy cái nhà sàn ẩn hiện như trong bức tranh thủy mạc. Trên mặt hồ Xuân Hương là một màn mỏng lờ mờ cho đến khi nắng lên, sương tan dần.

    Những buổi sáng mù sương là những đề tài cho các nhà săn ảnh mỹ thuật. Ở đây sương mỏng và hiền, không phải sương muối như nhiều nơi khí hậu khắc nghiệt khác. Những người làm nghề trồng tỉa cho biết lớp sương mù buổi sớm rất cần thiết cho cây trà, mà ở Cầu Ðất, trên đường từ Trạm Hành đến Ðơn Dương, nhiều đồn điền trà dầm dìa những giọt sương sớm, lắng đọng trên cành lá. Cầu Ðất cũng có nhà máy pha chế trà của ngưới Pháp.

    Có bạn ở Ðà Lạt lâu năm nói với tôi rằng: “Một ngày Ðà Lạt có đủ bốn mùa: sáng sớm trời lạnh, nhiệt độ còn thấp, nhiều sương phủ mờ trên thung lũng hay mặt hồ. Ðó là mùa xuân, cỏ hoa vươn mạnh, sau một đêm dầm dìa những giọt sương. Buổi trưa, mặt trời lên cao, nóng ấm, cũng là lúc giống mùa hè. Vào buổi xế, mặt trời Ðà Lạt lặn sớm vì nhiều đồi núi, gió hiu hiu se lạnh, ta có cảm giác như trời vào thu.

    Về đêm, nhiệt độ xuống thấp nhất vào lúc nửa đêm, lạnh ngắt, đó là mùa đông.” Ban đêm nhà nào cũng kéo lớp cửa kính lên để giữ nhiệt độ trong nhà được ấm. Hàng năm, trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam làm lễ mãn khóa vào tuần thứ ba của tháng 12 trong không khí giá buốt. Khách đến dự lễ truy điệu vào ban đêm, súng sính trong những bộ dạ phục mùa đông đắt tiền, chẳng khác gì ở những quốc gia ôn đới.

    Nhưng cái hấp dẫn khác của Ðà Lạt có lẽ là xứ hoa nở bốn mùa. Mùa xuân, nhiều loài hoa nở rộ, khoe hương sắc. Hoa mai nở quanh năm. Có nhiều loại hoa mai như mai đỏ, mai tứ quý, mai hồng, và nhất chi mai. Vào tháng chạp có hoa đào báo hiệu ngày Tết. Hoa đào thuộc loại hoa quý tộc, màu hồng đậm nhạt. Những gia đình trung lưu ở Ðà Lạt, ngày tết thường chưng một bình hoa có cành đào trong phòng khách. Còn hoa anh đào, một món quà tặng từ xứ Phù Tang, được trồng ven bờ hồ Xuân Hương.

    Hoa đào nở rộ vào hai tuần lễ cuối tháng 12. Hoa đào phơn phớt trắng hồng như má thiếu nữ khuê các. Con đường từ trước khách sạn Palace ra đến cầu Ông Ðạo là cả một rừng hoa anh đào rực rỡ, tô điểm cho thành phố Ðà Lạt vào xuân.

    Ðà Lạt đẹp một cách kiêu kỳ lãng mạn. Nhiều thi nhân, văn sĩ về đây không tiếc lời ca ngợi Ðà Lạt. Mùa này, khi nắng lên, thị dân và du khách đổ ra đường, rồi đến trưa mọi người đều đổ về công trường chợ Hoà Bình. Chợ Hòa Bình tràn ngập giai nhân với muôn màu áo, hãnh diện khoác tay những chàng trai kiêu hùng trong bộ quân phục với chiếc alpha màu đỏ hay đen.

    có những buổi sáng, khi làn sương mù còn bao phủ trên ấp ánh sáng, tôi thường theo vợ con đi chợ. Trong khi nhà tôi dẫn con đi mua sắm, tôi thường vào cà phê Tùng, nhâm nhi tách cà phê nóng bốc khói cho ấm lòng. Ở đây cũng là chỗ hẹn hò của các văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ từ Sài Gòn tới. Họ thường trầm ngâm, thả hồn qua khói thuốc để tìm ý thơ. Còn nhà Thủy Tạ nằm trên một doi đất trước khách sạn Palace, là chỗ hẹn hò của các tình nhân, vì cái không khí tĩnh mịch lại nên thơ. Trước năm 1954 nhà Thủy Tạ còn gọi là La Grenouillière.

    Hồi ở Ðà Lạt tôi cũng có anh bạn thân, nhà văn Ðặng Ðình Tòng, có dáng dấp một triết gia với cặp kính cận, thường mặc bộ đồ veste, che cây dù đen dạo phố. Có lần anh về thăm ông bà nhạc ở Long Xuyên, bị ông nhạc nói với con gái: “Tao không gả mày cho thằng cha thầy bói đó.”

    Chúng tôi có cái thú uống cà phê vào những buổi chiều cuối tuần để nhìn thiên hạ dạo phố. Từng cặp, từng cặp tay trong tay, chầm chậm trên các nẻo đường. Sở thích chúng tôi là cà phê pha đậm, uống bằng tách sành (không dùng ly thủy tinh). Còn nước trà phải nấu bằng nước suối múc trên nguồn thác Datanla, hoặc không thì cũng là nước mưa. Không biết cái không khí se lạnh buổi sáng hay cái nắng hanh vàng buổi chiều thoi thóp trên cành cây làm chúng tôi thú vị như thế nào, nhưng thói quen ấy chúng tôi không bỏ trong nhiều năm. Cũng có thể chúng tôi ghiền cái không khí bạn bè của người đồng điệu.
    Núi rừng cao nguyên chùng xuống. Mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Ở phía xa hướng trường Yersin và Nha địa dư, trên mặt hồ có mấy cánh buồm sọc đỏ trắng, uể oải về bến. Trước hàng rào nhà chúng tôi là một hàng cây mimosa. Ðến mùa, hoa lấm tấm vàng, nở rực theo theo suốt con đường Nguyễn Tri Phương, Trần Hưng Ðạo, Pasteur. Hoa lưu ly thảo có người nói chính “forget-me-not,” cánh mỏng như giọt sương. Còn hoa pensée hay hoa tư tưởng là hoa học trò, nở vào dịp gần bãi trường. Ai đã từng đi học mà không có lần mơ mộng, ép hoa pensée vào trang giấy học trò kỷ niệm thời cắp sách. Ngoài ra, còn có nhiều loại hoa lạ như uất kim hương, glaieul (lay ơn) hoa croquelic.


    Hai nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia gần trạm xăng Caltex, Đà Lạt, 1970. (HÌNH ẢNH: Courtney Utt)

    Ở Ðà Lạt nhiều năm, nhưng tôi cũng không ngờ các loại hoa mimosa, hồng nhung, và glaieul đã do chính bác sĩ Yersin du nhập vào nước ta. Ngoài các loại hoa, bác sĩ Yersin còn mang đến nhiều giống cây lạ như cà phê, canh ky na, ca cao. Bác sĩ Yersin cũng là ân nhân của Việt Nam và cả nhân loại khi tìm ra được thuốc chích ngừa bệnh dại, bệnh dịch hạch.

    Người quý phái thích hoa hồng. Tuy gọi hoa hồng nhưng thực sự nó có đủ màu sắc. Hoa hồng phấn còn mệnh danh là Grace Monaco, hồng vàng gọi là Joséphine, hồng nhung gọi là Brigite Bardot. Hoa cúc cũng nhiều thứ, đủ màu sắc khác nhau. Có người trồng hoa ở Liên Khàng nói với chúng tôi có đến 19 loại hoa cúc cùng họ compositae như cúc vàng, cúc trắng, cúc Nhật Bản, cúc đồng tiền, cúc đại đóa, cúc hoàng anh, hoa thủy, cúc quỳ, thược dược, marguerite, souce…

    Hồi xưa, mỗi năm hoa cúc nở rộ vào tháng 9, đó cũng là mùa chia ly vì lính thú từ giã gia đình lên đường ra biên cương giữ nước. Ðến tháng 9 năm sau lại được về. Vì lẽ đó, thời kỳ đi lính thú thời xưa gọi là “hoàng hoa,” và rượu để tiễn người lên đường cũng là rượu hoàng hoa. Trần Ðình Lượng, quan nhà Nguyễn, trên đường đi sứ qua Pháp đã viết bài “Như Tây Nhựt Trình” trong đó có câu:

    Ðường mây sớm giục sứ trời
    Paris muôn dặm, mấy lời hoàng hoa


    Ngoài ra, Ðà Lạt còn là quê hương của hàng trăm loại lan rừng. Theo các sách nghiên cứu về hoa lan cho biết, có đến hàng ngàn loại khác nhau. Nhiều lần đi cắm trại ở các sườn núi cao hoặc vùng thac Datanla, chúng tôi gặp một loại hoa màu đỏ tím, đó là hoa đỗ quyên nở rực cả khu rừng. Ở trên đường từ lăng Cô Di Bạch mã có thác Ðỗ Quyên vì trên đường đi vào thác có hoa đỗ quyên rực rỡ. Ở trên đèo Ngoạn Mục về phía Xông Pha có lan cẩm bác, hoa màu vàng nhạt đốm nâu. Hoa kim châm có lá dài, cọng nhỏ, màu vàng, có thể trang hoàng hay chưng cá, xào thịt, pha chế nước sốt để ăn vịt quay rất ngon.

    Ðà Lạt vào xuân là thiên đàng của các loài hoa nở rộ. Nào hồng lan, hoàng lan, đoản kiếm, thanh lan, hạc nh, hoàng phi hạc, kim điệp, long tu, nhất điểm hồng, nhất điểm hoàng, ý hảo, tuyết ngọc, kim hài, thủy tiên… Qua mùa thu, các loại hoa như cẩm báo, tuyết nhung, bò cạp, mỹ dung, dạ lý hương, hoa đuôi cáo. Hồi đó, về đêm chúng tôi thường vô trường để trực, lúc đi ngang qua con đường từ nhà ga vô tới Chi Lăng, hoa dạ lý hương nở về đêm thơm ngào ngạt. Mùa hè là thời kỳ của hoa giả hạt, lọng tán.

    Ðà Lạt cũng có nhiều trái cây nổi tiếng như mận Trại Hầm, su Trại Mát, Trạm Hành, đào lông…

    Ðà Lạt cũng là quê hương của hồ và suối. Gần thì có hồ Xuân Hương, xa hơn có hồ Than Thở, hồ Mê Linh, hồ Ða Thiện, đập Suối Vàng. Mỗi hồ có một vẻ đẹp riêng. Nước chảy róc rách có thác Cam Ly về mùa khô, hoặc như một bức tường mỏng màu trắng đục từ trên cao phủ xuống như thác Prenn, hoặc ầm ầm từng bọt trắng xóa như thác Gougah.

    Hùng vĩ nhất có thác Pongour nằm sâu trong rừng, cách Ðà Lạt 60 km về phía nam. Nơi đây có nhiều phong lan mọc trên các ngọn cây cao. Thác Liên Khương nằm dọc theo phía trái Quốc Lộ 20, gần phi trường Liên Khương, dòng nước chảy tràn lan trên một địa thế gãy sụp. Phía dưới thác Prenn là một cây cầu nhìn qua bức màn nước trắng xóa từ trên cao chảy xuống như một tấm màn voan mỏng. Phía dưới thác cũng là vườn thú thành lập dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.

    Hồ Than Thở nằm trên đường từ Chi Lăng dẫn vào Trường Võ bị. Có lẽ vì qua lại lắm lần nên tôi không còn thấy vẻ đẹp và thơ của hồ. Nơi đây cũng đã từng chứng kiến một mối tình thơ mộng ngang trái, đầy nước mắt. Hồ Xuân Hương hồi trước gọi là Grand Lac. Năm 1919 chánh phủ đắp đập ngăn chỗ cầu Ông Ðạo. Phía cuối sân cù là vườn Bích Câu, có hàng trăm loại hoa đài các hiếm quý.

    Những du khách đến Ðà Lạt không ai không nghe nhắc tới Thung Lũng Tình Yêu nằm về phía hồ Ða Thiện. Ban đầu chỗ này có tên thung lũng Hòa Bình, tương truyền do chính vua Bảo Ðại đặt cho vào năm 1950. Thung Lũng Tình Yêu, địa danh thơ mộng là do các sinh viên Viện Ðại Học Ðà Lạt đặt ra, vì họ thường đưa người yêu ra đó làm chỗ hẹn hò. Tên này có từ năm 1972. Còn Rừng Ái Ân nằm phía cuối con đường lên viện Pasteur, từ phía Hoàng Cung nhìn qua, cũng là một nơi hò hẹn lý tưởng của những cặp nhân tình. Hồi trước, nơi đây vào những ngày cuối tuần thấp thoáng bóng tài tử giai nhân.

    Ở đoạn cuối trong cuốn video Ðường Về Quê Hương 2 của đài truyền hình Vietnam Program phát hành đem đến cho khán giả hải ngoại một thời sống ở Ðà Lạt một nỗi buồn riêng khi nhìn thấy thành phố thân thương bây giờ tiều tụy. Các dinh thự, biệt thự loang lổ một màu xám xịt ảm đạm, đường phố dơ dáy, bẩn thỉu.

    Bây giờ Ðà Lạt như một cô gái xế chiều, cố tô son trét phấn, nhưng không dấu được vẻ mệt mỏi, già nua, như nuối tiếc thời vàng son xuân sắc của mình. Bây giờ cảnh sắc Ðà Lạt nhìn đâu cũng thấy ủ rũ u hoài. cũng vẫn cảnh trí thiên nhiên đó nhưng Ðà Lạt bây giờ bị chính bàn tay con người phá hoại không chút xót thương. Bao nhiêu công viên bị đào bới để trồng khoai, rau muống. Cuộc chiến tranh Việt Pháp kéo dài hơn mười năm nhưng Ðà Lạt vẫn không bị tàn phá. Cuộc chiến Quốc-Cộng chỉ gây hư hao nhẹ, nhưng chỉ năm sau vết tích chiến tranh bị xóa mờ. Rồi Ðà Lạt lại xây dựng thêm, tươi mát hơn ngày trước.

    Trải qua 18 năm hòa bình, Ðà Lạt xuống dốc thê thảm. Nhiều kiến trúc già nua sụp đổ, thật là một sự nghịch lý khó hiểu. Chứng kiến cảnh Ðà Lạt tiều tụy, còm cõi ngày nay, những kỷ niệm êm đềm ngày xưa sống lại mãnh liệt trong lòng người viết bài.

    Nhìn hình ảnh trên cuốn phim, chúng tôi xúc động nghẹn ngào, không ngờ Ðà Lạt tàn tạ như vậy. Còn đâu mặt nước hồ Xuân Hương trong xanh, phẳng lặng, in bóng thuở thanh bình! Còn đâu những rặng thông già cao vút, tấu khúc nhạc rừng triền miên.

    Bây giờ hàng thông còn đó, u buồn cúi đầu lặng im như nuối tiếc những ngày tươi đẹp đã qua. Nhớ ngày trước Ðà Lạt như một thiếu nữ xuân thì đài các, từng làm cho biết bao thi nhân, văn sĩ, nhạc sĩ say đắm, để rồi khi chia tay lại bịn rịn. Bây giờ còn đâu những con đường hun hút ánh trăng với những cặp tình nhân âu yếm dìu nhau đi trong gió lạnh.
    Hứa Hoành, 1993

  3. #3
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Đà Lạt xưa















  4. #4
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Đà Lạt trước 1975 và Bác Sĩ Yersin

    Tác giả: Ngô Tằng Giao


    Đà Lạt là một thành phố trẻ, sớm hấp thụ nền văn minh Âu châu và mới được khám phá trong vòng hơn một trăm năm nay. Trước năm 1975, Đà Lạt là một nơi để du lịch và để nghỉ ngơi dưỡng sức lý tưởng, với diện tích 417km2, trải mình trên những ngọn đồi uốn lượn chập chùng với một vẻ quyến rũ độc đáo riêng.
    Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, giáp ranh với huyện Đức Trọng và Đơn Dương; Bốn phía Đà Lạt là núi đồi xanh tươi, rừng rậm bao la. Đà Lạt ở giữa những ngọn núi cao như núi Lang Biang (2.167m), phía Tây Nam là núi Voi (1.800m), phía Bắc là đỉnh Lapbe Bắc (1.732m), án ngữ phía Tây Nam là đỉnh Lapbe Nam (1.707m).


    Vĩ độ 10,57. Kinh độ 108,20. Cao trung bình so với mặt biển là 1.500m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532m), và nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398m). Đà Lạt cách biển Thuận Hải theo đường chim bay là 90km, nhưng theo quốc lộ 11 đến Phan Rang là 108km, cách Sài Gòn 250km theo đường chim bay và theo quốc lộ 20 là 305km.

    Đất thành phố này được phủ bằng một lớp đá huyền vũ, lâu ngày bị mủn ra thành đất đỏ pha cát và đất sét. Sông chính chảy qua Đà Lạt là Cam Ly, phát nguồn từ đỉnh núi You Boggey, chảy xuống hồ Than Thở rồi chảy ra sông Đa Dung. Đà Lạt có hồ Xuân Hương và một số hồ khác như Mê Linh, Vạn Kiếp, Ankroet…


    Khí hậu Đà Lạt mát mẻ với hai mùa mưa nắng: mùa nắng từ tháng Mười Một đến tháng Tư và mùa mưa, thường là mưa phùn, từ tháng Năm đến cuối tháng Mười.

    Đà Lạt có nhiều con đường bộ nối với nhiều tỉnh phía Bắc và phía Nam. Phi trường chính của thành phố ở Cam Ly.
    Trước đây, Đà Lạt có những cơ quan chuyên môn và viện đại học như Trung Tâm Thực Nghiệm Lâm Sản, Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc, Khu Thủy Lâm, Nha Quản Đốc Thủy Điện Đa Nhim, Nha Địa Dư, Viện Pasteur, Viện Đại Học Đà Lạt, Trường Võ Bị Quốc Gia, Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị…

    Về dân cư thời đa số đồng bào sinh sống tại Đà Lạt là người Kinh, còn lại là người Thượng sắc tộc Lạch (M’Lates, Lat, Lạt) và Chill. Dân chúng theo đạo Phật, Thiên Chúa, Tin Lành và Cao Đài.

    Năm 1905, Đà Lạt chỉ có khoảng 60 người Kinh. Tới thời điểm trước năm 1975 thành phố Đà Lạt, gồm có khoảng 116.000 dân, được chia làm 12 phường và 3 xã.


    Về mặt kinh tế, được thiên nhiên ưu đãi, khí hậu trong lành, đất đai phì nhiêu nên phần đông dân Đà Lạt sống bằng nghề trồng rau và hoa quả. Đất của thành phố này không dùng vào việc trồng lúa. Một số làm tiểu thủ công nghiệp. Sau đó, thương mãi và dịch vụ du lịch cũng phát triển. Ngoài ra, dân Đà Lạt còn làm nghề khai thác lâm sản và khoáng sản quý (khai thác vàng ở Tà In) đất sét trắng, cát núi, đá quý...
    Về những vùng đồng bào dân tộc ít người quanh thành phố đã đi vào định canh định cư, đời sống tương đối ổn định. Ngoài việc khai thác lâm sản, săn bắn, họ đã biết đầu tư cho việc sản xuất cây công nghiệp, làm kinh tế vườn: cà phê, dâu tằm, xen kẽ việc trồng lúa, hoa mầu.

    Về nông nghiệp trước hết phải kể đến là rau. Đà Lạt nhiệt độ ôn hoà, lượng mưa vừa phải với ánh nắng mặt trời rực rỡ quanh năm, đất đai giàu có, mầu mỡ là những điều kiện thuận lợi thích hợp cho các loại rau miền ôn đới. Đà Lạt cung cấp nguồn rau cho Sài Gòn và các tỉnh phía Nam. Rau Đà Lạt rất phong phú về chủng loại gồm có: cà rốt, xà lách, xà lách son, su su, su hào, cải bông, khoai tây, hành tây, tỏi, cải bắp thảo, artichaut, bố sôi, cải xoong…

    Kế đến là các loại hoa được trồng nhiều để sản xuất như hoa hồng, uất kim cương, huệ tây, lay ơn… Rừng Đà Lạt có nhiều loại lan rất nổi tiếng. Rồi đến các thứ quả. Đáng kể nhất có lẽ là trái hồng, có thể chế biến được thành trái hồng khô và rượu. Ngoài ra còn có mận Trại Hầm thơm ngon, trái dâu tây, táo tây, đào lông, trái bơ, chuối...
    Về mặt dược liệu thời Đà Lạt có nhiều cây dược liệu quý như artichaut, các loại sâm, trầm hương, kỳ nam... Đà Lạt có công nghệ chế biến artichaut xuất khẩu.

    Về các cây công nghiệp thời đất Đà Lạt cũng phù hợp với những loại cây công nghiệp như trà, cà phê, dâu tằm... Đồn điền Trà Cầu Đất có diện tích khá lớn. Hàng chục loại thảo mộc đặc biệt như tùng, bách, trắc bá diệp, bạch đàn, dẻ, sồi, canh ky na, ca cao... Chỉ riêng thông đã có đến 5 loại thông khác nhau.
    Về mặt chăn nuôi thời Đà Lạt có nhiều đồi cỏ thích hợp với việc chăn nuôi. Việc chăn nuôi bò sữa đã phát triển. Trước kia tại Đà Lạt có những trại chăn nuôi lớn như: trại Dankia, trại Faraut, Grillet ở Suối Tía, trại gà Scala... Tuy là một vùng đất có nhiều hồ nước, nhưng việc nuôi cá nước ngọt chưa được quan tâm để phát triển đúng mức.

    Khoáng sản chỉ có các hầm đá dùng để xây đường xá và cao lanh dùng làm đồ gốm.

    Về lâm sản thời lâm sản chủ yếu của Đà Lạt là nhựa thông và gỗ thông. Đây là nguồn tài nguyên khá phong phú, có giá trị xuất khẩu cao.

    Về tiểu thủ công nghiệp thời chủ yếu chỉ phát triển ở một số nghề đan, móc, thêu xuất khẩu, tranh cưa lộng, tranh bút lửa. Hàng thêu, đan len của Đà Lạt được các du khách trong và ngoài nước rất ưa chuộng.

    Chợ Đà Lạt
    Chợ Đà Lạt là một trong những chợ đẹp nhất Việt Nam. Chợ do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Chợ Đà Lạt nằm ở trung tâm thành phố nhìn ra hồ Xuân Hương.


    Chợ Đà Lạt giới thiệu với du khách những mặt hàng tiểu thủ công do những bàn tay “tài hoa” của người dân Đà Lạt hội tụ từ mọi miền Tổ quốc làm ra như áo, mũ bằng lông thú, hộp bằng mây, làn xách tay bằng tre ngà. Các loại hoa ép, các khúc gỗ, mẫu cây để lấy lan rừng. Và đặc biệt những bức chạm vẽ vào gỗ thông bằng bút lửa.
    Thuở xa xưa Đà Lạt chỉ là một vùng đồi núi hoang vu thuộc dãy núi Lang Biang, chỉ có vài con đường nhỏ và lác đác vài căn nhà sàn của đồng bào Thượng. Thời gian thực dân Pháp mới xâm chiếm nước ta, vùng đất Đà Lạt thuộc quyền cai trị của một tù trưởng người Thượng tên là YAGUT đã từng nổi tiếng chống lại thực dân. Sau này, dân chúng trong vùng nhớ công ơn này và đặt một con đường mang tên ông.

    Trong cuộc mở mang đất đai về phía Nam của tổ tiên ta vùng Đà Lạt được sát nhập vào tỉnh Khánh Hòa, nhưng việc khai thác miền sơn cước chưa được các triều đình lưu ý đến. Cho đến khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, họ cử phái đoàn YERSIN lên nghiên cứu vùng này vào năm 1897.

    Đà Lạt đã được khám phá ra trong giai đoạn đất nước mất chủ quyền vào tay người Pháp. Vì muốn mở rộng vùng đất bảo hộ nên người Pháp đã tìm cách mở rộng lãnh thổ Việt Nam. Đà Lạt là một phần đất được mở rộng đó.

    Bác sĩ Alexandre John-Emile Yersin

    Bác sĩ Alexandre John-Emile Yersin khi đặt chân lên cao nguyên Lang Biang đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển Đà Lạt, góp phần biến Đà Lạt từ một vùng đất hoang sơ của người Lạch thành một thành phố nổi tiếng
    đến bây giờ. Nhưng dựa theo những văn kiện hành chánh thời tính tới năm 1999 Đà Lạt có tuổi đời vừa đúng một trăm năm. Năm 1899 toàn quyền Paul Doumer ban hành nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng, một khu vực hành chánh mới trực thuộc Trung Kỳ, bao gồm một vùng đất rộng lớn từ thượng lưu sông Đồng Nai đến ranh giới các lãnh thổ Nam Kỳ và Nam Lào. Tòa công sứ tỉnh đặt tại Di Linh và hai trạm hành chánh phụ thuộc, một tại Tánh Linh và một tại Lang Biang là tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.

    Lúc đó thời người Pháp phân vân giữa việc chọn làng Dankia (cạnh đập Ankroet, Suối Vàng) và làng K'Mlây (Cam Ly, vị trí Đà Lạt ngày nay) để xây một trung tâm nghỉ dưỡng tại Đông Dương. Cả hai nơi này đều nằm trong cao nguyên Lang Biang và chỉ cách nhau 15km. Vào năm 1906 Đà Lạt được chọn làm địa điểm xây dựng chính thức dựa vào ba ý kiến sau:

    - Thứ nhất là báo cáo của giám đốc nông nghiệp và thương mại Đông Dương khởi xướng thành lập một trung tâm thí nghiệm trồng hoa quả ôn đới mà thành quả là các giống bắp cải, khoai tây, cà rốt và mận đào được gieo trồng khắp Đà Lạt.

    - Thứ nhì là của thiếu tướng trưởng ban khảo sát xây dựng một đồn quân sự trên cao nguyên. Ông đề xướng xây dựng một đồn lính canh để bảo vệ các công trình xây dựng thành phố.

    - Thứ ba là của một nhà trắc địa và là thị trưởng Đà Lạt. Ông đã phác thảo một đồ án thiết kế được nhiều kiến trúc sư dựa theo để quy hoạch thành phố Đà Lạt sau này.

    Thế là từ một làng thổ dân hẻo lánh Đà Lạt đã biến thành một đô thị tân tiến, một trung tâm du lịch, một thành phố văn hóa, một tài sản quý.

    Đà Lạt trước kia được ví như một mỹ nhân:

    “Như là thiếu nữ mỹ miều
    Khoác ngoài chiếc áo diễm kiều phương Tây
    Nép mình quý phái bên cây
    Yên bình đọc sách, tóc mây buông dài.”
    (Tâm Minh)


    Công lao lớn nhất vẫn thuộc về bác sĩ Yersin là người khám phá ra cao nguyên Lang Biang và chính ông đã vận động chọn nơi này làm trạm nghỉ dưỡng tại Đông Dương.

    Yersin là một vĩ nhân.

    Tiểu sử ông có trong các tự điển danh nhân thế giới. Ông sinh năm 1863 tại Thụy Sỹ. Sau một thời gian theo học tại các trường đại học ở Thụy Sỹ và Đức, Yersin sang Pháp học tiếp ngành y khoa, tốt nghiệp bác sĩ năm 1888 và làm việc tại phòng thí nghiệm do bác sĩ Louis Pasteur sáng lập cùng với bác sĩ Emile Roux. Năm 1894 Yersin khám phá ra vi trùng bệnh dịch hạch và trở nên nổi tiếng.




    Vì có óc mạo hiểm, Yersin quyết định nhập quốc tịch Pháp năm 1888 để có cơ hội phiêu lưu. Năm 1890 cơ hội đến, Yersin xin làm việc tại hãng tàu biển Messageries Maritimes ở Marseille và được cử sang Đông Dương phục vụ trên các chuyến tàu Sài Gòn - Manila và Sài Gòn - Hải Phòng, lúc đó ông tròn 27 tuổi.

    Trên đường từ Sài Gòn ra Hải Phòng tàu của ông thường cập bến Nha Trang nghỉ vài ngày. Năm 1891 khi tàu vừa bỏ neo ông xin thuyền trưởng cho xuống tàu để tổ chức một cuộc thám hiểm lên cao nguyên, với dự định băng rừng đi từ Nha Trang vào Sài Gòn trong vòng 10 ngày, nhưng không thành công. Phái đoàn của Yersin gồm sáu người đi gần đến Di Linh thì phải trở lui vì tới ngày tàu của ông nhổ neo ra Hải Phòng. Cuối năm 1891 Yersin xin nghỉ việc để có thì giờ thực hiện các cuộc thám hiểm riêng.

    Năm 1892 Yersin thực hiện cuộc thám hiểm lần thứ hai. Yersin đi từ Nha Trang sang Stung Treng, băng qua cao nguyên Darlac. Sau chuyến thám hiểm này, Yersin về lại Paris và được bộ giáo dục Pháp cấp kinh phí để thực hiện
    công tác khảo sát khoa học trên cao nguyên Đông Dương.

    Trở lại Sài Gòn năm 1893 Yersin được toàn quyền Lanessan giao nhiệm vụ khảo sát, mở một tuyến đường bộ đi từ Sài Gòn ra Phan Thiết xuyên cao nguyên. Sau chuyến đi này Yersin nắm vững một phần địa hình và dân cư trên cao nguyên. Tháng 4 năm 1893 ông quyết định tổ chức một cuộc thám hiểm thứ ba từ Phan Rí và Tánh Linh, băng qua những vùng đất lạ phía Đông Bắc. Lần này đoàn thám hiểm được trang bị rất hùng hậu: 80 phu khuân vác, 6 ngựa và một voi. Kết quả cuộc khảo sát này không làm ông hài lòng vì không thể thiết lập một con đường xuyên qua vùng này, các thung lũng thường xuyên bị ngập nước vào mùa mưa, vả lại dân cư bản địa không đông để có thể chiêu mộ làm đường.

    Yersin liền tổ chức một chuyến thám hiểm khác từ Tánh Linh đi Phan Rang xuyên lên cao nguyên phía Bắc. Lần này phái đoàn đi dọc tả ngạn sông La Ngà, tới làng Droum, băng qua sông La Ngà rồi đi dọc hữu ngạn con sông lên phía Bắc, vượt qua sông Đa Riam và Đa Dung (thượng nguồn sông Đồng Nai) tới núi Tadoung (1.974m), rồi quay về làng Riong nghỉ chân.

    Từ Riong, Yersin cùng bốn phu khuân vác đi ngược sông Da Tam (một chi lưu sông Đa Nhim) về phía Đông đến các làng Kréan (sau này là Fimnom), Brenne (làng Thiên Sa, gần thác Prenn), rồi tiến lên dãy núi phía Tây Bắc. Sau gần một giờ leo núi, phái đoàn trèo qua thác Datanla (thác Mây) đến một thung lũng nhỏ có một dòng nước chảy qua. Khi đi dọc theo con suối nhỏ trong thung lũng, phái đoàn Yersin tiếp xúc với người Lạch (một sắc dân K’Ho) và được biết con suối nhỏ đó tên là Dak K'Mlây (Cam Ly). Đi thêm độ hơn chục cây số và vừa ra khỏi rừng thông 3 lá phái đoàn nhìn thấy hiện ngay ra trước mắt là cao nguyên Lang Biang! Lúc đó là 15 giờ 30 ngày 21 tháng 6 năm 1893.
    Trong sổ hành trình Yersin viết: “3 giờ 30, cao nguyên rộng lớn trơ trụi lồi lõm”. Trong hồi ký Yersin mô tả cao nguyên: “...Khoảng 15 đến 20 cây số trước khi đến chân núi, chúng tôi ra khỏi rừng và đứng trước một vùng đất hoàn toàn trơ trụi, phủ đầy cỏ. Mặt đất dợn lên những lượn sóng dài làm cho chúng tôi có cảm tưởng như đang trên một vùng biển đầy sóng lớn. Núi Lang Biang đứng sừng sững trước mắt như một hòn đảo và dường như càng lùi xa khi chúng tôi tiến tới. Trước những cánh đồng rộng lớn này, thật khó tính được cự ly chính xác. Đáy thung lũng là đất bùn đen. Nhiều đàn nai để chúng tôi đến gần độ trăm mét rồi vụt chạy, thỉnh thoảng chúng còn ngoái đầu nhìn lại chúng tôi một cách tò mò...”

    Yersin đã đứng ngẩn ngơ trước khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp của cao nguyên Lang Biang. Ông thấy đồi núi cũng có những ngọn sóng thần kỳ ảo hơn cả biển khơi. Hướng Tây Bắc đỉnh núi Lang Biang sừng sững ở chân trời, làm cho khung cảnh tươi đẹp thêm hùng tráng. Như lạc vào một mảnh đất thần tiên, quên hết bao mệt nhọc. Độ 15 phút sau, phái đoàn lội qua suối Cam Ly tiến về phía Tây Bắc đến làng Deung, sau đó vượt sông Đa Dung (thượng nguồn sông Đồng Nai) đến làng Dankia.

    Trong hồi ký, Yersin viết: “Vùng đất này dân cư thưa thớt, một vài làng người M’Lates sống tập trung dưới chân núi, những ruộng lúa nước rất đẹp. (...) Người M’Lates nói thạo tiếng Chăm cũng như tiếng Mạ. Phụ nữ có vành tai thật rộng để xỏ vào đó những vành tròn hay treo vào đó những ống thiếc hình xoắn ốc rất nặng. Dân chúng tiếp tôi trong căn nhà làng. Mỗi già làng mang tới vò rượu cần của mình. Có đến sáu vò rượu xếp hàng dài trước mặt tôi, cũng may là người ta không bắt tôi phải thưởng thức hết.

    Tôi chỉ ngủ lại đêm ở Dankia, rồi trở về Riong dưới một cơn mưa tầm tã. Trời mưa khiến cho sườn dốc rất trơn trượt và biến những dòng suối nhỏ thành những dòng sông thật sự, rất nguy hiểm khi vượt qua. Trong thời gian tôi đi vắng, một con cọp cố vồ lấy một trong những con ngựa của tôi đứng ngay trong hàng rào của trại. Anh thợ săn người Việt mà tôi để lại ở Riong tổ chức chiến đấu. Anh ta chỉ bắn bị thương con cọp. Con thú dữ này trong khi chạy trốn đã vồ hai người Thượng bị thương nặng...”


    Yersin đã gặp bộ tộc M’Lates (tức là Lạch) trên một dòng suối nhỏ của một thung lũng xanh biếc nên có lẽ tên DALAT có từ đây. (Da: Dak, theo tiếng Thượng có nghĩa là nước, suối, sông. Lat: M'Lates, Lạch. DALAT: suối của người Lat).

    Có một sự trùng hợp khá thú vị. Người ta kể rằng Yersin thông thạo tiếng Latin, đã cho DALAT là một nơi:

    “Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem”

    (Cho người này niềm vui, cho người kia sự mát dịu)

    Kỳ diệu sao khi ông phát hiện những chữ đầu của câu đó lại ghép thành tên mảnh đất thần tiên này: D.A.L.A.T. Sau năm 1954 người Việt thêm dấu phiên âm nên đọc và viết thành ĐÀ LẠT.

    Vì thời gian quá cấp bách và nguồn lương thực cạn dần, Yersin chỉ lưu lại cao nguyên Lang Biang một ngày một đêm rồi trở lại làng Riong tìm đường rừng xuống Phan Rang.

    Trên đường về, khi phái đoàn băng qua thung lũng sông Đa Nhim thì bị một nhóm người võ trang tấn công. Nhóm này gồm khoảng 30 người chia làm 5 tốp do một người tên là Thước cầm đầu. Đây là những tù nhân chính trị đã phá nhà tù Phan Rí, giết quan án sát và tổ chức nổi dậy nhưng không thành công, họ tấn công kho đạn và lấy đi nhiều súng ống rồi rút lên cao nguyên. Vốn là những người đồng bằng, không nắm rõ địa hình khu vực rừng núi, và tình cờ biết có một đoàn thám hiểm trên cao nguyên, nhóm kháng chiến quân liền đi theo dấu để tìm đường xuống Phan Rang đánh phá các đồn bót Pháp. Trong cuộc chạm chán này cả Yersin lẫn toán kháng chiến quân đều bị thiệt hại nặng. Yersin bị thương, được đưa về Phan Rang để chữa trị. Nhóm kháng chiến quân cũng về lại đồng bằng tổ chức các cuộc đánh phá nhưng vì thế cô, sức yếu, thủ lãnh tên Thước bị bắt tại Nha Trang và bị chém đầu. Yersin có đến dự buổi hành quyết và trong thư gửi cho mẹ, ông tỏ ý thán phục con người can đảm không sợ chết này.

    Trở lại cao nguyên Lang Biang. Kết quả cuộc khám phá này được Yersin công bố trên báo cuối năm 1893 và được chính quyền thuộc địa Pháp chú ý một cách đặc biệt.

    Tháng 12-1893 Hội Đồng Thuộc Địa cấp cho Yersin một kinh phí mới để thực hiện một cuộc thám hiểm khác từ Nha Trang băng qua cao nguyên tìm đường xuống Đà Nẵng. Đoàn thám hiểm đi từ Nha Trang đến Dankia bằng một lộ trình mới dọc theo chân núi, băng qua thung lũng các phụ lưu sông Cái, men theo các khe suối lên tới làng Diom thuộc cao nguyên Dran (Đơn Dương). Từ Diom, Yersin theo đường mòn Prenn đến Dankia lần thứ hai. Từ Dankia, ông tìm đường lên cao nguyên Darlac và Kontum để đến Attopeu (Hạ Lào) rồi băng rừng tìm đường về Đà Nẵng. Cuộc thám hiểm này bắt đầu vào tháng 2 và kết thúc vào tháng 5-1894.

    Hai lần tiếp xúc với cao nguyên Lang Biang đã để lại trong lòng Yersin nhiều ấn tượng đẹp. Nhận thấy cao nguyên phong cảnh đẹp đẽ lại có khí hậu mát mẻ nên trong suốt thời gian sau Yersin đã tích cực vận động với các cấp chính quyền thuộc địa để xây dựng lập một thành phố dưỡng bệnh và nghỉ mát tại đây.

    Cố gắng này trùng hợp với ước muốn của toàn quyền PAUL DOUMER lúc đó cũng vừa tới Đông Dương nhậm chức. Năm 1897 trên đường sang Đông Dương, Doumer đã có dịp ghé thăm Ấn Độ và Indonésia. Tại hai nơi này ông thấy người Anh và người Hòa Lan đã thành lập nhiều khu nghỉ dưỡng có khí hậu mát mẻ gần giống châu Âu, nên ông có ý định thành lập những khu tương tự tại Đông Dương để cư dân Pháp lên nghỉ dưỡng sức thay vì về lại mẫu quốc, quá tốn kém.

    Doumer gửi thư cho thống sứ Bắc Kỳ và khâm sứ Trung Kỳ yêu cầu tìm địa điểm thiết lập những khu nghỉ dưỡng cho kiều dân Pháp tại Đông Dương: “Có độ cao tối thiểu 1.200m, dồi dào nguồn nước, có thể canh tác rau quả và thiết lập đường giao thông dễ dàng”. Tháng 8-1897, theo lời đề nghị của Yersin, cao nguyên Lang Biang được Paul Doumer chọn làm thí điểm xây dựng. Paul Doumer cho khởi công xây sở khí tượng và trạm thí nghiệm trồng trọt, đồng thời mở một con đường từ duyên hải lên tận cao nguyên. Thành phố Đà Lạt bắt đầu có mặt từ đó.

    Sau này, khi hay tin dịch hạch đang hoành hành ở Trung Hoa nên Yersin thân hành đi Quảng Đông rồi Hồng Kông. Kết quả nghiên cứu cho thấy vi trùng gây dịch hạch ở người và cũng là vi trùng gây bệnh ở chuột. Mẫu vật được gởi về viện Pasteur ở Paris để kiểm chứng, và từ đó vi trùng dịch hạch mang tên Yersin.

    Năm 1895, Yersin lập viện Pasteur ở Nha Trang, rồi về Pháp hợp tác với hai bác sĩ Calmette và Roux tìm ra thuốc chủng ngừa dịch hạch, năm sau ông trở lại viện Viễn Đông mang theo thuốc chủng ngừa mới tìm ra. Tháng 6 năm 1896, dịch hạch tái phát ở Quảng Châu và Hạ Môn. Yersin đến tận nơi dùng thuốc cứu sống nhiều người. Sau đó, ông trở lại Việt Nam và làm việc ở viện Pasteur Nha Trang cho đến ngày qua đời.

    Trong khoảng thời gian này, từ 1902 đến 1904, Yersin được Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer mời ra Hà Nội để đảm trách việc sáng lập và điều khiển trường Cao Đẳng Y Khoa mà ta quen gọi là Trường Thuốc. Ngoài lãnh vực y khoa và thám hiểm Yersin còn là một nhà nông học tài giỏi. Ông đã trồng thí nghiệm và thành công với nhiều loại cây nhiệt đới.

    Yersin sống giản dị, thường chỉ mặc quần áo bằng vải kaki vàng, cưỡi xe đạp đi làm từ nhà đến sở. Ông lại có lòng nhân ái, thương người bình dân, ít học, nghèo khó, thương cả muông thú. Người dân Việt thân mật gọi ông là Ông Năm.

    Ngày 28 tháng 6 năm 1935 Yersin được vinh dự mời đến chủ tọa lễ khánh thành một ngôi trường ở Đà Lạt mang tên Yersin, gồm hai trường Le Petit Lycée và Le Grand Lycée trước đó nhập lại. Yersin đã đọc đáp từ sau:

    “Tôi rất cảm động về cảm tình các em dành cho tôi. Các em hãy tin chắc rằng tôi rất quý mến các em. Các em tập họp quanh tôi làm cho tôi trẻ lại và gợi nhớ đến thời xa xưa. Ngày ấy, là một học sinh trẻ tuổi, tôi thường táo bạo mơ mộng đến một tương lai đầy mạo hiểm mà hoàn cảnh cho phép tôi thực hiện.

    Các em khiến tôi hồi tưởng lại sự phát hiện cao nguyên Lang Biang vào tháng 6 năm 1893 trong một chuyến đi khảo sát với mục đích thám hiểm vùng rừng núi Nam Trung Kỳ lúc bấy giờ hoàn toàn chưa ai biết đến.

    Ấn tượng của tôi thật sống động khi vừa ra khỏi rừng thông, tôi đứng trên bờ của một cao nguyên mênh mông, trơ trụi và mấp mô có ba đỉnh núi Lang Biang chế ngự. Mặt đất nhấp nhô khiến tôi liên tưởng đến biển cả xao động vì một ngọn sóng khổng lồ như thường thấy trên bờ biển miền Trung vào lúc trời sắp giông bão.

    Không khí mát mẻ làm cho tôi quên đi nỗi mệt nhọc và tôi nhớ lại niềm vui được chạy lên chạy xuống hết tốc lực trên những ngọn đồi xanh tươi như một cậu học trò nhỏ...”


    Bác sĩ Yersin mất ngày 1 tháng 3 năm 1943 tại Nha Trang, hưởng thọ 80 tuổi. Ngôi mộ của ông đặt tại Suối Dầu Nha Trang theo đúng di chúc của ông.




    Suối Dầu Nha Trang

    Người đời tỏ lòng ngưỡng mộ Yersin nên từng viết rằng:
    “À la mémoire du docteur Yersin: Il repose comme il a aimé vivre seul absolument seul.”
    Tạm dịch là:
    “Tưởng niệm bác sĩ Yersin: người an giấc như người đã thiết tha sống cô đơn rất đỗi cô đơn.”

    Thế chiến thứ hai đã đưa Đà Lạt đến thời kỳ cực thịnh. Chiến tranh làm cho người Pháp không có phương tiện về chính quốc nghỉ mát nên họ tập trung lên Đà Lạt. Hàng hóa, mọi nhu cầu cung cấp cho họ không thể mang từ Pháp sang. Chính quyền Pháp tại Đông Dương quyết định chính sách tự túc. Hơn nữa, những giống rau, hoa, quả mang từ Pháp trồng rất tốt trên đất Đà Lạt. Lúc bấy giờ Đà Lạt là một “Tiểu Paris” (Petit Paris), là “Hoàng Triều Cương Thổ” (Domaine de la Couronne) - một mảnh đất dành riêng cho người Pháp và dòng dõi hoàng tộc, cũng như quan lại cao cấp triều đình Huế; một vương quốc biệt lập, ai muốn đến đều phải có sổ thông hành như đi ngoại quốc vậy.

    Thực chất, người Pháp lập Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá hình để biến vùng cao nguyên thành thuộc địa trực tiếp của Pháp. Vùng cao nguyên này có một tầm quan trọng đặc biệt về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược, nó nằm giữa ba quốc gia Việt, Cam Bốt, Lào nên là một ưu thế hiếm có. Về mặt kinh tế, có nhiều tài nguyên, khoáng sản chưa được khai phá và khai thác.

    Sau hiệp định Genève, Pháp rời khỏi Đông Dương. Dân số Đà Lạt tăng nhanh với lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Khu thương mại trung tâm thành phố được xây cất khang trang hơn. Một số địa danh, đường phố được đổi tên từ Pháp sang Việt. Đà Lạt chuyển sang một giai đoạn mới.

    Đối với Đà Lạt, theo nhiều tài liệu cũ và mới, thì ngoài các bộ tộc thiểu số đã cư ngụ trước đó tại địa phương, bác sĩ Yersin từ lâu được công luận xem là người đầu tiên tìm ra Đà Lạt nói riêng và cao nguyên Lang Biang nói chung. Nhưng sau này có nhiều ý kiến mới. Có người cho rằng NGUYỄN THÔNG (1826-1894) trong thời gian làm chức dinh điền sứ ở Bình Thuận đã có lần thám hiểm vùng cao nguyên Lang Biang và tìm ra vị trí Đà Lạt 25 năm trước khi bác sĩ Yersin đặt chân đến đây. Ý kiến này nghe có vẻ hữu lý và thỏa mãn tự ái của nhiều người Việt, tuy nhiên thiếu bằng cớ xác thực, cần thêm chứng minh khoa học và cụ thể hơn.

    Phải công nhận rằng nếu không có nhu cầu điều dưỡng của thực dân Pháp tại Đông Dương thuở đó thì dù Nguyễn Thông có phát hiện ra địa điểm, Đà Lạt cũng chẳng có mặt như hiện nay.

    Thứ đến, chuyến thám hiểm năm 1893 của bác sĩ Yersin có liên quan đến việc tìm ra cao nguyên Lang Biang, lần đầu tiên được công bố có đoạn viết rằng: “Vùng đất nằm giữa bờ biển Trung Kỳ và sông Đồng Nai còn ít được biết đến. Hai nhà du hành, bác sĩ Néis và thiếu tá Humann đã đến vùng này trước ông Yersin”. Trong hồi ký “Sept mois chez les Mois.” (Bảy tháng nơi xứ Mọi) bác sĩ Yersin cũng đã nhiều lần nhắc đến hai nhà thám hiểm này.

    Bác sĩ Néis, y sĩ hạng nhất của hải quân Pháp, là một trong những người đầu tiên thám hiểm vùng núi rừng này năm 1880 và 1881 và đã mô tả tỉ mỉ cao nguyên Lang Biang và núi Delmann (thường được gọi là núi Voi) 12 năm trước bác sĩ Yersin. Sau đó mở đường cho nhiều chuyến thám hiểm khác trong vùng. Đặc biệt nhất là chuyến thám hiểm của thiếu tá Humann đến khu vực nguồn sông La Ngà vào năm 1884.


  5. #5
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155


    Vài sự kiện tại Đà Lạt (1893 - 1970)


    1893
    21 tháng 6, Bác sĩ Alexandre Yersin thám sát cao nguyên Lang Biang.

    1897
    Tháng 7, toàn quyền Paul Doumer cho tìm địa điểm lập nơi nghỉ dưỡng. Bác sĩ Yersin đề nghị vùng cao nguyên Lang Biang.

    1897
    Tháng 10, đoàn Thouard cùng Cunhac khảo sát Lang Biang.

    1898 Lập trạm nông nghiệp và trạm khí tượng ở Đăng Kia.

    1898 - 1900 Đoàn Odhéra, Garnier và Bernard nghiên cứu mở đường lên Đà Lạt.

    1899
    - Tháng 3, Paul Doumer và bác sĩ Yersin lên quan sát cao nguyên Lang Biang.
    - Tháng 5, đoàn Guynet làm đường bộ từ Nại lên cao nguyên Lang Biang
    - 1 tháng 11, P. Doumer ký nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng và trạm hành chánh (post administratif) trên cao nguyên Lang Biang.

    1900 Dựng nhà đốc lý ở Đà Lạt.

    1901 P. Doumer quyết định thành lập tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt.

    1903 Bãi bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, trạm hành chánh Lang Biang trực thuộc đạo Ninh Thuận.

    1906 Đà Lạt được xác định làm nơi nghỉ dưỡng.

    1907 Cất lữ quán dành cho khách vãng lai, khách sạn đầu tiên của Đà Lạt (Hôtel du Lac).

    1908 Trạm nông nghiệp chuyển từ Đăng Kia về Đà Lạt.

    1909
    - Đường sắt Tháp Chàm - Xóm Gòn hoàn thành.
    - Chuyển trạm khí tượng Đăng Kia về Đà Lạt.

    1911 Toàn quyền Albert Sarraut chủ trương xây dựng gấp đường giao thông lên Đà Lạt.

    1913 Thông đường Ma Lâm - Di Linh.

    1914 Thông đường Di Linh - Đà Lạt.

    1916
    - 6 tháng 1, thành lập tỉnh Lang Biang.
    - 20 tháng 4, Dụ của Hội đồng nhiếp chính vua Duy Tân về việc thành lập thị tứ Đà Lạt.
    - Khởi công xây dựng khách sạn Langbian Palace.

    1917 Đoàn Đình Duyệt, thượng thư Bộ công của triều đình Huế, lên Đà Lạt nghiên cứu việc xây dựng hành cung.

    1918 Xây nhà máy điện, lập dưỡng viện thừa sai.

    1919 Ngăn đập tạo hồ trên suối Cam Ly.

    1920
    - 31 tháng 10, toàn quyền Maurice Long ký nghị định tách cao nguyên Lang Biang và vùng đất phụ thuộc tỉnh Lang Biang, thành lập khu tự trị Đà Lạt.
    - Nghị định thành lập Sở điều hành các dịch vụ ở trạm vùng cao Lang Biang và du lịch ở Nam Trung Kỳ.
    - Nghị định nâng khu tự trị Đà Lạt lên thị xã hạng hai.
    - Hoàn thành đường Phan Rang - Đà Lạt.
    - Xây dựng trường Nazareth, bưu điện, kho bạc, nhà máy nước.

    1921
    - Kiến trúc sư Ernest Hébrard nhận nhiệm vụ thiết lập đồ án quy hoạch Đà Lạt
    - Khánh thành khách sạn Langbian.

    1922 Khởi công xây dựng khách sạn Hôtel du Parc.

    1923
    - Đồ án quy hoạch Đà Lạt của Ernest Hébrard hoàn thành.
    - Xây đập thứ hai phía dưới đập xây dựng năm 1919 tạo thành hai hồ nước ở khu trung tâm Đà Lạt.
    - Nghị định về việc tổ chức lại thị xã Đà Lạt.
    - Dân số Đà Lạt: 1.500 người.

    1926 Nghị định về việc tổ chức điều hành hành chánh và ngân sách thị xã.

    1927 Xây nhà máy điện, trường Petit Lycée.

    1929
    - Dời chợ từ vị trí ấp Ánh Sáng lên Khu Chợ (Khu Hòa Bình ngày nay).
    - Khởi công xây dựng trường Grand Lycée.
    - Lập làng Trường Xuân (Cầu Đất).

    1930
    - Xây trại lính thủy (trại Courbet).
    - Khu vực chung quanh "Chợ Cây" bị cháy.

    1931 Khởi công xây nhà thờ lớn.

    1932
    - 2.5, bão lớn phá hủy 2 đập ngăn suối Cam Ly và đập của nông trại O'Neil.
    - Hoàn thành đường sắt Phan Rang - Đà Lạt.
    - Khởi công xây dựng nhà ga.
    - Hoàn thành đường Sài Gòn - Đà Lạt, sân Golf.

    1933
    - Kiến trúc sư Pineau hoàn thành đồ án chỉnh trang, mở rộng Đà Lạt.
    - Đấu thầu xây đập hồ lớn.

    1934
    - Xây đập tạo thành Hồ Lớn (Grand Lac).
    - Khởi công xây trường Notre Dame du Langbian (Couvent des Oiseaux).

    1935
    - Xây lại chợ Đà Lạt.
    - Khánh thành Trường Grand Lycée (Lycée Yersin).
    - Thành lập Công ty du lịch Đà Lạt.
    - Đà Lạt có 272 biệt thự.

    1936
    - Nghị định điều chỉnh quy chế thị xã.
    - Khánh thành Viện Pasteur Đà Lạt.
    - Xây xong trường Notre Dame du Langbian.

    1937
    - Hoàn thành chợ Đà Lạt.
    - Xây dựng dinh toàn quyền, khu cư xá Saint Benoit, Bellevue.
    - Đà Lạt có 378 biệt thự.

    1938
    - Thành lập ấp Hà Đông.
    - Khởi công xây dựng chùa Linh Sơn.
    - Khánh thành ga Đà Lạt.Công nhân hãng S.I.D.E.C., đồn điền chè đình công.

    1939
    - Lập trường thiếu sinh quân.
    - Dân số : 14.500; 487 biệt thự.

    1940 Lập ấp Nghệ Tĩnh.

    1941 Xây trường Lasalle Adran.

    1942
    - Dân số 20.000.
    - Kiến trúc sư Lagisquet hoàn tất đồ án quy hoạch thành phố.
    - Xây dựng nhà máy thủy điện Ankroét.
    - Khánh thành nhà thờ lớn, chùa Linh Sơn.
    - Xây xong trường Grand Lycée.
    - Khởi công xây khu cư xá Decoux.

    1943 Xây dựng đường Prenn mới.

    1944 Thủy điện Ankroét hoạt động.

    1945
    - Dân số :25.800; 1.000 biệt thự.
    - Hoàng thân Ưng An làm thị trưởng dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim.
    - Tháng 5, ủy ban Mặt trận Việt Minh thành lập.

    1946
    - 28.1, Pháp phối hợp Nhật tấn công 3 phòng tuyến Trại mát, Fimnom, cây số 42 trên đường số 8.
    - Tòa đốc lý đổi thành tòa thị chính.
    - 17 tháng 4 - 12 tháng 5, Hội nghị trù bị cho Hội nghị Fontainebleau tại Đà Lạt.
    - Đô đốc D'Argenlieu lập Tây kỳ tự trị.

    1947 Lập trường dành cho học sinh Thượng.

    1948 Thông tuyến hàng không Hà Nội - Đà Lạt.

    1949 Tháng 12, bác sĩ Trần Đình Quế làm thị trưởng Đà Lạt.

    1950
    - Dụ số 6 (15.4), sắc lệnh số 3QT/TD (25.7) thiết lập Hoàng triều cương thổ.
    - Dụ số 4 (10.11) xác định địa giới Đà Lạt.
    - Chuyển Trường võ bị quốc gia ở Huế vào Đà Lạt thành Trường võ bị liên quân Đà Lạt.

    1952
    - Lập ấp Ánh Sáng, làng Đa Phú.
    - Lập trường Bảo Long .

    1953
    - Sắc lệnh số 4 (13 tháng 4) về chế độ quản lý Đà Lạt.
    - Việt hóa tên gọi các đường, địa danh.

    1954
    - Hiệp định Genève.
    - Dân số: 52000 do làn sóng di cư từ Bắc, Lào và các tỉnh khác đến.

    1955 11.3, Dụ 21 bãi bỏ Hoàng triều cương thổ.

    1957
    - 8.8, thành lập Viện đại học Đà Lạt.
    - Sắc lệnh 261/ NV thành lập tỉnh Tuyên Đức.
    - Lập Trung tâm nghiên cứu nguyên tử, Giáo hoàng chủng viện Pio X, Thư viện.
    - Khánh thành khu du lịch thác Prenn.

    1959 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt đổi thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

    1960
    - Thành lập Nha văn khố.
    - Theo sự vụ lệnh số 68/ VPN, thị trưởng Đà Lạt kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức.

    1962 Khánh thành sân bay Liên Khương.

    1965 Dân số : 73.290.

    1966
    ngày 8 tháng 3, lập Trường đại học chiến tranh chính trị.

    1967 Lập trường chỉ huy tham mưu.

    1970 Dân số: 89.656.

  6. #6
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Phi Trường Liên Khương - Đà Lạt



    Phi trường Liên Khương được xây dựng vào ngày 24/2/1961 là phi trường lớn thứ hai ở miền Nam Việt Nam sau phi trường Tân Sơn Nhất.


    Phi trường Liên Khương nằm ngay cạnh Quốc lộ 20 và cách Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng, đồng thời là trung tâm nghỉ mát nổi tiếng của vùng Nam Trung bộ - chỉ có 28 km.


    Hiện nay phi trường Liên Khương có một đường cất hạ cánh dài 3250 m, có thể đón các loại máy bay tầm ngắn như Fokker, ATR72, Airbus A320, Airbus A321.


    Hiện nay SAA đang xây dựng ở đây đài chỉ huy không lưu trang bị hiện đai đạt chuẩn của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO).

  7. #7
    ... ♫ ... V.I.Lãng's Avatar
    Join Date
    Dec 2011
    Posts
    2,155

    Đà Lạt xưa

    Hồ Xuân Hương (1969)


    Trung tâm Đà Lạt (1968)






















    Hội trường Hòa Bình trên đường Duy Tân (1968)

 

 

Similar Threads

  1. Tình Tự Quê Hương
    By co quan in forum Thơ
    Replies: 551
    Last Post: 05-03-2024, 11:05 AM
  2. Mẹ Và Quê Hương
    By Lưu Vĩnh Hạ in forum Thơ
    Replies: 11
    Last Post: 06-24-2012, 01:09 PM
  3. Hương vị Huế
    By Tuấn Nguyễn in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 9
    Last Post: 05-06-2012, 01:17 AM
  4. Hương xưa
    By huong tram in forum Thơ
    Replies: 4
    Last Post: 10-04-2011, 05:08 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 05:50 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh