Register
Page 7 of 17 FirstFirst ... 56789 ... LastLast
Results 61 to 70 of 170

Thread: Luật Thi

  1. #61
    Nhà Ngói Thứ Lang's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,301

    VÀI NÉT CĂN BẢN VỀ THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT


    Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật không chỉ đơn giản là bài thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải đáp ứng 4 yếu tố nghiêm ngặt chặt chẽ về niêm luật vần đối.

    Niêm là các chữ thứ 2 (thứ nhì) của các cặp câu 1-8,2-3, 4-5, và 6-7 phải cùng thanh (bằng hoặc trắc)
    Luật là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một câu thơ sao cho bằng trắc hài hòa, nghĩa là phải có sự cân bằng về âm thanh (thanh điệu), gồm các chữ thứ hai, tư, sáu trong câu. Vì vậy mà có sự đòi hỏi “nhì tứ lục phân minh”. Chữ thứ tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ, cũng là tâm đối xứng của sự “cân bằng thanh điệu”, và luật thơ Đường luật đòi hỏi chữ thứ tư phải khác thanh với hai chữ thứ hai và thứ sáu, tức là nếu chữ thứ tư là thanh bằng, thì chữ thứ hai và thứ sáu phải là trắc, và ngược lại. Nếu chữ thứ tư thanh trắc thì chữ thứ hai và thứ sáu phải thanh bằng. Đặc biệt, riêng chữ thứ năm, do sự hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (bằng hoặc trắc) với chữ thứ bảy, mà chữ thứ bảy thì thanh luôn luôn cố định, nên thanh của chữ thứ năm cũng mặc nhiên cố định theo. Chữ thứ 5 gọi là ngũ nhãn, người ta nhìn vào đó để đánh giá bài thơ.

    Vần, một bài thất ngôn bát cú có năm vần là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (Thơ Đường luật thường gieo vần bằng, còn vần trắc là không chính thống, chính thể, vì đó là thơ Cổ Phong thời Hán triều).

    Đối là các cặp trạng hay thuật/thực (3-4) và luận (5-6) phải đối xứng nhau về 3 yếu tố: THANH (bằng trắc), TỰ LOẠI (danh từ với danh từ, động từ với động từ, tĩnh từ với tĩnh từ, trạng từ với trạng từ, mạo từ với mạo từ v.v... gọi là đối chiếu chữ, không được đối lệch), và nhất là phải đối về Ý/NGHĨA.

    Thứ Lang
    DSM 2005




  2. #62
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    5,990
    Quote Originally Posted by Thứ Lang View Post

    VÀI NÉT CĂN BẢN VỀ THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT


    Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật không chỉ đơn giản là bài thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải đáp ứng 4 yếu tố nghiêm ngặt chặt chẽ về niêm luật vần đối.

    Niêm là các chữ thứ 2 (thứ nhì) của các cặp câu 1-8,2-3, 4-5, và 6-7 phải cùng thanh (bằng hoặc trắc)
    Luật là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một câu thơ sao cho bằng trắc hài hòa, nghĩa là phải có sự cân bằng về âm thanh (thanh điệu), gồm các chữ thứ hai, tư, sáu trong câu. Vì vậy mà có sự đòi hỏi “nhì tứ lục phân minh”. Chữ thứ tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ, cũng là tâm đối xứng của sự “cân bằng thanh điệu”, và luật thơ Đường luật đòi hỏi chữ thứ tư phải khác thanh với hai chữ thứ hai và thứ sáu, tức là nếu chữ thứ tư là thanh bằng, thì chữ thứ hai và thứ sáu phải là trắc, và ngược lại. Nếu chữ thứ tư thanh trắc thì chữ thứ hai và thứ sáu phải thanh bằng. Đặc biệt, riêng chữ thứ năm, do sự hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (bằng hoặc trắc) với chữ thứ bảy, mà chữ thứ bảy thì thanh luôn luôn cố định, nên thanh của chữ thứ năm cũng mặc nhiên cố định theo. Chữ thứ 5 gọi là ngũ nhãn, người ta nhìn vào đó để đánh giá bài thơ.

    Vần, một bài thất ngôn bát cú có năm vần là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (Thơ Đường luật thường gieo vần bằng, còn vần trắc là không chính thống, chính thể, vì đó là thơ Cổ Phong thời Hán triều).

    Đối là các cặp trạng hay thuật/thực (3-4) và luận (5-6) phải đối xứng nhau về 3 yếu tố: THANH (bằng trắc), TỰ LOẠI (danh từ với danh từ, động từ với động từ, tĩnh từ với tĩnh từ, trạng từ với trạng từ, mạo từ với mạo từ v.v... gọi là đối chiếu chữ, không được đối lệch), và nhất là phải đối về Ý/NGHĨA.

    Thứ Lang
    DSM 2005
    Thứ Lang ơi, cho TLinh thí dụ nha, như đưa bài thơ Đường Luật và bài thơ Cổ Phong (Thất Ngôn Bát Cú không đối như hai khúc Tứ Tuyệt đúng hong ?)

    Giảng cho TL hiểu thêm chỗ tô đỏ nữa .
    Đa tạ

  3. #63
    Nhà Ngói Thứ Lang's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,301
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post
    Thứ Lang ơi, cho TLinh thí dụ nha, như đưa bài thơ Đường Luật và bài thơ Cổ Phong (Thất Ngôn Bát Cú không đối như hai khúc Tứ Tuyệt đúng hong ?)

    Giảng cho TL hiểu thêm chỗ tô đỏ nữa .
    Đa tạ
    Cổ Phong cũng có:
    Ngũ ngôn tứ cú (tứ tuyệt) và Thất ngôn bát cú
    Cũng có Ngũ ngôn và Thất ngôn Trường thiên.
    Thơ Đường luật thoát thai từ thơ Cổ phong mà ra.
    Thơ Cổ phong đã có từ lâu đời còn gọi là Cổ thi cổ thể.
    Đến đời Hán thì thể thơ nầy thịnh hành nên cũng gọi là Hán thi, sau đời Hán đến đời Lục triều cũng thịnh hành nên còn gọi thơ Lục triều (hoặc Lục triều thi).
    Qua đời Đường các thi gia nhận thấy thơ cổ thể có nhiều chỗ bị khổ độc khi đọc lên không êm tai, không du dương trầm bỗng và không có nhạc điệu, nên mới đặt ra các luật về thanh, âm và nhịp để bài thơ có nhạc điệu êm tai, du dương trầm bỗng dễ ngâm vịnh. Đồng thời ghép phần đối ngẫu (liễn) vào bài bát cú và gọi là Luật thi, vì mới đặt ra nên gọi là cận thể để phân biệt với cổ thể. Luật thi nghĩa là thơ làm theo luật bắt buộc, cổ thể là thể thơ xưa.
    Bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ Ngũ ngôn Cổ phong Trường thiên.
    Tuy nhiên nhiều thi gia đời Đường vì quen với thể thơ Cổ phong, nên không thích Luật thi, họ cho là gò bó, khó khăn. Do đó không phải bài thơ nào được viết vào đời Đường cũng đều là thơ Đường luật. Thí dụ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu chính là bài thơ Cổ Phong mà ngày nay có nhiều người vẫn lầm tưởng là thơ Đường luật. Cho đến ngày nay vẫn còn nhiều người lẫn lộn giữa Đường thi (thơ Đường) và Luật thi (thơ Đường luật) vì cả 2 thể thơ nầy đều được sáng tác vào đời Đường. Ngay cả những bài thơ sáng tác vào đời Đường cũng không hẳn đều là Đường thi, vì phần lớn là Cổ thi (cổ phong thi). Do đó mới có sự chọn lọc ra 300 bài Đường thi gom lại gọi là Đường Thi Tam Bách Thủ.
    Sau đây là một vài bài thơ thất ngôn bát cú Cổ Phong làm thí dụ để “minh họa”:

    Chiều Quê
    (Cổ Phong)
    Chiều tàn nhạt nắng nhớ quê xưa
    Mái lá đơn sơ dưới rặng dừa
    Bếp lửa cơm chiều nghi ngút khói
    Đồng xa vọng lại tiếng hò đưa
    Lưng trâu mục tử nghêu ngao hát
    Réo rắc bờ tre ngọn gió đùa
    Bìm bịp kêu chiều con nước lớn
    Tôi giờ xa xứ nhớ chiều xưa

    Bông Điên Điển
    (Cổ Phong)
    Điên điển quê tôi rực sắc vàng
    Vào mùa nước nổi ngập mênh mang
    Ngoại kêu đi hái về thay gạo
    Kỷ niệm nhiều đêm nhớ lệ tràn
    Vượt biển con đi ngày gió bão
    Ngoại già ở lại nát tâm can
    Tha phương mỗi độ thay màu lá
    Vọng hướng làng xưa lệ mấy hàng


    Last edited by Thứ Lang; 04-30-2021 at 09:23 PM.

  4. #64
    Nhà Ngói Thứ Lang's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,301
    Lưu ý:
    T
    hơ Đường luật mà thất niêm, thất đối, khổ độc, lỗi nhịp thì trở thành thơ Cổ phong.

  5. #65
    Nhà Ngói Thứ Lang's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,301
    Quote Originally Posted by Thùy Linh
    Đặc biệt, riêng chữ thứ năm, do sự hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (bằng hoặc trắc) với chữ thứ bảy, mà chữ thứ bảy thì thanh luôn luôn cố định, nên thanh của chữ thứ năm cũng mặc nhiên cố định theo. Chữ thứ 5 gọi là ngũ nhãn, người ta nhìn vào đó để đánh giá bài thơ.


    Giải thích cho TL hiểu thêm đoạn nầy.
    Bài thơ Đường luật làm đúng theo chính luật thì chữ thứ 5 trong mỗi câu mặc nhiên đúng luật. Có những người không tuân thủ luật thơ nên chữ thứ 5 thường bị thất luật, đọc lên không êm tai, đôi khi trúc trắc.
    Chữ thứ năm nầy mà thất luật , gọi là phạm lỗi ngũ nhãn (chữ con mắt). Khi đọc bài thơ Đường luật, người ta dán con mắt vào chữ thứ 5, nếu chữ nầy sai luật thì bài thơ coi như bỏ đi. Luật thơ giống như hiến pháp của một quốc gia, phải tuyệt đối tuân thủ.
    Theo chính luật thì chữ thứ 5 luôn luôn khác thanh với chữ thứ 7 của mỗi câu. Mà chữ thứ 7 thanh của nó luôn luôn cố định thì chữ thứ 5 thanh của nó cũng mặc nhiên cố định.

    Ông Quách Tấn nói:
    Không phải cứ hễ là danh gia thi sĩ thì cái gì cũng đúng 100%. Cho nên đừng bắt chước theo những cái họ làm sai do bất ý vì thiếu thôi xao.

  6. #66
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    5,990

    Cám ơn Thứ Lang nha

    TLinh sẽ từ từ đem những bức thư của Quách Tấn, Xô huynh, Hương ơi, cùng Thuỳ Linh nhé, chúng ta học hỏi ...
    ~~~~~~

    Quách Tấn, nhà thơ được mệnh danh là người giữ đền Thơ Đường Luật đã lưu lại cho chúng ta một công trình nghiên cứu mang tiêu đề "Thi Pháp Thơ Đường".
    Với bản chất khiêm tốn, Ông giới thiệu bài biên khảo"Thi Pháp Thơ Đường"qua hình thức là những Bức Thư. Từ thư thứ Nhất đến thư thứ 26, như gởi cho những người bạn.
    Dưới đây là Bức Thư nói về Thi Luật.

    Thi Pháp Thơ Đường - Quách Tấn
    Bức Thư thứ Ba


    Thi luật xuất phát từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc cho nên gọi là đường luật.
    Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ . ...

    Thật như vậy : từ đời Xuân Thu đến đời nhà Ðường, trên 1.000 năm, thơ Trung Quốc lần lần biến chuyển từ giản dị đến phức tạp, từ tự do đến câu thúc. Thơ trong bộ Kinh Thi do Khổng Phu Tử san định thời Xuân Thu (722- 479) trước Kỷ nguyên Thiên Chúa, số câu trong mỗi thiên, số chữ trong mỗi câu, đều không nhất định, cách hạ vần cũng tùy nghi.

    Ðến đời Tấn (265-420), thơ mới bắt đầu khép vào khuôn là mỗi câu 5 chữ, nhưng số câu thì dài ngắn tùy hứng tùy thích của thi nhân. Sang đời Lục Triều (420- 621), thi nhân lại tìm thêm một khuôn nữa là mỗi câu 7 chữ.

    Thời ấy văn học lại xu hướng thể biền ngẫu . Thẩm Ước lại xướng thiết tứ thanh, bát thể (bát bệnh) đem áp dụng vào thơ ngũ ngôn. Từ ấy, thi nhân phải theo những quy tắc về âm thanh về đối ngẫu; nhưng quy tắc không mấy chặt chẽ, ngòi bút vẫn tung hoành được tự do.

    Thi sĩ đời Ðường (618-907) phát huy phép đối ngẫu và thuyết thanh bệnh của Thẩm Ước. Âm vận và cách luật được giảng cầu tinh tường : Thi Luật được sáng chế và được phần đông thi nhân hoan nghênh. Người có công lớn trong việc chỉnh đốn Thi Luật là Tống Chi vấn và Thẩm Thuyên Kỳ thời Sơ Ðường . Rồi từ đời Ðường đến đời Thanh (1616- 1911), trên 1.000 năm, thể thơ Ðường luật rất được phần đông thi nhân ưa chuộng.

    Nước Việt Nam chúng ta có thơ từ nghìn xưa . Và thể thơ thông dụng nhất lá thể Lục Bát và Thể Vè 3, 4 và 5 chữ giản dị và tự do . Mãi đến đời nhà Trần (1225-1400), Hàn Thuyên mới dùng thể Ðường luật để làm thơ Nôm. Thi nhân đương thời nhiệt liệt hưởng ứng và từ đời Trần, sang đời Lê đến đời Nguyễn, thể Ðường luật được thịnh hành trong làng thơ Quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử . Thơ quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử. Thơ quốc âm làm theo thể Ðường luật, cổ nhân gọi là thơ Hàn Luật .

    Và để phân biệt với thơ có trước đời Ðường, thơ Cổ Thể, người ta gọi thơ làm theo thể Ðường luật là thơ Cận Thể .

    Quy tắc thơ Cận Thể rất tinh mật. Muốn sử dụng thể Ðường luật được hữu hiệu, tưởng chúng ta nên biết rõ mọi chi tiết, ít nhất là phải rành những điểm cốt yếu, về chương pháp, về cú pháp, về hài ngẫu, thanh điệu...

    Chương pháp là phép tắc trong toàn bài .

    Như trên đã nói, phép tắc thơ Cận Thể, tức thơ Ðường luật, rất chặt chẽ. Mỗi thiên có định số câu, mỗi câu có định số chữ, mỗi chữ có định tiếng bằng Trắc, và câu nào đối với câu nào, câu nào niêm với câu nào v. v... người làm thơ phải tuân thủ nghiêm chỉnh .

    Luật thi lấy tám câu làm chính. Mỗi câu gồm có hoặc 5 chữ hoặc 7 chữ. Thơ 7 chữ 8 câu gọi là Thất Ngôn Bát Cú, hay là Thất Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Thất Luật. Thơ 5 chữ 8 câu gọi là Ngũ Ngôn Bát Cú, hay Ngũ Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Ngũ Luật.

    Khi Luật thơ mới ra đời, các câu thơ trong bài không có tên. Ðường nhân chỉ gọi là câu NHẤT NHỊ, câu TAM TỨ, câu NGŨ LỤC, câu THẤT BÁT mà thôi.
    Ðến đời Tống (960 - 1297), Nghiêm vũ mới đặt tên : câu Nhất Nhị gọi là Khởi Liên hay Phát Cú (cũng gọi là Phát Ðoan), câu Tam Tứ gọi là Hạm Liên, câu Ngũ Lục gọi là Cảnh Liên, câu Thất bát gọi là Lạc Cú hay Kiết Cú.

    Qua đời Nguyên (1234 - 1368), Dương Tải đổi tên câu nhất nhị gọi là Phá Ðề và chia bài thơ làm 4 phần là Khởi (hay Khai), Thừa, Chuyển, Hiệp (*) và dạy : “Khởi như mở cửa thấy núi, đột ngột tranh vanh, hoặc như mây nhàn từ trong hố bay ra, nhẹ nhàng thong thả. Thừa như con rắn cỏ, sợi dây chuyền, chẳng đứt chẳng rời. Chuyển như sóng lớn muôn khoảnh, tất có nguồn cao đổ xuống . Hiệp như gió quanh khí tụ, ngậm chứa sâu thẳm. (Khởi như khai môn kiến sơn, đột ngột tranh vanh, hoặc như nhàn vân suất hát, khinh vật tự tại, Thừa xứ như thảo xà trắc tuyến, bất tức bất ly. Chuyển xứ như hồng ba vạn khoảnh, tất hữu cao nguyên. Hiệp xứ như phong hồi khí tụ, huyên vịnh hàm súc).

    Vương Ngư Dương thời Thanh (1634 - 1711) nói rõ thêm rằng : Khởi, Thừa, Chuyển, Hiệp là phép chung trong việc làm văn. Trong một câu có khởi thừa chuyển hiệp của câu, trong một thủ có khởi thừa chuyển hiệp của thủ, trong 10 thủ có khởi thừa chuyển hiệp của 10 thủ, chớ không thể ấn định câu thứ mấy, đối thứ mấy là khởi thừa là chuyển là hiệp. Tức là Vương Ngư Dương không muốn người làm thơ phải ép mình trong sự phân chia cứng nhắc.

    Nhưng một khi luật được đem vào trường thi để làm khuôn thước chọn nhân tài, thì khuôn khổ bài thơ luật lại chặt chẽ thêm một bậc nữa. Tên của các câu thơ trong bài đều được thay đổi. Câu Thứ nhất gọi là Phá Ðề, câu nhì gọi là Thừa Ðề, cặp tam tứ gọi là Thích Thực hay Trạng, cặp ngũ lục gọi là Dẫn Luận hay Bồi Thấm, câu bảy gọi Thúc Kiết hay Chuyển, câu tám gọi là Hoàn Kiết hay Kết.

    Những câu 1- (Ðề) và 7- 8 (Kết) không phải đối nhau. Chỉ có cặp 3 - 4 (Trạng) và cặp 5 - 6 (Luận) là phải đối nhau, cặp nào đối với cặp nấy, và phải niêm với nhau: câu 1 với câu 8, câu 2 với câu 3, câu 4 với câu 5, câu 6 với câu 7. Ðó là luật nhất định .

    Nhưng từ khởi thủy, thi nhân mới định vị cho các câu trong bài chớ chưa phân nhiệm cho từng câu. Nguồn thơ theo nguồn hứng mà đi, không cần phải sắp xếp ý nào trước ý nào sau, miễn sao cho nhất khí quán hạ, cho thủ vỹ tương ứng, miễn sao mạch lạc được liên tiếp, ý tứ đừng trùng điệp... là hay. Khi đã dùng vào trường thi, thì nhiệm vụ của Ðề, Trạng, Luận, Kết đều được ấn định rõ ràng. Quy tắc phải được sĩ tử tuân thủ triệt để. Ðó là luật thơ cử nghiệp .

  7. #67
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    5,990

    Về vấn đề này cũng như các vấn đề về luật bằng và Trắc trong câu, phép đối ngẫu... tôi sẽ nói rõ trong khi bàn về Cú pháp

    Tôi xin nói tiếp về Chương .

    Chương dùng ở đây là bài thơ, chớ không phải một bộ phận trong bài văn, lớn hơn tiết. Nói một chương tức là một thủ, và thủ cũng thường gọi là Thiên. Nhưng Thiên trong thơ Liên Hoàn, lại dùng để gọi cả nhóm hoặc 10 thủ, hoặc nhiều hơn hoặc ít hơn. Còn chỉ để chỉ từng bài một thì dùng tiếng Chương hay Thủ. Cùng một đề mục mà phải dùng nhiều bài nối nhau để diễn đạt cho hết ý, mà không theo lối liên hoàn (nối nhau bằng ý chớ không bằng lời) thì cả nhóm cũng gọi là Thiên, từng bài một thì gọi là Chương, là Thủ, như trong thơ liên hoàn. Song đó là danh xưng chớ không phải là quy tắc .

    Ðể làm mẫu về chương pháp, xin dẫn một trong những bài thơ được truyền tụng, bài GỞI PHAN SÀO NAM của Trần Kế Xương :

    Mấy năm vượt bể lại trèo non
    Em hỏi thăm qua bác hãy còn
    Mái tóc Giáp Thìn đà nhuốm tuyết
    Ðiểm đầu Canh Tý chửa phai son
    Vá trời gặp hội mây năm vẻ
    Lấp bể ra công đá một hòn
    Có phải như ai mà chẳng chết
    Dang tay chống vững cột càn khôn

    Bài thơ nhất khí quán hạ. Nêm luật chặt chẽ sít sao .

    Nhưng đúng pháp thơ cử nghiệp, nghĩa là trạng, luận thật phân minh, thì bài VỊNH TRÂU GIÀ của Ðặng Ðức Siêu sau đây có thể dùng làm kiểu mẫu :

    Một nắm xương khô một nắm da
    Bao nhiêu cái ách cổ từng qua
    Ðuôi cùn biếng vẫy Ðiền Ðan hỏa
    Tai nặng buồn nghe Ninh Thích ca
    Nương bóng rừng đào nơi lểu lảo
    Nhìn gương cung quế thở phì phà
    Bôi chuông nhớ thuở thân gần lụy
    Ơn đội Tề vương mạng được tha.

    Mới học làm thơ, các bạn nên học tập lối làm thơ cử trước. Tôi sẽ nói kỹ hơn sau khi đã lược giảng xong những điều thiết yếu. Và trong bước đầu của bạn, tôi chú trong đến thơ Thất Luật. Bởi kinh nghiệm bản thân cho thấy rằng một khi chân đã vững vàng trên đường thơ cử nghiệp rồi thì bước sang thơ tài tử rất dễ dàng, và hễ thơ bảy chữ đã thạo rồi thì thơ năm chữ không còn thấy bỡ ngỡ .

    Và thơ Ngũ Ngôn cũng như thơ Thất Ngôn, đều lấy 8 câu làm luật. Nhưng phần đông thi nhân vẫn coi thơ Tứ Tuyệt là luật thi, bởi Tuyệt Cú là cắt luật thơ ra làm đôi mà lấy nửa. Phàm trong một bài tuyệt cú mà hai câu sau đối nhau, đó là cắt lấy 4 câu trước - cổ nhân gọi là tiền giải - của bài thơ luật; nếu hai câu trước đối nhau là cắt lấy phần hậu giải; bốn câu đều đối nhau là cắt lấy 4 câu giữa; còn toàn bài không có đối, là cắt lấy hai câu đầu và hai câu sau của bài thơ luật mà hợp lại . Số câu tuy có khác nhưng cách bố trí vẫn không khác nhau, cũng khởi, thừa, chuyển, hiệp , một bên từng cặp, một bên từng câu, mạch văn vẫn tiếp, khí văn vẫn nổi, không dứt không ngừng. Và tuy có 4 câu nhưng ý tứ phải sung mãn như 8 câu thì mới xứng danh là Tuyệt Cú, là Tứ Tuyệt. Bởi Tuyệt vừa có nghĩa là Tiệt (cắt) vừa có nghĩa là tuyệt diệu.

    Xin cử mỗi loại một tuyệt để làm mẫu :

    Hai câu đối nhau như bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông ;

    Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
    Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường
    Tay ngọc đẩy đưa thoi nhật nguyệt
    Gót vàng dậm đạp máy âm dương

    Hai câu đối nhau như bài SONG CHIỀU của TX :

    Ngày trôi chậm chậm sông đưa lá
    Thoi liệng xa xa én dệt mù
    Mở rộng song thơ chờ ánh nguyệt
    Nửa lòng xuân sắc nửa lòng thu

    Bốn câu đều đối như bài TỨC CẢNH của Nguyễn Tư Giản làm lúc đi sứ sang Trung Hoa thời Tự Ðức :

    Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
    Khói tỏa ngô đồng khóm khóm sương
    Thuyền mọn năm canh người Bích Hán
    Ðịch đài một tiếng khách tầm dương

    Bốn câu đều không có đối như bài MỜI TRẦU của Hồ Xuân Hương :

    Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
    Này của Xuân Hương mới quệt rồi
    Có phải duyên nhau thời thắm lại
    Ðừng xanh như lá bạc như vôi .

    Chỉ có 4 câu mà ý tứ phải đầy đủ, phải trọn vẹn thì bài thơ mới thật hoàn hảo. Bằng còn có thể thêm thắt, thì đó là một bài bát cú mới làm nửa chừng, Ví dụ bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông, đọc lên chúng ta cảm thấy thiêu thiếu như xem chưa hết lớp tuồng mà đã bị hạ màn. Do đó đời sau, nhiều người đã thêm những câu sau thành một bài bát cú, như Tôn Thọ Tường là một :

    Thấy dân rét mướt chạnh mà thương
    Phải bước lên khung sửa mối giường
    Tay ngọc lẹ đưa thoi nhật nguyệt
    Gót son lần đạp máy âm dương
    Xuân riêng hoa liễu canh dàn cuốn
    Ý hiệp rồng mây chỉ vấn vương
    Dâng gấm sân chầu mong có thuở
    Sánh bường Tô Huệ bức văn chương .

    Sửa đổi một vài chữ rồi thêm vào bốn câu thành một bài bát cú lời đẹp ý giàu, lại nói lên được chút tâm sự thầm kín .

    Những bài Tứ Tuyệt có đối thường bị nối đuôi hoặc nối đầu, để ngầm bảo rằng chưa phải thơ Tuyệt Cú. Nhưng nếu ý tứ trong bài không được phong phú, thì loại không có đối cũng dễ biến thành thơ bát cú. Ví dụ bài VẤN NGUYỆT sau đây, tương truyền là của Hồ Xuân Hương :

    Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
    Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
    Ba mươi mồng một đi đâu vắng
    Hay có tình riêng với nước non

    Cụ Tú Nguyễn Khuê đã biến thành một bài bát cú rất được thưởng thức :

    Dì Nguyệt mình ơi ! Tớ hỏi đon :
    Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
    Hỏi con ngọc thố chừng bao tuổi
    Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
    Ðêm vắng cớ chi soi gác tía
    Ngày xanh lại thẹn với vầng son
    Ba mươi mồng một đi đâu vắng
    Hay có tình riêng với nước non .

    Bài VẤN NGUYỆT của cụ Tú cũng như bài DỆT CỬI của ông Tôn, tuy là thơ chắp nối, song theo đúng khuôn phép. Ý tứ trong toàn bài luôn luôn đi sát đầu đề. Những câu Ðề, Trạng, Luận, Kết, câu nào cương vị nấy, nhiệm vụ nấy, không chút sai lệch. Mạch thơ khí thơ, như nước suối cao, gió đồng rộng, không bị gián đoạn hay ngưng trệ. Nếu đi thi thì quan trường dù khắt khe đến đâu cũng không thể đánh hỏng .

    Hai bài đó, nếu các bạn xem xét kỹ, sẽ giúp các bạn nắm vững thêm về Chương Pháp.
    Con đường đưa đến diệu xứ của Thơ còn xa lắm .

    Nhưng trong BẰNG HỮU KIM KÝ của Nguyễn Ðôn Phục có câu :

    Ðất đã đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao ;
    Ðường dù đi đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi nài khó nhọc .

    Mong các bạn đừng chán nản

    Quách Tấn

  8. #68
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    5,990

    Bức Thư Thứ Tư - Quách Tấn

    ~~~~~~
    Bức Thư Thứ Tư - Quách Tấn

    Các bạn thân mến!

    THƠ khác với VĂN chẳng những ở điểm chương cú của thơ ngắn gọn, mà còn ở điểm thơ giàu nhạc. Thơ không nhạc là văn, văn có nhạc là thơ.
    Cổ nhân luận rằng “Thơ đời Tống trong thơ có văn, Văn đời hán trong văn có thơ”, là nói về nhạc trong thơ văn, và ngụ ý chê thơ Tống kém nhạc, khen văn Hán có nhạc.
    Văn đời Hán có nhạc, thơ đời Đường giàu nhạc. Chính nhờ có nhạc, mà văn Hán thơ Đường được học giả khen là “Nhân gian tuyệt phẩm”. (Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm).
    Thơ Tống không phải không hay, nhưng vì kém nhạc nên phải đứng sau thơ Đường.

    Như vậy Nhạc là một yếu tố rất quan trọng trong văn chương, nhất là trong Thơ.

    Muốn có nhạc, bài thơ cần phải điều chỉnh theo ba yếu tố: Thanh, Vận, Điệu.

    Vận thuộc về Chương Pháp. Thanh thuộc về Cú Pháp. Điệu thuộc về vừa Cú Pháp vừa Chương Pháp.

    Đáng lẽ phải nói về Vận trước để bức thư này liền mạch với bức thư thứ 3 nói về quy tắc trong 1 chương. Nhưng chưa nói rõ về Thanh mà đã nói đến Vận thì lời nói khó trôi chảy, e các bạn lãnh hội không được thoải mái.

    Cho nên xin nói về THANH trước.

    Mà muôn nói về THANH được rõ ràng thì không thể không nói về ÂM mà trong các sách nói về việc làm thơ xưa nay ít đề cập tới.
    Do đó có lắm người không phân biệt được Âm và Thanh. Có người hỏi Viên Mai, một thi hào đời Thanh, thì Viên Mai đáp: “Thanh thành văn vị chi âm”, nghĩa là “Thanh thành văn rồi thì gọi là âm”.
    Tôi không hiểu nổi lời giải thích đó, và liên tưởng đến lời nói của một nhà Tây triết: “Giải nghĩa là một cách làm cho tối nghĩa thêm”.
    Nhưng rồi nghĩ lại: “Người Tàu giải nghĩa chữ Tàu bằng tiếng Tàu nên mình không lãnh hội được”, tôi bèn lật các bộ Hán Việt từ điển, và thấy giải Âm là Tiếng mà Thanh cũng là Tiếng. Như thế Âm cũng như Thanh, Thanh cũng như Âm sao?

    Vâng, tuy hai nhưng một, tuy một nhưng hai.

    Tôi xin nói rõ:

    - Âm là tiếng gốc, giọng bằng phẳng, không xuống, không lên, không cao, không thấp.

    - Thanh là giọng cao thấp, xuống lên của Âm, là cung bậc của tiếng gốc.

    Âm mà phát ra được là nhờ cơ quan phát âm là lỗ miệng mà các bộ phận chính là Hầu (họng), Thiệt (lưỡi), Xỉ (răng), Thần (môi).
    Phải đủ bốn bộ phận chính ấy, âm phát ra mới được trọn vẹn. Nhưng âm chịu ảnh hưởng khi thì bộ phận này nhiều hơn các bộ phận kia, khi thì các bộ phận kia nhiều hơn các bộ phận này.
    Dựa trên mức độ ảnh hưởng ở họng hay ở lưỡi, ở răng hay ở môi… mà chia âm ra làm bốn loại chính, mỗi âm lại chia ra hai hay ba bốn âm nữa:

    - Hầu âm (tiếng họng) thì có thâm hầu (họng trong) và thiển hầu (họng ngoài). Ví dụ: A, ê, ô, ơ, ư,… (thâm hầu), e, I, o, u (thiển hầu).
    - Thiệt âm (tiếng lưỡi) thì có thượng thiệt và đầu thiệt. Ví dụ: da, danh, cây, cung… dung, danh, dang… khang, khôn, lân, lương… (Thượng thiệt); đa, đôn, đương…liên, nang, ra, ranh… tha, thiên…tre, trinh (Đầu thiệt).
    - Xỉ âm (tiếng răng) chia làm chính xỉ và bán xỉ. Ví dụ: Sa, sanh, siêng… (bán xỉ); Xa, xanh, xiêng (chính xỉ).
    - Thần âm (tiếng môi) chia làm khinh thần và trọng thần. Ví dụ: ba, bưng…qua, quanh (khinh thần); Ma, minh… pha, phiên… va, vâng… (trọng thần).

    Nói tóm lại là khi phát âm, chúng ta nhận thấy phải dùng bộ phận nào nhiều hơn hết thì âm ấy thuộc bộ phận ấy.
    Và ta nhận thấy những chữ nguyên âm a, e, i, o, u, ê, ô, ơ, ư đều thuộc về hầu âm; những tiếng khởi đầu bằng những phụ âm c, d, đ, g, h, kh, l, n, r, t, th, tr đều thuộc về thiệt âm; những tiếng khởi đầu bằng phụ âm s, x thuộc về xỉ âm; những tiếng khởi đầu bằng phụ âm b, m, qu, ph, v thuộc về thần âm.

    Và nhìn trên mặt chữ, chúng ta nhận thấy Âm là những tiếng không có dấu. Vì không có dấu nên không có cung bậc lên, xuống, thấp, cao.

    Thêm những dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã vào thì Âm trở thành Thanh có giọng thấp, giọng cao, giọng lên, giọng xuống.

    Vì có 5 dấu, và vì một khi âm trở thành thanh thì tiếng gốc không dấu đó được coi là một thanh, cho nên mỗi âm chia làm 6 thanh độ:
    - Thượng bình thanh, gồm những tiếng không dấu
    - Hạ bình thanh gồm những tiếng có dấu huyền
    - Thượng thượng thanh gồm những tiếng có dấu hỏi
    - Hạ thượng thanh gồm những tiếng có dấu ngã
    - Thượng khứ thanh gồm những tiếng có dấu sắc
    - Hạ khứ thanh gồm những tiếng có dấu nặng

    Chữ Hán không có dấu nên khách làng thơ Hán tự, bên Việt Nam cũng như bên Trung Hoa chia thanh ra làm bốn độ gọi là Tứ Thanh, gồm có:

    - Bình thanh
    - Thượng thanh
    - Khứ thanh
    - Nhập thanh

    Làng thơ Quốc âm lấy nhập thanh đem chia làm 2 độ Thượng, Hạ để nhập vào 6 thanh Bình, Thượn, Khứ thành 8 thanh độ:

    - Thượng nhập thanh gồm những tiếng có dấu sắc và có hậu phụ âm là t, p, c, ch
    - Hạ nhập thanh gồm những tiếng có dấu nặng và có hậu phụ âm là t, p, c, ch

    Có người chê là đa sự, chỉ gây thêm phiền phức chứ không có ích gì cho thơ.

    Chê như thế là chưa nhập điệu. Thử hỏi tìm hiểu thanh độ của Âm làm gì, nếu chẳng phải để tạo thi nhạc khi điều chỉnh âm thanh. Cũng như âm giai trong môn nhạc. Thanh độ nhiều bao nhiêu thì thi nhạc giàu bấy nhiêu. Cũng như trên đã nói, Nhạc là một yếu tố quan trọng của thơ. Như vậy “gây phiền phức” để làm giàu cho thơ, sao gọi là “đa sự”, sao bảo là “vô ích”? Như vậy, làng thơ Việt Nam thêm 2 thanh độ nữa thành 8 thanh độ, chẳng những không đáng chê mà còn đáng khen.

    Và, như đã nói trên đây, một khi Âm đã chuyển thành Thanh thì tiếng gốc không dấu đã hòa mình vào tiếng gốc có dấu thành 8 thanh độ, thì Âm trên danh nghĩa này vẫn còn. Cho nên cổ nhân hợp Âm và Thanh làm một, và gọi là Âm hay là Thanh, thì tùy nghi chứ không cố chấp. Cũng do đó mà các sách bàn về thơ Đường nói đến Thanh chứ ít khi nói đến Âm.

    (Còn tiếp)

  9. #69
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    5,990
    Quote Originally Posted by HXhuongkhuya View Post


    Thuỳ Linh ơi, H hoạ vần bài thơ của huynh Thứ Lang cho vui, có gì huynh Thứ Lang và TL nhắc hỉ.



    Táo Quân Chầu Trời

    Hăm ba tháng chạp táo đăng đàn
    Thượng sớ tâu trình chuyện thế gian
    Dịch bệnh nơi nơi đời đói khổ
    Cô vi xứ xứ cảnh cơ hàn
    Cầm quyền nước Việt còn vô cảm
    Dân chúng trời Nam vẫn bất an
    Chính phủ làm ngơ không giúp đỡ
    Thần xin Ngọc đế cứu tai nàn
    Thứ Lang
    25 Jan 2022

    Cứu Khổ
    Các Táo ngày Xuân bận lễ đàn
    Tâu trình Thượng Đế chuyện nhân gian
    Nguyên năm khốn khó vì cơn dịch
    Trọn tháng đau thương bởi gió hàn
    Lãnh đạo gian tham lòng bất ổn
    Dân đen khốn khổ dạ bình an - sửa thành "khiếp sợ"
    Than trời tiếng thấu cùng thiên quốc
    Thánh chỉ hạ ban cứu khổ[nàn
    HXhuongkhuya
    1/27/22


    Chào Hương, TLinh đem bài hoạ sang trang Luật Thi để nhắc, dễ theo dõi, chỗ này yên tịnh nè
    Ngày xưa TLinh học công khai trong lớp thơ làm bài tập cho thầy sửa trước bàng dân thiên để ai muốn học hàm thụ thì học
    vậy mà nhiều người tuy không vô lớp học chính thức vẫn học được và xách kiếm ra giang hồ ...
    ~~~
    Bài hoạ của Hương tốt đạt 95% rồi còn 5% vài lỗi nhỏ rất dễ chỉnh sửa
    2 chữ khốn (câu 3, câu 6)
    2 chữ khổ (câu 6, câu 8)
    là lỗi điệp tự ( lập lại từ ngữ giống với cùng một ý)
    Có khi cố ý dùng điệp tự trong trường hợp muốn nhấn mạnh ý, thường trong cùng một câu, có bài thí dụ sau ...
    ~~~
    Lãnh đạo # Dân đen - không chỉnh đối cho lắm
    Dân đen ở đây chữ đen là tính từ ( Thứ Lang dùng Cán đỏ # Dân đen , tính từ đối tính từ đỏ #đen )
    Trong khi lãnh đạo là danh từ kép, Hương đổi là Lãnh đạo # Người dân thì
    ~~~
    2 câu 5&6 không ổn về nghĩa ...

    Nếu lãnh đạo [B]gian tham /B]thì ít khi cảm thấy bất ổn, họ thấy ổn lắm mới gian tham
    Nếu hiểu là vì lãnh đạo gian tham nên lòng bất ổn, bị tối nghĩa, mù mờ vì chữ lòng đây có thể hiểu là lòng của lãnh đạo chứ không phải lòng dân,
    trừ khi thay chữ "lòng" thành chữ " dân" nhưng gợi ý dùng chữ "dân" rồi thành ra tránh bị điệp tự
    Tạm sửa là :
    Lãnh đạo gian tham nên bất ổn
    Dân đen khốn khổ dạ bình an, nếu khốn khổ sao bình an được, TLinh biết Hương làm cho chỉnh đối mà nghĩa cũng quan trọng không kém .
    Tạm sửa là
    Người dân khiếp sợ chẳng bình an
    [/I]
    Tạm được chứ chưa rõ nghĩa hẳn, tuy vậy một mũi tên dính hai con chim, vừa mất luôn 2 lỗi điệp tự

    Cứu Khổ
    Các Táo ngày Xuân bận lễ đàn
    Tâu trình Thượng Đế chuyện nhân gian
    Nguyên năm khốn khó vì cơn dịch
    Trọn tháng đau thương bởi gió hàn
    Lãnh đạo gian tham nên bất ổn
    Người dân khiếp sợ chẳng bình an
    Than trời tiếng thấu cùng thiên quốc
    Thánh chỉ hạ ban cứu khổ nàn
    HXhuongkhuya
    1/27/22

    ~~~
    TLinh nghĩ đọc đi, đọc lại bài thơ chừng hai lần, Hương chắc sẽ nhìn ra và chỉnh sửa thôi, mình cũng bị lỗi điệp tự và thất đối hoài.
    B, T lại không bị vì cái bảng luật vẫn nằm trên bàn để TLinh liếc cho chắc .
    ~~~
    Bài thơ ngoài âm luật còn cần trong sáng, rõ nghĩa
    đọc nghe êm, đọc hiểu khác với đọc cho êm mà không hiểu hoặc đọc không êm mà cũng chẳng hiểu nghĩa ...hay là mâu thuẫn nghĩa .

    Chữ Việt rất giàu từ ngữ, đẹp ý nghĩa chỉ cần ta tận dụng ...
    ~~~
    Cám ơn Thứ Lang hoạ thơ khuyến khích Hương, thiển nghĩ Thứ Lang từng dẫn lớp Thơ trong quá khứ, cũng nên góp ý cho tác giả cơ hội, trước khi hoạ một bài thơ chưa chỉnh đối,
    lỗi điệp tự thì nhỏ TLinh không nói đến nhưng thất đối mất hết giá trị bài thơ.
    Có nhớ Trần đại thi huynh từng nói về "thôi xao", làm đúng luật mà còn thôi xao cho đẹp hơn huống chi chưa chỉnh.

    Gọi thơ Đường Luật không phải thơ Đường, thích chơi thể thơ này phải theo lập ý, tu từ, niêm, luật, vần, đối ...
    bước vào cần kiên nhẫn, yêu thích mới theo được, suy nghĩ tìm chữ nhức đầu lắm, như thơ đùa phá thì có dễ hơn phần nào, mà không có hay ho gì, chỉ vui thôi

    Trường hợp 6 bài thơ cuả ông Nguyễn Tân Dương, vì Thứ Lang khg quen ông.
    Tuy nhiên 2 bài bị thất luật B,T ...hoạ hay quoted lại người khác đọc, biết thì "kỳ" cho ông ấy, vì biết đâu ông ấy sẽ thôi xao lại.( ý riêng TLinh thôi nha, Thứ Lang cứ theo ý mình)
    Last edited by Thùy Linh; 01-28-2022 at 01:46 AM.

  10. #70
    Nhà Ngói Thứ Lang's Avatar
    Join Date
    Nov 2011
    Posts
    1,301
    TL không nói trường hợp 6 bài thơ cuả ông Nguyễn Tân Dương, vì Thứ Lang không quen ông .
    Tuy nhiên 2 bài bị thất luật B,T ...nếu là TLinh, mình sẽ không hoạ hay quoted lại vì người khác đọc, biết thì "kỳ" cho ông ấy, vì biết đâu ông ấy sẽ thôi xao lại.
    Thơ của ông ấy (LTD) đăng trên Diễn Đàn Lâm Viên, và DĐLV đã công bố lên public trong thời gian khá lâu, người khác đọc hết rồi, dẫu tác giả có thôi xao thì link gốc vẫn còn.
    Quote là chứng tỏ mình không tự ý sửa thơ của tác giả, còn họa là vì cái ý (nội dung) của bài thơ xét thấy hay.
    Không nhắc nhở cái sai vì không chơi chung cùng một diễn đàn và không quen biết.
    Cũng như nếu họa thơ của tiền nhân, dù bài đó có sai cũng đâu dám tự ý sửa, và cũng không thể nhắc nhở được.
    Nói theo ông Quách Tấn thì thơ người xưa cũng bị lỗi, bệnh cả đống và chính ông (QT) cũng có bình phẩm nhiều bài thơ xưa để độc giả học hỏi. Ông (QT) cũng nói “đừng thấy các đại danh gia thi sĩ làm sai rồi bắt chước theo, thành ra sai cả đám”. Và đâu phải đại danh gia thi sĩ thì cái gì cũng hoàn toàn đúng, do đó phải cần gạn lọc.

 

 

Similar Threads

  1. Replies: 7
    Last Post: 04-03-2014, 08:29 AM
  2. Vụ Hội đồng Công Luật công án Bia Sơn
    By Lotus in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 9
    Last Post: 02-08-2013, 12:26 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:04 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh