Results 1 to 10 of 10
Hybrid View
-
07-26-2013, 08:00 AM #1
Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
II. Giảng đúng nghĩa của các từ tố, nhưng giảng sai nghĩa của từ
Nêu đúng nghĩa của các từ tố gốc Hán là một việc không đơn giản. Tuy nhiên, đối với một số từ tố gốc Hán đã quá quen thuộc với người Việt Nam thì nhiều người không biết chữ Hán vẫn có thể giải nghĩa đúng. Dưới đây là một số từ mà soạn giả đã nêu tương đối đúng nghĩa của các từ tố nhưng lại giảng sai nghĩa của từ hoặc không nêu được nghĩa mở rộng mà vốn lại là nghĩa chủ yếu của từ ấy. Soạn giả đã không đính chính được cách hiểu sai trong dân gian mà chỉ dựa theo cách hiểu sai ấy để nêu ra định nghĩa các từ.
1. âm đức 陰德
Theo soạn giả, âm là trái với dương, là nữ, là âm phủ, là ngầm, kín; đức nghĩa là đạo đức; và, âm đức nghĩa là ảnh hưởng đạo đức của tổ tiên đối với con cháu. Chúng tôi rất nghi ngờ định nghĩa này nên đã xem lại các từ điểnTừ nguyên và Từ hải thì được biết rằng, âm đức cũng đồng nghĩa với âm công, nghĩa là công đức tốt đẹp nhưng kín đáo, không ai biết, chỉ có thần thánh biết mà thôi. Như vậy, âm đức không phải là ảnh hưởng đạo đức của tổ tiên đối với con cháu, như soạn giả đã định nghĩa.
2. bình sinh 平生
Bình sinh 平生 nghĩa là cả cuộc đời, là suốt đời. Theo soạn giả, bình là bình thường, sinh là sống, và, từ bình sinh có hai nghĩa: 1) trong cuộc sống hàng ngày; 2) sức sống vốn có. Thực ra, từ tố sinh ở đây có nghĩa là đời sống, là cuộc sống chứ không phải là sống. Khi nêu định nghĩa về từ “bình sinh”, định nghĩa thứ nhất tuy chưa đúng hẳn nhưng còn tạm được, định nghĩa thứ hai thì không đúng, mà chỉ là sự gán ghép chủ quan của soạn giả.
3. bố y 布依
Bố là vải, y là áo, soạn giả đã giải thích đúng hai từ tố này. Nhưng ông định nghĩa rằng, bố y = áo vải, người mặc áo vải thì chưa được. Ðịnh nghĩa như thế tuy không sai nhưng không đạt, vì chưa nói đến nghĩa mở rộng của từ này, mà nghĩa đó mới là nghĩa chính. Tôi đã có lần hỏi một số sinh viên về nghĩa của nhóm từ “người mặc áo vải” nhưng các em đều không trả lời được. Vậy, phải chỉ rõ thêm rằng, bố y nghĩa là thường dân hoặc như người ta thường gọi đùa là “phó thường dân” vậy.
4. cấm cung 禁宮
Soạn giả cho biết: cấm = không cho làm; giam; chỗ vua ở, và: cung = cung điện. Như vậy, các từ tố đều được giảng đúng nghĩa. Nhưng, có lẽ ông nghĩ rằng, nghĩa cụ thể của từ tố cấm ở đây giam (chứ không phải là nơi vua ở) nên đã đi đến định nghĩa về từ cấm cung: Nói về người thiếu nữ trong gia đình phong kiến luôn luôn phải ở trong phòng the, không được ra ngoài. Nếu quả như vậy thì ta chỉ cần định nghĩa rằng, cấm cung = giam hãm trong cung điện. Nhưng từ này không có nghĩa như thế. Ở đây, cấm nghĩa là chỗ vua ở, (như trong các từ cấm thành, cấm binh, cấm uyển...), cho nên, cấm cung hoặc cung cấm đều có nghĩa là cung điện của vua. Nghĩa của từ cấm cung như soạn giả đã nêu chỉ tồn tại trong khẩu ngữ dân gian. Người soạn từ điển không được phép coi đó là nghĩa đúng và nghĩa chính, mà chỉ có thể nêu thêm có kèm theo ghi chú.
5. củ hợp 糾合
Tuy đã cắt nghĩa các từ tố tương đối đúng, rằng: củ = sửa lại, kết hợp lại, xem xét; và, hợp = hợp lại; nhưng, lạ thay, «củ hợp» thì được định nghĩa là «tụ tập lại để làm điều bất chính» (!). Ðây chính là nghĩa của từ «cẩu hợp» 苟合, trong đó, «cẩu» 苟 nghĩa là qua loa, tạm bợ, như trong từ «cẩu thả» 苟且. Củ hợp nghĩa là tập hợp, là tụ hợp chứ không hề đồng nghĩa với cẩu hợp. Về từ tố hợp, ta nên nói rằng, hợp nghĩa là góp lại thì hay hơn.
6. Ðịa Trung Hải 地中海
Ðịa là đất, là lục địa; trung là ở trong, ở giữa; hải là biển. Ðịa Trung Hải là biển ở trong lục địa. Chẳng cần phải học hành gì nhiều thì ai cũng biết như thế. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là, sau khi giải thích rằng, Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn! Ngoài ra, nói rằng, biển Caxpiên của Liên Xô thì cũng chưa đúng, vì ngay cả khi Liên Xô chưa tan rã thì biển này có một phần thuộc chủ quyền của nước Iran, với diện tích 43 200 km2
7. hậu phi 后妃
Soạn giả giải thích rằng, rằng, hậu là vợ vua, phi cũng là vợ vua, và hậu phi cũng là vợ vua rồi đưa ra một câu để minh hoạ: Lịch sử khen bà hậu phi của vua Lý Thánh Tông là người đàn bà giỏi việc nước. Nêu thí dụ như vậy là càng tỏ ra không hiểu từ này, bởi vì hậu là vợ chính của vua, phi là vợ thứ của vua (hoặc vợ chính của thái tử), dưới hậu một bậc. Hậu phi là một danh từ tập hợp, chỉ chung đám vợ lớn vợ bé của vua chứ không chỉ riêng một bà vợ nào cả.
8. hoa liễu 畫柳
Ở đây, hoa nghĩa là bông hoa, liễu nghĩa là cây liễu. Soạn giả đã nêu đúng nghĩa của hai từ tố này. Nhưng, nói rằng, hoa liễu là bệnh lậu hoặc bệnh giang mai thì không đúng. Thực ra, các bệnh kể trên được xếp vào nhóm bệnh hoa liễu, còn từ “hoa liễu” không phải là tên một bệnh, nó được dùng như tính từ để chỉ một nhóm bệnh liên quan đến tệ nạn mại dâm. Hoa liễu là hoa và liễu, vốn dùng để chỉ đàn bà con gái mảnh mai xinh đẹp, về sau lại có nghĩa là chuyện bướm ong trai gái, như trong các thành ngữ “tầm hoa vấn liễu”, hay “liễu ngõ hoa tường”, v.v., và cuối cùng là chỉ gái mại dâm. Các từ điển tiếng Việt từ năm 1954 về trước (cả ở Sài Gòn trước năm 1975) và tất cả các từ điển chữ Hán từ xưa đến nay đều định nghĩa như thế.
9. linh sàng 靈床
Linh là thiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàng là cái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng, linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải chăng ông cũng nghĩ rằng, ở hai câu trong Truyện Kiều:
Sang nhà cha, tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Nguyễn Du đã không hiểu từ “linh sàng »? Thật ra, chỉ có soạn giả không hiểu, chứ Nguyễn Du thì hiểu từ này quá chính xác. Từ «linh sàng» có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm “chỗ nghỉ” cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Trong câu thơ trên đây, “linh sàng” mang nghĩa thứ hai.
10. linh xa 靈車
Các từ tố “linh” và “xa” (linh là liên quan đến người chết, xa là cái xe) đều được soạn giả hiểu đúng. Song, phải chăng, linh xa là « kiệu dùng để rước linh hồn người chết trong đám ma theo phong tục cũ », như ông đã dạy? Hoàn toàn không phải như vậy. Linh xa là chiếc xe chở quan tài hoặc chở hộp đựng hài cốt của người chết để đưa đi chôn.
11. long nhãn 龍眼
Rất nhiều người hiểu lầm rằng, long nhãn nghĩa là cùi nhãn phơi khô. Soạn giả quyển từ điển này cũng hiểu lầm như thế. Thực ra, trong tiếng Hán, long nhãn 龍眼, mà âm phổ thông Trung Quốc là longyan (long 龍 là rồng, nhãn 眼 là mắt) là quả nhãn hoặc cây nhãn. Từ này đã được du nhập vào tiếng Anh để có từ “longan” nghĩa là cây nhãn hoặc quả nhãn. Tương tự như vậy, người Pháp gọi quả nhãn là longane và cây nhãn là longanier, cũng bắt nguồn từ “long nhãn” trong tiếng Hán. Các sách Ðại Nam quốc âm tự vị (của Huỳnh Tịnh Của) và Hán Việt từ điển (của Ðào Duy Anh) đều nêu đúng nghĩa của từ long nhãn. Có lẽ vì trong thuốc bắc có vị “long nhãn” mà người ta thấy đó là cùi nhãn nên cứ tưởng “long nhãn” nghĩa là cùi nhãn mà quên rằng, “long nhãn” chính là quả nhãn (hoặc cây nhãn). Soạn giả chỉ tiếp thụ được cách hiểu trong dân gian chứ không đọc được chữ Hán nên thường hay phạm phải những cái sai kiểu này.
12. nhân chứng 人証
Có lẽ chẳng cần giải thích thì ai cũng biết rằng, nhân là người, chứng là bằng chứng, là chứng cứ. Nhưng hiện nay, rất nhiều người, trong đó có soạn giả, đã không phân biệt được hai từ nhân chứng và chứng nhân. Họ hiểu rằng, nhân chứng hay chứng nhân cũng đều có nghĩa là người làm chứng. Chứng nhân thì dĩ nhiên nghĩa làngười làm chứng rồi. Còn nhân chứng thì có nghĩa là bằng chứng do con người đưa ra. Cùng với nhân chứng, còn có vật chứng là chứng cứ thể hiện trên các vật thể. Thí dụ, bọn trộm cướp dùng búa đập cửa để vào một nhà hàng lấy của, cái cửa bị chúng đập vỡ bởi những nhát búa chính là vật chứng, nhiều người hàng xóm cho biết rằng, họ nghe tiếng búa nện vào cửa rất mạnh lúc ba giờ sáng, thì việc đó là nhân chứng, và chính các ông hàng xóm là những người làm chứng, họ là những chứng nhân.
13. nhũ danh 乳名
Nhũ là vú, là sữa, là cho bú; danh là tên. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của các từ tố. Ðiều khiến chúng tôi rất ngạc nhiên là, ông đã định nghĩa rằng, nhũ danh là tên của phụ nữ đặt khi mới đẻ. Ðịnh nghĩa này khiến người đọc phân vân, không rõ có phải là người phụ nữ khi đẻ con thì được đặt một cái tên khác, hay là khi người phụ nữ mới ra đời (lẽ ra phải nói, khi em bé gái mới ra đời) thì được cha mẹ đặt cho một cái tên, gọi là nhũ danh? Nhưng khi thấy ông nêu ra một ví dụ quá cụ thể: bà Nguyễn Ðức Nguyên, nhũ danh là Phan Thị Nga, thì chúng tôi hiểu rằng, bà này chỉ có một nhũ danh, mặc dầu bà có nhiều con, vậy thì nhũ danh phải là tên được đặt cho bà khi bà vừa mới ra đời. Và, phải chăng chỉ riêng phụ nữ mới có nhũ danh? Ðể trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã giở từ điển Từ nguyên ra xem và được biết rằng, nhũ danhlà tên đặt cho trẻ sơ sinh. Khi đứa trẻ đi học thì được thầy giáo đặt cho một tên khác, gọi là huấn danh hoặc học danh. Như vậy là, ai ai cũng đều có nhũ danh. Ðịnh nghĩa do soạn giả nêu ra vừa sai vừa dễ gây hiểu lầm, hoàn toàn không đạt yêu cầu.
14. quan ngại 關礙
Quan là cửa ải, là đóng cửa; ngại là ngăn trở. Các từ tố này đã được soạn giả hiểu đúng. Nhưng, soạn giả lại định nghĩa rằng, quan ngại là e ngại vì có khó khăn thì không đúng. Quan ngại nghĩa là trở ngại, là cản trở. Tất cả các từ điển chữ Hán của Trung Quốc hiện nay và các từ điển Hán Việt từ trước đến nay đều giải nghĩa như thế. Từ điển Hán Việt của Nguyễn Quốc Hùng do Nhà sách Khai trí phát hành ở Sài Gòn cuối tháng 4 năm 1975 cũng giải nghĩa như thế. Nhưng ở nước ta hiện nay, rất nhiều người đã hiểu sai và dùng sai từ này. Có quyển từ điển giải thích rằng, quan ngại tức là quan tâm và lo ngại. Nếu cho rằng, từ “quan ngại” đã được “Việt hoá” với nghĩa là “e ngại vì có khó khăn” hoặc “quan tâm và lo ngại” thì người biên soạn từ điển cũng vẫn phải giải thích đúng nghĩa vốn có của nó.
15. tê giác 犀角
Loài thú da dày mà nhiều người gọi nhầm là tê giác (trong đó có soạn giả) có tên là tê 犀 hoặc tê ngưu 犀牛.Tê giác 犀角 nghĩa là sừng tê (hoăc sừng tê ngưu). Nhiều người quen gọi con vật này là con tê giác, lại gọi sừng của nó là sừng tê giác thì không đúng, vì « giác » đã là sừng rồi. Hiện nay, hầu như mọi người ở nước ta đều quen dùng từ “tê giác” để chỉ con tê ngưu, còn cái sừng của con vật này thì gọi là “sừng tê giác”. Sự dùng từ sai như vậy rất cần sửa chữa. Người soạn từ điển phải giúp mọi người hiểu từ ngữ cho đúng chứ đâu phải chỉ biết chép lại cách hiểu sai của nhiều người.
16. tự điển 字典
Ðịnh nghĩa rằng, tự điển là sách từ điển xếp theo chữ như chữ Hán (như soạn giả đã làm) hẳn là quá mù mờ. Những người biết chữ Hán bao giờ cũng phân biệt rất rõtự điển và từ điển. Ðối với các hệ thống chữ viết không biểu âm (tức là gồm các con chữ không thể hiện được cách đọc, ví dụ như chữ Hán) thì việc nhận dạng các con chữ cùng với âm và nghĩa tương ứng của chúng là điều rất quan trọng, và tự điển được soạn ra để giải quyết việc đó. Tự điển là một loại sách công cụ, lấy “đơn tự” (tức là chữ đơn) làm đơn vị, được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cho phép nhận dạng chúng và cũng cho biết cách đọc, nghĩa và cách sử dụng của chúng.
II. Ðoán mò hoặc bịa ra nghĩa của các từ tố vì không biết “mặt chữ”
Ðối với phần lớn những từ Việt gốc Hán, mọi người Việt Nam đều có thể hiểu đúng và định nghĩa rất đúng nhờ quá trình học hỏi và sử dụng tiếng Việt hoặc nhờ các cuốn từ điển tiếng Việt có chất lượng tốt. Nhưng muốn giảng nghĩa các từ tố cho thật chính xác thì khó hơn nhiều và phải sử dụng những bộ từ điển chữ Hán có dung lượng lớn hơn rất nhiều so với cuốn từ điển về tiếng Việt gốc Hán mà ta muốn biên soạn. Chẳng thế mà khi khảo đính văn bản Truyện Kiều, các học giả đã phải mất hàng năm ròng và phải sử dụng một số sách vở có dung lượng lớn gấp hàng trăm lần so với Truyện Kiều.
Khi thấy soạn giả giảng đúng nghĩa của từ nhưng giảng sai nghĩa của các từ tố, chúng tôi nghĩ ngay đến những em học sinh dốt về môn toán nhưng giỏi “cóp” bài của bạn. Các cậu này nhiều khi ghi được đáp số đúng nhưng không thể che giấu được cái dốt của mình vì cách làm bài để dẫn tới đáp số ấy thì sai hoàn toàn.
Cứ dựa theo âm để đoán nghĩa chứ không căn cứ vào dạng chữ Hán của các từ tố thì ắt phải “phán” sai rất nhiều chỗ, nhiều khi đến mức ngây ngô, nực cười. Như đã nói ở phần trên, có rất nhiều chữ đồng âm nhưng dị nghĩa nên phải thông thạo "mặt chữ" thì mới có thể hiểu đúng và giảng đúng nghĩa. Không đọc được chữ Hán mà cứ dựa theo âm để đoán thì sai là chuyện đương nhiên. Dưới đây xin nêu năm chục trường hợp như thế.
1. anh hùng 英雄
Theo soạn giả thì chữ anh ở đây có nghĩa là hoa đẹp, là vẻ đẹp, là người tài năng xuất chúng, còn chữ hùng có nghĩa là loài thú khoẻ nhất, là dũng cảm. Như vậy là ông chỉ giảng đúng nghĩa cuả chữ anh, còn chữ hùng thì giảng sai hoàn toàn. Chúng ta biết rằng, có hai chữ "hùng" là 雄 và 熊. Chữ hùng thứ nhất có nghĩa gốc là con chim trống hay con vật giống đực, và các nghĩa mở rộng là: a) nhân vật kiệt xuất, như trong các từ hùng trưởng, xưng hùng xưng bá; b) quốc gia giàu mạnh, như trong cụm từ chiến quốc thất hùng, nghĩa là bảy nước giàu mạnh nhất thời Chiến quốc; c) các nghĩa khác nữa như to lớn, mạnh mẽ, đều là những tính từ. Chữ hùng thứ hai 熊 nghĩa là con gấu như trong các từ Ðại Hùng Tinh nghĩa là Chòm sao Gấu Lớn và Tiểu Hùng tinh nghĩa là Chòm sao Gấu Bé). Chữ "hùng" thứ nhất, với nghĩa là nhân vật xuất chúng mới có mặt trong từ "anh hùng" 英雄. Soạn giả này đã giảng giải rằng, trong từ "anh hùng", chữ "hùng" nghĩa là loài thú khoẻ nhất, tức là con gấu. Thật là hài hước, nhưng có lẽ người đọc không khỏi xấu hổ thay cho soạn giả.
2. âm vị 因位
Ðó là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt ý nghĩa của từ. Ðịnh nghĩa như vậy có lẽ cũng chấp nhận được. Nhưng soạn giả giải thích rằng, "vị" nghĩa là nói, thì hoàn toàn sai! Trong các từ điển chữ Hán, từ "âm vị" (từ tương ứng trong tiếng Anh là phoneme) đựợc viết là 音位. Chữ "vị" ở đây nghĩa là chỗ đứng, là vị trí, là đơn vị, chứ không phải vị là "nói" 謂 như soạn giả đã dạy bảo.
3. ẩn dụ 隱喻
Ẩn dụ là phép mỹ từ dùng sự so sánh ngầm. Soạn giả viết như vậy quả là không sai, nhưng ông lại giải thích rằng: ẩn = giấu kín, lánh đi, ngầm; và, dụ = rõ ràng, thì đã bộc lộ ngay một điều không ổn, vì hai trạng thái giấu kín và rõ ràng được kết hợp với nhau cùng một lúc, thật mâu thuẫn. Hơn nữa, như vậy thì ẩn và dụ đều chỉ tính chất chứ không chỉ hành động, mà từ ẩn dụ thì lại chỉ hành động chứ không chỉ tính chất. Theo từ điển Từ hải, chữ dụ 喻 có ba nghĩa: a) hiểu dụ (nghĩa là cấp trên giảng giải cho cấp dưới hiểu rõ), b) thông hiểu (nghĩa là hiểu hết), và c) tỉ dụ, tức là ví dụ. Cả ba nghĩa này đều chỉ hành động. Ðem mấy nghĩa này ghép với từ tố ẩn thì ta có thể hiểu rằng, ẩn dụ là so sánh ngầm, hoặc là chỉ bảo ngầm, và cũng có thể là làm cho hiểu ngầm. Trong tiếng Hán, còn có từ minh dụ 明喻, nghĩa là so sánh rõ ràng, cụ thể, đó là từ phản nghĩa với từ ẩn dụ.
4. bàng bạc 磅礡
Soạn giả cho rằng, bàng = rộng lớn; bạc = đầy bốn mặt, và, bàng bạc = rộng lớn, tràn lan khắp nơi. Cứ theo lời diễn giải ấy, chúng tôi tìm trong các từ điển Hán - Việt thì thấy chữ "bàng" 龐 có nghĩa là rộng lớn. Tiếc thay, cả ở các từ điển lớn của Trung Quốc như Từ nguyên và Từ hải đều không thấy trường hợp nào có chữ bàng 龐 ấy đi kèm với một chữ bạc nào cả. Ngoài ra, chúng tôi cũng chưa tìm thấy chữ bạc nào có nghĩa là "đầy bốn mặt". Tuy vậy, cuối cùng cũng tìm được từ bàng bạc 磅礡 trong các từ điển của Trung Quốc. Nhưng các chữ bàng 磅 và bạc 礡 ở đây lại không hề có nghiã gốc như soạn giả đã giảng. Cụ thể, bàng 磅 là một từ tượng thanh (âm phổ thông Trung Quốc đọc gần giống như "pang" trong tiếng Việt), có nghĩa gốc là tiếng kêu khi đá rơi hoặc khi đập vào đá, và nghĩa mở rộng là đầy ứ. Chữ bạc 礡 thì có nghĩa là nện, là đập. Nghĩa của từ bàng bạc 磅礡 này là