Register
Results 1 to 9 of 9
  1. #1
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43

    Sóng gió Thái bình dương (sử liệu) Ung Thanh Hà biên soạn

    SÓNG GIÓ THÁI BÌNH DƯƠNG

    UNG THANH HÀ

    (Đây là một tập sử liệu viết về cuộc chiến kinh hoàng giữa Hoa kỳ và Nhật bản trong thế chiến thứ 2 ở Thái bình dương . Người viết chỉ sưu tầm và lược dịch lại từ những nguồn sử liệu khác nhau để tóm tắt lại thành một Sóng Gió Thái Bình Dương – Một quà tặng của tác giả dành cho các bạn nào thích loại truyện chiến tranh và muốn tìm hiểu thêm về cuộc chiến Thái bình dương trong chiến tranh chiến thứ Hai – Tôi cũng như các bạn , cũng muốn tìm hiểu xem diễn biến của cuộc chiến này ra sao và lý do nào đã dẫn đến một cuộc tương tranh khiến Thái bình dương ngập tràn sóng gió . Nhưng trong tủ sách của chúng ta hình như chẳng có nhiều sách nói về đề tài này , chỉ có hai quyển mà tôi may mắn tìm được là Yamamoto con rồng Thái bình dương của nhà văn Nguyễn Vạn Lý và quyển Sấm sét trênThái bình dương của Người Sông Kiên- Lê Thị Duyên (và cũng mạo muội khi chưa được phép tác giả mà đã vay mượn một ít tài liệu trong hai quyển này) . Tôi dù chưa quen cầm bút nhưng cũng ráng bỏ ra một thời gian dài hàng mấy năm ròng để tìm tòi trong đống tài liệu vô tận mà viết lại thành tập sử liệu dài tràng giang đại hải mang tên Sóng Gió Thái Bình Dương , kể lại đầy đủ chi tiết . Chúng sẽ đưa các bạn trở lại với những thập niên 30 của những xáo trộn chính trường Nhật bản , đến trận không tập Trân châu cảng rồi chiến tranh lan rộng ra Thái bình dương mênh mông . Từ Mã Lai , Tân gia ba , Phi luật tân , Nam dương rồi biển San hô , rồi Midway . Từ đó Hoa kỳ phản công ở những trận đánh khốc liệt như Guadalcanal , Saipan , Iwo Jima , Phi luật tân , Okinawa và cho đến hai trái bom nguyên tử nổ tung kết thúc một cuộc chiến tàn khốc . Một món quà nho nhỏ mà người viết a-ma-tơ chỉ viết để gửi tặng các bạn nào thích đọc lại dòng lịch sử thế giới , lịch sử chiến tranh Thái bình dương trong cuộc thế chiến thứ 2 .


    Mùa xuân 2011
    Người viết
    UNG THANH HÀ




    Vài nét về quốc gia Nhật Bản (trích từ một nguồn sử liệu Nhật)


    Nhật Bản thuộc vùng ôn đới , có bốn mùa rõ rệt . Gồm 4 đảo chính , theo thứ tự từ bắc xuống nam là : Bắc Hải Đạo (Hokkaido) , Bản Châu (Honshu) , Tứ Quốc (Shikoku) và Cửu Châu (Kyushu) cùng hàng ngàn đảo nhỏ . Nhật Bản còn có mỹ danh là xứ Hoa Anh Đào , vì người Nhật rất thích nên trồng cây hoa anh đào khắp cùng đất nước , hay còn gọi là xứ Mặt Trời Mọc (The land of rising sun) bởi vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông . Vào thế kỷ thứ tư , Nhật Bản lấy tên nước là Đại Hòa (Yamato) , vì vậy người Nhật còn được gọi hay tự nhận là Hòa Nhân . Thời xưa , Trung Hoa gọi là Nụy Quốc (nước của những người lùn) hay Phù Tang (xứ có nhiều cây phù tang , tức là một loại cây dâu) . Năm 670 , đầu niên hiệu Hàm Hưởng nhà Đường , Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình Trung Quốc nhân dịp vừa bình định Cao Ly và từ đó được đổi tên là Nhật Bản .
    Theo thần thoại Nhật Bản trong Cổ sử ký (kojiki) viết từ đầu thế kỷ thứ 8 , thuở ban sơ , vũ trụ chưa có hình thù . Có tới tám trăm vạn thần linh sống ở trên cánh đồng trời , từ đó nhìn xuống chỉ thấy bóng tối sương mù và nước . Hai vị thần linh trong tuổi thanh xuân là chàng Izanagi và nàng Izanami nhận nhiệm vụ làm cho mặt đất đi theo đời sống mà sinh sôi nẩy nở . Họ bước qua Thiên Phù Kiều là chiếc cầu nối liền trời và đất , quậy sóng cho kết đọng lại mà thành đảo Onogoro và xuống đó , đây là sáng tạo đầu tiên của họ . Họ bắt đầu dựng trụ trời và xây nhà trên quê hương mới .
    Rồi hai người quên mình là thần linh , sống như người phàm tục , kết hôn với nhau và sinh con đầy đàn rồi lan ra những đảo khác để thành một quốc gia Nhật Bản ngày nay. Sau đó Izanagi sinh ra Thái Dương Thần nữ , tức Thiên Chiếu Đại Thần , là vị nữ thần nhan sắc và ánh sáng (tượng trưng cho phụ nữ Nhật) .
    Sau đó Thái Dương Thần Nữ phái cháu trai của mình là Ninigi giáng thế , chinh phục vùng Izumo . Ninigi gặp và lấy người con gái xinh đẹp của thần Oyamatsumi sinh ra hai người con trai là Hoderi và Hoori . Hoori sau lấy công chúa thủy cung Toyotama sinh được một người con trai , người con trai này lấy em gái của Toyotama sinh ra bốn hoàng tử , họ chinh phục xứ Yamato (Đại Hòa) . Sau khi các anh chết , hoàng tử út lên ngôi xưng là Thiên Hoàng Jinmu (Thần Vũ) , đó là Thiên Hoàng đầu tiên gọi là Hoàng kỷ (kỷ nguyên Thiên Hoàng) , cai trị xứ Yamato tức Nhật Bản năm 660 trước công nguyên cho đến bây giờ (2010) , đã truyền được 125 đời vua .
    Tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng đời nhà Tần bên Trung Hoa , Tần Thủy Hoàng là một vị vua bạo ngược muốn gì được nấy nhưng con người ta làm sao thoát ra khỏi cảnh sinh lão bệnh tử . Đó là điều mà ông ta không muốn và tìm đủ mọi cách chỉ mong sao được mãi mãi trường sinh bất lão để trị vì trên ngôi báu . Ông ban lệnh cho một ngự y giỏi nhất thời bấy giờ và bắt buộc ông này phải cố tìm ra một phương thuốc giúp nhà vua bất tử . Vị lang y biết đó không thể nào không tuân lệnh vua nhưng chuyện chế thuốc trường sinh là một chuyện hết sức hoang đường . Để bảo tồn sinh mạng , ông tâu rằng phải cần 100 đứa trẻ đồng trinh vừa nam vừa nữ cùng một số lương thực và một chiếc thuyền lớn để ông tìm một nơi yên tỉnh lấy tinh khí trời đất và sinh khí của những đứa trẻ ấy mà bào chế linh dược . Điều cần nhất là phải yên tĩnh không có ai khấy phá thuốc chế mới linh , vua nghe có lý nên mừng rỡ chuẩn tấu ngay . Thế là vị ngự y kia cùng 100 đứa trẻ dong thuyền tuốt ra khơi tìm nơi ẩn trốn . Họ tìm ra những hoang đảo nằm ngoài khơi cách xa cố thổ và quyết định ở đó khai hoang lập ấp để sinh sống . Và nhóm người ấy là thủy tổ của người Nhật ngày hôm nay .
    Nhật Bản là một quốc gia hải đảo , có diện tích tổng cộng là 377,834 cây số vuông . Đất đai của Nhật là một dãy đảo trải theo hình vòng cung bên cạnh phía đông của lục địa châu Á , dài 3,800 cây số từ 20 vĩ độ tuyến bắc với các đảo cực nam là Okinawa là lớn và quan trọng nhất , tới 45 độ vĩ tuyến bắc với phần trên cùng của hải đảo Hokkaido . Địa thế này tương đương với miền đất từ Miami , Hoa Kỳ , kéo lên tới Montreal , Canada .
    Với hơn 3,900 đảo nhỏ và 4 đảo lớn . Trong số các đảo nhỏ có đảo Okinawa lớn và quan trọng nhất , nằm giữa đường kéo dài từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu tới đảo Đài loan . Hòn đảo Okinawa này tuy thuộc về Nhật Bản nhưng trước kia do ở khá xa phần đất chính nên đã phát triển được một thứ văn hóa riêng và một số điểm khác biệt với lối sống của 4 hòn đảo lớn .
    Nhật Bản ở khá gần Trung Hoa và Triều Tiên nên đã chịu nhiều ành hưởng văn hóa của hai quốc gia này . Cũng nhờ là một quốc gia hải đảo cách biệt với Trung Hoa nên Nhật Bản không bị xâm lăng vào những thế kỷ trước .
    Các thời kỳ lịch sử :
    1 – Thời đại Thằng Văn (Jomon) khoảng 8.000 năm trước kỷ nguyên gọi là Thằng Văn vì các đồ gốm có trang trí các tua hình dây thừng hay có in hoa văn hình dây thừng . Sinh hoạt bằng săn bắn và đánh cá
    2 – Thời đại Di Sinh (Yayoi) khoảng 600 , thế kỷ thứ 3 sau kỷ nguyên . Chịu ảnh hưởng văn hóa Triều Tiên và Trung Hoa . Đã bắt đầu trồng lúa và biết dùng kim thuộc .
    3 – Thời đại Đại Hòa (Yamato) khoảng 400 năm , hậu bán thế kỷ thứ 7 . Vương tộc và hào tộc xây cố phần (ngôi mộ lớn) . Cuối thời này xuất hiện thêm thời đại Phi Điểu (Asuka) .
    4 – Thời đại Na Lương (Nara) từ năm 710 kéo dài 74 năm . Chọn Nara làm kinh đô .
    5 – Thời đại Bình An (Heian) từ năm 794 kéo dài khoảng 400 năm , chọn Kinh Đô (Kyoto) làm kinh đô .
    6 – Thời đại Liêm Thương (Kamakura) từ năm 1192 kéo dài khoảng 140 năm . Bắt đầu thời đại Mạc Phủ (Mafuku) tức Sứ Quân (Shogun) và Vũ Sĩ (Samurai) .
    7 – Thời đại Thất Đinh (Muromachi) từ năm 1338 khoảng 240 năm . Giữa thời này loạn lạc khắp nơi , nên giai đoạn này gọi là thời đại Chiến Quốc (Sengoku) .
    8 – Thời đại An Thố Đào Sơn (Azuchi Momoyama) từ hậu bán thế kỷ 16 kéo dài khoảng 30 năm . Chức Điền Tín Trường (Orita Nobunaga) và Phong Cơ Tú Cát (Toyotomi Hideyoshi) thống nhất Nhật Bản
    9 – Thời đại Giang Hộ (Edo) từ năm 1603 kéo dài khoảng 260 năm . Đức Xuyên Gia Khang (Tokugawa Leyasu) lập Mạc Phủ (Mafuku) như phủ chúa Trịnh thời Trịnh-Nguyễn ở Việt Nam , lấn áp cả Thiên Hoàng ở Giang Hộ tức Tokyo ngày nay .
    10 – Thời đại Minh Trị (Meiji) 1868 – 1912 . Được coi là thời Cận Đại và Đại Chính (Taisho) 1912-1926 . Chiêu Hòa (Showa)1926-1989 . Bình Thành (Heisei) 1989 – ngày nay : được coi là thời hiện đại .
    Nhật Bản có nền văn hóa riêng của họ , đồng thời du nhập văn hóa Trung Hoa, đạo Phật và thiền của Tây Tạng (cũng qua ngả Trung Hoa) và sau này thêm tinh thần tự do, dân chủ của Âu Mỹ. Hoàng gia và quý tộc lại ảnh hưởng của Anh, cụ thể qua lối trang phục; theo chế độ Ðại Nghị , mỗi khi trình diện nội các mới, Thủ Tướng và các Bộ Trưởng đều mặc áo đuôi tôm, không tuyên thệ mà nhận ủy nhiệm thư của Thiên Hoàng. Họ lái xe bên trái giống Anh, nhưng điều này có lẽ vì người Nhật xưa đeo kiếm bên trái nên từ xưa vốn đã đi bên trái để khỏi đụng kiếm của nhau ? Họ theo Pháp về luật pháp (luật Napoleon).
    Về tôn giáo, thời Thánh Ðức Thái Tử (Shotoku Taishi, một Thiên Hoàng lỗi lạc), từ năm 593 đã cổ võ Phật Giáo và sau đó họ cũng có "Tam Giáo Ðồng Nguyên" là Thần Ðạo, Nho Giáo và Phật Giáo. Nay thì có nhiều tôn giáo lớn và hàng trăm giáo phái nhỏ. Họ trọng tư tưởng, mỹ thuật và sức mạnh .
    Nhật là dãy đảo cô đơn , có 186 núi lửa hiện đang hoạt động . Mỗi năm quốc gia này phải chịu 1,000 trận động đất lớn nhỏ , và các địa chấn này tập trung vào miền Quan Đông (Kanto) , nơi có thủ đô Tokyo . Người ta cho rằng cứ mỗi 60 năm , Tokyo lại gặp một trận động đất khủng khiếp .
    Các đảo Nhật Bản là một phần của dãi núi ngầm trải dài từ Đông nam Á tới Alaska , bờ biển của Nhật dài đến 37,000 cây số , có đá lớn và nhiều vịnh nhỏ rất đẹp . Các núi lớn chiếm 71 phần trăm tổng số diện tích tới hơn 532 ngọn núi cao hơn 2,000 mét và ngọn cao nhất là ngọn Phú Sĩ cao 3,776 mét .
    Do địa thế và lãnh thổ trải dài 25 độ vĩ tuyến nên khí hậu của Nhật Bản rất phức tạp .
    Vào cuối thế kỷ 20 thì dân số Nhật Bản đã có hơn 126 triệu người .
    Trong khi Hitler khai chiến ở Âu châu thì Nhật Bản hỗ trợ bằng cách khai chiến ở Á Châu năm 1939 . Cụ thể là bất ngờ mở trận không tập Trân Châu Cảng và thắng lớn trong trận này nhưng vô tình đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến . Nhật Bản đành phải đem lòng dũng cảm ra đối đầu với Hoa Kỳ là một quốc gia trội hơn về kỷ thuật lẫn tiềm năng nhân lực và tài nguyên . Khoàng 3.1 triệu binh sĩ và thường dân Nhật nằm xuống nhưng vẫn không ngăn được bước tiến của binh lính Hoa Kỳ . Sau khi quyết định tiết kiệm xương máu binh sĩ và chấm dứt cuộc chiến , Hoa Kỳ cho thả hai quả bom nguyên tử xuống Quảng đảo ngày 6 tháng 8 năm 1945 và Trường Kỳ ngày 9 tháng 8 năm 1945 . Nhật Hoàng Hirohito lần đầu tiên lên tiếng trên đài phát thanh kêu gọi đầu hàng vô điều kiện .
    Thời đó , Nhật Bản có khoảng 10 hàng không mẫu hạm (nay thì một chiếc cũng chẳng có) và khoảng 28,000 phi cơ , trong khi Hoa Kỳ có khoảng 15 hàng không mẫu hạm và 100,000 phi cơ . Vũ khí cá nhân của binh lính Nhật là súng trường 38 nặng gần 4 ký , nạp đạn bắn từng phát một , trong khi binh sĩ Hoa Kỳ dùng súng cabin M1 nặng 2,5 bắn không cần lên đạn , liên tục 1 băng 30 phát . Nhật phải đi mua dầu , trong khi dầu của Hoa Kỳ gần như vô tận . Vì quá chênh lệch về phương tiện như vậy nên lính Nhật đã phải hy sinh rất nhiều . Sau thế chiến , Nhật có khoàng 2,5 triệu binh sĩ tử vong .
    Thế chiến thứ Hai chấm dứt , hội nghị Yalta II của các lãnh tụ đồng minh gồm Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S . Truman , chủ tịch Liên Xô Stalin , Thủ tướng Anh Winson Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Quốc Gia Tưởng Giới Thạch quyết định số phận hai nước bại chiến là Đức và Nhật . Hội nghị quyết định chia Đức làm 2 : Đông và Tây Đức . Tây Đức do Hoa Kỳ , Anh và Pháp ; Đông Đức do Liên Xô chi phối và đặc biệt xử tử Nhật Hoàng cũng như một số tướng lãnh quân sự và các nhà chính trị theo tội trạng tội phạm chiến tranh .
    Thống tướng Douglas Mac Arthur là tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương đồng thời chỉ huy cuộc chiếm đóng Nhật Bản được lệnh thi hành quyết định của Hội nghị Yalta II . Khi nghe tin này , hàng trăm ngàn người Nhật đã tràn xuống đường phố giăng biểu ngữ phản đối , yêu cầu rút lại quyết định của phe đồng minh . Từng đoạn đường của Thống tướng Mac Arthur đi qua , một số cựu chiến binh Nhật quỳ xuống , hướng về phía mặt trời , biểu tượng của Nhật Hoàng và tổ quốc rồi mổ bụng tự sát để tỏ lòng trung thành của họ .
    Trước dũng khí ấy , Thống tướng Mac Arthur không dám thi hành quyết định của hội nghị . Ông không muốn Hoa Kỳ mang tiếng giết một vị Thiên Hoàng thiêng liêng của họ , vì để lại vết nhơ muôn đời trong lịch sử Nhật Bản . Thiên Hoàng Hirohito là tư lệnh tuyệt đối , tất nhiên ông đã từng ra lệnh và có trách nhiệm về cuộc chiến , nhưng cạnh đó , ông là biểu tượng của dân tộc Nhật , một dòng họ duy nhất truyền 124 đời , giết ông ta là tạo vết thương lớn trong lòng dân tộc Nhật . Ông khẩn cấp gọi điện trình bày cho tổng thống Truman . Truman liền liên lạc với các vị nguyên thủ kia , cuối cùng phe đồng minh đồng ý hủy bỏ lệnh xử tử Nhật Hoàng .
    Người Nhật dù thất trận nhưng đã tỏ được lòng dũng cảm và yêu nước của họ khiến thế giới phải nghiêng mình nể phục . Rồi với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ , chỉ vài thập niên sau họ đã nhanh chóng phục hồi và trở lại vai trò cường quốc , hiện nay đã vượt qua nhiều quốc gia từng chiến thắng họ .

  2. #2
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương Một :


    NGUỒN CỘI CHIẾN TRANH

    Chiều tàn đông cuối tháng 2 năm 1936 . Thủ đô Đông Kinh nằm im lìm dưới bầu không gian u ám . Mây xám màu chì dệt thành một dãi thê lương pha trong màng sương chiều buốt giá . Trong màu âm u khác thường ấy như báo trước một điềm chẳng lành sắp đổ xuống cho cả một dân tộc nơi đảo quốc xa xôi này .
    Tuyết trắng mênh mông phủ đầy cả một kinh đô hoa lệ . Nhưng theo dự báo của nha khí tượng thì thời tiết sẽ còn tệ hơn nữa trong những ngày sắp tới . Đã ba ngày đêm tuyết rơi không ngừng , đường phố bị vùi chôn hơn nửa mét . Một lượng tuyết đáng ngại ấy đã vượt xa con số kỷ lục hàng năm thập niên qua . Nó gây tắt nghẽn giao thông trong thành phố cũng như xa lộ . Hí viện , nhà trường , rạp ciné vô tình trở thành những nhà trọ tạm thời cho khách lỡ đường trú tạm qua đêm .
    Mặt dù bị vùi sâu trong biển tuyết trắng mênh mông nhưng Đông Kinh hoa lệ vẫn tỏa sáng nét tân kỳ không khác gì một thành phố Âu Tây ngay trong vòm trời Đông Á .
    Là một quốc gia trên đà tiến bộ , Nhật Bản đã không ngừng canh tân cải tiến , Tây phương hóa kỷ nghệ cũng như trong nề nếp sinh hoạt . Họ không ngần ngại khi loại bỏ những hủ lậu phong kiến , những thói quen nghìn đời đã ăn sâu vào lòng dân tộc để khai hóa và tiếp nhận những văn minh mới mẽ từ khắp năm châu . Và rõ ràng Nhật Bản đã vượt qua những nan giải ban đầu để vươn lên hàng cường quốc với những văn minh hiện đại nhất Á châu vào thời điểm này .
    Tọa lạc ngay bên cạnh Hoàng thành cổ kính với những mái ngói truyền thống rêu phong là một biệt thự bê-tông bốn tầng . Nơi ấy chính là Tổng Bộ Nội Vụ của Hoàng Cung , nơi quản lý mọi giao dịch trong cung điện và cũng là văn phòng làm việc của Nhật Hoàng Hirohito .
    Phía bên ngoài hoàng thành , sau những lũy hào sâu và bốn bức tường thành bằng cổ thạch kiên cố là một lô kiến trúc tân tạo được pha lẫn khéo léo hài hoà giữa kim và cổ , Đông và Tây . Từ hí viện Imperial , cao ốc Dai Ichi , thoáng trông khách du lịch có thể lầm lẫn rằng mình đang đứng giữa khu Skyline tận Chicago , Mỹ quốc .
    Trong khi chỉ vài căn phố cách đấy không xa lắm , trong một khu chật hẹp nằm bên những con đường gồ ghề sỏi đá , cả một dãy nhà dành cho kỹ nữ Geisha , gian hàng Sushi , Kimono . Vài căn nhà nhỏ xiêu vẹo bày bán tạp hóa . Những lồng đèn đủ màu sắc rực rỡ , những tấm sáo sặc sở lung linh trong gió chiều . Chính ở nơi đó người ta mới có thể tìm thấy được một chút gì xôn xao nhộn nhịp của buổi hoàng hôn trong lòng đô thị giữa những ngày đông mây mù tuyết phủ .
    Cách cung điện không xa , trên ngọn đồi không cao lắm , một dinh thự đồ sộ đang trong thời kỳ xây dựng . Đó là tòa biệt thự dành cho Quốc Hội . Nó được xây bằng đá quí chuyễn đến từ Okinawa và kiến trúc theo mô hinh kiểu Ai-cập . Phía sau tòa nhà quốc hội là những vi-la lộng lẫy , nơi dành riêng cho những gia đình của nhân viên đầu não trong chính phủ . Đồ sộ nhất là tư dinh của thủ tướng đương nhiệm . Ở đây người ta mới khám phá ra một lối thiết kế đặc biệt chỉ riêng cho thủ tướng Nhật . Đó là một ngôi vi-la song lập , nghĩa là một nửa dùng để giao dịch tiếp xúc với ngoại quốc nên được bày trí theo khuôn mẫu cùa Frank Lioyd Wright , phần còn lại dùng để ở nên thuần túy với giấy mỏng làm tường , nền ván và cửa kéo .
    Sự bình lặng trong lòng thủ đô xứ hoa anh đào hiện tại chỉ có thể kéo dài thêm một khoảng thời gian ngắn nữa thôi . Nó như lớp vỏ mỏng che đậy bên ngoài một cơn bão ngầm đang sôi sục . Và một khi nó vỡ tung ra thì phong ba sẽ tràn ra quấy động những đường phố đang ngủ yên trong lòng tuyết trắng .
    Cách khuôn viên hoàng thành không xa , một doanh trại dã chiến được thành lập vội vã . Đó là đại bản doanh của sư đoàn một Lục Quân Nhật , họ được đặt trong tình trạng báo động để sẳn sàng ứng chiến một khi bạo động bùng nổ . Vì theo lời tiết lộ của một vị đại tá trong Bộ Chiến Tranh (tiền thân của Bộ Quốc Phòng) thì có thể xảy ra một cuộc binh biến rất gần . Căn cứ theo tin tình báo thu thập thì có một nhóm cấp tiến đang âm mưu ám sát những cố vấn tối cao của Thiên Hoàng ngay trong ngày hôm ấy . Mạng lưới an ninh được tung ra bố trí chung quanh những khu công cộng quan trọng và tư dinh của các yếu nhân trong chính phủ . Những kẻ được cho là “đáng tình nghi” bị giám sát tối đa . Phủ thủ tướng cũng được gia cố các cửa ra vào cũng như lấp thêm hệ thống báo động điện tử nối liền với tổng nha cảnh sát đô thành . Hy vọng họ có thể đáp ứng kịp thời dù là tình huống xấu nhất .
    Nhưng ngành cảnh sát và quân cảnh thì ngược lại . Lệnh trên đưa xuống thì bắt buộc họ phải thi hành , nhưng thi hành một cách miễn cưỡng . Bởi vì theo họ nghĩ thì nhóm phiến loạn cấp tiến ấy nhân sự có là bao , họ sẽ làm được gì và động cơ nào thúc đẩy họ đi vào con đường bạo loạn ? Rồi bây giờ , một ngày êm ả sắp trôi qua . Chính những người mang trọng trách bảo vệ cũng đang nghi ngờ sự chính xác của nguồn tin tình báo ấy .
    Có một điều kỳ lạ là những nhân viên an ninh này dường như rất bằng lòng , hay thậm chí là thõa mãn khi biết rằng nội loạn sẽ tràn lan .
    Trở về một thời gian không xa xôi lắm , khi tinh thần chống đối chính phủ như ngọn triều dâng tràn vào trong mọi tầng lớp xã hội . Thậm chí trong những đơn vị ưu tú nhất của quốc gia cũng không ngoại lệ , họ vùng lên và không ngần ngại khi tấn công luôn cả vệ binh của Thiên Hoàng . Sự bất chấp ngông cuồng ấy dĩ nhiên đã làm thượng cấp nỗi giận , kết quả là toàn bộ đơn vị bị giáng cấp và thuyên chuyển ra chốn đầu sóng ngọn gió Mãn Châu Lục chỉ trong ba ngày sau khi nổi loạn . Nhóm binh sĩ bị kỷ luật này càng lộng hành hơn khi họ công khai xúc phạm thượng cấp . Chẳng cần giấu giếm , không nệ quân kỷ , nhảy múa ngay khi thao diễn và tiểu tiện đầy cà bàn doanh của tổng nha cảnh sát đô thành . Một nghìn bốn trăm người vừa là sĩ quan vừa là binh lính điên cuồng này quyết làm một cuộc nỗi dậy cho thỏa lòng . Vừa tờ mờ sáng , sáu địa điểm trong lòng thủ đô đồng loạt bị tấn công . Sáu mục tiêu này là những tư gia của nhân viên đầu não trong chính phủ cũng như sĩ quan cao cấp ngành cảnh sát .
    Đó là những việc đã xảy ra trong thời gian qua . Bây giờ xin trở lại tình hình Đông Kinh lúc bấy giờ . Trong khi giới lãnh đạo đang điên đầu với những âm mưu tạo loạn thì hình như trong sinh hoạt hàng ngày tại thủ đô vẫn không có gì thay đổi , người lắm tiền nhiều của vẫn ung dung đi tìm hưởng thụ . Giới trẻ bình yên với những thú vui trong lòng đô thị . Hàng quán , phòng trà , bar rượu , khu giải trí đầy ấp những khách mua vui . Tuổi trẻ tại Đông Kinh , đại đa số đã tiêm nhiễm lối sống cuồng vội cởi mở du nhập vào từ phương Tây hàng trăm năm trước . Đất thần tiên với đèn neon mờ ảo , rạp cine phim Mỹ và Âu Tây , vũ trường , tiệm thời trang là những nơi thu hút giới trẻ về đêm . Không xa lắm chốn ồn ào náo nhiệt ấy là khu Akasaka , nơi mà áo kimono rất phổ biến cho nam lẫn nữ . Không hẳn là giới trẻ háo động tìm vui , người có tuổi cũng hòa mình theo nhịp sống văn minh tiến bộ , nhưng dù sao cũng chừng mực hơn . Với họ , chỉ cần tìm những nơi yên tỉnh thích nghi với tuổi tác để tìm thú vị trong hương trà men rượu . Hình bóng một kỷ nữ Geisha trang điểm theo lối ca kỷ , kín đáo trong trang phục sặc sở cổ truyền , ngồi trên xa kéo rong nhẹ trên con đường gió lộng hiu hiu đong đưa cành liễu , đấy mới là một bức tranh sống động , một hình ảnh tuyệt vời trong lòng khách mộ điệu .
    Để hiểu rõ hơn về nội tình và sự căng thẳng chính trị tại Đông Kinh lúc bấy giờ , ta nên biết rằng nhóm người chuẩn bị nổi loạn lần này chắc chắn không đơn giản như những quân nhân bất tuân kỷ luật trước đó , họ nổi dậy vì do sự bất mãn thượng cấp , động cơ thúc đẩy họ làm loạn không ngoài những ích kỷ cá nhân . Với nhóm người lần này , mục tiêu của họ là đòi lại công bằng cho xã hội . Để đạt mục đích , họ không ngại đi theo chủ trương bạo lực bằng cách tổ chức ám sát một vài nhân vật đầu não trong chính phủ . Theo truyền thống Nhật Bản thì hành động đó là một trọng tội được hợp thức hóa bởi pháp luật , và người Nhật mệnh danh cho hành động ấy là “gekokujo” (bất tuân pháp lệnh) . Từ ngữ này được khai sinh từ thế kỷ 15 , thuở nước Nhật bị loạn “sotgun” chia năm xẻ bảy từng địa phận với từng lãnh chúa , họ coi quân lệnh của tướng quân như trò đùa , ngược lại những vị tướng quân thì khinh mạng chiếu chỉ của triều đình .
    Sau chiến tranh thế giới lần thứ 1 , chế độ quân chủ ở châu Âu lần lượt sụp đổ . Các ngọn triều dân chủ , xã hội và cộng sản đã ảnh hưởng mạnh đến giới trẻ Nhật . Thế là họ cùng nhau hô hào đòi thay đổi . Đảng phái chính trị nhen nhúm thành hình . Năm 1924 , đạo luật bầu cử ra đời để mọi lứa tuổi trưởng thành có thể thực thi quyền công dân . Nhưng rồi mọi việc lại xảy ra quá nhanh . Phần đông giới lãnh đạo coi chính trị như một trò giải trí hoặc tệ hơn nữa là một phương tiện làm giàu nhanh nhất . Chỉ một khoảng thời gian ngắn , hàng tá vụ bê bối bị mang ra ánh sáng . Điển hình là vụ “đường hỏa xa” , vụ án “Cao-ly” , “matsushima” …. Những tội danh đút lót và nhận hối lộ bị mang ra bàn cãi như một đám du thủ du thực ngay trong lòng tòa nhà quốc hội .
    Sự gia tăng dân số đáng kể cũng gây rắc rối cho chính quyền không ít . Kinh tế quốc gia không thể nào cưu mang nổi với tỷ lệ non một triệu gia tăng cho mỗi năm . Hiệp hội bảo vệ giá cả sản xuất ra đời để lại hậu quả là nông dân nghèo càng nghèo thêm và nạn đói đang đe dọa đó đây . Đó là một thảm trạng tệ hại nhất trong lịch sử nước Nhật . Hàng trăm nghìn công nhân thợ thuyền tại các nhà máy trong thành phố bị sa thải . Công ăn việc làm híếm hoi , thất nghiệp lan tràn . Xã hội lâm vào tình trạng xáo trộn mất trật tự . Nội bộ đảng và nghiệp đoàn sinh ra mâu thuẫn , một làn sóng cánh tả hình từ đó .
    Để hiểu rõ thêm về hiện tình đất nước Nhật bản , người viết xin đưa các bạn đi ngược trở về những năm dài trước đó , trước khi chiến tranh xảy ra để chúng ta hiểu thêm chút ít mầm móng , nguyên nhân của cuộc chiến ác liệt khiến cho hàng triệu sinh linh bị chôn vùi trong khói lửa chiến tranh và bao nhiêu triệu người còn sống sót phải chịu cảnh con lìa cha , vợ thiếu chồng mẹ cha già khóc thương con trẻ .
    Ngay trong thời bất ổn loạn lạc của xã hội , chính trường lại xuất hiện một nhân vật sáng giá , Ikki Kita một lãnh tụ cách mạng xuất thân từ một học giả dân tộc cực đoan . Ông đứng lên hô hào quần chúng chung lòng chống lại áp bức . Với nội dung cải tổ “Kế hoạch tái xây dựng tổng thể Nhật Bản” của ông đã bị những nhân vật cấp tiến cũng như lớp cận thần tôn sùng Thiên Hoàng phản bác dữ dội , nhưng nó lại lôi cuốn tầng lớp nghèo nàn bị áp bức của tham quyền nên mong mỏi có một cuộc đổi thay . Trong truyền đơn của Kita có câu “Dân tộc Nhật đang ngã theo một chiều hướng băng hoại của phương Tây …..Thương gia , viên chức , quân nhân đang đấu tranh chống lại những bất công phi lý của sức mạnh triều đình….”
    Bảy trăm triệu người ở lục địa Trung Hoa và Ấn Độ , nếu không có sự bảo vệ và hướng dẫn của chúng ta thì họ không bao giờ giành được nền độc lập ! Lịch sử Đông và Tây đã chứng minh hùng hồn rằng sau một kỷ nguyên nội chiến tất nhiên đất nước sẽ đi đến thống nhất hoàn toàn . Muốn tiến đến một thế giới hòa bình , chỉ có một con đường duy nhất là phát động chiến tranh ngay từ bây giờ . Chiến tranh chấm dứt , đương nhiên một nền hòa bình thật sự sẽ đến với thế giới của chúng ta . Vì vậy chiến tranh mới là hạnh phúc cho nhân loại . Tiên hạ thủ vi cường , chúng ta nên ra tay sớm hơn . Trước là tấn công chiếm lấy những quốc gia hùng mạnh nhất , những nước nhược tiểu còn lại sẽ bị chi phối hoàn toàn !” .
    Ông kêu gọi “Phá bỏ những chướng ngại giữa quốc dân và Thiên Hoàng” . Có nghĩa là giải tán Quốc Hội và Nội các chính phủ . Biểu quyết của ông là nên hạn chế chủ quyền của người cầm đầu trong gia đình và không một ai được phép tích lũy hơn một triệu Yen (500.000 Yen vào thời điểm này) . Quốc hữu hóa những khu kỷ nghệ quan trọng , củng cố chế độ độc tài . Phụ nữ cũng bị hạn chế công việc , tại tư gia “Cắm hoa , pha trà là nuôi dưỡng nghệ thuật của tiền nhân” !
    Cũng không ngạc nhiên lắm khi lời kêu gọi của Kita đã lôi cuốn được hàng triệu người . Giới trẻ duy tân , họ đã ghê tởm sự thối nát và nạn bè phái trong guồng máy chính quyền cùng sự bốc lột tận xương tủy của các cơ xưởng hoặc chốn thương trường . Với họ , sự nghèo đói đã nô dịch hóa cuộc đời của mình , viễn ảnh tương lai là những gì cao xa đã ngoài tầm tay của phận dân đen khốn khổ . Lời kêu gọi của Kita đến với họ thật đúng lúc , như một kẻ sắp chết gặp được một liều thuốc hồi sinh . Vâng , họ có thể vùng lên chống lại bạo quyền như bên châu Âu , như những người cộng sản đã thành công . Quyết phá nát mưu đồ chi phối trời Đông trong tay người Tây phương mà giành lại tự do cho bản xứ để cùng nhau chung sức nâng quốc gia Nhật Bản lên địa vị hùng cường với mưu đồ chế ngự cả năm châu !
    Ở phương Tây , trong hạn tuổi thanh niên nếu có chân trong các đoàn thể hoặc đảng phái đều không phải thi hành quân dịch . Nhưng ở Nhật , hầu hết thanh niên đều phải tham gia quân đội trong một hạn tuổi quy định . Một khi bước vào con đường binh nghiệp , đời sống quân ngũ và tình chiến hữu thắm thiết giúp cho các chàng trai hiểu rõ hơn về những cảnh đời cùng túng của các bạn đồng trang . Những lá thư kể lể thở than từ những gia đình khốn khổ , vì sự bắt buột tòng quân của những con em trong gia đình nên cả nhà lâm vào tình trạng ruộng hoang vườn trống , thiếu trước hụt sau bên bờ đói khổ . Những chàng lính trẻ này đâm ra chán nản , bất mãn chính quyền . Họ âm thầm tham gia những tổ chức bí mật . Những hoạt động ngầm chống chính phủ thời bấy giờ mọc lên như nấm , mỗi địa bàn có một thũ lĩnh và tên gọi riêng tùy theo chí hướng đấu tranh mà hoạt động nhưng đại đa số đều còn yếu ớt chờ thời cơ . Có những ban hội tổ chức hoạt động mạnh như : Tenkento với chủ trương bạo lực nên họ chuyên môn về khủng bố ám sát , Sakurakai (cherry) thì ôn hòa hơn với đường hướng đấu tranh đòi hỏi sự mở rộng lãnh thổ cũng như cải tổ guồng máy chính quyền .
    Đến năm 1926 thì sự khích động toàn quốc dâng lên tột đỉnh vì Nhật Bản đang đương đầu với thiên tai (nạn động đất kinh khủng năm 1926) và cơn khủng hoảng kinh tế trầm trọng . Những tổ chức chính trị bùng lên tranh đấu hăng say khiến người dân đen cùng khổ đã nghèo càng thêm thối chí . Có hai nhân vật đặc biệt điển hình đã mang cả guồng máy quân sự vào chính trường , đó là trung tá Kanji Ishihara và đại tá Seishiro Itagaki . Trung tá Kanji , một mẫu người khôn ngoan , nói năng hoạt bát dễ lôi cuốn đám đông và cũng là một sĩ quan năng nỗ đầy mưu mô . Còn vị đại tá Itagaki thì thâm trầm điềm tĩnh , đầy phong độ của một người chỉ huy . Hai nhân vật nầy hợp lại quả là một cặp lợi hại . Họ cùng là sĩ quan chỉ huy thuộc đơn vị Quang Đông . Quang Đông nguyên là một biệt đội độc lập với nhiệm vụ bảo vệ vùng đất Mãn châu từ năm 1905 , một lãnh thổ mênh mông rộng gấp ba tiểu bang Hoa Kỳ cộng lại (Cali , Ore , Wash) , vùng đất thuộc Trung Hoa mà Nhật Bản đã chiếm giữ từ những thập niên trước .
    Hai sĩ quan cao cấp này có cùng một ý nghĩ là chỉ có một cách duy nhất để giải quyết tình trạng đói nghèo khó khăn mà Nhật Bản đang gánh lấy là bằng mọi giá , phải chiếm lấy về mình vùng đất quan ngoại mênh mông này . Biến hoang vu thành những vùng trù phú để giảm bớt tệ nạn thất nghiệp đang tràn lan ở quê nhà và nhất là nạn nhân mãn đang làm điên đầu chính giới . Hơn nữa , chính ở một vùng lục địa bao la với tài nguyên vô tận này sẽ bù đấp vào sự cạn kiệt ở bổn xứ , nó sẽ giúp nền kỷ nghệ Nhật Bản sống lại và phát triển mạnh hơn . Nhưng Ishihara và Itagaki lập luận rằng khi làm chủ lục địa Mãn châu sẽ mang lại cho quốc gia nhiều lợi ích về chính trị , nó không hẳn với những lý do đơn thuần như trên .
    Mãn châu , một vùng đất rộng bao la nằm trãi dài trên phương Bắc Trung Hoa , nơi mà sóng gió không ngừng trong mấy thập niên qua . Đầu tiên khi quyền hạn còn trong tay Thanh triều nó bao trùm tận bán đảo Cao Ly . Khi thế lực triều đình suy yếu , Nga xua quân tấn công và chiếm cứ một phần đất giáp giới Tây bá lợi á từ eo biển Bering tới Vladivostok . Nhật Bản đứng ngoài vòng tranh chấp đến năm 1853 . Bấy giờ triều đình Nhật được gọi là Mạc Phủ .
    Cùng năm này , một sự thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản . Một xã hội với truyền thống lâu đời mà nếp sống người dân vẫn thầm lặng gắng bó với những tập tục còn tồn đọng lại từ thời trung cỗ . Tháng 7 năm 1893 , bốn chiến thuyền của Đô đốc Hoa kỳ Mathew Perry oHoHoaH cập bến vịnh Edo . Với đại bác và vũ khí tối tân trên 4 chiến thuyền ấy đã làm cho Mạc phủ rơi vào vòng hỗn loạn . Chủ tịch hội đồng cao cấp Abe Masahiro đứng ra thương thuyết với người Mỹ . Vì chưa hề có kinh nghiệm ứng phó với mối đe dọa an ninh quốc gia, Abe cố cân bằng giữa mong muốn của hội đồng tối cao là thương thảo với người nước ngoài , cuối cùng Abe quyết định thương thuyết bằng cách chấp nhận yêu cầu mở cửa Nhật Bản cho ngoại thương của Perry trong khi vẫn chuẩn bị động binh. Tháng 3 năm 1854, Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị mở cửa hai bến cảng cho tàu Mỹ mua hàng tiếp tế, bảo đảm đối xử tốt với các thủy thủ Mỹ bị đắm tàu, và cho phép lãnh sự Mỹ mở cửa ở Shimoda, một hải cảng ở bán đảo Izu, Tây Nam Edo. Mạc phủ bị ép phải ký một hiệp ước thương mại, mở cửa thêm nhiều vùng đất nữa cho thương nhân Hoa Kỳ 5 năm sau đó. Đổi lại , Perry mang lại cho Nhật Bản một luồng gió văn minh từ phương Tây . Người Nhật chấp nhận nó với tất cả nhiệt tình .
    Thời đó , nổi bật nhất là bác sĩ kiêm học giả Fukuzawa (Phúc Trạch Dụ Các 1834 – 1941) , nhà tư tưởng canh tân lừng danh , người đã mở đại học tư Keio Gijuku đầu tiên ở Nhật . Hai tác phẩm tiêu biểu của ông là Văn Minh Luận Khải Lược và Khuyến Học . Hình của ông được in trên tiền giấy mệnh giá cao nhất 10.000 Yen .
    Ông chủ trương mỗi người dân phải có tinh thần độc lập thì quốc gia mới độc lập được , nếu người dân ỷ lại vào lãnh đạo , chỉ thành phần lãnh đạo lo việc nước thôi không đủ . Ông định nghĩa tinh thần độc lập ấy như sau :
    * Biết tự mình lo toan cho chính mình mà không nhờ người khác .
    * Biết phân biệt sự vật phải trái một cách đứng đắn mà không ỷ lại vào trí khôn của người khác .
    * Biết tự mình dùng tâm lực để tự lực cánh sinh mà không cậy vào sức người khác .
    Nếu mỗi người không có tinh thần độc lập và chỉ trông cậy vào kẻ khác , vậy thì lấy ai là người đứng ra gánh vác trách nhiệm trong nước đó . “Phương pháp giữ gìn độc lập không thể tìm đâu ra ngoài văn minh” . Theo ông , cách giữ nước hay nhất là :
    - Làm cho đất nước tràn đầy không khí tự do , không phân biệt sang hèn , trên dưới . Mỗi người cùng gánh vác trách nhiệm quốc gia . Người tài kẻ ngu , người sáng kẻ mù , nhất nhất phải ráng sức gánh vác bổn phận của người dân nước đó .
    Đông và Tây có những giá trị đạo đức và quan niệm kinh tế khác nhau , đều có ưu và khuyết điểm riêng . Tuy nhiên , nếu đánh giá hai nền văn minh Đông – Tây trên tiêu chuẩn “phú quốc cường binh và hạnh phúc của tuyệt đại đa số” , ông cho rằng các nước phương Đông đi sau Tây phương một bước . Sở dĩ đi sau là vì :
    Nền giáo dục Nho giáo ở Đông phương , về hữu hình không để ý đến việc bồi dưỡng lối suy nghĩ khoa học và về vô hình thì không chú trọng đến tinh thần độc lập cho mỗi cá nhân” .
    Ông coi sự suy yếu của Trung Hoa thời đó là một người thầy phản diện , tức lấy đó làm gương mà tránh . Trong việc đấu tranh để giữ gìn độc lập , ông coi việc ngoại giao là quan trọng nhất . Kẻ thù nguy hiểm nhất của Nhật khi đối đầu với Tây phương “không phải là quân sự , mà là thương mại , không phải là vũ lực , mà là trí lực” . Nên ông chủ trương học để theo kịp Tây phương . Theo ông , giáo dục đứng đắn sẽ nâng cao dân trí , tiến tới văn minh để giữ gìn độc lập .
    Đưa đất nước tiến lên đài văn minh là một biện pháp , một chiến lược vừa giáo dục , vừa kinh tế , vừa quốc phòng” .
    Muốn vậy phải khách quan đánh giá điểm mạnh và yếu của mình , mở rộng tầm mắt học hỏi , thu hóa cái hay của người . Về Nhật Bản , ông chủ trương nên thoát khỏi châu Á , theo châu Âu , được coi là điểm tựa cho sự thúc đẩy nước Nhật đi lên theo đà tiến bộ . Nhà tư tưởng Nhật , theo chủ thuyết Darwin Xã Hội , sinh tồn tự nhiên giữa các quốc gia , tức cá lớn nuốt cá bé đều là tự nhiên , chứ không câu nệ đồng văn , đồng chủng , đồng châu . Cho rằng Nhật Bản có đủ tầm vóc để theo châu Âu , bành trướng ủng hộ quốc quyền , ủng hộ chiến tranh Nhật – Mãn Thanh . Ông rất được người Nhật kính trọng vì có công lao về mặt giáo dục . Ông cũng mạnh dạn đưa ra kế hoạch cải tiến Nhật Bản bằng cách thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị , bỏ những tư tưởng Á châu hủ lậu , dồn sức mạnh canh tân kỷ nghệ để theo kịp Tây phương , và đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng Nhật đối với các nước láng giềng . Ông thúc đẩy Nhật Bản vào đường lối chính trị thực tiễn , xa rời những tư tưởng có tính chất tình cảm hay lý tưởng không thực . Ông kêu gọi quần chúng hãy học hỏi theo Tây phương , bởi ông biện minh rằng xã hội muốn theo kịp văn minh phải thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh . “Văn minh giống như bệnh sởi nhưng hay hơn bởi vì nó mang lại nguồn lợi” . Ông đòi hỏi dân chúng Nhật nên ráng “nếm mùi văn minh” – đó là văn minh Tây phương – và chấp nhận thay đổi . Ông phát huy tin thần tự tin , tự tạo sức mạnh thể chất và giáo dục của từng cá nhân . Sự canh tân của Nhật Bản đi đến thành công như hôm nay , không thể chối cải được một phần lớn công trạng ấy là do sự thúc đẩy hăng say của Phúc Trạch Dụ Các .
    Vốn là một dân tộc thông minh và cần mẫn , người Nhật tỏ ra hăng hái bắt chước những kỷ thuật tối tân trong công nghệ sản xuất của phương Tây . Cộng thêm những sáng kiến cùng điều kiện sẳn có , chẳng bao lâu sau Nhật bản đã vươn lên thành một quốc gia tiến bộ vượt bực . Họ thành lập một quân đội hùng mạnh với vũ khí tối tân cùng những tàu chiến đầu tiên trang bị đại bác tầm xa và những kỷ năng hiện đại nhất để bắt đầu công cuộc mở mang bờ cõi bằng cách xâm lăng các quốc gia láng giềng .
    Thoạt tiên họ dùng thủ đoạn trong đường lối ngoại giao rồi sau đó viện đủ lý do để cất quân chinh phạt . Chỉ trong vòng vài thập niên Nhật đã làm chủ bán đảo Cao Ly , năm 1894 nhà Thanh cử binh tiếp viện nhưng cũng thất bại ê chề . Được thế , Nhật nới rộng lãnh thổ ở Đài Loan cùng với bán đảo Liêu Đông , với hai hải cảng quan trọng là Lữ thuận và Đại Liên .
    Chiến thắng vang dội của quân Nhật là hồi chuông báo động cho những cường quốc Âu châu đang chia năm xẻ bảy trên thềm lục địa Trung Hoa . Nhận ra rằng còn một kẻ bạo gan dám mó tay vào “quả dưa Trung quốc” của họ nên tức thời Nga , Đức và Pháp đồng cất quân đến gây áp lực cho quân đội Nhật phải triệt thoái ngay trên phần đất mà họ vừa chiếm được bằng vũ lực . Trước thế tiến như vũ bão của ba cường quốc , Nhật yếu thế nên tạm thời rút lui . Nga nhảy vào làm chủ vùng Liêu Đông nhưng cũng không giữ nổi mười năm . Cuối cùng lại rơi vào tay Nhật năm 1904 . Và lần này sự bành trướng lãnh thổ của Nhật càng vươn ra xa hơn . Họ chiếm giữ luôn những đoạn đường sắt do Nga sô xây dựng ở miền nam Mãn châu . Nên nhớ rằng trong thời điểm này Nhật có thể xua quân chiếm trọn cả một Trung Hoa mênh mông , nhưng vì phải tôn trọng luật của hệ đế quốc nên đành phải ngậm ngùi làm chủ những phần đất mà hội đồng đế quốc quốc tế chỉ định .
    Theo nguồn sử liệu thì Nhật đã đổ ra hàng tỷ đô la để đút lót cho bọn tham quan vô lại Thanh triều để được làm chủ những vùng đất trù phú đông dân cư , cũng như được đặt quyền sử dụng những luật lệ riêng biệt trên toàn tuyến đường sắt , nơi mà hàng trăm ngàn người Nhật , Hoa và Cao ly vừa là thương nhân vừa là công nhân đang làm ăn sinh sống .
    Với một dãy đất bao la vô tận mà tài nguyên thì dồi dào trong khi nhân lực lại thiếu thốn , Ishihara và Itagaki luôn mơ ước được một ngày nào đó Mãn châu nằm ngoài tầm ảnh hưởng của quân tướng Thanh triều thì hay biết mấy . Ông ta vẽ ra một viễn ảnh tươi đẹp của một vùng tự trị với số đông đa chủng tộc : Nhật , Hoa , Mãn , Cao ly và Nga la tư . Nơi đây đúng là một vùng đa văn hóa và là một tiền đồn bao la để chống trả lại đế quốc Nga sô .
    Với những lợi ích thăng hoa cho Đông kinh tất cả đều kỳ vọng vào đội quân Quang đông của hai ông . Nhưng Nhật Hoàng và cục chiến tranh lại không chịu phê chuẩn ý kiến của hai ông , bởi họ coi đó là một đường lối xâm lăng quá trắng trợn . Ishihara và Itagaki bất chấp , họ cùng thuộc cấp quyết định thi hành kế hoạch đã đề ra , nghĩa là bất cứ giá nào cũng phải chiếm lấy Mãn châu cho bằng được . Trước tiên là tên cáo già sứ quân Trương quốc Lâm . Trương quốc Lâm còn có nguồn sử liệu lại ghi là Trương tác Lâm .
    Cũng nên nhắc lại bấy giờ Trung Hoa dân quốc vừa mới thành lập sau cuộc cách mạng Tân hợi lật đổ triều đình Mãn Thanh (1912) , nước cộng hòa non trẻ suy yếu bởi sự xung đột của các sứ quân . Một vài sứ quân vì tư quyền còn cam tâm cấu kết với ngoại nhân nhằm nỗ lực quét sạch các đối thủ khác . Trương quốc Lâm là một điển hình ở Mãn châu . Ông ta hợp tác rộng rãi với Nhật để nhận viện trợ quân sự và kinh tế nhưng đến khi Nhật quyết định trở mặt thì ông là người đầu tiên bị thanh toán . Ngày 4 tháng 6 năm 1928 , một đội quân thuộc trung đoàn cơ khí nhận lệnh đánh mìn trên tuyến xe lửa đặc biệt của Trương sứ quân . Kết quả là người nắm quyền sinh sát Mãn châu đã vĩnh viễn ra đi để lại cho đời đầy tiếng thị phi nguyền rũa . Kể từ đó không biết bao nhiêu điện văn cảnh cáo từ Đông Kinh gửi đến , nhưng hai vị thủ lĩnh cứ thản nhiên coi Quang đông như là một đội quân độc lập của riêng mình . Họ tuyển mộ thêm binh sĩ và luyện tập không ngừng . Đến năm 1931 , đội quân này đã đủ mạnh và sẳn sàng ra tay thôn tính Mãn châu . Tin đồn thổi về thủ đô , bộ trưởng ngoại giao hoảng vía vội thúc giục bộ chiến tranh phải tức tốc cử một sĩ quan cao cấp gửi ngay sang Mãn châu để vãn hồi tình trạng ngang ngạnh của đội quân ngoại biên điên cuồng . Người được đề cử là một viên đại tướng đầy kinh nghiệm ngoại giao . Ông vừa nhận lệnh là lên đường sang Mãn châu ngay . Nhưng sau mấy ngày đường vượt trùng dương rồi ngồi xe lửa mệt nhoài , một buổi tiệc chào mừng nho nhỏ cho sự gặp gở , có thịt ngon rượu thơm , có những nàng Geisha má đỏ môi hồng , viên đại tướng lo vui say ngây ngất . Đến rựng sáng , khi quân Nhật đồng loạt nã đạn tấn công vào những doanh trại của quân Trung hoa thì ngài đại tướng mới chếnh choáng giật mình . Khi định thần nhớ lại nhiệm vụ của mình thì lúc ấy Nhật đã làm chủ hoàn toàn vùng đất Muken .
    Tin Nhật đã chiếm Muken khiến Đông kinh và cả thế giới bàng hoàng . Quốc hội Nhật triệu tập một cuộc họp khẩn cấp , họ đưa ra lời yêu cầu đại tướng tổng tham mưu quân lực phải gửi ngay quân lệnh bắt buộc Quang đông phải chấm dứt ngay chiến sự . Một lần nữa đội quân gần như độc lập này không thiết tha gì với quân lệnh . Họ vẫn ngang nhiên dùng vũ lực san bằng cho kỳ sạch quân Trung Hoa và chiếm trọn Mãn châu .
    Ngay buổi tối hôm đó ông bộ trưởng chiến tranh gửi đến quân đội Quang đông một điện tín với những lời khiển trách thật nhẹ nhàng :
    1. Bất kỳ những dự án mới nào cũng không có sự tham gia của quân đội Quang đông , chẳng hạn như trở thành một đội quân độc lập tách rời khỏi hệ thống đế quốc quân để nắm quyền điều khiền Mãn châu và Mông cổ .
    2. Hoàn cảnh chung đang phát triển theo chiều hướng thuận lợi theo những dự định của quân đội , vì vậy các bạn hãy vững lòng tin hoàn toàn vào nơi chúng tôi .
    Như chưa đầy đủ lắm , ông bộ phó bộ chiến tranh lại bổ sung thêm
    “Chúng tôi đã hợp nhất và nỗ lực trong tuyệt vọng để giải quyết những khó khăn hiện hữu … tin cậy lòng hăng hái , hành động với sự thận trọng ….. Ngăn cản những phiêu lưu nóng nảy , chẳng hạn như tự ý tách rời của quân đội Quang đông . Chờ mong sự quay trở lại , một chiều hướng thuận lợi cho quân đội chúng ta .”.
    Với những lời lẽ thật tế nhị của Đông kinh , giới chỉ huy Quang đông thay vì nghe theo những lời dỗ dành của thượng cấp , ngược lại họ càng thêm phẫn nộ , tuyên bố rằng quân đội của họ đang muốn có ý định hành động độc lập . Thừa nhận là cho dù “tiến tới để tự ý hành động một cách tuyệt đối” , nhưng đó cũng vì lợi ích của quốc gia dân tộc mà thôi !
    Không lâu sau đó , các thành viên của tổ chức “Dâu Tây” đã bí mật để hổ trợ những hành động phản loạn của đội quân Quang đông . Với những âm mưu táo bạo của riêng mình , mục đính chính của họ là cưỡng bức những nhân vật cấp tiến cải cách lại nội bộ , để song hành với những bước phiêu lưu mới ở Mãn châu , sẽ dẫn đến một quốc gia Nhật bản hoàn toàn mới mẻ .
    Song song với tổ chức “Dâu Tây” , một âm mưu khác cũng đang thành hình , nó có liên quan đến 120 sĩ quan và binh lính cộng thêm nhóm người ủng hộ nhà dân tộc cực đoan Kita . Những người phản loạn này có dự định ám sát vài yếu nhân trong cơ quan đầu não chính phủ và một số viên chức tòa án . Sau khi thành công họ sẽ tập họp trước cung điện cùng nhau mổ bụng tự sát để tỏ lòng xin lỗi với Thiên Hoàng . Theo dự tính thì như thế nhưng trong bọn họ có nhiều nhóm và nhiều ý kiến khác nhau . Ban đầu còn bàn bạc trong âm thầm bí mật nhưng dần dần đi đến ồn ào tranh luận vì có nhiều mâu thuẫn và bất hòa với nhau . Có một ai đó mang lòng bực tức sinh ra thù hận đem sự việc trình báo với chính quyền . Một số đông thành viên của nhóm phản loạn này đều sa lưới ngày 17 tháng 10 năm 1931 . Kẻ chủ mưu bị kết án 20 ngày tù , trợ lý bị án một nửa tức 10 ngày , còn những kẻ đồng lõa thì đơn thuần chỉ bị cảnh cáo và khiền trách sơ sơ .
    Đó là những chuyện xảy ra như cơm bửa ở Nhật bản . Sự ân xá cho những hành động bạo lực hay những dự mưu nào nếu có mục đích làm vinh quang cho tổ quốc .
    Cuộc cách mạng bạo loạn này được mệnh danh là “cờ gấm thêu kim tuyến” , tuy rằng chỉ bùng lên không bao lâu để rồi thất bại , nhưng nó đã mang lại những ảnh hưởng sâu sắc trong quần chúng . Dù sao thì cuộc cách mạng ấy cũng đạt được một trong những mục đích của nó , để vài năm sau đó , nó đã là một niềm phấn khích tác động mãnh liệt vào những người phiêu lưu đã thành công ở lục địa Mãn châu , đồng thời cũng thuyết phục được giới chính trị và thương nhân phải chấp nhận một hệ thống quân phiệt hóa cơ chế quốc gia .
    Cùng với những sự kiện kể trên , cuộc nỗi dậy cũng gây ra mâu thuẫn thù hằn giữa những người muốn cải cách , họ không đồng nhất trên nhiều quan điểm nên đành phải chia ra thành hai phe . Một , với danh xưng “Điều khiển” , gồm những thành phần trí thức trên văn đàn báo chí . Họ tin tưởng rằng chưa đủ khả năng để chiếm lấy Mãn châu . Từ sự an toàn khả dĩ khi chống lại sự tấn công của Liên sô , nếu xảy ra chiến sự , thì chỉ có Trung Hoa quân đông người đủ mới có khả năng đương đầu với một cường quốc hung hăng ấy . Phe thứ hai , đa số là nhóm người ủng hộ nhà dân tộc cực đoan Kita , họ hoạt động dưới danh nghĩa “chủ trương đế quốc” , nhưng lại thuyết phục rằng sự mở rộng bờ cõi mới là điên rồ . Chỉ cần một vùng Mãn châu mênh mông đã là một tường thành vững chắc để chống lại chủ nghĩa cộng sản rồi !
    Những sĩ quan thuộc thế hệ trẻ duy tâm , họ nghiêng theo một đảng phái mới , trong khi những sĩ quan thứ bậc cũng như những nhân vật chủ chốt trong bộ chiến tranh thì hổ trợ phe “điều khiển” . Cũng vì lẽ này , nhóm dân tộc chủ nghĩa càng có lý do để bành trướng thế lực mà chủ trương hàng đầu là bạo động . Họ nhanh chóng thành lập những tiểu tổ ám sát chuyên nghiệp mang tên “huynh đệ huyết tương” , mỗi thành viên của tổ này phải cam kết giết chết ít nhất một chính trị gia hay một nhà tài phiệt mà họ liệt vào hàng “hủ hoại” .
    Thời gian hành động được dự trù vào khoảng thượng tuần tháng 2 năm 1936 , đúng vào ngày lễ kỷ niệm thứ 2.592 ngày đăng quang của Jinmu , tức là Thần Vũ Thiên Hoàng , vị vua đầu tiên của Nhật Bản mà theo truyền thuyết thì ông vốn là hậu duệ của Thái Dương Thần Nữ , được hạ giới để thay Người cai quản con dân Nhật Bản .
    Những nhân vật bị bọn quá khích kết án tử hình bao gồm bộ trưởng tài chánh Junnosuke Inoue , một người thẳng thắn thường ra mặt chống đối sự chiếm hữu quyền hành của quân đội . Âm mưu ám sát Inoue được thực hành . Ba viên đạn lấy đi sinh mạng ông ngay bên vĩa hè bốn ngày trước thời gian qui định . Không đầy một tháng sau , người thứ hai bị ám sát cũng cùng một hoàn cảnh tương tự , đó là Nam tước Takuma , chủ tịch tập đoàn Mitsu .
    Một lần nữa , những phiên tòa mang nặng nét khoa trương , đầy tính chất tuyên truyền cho quần chúng . Những thích khách trong lịch sử Nhật Bản thường có những đặc điểm dễ thương hơn nạn nhân ! Phải chăng kẻ bị giết là người thiếu đức tính , phải chăng một sát thủ đi giết người với một mục đích đơn giản là bảo vệ người dân đồng thời chống lại chính sách chuyên quyền ? Bằng chứng phạm tội bị chôn vùi , hai sát thủ , mặc dù tội danh giết người nhưng chỉ mang bàn án chung thân thay vì bị hành hình . Và chỉ vài năm sau , khi mọi việc chìm vào dĩ vảng , họ sẽ được trả lại tự do .
    Vào ngày chủ nhật 15 tháng 5 , chỉ 2 tháng sau cái chết của Nam tước Katuma , chín sĩ quan cao cấp của hải và lục quân Nhật Bản đã xông vào tận tư dinh thủ tướng Tsu-yo-shi I-nu-kai để ám sát ông giữa ban ngày . Vị thủ tướng già 70 tuổi thuộc nhóm ôn hòa , đã từng phản đối phe quân đội xâm chiếm Mãn Châu .
    Việc làm táo bạo này tự nó có tên là 15 tháng 5 . Nó đến quá bất ngờ nên để lại những phiên tòa đầy dư luận . Tất cả có ba phiên xử : một dành cho dân sự , hai phiên còn lại đặc biệt cho quân đội . Theo lẽ thường thì phần lớn quần chúng dành nhiều thiện cảm cho những thích khách . Và mọi người đều hoan hô vang dậy khi một trong những bị cáo tuyên bố ông và các đồng chí chỉ muốn gióng lên một hồi chuông để đánh thức đồng bào cả nước . Người dân đã nghe quá nhiều về tệ nạn tham nhũng , họ đã chán ghét chính phủ đến đổi dững dưng chằng tỏ ta thương tiếc gì đến cái chết đột ngột của vị thủ tướng già Inikai . Cái chết của ông ta đã là một hồi còi báo động cho chính giới Nhật Bản .
    Một trăm mười ngàn thỉnh nguyện đơn xin khoan dung được viết bằng văn bản và ký bằng máu , gửi đến gây chấn động cho phiên tòa . Một trong những thích khách đã tỏ ra hối hận nhưng lại phát biểu rằng “Thủ tướng chính phủ đã phải hy sinh trên bàn thờ canh tân đất nước !” . Một gã khác cứng rắn hơn nên dõng dạc trình bày : “Sống và chết không can hệ gì đến tôi cả ! Tôi muốn bày tỏ cho những người thương tiếc đến cái chết của tôi rằng : Đừng nhỏ lệ cho tôi mà hãy tự mình hy sinh cho bàn thờ cải cách !”.
    Kết quả của các phiên tòa có thể được dự đoán trước là không có ai bị kết án tử hình . Họ chỉ bị kêu án vài năm tù ở và dĩ nhiên được trả tự do một thời gian ngắn sau đó . Với những người vì một tư tưởng đấu tranh mà bỏ mình vì đại cuộc thì người ta lại cho đó như là một phương pháp quyết liệt để kết thúc tình trạng đình trệ của nền kinh tế quốc gia . Ai sẽ dẫn người dân ra khỏi cành nghèo nàn ? Ai sẽ đứng ra lãnh đạo quần chúng công khai đã kích lại các chính trị gia , các quan chức tòa án , các tài phiệt tham nhũng ? Chỉ có giới quân nhân với quyền lực và vũ khí trong tay mới có thể đảm đương những trọng trách ấy mà thôi . Bởi vậy người dân tuyệt đối đặt hết tin tưởng vào đều này . Do đó sức mạnh của phe quân phiệt và giới hữu khuynh tiếp tục lớn mạnh thêm .
    Trong thời gian này , những sĩ quan trẻ duy tâm họ cảm thấy bực mình bởi chung quanh họ đầy rẫy sự mục nát . Nhưng vì lực yếu thế cô họ không thể đấu tranh chống lại cường quyền . Và cũng vì lòng tôn kính Thiên Hoàng tối cao của mình nên họ quyết không hỗ trợ cuộc nỗi dậy của những phần tử cộng sản . Tuy nhiên có một người trong bọn họ bị cuốn hút theo cao trào , biết bắt lấy thời cơ vào vòng ảnh hưởng của mình . Ấy là hành động vấy máu liều lĩnh ngay trong một đất nước được vun trồng trong chế độ phong kiến .
    Một buổi bình minh tháng 8 năm 1935 , trung tá Saburo Aizawa , sau khi bái kiến Nhật Hoàng theo thông lệ , ông ta lẻn đột nhập vào tổng hành dinh quân đội bằng lối sau . Gọi là một tổng hành dinh của một cơ quan chính phủ nhưng đó là một ngôi nhà gỗ hai tầng đã quá cũ kỷ nằm ngay bên cạnh hoàng thành . Cũng như những sĩ quan duy tâm khác , những sĩ quan cấp tiến của thời đại , trung tá Aizawa nỗi giận khi một thượng cấp mà ông ta rất tôn kính là tướng Mazaki bị cách chức Tổng bộ thanh tra quân đội . Thời bấy giờ trong quân đội Nhật Bản , ba cơ quan đầu não quan trọng nhất mà họ gọi là “bộ tam đại” là : Bộ tổng thanh tra quân đội , Bộ Tổng tham mưu và bộ chiến tranh tức Bộ quốc phòng ngày nay .
    Aizawa thản nhiên tiến thẳng vào văn phòng của tướng Tetsuzan Nagata , một địch thủ bất cộng đáy thiên của tướng Mazaki và cũng vì Nagata nên tướng Mazaki bị cách chức , bởi vậy trung tá Aizawa tìm đến ông để thanh toán trả thù cho chủ tướng . Trong đầu của viên trung tá trẻ vẫn còn văng vẳng lời nguyền với Thái dương thần nữ nơi lăng miếu ban sáng : “Tôi rất lấy làm hăng hái khi đi trừng trị tên Negata . Nếu tôi đúng , xin ngài hãy phò trợ cho tôi thành công . Bằng ngược lại cứ để cho tôi được chết trong vinh dự !” .
    Negata ngạc nhiên trước sự xuất hiện thình lình của Aizawa , ông chưa kịp lên tiếng hỏi thì thấy hắn đã nhanh nhẹn rút kiếm đâm thẳng vào ngực mình . Cho dù bị tấn công đột ngột nhưng Negata tỏ ra không nao núng , chỉ lạng người sang bên phải một tí là ông đã giải được thế kiếm chí mạng của Aizawa . Không hạ được địch thủ ngay chiêu đầu nên Aizawa điên tiết , ông tiến thêm một bước đâm thêm bốn thế kiếm một lúc , thế nào cũng nhanh như gió lốc . Aizawa dư biết Negata vốn là một địch thủ lợi hại , nhưng chính ông cũng đâu phải là một kẻ vô tài . Mười năm trước ông đã từng thọ giáo một nhà sư Thiếu lâm lưu lạc sang Nhật , và được chân truyền võ nghệ . Ông vốn là một kỳ tài võ thuật lại chịu khó dày công nghiên cứu , ông phối hợp những tinh hoa và sở trường của Thiếu lâm và Karate thành một môn võ riêng biệt . Kiếm chiêu và quyền thuật của ông biến hóa thật linh động nhưng chỉ chú trọng mặt tấn công , căn bản là nhanh và hiểm . Bởi vậy thế công của ông nhanh như vũ bão và liên tục như dòng thác cuốn , thanh trường kiếm trong tay ông như vòng hào quang bao quanh lấy Negata chỉ trực phóng vào những yếu huyệt . Nhưng Negata vẫn bình tỉnh chiết giải từng chiêu kiếm một . Không có vũ khí trong tay và bị tấn công bất ngờ khiến vị tướng bị rơi vào thế bị động hoàn toàn , tuy vậy ông cũng khá bình tỉnh để đối phó . Aizawa múa lộng thanh kiếm đâm phải chém trái , càng đánh chiêu thế càng biến hóa khôn lường bởi ông quá nóng ruột vì không hạ được địch thủ ngay . Nếu tình hình này kéo dài thì cơ hội thắng sẽ không còn nữa một khi đám cận vệ của Negata kéo đến . Chết , dĩ nhiên Aizawa không sợ nhưng chỉ tiếc là không báo thù cho chủ tướng của mình . Ông đã mang thân vào hang hùm rồi thì thanh gươm này phải vấy máu , không thể để tình thế đảo lộn được .
    Aizawa hét lên một tiếng , tay phải ra chiêu “Thiên long bức thủy” , đồng thời chân trái rùn xuống quét ngang theo thế “Tảo địa cước” . Kiếm và cước cùng xuất ra một lượt khiến Nagata phải nhày lùi lại , nhưng bức tường phía sau đã chận ngang khiến ông phải nhảy lên cao xoay người hướng về phía trái . Xoẹt một cái , lưỡi kiếm của Aizawa đã khứa sâu một trên vai Nagata một đường dài , máu tuôn lai láng . Tuyệt chiêu vừa rồi đã giúp Aizawa chiếm ngay thế thượng phong , ông hừng chí múa kiếm phóng ra hai chiêu “Đông phong tảo diệp” “Phi thiên bạch nhạn” bức bách viên tướng tư lệnh lùi vào cửa hông của văn phòng . Quả là một hảo thủ không hổ danh , tuy mang thương tích và tình thế rất bất lợi nhưng Negata vẫn không chút nao núng , ông tương kế tựu kế xoay 2 vòng tung ra bốn cú đá liên hoàn thế mạnh như dời non lấp biển , chân vừa chấm đất ông lại tung mình nhảy nhanh vào bên trong cánh cửa định tẩu thoát bằng lối này . Như đọc được ý định của địch nhân , Aizawa cuộn mình lăn tròn hóa giải 4 ngọn độc cước , rồi như một cơn trốt xoáy , ông tung chân nhảy lên theo thế “Thiên Long xuất động” , ông mượn sức lưng và vai đang đà vươn ra , phóng luôn một nhát kiếm chí tử . Chỉ thấy một vầng bạch quang lóe lên , thanh kiếm đã rời khỏi tay Aizawa bay xoẹt đến cấm phập xuyên qua lồng ngực Negata . Negata đứng sừng sững , mắt mở trừng trừng như còn chưa tin hẳn ở một đòn liều mạng tối độc và cực nhanh mà cả đời ngang dọc của ông chưa bao giờ được chứng kiến .
    Sau khi thanh toán xong Negata , Aizawa thủng thỉnh đi đến văn phòng của một người bạn và bảo rằng chính ông vừa “thế thiên hành đạo” , đã rửa xong một mối hận cho chủ tướng . Đến khi bị quân cảnh bắt được , Aizawa vẫn tưởng mình chỉ bị thẫm vấn sơ sơ rồi trả về đơn vị . Nhưng ông đã lầm to vì lần này chính ông đã trở thành trung tâm điểm cho một phiên tòa hết sức cảm động . Nó làm rung chuyển cả một nền móng quân sự và trở thành điểm tựa tinh thần cho giới trẻ có lòng ái quốc nhưng muốn theo đường lối cải cách đất nước bằng con đường nhanh nhất .
    Tại phiên xử , Aizawa đã được cứu xét tới những năm quan tòa và ông được đặt biệt chiếu cố khi cho phép trưng bằng cớ để tấn công các chính khách .
    Khi bị kết án sát nhân , trung tá Aizawa lại biện minh hành động của mình chỉ là thực hiện một nhiệm vụ danh dự của một quân nhân trung thành với Thiên Hoàng . “Tổ quốc đang chìm vào tình trạng thê thảm , người nông dân nghèo đói triền miên , viên chức chính phủ thì đa số dính líu đến những vụ lem nhem tai tiếng , ngoại giao lại yếu kém . Đặc quyền chỉ huy tối cao bị giới hạn bởi khế ước Naval-limitation (khế ước hải quân được ký kết Nhật – Mỹ - Anh mà Nhật lại là một quốc gia phải chịu thiệt thòi nhất khiến cho lòng dân sinh ra bất mãn )” . Aizawa kêu gọi “Tôi nhận thấy rằng những chính khách thâm niên , những đấng phụ mẫu chi dân kề cận ngai vàng , những nhà tài phiệt và những quan lại địa phương là phường sâu dân mọt nước . Quốc gia suy vong cũng vì lòng ích kỷ vì tư lợi của bon họ mà ra !” Đó là những lý do thúc đẩy ông đi vào con đường sát nhân .
    Luật sư biện hộ cho Aizawa cũng buột miệng than “Nếu quan tòa không thông hiểu cho những phẫn uất xui khiến Aizawa đi vào con đường sắt máu thì sẽ còn Aizawa thứ 2 thứ 3 và nhiều nữa …” .
    Đó gần như là một lời tiên tri cảnh báo cho một điềm chẳng lành sắp xảy ra . Và những lời cảnh báo này được thiên hạ truyền tai nhau cùng khắp kinh đô . Những thủ lãnh đầy tham vọng theo đường lối đấu tranh bạo động cũng đã sẳn sàng để nhảy vào vòng chiến . Mục tiêu thiết yếu của họ vào rạng sáng hôm sau sẽ là cựu thủ tướng Okada , mà cũng là một cựu Đô đốc đã hồi hưu .
    Okada đang tổ chức một buổi dạ tiệc tại tư dinh chiều ngày 25 tháng 3 , nhân dịp mừng chiến thắng phe chính phủ trong đợt bầu cử quốc hội 5 ngày trước đấy . Ông ta vốn là một chính khách yêu cầu , không phải do sự chọn lựa mà ra .
    Nhật Bản vào thời điểm 1932 , tình hình trong nước ngày càng phức tạp bởi những hoạt động của các tổ chức ái quốc cực đoan và nhóm quân phiệt không ngừng gia tăng . Ngày 15 tháng 5 năm 1932 họ tổ chức ám sát Inukai và tấn công một số vị trí quan trọng của chính phủ . Cái chết của Inukai cũng là sự cáo chung của nội các dân đảng , thay vào đó nội các được duy trì bằng những tướng lãnh trong quân đội . Đô đốc Saito , người đang tìm một giải pháp dung hòa giữa các chính sách của nội các cũ và lối hiếu chiến của giới quân phiệt . Tuy nhiên ông không gặt hái được chút thành công nào vì thực tế quyền hành đều nằm trong tay của Araki , vị tướng kiêm bộ trưởng lục quân thao túng . Đồng thời ông cũng dính líu đến một vụ bê bối có liên quan đến bộ tài chánh nên Nhật Hoàng quyết định giải nhiệm Saito và mời Okada đứng ra thành lập nội các mới vào tháng 1 năm 1934 . Hai năm sau ngày nhậm chức , nội các của Okada cũng chẳng có gì thay đổi , thậm chí còn bị các tổ chức cực đoan và quân phiệt âm mưu lợi dụng để thực hiện các biện pháp xâm lược đối với nước ngoài . Biểu hiện của các phe phái là chiêu bài kêu gọi quần chúng đề cao tinh thần thượng võ và tôn thờ vai trò của Thiên Hoàng . Do đó , nhằm mê hoặc và tạo nên tư tưởng ái quốc cực đoan nhằm đi đến bạo động đối với mọi người hòng phục vụ cho mục đích cuối cùng là tiến hành chiến tranh xâm lược để đưa quốc gia Nhật Bản lên vị trí hàng đầu ở châu Á . Để thực hiện được mục tiêu trên , theo chủ trương của một số phần tử đứng đầu phe phái cực đoan thì cần phải có một cuộc đảo chánh quân sự .
    Okada cũng biết những hoạt động phe phái này nhưng ông dường như bị kẹt ở thế bị động nên không thể có một hành động hữu hiệu nào hơn . Hôm nay , sau lần bầu cử quốc hội , tuy phe quân phiệt bị thất bại chua cay nhưng ông nghĩ họ sẽ không dừng lại ở điểm này . Ông đã quá chán ngán với chính trường . Lần đắc thắng của phe dân chính đảng này là nguyện ước cuối cùng của đời ông . Ông sẽ xin rút lui về an dưỡng tuổi già . Đã quá mệt mỏi với những cuộc tranh đấu , tuy Nhật Hoàng và dân chính đảng vẫn ủng hộ việc làm của ông nhưng bên cạnh dường như còn rất nhiều người ngấm ngầm hiềm khích , nhất là phe quân phiệt và nhóm ái quốc cực đoan vẫn còn hoạt động ngông cuồng như xưa . Và có ngờ đâu với toan tính rút lui ra khỏi chính trường ông chưa thực hiện được thì nhóm cực đoan đã nhanh chóng ra tay trước , tư dinh thủ tướng trong buổi dạ tiệc đêm nay sẽ là một trong những mục tiêu của ban ám sát phe cực đoan cần phải thanh toán .

  3. #3
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương 2 :

    CHÍNH TRƯỜNG VẤY MÁU

    Khoảng 4 giờ sáng ngày 26 tháng 2 trong một căn nhà nhỏ nằm khép mình trong một khu bình dân ngoại ô Đông kinh . Đại úy Koda và những thủ lãnh của những nhóm phản loạn tập họp toàn bộ thành viên trong ban ám sát . Đa số thành viên đều chưa được giải thích mục đích của cuộc họp tối khẩn đêm nay nên họ vẫn tưởng chỉ là một phiên họp bình thường như mọi khi . Chiếc đèn neon vàng úa không đủ sức mang lại ánh sáng cho căn phòng . Trong bóng mù mờ vài tiếng thì thầm bàn tán của các thành viên . Chợt cánh cửa hé mở Trung tá Kurihara bước vào , ông nhìn khắp phòng một lượt rồi giơ tay thành quả nắm và với giọng nghiêm nghị , ông nói :
    - Tôi muốn tất cả các anh em được chết cùng tôi !
    Sau đó nhóm phản loạn đi vào chi tiết cho đêm họp mặt bất thường đầy quan trọng này . Họ soạn thảo kế hoạch và phân chia công tác thật nhanh rồi chia nhau mỗi toán đi về mỗi mục tiêu khác nhau chờ giờ hành động .
    Trời bắt đầu trở gió , tuyết trắng giăng đầy . Đêm Đông kinh như đồng lõa với những bóng đen đang âm thầm len lõi giữa phố phường mang theo một sứ mạng lịch sử .
    Rạng sáng ngày 26 tháng 2 năm 1936 thành phố Đông kinh không còn yên tỉnh như những bình minh thường lệ . Tiếng súng liên tục nỗ giòn trên khắp mọi nơi , tiếng còi báo động vang dậy từng hồi , người dân hớt hãi đoán già đoán non ngưng cả mọi sinh hoạt trong thành phố . Mãi đến chiều tối thì mọi náo loạn dần dần lắng xuống và bấy giờ quân đội của chính phủ mới làm chủ được tình hình . Tổ chức đảo chánh bị xé thành từng mảnh nhỏ để rồi từng nhóm từng nhóm lần lượt sa lưới cảnh sát đô thành . Các sĩ quan trẻ cùng 1400 quân nhân phản loạn tuy chiếm được nhiều vị trí quan trọng ở thủ đô và giết hại gần 80 chính khách mà họ xem như kẻ tử thù , nhưng lại ám sát hụt thủ tướng Okada . Vị thủ tướng thoát hiểm nhờ một người em vợ đứng ra chịu chết thay , hành động Lê Lai cứu chúa này quả thật đáng kính phục thay ! Với một nhóm phản loạn chừng ấy lại dám đứng ra chống lại trước một lực lượng quân đội áp đảo hơn nhiều , họ được lợi thế hơn là có Thiên Hoàng và quần chúng hậu thuẫn , cuối cùng phe phản loạn bị dẹp tan .
    Mặc dù cuộc đảo chánh bị thất bại nhưng trớ trêu thay , giới quân phiệt sau biến cố này lại bước thêm một bước nữa gần đến mục tiêu thống trị hoàn toàn chính trường ở trong nước . Từ sau sự kiện Mãn Châu , Nhật Bản không chỉ đánh mất uy tín , bị cô lập với thế giới bên ngoài và còn để giới quân phiệt cùng chủ nghĩa ái quốc cực đoan chiếm được vị trí độc tôn , do đó chính quyền bị phát xít hóa . Từ đây Nhật Bản tiến vào con đường thực hiện xâm lăng nước ngoài và đàn áp phong trào đấu tranh trong nước theo đường hướng của một chính quyền quân phiệt phát xít , không liên hệ với các chính đảng . Để cụ thể hóa chính quyền quân phiệt của mình , Nhật bản liên tiếp phát động các cuộc chiến tranh gây hấn với Liên sô , Trung Quốc và Mông cổ . Đồng thời tham gia liên minh phát xít quốc tế đang trở thành lực lượng đen tối đe dọa nền hòa bình thế giới lúc bấy giờ . Trước hết , với chiêu bài ngăn chận ảnh hưởng của Liên sô , ngày 25 tháng 11 năm 1936 Nhật và Đức ký hiệp ước “chống cộng sản” và một năm sau đó Ý cũng tham gia hiệp ước này . Như vậy Nhật , Đức và Ý đã tạo một thế lực phát xít trên thế giới , đối lập với Hoa kỳ , Liên sô và các quốc gia khác trong Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc) .
    Sau biến cố 26 tháng 2 như đã kể , khi quân đội thao túng chính trường . Nỗi ám ảnh 26 tháng 2 đã làm cho họ cảnh giác hơn bao giờ hết . Những phần tử cực đoan , những sĩ quan trẻ duy tâm bị giám sát chặc chẻ để ngăn ngừa một cuộc nỗi loạn khác . Nhất là khi Araki lên thay quyền chỉ huy lục quân Nhật . Araki Sadao là một lãnh tụ khuynh hữu Đảng Quân Phiệt , từng lãnh đạo hội hoạt động Từ Thiện Đế Quốc (Kodaha) , đối lập với nhóm Kiểm Soát (Toseiha) của Tướng Kazushige . Ông gắn liền cổ học Nhật (Võ Sĩ Đạo) với chủ thuyết Phát Xít đang thịnh hành ở Âu Châu , đưa đến phong trào hoạt động dưới dạng Phát Xít Nhật . Từ đầu thập niên 30 , Nhật Bản lọt vào thế buộc phải đi theo chiến tranh bởi đội quân Quang Đông ở Mãn Châu và sự hướng dẫn của Araki . Chủ Nghĩa Độc Tài Quân Phiệt và bành trướng lãnh thổ được chấp nhận như lời giải duy nhất cho tình huống bấy giờ , rõ ràng nhất là trong nội bộ chính phủ ít có ai lên tiếng phản đối . Trong cuộc họp báo ngày 23 tháng 01 năm 1932 , Araki đưa ra khái niệm “Đạo Đế Quốc” (Kodoha) gắn liền với Thiên Hoàng , người Nhật , đất Nhật và tinh thần Nhật vào một khối không thể tách rời . Từ đó nãy sinh ra một loại giáo đạo mới là Tôn Sùng Thiên Hoàng trong lòng người Nhật .
    Nước Nhật trở thành công cụ phục vụ cho quân đội và Thiên Hoàng Gươm Nhật được đem ra làm phù hiệu cho lý tưởng đế quốc , súng Nambu được dùng để biểu hiện cho tinh thần cận chiến của quân đội Nhật . Mơ ước của giới quân phiệt cực hữu đã làm sống lại hệ thống Mạc Phủ khi xưa nhưng dưới dạng quân trị hiện tại , nghĩa là Thiên Hoàng chỉ là hình thức lễ nghi và quyền hạn chỉ huy cả nước nằm trong tay lãnh tụ quân sự dưới danh nghĩa phụ chính , tương tự như chức Duce của Benito Mussolini ở Ý , quyền Fuhrer của Hitler ở Đức






























    Chương ba :

    SỰ KIỆN LƯ CÂU KIỀU

    Cuộc đẫm máu 26 tháng 2 chẳng những không mang lại kết quả khả quan nào cho phe làm loạn , ngược lại có đến 13 sĩ quan và 4 thường dân bị kết án tử hình . Trong số 4 thường dân mang án tử ấy có Kita , một lãnh tụ cách mạng rực lửa mà cũng là một học giả dân tộc cực đoan . Ngày 12 tháng 7 năm 1936 , 17 tử tội bước ra thụ án , họ vẫn ngang nhiên hô to “Hởi đồng bào thân yêu , đừng bao giờ đặt niềm tin vào quân đội đế quốc !” .
    Ngay sau khi những kẻ phản loạn bị hành hình , Ishihara mở cuộc họp bí mật với 11 sĩ quan cao cấp trực thuộc Bộ Chiến Tranh và Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội . Địa điểm cuộc họp là nhà hàng Takara-Tei trong nội thành Đông Kinh . Những nhân vật này đang âm thầm bàn mưu tính kế tìm cách thôn tính cả lục địa Trung Hoa . Tuy nhiên họ vẫn còn nhiều vấn đề nan giải nên những cuộc họp mặt bí mật vẫn diễn ra thường xuyên , hầu tìm ra một phương hướng an toàn để đi đến mục đích . Ishihara nêu ra câu hỏi “Tại sao chúng ta phát động chiến tranh với Trung Hoa vào thời điểm này khi kẻ thì tối nguy hiềm của họ lại là Liên sô . Nếu ta tấn công họ , có phải chúng ta phải đối đầu với hai kẻ thù ? Đối mặt với hai cuộc chiến trong một lúc có phải đó là hành động tự sát không ?”.
    Ông ta lại lập luận “Người Trung Hoa có câu : Dục tốc bất đạt , chúng ta , thay vì mở màn một cuộc chiến khi phải đối diện với hai mặt trận nguy hiểm cùng một lúc thì tại sao mình không đợi đến một thời điểm thuận lợi khác . Biến chuyển của thế giới trong một vài năm gần đây đã chứng minh cho chúng ta thấy rồi đây tình hình Trung Hoa sẽ phải thay đổi . Trong thời gian ấy , nhân lúc chờ đợi tiến công tại sao chúng ta không lo củng cố lại sức mạnh quốc gia . Tôi nghĩ không bao lâu , nếu cố gắng Nhật Bản sẽ vươn lên ngang hàng với Liên sô . Với một lục địa bao la ở Mãn Châu tài nguyên phong phú , tôi đã phát họa một kế hoạch năm năm , gia tăng sản xuất dựa trên đà phát triển sẳn có , tránh mọi xung đột với Liên sô cũng như Trung Hoa . Từ đây đến 1941 chúng ta sẽ có đủ thời gian để hoàn hảo một kế hoạch chuẩn bị . Và dù có đương đầu với một đế quốc Liên sô hùng mạnh chúng ta cũng có thể dễ dàng nắm lấy phần thắng . Chỉ có con đường này mới có thể cứu lấy quốc gia của chúng ta ! Nếu đi theo đường lối “nới rộng lãnh thổ” , tiến công Trung Hoa và có thể xuống tận miền Đông Nam Á như nhóm “Điều Khiển” đề ra thì chúng ta không sao tránh khỏi gây chiến tranh với Hoa Kỳ và Anh Quốc . Và nếu như sự việc xảy ra thì kẻ hưởng lợi dĩ nhiên là Liên sô , một kẻ thù thật sự của chúng ta !” .
    Cuối cùng Ishihara còn tuyên bố “Mối họa của quốc gia không hẳn xuất phát từ những chính khách phát họa chiến tranh tại Đông Kinh , mà nó ở ngay trên tuyến đầu Mãn Châu xa xôi ấy” .
    Lúc bấy giờ ở tại Mãn Châu , đội quân Quang Đông đã tổ chức chu đáo để chuẩn bị công cuộc xâm lăng bất hợp pháp trên lãnh thổ Trung Hoa . Chỉ huy trưởng đội quân này là Đại Tướng Kenji Doihara , ông cũng tương tự như Ishihara ở những đặc tính thâm trầm , khôn ngoan và nhiều mưu lắm kế . Trong những năm qua , ông đã tự mình đi tìm gặp những vị “lãnh chúa” của những tỉnh phía Bắc Trung Hoa nằm dọc theo biên giới Mãn Châu , để khuyên dụ họ quay lưng với chính phủ Trung Hoa và thành lập những khu tự trị có chính phủ riêng nhưng lại trực thuộc vào Đế Quốc Quân Nhật Bản . Thủ Tướng Okada biết được sự việc liền quở trách ông gàng bướng ngông cuồng . Tướng Doihara vẫn cứ lờ đi , giống như tình trạng của Ishihara dạo nào khi xua quân chiếm cứ Mãn Châu Lục . Nhưng có ngờ đâu chính vì sự gàng bướng ấy lại mang đến cho Doihara những thành quả tốt đẹp , nghĩa là những vị “lãnh chúa” của các tỉnh giới tuyến Trung Hoa đã chịu quy về một mối dưới sự chỉ huy của đội quân Quang Đông . Một cơ hội bằng vàng cho hàng hóa Nhật Bản đổ vào thị trường phía Bắc Trung Hoa , dưới danh nghĩa “Đi theo lá cờ tổ quốc Nhật Bản” . Việc này đã gây nên một làn sóng căm phẫn trong giới thương nhân Trung Quốc vùng biên giới nói riêng và tự ái dân tộc bị tổn thương trên toàn lục địa Trung Hoa nói chung . Tướng Doihara viện dẫn rằng việc thành lập một chính quyền bù nhìn tên gọi Mãn Châu Quốc với Phổ Nghi làm Quốc Trưởng là tách rời ảnh hưởng của Trung Hoa đối với Mãn Châu . Nhưng chỉ vài tuần lễ sau đó , năm ngàn binh sĩ Nhật được chuyển ào ạt tới những khu tự trị của các “lãnh chúa” Trung Hoa , nơi mà hàng hóa của Nhật đã tuôn vào gây xáo trộn cho đời sống dân bản xứ . Hành động này Doihara chỉ tóm tắt là “Để bảo vệ hàng hóa và những gì thuộc về Nhật Bản” .
    Trong khi ấy Ishihara lại khuyến cáo rằng Doihara đang bắt đầu công cuộc xâm lăng Trung Hoa . Những vùng mà ông đang rãi quân trấn giữ ấy sẽ dễ bị tiêu diệt , để rồi một mặt trận mới sẽ xảy ra giữa Nhật Bản và quân đội Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch . Trong khi đó , Liên sô và những người Cộng Sản Trung Hoa sẽ đợi thời cơ này để củng cố nền móng và vươn ra nhuộm đỏ cả lục địa Trung Hoa .
    Ishihara khuyên rằng cách tốt nhất lá rút hết các lực lượng ở những điểm không an toàn dọc theo biên giới Trung Hoa . Điển hình là Lư Câu Kiều , một khu hiểm địa chỉ cách Bắc Kinh chưa đầy 30 cây số .
    Ngày trước Đại Đế Nã Phá Luân đã từng cảnh cáo rằng Trung Hoa là con sư tử đang ngủ mê . Hãy để cho nó ngủ yên ! Vì khi đánh thức nó dậy , thế giới này sẽ biến động !
    Cuộc cách mạng lật đổ Triều Thanh năm Tân Hợi đã thật sự đánh thức con sư tử Trung Hoa . Bác sĩ Tôn Dật Tiên là người khởi xướng nên cuộc Cách Mạng vẻ vang này .
    Những năm cuối của triều đình nhà Thanh ghi dấu bởi sự bất ổn trong nước và những cuộc xâm lăng của ngoại quốc phương Tây . Nhiều cuộc khởi nghĩa dấy lên làm thiệt mạng hàng triệu sinh linh . Những cuộc xung đột với các cường quốc bên ngoài luôn kết thúc với những hiệp định bất bình đẳng gây phương hại cho Trung Hoa và buộc triều đình phải chi trả những khoảng tiền bồi thường to lớn cũng như chia cắt đất đai . Hơn nữa , một quan điểm nảy sinh trong dân chúng , cho rằng quyền lực chính trị cần phải trả về cho đa số Hán từ tay của nhóm thiểu số Mãn . Đối diện với những bất mãn và bất ổn quốc nội , triều đình nhà Thanh đã cố gắng cải cách chính phủ theo nhiều cách , như đưa ra Hiến pháp năm 1906 , thành lập cơ quan Lập Pháp cấp tỉnh năm 1909 và chuẩn bị cho ra đời một Nghị Viện Quốc Gia năm 1910 . Tuy nhiên , nhiều thế lực bảo thủ trong triều cản trở khiến không ít nhà cải cách bị tống giam hoặc bị xử tử . Do sự thất bại này khiến cho giới cải cách quyết định hướng sang con đường cách mạng . Nhóm có tổ chức nổi bật nhất do Bác Sĩ Tôn Dật Tiên khởi xướng . Ông là một nhà cách mạng đi theo đường lối Cộng Hòa . Năm 1905 ông cùng Hoàng Hưng thành lập Đồng Minh Hội ở Đông Kinh , Nhật Bản . Học thuyết chính trị của Tôn Dật Tiên hình thành từ năm 1887 , lần đầu tiên ông công bố tại Đông Kinh năm 1905 . Học thuyết này tập trung vào chủ nghĩa Tam Dân : Dân tộc độc lập , dân quyền tự do , dân sinh hạnh phúc .
    Từ năm 1906 đến 1911 , Tôn Dật Tiên phát động tất cả mười cuộc khởi nghĩa tại Hồ Nam , Giang Tây , Quảng Đông , Quảng Tây , Vân Nam , An Huy , Triết Giang … Nhưng những cuộc khởi nghĩa trên đều thất bại . Tuy vậy cũng làm cho nhà Mãn Thanh suy yếu và tinh thần cách mạng của dân Trung Hoa càng dâng lên cao . Cuối cùng , cuộc khởi nghĩa tại Vũ Xương ngày 10 tháng 10 năm 1911 (Tân Hợi) dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng chịu ảnh hưởng của Tôn Dật Tiên và Đồng Minh Hội đạt được thắng lợi . Ảnh hưởng của sự thắng lợi này lan ra toàn quốc . Ngày 12 tháng 10 , họ chiếm được Hán Khẩu và Hán Dương . Tuy nhiên , thành công này không kéo dài khi triều đình nhà Thanh sai Viên Thế Khải chỉ huy đội Tân Quân : gồm Lộ Quân thứ nhất do Phùng Quốc Chương và Lộ Quân thứ hai do Đoàn Kỳ Thụy chỉ huy tiến chiếm lại Vũ Hán ngày 27 tháng 10 . Trong thời gian chiến đấu giữa quân cách mạng và triều đình , 15 trong 24 tỉnh của Trung Hoa đã tuyên bố độc lập khỏi Đại Thanh Quốc .
    Ngày 01 tháng 01 năm 1912 Tôn Dật Tiên nhậm chức Tổng Thống tại Nam Kinh và thành lập chính phủ Trung Hoa Dân Quốc . Vì thời cuộc chuyển biến quá nhanh và sự tuyên bố độc lập của các tỉnh , Viên Thế Khải cảm thấy cần thiết để đàm phán với phe cách mạng , cuối cùng ông chấp nhận Trung Hoa Dân Quốc . Và vì vậy đội Tân Quân dưới sự lãnh đạo của Viên thế Khải quay sang chống lại Thanh triều . Cuối cùng Phổ Nghi , vị Hoàng Đế cuối cùng của Mãn Thanh phải thoái vị ngày 12 tháng 02 năm 1912 bởi sức ép của Viên Thế Khải . Từ đó thực quyền ở Bắc Kinh lại rơi vào tay Viên Thế Khải , ông kiểm soát toàn bộ Bắc Dương Quân , một lực lượng quân sự mạnh nhất của Trung Hoa vào thời điểm này . Có được sức mạnh trong tay , Viên Thế Khải đề xuất việc thống nhất đất nước dưới quyền kiểm soát của một chính phủ do ông cầm đầu . Vì thế yếu nên Tôn Dật Tiên đành phải đồng ý . Ngày 10 tháng 03 năm 1912 Viên Thế Khải tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống Lâm Thời thứ hai của Trung Hoa Dân Quốc .
    Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng phát năm 1914 , Nhật Bản đứng về phía đồng minh và chiếm các cơ sở của Đức tại Sơn Đông . Năm 1915 , Nhật trao cho chính phủ Viên Thế Khải 21 yêu cầu , gồm những chủ ý thiết lập quyền kiểm soát kinh tế của Nhật Bản trên các hoạt động giao thông đường sắt và khai thác quặng mỏ ở Sơn Đông , Mãn Châu , Phúc Kiến . Đồng thời buộc Khải phải chỉ định người Nhật vào các vị trí quan trọng trong chính phủ Trung Quốc . Hai mươi mốt yêu cầu ấy nếu được chấp nhận thì sẽ biến Trung Quốc thành một nước bảo hộ của Nhật Bản . Tuy chính phủ Trung Quốc từ chối một số yêu cầu nhưng phải lùi bước trước sức ép của Nhật bằng cách cho phép Nhật giữ lấy lãnh thổ Sơn Đông làm sở hữu và công nhận toàn quyền vùng Mãn Châu cũng như phía đông Nội Mông . Sở dĩ Viên Thế Khải bất chấp dư luận và sự bất mãn của dân chúng vì ông muốn làm hòa với Nhật Bản để mặt khác lo xây dựng một chế độ Quân Chủ cho riêng mình .
    Ngày 12 tháng 12 năm 1915 Viên Thế Khải được con trai là Viên Khắc Định ủng hộ , tuyên bố thành lập một đế quốc Trung Hoa mới . Sự kiện này gây chấn động trên toàn quốc , mỗi tỉnh mỗi vùng loạn nổi lên như nấm , thậm chí các tướng lãnh bên trong Bắc Dương Quân cũng vùng lên tạo phản khiến Viên Thế Khải hoảng kinh lập tức thoái vị . Ông mất ngày 6 tháng 6 năm 1926 vì quá uất ức .
    Sau khi Viên Thế Khải chết , phó Tổng Thổng Lê Nguyên Hồng trở thành Tổng Thống và Đoàn Kỳ Thụy lên làm Thủ Tướng . Hiến pháp lâm thời được phục hồi và nghị viện lại được triệu tập . Tuy nhiên Lê Nguyên Hồng và Đoàn Kỳ Thụy có nhiều bất đồng , gay gắt nhất là việc Trung Hoa có nên tham gia vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất hay không . Từ khi cuộc chiến nổ ra , Trung Hoa vẫn giữ thái độ trung lập cho đến khi Hoa Kỳ thúc giục tất cả các quốc gia trung lập tham gia với khối đồng minh , coi đó là việc trừng phạt cho việc Đức sử dụng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế . Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụy ủng hộ mạnh mẽ việc gia nhập khối Đồng Minh , bởi vì ông sẽ lợi dụng cơ hội đó để có được những khoảng vay từ Nhật Bản nhằm xây dựng đạo quân An Huy của mình . Hai bè phái trong nghị viện cãi nhau nảy lửa về vấn đề này , và tháng 5 năm 1917 Lê Nguyên Hồng cách chức Đoàn Kỳ Thụy .
    Việc Đoàn Kỳ Thụy bị cách chức Thủ Tướng khiến các lãnh chúa quân phiệt địa phương từng trung thành với ông đồng tuyên bố độc lập và kêu gọi Lê Nguyên Hồng từ chức Tổng Thống . Lê Nguyên Hồng nhờ Trương Huân làm trung gian giàn xếp . Huân trước kia vốn là một viên tướng của triều đình nhà Thanh , ông làm Đốc Quân tỉnh An Huy . Chính Huân là người muốn tái lập Phổ Nghi lên làm Hoàng Đế . Ngày 1 tháng 7 năm 1917 , Trương Huân chính thức tuyên bố rằng nhà Thanh đã được tái lập và yêu cầu Lê Nguyên Hồng từ chức Tổng Thống , nhưng lời yêu cầu của Huân lập tức bị Hồng bác bỏ . Trong vụ phục kích “tái lập Vương Triều” này , Đoàn Kỳ Thụy chỉ huy quân đội đánh tan các lực lượng của Trương Huân tại Bắc Kinh . Một trong những máy bay của Đoàn đã ném bom vào Tử Cấm Thành , đây có lẽ là vụ ném bom đầu tiên ở Đông Á . Ngày 12 tháng 7 năm 1917 , các lực lượng của Trương Huân tan rã và Đoàn Kỳ Thụy trở về Bắc Kinh . Thời đại phục tích ngắn ngủi của nhà Mãn Thanh kết thúc . Trong thời kỳ hỗn loạn này , Phùng Quốc Chương cũng là một vị tướng của Bắc Dương Quân , nắm quyền Tổng Thống tạm quyền của nền Cộng Hòa . Đoàn Kỳ Thụy lấy lại chức vụ Thủ Tướng . Quân Trực Lệ của Phùng Quốc Chương và quân An Huy của Đoàn Kỳ Thụy sáp nhập lại trở thành đội quân mạnh nhất sau sự kiện phục tích .
    Khi trở thành một nhà lãnh đạo nhiều quyền lực nhất Trung Hoa , Đoàn Kỳ Thụy cho giải tán ngay nghị viện và tuyên chuyến với Đức . Sự coi thường hiến pháp của Đoàn Kỳ Thụy khiến Tôn Dật Tiên và các thành viên bị phế truất của nghị viện bất phục , họ cùng nhau thành lập một chính phủ mới ở Quảng Châu . Nhưng chính phủ này hoạt động theo hình thức chính phủ quân sự và Tôn Dật Tiên nắm quyền đại nguyên soái . Sáu tỉnh miền nam đồng tham gia chính phủ mới của Tôn Dật Tiên và đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của quân Đoàn Kỳ Thụy .
    Sang năm 1918 , sự mâu thuẩn bên trong hàng ngũ chính phủ mới Quảng Châu ngày càng trầm trọng . Những yếu nhân trong chính phủ này muốn lập ra một hệ thống chính phủ mới nhằm hạn chế quyền lực Tổng Tư Lệnh của Tôn Dật Tiên . Vì thế một cuộc tái tổ chức được diễn ra trong nội bộ chính phủ Quảng Châu , họ lập ra nội các và bầu bảy thành viên , gọi là Ủy Ban Cai Quản . Tôn Dật Tiên một lần nữa bị các đối thủ chính trị và thế lực quân sự gạt ra ngoài . Ông bỏ đi tới Thượng Hải sau sự kiện này .
    Lúc ấy , chính phủ Bắc Kinh của họ Đoàn cũng không ở tình trạng tốt hơn Quảng Châu . Một số tướng lĩnh trong đạo quân An Huy và đạo quân Trực Lệ không muốn dùng vũ lực để thống nhất các tỉnh miền Nam . Họ cho rằng đàm phán là giải pháp tốt để đạt đến mục đích thống nhất và buộc Đoàn Kỳ Thụy phải từ chức vào tháng 10 năm 1918 . Ngoài ra , nhiều người đã quá chán ngán với khoản nợ khổng lồ của Đoàn Kỳ Thụy vay Nhật Bản để chi trả cho quân đội của ông ta sau những cuộc nội chiến . Tổng Thống Phùng Quốc Chương đã sắp hết nhiệm kỳ , được thay thế bởi Từ Thế Xương , một trong những người thầy của Phổ Nghi . Ông này lại muốn đàm phán với các tỉnh phương Nam . Tháng 2 năm 1919 , các phái đoàn đại biểu của các tỉnh phía Bắc và phía Nam họp tại Thượng Hải để đàm phán về những giải pháp hậu chiến . Tuy nhiên , cuộc gặp gỡ đã không thống nhất được về những khoản vay của Đoàn Kỳ Thụy với Nhật Bản . Những nổ lực đàm phán tiếp theo lại bị cản trở bởi phong trào Ngũ Tứ . Chiến tranh bảo vệ hiến pháp đã hoàn toàn chia rẽ Trung Hoa thành hai nửa Bắc – Nam .
    Phong Trào Ngũ Tứ bao gồm những thành phần nhiệt tình chính trị và những sinh viên trí thức yêu nước phản đối thần tượng cũ , kêu gọi cải cách . Họ cùng sát cánh bên nhau và phát triển trở thành một phong trào phản kháng toàn quốc , mệnh danh là Phong Trào Ngũ Tứ hay Phong Trào Văn Hóa Mới diễn ra trong giai đoạn từ 1917 đến năm 1923 . Những cuộc biểu tình của sinh viên ngày 4 tháng 5 năm 1919 là đỉnh của phong trào . Đại diện Trung Hoa từ chối ký hiệp ước Versailles (xác nhận chủ quyền của Nhật ở Sơn Đông) vì sức mạnh từ phía những sinh viên của phong trào này .
    Tháng 10 năm 1919 , Tôn Dật Tiên tái lập Quốc Dân Đảng ở Quảng Châu , chính thức đối lập với chính phủ Bắc Kinh . Ông lúc nào cũng muốn củng cố chính quyền của mình để thực hiện tham vọng thống nhất với phương Bắc . Nhưng những nổ lực của ông đều thất bại , vào năm 1920 , ông quay sang Liên Bang sô Viết . Liên sô muốn trở thành đồng minh với những người Cộng Sản Trung Hoa . Nhưng vì thủ đoạn chính trị đối với “chủ nghĩa tư bản phương Tây” nên lãnh đạo Sô Viết ủng hộ luôn cả Tôn Dật Tiên và Trung Quốc Cộng Sản Đảng mới thành lập . Liên sô hy vọng củng cố được quan hệ của mình nhưng vẫn chuẩn bị hợp tác với bất kỳ phe nào của Trung Hoa giành được thắng lợi . Và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở Trung Hoa giữa Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng bắt đầu nổ ra .
    Năm 1922 , sau khi liên minh quân phiệt miền Nam với Quốc Dân Đảng tan vở ở Quảng Châu , Tôn Dật Tiên chạy về Thượng Hải . Cho đến lúc ấy ông mới thấy được sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Liên sô để hoàn thành lý tưởng của mình . Năm 1923 , một tuyên bố chung giữa Tôn Dật Tiên và đại diện Liên sô tại Thượng Hải , cam kết sự hỗ trợ của Liên sô trong công cuộc thống nhất Trung Hoa . Các cố vấn Liên sô , người nổi tiếng nhất là một thành viên của Quốc Tế Cộng Sản Đệ Tam , Mikhail Borodin , bắt đầu tới Trung Hoa năm 1923 để giúp đở tái tổ chức Quốc Dân Đảng theo hình thức Đảng Cộng Sản Liên sô .
    Trung Hoa Cộng Sản Đảng , theo sự chỉ đạo của Quốc Tế Đệ Tam bắt buộc phải hợp tác với Quốc Dân Đảng và các thành viên của họ cũng được khuyến khích gia nhập Quốc Dân Đảng trong khi vẫn giữ nguyên đảng tịch . Khi ấy Cộng Sản Đảng còn phôi thai , đảng viên chỉ độ ba trăm thành viên năm 1921 . Đến năm 1925 có được 1,500 đảng viên , trong khi Quốc Dân Đảng đã có đến 150,000 . Các cố vấn Liên sô giúp Quốc Dân Đảng thành lập một học viện chính trị để huấn luyện những tuyên truyền viên các cách thức hô hào nhân dân và vào năm 1923 cử Tưởng Giới Thạch , một trong những trợ thủ đắc lực của Tôn Dật Tiên từ ngày thành lập Đồng Minh Hội , tới học quân sự trong nhiều tháng ở Mạc Tư Khoa . Cuối năm 1923 , Tưởng Giới Thạch trở về và bắt tay vào việc thành lập Trường Võ Bị Hoàng Phố . Năm 1924 Tưởng Giới Thạch trở thành giám đốc trường Võ Bị và bắt đầu xây dựng ảnh hưởng để trở thành người kế tục của Tôn Dật Tiên trong vai trò lãnh đạo Quốc Dân Đảng và thống nhất toàn bộ Trung Hoa dưới chính phủ của những người cánh hữu theo chủ nghĩa tam dân .
    Tháng 3 năm 1925 , Tôn Dật Tiên chết vì bệnh ung thư . Tưởng Giới Thạch trong vai trò tổng tư lệnh Quân Đội Cách Mạng Quốc Dân , lập ra một kế hoạch Bắc phạt chống lại các Quân Phiệt Bắc Dương . Trong vòng 9 tháng , một nửa Trung Hoa được chinh phục . Tuy nhiên , đến năm 1926 , Quốc Dân Đảng chia rẽ thành hai phe : cánh tả và cánh hữu và khối Cộng Sản bên trong bắt đầu phát triển . Tháng 3 năm 1926 , sau khi phá vỡ một âm mưu bắt cóc mình , Tưởng Giới Thạch đột ngột miễn nhiệm các cố vấn Sô Viết , đưa ra các luật lệ hạn chế các thành viên Đảng Cộng Sản tham gia vào ban lãnh đạo cấp cao . Đầu năm 1927 sự đối đầu Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng dẫn tới sự chia rẽ hàng ngũ bên trong . Đảng Cộng Sản và cánh tả Quốc Dân Đảng quyết định dời chính phủ Quốc Gia từ Quảng Châu đến Vũ Hán . Nhưng Tưởng Giới Thạch , người đang đạt được thành công với cuộc Bắc phạt , đưa các lực lượng của mình tới tiêu diệt các cơ sở của Cộng Sản tại Thượng Hải và thành lập một chính phủ chống Cộng ở Nam Kinh vào tháng 4 năm 1927 . Khi ấy Trung Hoa có đến ba thủ đô : một được quốc tế công nhận của chính quyền Quân Phiệt ở Bắc Kinh , hai là thủ đô của phe Cộng Sản và cánh tả Quốc Dân Đảng ở Vũ Hán và thứ ba là thủ đô của phe cánh hữu dân quân sự tại Nam Kinh , nơi đây tiếp tục là thủ đô của chính quyền Quốc Dân Đảng trong thập kỷ tiếp sau .
    Lý tưởng của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản vỡ tan . Một chính sách mới tiến hành kêu gọi Đảng Cộng Sản Trung Hoa thúc đẩy những cuộc khởi nghĩa cả ở thành thị lẫn nông thôn , chuẩn bị cho sự phát triển của làn sóng cách mạng mới . Những nỗ lực không thành công của phe Cộng Sản nhằm chiếm các thành phố : Nam Xương , Trường Sa , Sán Đầu và Quảng Châu , và một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở vùng nông thôn tỉnh Hồ Nam tiến hành . Cuộc khởi nghĩa này do Mao Trạch Đông lãnh đạo , người mà sau này trở thành Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Trung Hoa và lãnh đạo nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa .
    Nhưng vào giữa năm 1927 , Đảng Cộng Sản lại rơi vào thời kỳ thoái trào . Những người Cộng Sản bị đẩy lùi ra khỏi Vũ Hán bởi những đồng minh của mình trong cánh tả Quốc Dân Đảng , để rồi chính họ cũng bị một chính quyền quân sự khác lật đổ . Tới năm 1928 , về danh nghĩa , toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa đều thuộc quyền kiểm soát của Tưởng Giới Thạch và chính phủ Nam Kinh ngay lập tức được quốc tế công nhận là chính quyền hợp pháp duy nhất của Trung Hoa
    Sau khi bị trục xuất khỏi Nam Kinh , các cố vấn Nga rút xuống Quảng Châu , tháng 12 năm 1927 họ ra lệnh cho Trương Đại Lôi , chủ tịch ủy ban Cách Mạng xúi giục thợ thuyền nổi lên bạo động , giết các tài chủ để chiếm đoạt tài sản . Họ chiếm được trại lính , công sở , nhưng dân Quảng Châu đa số là thương nhân nên không hưởng ứng và thợ thuyền cũng chẳng đình công . Quân Quốc Gia do Trương Phát Khuê và Lý Tế Thâm chỉ huy dẹp tan phiến loạn . Tóm lại mấy năm đầu Cộng Sản thất bại liên tiếp , đường lối thường thay đổi và lãnh đạo cũng vậy .Các cố vấn Liên sô phải về nước , chỉ một số ít ở lại Giang Tây để lập một chính quyền Sô Viết tại đó . Tuy nhiên Cộng Sản cũng thu được một vài kết quả ở Phúc Kiến , Giang Tây , Hồ Bắc , Hồ Nam . Họ lập tại đó những đạo hồng quân có khí giới đầy đủ , được huấn luyện rất kỷ . Người chỉ huy là một vị sĩ quan chuyên môn về du kích chiến và là một danh tướng lẫy lừng về sau , đó là tướng Chu Đức . Đến năm 1931 , những khu vực gần ranh giới chung các tỉnh Giang Tây , Hồ Nam , Phúc Kiến do Mao Trạch Đông hướng dẫn , cùng sát nhập lại với những cánh quân của Chu Đức , thành lập một chính phủ cộng hòa Sô Viết đầu tiên của Trung Hoa ở Thụy Kim tỉnh Giang Tây , gồm Mao Trạch Đông làm chủ tịch , Chu Đức , Chu Ân Lai , Bành Đức Hoài … Chính phủ này kiểm soát được nhiều tỉnh ở Trung và Nam Trung Hoa , dân số khoảng 20 triệu . Quân số ban đầu khoảng 6 vạn , ba năm sau tăng lên 30 vạn . Từ đó Trung Hoa có hai chính phủ : Quốc và Cộng . Mao trở thành đối thủ của Tưởng . Từ lúc chính phủ Cộng Sản thành lập , Tưởng Giới Thạch luôn tìm cách trị cho được cái gai Cộng Sản . Ông tấn công căn cứ Mao tất cả 5 lần trong vòng 3 năm từ 1931 đến 1934 . Lần đầu với 100 ngàn quân nhưng bị đẩy lui . Lần thứ nhì tăng lên quân số gấp đôi , với 200 ngàn quân do Hà Ứng Khâm chỉ huy , lại cũng bị thua to . Lần thứ 3 đích thân Tưởng Giới Thạch dẫn 300 ngàn quân , đánh nhau mấy tháng trời cũng chẳng mang lại kết quả gì . Vì lúc ấy Nhật đã xua quân chiếm Mãn Châu và Thượng Hải nên Tưởng để cho Cộng yên . Lần thứ 5 , Tưởng Giới Thạch dùng đến 1 triệu quân và 200 phi cơ tiến vào quyết quét sạch sào huyệt của quân Cộng . Ông thay đổi chiến thuật trong lần tấn công này , thay vì ồ ạt xua quân vào tàn sát , ông lại cho 500 ngàn quân bao vây chung quanh . Quân của Mao trong rừng núi thiếu thốn gạo muối bắt buộc phải lộ diện , khi ấy 500 ngàn quân đã bố trí sẳn đánh họ tơi bời , khiến cho họ không thể dùng lối đánh du kích là ngón sở trường của họ nữa . Cũng không thể không nhắc lại lúc này nhờ Tưởng Giới Thạch khéo léo ngoại giao , thu xếp với Nhật , được Nhật để yên nên ông có thể tung ra một nửa quân lực Quốc Gia , quyết định một trận diệt cho tuyệt không còn một móng Cộng Sản . Vòng vây dần dần thu hẹp , quân Cộng thấy tình thế tuyệt vọng nên quyết mở vòng vây tháo chạy , họ bỏ căn cứ Giang Tây để lên miền Tây Bắc Trung Hoa . Họ vừa chạy vừa mộ binh sĩ và vừa chiến đấu . Đây gọi là cuộc trường chinh vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Hoa , có lẽ cả trong lịch sử nhân loại nữa , họ làm cho thế giới phải nghiêng mình thán phục . Rốt cuộc , Tưởng Giới Thạch vẫn không thể nào diệt được quân Cộng , ông chỉ xua họ ra khỏi miền Nam Trung Hoa mà thôi , để rồi từ đó Mao Trạch Đông củng cố lực lượng và phản công trở lại , Tưởng lúc ấy thế yếu phải ngậm ngùi tháo chạy và Trung Hoa Dân Quốc Đài Loan đã được khai sinh vào thời điểm bại vong ấy .
    Cuối năm 1935 , cuộc “vạn lý trường chinh” của Mao Trạch Đông chấm dứt . Quân Cộng Sản đã quá mệt mỏi , đảng viên chỉ còn non 30 nghìn nhưng làm chủ một miền Hoa Bắc rộng lớn , dân cư thưa thớt nghèo nàn . Họ phải xây dựng lại từ đầu , chia làm nhiều khu tương đối tự trị , chưa tiến lên chủ nghĩa xã hội vội nên tạm thời vẫn giữ chế độ tân dân chủ , nghĩa là cho dân những tài sản nhỏ , còn có giai cấp , được tự do làm ăn , xóa bỏ những món nợ cũ cho dân . Từ trước , nhất là thời xưng hùng của các lãnh chúa quân phiệt , nông dân bị điền chủ bốc lột , bị lính cướp bóc , bây giờ cảm thấy sung sướng coi Cộng Sản là người giải thoát cho họ . Dân chúng được học tập chính trị , được chỉ dẫn cách thức canh nông , tổ chức thành những đội tự vệ . Nhiều trường được mở để dạy dân thoát nạn mù chữ , lần lần có cả một trường đại học ở Bảo An với 2 nghìn sinh viên , họ chú trọng vào việc đào tạo sĩ quan cho đạo quân thứ 8 sau này . Nhân dân ở Thiểm Tây , Sơn Đông , Sơn Tây và Hà Bắc thấy không còn lo sợ cho họa Cộng Sản nữa , mà chỉ thấy nguy hiểm cho cái họa ngoại bang là Nhật Bản . Lúc này họ chiếm gần hết Hoa Bắc nên dân chúng chỉ mong sao cho Quốc Gia và Cộng Sản thỏa hiệp với nhau để chung vai kháng Nhật . Một số lớn dân chúng đã bỏ Mãn Châu về và bọn quân của Trương Học Lương cũng vậy . Trương Học Lương được Tưởng Giới Thạch phái lên đóng ở Tây An để bao vây Cộng Sản . Lương thấy Cộng đã thay đổi khẩu hiệu “đoàn kết diệt Nhật” thay vì “diệt Quốc Dân Đảng” , hơn nữa Lương còn thấy đoàn quân của họ ở Thiểm Tây , Cam Túc gồm những binh lính cũ ở Hoa Nam còn sống sót sau cuộc trường chinh , bây giờ hăng hái kháng Nhật nên Lương cùng bộ hạ không thể nào tuân theo lệnh của Tưởng Giới Thạch “diệt bọn đạo tặc cộng sản trước hết” mà lén lút thương lượng với Cộng , lập một mặt trận thống nhất để kháng Nhật . Nhật lại cảnh báo Tưởng Giới Thạch rằng nếu không mau diệt Cộng thì Nhật sẽ xóa bỏ các thỏa hiệp đình chiến đã ký .
    Ngày 7 tháng 12 năm 1936 Tưởng Giới Thạch cùng vài viên tướng và 200 vệ binh bay đến Tây An để dò xét tình hình . Trong ba ngày Trương Học Lương thuyết phục ông không được nên cuối cùng Lương quyết định bắt cóc ông để thương thuyết . Tin Tưởng bị bắt cóc làm chấn động toàn quốc , người ta sợ ông bị giết thì Trung Hoa sẽ lâm vào tình trạng phân chia nội chiến nữa và tệ hại hơn Nhật sẽ nhân đó chiếm trọn Trung Hoa .
    Sau khi tống giam Tưởng Giới Thạch , hai tướng Trương Học Lương và Dương Hổ Thành đã ra tuyên bố giải tán Tổng bộ chỉ huy tiểu phỉ Tây Bắc và thành lập Ủy Ban Quân Sự lâm thời liên quân Tây Bắc kháng Nhật do Trương Học Lương làm chủ tịch , Dương Hổ Thành làm phó . Đồng thời hai người gửi điện thông báo cho Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Hoa và gửi kiến nghị đến Chính Phủ Trung Ương Quốc Dân Đảng ở Nam Kinh đòi cải tổ chính phủ , đình chỉ nội chiến , cùng nhau kháng Nhật , thực hiện dân chủ .
    Ngày 16 tháng 12 Chính phủ Quốc Dân Đảng ở Nam Kinh hạ lệnh “thảo phạt” Trương , Dương giải cứu Tưởng Ủy Viên trưởng và thành lập lực lượng thực thi mệnh lệnh do Hà Ứng Khâm làm tư lệnh . Lợi dụng thời cơ này , phái thân Nhật trong chính phủ Nam Kinh do Uông Tinh Vệ đứng đầu cũng ngấm ngầm tìm cách đoạt quyền của Tưởng , nhầm tiến sâu hơn nữa trong việc thực hiện âm mưu “liên Nhật , chống Cộng” .
    Sau khi nhận được điện của Trương Học Lương báo tin về cuộc chính biến , Trung ương Đảng Cộng Sản đã cử một đoàn đại biểu do Chu Ân Lai dẫn đầu đến Tây An để đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Trương , Dương với chính quyền Nam Kinh , nhằm đoàn kết chống Nhật .
    Trong các cuộc gặp gỡ , Chu Ân Lai đã chỉ rõ thời cuộc hiện tại và thuyết phục Trương Học Lương phóng thích Tưởng đồng ý cùng kháng chiến chống Nhật cứu nước . Đồng thời , Trung Ương Đảng Cộng Sản cũng gửi tới chính phủ Nam Kinh tuyên bố về lập trường của mình là “thống nhất với chủ trương của hai tướng Trương , Dương , giải quyết hòa bình sự biến Tây An” .
    Ngày 22 tháng 12 , Tống Mỹ Linh cùng em trai là Tống Từ Văn cùng Duna , cố vấn cao cấp của Tưởng , cùng bay tới Tây An để tiến hành các cuộc đàm phán với hai tướng Trương , Dương do Chu Ân Lai làm trung gian .
    Do sự cố gắng của Chu Ân Lai cùng với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước , đến ngày 24 tháng 12 Tưởng buộc phải chấp nhận điều kiện “đình chiến nghị hòa , liên Cộng kháng Nhật , phong thích chính trị phạm” và một số điều kiện khác . Ngày 25 tháng 12 , Tưởng Giới Thạch được trả tự do và đích thân Trương Học Lương tháp tùng đưa Tưởng bay về Nam Kinh .
    Sự biến Tây An coi như kết thúc . Tưởng Giới Thạch tuy bị mất mặt nhưng ai cũng công nhận rằng trước vụ đó ông ta có thái độ can đảm cứ giữ đúng đường lối tạm hòa hoãn với Nhật để lập lại trật tự trong nước , huấn luyện thêm quân đội đã . Ông hiểu rõ hơn các tướng khác về sức mạnh của Nhật Bản và thế yếu của Trung Hoa . Sau vụ đó ông lại tỏ ra có tư cách , giữ đúng lời hứa miệng với Cộng : thả các tù chính trị và chuẩn bị kháng Nhật .
    Trong lúc Mao Trạch Đông cũng có thái độ đàng hoàng là sẳn sàng hợp tác với chính phủ Quốc Gia để thực hiện những nguyên tắc của Tôn Dật Tiên mà Cộng Sản nhận là cần thiết trong giai đoạn đó , sẳn sàng đình chỉ mọi hành động thù nghịch với Quốc Dân Đảng , giải tán chính phủ để cùng nhau cứu nước .
    Như vậy là Quốc và Cộng cùng bắt tay nhau để bảo vệ chủ nghĩa dân tộc . Toàn dân Trung Hoa hoan hô cả Mao lẫn Tưởng . Uy tính và danh vọng của Tưởng tăng lên . Trong khi Mao được thêm cái lợi là sinh viên , kỹ thuật gia tới Diên An khá đông mà sự mua bán giao dịch với phần đất chiếm đóng của Quốc Gia cũng được dễ dàng . Trong khi ấy Cộng Sản ở Diên An mỗi ngày một mạnh . Sau khi thành lập mặt trận thống nhất , Mao tự do hoạt động ở Tây Bắc , ảnh hưởng của ông bắt đầu lan ra . Tướng Lâm Bưu thắng Nhật một trận khá lớn , uy thế tăng dần nên dân chúng theo đông . Đảng viên được lệnh , quân Nhật đến thì phải ở tại chỗ tổ chức bí mật , du kích ám sát , phá đường , đánh cướp xe địch để tịch thu vũ khí . Những khu đó trở thành khu giải phóng . Mới đầu là Sơn Tây , rồi lan ra thành khu Sơn Tây – Hà Bắc – Hà Nam . Họ chế tạo súng , lựu đạn , thuốc súng , máy thâu thanh … trong những khu đã giải phóng .
    Ngày 7 tháng 7 năm 1937 sự kiện Lư Câu Kiều (còn gọi là cầu Macro Polo) đã làm nổ ra cuộc chiến tranh Trung – Nhật . Cuối tháng 7 , Nhật với ưu thế quân sự , tiến chiếm luôn hai thành phố lớn nhất phía Bắc Trung Hoa là Thiên Tân và Bắc Kinh .
    Thế nhưng sau đó chiến tranh như ngừng lại . Quân Nhật không mở rộng địa bàn chiếm đóng thêm nữa . Ở thủ đô Nam Kinh , Tưởng Giới Thạch cũng không tuyên chuyến với Nhật , chỉ kêu gọi Hội Quốc Liên can thiệp . Cả hai bên dường như chưa muốn mở rộng chiến tranh . Nhật chỉ muốn chiếm một vùng đất rộng lớn phía Bắc làm bàn đạp sau này . Ở gần Thượng Hải , Nhật có một căn cứ hải quân ước chừng 3.000 quân do cuộc ngưng bắn từ năm 1932 quy định .
    Một tháng sau , đột nhiên chiến sự nổ ra ở ngay Thượng Hải rồi lan rộng . Nguyên nhân vì đâu ? Điều bí ẩn này cho đến hôm nay mới được phơi bày . Trước đây , dư luận hầu như đều cho rằng do phía Nhật cố tình tấn công trước . Nay mới rõ : chiến sự mở rộng là do bàn tay Liên sô nhúng vào , và Stalin lại là đạo diễn chính cho màn tang thương máu lửa ấy . Ông ta e ngại rằng Nhật Bản đang chiếm đóng Mãn Châu , với số quân đông hàng mấy sư đoàn , nay lại chiếm phần đất phía Bắc Trung Hoa ở gần biên giới Liên sô , có thể họ sẽ dễ dàng gây chiến với họ , điều mà Stalin cố tránh . Ông ta chỉ mong cho Nhật mở rộng chiến tranh về phía Nam Trung Hoa rồi bị sa lầy ở một vùng mênh mông Hoa lục . Stalin đã tạo ra một nhân vật lợi hại thực hiện kế hoạch chiến lược của mình . Nhân vật ấy là một viên tướng của Tưởng Giới Thạch : Trương Trị Trung . Trương Trị Trung lúc bấy giờ là tư lệnh vùng Thượng Hải – Nam Kinh . Năm 1925 , Trương từng là giáo viên học viện quân sự Hoàng Phố . Ông lại có cảm tình với Cộng Sản nên có lần yêu cầu Chu Ân Lai kết nạp ông vào đảng Cộng Sản . Nhưng Chu Ân Lai lại trả lời : Tốt hơn hết là hãy hợp tác bí mật với đảng . Những năm 1930 , Trương có quan hệ với sứ quán Liên sô ở Nam Kinh . Ngay sau sự kiện Lư Câu Kiều , Trương Trị Trung đã yêu cầu Tưởng Giới Thạch tấn công quân Nhật ở vùng Thiên Tân – Bắc Kinh để giữ quyền chủ động , nhưng Tưởng lại không đồng ý . Không có kết quả , Trung lại thuyết phục Tưởng tấn công quân Nhật ngay tại thành phố Thượng Hải , Tưởng vẫn không đồng tình , ông viện lẽ Thượng Hải là một trung tâm công nghiệp – tài chánh và lại quá gần thủ đô Nam Kinh . Cuối cùng Tưởng chỉ thị khi nào có dấu hiệu quân Nhật chuẩn bị tấn công cũng phải chờ lệnh của ông mới được hành động .
    Ngày 9 tháng 8 Trung dựng lên một cuộc xung đột ở sân bay Thượng Hải bằng cách cho một người tù mặc quân phục sĩ quan bị hai binh sĩ Nhật bắn chết , sau đó dàn cảnh hai người lính Nhật bị bắn trả nhằm để khơi ngòi cho một cuộc xung đột lớn . Nhưng phía Nhật cũng như phía Tưởng đều không muốn chiến tranh lan rộng . Tưởng Giới Thạch vẫn chủ trương tự kiềm chế không gây sự . Ngày 14 tháng 8 , Trung ra lệnh chuẩn bị cho máy may ném bom tàu chỉ huy Izuma của Nhật và một số vị trí quân Nhật . Tưởng liền ngăn lại không cho hành động . Ngày 15 tháng 8 , Trung chỉ thị cho báo chí ra tung tin quân Nhật đã ném bom và tàn sát dân chúng ở Thượng Hải . Gây nên một làn sóng căm phẩn trong quần chúng . Tưởng Giới Thạch đành phải ra lệnh tiến công vào ngày 16 tháng 8 . Đến ngày 18 tháng 8 , ông lại tuyên bố lệnh ngưng bắn . Nhưng đến lúc này Nhật đã gửi quân tiếp viện và chiến tranh bắt đầu lan rộng , số thương vong càng cao , căm thù càng chồng chất , đến lúc chiến cuộc đến hồi quyết liệt ấy khó có thể vãn hồi .
    Sau khi hoàn thành sứ mạng , Trung tuyên bố từ chức và về sống tại Bắc Kinh . Stalin vỗ đùi thích thú khi tình hình Trung Hoa chuyển biến như ý , tức là làm cho chiến tranh Trung Nhật lan rộng về phía Nam . Ông ta tức thời gia tăng viện trợ quân sự cho Tưởng Giới Thạch . Ngày 21 tháng 8 năm 1937 Liên sô ký với Tưởng Hiệp Ước bất tương xâm Sô-Trung và viện trợ vũ khí . Liên sô bán cho Tưởng 1 ngàn máy bay , nhiều xe tăng và đại pháo . Stalin còn cử 300 cố vấn sang giúp Tưởng . Suốt 4 năm từ 36 đến 40 Liên sô gần như là nguồn cung cấp vũ khí duy nhất cho Quốc Dân Đảng .
    Stalin còn chỉ thị cho Mao Trạch Đông rằng Đảng Cộng Sản Trung Hoa và Hồng Quân cần tích cực tham gia chống Nhật để lôi cuốn Tưởng vào cuộc chiến đấu này . Nhưng Mao lại nghĩ khác , lúc ấy Hồng Quân có khoảng 60 ngàn quân chính quy , trong đó 46 ngàn đang đóng ở vùng Tây Bắc với thủ đô là Diên An . Đoàn quân này mang tên là Bác Lộ Quân , do Chu Đức làm tư lệnh và Bành Đức Hoài làm phó . Còn 10 ngàn quân đóng ở phía dưới sông Dương Tử là Tân Tứ Quân do Hạng Anh làm tư lệnh . Mao luôn nghĩ rằng trên chiến trường Trung Hoa có 3 thế lực theo thế chân vạc như thời Tam Quốc : Quốc Dân Đảng , Cộng Sản và Nhật Bản . Phải thúc đẩy cho Nhật và Tưởng đánh nhau thật lực . Quân Nhật càng đánh sâu vào nội địa đuổi theo quân Tưởng thì càng tốt . Quân Mao cứ việc theo sau chân quân Nhật , chiếm các vùng quân Nhật bỏ lại để biến thành căn cứ cho mình . Vì quân Nhật không có dân , không có chính quyền và kinh tế tại chỗ nên không thể trụ lại . Chỉ có quân của Mao làm được . Hơn nữa , sau mỗi cuộc đọ sức giữa quân Quốc Dân Đảng và quân Nhật , lính của Tưởng tự bỏ ngũ nhiều , Hồng Quân thu nhận số tàn quân ấy , nuôi dạy để bổ sung cho quân mình .









    Chương 4 :

    ĐÔNG KiNH RỐI LOẠN



    Trở lại với Đông Kinh trong những ngày đầu chiến tranh . Khi tình trạng quân phiệt đã hoàn toàn ảnh hưởng chính trường Nhật Bản . Hirota , với cương vị và quyền hành của một thủ tướng đương nhiệm cũng phải cúi đầu khuất phục trước uy quyền thế lực của quân đội . Những thành viên phe đối lập quá khích kêu gọi Bộ trưởng chiến tranh nên tự tử vì danh dự . Không còn con đường nào để chọn lựa khi đứng trước những đối thủ quá hung hăng và ngang ngược , ông Bộ trưởng đành phải ngậm ngùi từ chức trong uất ức . Và dĩ nhiên , theo sau sự ra đi của ông Bộ trưởng chiến tranh , tháng 2 năm 1937 , Thủ Tướng Hirota chính thức giải tán nội các và cũng lặng lẻ ra đi để nhường lại chính trường cho những kẻ đầy tham vọng khác .
    Thái Tử Saionji vội tiến cử ngay với Thiên Hoàng Đại Tướng Kazushige Ugaki , một quân nhân thuần túy lên thay thế Hirota trong chức vụ Thủ Tướng chính phủ . Ý kiến này đã gây căm phẩn trong lòng đại đa số phe quân phiệt vì Ugaki thuộc khối ôn hòa và hơn nữa ông có chiều hướng cắt giảm quân sự . Cuối cùng Thiên Hoàng đành phải nhượng bộ phe quân phiệt nên giao trọng trách cho Tướng Senjuro Hayashi , một nhân vật rất thân với phe “Điều khiển” . Hayashi chấp chánh quyền Thủ Tướng và hành động gần như đối lập với Quốc Hội chính phủ . Với một Nội Các mệnh danh “Ăn và chạy” của ông chỉ tồn tại có ba tháng phù du . Hoàng Thân Fumimaro Konoye thuộc đồ tôn của dòng dõi Fujiwara , được chọn lên thay Hayashi .
    Khi sự kiện Lư Câu Kiều xảy ra , tin nhanh bay về Đông Kinh . Tham mưu trưởng Lục Quân đánh điện tối khẩn ra lệnh cố gắng ổn định tình hình chờ lệnh . Cũng trong ngày này , Đông Kinh mở cuộc họp bất thường gồm những sĩ quan đại diện Lục quân , Hải quân và Bộ trưởng Bộ ngoại giao để tìm một giải pháp ngăn chận chiến tranh đang bùng nổ . Cuối cùng họ đi đến quyết định dùng chính sách “không bành trướng lãnh thổ” “ổn định tình hình” . Chính sách ôn hòa này đã được Thủ Tướng Konoye và Nội các của ông thông qua . Nhưng ngược lại , trong một cuộc họp đặc biệt của Bộ Tổng Tham Mưu , những nhân vật chủ trương bành trướng nhất định yêu cầu thẫm quyền nên gửi viện quân sang dạy cho Tưởng Giới Thạch bài học đích đáng . Nếu chẳng ra tay ngay từ lúc này , sẽ có ngày Tưởng viện cớ Lư Câu Kiều mà đòi lại phần đất Mãn Châu đã mất từ nhiều thập niên qua . Đó mới là mối đe dọa cho quân Nhật Bản ở bán đảo Triều Tiên và cuối cùng là hiểm họa của quốc gia khi phải đương đầu với hai kẻ thù đáng ngại là Liên sô và Cộng Sản Trung Hoa . Một nhân vật bất đồng ý kiến đã quyết liệt tranh cãi hàng giờ nhưng không mang lại một kết quả như ông mong muốn , đó là Kanji Ishihara , bây giờ ông đã mang lon trung tướng và cũng là người chỉ huy chiến dịch hành quân . Cuối cùng ông phải chấp nhận theo ý kiến của đại đa số đại biểu . Bản tin gửi về từ lục địa khiến cho ông hoang mang không ít , vì lý do những kiều dân và con buôn Nhật bị những người lính Trung Hoa tàn sát dã man ở miền Bắc Hoa Lục đã gây chấn động quần chúng và hằn thêm vết thù giữa hai dân tộc Nhật – Hoa , ông sợ rồi đây cuộc chiến này sẽ không bao giờ chấm dứt .
    Do đó , một chỉ huy đã từng tuyên bố “Bất cứ người lính nào muốn tiến vào đất Trung Hoa thì phải bước qua xác chết của tôi” lại chấp thuận cho sự tăng viện vào miền Bắc Hoa Lục 2 lữ đoàn từ Đội quân Quang Đông , 1 sư đoàn đang chiếm đóng Triều Tiên và 2 sư đoàn từ quốc nội . Ngày 11 tháng 7 , thủ tướng Konoye , người đã vừa tuyên bố tôn trọng không xâm phạm bờ cõi các quốc gia láng giềng nay lại chấp thuận cho quân đội sang chiếm đóng Trung Hoa . Nhưng , theo sự tiết lộ của viên thư ký riêng của Thủ Tướng thì Konoye có lẽ bị đặt vào trường hợp khó xử nên khi đối mặt với ông Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh , Konoye cứ dặn đi dặn lại rằng đây là cuộc động binh nhằm bình định những vùng tranh chấp để ngăn chận chiến tranh hầu tái thiết hòa bình nơi miền Hoa Lục .
    Khi hàng chục ngàn quân tăng viện đến thì chiến sự lại càng thêm ác liệt . Say men chiến thắng , lục quân Nhật tiến chiếm thành phố như chỗ không người . Bước chân họ dẫm đến đâu là nơi đấy biến thành bình địa . Nam Kinh , một địa danh rợn người đã được quốc tế không ngớt nhắc nhở nhiều lần với những cảnh tượng dã man hung tàn do quân đội Nhật gây ra . Chết chóc , tang thương càng khơi dậy lòng yêu nước của người dân Trung Hoa . Nỗi nhục bị xâm lăng khiến cho lòng tự ái dân tộc của họ bị tổn thương , Mao Trạch Đông nắm lấy cơ hội ngàn năm một thuở công khai kêu gọi toàn dân tham gia chống Nhật xâm lăng . Và cũng những năm này , số đảng viên Cộng Sản Trung Hoa tăng nhanh kỷ lục .
    Tung hoành ở miền Hoa Lục chỉ trong vòng 3 tháng thôi là họ , những người Trung Hoa hèn yếu kia sẽ chịu nhượng bộ và đi đến thương thuyết hòa bình thôi !” . Đó là lời tiên đoán của ông bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Sugiyama . Nhưng rồi từng thành phố một lần lượt rơi vào tay quân đội Nhật . Tin chiến thắng vang dội bay về Đông Kinh gây nên một niềm phẩn khởi cho cả nước . Ngược lại , toàn khối Tây phương đều lên án sự xâm lăng quá trắng trợn của Nhật Bản . Ngày 5 tháng 10 năm 1937 , Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D.Roosevelt đọc bài diễn văn tại thành phố Chicago , mạnh mẽ lên án những quốc gia có hành động xâm lược , ông nhấn mạnh Nhật Bản được xếp vào cùng một trục với Phát Xít và Quốc Xã . “Khi một cơn dịch bắt đầu phát khởi , chúng ta phải có một bổn phận chung là hợp nhất cùng nhau tìm cách cách ly bệnh nhân để bảo vệ sức khỏe cho cả một công đồng !”. Ông dẫn giải rằng chiến tranh là một chứng bệnh hay lây lan , mặc dù có hoặc không tuyên chiến cũng vậy .
    Vài hôm sau , Hội Quốc Liên lên tiếng khiển trách Nhật Bản , tuy không là một thành viên của Hội nhưng Hoa Kỳ cũng nhiệt liệt tán thành .
    Hành động của Tổng Thống Roosevet được đại đa số tán thành nhưng ngược lại ông Ngoại Trưởng Cordell Hull đang phàn nàn bởi từ ngữ “cách ly” . Ông có cảm tưởng rằng phải chờ đợi “Để ra it nhất là không thay đổi trong vòng 6 tháng để rộng thời gian tham vấn , vận động hầu tìm cho mình sự nhiệt tình ủng hộ của quốc dân và nhiều hậu thuẩn của đồng minh trên trường quốc tế” . Đại Sứ Joseph Grew cũng cùng mang một ý nghĩ ấy . Ông cảm thấy Hoa Kỳ đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng . Không một người Mỹ nào có hứng thú với Trung Hoa để bào chửa cho một cuộc mạo hiểm mới đó là cuộc chiến đương đầu với Nhật Bản , đó chỉ một công việc vô ích mà thôi , như một “lời răng đe đạo đức” cho một đất nước quen lấy vũ lực làm uy quyền tối thượng . Nó có thể dẫn đến sự bất hòa giữa hai quốc gia và tệ hại hơn nữa là những mối tương quan đẹp đẻ mà ông đã hằng bao năm trời ra công gầy dựng , e nó sẽ thành công Dã Tràng tiêu tan mất . Những nhân viên thân tín cùng ông Đại sứ san sẻ nỗi ưu tư đặc biệt này và ông cũng cẩn thận căn dặn họ không nên tiết lộ mối quan tâm của mình cho bất cứ ai ngoài phạm vi tòa đại sứ . Đêm ấy ông ngồi viết nhật ký :
    “Đó là một ngày tôi cảm thấy lâu đài mình dày công xây dựng bỗng chốc đổ nhào bên tai tôi . Và chúng tôi đã thả dòng suy tưởng đi lan man trong cơn lúng túng , chán nản ngả lòng . Thật là một ngày ảm đạm , trên nét mặt chúng tôi không ai có được một nụ cười , dù là gượng gạo …..”.
    Và dĩ nhiên nước Nhật đâu có thể im lặng . “Nhật Bản là bành trướng” , Yosuke Matsuoka thẳng thắn trả miếng . Matsuoka , một nhà ngoại giao miệng lưỡi sắc bén đã từng mang về vô số thành tích không ngần ngại lên tiếng “Ở thời đại mở mang bờ cõi có quốc gia nào mà chẳng động chạm đến các nước lân bang chứ ? Thử đi hỏi những người Mỹ da đỏ hoặc dân tộc Mễ thế nào là kinh nghiệm đau thương mà họ đã từng trãi qua thời Hoa Kỳ mới lập quốc” . Nhật Bản mở mang bờ cõi hôm nay thì cũng như Hoa Kỳ ngày hôm qua mà thôi . Đó là lẽ tự nhiên , nó không khác gì sự phát triển của một đứa bé . “Chỉ có một nguyên nhân duy nhất ngăn cản sự phát triển của đứa bé là cái chết !” Ông ta hùng hồn tuyên bố rằng Nhật đang chiến đấu cho hai mục đích chính : thứ nhất là không để cho toàn Châu Á sụp đổ theo sự chi phối của người da trắng như họ đã làm ở Phi Châu , và thứ hai là để bảo vệ Trung Hoa , tránh hiểm họa nhuộm đỏ bởi khối Cộng Sản .
    Vài tuần lễ sau đó , ngày 16 tháng 11 , Koki Hirora , bây giờ là Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao , chính thức tố cáo Hoa Kỳ đang khởi xướng phong trào “Bài Nhật” , dùng chính sách kinh tế tẩy chay hàng hóa Nhật Bản . Ông nhắc lại với Grew rằng họ không thể chấm dứt chiến đấu ở Hoa Lục trừ phi người Trung Hoa có đủ can đảm để tự mình gánh vác cho một chiến cuộc lâu dài . Hirota lại than thở rằng cho đến bây giờ người Nhật vẫn có cảm nghĩ Hoa Kỳ là một quốc gia duy nhất thật sự không thiên vị để giúp họ tìm ra một giải pháp cho nền hòa bình chung .
    Ba ngày sau , quân Nhật tiến chiếm thành phố Soochow (Tô Châu) và con đường trãi dài từ Nam Kinh đến Thượng Hải bị cô lập . Ngày 12 tháng 12 , thành phố Nam Kinh lọt vào tay quân Nhật trong một chiều Thu ảm đạm . Tình hữu nghị giữa Mỹ và Anh suýt chút nữa đã vỡ tan khi một phi cơ thuộc Hải Quân Nhật đánh chìm pháo hạm Panay trên sông Dương Tử . Một tuần lễ trước đó , một trung đoàn trọng pháo theo lệnh của đại tá Kingoro Hashimoto đồng loạt tấn công pháo thuyền Ladybird và bắt giữ chiến thuyền ấy . Những biến cố này đã làm sống lại mối hy vọng “cách ly kẻ xâm lăng” của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt . Ông cho mời Sir Ronald Lindsay , Đại Sứ đặc mệnh toàn quyền Anh ở Hoa Thịnh Đốn và đề nghị hai quốc gia Anh-Mỹ cùng liên hiệp một đạo luật phong tỏa hàng hải cắt đứt nguyên liệu không cho nhập cảng vào Nhật . Lindsay lại phản đối vì ông cho rằng việc này sẽ dẫn đến chiến tranh . Ông lại điện báo cáo về Luân Đôn “lời bình phẩm khó nghe” đó đã “gieo cho ông một ấn tượng nho nhỏ” .
    Ngày hôm sau , 17 tháng 12 , Tổng Thống Hoa kỳ Roosevelt tóm tắt đề nghị “phong tỏa” cho Quốc Hội rõ . Quyết định của ông càng vững chắc hơn khi bản báo cáo từ Cơ quan điều tra trực thuộc Hải Quân Hoa Kỳ đang đóng tại Thượng Hải rằng tấn công pháo thuyền Panay là một việc làm cố tình và tàn nhẫn của Hải Quân Nhật . Quan trọng hơn , tình báo Hải Quân Hòa Kỳ cũng phát giác được một cú điện văn bí mật được gửi đến lực lượng Hải Quân phối hợp của Nhật . Sau khi giải mã thì họ mới biết là cuộc tấn công này đã có tính toán sắp đặt trước của một vị chỉ huy trên mẫu hạm mang tên “Kaga” .
    Ngay tại Đông Kinh , chính phủ Konoye , không khác gì Hoa Kỳ và Anh Quốc ; sự kiện hai chiến thuyền Ladybird và Panay cũng làm họ bồn chồn day dứt . Bộ trưởng Ngoại Giao Hirota tỏ lời xin lỗi cùng Đại Sứ Hoa Kỳ và thiết tha đề nghị xin được bồi thường thiệt hại cho pháo thuyền Panay bị đánh đắm . Với lối biện giải hèn hạ , Hirota bảo rằng “Tôi đang đứng trước một hoàn cảnh hết sức khó xử . Sự việc xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng !”. Bộ chỉ huy tối cao của Hải Quân Nhật cũng bày tỏ sự bất bình bằng cách sa thải vị sĩ quan chỉ huy mẫu hạm Kaga , người chịu trách nhiệm đánh bom con tàu Panay . “Chúng tôi làm như thế là để đề nghị quân đội phải làm như thế” , đó là lời tuyên bố của ông Thứ trưởng Bộ Hải Quân Nhật Isoroku Yamamoto , người không có hứng thú trong việc tranh chấp với hải quân Hoa Kỳ . Ông đã bỏ ra nhiều thời gian nghiên cứu khi còn du học ở Hoa Kỳ và chính ông cũng hiểu quá rõ về tiềm năng quân sự của đất nước này .
    Lời xin lỗi của Nhật được Hoa Thịnh Đốn chấp nhận đúng ngày Giáng Sinh và mọi rắc rối xảy ra giữa hai quốc gia hình họ đã cho khép lại . Tuy vậy Tổng Thống Rooselt vẫn giữ ý định cách ly Nhật . Ông phái Hạm Trưởng Royal Ingersoll đến Luân Đôn mang theo bản kế hoạch phong tỏa Nhật Bản với đầy đủ chi tiết . Bản kế hoạch mà trước đó không bao lâu ông Đại Sứ Lindsay cho là “kinh tởm” bây giờ lại được chính phủ của ông chấp nhận .
    Trở lại tình hình Trung Hoa , Nhật vẫn tiếp tục tiến quân dần về phía Nam lục địa mà không gặp một kháng cự nào đủ mạnh để kềm chân họ . Sau Hàn Châu rồi Quảng Đông lần lượt lọt vào tay quân Nhật . Bắt buộc Tưởng Giới Thạch phải chuyển bộ tham mưu tất cả về lại Trùng Khánh . Tuy rằng quân Nhật đã mở đường Nam tiến sâu vào lục địa Hoa lục , chiếm được đất đai và tài sản vô số nhưng chung qui họ không thể chinh phục được lòng người dân Trung Hoa , vì dân bản xứ đồng coi họ là những kẻ xâm lăng trắng trợn . Bước sang đầu năm 1939 , mặc dù còn quá xa để đi đến chiến thắng cuối cùng trên miền Hoa Lục , nhưng Nhật đã chịu một con số tử vong lên đến hàng mấy ngàn tay súng và nhiều triệu Yen . Chưa nói đến đã hứng chịu sự phẫn nộ của thế giới phương Tây , mà Hoa Kỳ là điển hình .
    Đối với Hoa Kỳ , cánh cửa giao hảo giữa hai quốc gia chỉ mới bắt đầu hé mở tạm thời kể từ ngày Đô Đốc Perry cập bến , với đại bác cà-nông phô trương thanh thế và lá thư của Tổng Thống Millard Fillmore , khuyến khích Nhật Bản nên mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài . Động lực nào đã thúc đẩy người Mỹ phải vượt Thái Bình Dương để đến tận xứ mặt trời mọc xa xôi vừa hăm dọa vừa làm thân với dân bản xứ ? Giúp đỡ họ trong tinh thần nhân đạo ư ? Dĩ nhiên là không . Tham vọng của họ là không ngoài ý muốn giao dịch , truyền bá tư tưởng mới và nhân cơ hội này mở rộng ảnh hưởng Ki Tô Giáo vào một quốc gia phương Đông còn khép kín .
    Lúc ban đầu , người Nhật bất đắc dĩ phải miễn cưỡng nghe theo , nhưng dần dà sự tòng phục ấy lại biến mất trong lòng người dân bản xứ . Ngọn gió văn minh đã thổi vào đảo quốc này và làm thay đổi tất cả . Họ không ngần ngại đứng lên hô hào canh tân đất nước và được đại đa số quần chúng hưởng ứng . Cuối thế kỷ 19 Hoa Kỳ dần dần giành được ảnh hưởng những hải đảo nằm rãi rác trên Thái Bình Dương như Hạ Uy Di , Guam , Wake Island và Phi Luật Tân . Nhìn cánh tay của Mỹ cứ vươn dài ra ôm lấy các hải đảo , Nhật ăn ngủ không yên . Nhưng đến năm 1900 , nhờ loạn Nghĩa Hòa Đoàn ở Thượng Hải mà Nhật và Mỹ đã bắt tay nhau trở lại mối quan hệ bình thường .
    Bốn năm sau , khi chiến tranh Nga Nhật bùng nổ thì Hoa Kỳ lại công khai mạnh mẽ ủng hộ Nga . Báo chí đua nhau dùng những ngôn từ bất nhã và hí họa châm biếm người lính Nhật . Từ đấy sự giao hảo của hai quốc gia không còn được mặn nồng như thời gian 4 năm trước . Năm 1905 , chiến tranh Nga Nhật kết thúc , chính phủ Nhật càng điên đầu khi phải đối diện với nền kinh tế quốc gia hết sức ngặt nghèo và phong trào “bài Mỹ” nỡ rộ khắp nơi .
    Sang năm sau , 1906 , tình giao hảo giữa Nhật và Mỹ càng tồi tệ hơn . Đáng trách là về phía Mỹ , không hiểu căn cứ vào đâu mà cấp lãnh đạo của họ lại e ngại rằng nếu một mai nước Nhật vươn vai trở thành cường quốc , sẽ lãnh đạo cộng đồng Á châu đẩy lùi sự khai hóa đến từ phương Tây và liên kết nhau gia tăng lực lượng tuyên chiến với Hoa Kỳ , đặc biệt là những hải đảo cùng những vùng phụ cận chung quanh Thái Bình Dương . Họ tuyên bố rằng mối “hiểm họa da vàng” sẽ xảy ra và những kẻ hiếu chiến từ phương Đông lạc hậu sẽ thống trị quả địa cầu một ngày không xa nếu không tìm cách ngăn chận lại .
    Chính phủ Nhật phản ứng kịch liệt , cho rằng “Đó là một hành động phân biệt mang tính cách sỉ nhục và khinh nhờn , điều này khó có thể bỏ qua được” . Chính giới Hoa Kỳ ngấm ngầm soạn thảo kế hoạch phòng chống nếu chiến tranh xảy ra , Roosevelt bí mật ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân chuẩn bị sẳn sàng ngăn chận mọi cuộc tấn công của Nhật Bản .
    Cơn khủng hoảng rồi lại đi qua , nhưng sự thù hiềm nhau thì dĩ nhiên không đời nào dễ dàng nguôi ngoai , để rồi sự đối lập mâu thuẩn ấy càng lúc càng dâng cao mặc dù họ là đồng minh với nhau trong thời điểm thế chiến thứ nhất . Tổng Thống Woodrow Wilson kêu gọi “Toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính quyền trên toàn thế giới” nên trả lại cho Trung Hoa những quyền lực thật sự và đất đai đã mất về tay quân xâm lược trước kia . Lập trường này là lời đe dọa thẳng vào đế quốc Nhật .
    Trở lại tình hình hiện tại của năm 1938 . Chiến tranh giữa Nga và Nhật vẫn cứ tiếp diễn , cũng là do sự tranh giành lãnh thổ hơn là mối bất hòa giữa hai dân tộc . Cũng ngay trong mùa hè năm này , bộ binh của họ đụng nhau dữ dội cốt là để giữ lấy những ngọn đồi trọc dọc theo biên giới Mãn Châu và Nga . Hồng Quân Nga tung ra những đợt không kích gây thiệt hại nặng nề cho quân Nhật khiến trong vòng 2 tuần lễ họ phải chịu nhượng bộ . Khoảng 10 tháng sau ở biên giới Ngoại Mông và Mãn Châu lại xảy ra cuộc tranh cãi ầm ỉ , chỉ vài tuần sau thì súng đạn thay lời , chiến tranh tái diễn . Cuộc đụng độ nãy lửa giữa hai dân tộc với một số lượng xe bọc thép nhập cuộc chưa từng có trong lịch sử . Một lần nữa , Nhật bị Nga đè bẹp với hơn năm mươi ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến . Sau những lần thất bại chua cay ở mạn Bắc , không những đã gây ra nhiều sóng gió cho chính trường và quân đội Nhật mà nó còn là một nguyên nhân sâu sắc để mang Nhật đến gần với Đức và Ý hơn , một khi họ có cảm tưởng rằng Nga sô , Anh Quốc , Trung Hoa và Mỹ cùng chung vai sát cánh để chống trả lại với họ vào thời điểm này .
    Trước khi tình hình biên giới mạn Bắc tạm lắng xuống thì Stalin dùng thủ đoạn gây rối loạn cho Trung Hoa và Nhật Bản bằng cách ký một công ước với kẻ thù không đội trời chung của ông là Hitler .
    Thủ tướng Nhật Hiranuma , người vừa lên thay Hoàng Thân Kenoye đầu tháng 1 vừa qua . Nội các của ông đã trãi qua hơn 70 cuộc họp để thống nhất một công ước “tay ba” (Sau này người viết xin gọi là Hiệp ước Liên Minh) trong một tình trạng hết sức lúng túng và mất tinh thần đến nỗi ông phải tuyên bố “Chắc rồi đây nội các này phải giải tán vì những biến động dồn dập gần đây của quốc nội cũng như tình hình bất ổn bên Âu Châu” .
    Đức và Nga vừa công bố với thế giới những điều khoản mà họ đã ký trong một hiệp ước lịch sử , ngoại trừ một nghị định thư tối mật là cùng nhau chia hai Châu Âu . Chín ngày sau , 01 tháng 09 , một triệu rưỡi lính Đức tràn qua Ba Lan . Thế chiến thứ 2 bắt đầu . Binh sĩ Đức tiến sâu vào nội địa Ba Lan và chiến thắng một cách dễ dàng , chỉ trong vài tuần họ đã làm chủ chiến trường . Trong khi ấy thì mặt trận phía Tây hoàn toàn im lặng đến đỗi báo chí tỏ ra lạc quan , họ đồng cho rằng đây chỉ là sự xung đột nhất thời giữa hai quốc gia !

  4. #4
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương 5



    THẾ CHIẾN BÙNG NỔ


    Trở lại cuộc chiến dai dẳng ở Trung Hoa . Càng ngày quân đội Nhật càng lún sâu vào một cuộc chiến gần như vô vọng . Trước những thiệt hại mất mát quá lớn lao của binh sĩ thương vong cùng số chiến phí khổng lồ cứ đổ vào càng lúc càng nhiều , bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Thiên Hoàng đã bí mật hội thảo với nhau , họ quyết định rằng nếu không đi đến đoạn cuối kết quả của chiến thắng trong thời hạn một năm thì bắt buộc họ phải rút tất cả lực lượng chiếm đóng trên phần đất Trung Hoa . Chỉ để lại một ít quân số dọc biên giới Hoa Bắc để phòng chống lại quân Cộng Sản mà thôi . Nhưng tình hình Âu châu lại biến chuyển đột ngột . Chỉ 6 tuần lễ sau đó , vào ngày 10 tháng 5 , Hitler làm thay đổi cách suy tính của Nhật Bản bằng cách tiến quân tấn công vào mặt trận phía Tây . Bốn ngày sau Bộ Chỉ Huy Quân Đội Hòa Lan đầu hàng . Rạng ngày 15 tháng 5 , mới 7:30 sáng , Winston Churchill , vị Thủ Tướng mới nhậm chức của Anh Quốc bị đánh thức bởi cú điện khẩn cấp từ Paris “Chúng tôi bị tấn công!” Thủ Tướng Paul Reynaud lại gào to hơn “Chúng tôi đang bị đánh tơi bời !” . Hai tuần sau Vua Leopold đệ tam tuyên bố đầu hàng bất kể lời can ngăn của nội các chính phủ , ông từ chối lánh nạn ở Anh và hậm hực phát biểu : “Tôi đã quyết định ở lại bởi vì đồng minh đã thất bại !” . Pháp quốc đầu hàng và chỉ trong vòng một tháng sau , Anh cũng đứng bên bờ nguy kịch .
    Thế tiến như vũ bão của Đức ở Âu Châu làm nức lòng các vị chỉ huy quân đội Nhật khiến cho họ nhanh chóng thay đổi quyết định , với khẩu hiệu “Bắt lấy cơ hội ngàn năm một thuở !” cuộc chiến dai dẳng ở Hoa Lục lại rẽ sang một chiều hướng khác . Một khi Pháp đã bị Đức khống chế hoàn toàn và Anh đang chiến đấu để sống còn thì còn chờ gì mà không tung quân ra tiến sâu xuống vùng Đông Nam Á chiếm lấy các mỏ dầu và vô số tài nguyên khác rất cần thiết cho sản xuất . Rạng sáng ngày 22 tháng 06 Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Chiến Tranh mở phiên họp khẩn cấp . Những vị sĩ quan vừa rồi đã đưa ra quyết định rút quân ra khỏi Hoa Lục bây giờ lại đề ra kế hoạch bất thình lình tấn công Tân Gia Ba .
    Cuối tháng 07 , Hoàng thân Konoye được thuyết phục trở lại chính trường và thành lập nội các mới . Hai bộ quan trọng được thay vào hai khuôn mặt mới đầy triển vọng . Một vị là nhà ngoại giao khôn khéo , nói năng lịch thiệp Yosuke Matsuoka , tân Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao . Vị thứ nhì vốn xuất thân trong khói lửa , Trung Tướng Hideki Tojo , tân Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh . Một quân nhân tận tụy với chức nghiệp và cống hiến cuộc đời cho hoài bảo , Tojo được coi như một ông Tướng gương mẫu trong hàng sĩ quan Nhật .
    Đã kinh qua những khó khăn mà ông phải đối diện trong nhiệm kỳ qua , Konoye cảm thấy thoải mái hơn khi trở lại chấp chánh vai trò Thủ Tướng lần này . Ít ra ông cũng tạo được uy tín trong guồng máy quân đội , có khả năng thực hiện và phân bố những trọng trách khó khăn , bao gồm sự thành công trong việc chỉ huy đội quân quan ngoại Quang Đông cứng đầu cứng cổ . Là một con người liêm khiết luôn đề cao tinh thần kỷ luật và đòi hỏi kỷ luật tuyệt đối ở thuộc cấp , Konoye dựa theo kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của từng vị sĩ quan chỉ huy mà giao phó công tác .
    Ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Matsuoka , đã một thời làm Chủ Tịch Sở Hỏa Xa thuộc chi nhánh Nam Mãn Châu . Trong khoảng thời gian này Matsuoka từng tiếp xúc nhiều với tướng Tojo khi ông ấy còn phục vụ trong bộ chỉ huy đội quân Quang Đông . Hai người này tánh tình gần như trái ngược nhau , Matsuoka cứng cỏi kiên quyết tánh thích phiêu lưu mạo hiểm dám nghĩ dám làm , là một thiên tài hùng biện nhưng lại quá khoa trương trong khi Tojo thì thâm trầm kín đáo nói năng chừng mực .
    Matsuoka vốn người nhỏ con , da ngâm đen , cái đầu tròn tóc cạo nhẵn , bộ ria mép rậm ri nỗi bật dưới cặp kính trắng to gọng , hình ảnh này đã tạo được một ấn tượng đặc biệt cho thế giới nhân dịp xuất hiện trước ống kính tại đại hội Quốc Liên bàn cãi về đặc quyền trên lãnh thổ Mãn Châu dạo nào .
    Ở tuổi 13 , cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới mà đã bị ông cậu là một thuyền trưởng bạc đãi , bỏ rơi để cho ông một mình lạc lõng đi lang thang trên bờ biển vắng thuộc miền Tây Hoa Kỳ . Một gia đình người Mỹ ở Portland , Oregan thương tình đứng ra bảo trợ , giúp ông trở thành thường trú nhân trên đất Mỹ . Và từ đó ông lao vào cuộc sống mới với đủ thứ nghề lao động chân tay cũng có mà văn phòng cũng có , vừa học vừa làm đến khi tốt nghiệp đại học Oregan thì ông ra làm việc 3 năm rồi quay trở lại nguyên quán , nơi mà ông cho là tổ quốc quê hương không thể chia lìa .
    Thủ Tướng Konoye bao giờ cũng lắng nghe ý kiến đóng góp của từng cá nhân thuộc cấp , nhưng ngược lại , Matsuoka chỉ trình bày ý kiến và bao giờ của mình cũng là nhất . Những bài phát biểu vòng quanh khó hiểu của ông dễ gây hiểu lầm cho đồng sự . Vì thế không ít người thì thầm bảo nhau rằng ông ta là một nhà chính trị loạn trí hoặc một vị Bộ Trưởng ngược đời !
    Nội các mới vừa thành lập được vỏn vẹn 4 ngày thì phải bắt tay vào làm việc không ngừng để thông qua một chính sách mới nhằm đối phó với “thử thách gay go không có quyền chọn lựa” cho sự tồn vong của quốc gia . Chính sách mới này đơn thuần là tập trung mục đích lập lại nền hòa bình chung . Danh từ “Đại Đông Á” được hình thành , Mãn Châu và Hoa Lục dĩ nhiên phải chịu dưới sự lãnh đạo của người Nhật . Luật Tổng động viên được ban hành trên toàn cõi quốc gia , kêu gọi mọi người hãy hy sinh hạnh phúc cá nhân vì bổn phận công dân mà cống hiến cuộc đời cho quốc gia xã tắc . Duyệt kế hoạch củng cố lại nền kinh tế quốc gia cũng như cải tổ lại Quốc Hội và dàn xếp êm đẹp chuyện rắc rối thuở nọ trên Lư Câu Kiều .
    Hơn nữa , Hiệp Ước Liên Minh Nhật đã ký kết với Ý và Đức , lời giao ước là không gây hấn với Liên sô , thêm vào đó Hoa Kỳ đã cấm vận nguyên liệu chiến lược khiến cho Nhật nao núng không thể phát động chiến tranh ở mặt Bắc . Trong mưu đồ thôn tính lãnh thổ để khai thác tài nguyên làm giàu cho bổn quốc , phía Bắc đã bế tắc khiến Nhật phải nhìn sâu xuống tận phương Nam , với Đông Dương trù phú và xa hơn nữa .
    Cách giải quyết này chính là sản phẩm trí óc của những vị chỉ huy quân sự , nhưng họ phải thuyết phục Thủ Tướng Konoye và Nội Các dân cử rằng đây là cơ hội cuối cùng cho sự sống còn của một Nhật Bản đang lắc lư trên con thuyền canh tân đất nước . Bằng bất cứ giá nào câu khẩu hiệu “Bắt lấy cơ hội ngàn năm một thuở” đã trở thành quốc sách , sau sự kiện Lư Câu Kiều , chiến tranh càng lan rộng , vô hình chung đã đẩy Nhật Bản vào thế xâm lược không còn chối cãi vào đâu nữa . Trong lúc ấy uy quyền hành chánh tối cao trong cơ chế chính phủ hướng theo con đường dân chủ của Hoa Kỳ . Điều trái ngược này thật sự đã xảy ra ở Nhật . Hiến pháp Đại Hòa phân chia quyền hành giữa Nội Các và Bộ Tư Lệnh Tối Cao . Người chỉ huy quân sự , cho dù chỉ có chút ít kiến thức chính trị hoặc ngoại giao cũng có thể lạm quyền qua mặt các vị Nội Các dân cử . Tóm lại , tiếng nói của những vị chỉ huy quân sự này rất nặng ký , có thể làm lung lay một chính thể . Quân đội độc quyền như thế lâu dần đã trở thành truyền thống khiến không mấy ai còn thắc mắc nữa . Do đó , chính vì đặc quyền này mà trong quân đội đã sản sinh ra không biết bao nhiêu vị Đô Đốc , Tướng Tá ỷ thế lộng quyền dùng bạo lực nhà binh và chút kiến thức ấu trỉ để chi phối cả một nước Nhật .
    Một nhân vật then chốt trong quân đội kẻ đã hô hào khẩu hiệu “Bắt lấy cơ hội ngàn năm một thuở” đã không muốn hoặc giả không nhìn thấy được hậu quả của cuộc chiến sắp xảy ra . Pháp quốc thất trận phải đầu hàng Quốc Xã , Anh quốc đang chiến đấu để sống còn , Đông Dương béo bở với nguồn lợi bạt ngàn những đồn điền cao su , quặng mỏ kim loại , than đá và là kho gạo mênh mông vô tận , đối với họ không khác gì một kho báu vô chủ bên đường đang chờ họ tới chở đi . Trong vòng hai tháng Nhật gây áp lực bắt buộc chính phủ Vichy ký một thỏa thuận ở Hà Nội đồng ý cho họ thiết lập sân bay quân sự ở Bắc Việt để sử dụng nơi này như một pháo đài tấn công Trung Hoa .
    Tất cả những bước tiến này không tránh khỏi sự phản kháng dữ dội của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Matsuoka và những vị sĩ quan có bộ óc nhận xét tinh tế ở Bộ Tư Lệnh Tối Cao . Họ sớm nhìn thấy hành động này sẽ gây xung đột với người da trắng . Tham Mưu Trưởng Lục Quân là Hoàng Thân Kanin xin từ chức với đầy chua chát nghẹn ngào cho quốc gia dân tộc .
    Theo con đường ồ ạt Nam tiến của Nhật Bản , Hoa Kỳ quyết định phản ứng mạnh mẽ . Con đường Burma (Miến Điện) huyết mạch chuyển vận hàng hóa vào Trung Hoa quyết không để lọt vào tay quân Nhật . Tuy nhiên Thủ Tướng Winston Churchill lại lạc quan rằng Nhật sẽ dậm chân tại chỗ trên chiến trường phía Bắc Đông Dương nên không đắn đo khi đề nghị nên rút bớt 2 lữ đoàn Ấn Độ ra khỏi Tân Gia Ba . Bộ Trưởng Ngoại Giao Anthony Eden ngược lại không đồng ý , ông cho rằng không sớm thì muộn Nhật sẽ tiến xuống đến tận Mã Lai . Ông lại nhắc nhở Thủ Tướng “Có vài dấu hiệu báo cho chúng ta biết dường như Nhật và Đức có giao kèo gì với nhau . Cho nên , cách tốt nhất là chuẩn bị một hành lang chắc chắn bảo vệ cho Tân Gia Ba” .
    Và ông ta đã đoán đúng . Một cuộc thảo luận dài hạn về Hiệp Ước Liên Minh với Ý và Đức sắp đi đến kết thúc cho dù khoảng giao ước Hàng Hải vẫn còn tranh cãi . Chỉ e rằng qui chế ấy lại buộc Nhật Bản tự động dấn sâu vào chiến tranh trong một hoàn cảnh nào đó . Matsuoka phản đối giả thuyết này bằng lối thuyết phục và lập luận tràng giang đại hải . Chiếu theo công ước , ông ta mạnh dạn tuyên bố “Bắt buộc Hoa Kỳ phải cẩn trọng hơn trong đường lối chống trả Nhật Bản” và đương nhiên là tránh được cuộc can qua với một đại cường . Xa hơn nữa , giả thử như Mỹ đứng theo phe đồng minh nhảy vào cuộc chiến chống lại Đức Quốc , Nhật sẽ là người bàng quang thủ tọa không đứng về phe nào .
    Khó có thể cưỡng lại những biện luận công kích của Matsuoka . Nhưng nhân lúc đại đa số quần chúng cùng ủng hộ phe liên minh nên vô tình lôi kéo luôn những người bất đồng quan điểm về phe mình . Bất đắc dĩ Thủ Tướng Konoye đành chấp thuận , lẽ đương nhiên ông cũng biết nếu chống lại quan điểm của phe Quân phiệt sớm muộn gì họ cũng bắt buộc ông phải từ chức . Ông thố lộ tâm tình với người con rễ “Theo ý kiến của tôi thì nên mang quân đội rời xa cuộc chiến” . Nhật Hoàng cũng phản đối công ước ấy , trước khi đóng dấu vào văn bản , ông đã cảnh cáo Kenoye rằng có thể gây ra một cuộc xung đột lớn , chiến tranh với Anh Quốc và Hoa Kỳ tất không thể nào tránh khỏi . Ông thở dài than thở với Konoye “Nhà ngươi hãy cùng ta chia xẻ những hân hoan và bất hạnh trong những ngày kế tiếp !” .
    Ngày 27 tháng 11 năm 1940 , công ước được ký kết tại Bá Linh . Đối với Anh và Mỹ , đây là một bằng chứng xác thực chứng minh rằng Nhật không khác gì hơn Quốc Xã Đức và Phát Xít Ý . Và ba tay “hão hớn” này cố nhiên tìm nhau hợp tác quân sự để cùng khuấy động thế giới . Hoa Kỳ vội tu chỉnh ngay chính sách cấm vận Nhật hầu xiết chặc thêm về mặt nhập cảng dầu hỏa , nhiên liệu dùng vào việc chế tạo vũ khí cũng như kinh tế nước này .
    Matsuoka tuyên bố rằng ông đã từng sống một thời gian dài ở Hoa Kỳ nên rất hiểu người Hoa Kỳ . Đồng thời ông cũng thú nhận Hiệp Ước Liên Minh mới chính là một thủ đoạn ngoại giao khôn khéo “Chúng ta là đồng minh với Hitler , nhưng không vì thế mà mang quân đội ra mặt đối mặt chống chọi lại Hoa Kỳ , vì họ vốn là một cường quốc trội hơn ta về mọi mặt . Những kẻ hiếu chiến như Hoa Kỳ không sớm thì muộn gì họ cũng sẽ nhúng tay vào cuộc chiến ở Châu Âu . Đến lúc đó , chúng ta bắt tay hòa hoãn cùng họ . Kế sách này sẽ giữ yên trên toàn cõi Thái Bình Dương trong khi cả thế giới Tự Do đang sát cánh cùng nhau chống lại chủ nghĩa vô thần Cộng Sản” .
    Cùng với thủ đoạn ấy , công ước này cũng giúp Nhật tránh khỏi những rắc rối thuở nào ở Lư Câu Kiều . Matsuoka nói rằng “Để giải quyết những rắc rối dạo nào , cách tốt nhất là hãy quên đi và tìm con đường giúp đỡ lẫn nhau đi đến một nền thịnh vượng chung . Không nên chờ đợi hy vọng ở một bàn tay ngoại nhân nào có thể vãn hồi được tình trạng hỗn độn ở Trung Hoa . Tôi thiết nghĩ Hoa Kỳ cũng sẽ hài lòng về mục đích tái lập nền hòa bình trên đất nước này . Nhưng một câu hỏi được đặc ra là : Với sự nhượng bộ nào Nhật (hoặc quân đội Nhật) có thể chấp nhận ? Chả lẽ chúng ta đành chịu rút toàn bộ quân lực ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa” .
    Lối ngụy biện quanh co của Matsuoka cuối cùng cũng chỉ vì một mục đích cổ vũ cho sự ủng hộ kế hoạch của Bộ trưởng Ngoại Giao Đức Joachim von Ribbentrop , một thỏa thuận liên kết “tứ đại cường” : Ý , Nhật , Đức và kẻ thù muôn đời của họ là Liên sô . Ông vội xin phép xuất ngoại sang Châu Âu với ý muốn tự mình mang kế hoạch này ra ký kết . Sau một chuổi cứu xét thật nhiêu khê , Tổng Nha Quân Đội chấp thuận cho chuyến công du nhưng bác lời đề nghị xin được mang theo một món quà ra mắt Hitler “Lời cam kết là Nhật sẽ tung quân tấn công Tân Gia Ba” .
    Ngày 12 tháng 03 năm 1941 , một nhóm đông chính khách tụ tập tại sân ga Đông Kinh để tiển chân Matsuoka . Hồi còi tàu đã vang báo hiệu cho phút khởi hành , Matsuoka vụt bước nhanh đến Tướng Sugiyama , vọt miệng hỏi nhỏ : “Bao giờ thì quân ta tấn công Tân Gia Ba?” Vẫn là một câu hỏi chán ngấy khiến cho vị Tướng này cau mày cảm thấy không ít khó chịu “Tôi không thể cho ông biết ngay bây giờ!” . Đoạn ông ta quay mặt nhìn con tàu mà lòng thầm nhủ “Cái gã Matsuoka này đúng là một kẻ hay quấy rầy nhỉ !” .
    Đấy là sự thật về Matsuoka . Bản tính hay quấy rối của ông ta càng thể hiện rõ rệt trong chuyến công du dài xuyên qua Siberia . Ông ta rỉ tai Đại Tá Nagai , người được Tổng Nha Quân Đội phái theo sát Matsuoka đề phòng những lời hứa hẹn bộc trực có nguy hại đến quốc gia . “Nagai , ông cho quân quấy rối dọc theo biên giới đi . Tôi sẽ cố gắng dẹp bỏ hiệp ước trung lập Nhật-Nga” .
    Tại Bá Linh , tuy là lần đầu tiên được hội kiến với Hitler , trong buổi thảo luận , Matsuoka cũng vẫn là Matsuoka phô trương trịch thượng , lúc nào cũng luôn mồm biện luận trong khi Hitler thì im lặng vuốt vuốt nhúm râu dưới mũi gật gù . Lúc bàn bạc về tình trạng Anh Quốc , Hitler chỉ nhếch mép gằn giọng “Bọn chúng sẽ bị đánh tan tành !”.
    Cả Hitler và ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Ribbentrop cũng như những vị sĩ quan cao cấp Quốc Xã cùng thuyết phục Matsuoka rằng chiếm lấy Tân Gia Ba là tạo được nhiều lợi thế cho Nhật . Ribbentrop cân nhắc “Đó có thể là một cách tối ưu để giữ chân Mỹ bên ngoài cuộc chiến” vì Roosevelt không thể liều mạng mang quân vào lãnh hải Nhật Bản . Đồng thời Hitler cam đoan với Matsuoka rằng nếu Nhật phát động chiến tranh thì Đức sẽ là một quốc gia cùng sát cánh với Nhật trong mọi tình huống . Nếu như Mỹ có dại nhúng tay vào Thái Bình Dương thì sẽ đối đầu một lúc hai đối thủ . Căn cứ theo sức mạnh thật sự của quân đội Đức , rõ ràng là đã trội hơn quân đội của Hoa Kỳ rất nhiều .
    Dù mọi người cùng nhau cố thuyết phục nhưng Matsuoka vẫn giữ thái độ ậm ừ hoặc cố lãng tránh . Một lần đối mặt với Hermann Goring , sau khi nhận tặng phẩm là bức họa toàn cảnh núi Phú Sĩ từ tay Matsuoka , Goring tươi cười bảo rằng ông hứa sẽ đến để chiêm ngưỡng cảnh thật chỉ khi nào Nhật làm chủ Tân Gia Ba . Matsuoka nghiêng đầu hướng về phía Nagai và bảo “Tốt nhất là ông nên hỏi ông ta thì hơn !” .
    Matsuoka không hề biết dè dặt những điều ước mà ông đặt hết kỳ vọng được ký kết với Stalin và ông cũng hết sức ngạc nhiên khi nghe Ribbentrop gợi ý một hiệp ước “liên minh tứ cường” . Ông bảo “Tại sao ông có thể ký kết một hiệp ước trong lúc này ? Nên nhớ rằng Liên sô không bao giờ làm một việc gì mà không mưu tính vụ lợi đâu nhé !” . Nagai nhắc nhở ông nên dè dặt hơn nhưng một khi Matsuoka cao hứng thì còn ai có thể khiến cho ông im lặng được . Thậm chí Tướng Oshima , Tổng Lãnh Sự Nhật tại Đức khuyên ông nên kín đáo một chút vì tình hình hiện tại rất có thể Đức và Nga sẽ xảy ra chiến tranh .
    Ngày 06 tháng 04 , nhóm Matsuoka rời Bá Linh để hướng đến Mạc Tư Khoa . Ngay trên biên giới họ mới biết ra Đức đã chiếm đóng Nam Tư tự bao giờ . Lúc ấy Nagai và vài vị cố vấn khác cảm thấy rối bời như tơ vò trăm mối , bởi vì hiệp ước trung lập được ký kết giữa Đức và Nam Tư chữ ký còn chưa ráo mực kia mà . Duy chỉ có Matsuoka vẫn tỉnh bơ như chẳng có gì xảy ra . Ông ta cười hề hề rồi rỉ tai viên thư ký riêng “Tôi đã thủ sẳn một thỏa thuận với Stalin trong túi áo đây này !” .
    Đúng vậy , chỉ một tuần sau khi đến Mạc Tư Khoa , ông đã ký một hiệp ước trung lập tại điện Cẩm Linh . Trong buổi tiệc mừng xa xỉ ê hề rượu thịt , Stalin thể hiện sự vui thích đến đổi quên ngay chính mình là một chúa tể của một cường quốc đỏ , ông tự tay lấy thức ăn cho những người khách Nhật Bản , rượu vào lời ra say sưa quây cuồng , họ ôm nhau hôn hít không ngớt .
    Quả thật hiệp ước này là lối ngoại giao rất tinh tế khôn ngoan của Stalin . Nó là chứng cớ trưng ra để cho người ta tin rằng ông không đếm xỉa đến những lời đồn đại là Đức Quốc Xã sẽ tấn công Liên Bang Xô Viết . Suy cho cùng , nếu Hitler có dã tâm như thế thì ông còn chấp nhận cho Nhật ký kết điều khoản này không ? “Nhật Hoàng vạn tuế !” Ô hô ! Stalin này đã định đoạt được số phận của họ .
    Matsuoka cùng Stalin nâng cốc chúc mừng , chợt Matsuoka cười một tràng dài “Hiệp ước đã ký kết rồi ư ?”. Đoạn ông nhìn thẳng vào mặt Stalin dõng dạc tuyên bố “Tôi không bao giờ nói dối ! Nếu như tôi bất tín thì cái đầu này thuộc quyền sở hữu của ông . Ngược lại , nếu ông không giữ chữ tín , tôi sẽ không ngại lấy cái đầu của ông ngay !” . Stalin cất giọng lạnh lùng “Cái đầu của tôi rất quan trọng cho đất nước của tôi . Và ông cũng thế . Hãy ráng thủ tín mà giữ cái đầu ông nhé !”. Cả Nagai và đoàn tùy tùng đều ngượng ngùng nhìn nhau lắc đầu , thầm kêu khổ và trách sao ngài Bộ Trưởng lắm mồm , hay phát ngôn không đúng lúc , đúng người .
    Khi tiễn đưa phái đoàn Nhật ra ga xe lửa , Stalin ôm hôn Nagai và nói “Ông có biết lý do nào đã đưa Anh Quốc vào một tình trạng rối beng như ngày hôm nay không ?” Ông xuống giọng nhưng nhấn mạnh từng chữ “Bằng một cách đơn giản mà phân tách , chỉ vì quân đội của họ đánh giá địch quân quá thấp !” . Matsuoka có lẽ không đọc được thâm ý của Stalin nên rùn vai như thách thức và nói “Biến cố tận bên trời Âu thì đâu có gì phải sợ chứ ! Bây giờ chẳng phải ta đã có hiệp ước trung lập Nhật - Sô rồi hay sao !
    Trên chuyến xe lửa xuyên Tây Bá Lợi Á , Matsuoka dương dương tự đắc cười khoe cùng Nagai rằng trước khi rời Mạc Tư Khoa , ông đã gặp lại người bạn cũ Laurence Steinhardt , hắn bây giờ là Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Mạc Tư Khoa . Gặp lại ông , hắn mừng lắm và hứa hẹn rằng “Sẽ cố gắng vận động cho mối bang giao của hai quốc gia Nhật – Mỹ tốt đẹp trở lại” . Khoe xong Matsuoka lại gật gù tuyên bố “Bây giờ thế cờ đã sắp sẳn ! Bước kế tiếp là tôi sẽ đi Hoa Thịnh Đốn một chuyến !” .

  5. #5
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương 6
    Nỗ lực vì nền hòa bình chung .


    Lúc ấy tại Hoa Thịnh Đốn , Đại Sứ Nhật , vị Đô Đốc độc nhãn hồi hưu Kichisaburo Nomura cùng ông Ngoại Trưởng Mỹ Cordell Hull đã nổ lực hết sức để hàn gắn vết rạn giữa mối bang giao Hoa Kỳ và Nhật Bản . Cuộc hòa đàm này được diễn ra do sự sắp xếp của hai vị giáo sĩ Ki Tô đầy nhiệt tình và rất quan tâm đến thời cuộc là Giám Mục Jame E.Walsh và viên trợ lý là Đức Cha Jame M.Drought .
    Sáu tháng trước đó , do sự giới thiệu của Công Ty Lewis , hai vị này có đến Đông Kinh và ghé thăm Tadao Ikawa , Tổng giám đốc Ngân Hàng Nông Nghiệp Trung Ương Forestry . Họ thuyết phục Ikawa rằng thiện ý của đại đa số người Hoa Kỳ và Nhật là lúc nào cũng muốn sống chung trong hòa bình thịnh vượng , đồng thời cũng cho ông đọc một tập viết có nhan đề “Học Thuyết Chủ Nghĩa Đông Phương” và ý chí chống Cộng Sản của Nhật Bản . Ikawa đọc ngay và rất lấy làm thích thú , ông chắc chắn người Nhật cũng sẽ tán thành cho thuật ngữ của tập viết này . Trong những năm làm việc cho Hoa Kỳ , là một công chức trong Bộ Tài Chánh , Ikawa đã kết thân với rất nhiều nhân vật trong giới ngân hàng ở Newyork , đồng thời ông cũng kết hôn với một cô gái Mỹ . Ikawa nghĩ cuộc hội ngộ này chắc chắn là có sự ủng hộ của Tổng Thống Roosevelt khi nghe Cha Drought thố lộ do sự sắp xếp của một viên chức cao cấp ở Hoa Kỳ để cho hai ông công du sang Nhật , và hơn nữa , trong sự hăng hái nhiệt tình này , họ mong muốn được giới thiệu hai vị giáo sĩ được tương kiến cùng Thủ Tướng Konoye cũng như Matsuoka .
    Cha lại gợi ý Ikawa nên thăm dò con người thật sự của Đại Tá Hideo Iwakuro , một sĩ quan đầy thế lực đang công tác trong Bộ Chiến Tranh . Hắn ta là một nhân vật mang tư tưởng duy tâm nhưng đang ngầm tính toán một mưu đồ đại sự , độc nhất chỉ có con người này mới mang những dự án của tu sĩ vào hành động mà thôi . Iwakuro đã từng quả quyết rằng nếu muốn cứu cánh dân tộc Nhật tuyệt đối phải giữ mối giao hảo tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản .
    Iwakuro đúng là một nhân vật được sinh ra , sống để mưu đồ tính toán . Ẩn phía sau nụ cười bí hiểm tinh quái là một khối óc linh hoạt sắc bén đầy mưu mô . Là một điệp viên tình báo từng trãi , chính Iwakuro đã thành lập trường Nakano danh tiếng đào tạo không ít những chuyên viên tình báo thượng thặng gửi sang Đông Nam Á với mưu đồ hợp nhất các quốc gia nhược tiểu này . Cũng chính hắn đã khơi ra ý kiến đánh đổ nền kinh tế Trung Hoa bằng cách tung vào thị trường quốc gia này một tỷ rưỡi đồng Yen giả mạo .
    Đại Tá Iwakuro thu xếp cho buổi gặp gở giữa hai giáo sĩ Hoa Kỳ và Tướng Arika Muto , Tổng Trưởng Nha Quân Vụ . Buổi nói chuyện diễn ra trong không khí thân mật , họ đều cảm kích nhau về những dự kiến song phương và buổi nói chuyện kết thúc bằng những lời chúc lành êm ái . Hai Giáo sĩ trở lại Hoa Kỳ khoảng cuối tháng 12 và gặp ông Tổng Nha Bưu Chính Frank C.Walker , một nhân vật lỗi lạc Ki-Tô giáo , để nhờ ông liên hệ sắp xếp một cuộc gặp gở ngắn với Tổng Thống Rooveselt . Tổng Thống Rooveselt hội kiến Giám Mục Walsh , sau khi say mê đọc xong tập viết “Học Thuyết Chủ Nghĩa Đông Phương” của Giám Mục , Roosevelt đưa cho Ngoại Trưởng Hull và hỏi “Ông nghĩ chúng ta nên làm thế nào ?” .
    Hull trầm ngâm một lúc rồi nói “Nhìn vào cục diện chung mà nói , tôi rất hoài nghi , mặc dù kế hoạch đã sắp đặt chu toàn nhưng tình trạng ở Trung Hoa thật đáng lưu tâm lắm . Dã tâm của Nhật không chỉ dừng lại ở đấy , thái độ thù địch của họ vẫn ngấm ngầm . Chỉ e người Nhật và chính phủ của họ sẽ không chấp nhận sự sắp xếp hòa giải này thôi Tổng Thống ạ” .
    Nhưng Roosevelt lại nãy ra một ý kiến hấp dẫn đến đổi phải hoán chuyển công tác của ông Tổng Nha Bưu Chính Walker , yêu cầu ông phục vụ dưới tư cách của một trợ lý dưới quyền của điều động Giám Mục Walsh . Là một “tác nhân của Tổng Thống” , Walker có đủ quyền hạn để thành lập một cơ quan đầu não bí mật trên tầng 18 của Khách Sạn Bershire thuộc thành phố Newyork với ám danh là “John Doe” .
    Cuối tháng Giêng , Giám Mục Walsh đánh một bức điện tín gửi thẳng cho Ikawa :
    THÔNG QUA KẾT QUẢ CUỘC HỘI ĐÀM VỚI TỔNG THỐNG , MỌI ĐIỀU KIỆN TIẾN TRIỂN THUẬN LỢI , HÃY CHỜ ĐỢI TIN TỐT
    Ikawa chần chừ không biết có nên đi Hoa Thịnh Đốn một chuyến , nếu cần có thể trợ giúp những gì có thể trợ giúp các vị Giáo Sĩ hão tâm và vị Đại Sứ hiền hòa dễ mến Nomura thì càng hay . Tội cho Nomura , một Thủy Sư Đô Đốc hồi hưu thẳng thắn , chân thật , giao kết với khá nhiều chính khách Hoa Kỳ , ngay cả Tổng Thống Roosevelt , nhưng đáng tiếc là ông ta không có được một tí kinh nghiệm khả dĩ để đối ngoại và khả năng ngoại giao trên trường quốc tế .
    Ikawa đến hỏi ý kiến của Đại Tá Iwakuro và được ông khuyến khích nên đi Hoa Kỳ một chuyến . Ngoài ra Iwakuro còn xoay sở ra được một sổ thông hành thương mại cho Ikawa cũng như một số tiền lộ phí do hai nhà tư bản công nghiệp có thiện ý hòa bình đóng góp . Ikawa sẽ là trợ lý cho Nomura dưới hình thức một doanh nhân giao dịch thương mại với Hoa Kỳ . Khi tin chuyến công du của Ikawa lọt ra ngoài , đến tai Matsuoka (lúc này ông chưa đi Âu Châu) , ông vội tố cáo phe Lục Quân “tự mình đi thương thảo với Hoa Kỳ” và “vận động để trục lợi cho túi tham của họ” . Trong lúc ấy Bộ Trưởng Chiến Tranh Tojo cũng chẳng hay biết gì cả , ông cho đòi Iwakuro đến văn phòng hỏi cho ra lẽ , Iwakuro dùng miệng lưỡi thuyết phục Tojo đứng về phe mình mà khẳn định với Matsuoka rằng quân đội ông không hề biết gì về chuyến công du của Ikawa cả .
    Tuy rằng đấy là một trò chơi nguy hiểm nhưng Iwakuro lại cho rằng nếu được nối lại tình thân hữu với Hoa Kỳ thì dù có phải mạo hiểm một phen cũng đáng giá , huống chi trò chơi này lại đúng với cái sở thích đấu trí của ông . Khi Ikawa đặt chân đến Hoa Kỳ , Iwakuro nghĩ rằng trách nhiệm của mình đã xong . Nhưng ông có ngờ đâu , đấy mới chỉ là điểm khởi đầu vì Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh nhận thấy khả năng công tác của Iwakuro và yêu cầu ông sang Hoa Kỳ giúp đỡ Nomura trong sứ mạng sắp tới .
    Để chuẩn bị cho chuyến công du này , Iwakuro cần tham khảo ý kiến của cả hai phe chủ chiến và chủ hòa . Trong một buổi tiếp tân tại Ginza , đại diện nhóm “Huyết Thống” thuộc những kẻ ủng hộ chiến tranh đã đứng lên thúc giục Iwakuro “Chúng ta cần phải chiến đấu chống lại Mỹ và Anh , bởi vì họ đã phong tỏa chúng ta . Trách nhiệm chuyến công du của ông lần này là phải đi sâu vào nội tình của địch tìm hiểu xem khi nào là thời điểm tốt nhất để ta phát động chiến tranh với chúng” . Đại đa số đều là những kẻ hiếu chiến nên họ đồng thanh ủng hộ một cuộc chiến ngu xuẩn đối đầu lại là hai cường quốc tối tân là Anh và Mỹ , chỉ có một thiểu số khẩn cầu Iwakuro nên suy nghĩ cặn kẻ để tìm một phương pháp hữu hiệu cho hai bên hầu tránh một cuộc tương tranh vô ích .
    Iwakuro đến Newyork ngày 30 tháng 03 . Đến để nhận thấy rằng chính ở nơi đây cũng không khác gì quê hương của ông , cũng có sự mâu thuẫn nhau giữa kẻ ủng hộ chiến tranh và người mong muốn hòa bình . Những người theo chủ nghĩa can thiệp thì đoan chắc rằng vận mệnh và sự an nguy của quốc gia họ còn tùy thuộc vào đại đa số quần chúng , tùy vào lòng nhiệt tình ủng hộ khối dân chủ trước họa chiến tranh . Quốc Hội vừa thông qua một thỏa ước “Thuê mượn Vũ Khí” ủy nhiệm cho Hoa Kỳ viện trợ vũ khí không giới hạn cho Anh , Pháp cũng như các nước láng giềng ở Âu Châu đang gồng mình gánh chịu sức ép của Hitler và Mussolini . Tuy nhiên , bên cạnh đó còn có lắm đoàn thể chính trị phản đối chính sách trợ giúp chiến tranh đã được chính phủ Hoa Kỳ thông qua . Họ chỉ trương cao khẩu hiệu hòa bình bằng một luận điệu hết sức đơn giản , miệng hô hào ủng hộ sự bảo vệ Âu Châu và Trung Hoa nhưng lại chống đối chiến tranh bắn giết !
    Iwakuro đến Thánh Đường St.Patrick để cùng hội ý với Giám Mục Walsh và Đức Cha Drought . Iwakuro khẳng khái trình bày “Bởi vì Hiệp ước tay ba đã ký kết nên Nhật không thể nào bội ước với họ được” . Ông kính cẩn giải thích “Thưa Giám Mục , thưa Cha , vị Tông Đồ thứ 3 tức Judas , vì phản bội lại Chúa nên toàn thể giáo đồ đều khinh miệt ông ta . Cũng giống như nước Nhật của chúng tôi vậy , nếu như ông cứ khăng khăng bảo chúng tôi rút chân ra khỏi hiệp ước ấy , thử hỏi nó khó xử cho chúng tôi đến dường nào” . Hai vị Giáo Sĩ khẻ gật đầu thông cảm và khuyên ông nên đi Hoa Thịnh Đốn ngay .
    Đến Hoa Thịnh Đốn , Iwakuro trú tại Wardman Park Hotel , cùng một khách sạn với Ngoại Trưởng Hull cũng vừa đến trước đó không bao lâu . Sáng hôm sau Iwakuro đến trình diện Nomura và cũng nơi đây ông rất phấn khởi khi được thu lượm khá nhiều nguồn tin không chính thức được tiết lộ bởi hai vị Giáo Sĩ và Ikawa . Hầu hết những nhân vật ngoại giao chuyên nghiệp tại tòa đại sứ đều có thái độ lạnh nhạt với Ikawa , khi phải tiếp xúc với ông họ thường có những hành động khinh miệt . Bây giờ đến lượt Iwakuro , một người vừa mới đến này trông có vẽ đầy bí ẩn . Iwakuro xuất hiện một cách đường đường chánh chánh như thế mà họ vẫn có cảm tưởng rằng ông ta đang ngụy trang cho một hành động mờ ám nào đó , âm mưu gây hấn bằng quân đội chẳng hạn . Bởi vậy nên mọi người bọn họ cứ mãi nơm nớp lo âu .
    Đến ngày 02 tháng 04 , Đức Cha Drought bắt đầu bắt tay vào việc , cùng ngồi xuống với hai nhà “ngoại giao không chuyên nghiệp” phát họa bản “Dự thảo thỏa thuận sơ bộ” giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản . Đến ba ngày sau thì họ đã hoàn thành , bản dự thảo bao gồm những thỏa thuận , hòa giải hòa hợp , có liên quan tới những phạm vi rắc rối từ Hiệp Ước tay ba đến mọi hoạt động kinh tế vùng Tây Nam Thái Bình Dương . Những điểm quan trọng đáng kể đều có dính líu đến Trung Hoa , với sự hứa hẹn của Nhật là rút hết quân đội và trao trả lại toàn bộ lãnh thổ của Trung Hoa về cho chính phủ của họ , quy định cho Trung Hoa chấp nhận Mãn Châu Quốc và giúp đỡ chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch hàn gắn những bất đồng quan điểm với chính phủ Nam Kinh là Uông Tinh Vệ , vốn cùng là một chính quyền Trung Hoa Quốc Gia .
    Khi hoàn tất , Cha Dought mang một bản sao cho Walker , ông gọi bản dự thảo này là “Cuộc cách mạng ý thức hệ cải tổ chính sách của Nhật mà cũng là một chứng minh cho sự thành công tuyệt vời của nghệ thuật chính trị Hoa Kỳ” . Walker vội trình ngay lên Roosevelt và đề nghị Tổng Thống nên ký ngay trước khi có những biến cố không hay xảy ra . Tại tòa đại sứ Nhật , Nomura , Wakasugi , tùy viên quân sự và một người thuộc ban luận thuyết , sau khi bàn luận trao đổi ít lâu họ lại đi đến quyết định chung là đồng ý chấp thuận thông qua bản dự thảo .
    Một lần nữa bản “Dự thảo thỏa thuận sơ bộ” được nghiên cứu thật tỉ mỉ bởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ do những chuyên gia dạn dày kinh nghiệm , am hiểu tường tận vùng Viễn Đông . Họ kết luận rằng hầu hết mọi điều khoản trong bản thỏa thuận này đều đáp ứng được sự mong ước của những người Nhật sùng kính Thiên Hoàng , kẻ biết đặt nền tảng của quốc gia lên trên hết . Hull cũng tán thành nhận xét này nhưng ông lại có cảm tưởng rằng “Một vài điều khoản vẫn có thể bị phản đối , tuy nhiên , nếu có thể cho tất cả cùng chấp thuận , một chút sửa đổi cũng không hề gì”. Ngày 14 tháng 04 , Ikawa báo cáo với Nomura rằng ông có cái hẹn gặp riêng với Hull tại khách sạn Wardman Park vào tối nay . Lúc 8 giờ tối hôm đó Nomura âm thầm theo hành lang ngã sau đến gõ cửa gặp Hull , ông thố lộ với Hull rằng chính ông đã biết rất đích xác về “Bản dự thảo thỏa thuận sơ bộ” và chưa vội chuyển về Đông Kinh vì ông nghĩ rằng chắc chắn Chính phủ Nhật sẽ hân hoan tán thành ngay . Hull nêu lên điểm còn có thể xét lại trong văn bản , nhưng bảo Nomura hãy gửi ngay về bổn quốc để xác định rõ ràng xem Đông Kinh có chấp nhận nó như một cuộc “thương lượng cơ bản” hay không . Hull nói như thế nhưng nhà ngoại giao thiếu kinh nghiệm Nomura lại suy luận rằng Hoa Kỳ cũng dễ dàng chấp thuận nếu bản dự thảo này được sửa đổi lại vài điểm .
    Cách suy luận này đã làm cho Nomura phạm phải một lỗi lầm rất lớn , Hull vốn chẳng có ý lừa đảo Nomura , lời đề nghị của ông chẳng dính dáng gì tới việc thống nhất của bản thỏa thuận . Đứng về phía Nomura thì có thể trong vấn đề bất đồng ngôn ngữ , khi tranh luận ông vướng phải lỗi lầm , hoặc giã Nomura quá khao khát cho sự hòa giải nên những câu nói khá mơ hồ của Hull làm cho ông có cái nhìn sai biệt mà hiểu trái đi với ý của Hull cũng nên . Tóm lại , lỗi lầm này đều do Ngoại Trưởng Hull mà ra cả .
    Hai ngày sau , hai nhà ngoại giao lại gặp nhau lần nữa cũng tại phòng riêng của Hull . Với giọng chầm chậm và cách nói quanh co , Hull nói “Một vấn đề sơ bộ có tầm quan trọng mà chính phủ đang quan tâm là làm thế nào để xác định rõ ràng rằng chính phủ Nhật Bản có đầy thiện ý và khả năng để theo đuổi một kế hoạch chung … dàn xếp những mâu thuẫn giữa mối tương giao ; phá bỏ những cố chấp hiện hữu trong nhóm quân phiệt chỉ biết xâm lăng bằng vũ lực ….. và chấp nhận nguyên tắc cơ bản mà chính phủ của chúng tôi đang công bố và thực hành như một tổ chức nhằm tạo ra mối tương giao đúng đắn với hầu hết các quốc gia” . Nói xong Hull trao cho Nomura một mảnh giấy , trên đó có ghi sẳn bốn yếu tố cơ bản :
    1- Tôn trọng quyền vẹn toàn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia .
    2- Ủng hộ nguyên tắc không can thiệp chuyện tranh chấp nội bộ của một quốc gia khác .
    3- Ủng hộ nguyên tắc bình đẳng , gồm cả bình đẳng trên phương diện thời cơ thương mại .
    4- Không vi phạm hiện trạng ở Thái Bình Dương ngoại trừ sự biến đổi của nguyên trạng có ý nghĩa cho hòa bình .
    Niềm lạc quan vẫn còn đọng trên nụ cười hiền hòa của vị Đô Đốc hồi hưu , Nomura vội hỏi Hull “Liệu có công bằng mà chấp nhận những điều khoản này không ?” , Hull gật gù “Trong văn bản tuy có vài điều khoản đã được chấp thuận , song cũng còn lắm chỗ cần phải thay đổi hoặc cắt bỏ đi … Nhưng nếu chính phủ của quí ông có thái độ thành thật muốn thay đổi” Hull chợt lên giọng nói to hơn và chậm lại từng tiếng “Tôi thấy lý do không hợp lý là tại sao lại chẳng tìm được ra được một đường lối công bằng nào đó để thỏa thuận cho đôi bên mà giải quyết những bế tắc hiện hữu” . Lập lại lời đoan chắc này càng làm cho Nomura thêm lạc quan , thậm chí khi Hull vạch rõ ra rằng họ “không có khả năng bước lên vũ đài đàm phán” và chỉ “mục đích là thăm dò sơ khởi bằng con đường bán chánh thức để làm những viên đá lót đường đi đến đàm phán sau này” mà thôi .
    Nomura liền truyền những lời đề nghị cũng như những nỗi bất bình của Ngoại Trưởng Hull xuống cho những nhân viên ngoại giao không chánh thức ở tòa đại sứ cùng lời chú thích là cùng hợp nhất với nhau duyệt xét sửa chửa lại bản “Dự thảo sơ bộ” . Và toàn bộ văn bản được đổi sang mật mã và gửi về Đông Kinh , kèm theo một lá thư của Nomura ca ngợi cho những bước thắng lợi đầu tiên . Ông còn cẩn thận cho biết Ngoại Trưởng Hull “chẳng bao giờ phản đối” và sẽ dùng bản dự thảo này như nền tảng cho cuộc đàm phán sau này . Sự thật thì Nomura cũng chẳng biết ý của Hull là không có dự định để đi đến đàm phán .
    Bây giờ đến lượt Nomura đã phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng là ông đã không chuyển về Đông Kinh nội dung của “Bốn yếu tố cơ bản” mà Ngoại Trưởng Hull ghi trên mảnh giấy nhỏ trao cho ông trong buổi hội thảo hôm qua . Nếu “Bốn yếu tố” này được trao đến tận tay Thủ Tướng Konoye , chắc chắn ông sẽ giảm bớt đi nhiều những nhiệt tình dành cho bản thỏa thuận song phương này .
    Bởi vậy chẳng trách sao ông quá phấn khởi cho bước đầu thắng lợi đến đổi ông triệu tập một cuộc họp khẩn cấp giữa Hội Đồng Chính Phủ và Bộ Chỉ Huy Quân Đội và hoan hỉ công bố bức điện văn của Đại Sứ Nomura . Cả hai phe Chính Phủ và Quân Đội đều hân hoan tán dương thành quả , đồng chấp thuận lời đề nghị của Hoa Kỳ .
    Nhưng phe đại diện cho Bộ Ngoại Giao của Matsuoka thì còn do dự chưa đồng ý vội bởi lẽ họ còn chờ ông Bộ Trưởng đi phó hội ở Mạc Tư Khoa chưa về . Thủ Tướng Konoye bởi không muốn đụng chạm đến ông Bộ Trưởng hay quấy rối nên tạm thời đồng ý lời đề nghị của họ . Ngày 21 tháng Tư , Konoye nghe tin Matsuoka đã ghé ngang qua Dairen , cách mặt trận Nga-Nhật không xa , nên ông vội điện gọi Matsuoka về thẳng Đông Kinh ngay để cứu xét lời đề nghị quan trọng của Hoa Thịnh Đốn . Matsuoka cười híp mắt cho rằng đấy là thành quả của buổi nói chuyện tại Mạc Tư Khoa với Đại Sứ Hoa Kỳ là Laurence Steinhardt . Ông hiu hiu tự đắc bảo với viên thư ký riêng của mình rằng ông sẽ làm một chuyến sang Hoa Kỳ để hoàn thành kế hoạch “thế giới hòa bình” trong một ngày rất gần .
    Buổi chiều hôm sau máy bay chở Matsuoka hạ cánh tại căn cứ không quân Tachikawa . Thủ Tướng Konoye đã chờ sẳn ở đấy và mời ông lên xe để cùng về văn phòng tại tư dinh thủ tướng vì có nhiều vị Bộ trưởng khác cũng đang chờ . Nhân tiện , trên đường về hai người có thể trao đổi tóm tắt về việc thương thảo với Hoa Kỳ . Nhưng Matsuoka viện lẽ là muốn ghé ngang nơi quảng trường trước cổng Hoàng Cung một chốc để tỏ lòng tôn kính Thiên Hoàng . Đối với Konoye thì đấy là một hành động phô trương , có thẩm mỹ gì khi phải khúm núm chổng mông cúi rạp người để cho bọn nhà báo săn tin chụp ảnh chứ . Dĩ nhiên là ông không thể đứng sang một bên bàng quan tự tại trong khi Matsuoka kính cẩn hành lễ vì làm như thế dễ bị can tội vô lễ với Thiên Hoàng . Quyết định như thế nên hai người đành phải ngồi riêng hai xe , một hướng về cổng Hoàng Cung , một về lại tư dinh thủ tướng .
    Trên đoạn đường đến Hoàng Cung , Matsuoka được ông Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao tiết lộ rằng kế hoạch vãn hồi hòa bình này không phải do chuyến công du vừa qua của ông gặt hái được , mà đó là thành quả của hai nhà ngoại giao không chuyên nghiệp . Bất giác Matsuoka cảm thấy mất thể diện quá nên viện cớ rằng đêm đã khuya , đã trễ cho buổi họp mặt nên không đến dự như Konoye đã dự định . Từ đó Matsuoka cố ý lánh mặt Konoye , thậm chí đề tài của buổi hội thảo ông cũng không muốn ai nhắc đến . Suốt ngày ông chỉ bô lô ba la rằng Hitler này Stalin nọ , giống như hai người này là bạn chí thân của ông ta vậy . Bản tính tự cao tự đại đã khiến cho ông ta càng thêm mạnh miệng nói năng khoát lác và trở nên ngông cuồng không biết trời cao đất dày là gì cả . Ông khoe rằng chính ông đã bảo với Steinhardt (Đại Sứ Hoa Kỳ ở Đại Sứ Quán Mạc Tư Khoa)Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đúng là một gã liều lỉnh trước ván bài Trung Hoa . “Tôi cho hắn biết nếu Tổng Thống của Hoa Kỳ là một người biết yêu hòa bình thì nên hợp tác với Nhật Bản , bởi Nhật cũng là một quốc gia yêu chuộng hòa bình ! Đồng thời , ông ấy cũng nên dụ dỗ Tưởng Giới Thạch giảng hòa với chúng ta” . Rồi Matsuoka tỉ tê tâm sự rằng có một lần Ribbentrop (Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức) cho ông biết sở dĩ Đức ký hiệp ước “bất tương tranh” với Nga là vì “hoàn cảnh bất đắc dĩ” mà thôi . Giả dụ như một mai chiến tranh có xảy ra , chỉ trong vòng ba hoặc bốn tháng thôi chắc chắn Đức sẽ cho Stalin nếm mùi thế nào là nỗi đau của kẻ chiến bại .
    Trở lại với bản dự thảo sơ bộ , cho dù Matsuoka cố tình trốn tránh nhưng thời hạn trả lời đã đến nó không cho phép ông cứ khất lần mãi được . Cuối cùng thì một phiên họp thảo luận được diễn ra với tất cả các chính khách quan trọng trong Nội Các lẫn quân đội . Matsuoka với giọng hằn học lớn tiếng “Tôi không chấp nhận ! Mặc các người nói gì thì nói , tôi vẫn không chấp nhận ! Trước hết , hiệp ước mà ta đã ký kết với Ý và Đức vẫn còn chưa ráo mực kia mà ! Trong quá khứ , đã một lần đụng độ với Hoa Kỳ và hiệp định Ishii-Lansing ra đời (1917) . Khi chiến tranh chấm dứt , Hoa Kỳ lại chối bỏ hiệp định không còn tôn trọng nữa , chắc các ông còn nhớ chứ ? Và bây giờ , cũng là lối tráo trở bổn cũ soạn lại của họ nữa mà thôi ! Tôi nhất quyết không tán thành bản dự thảo này” . Phát biểu xong ông lại than thở rằng mình đã quá mệt mỏi và cần “một tháng nghỉ ngơi cho đầu óc thoải mái để làm việc” . Ông ngang nhiên bỏ ra về ngay sau đó .
    Thói kêu căng của Matsuoka rốt cuộc chẳng mang lại chút kết quả nào cho buổi họp . Mặc dù không còn sự hiện diện của ông nhưng những chính khách còn ngồi nán lại cho đến quá nửa đêm . Đại diện phe quân đội , hai tướng Tojo và Muto đề nghị nên chấp thuận thông qua bản dự thảo với Hoa Kỳ , nếu mãi chần chờ e không tốt . Ngày hôm sau , Thủ Tướng Konoye điện thoại tận tư gia Matsuoka với nhã ý khuyên ông nên bình tĩnh lại , đâu còn có đó nóng nãy chỉ vô ích mà thôi . Matsuoka lần lựa giải thích quanh co rồi trình bày “Hy vọng rằng Thủ Tướng sẽ cho tôi thêm chút ít thời gian , để cho tôi nguôi ngoai chuyện chuyến đi Âu Châu cái đã rồi hẳn hay” .
    Lại một tuần êm ả trôi qua cũng chưa thấy Matsuoka động tĩnh gì , càng làm cho phe Lục quân và Hải quân thêm bất mãn , họ nhen nhúm kế hoạch gây áp lực phe chính phủ .
    Riêng Ngoại Trưởng Matsuoka , cũng khó mà đoán được tâm trạng của ông trong hiện tại . Bản Dự Thảo không phải do chính ông soạn , người ta lại nghĩ ông sẽ không thèm nhúng tay vào hoặc tệ hại hơn nữa là ông sẽ ngấm ngầm tìm cách phá hoại nó . Lý do mà Matsuoka đã nêu ra thì Bản Dự Thảo này chỉ là một âm mưu của phe quân đội và Đại Tá Iwakuro chơi trò lợi dụng danh nghĩa ông ta mà thôi . Vì vậy ông sẽ không làm gì hết , bình thản mà đứng ngoài cuộc , trong khi phe quân đội thì điên tiết cáu kỉnh lên và những chính khách đang chờ điều đình với Hoa Kỳ ở Newyork thì cứ dài cổ ra mà đợi , họ chẳng hiểu cớ sự gì đang xảy ra ở Đông Kinh .
    Người nôn nóng nhất là Iwakuro , cứ đi ra đi vào trông ngóng tin từ quốc nội từng ngày . Cuối cùng , ngày 29 tháng 04 , nhân ngày sinh của Nhật Hoàng , Iwakuro không còn nhẫn nại để chờ đợi được nữa nên quyết định điện thoại cho Matsuoka . Đây đúng là một việc làm hớ hênh không thận trọng . Theo như dự định thì Iwakuro và Ikawa sẽ dùng điện thoại tại văn phòng bí mật của Walker tại Newyork City . Buổi chiều hôm ấy họ đã có mặt ở phòng số 1812 , Berkshire Hotel , cùng nâng cốc chúc mừng ngày sinh nhật của Nhật Hoàng nơi cố thổ . Tửu lượng của vị Đại Tá vốn quá khiêm nhường nên chỉ sau 2 cốc rượu ông đã hơi chếnh choáng men say . Lúc 8 giờ tối (10 sáng ở Đông Kinh) Iwakuro dùng điện thoại viễn liên gọi cho Matsuoka tại tư gia của ông ở Sendagaya .
    Iwakuro bắt đầu cuộc đàm thoại “Chúc mừng thắng lợi chuyến công du Âu Châu của ngài Bộ Trưởng !” Và ông xuống giọng “Chuyện “con cá” của tôi đã gửi về cho ông hôm nào đó , ông thấy nó ra sao , thưa ông ? Ông còn chờ gì nữa mà không chịu nấu lấy mà ăn cho xong đi , nấu càng sớm càng tốt ! Nếu không nó sẽ ươn lên đấy . Nomura và toàn thể anh em chúng tôi bên này đều mong chờ sự hồi âm của ông đó . Nhớ nhé !” Matsuoka đáp nhanh “Tôi biết , tôi biết ! Nói với mấy ông ấy đừng có chộn rộn lên nhé” . Iwakuro bực bội vì lối trả lời kiểu hách dịch này , nếu có thể ông sẽ cho Matsuoka vài bạt tai nãy lửa cho hả giận . Tuy vậy ông vẫn cố giữ giọng ôn tồn nói “Ông nên vui lòng tìm hiểu xem ý kiến của mọi người bên ấy ra sao . Nếu như con cá ấy để lâu quá chắc chắn rằng nó sẽ hư thối mất . Tôi nói thật xin ông hãy cẩn trọng . Người ta sẽ đổ hết mọi trách nhiệm vào ông đấy !”.Vẫn một giọng nhát gừng kênh kiệu , Matsuoka chỉ đáp “Tôi biết” rồi cúp máy . Thái độ của ông Bộ Trưởng làm cho Iwakuro tự hỏi có cái gì đó không thể hiểu nổi ở Đông Kinh .
    Ngày hôm sau , Iwakuro và Ikawa đến thỉnh cầu Herbert Hoover . Hoover vốn là một vị cựu Tổng Thống Hợp Chủng Quốc , người nồng nhiệt đón chào họ nhưng bởi vì Đảng Dân Chủ đang cầm lái con thuyền quốc gia và vì ông , người của Đảng Cộng Hòa , thì dù có cảm tình đến đâu vẫn không thể giúp ích gì cho họ được . Hoover lộ vẽ buồn rầu , nói như than thở “Nếu chiến tranh xảy ra thì hậu quả thật khó mà tiên liệu . Nhưng chắc chắn là nó sẽ phá hoại nền văn minh sẳn có của chúng ta mất thôi . Cuộc đàm phán của các ông nên hoàn tất trước mùa hè năm nay , nếu không , tất cả cố gắng của các ông sẽ hoài công đi mất !” .
    Tại Đông Kinh , Matsuoka vẫn nhì nhằng không chịu hồi âm cho Ngoại Trưởng Hull . Ông ta đã tường trình sơ lược cho Hitler về Bản Dự Thảo sơ bộ và đang chờ đợi lời phê bình . Đối với những người thúc hối ông chấp nhận Bản Dự Thảo này thì ông trả lời thẳng là trước khi đặt bút chấp thuận nó , Nhật nên yêu cầu Mỹ ký kết một hiệp ước trung lập , đòi hỏi Mỹ phải đứng ngoài vòng tranh chấp ngay cả nếu Nhật và Anh có xảy ra chiến tranh . Nhiệm vụ của Nomura ở Newyork là phải thăm dò thái độ của Ngoại Trưởng Hull đối với hiệp ước trung lập . Lẽ đương nhiên là Ngoại Trưởng Hull dứt khoát từ chối lời yêu cầu xấc xược của Matsuoka , ký một hiệp ước trung lập quá ư ngớ ngẫn .
    Và sự cáu tiết của Matsuoka dường như không dừng lại ở đấy . Ngày 8 tháng 5 , ông vào chầu Nhật Hoàng và thưa rằng “Nếu Hoa Kỳ mang quân tham chiến ở Châu Âu thì Nhật sẽ quay lại tham gia với Khối Liên Minh (Đức Ý Nhật) và sẽ tung quân tấn công ngay Singapore” . Ông còn tuyên đoán rằng cuộc đàm phán ở Hoa Thịnh Đốn sẽ chẳng đi đến đâu cả . Ngộ nhỡ như họ có thành công đi nữa thì cũng chỉ có nghĩa là sự xoa dịu những chiến phí khổng lồ của Hoa Kỳ đã đổ xuống chiến trường Đức và Ý . “Và nếu việc này thật sự xảy ra thì tôi e rằng chính tôi cũng không thể còn ngồi trong căn nhà Quốc hội này nữa !” .
    Tin này đến tai Thủ Tướng Konoye theo lời kể lại của Nhật Hoàng , ông vội mở phiên họp bí mật với Bộ trưởng chiến tranh Tojo và Bộ trưởng Hải quân Oikawa , họ đồng ý cùng nhau gây sức ép , bắt buộc ông Ngoại Trưởng Matsuoka cứng đầu cứng cổ kia phải chấp nhận Bản Dự Thảo sơ bộ . Và cuối cùng văn bản chấp thuận , những điểm chủ yếu của Bản Dự Thảo được Đông Kinh đồng ý và chuyển ngay sang Đại Sứ Quán Nhật ở Hoa Thịnh Đốn đúng thời hạn .
    Ngày 12 tháng 5 , Nomura mang văn bản đến cho Ngoại Trưởng Hull . Đọc xong , ông lại tỏ ra khá thất vọng . Người Nhật “Yêu cầu được bổ túc thêm một vài điểm cơ bản để đi đến thống nhất chung ” . Đây vốn là lời đề nghị chính thức của họ , Hull ngẫm nghĩ , “Cứ như hành động theo sự yêu cầu này thì chẳng phải là một cách giải quyết ổn thỏa ; nghĩa là cứ tranh luận với họ , thêm chỗ này , bớt chỗ nọ mãi cho đến khi nào đạt được mục đích mới thôi sao” .
    Thật sự thì Nhật đâu có ngờ rằng những văn kiện , công văn mà họ dùng để trao đổi giữa quốc nội và hải ngoại , những điện tín từ Chính Phủ Đông Kinh gửi đi các tòa đại sứ , dù được mã hóa rất cẩn thận nhưng vẫn bị chuyên viên tình báo Hải Quân Hoa Kỳ phát giác và giãi mã tất cả . Bởi thế cho nên khi Ngoại Trưởng Hull nhìn thấy Đại Sứ Nomura xuất hiện trước cửa phòng là ông biết ngay ý định của vị đại sứ này rồi . Nhưng trước những biến đổi của tình hình , càng ngày càng có nhiều công điện được giãi mã gửi đến với nội dung không đáng quan tâm nên Bộ Hải Quân tự ý hủy bỏ – cộng thêm có nhiều chuyên viên phiên dịch không chính xác theo những từ ngữ chuyên môn nên dần dà Hull cảm thấy không còn hứng thú để theo dõi nữa .
    Trong những ngày này Hull và Nomura thường xuyên gặp nhau ở Khách sạn Wardman Park để cùng nỗ lực giải quyết những bất đồng trước mắt . Một phần lớn khó khăn đến từ Đông Kinh , nơi mà Musuoka vẫn ngang nhiên khiêu khích công khai . Ngày 14 tháng 05 ông nói thẳng với Đại Sứ Grew rằng Hitler đã tỏ ra “khoan hồng độ lượng” không hề khiêu chiến với Hoa Kỳ , nhưng Hoa Kỳ lại tấn công tiềm thủy đỉnh của Đức , hành động gây hấn này chắc chắn sẽ dẫn đến chiến tranh Mỹ - Nhật . “Bậc đại trượng phu là biết tấn thối đúng lúc , biết thế nào là hành sự đúng đắn và tất nhiên phải tôn trọng lẽ phải” , Hoa Kỳ tại sao không biết như thế lại công nhiên khiêu chiến với Đức Quốc thay vì tuân thủ theo đúng luật lệ của một quốc gia trung lập . Grew dường như không còn đủ sức để chịu đựng những lời khiêu khích quá trớn của một nhân vật cao cấp ở Đông Kinh . Ông phản bác những điểm Matsuoka đưa ra và quả quyết rằng chính Matsuoka mới là người ngông cuồng sai trái . Matsuoka khi ấy mới nhận thức ra rằng mình đã đi quá đà , và sau buổi nói chuyện ấy , ông viết ngay một bức thư hòa giải :
    …Tôi rất lấy làm ngạc nhiên , thẳng thắn mà nói , tại sao ông lại có vẻ lúng túng khi tôi đề cập tới quan điểm và những hành động của Hoa Kỳ . Chắc Ngài đã hiểu lầm tôi rồi , rõ ràng là lỗi ở tôi , tôi đã dùng sai từ ngữ …. Dĩ nhiên là tôi nào có ý muốn nói Hoa Kỳ “mất tư cách” (indecent) đâu . Không , thật sự thì tôi muốn nói rằng họ “hớ hênh , không biết suy xét” (indiscretion) mà thôi !
    Những lời chân thành này đến với ông thay lời xin lỗi , mong ông thông cảm . Tôi rất lấy làm hối hận vì đã lỡ lời gây phiền hà đến cho ông .
    Ba ngày sau Matsuoka lại viết thêm cho Grew một lá thư nữa . Lá thư thật dài kể lể tỉ tê . Ông viết rằng chính ông đã nhiều lần nhắc nhở mình và cố gắng hành sự cho đúng cương vị của một Ngoại Trưởng một quốc gia , nhưng tai hại thay lắm lúc ông lại quên khuấy đi . Vã lại ông cũng ghét cay ghét đắng cái gọi là điệu bộ đứng đắn cái vẻ bề ngoài của một chính khách . Nói năng lại phải nghiêm trang , đi đứng thì bao giờ cũng trịnh trọng và thường thì phải tỏ ra nghiêm và buồn cho đúng vai trò của một nhân vật quan trọng . Nó gần như là một qui luật bắt buộc cho mình phải tuân theo . Riêng ông thì ngoại lệ , nếu bảo rằng ông điên rồ thì ông cũng xin chịu thôi , bởi vì ông trót sinh ra đã là như thế .
    Thật sự thì không biết ông ta có điên loạn hay không nhưng đã không ít người đề cập đến cái gì đó hơi “bất bình thường” của ông . Ngay trong buổi hội thảo giữa các binh chủng vừa rồi , ông Bộ Trưởng Hải Quân Oikawa có đưa ra lời bình phẩm “Rất có thể ông Ngoại Trưởng Matsuoka của chúng ta bị mất trí rồi” . Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt , sau khi đọc xong một bản tài liệu được giải mã của Matsuoka gửi cho Nomura , ông chặc lưỡi nghĩ thầm “Thật là một bộ óc chỉ biết quấy rối chớ chẳng bao giờ chịu nghĩ suy thấu đáo và hợp lý
    Tuy nhiên , Thủ Tướng Konoye thì cho rằng sự khiêu khích trêu chọc và đôi khi có những bài phát biểu khích động không giống ai , ấy chỉ nhằm mục đích gieo rắc hoang mang cho đối thủ ; có lẽ vì vậy cho nên ông ta cứ chỉa mũi dùi châm chọc Hoa Kỳ mãi . Đây chẳng phải là mưu mô xếp đặt của ông thì còn gì nhưng không biết là ông có thiện ý thật tâm xây dựng hòa bình tránh cuộc can qua hay không thì Konoye vẫn chưa hiểu nỗi . Mới đây thôi , cuộc đàm phán với Hoa Thịnh Đốn sắp đi đến bế tắc cũng vì thái độ hoãn binh bất hợp tác của Matsuoka , ông ấy cũng biết hậu quả của hành động mình chứ nhưng ông vẫn bất cần , lẽ vì ông chỉ chờ đợi chỉ thị từ Bá Linh của Hitler mà thôi . Ông đã có chủ tâm phá hoại cuộc đàm phán do những những người khác xếp đặt vì lý do quá dễ hiểu là ông tự cho mình là kẻ đã hiểu nhiều về người Mỹ . Với ông , một người tự cao tự đại , ông cho rằng chỉ với một mình ông cũng có thể đứng ra , đơn phương thương thuyết với họ chứ không cần qua một trung gian nào khác .
    Chính vì nhìn thấy nội tình của Đông Kinh , trong khi Nomura và Iwakuro lo sốt vó để vẽ ra một kế sách hòa bình thì Matsuoka lại nghiêng hẳn về phe Trục , ủng hộ chiến tranh Âu Châu ; Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đoan chắc rằng mình đang bị họ lừa dối . Ngày 21 tháng 06 , ông thẳng thắn bác bỏ lời đề nghị của Đông Kinh là vãn hồi lực lượng quân sự ở miền Bắc Trung Hoa để giúp người Trung Hoa chống lại Cộng Sản và dứt khoát tuyên bố Nhật phải hủy bỏ Hiệp Ước Liên Minh (Ý Đức Nhật) trước khi đàm phán hòa bình .
    Trước thái độ cứng rắn của Hull , Thủ Tướng Konoye và nội các mất hết tinh thần . Đây là một lời đề nghị không thể nào chấp nhận được . Konoye thắc mắc tại sao Hoa Kỳ lại đột ngột thay đổi nguyên bản của kế hoạch trong Bản Dự Thảo Sơ Bộ ? Cho đến bây giờ ông cũng chưa biết Ngoại Trưởng Hoa Kỳ vẫn không có chủ tâm dùng Bản Dự Thảo này như nền tảng để đi đến thương thuyết .
    Riêng Matsuoka thì không ngạc nhiên lắm . Bài phát biểu đầy cuồng nộ giữa công chúng hôm nào của ông đã mang lại hậu quả như thế này thì không cần nghĩ nhiều ông cũng biết mưu toan phá vở cuộc đàm phán đã thành công . Nhưng Hull đã phản ứng quá mạnh với những lời đề nghị không thể nào chấp nhận . Matsuoka cảm thấy bị tổn thương trầm trọng và chuyện công lại trở thành chuyện tư , cá nhân ông đâm ra oán Hoa Kỳ khôn tả , việc đàm phán coi như chấm dứt không còn bận tâm lo nghĩ nữa .
    Rồi mọi biến chuyển chưa biết giải quyết bằng phương sách nào , ngày kế tiếp , Chủ Nhật 22 tháng 06 , Hitler bất thình lình xua quân qua biên giới ồ ạt tấn công Liên Xô . Nhật Bản bàng hoàng kinh ngạc dù rằng 6 ngày trước đó Đại Sứ Oshima đã điện tín báo trước rằng chiến tranh giữa Đức và Liên Xô có chiều hướng sắp xảy ra .
    Và nó như một tiếng sét thình lình từ trời cao giáng xuống đầu Stalin . Chỉ vài giờ sau , 66 căn cứ không quân Nga đã bị không lực Đức cho thành bình địa , 1200 máy bay bị phá hủy . Trong khi bộ binh Đức tràn qua biên giới , tung hoành trong nửa ngày đã tịch thu 2 nghìn súng lớn , 3 nghìn xe tăng và trên 2 nghìn xe vận tải với đầy đủ quân trang quân dụng .
    Tin Đức thình lình xua quân tấn công Nga đến Đông Kinh khoảng 4 giờ chiều Chủ Nhật . Không chậm trễ , Matsuoka điện thoại ngay cho Kido , viên quan Quản Thủ Quốc Ấn của Thiên Hoàng , xin được diện kiến long nhan . Kido vốn là một mẫu người nhỏ thó , tuổi trạc ngũ tuần với đôi ria mép cắt tỉa rất gọn . Cũng như Thủ Tướng Konoye , Kido được sự bảo trợ của Hoàng Thân Saionji’s . (Hoàng Thân Saionji’s mất năm 1941 thọ 91 , ông là người cuối cùng của Viện Nguyên Lão . Viện Nguyên Lão hay Genro là một cơ quan được Hội Nghị Osaka năm 1875 thành lập , hội này có trách nhiệm xem xét các lời đề nghị về Hiến Pháp) Theo lời cảnh báo của Saionji’s thì chính sách của Nhật Bản phải dựa trên cơ sở là hợp tác với Anh và Mỹ . Do đó Kido luôn tỏ thái độ chống đối việc xâm chiếm Mãn Châu và Trung Hoa cùng Hiệp Ước Liên Minh . Nội tổ của Kido ngày xưa vốn là một trong bốn chiến tướng lừng danh của triều đại Mạc Phủ , Koin Kido . Đến thế hệ ông , tuy là một viên quan Quản Thủ Quốc Ấn nhưng lại là một người tâm phúc , luôn bên cạnh Thiên Hoàng với vai trò cố vấn . Nhật Hoàng Hirohito lại coi ông như người thầy nên mọi việc dù lớn nhỏ cũng phải hỏi riêng ý kiến của ông . Việc này cũng chẳng phải có gì xa lạ , bởi Hirohito lớn lên trong sự giáo huấn của Kido .
    Sau khi lấy hẹn cho Matsuoka , Kido vội thông báo ngay cho Thiên Hoàng biết rằng quan điểm của Ngoại Trưởng Matsuoka luôn trái ngược với chủ trương hòa bình của Thủ Tướng Konoye , nên lần diện kiến này không tránh khỏi những thỉnh cầu vượt quá sự tiên liệu của Nội Các Chính Phủ . Và ông bẩm tiếp “Bệ Hạ , nếu ông ta có bất cứ đều thỉnh cầu nào Bệ Hạ cũng khuyên hắn nên gặp Thủ Tướng bàn luận thì tốt hơn . Bệ Hạ cứ bảo rằng hễ Thủ Tướng đồng ý thì tất nhiên Bệ Hạ cũng không phản đối” .
    Sau gần một tiếng đồng hồ cùng Matsuoka thảo luận , Nhật Hoàng đã biết ông ta chưa hề bàn bạc với Thủ Tướng . Matsuoka thì đoan chắc rằng không bao lâu nữa Nga sẽ đại bại dưới tay Đức và xin Thiên Hoàng hạ chỉ tiến chiếm vùng Tây Bá Lợi Á và đồng thời cất quân tấn công sâu về phương Nam . Thật ngạc nhiên cho ý đồ thôn tính hai mặt Bắc Nam của Ngoại Trưởng Matsuoka , Nhật Hoàng Hirohito khoát tay bảo ông hãy hội ý với Thủ Tướng rồi mới trình tấu với mình sau cũng chưa muộn .
    Matsuoka có gặp Thủ Tướng nhưng chẳng hề lắng nghe ông ta trình bày , cứ tiếp tục đuổi theo kế hoạch đã định là tấn công Nga cho bằng được . Ba ngày sau , ông đi gặp thẳng Bộ Trưởng Hải Quân Hoàng Gia Nhật là Oikawa , một nhân vật không mấy gì hào hứng khi phải đối đầu với hai mặt trận cùng một lúc là Nga và Mỹ . Ông tuyên bố “Hải Quân xông trận lưỡng đầu thọ địch như thế quả thật là nguy hiểm khôn lường . Chúng tôi không muốn bị người Đức giật dây trong chuyện mạo hiểm này !” Nhưng Matsuoka vẫn với một luận điệu quả quyết “Khi Đức đã đánh bại Nga rồi thì chúng ta không có gì để gọi là góp sức cho chiến thắng vẽ vang ấy , chỉ trừ khi chúng ta làm một cái gì đó” Ông lại tiếp “Chúng ta phải đổ máu ! Chỉ có đổ máu mới tạo nên chiến thắng vẽ vang !” Rồi ông lại nhấn mạnh như tự hỏi chính mình “Nơi nào mới quan trọng hơn , tiến đánh miền Bắc hay hành quân về phương Nam ?”.
    Trái ngược với sự háo hức của Ngoại Trưởng Matsuoka , Tham mưu trưởng lục quân Sugiyama lại tỏ ra trầm tỉnh hơn , ông nói “Chúng ta phải chờ đợi xem cục diện biến đổi như thế nào rồi hãy định liệu” Nói như thế vì ông không muốn tiết lộ kế hoạch đã định , nếu Mạc Tư Khoa mất trước cuối tháng 8 , quân đội Nhật sẽ tấn công Tây Bá Lợi Á . Ông Tham mưu phó Tsukada cũng lộ vẻ đắn đo “Ừ , thì cũng chờ xem tình hình ra sao rồi hãy tính . Chớ hai mặt giáp công theo kiểu này thì có khác gì đem quân đi tự tử !”
    Sau cuộc bàn bạc giữa nhóm sĩ quan cao cấp trong Quân đội và Matsuoka , Đại Tá Kenryo Sato vẫn tiếp tục ra mặt chống lại ý kiến của Bộ Trưởng chiến tranh Tojo , ông cho rằng ít nhất Matsuoka vẫn có được vài điểm hợp lý . Ông bảo “Phương Bắc chẳng có nguồn lợi nào tốt cho chúng ta cả . Ở miền Nam , ít ra vẫn còn vô số mõ dầu và các khoáng sản dồi dào khác”. Tojo lại hỏi “Nếu chúng ta tấn công mặt Bắc liệu Mỹ có nhúng tay can thiệp không?” Sato nhún vai khẻ nói “Không thể tiên liệu được ! Mỹ và Nga tuy rằng không cùng một chính sách , nhưng trong chiến tranh thì chuyện gì cũng có thể xảy ra” . Những ngày kế tiếp Tojo vẫn giữ thái độ im lặng , không ủng hộ mà cũng không chống đối ý kiến của Matsuoka . Nhưng Matsuoka vẫn ngoan cường . Ông viện dẫn rằng bản báo cáo của Đại Sứ Oshima cho biết cuộc chiến ở Nga sẽ chấm dứt rất sớm và chắc chắn không đến cuối năm nay Anh Quốc sẽ đầu hàng . Ông đi đến kết luận “Nếu chúng ta tranh luận về vấn đề rắc rối của Nga sau khi đại bại dưới tay Đức thì đó không phải là đường lối ngoại giao . Tôi đoan chắc là Mỹ sẽ không bao giờ nhúng tay vào nếu ngay bây giờ chúng ta xua quân tiến công Nga . Vì tôi đã có kế hoạch ngoại giao mà tôi tin tưởng sẽ cầm chân Mỹ ít nhất cũng được 3 hoặc 4 tháng” Rồi ông nhấn mạnh “Nếu theo ý kiến của các ông Tư Lệnh Tối Cao , cứ bình chân như vại để chờ thời cơ thì sớm muộn gì Nhật Bản sẽ bị Anh , Nga và Mỹ cô lập . Chúng ta phải tấn công ngay mặt Bắc , sau đó tiến về phương Nam” . Ông cứ mãi một lập luận gần như bắt buộc người ta phải nghe theo cho đến khi cảm thấy lời nói của mình không còn giá trị nào nữa thì ông lại phẫn nộ lên quát như ban ra một mệnh lệnh “Tôi ra lệnh cho các ông phải tấn công ngay Liên Bang Xô Viết” . Tham Mưu Trưởng Lục Quân Sugiyama , người đại diện tiếng nói cho quân đội thẳng thắn trả lời “Không !” .
    Đồng Minh mạnh nhất của Matsuoka vốn là Bá Linh , nhưng Hitler đã yêu cầu thẳng với Nhật phải tấn công Nga ngay . Bản điện văn của ông đã gửi sang Tòa Đại Sứ Đức ở Đông Kinh 3 ngày . Tướng Ott đã chuyển đến Matsuoka , và vì vậy ông mới liên tiếp tỏ thái độ gây áp lực chính phủ Nhật phát động chiến tranh về phương Bắc . Thủ Tướng Konoye thì từ đầu đã giữ im lặng bởi vì lập trường của ông nghiêng hẳn về Bộ Tư Lệnh Tối Cao . Không cần phải tranh luận thêm nữa , cuộc bàn cãi đã chấm dứt . Quyết định đã dứt khoát , tiến quân về phương Nam là mục tiêu tối hậu .
    Bước kế tiếp mà cũng là một bước cuối cùng để quyết định này được thực hiện là sự phê chuẩn chấp thuận chính thức của Thiên Hoàng . Nghi lễ được thực hiện ngay trong Nội Điện . Cũng tại nơi đây , Nhật Hoàng ngự trên cao nghiêm trang và im lặng để chủ trì một phiên họp đặc biệt gồm đủ mặt các chính khách dân chánh cũng như quân đội với nhiều chủ kiến khác nhau , kẻ chủ trương hòa bình chỉ mong hòa hoãn với Hoa Kỳ tránh cuộc can qua , người hiếu chiến coi trời bằng vung chỉ muốn dùng vũ lực để mở mang bờ cõi biến đất nước họ thành một Đế Quốc Đại Nhật Bản trên vùng trời Đông Á .
    Ngoại Trưởng Matsuoka điên cuồng bao giờ cũng giữ khư khư ý đồ phạt Bắc chinh Nam . Tướng Hara thì ủng hộ ý kiến này vì ông vẫn e ngại Hoa Kỳ và chỉ muốn tiến quân về phương Bắc với mục đích nêu ra là tiêu diệt Cộng Sản , một cuộc chiến mà theo ông biết , sớm muộn gì Nhật cũng phải tham dự vào . Nhưng cuối cùng thì họ cũng phải ngậm ngùi mà chấp thuận ý kiến của đại đa số , trong đó có Thủ Tướng Konoye và Sugiyama , Tổng Tham Mưu Trưởng Lục Quân là tiến đánh vào Đông Dương , tức hành quân về miền Nam Châu Á . Văn Bản quyết định đã thành hình với chữ ký của Thủ Tướng , Bộ Tưởng Lục Quân , Bộ Trưởng Hải Quân và ấn ký của Đại Nhật Thiên Hoàng . Lúc bấy giờ quyết định này đã chính thức hợp thức hóa , nó đã trở thành quốc sách hầu thỏa mãn cho khát vọng điên cuồng của cháu con Thái Dương Thần Nữ trong ý đồ chinh phục Á Châu .
    Đến bây giờ thì Ngoại Trưởng Matsuoka quay lại đối phó với những lời đề nghị đi ngược lại Bản Dự Thảo Sơ bộ của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ . Đối với Matsuoka thì có thể đoán ra được tâm trạng của ông trong lúc này , vẫn oán hận Mỹ vô cùng như hôm nào ông đã tuyên bố một bài phát biểu cuồng nộ trước công chúng . Giã như đó là lời phê phán của một chính khách không tên tuổi có tính chất khích động , gây chú ý cho quần chúng thì đó chẳng qua là hành động náo động không tội vạ . Nhưng với Matsuoka , đó là một hành động tự lăng mạ mình và sĩ nhục cho cả quốc thể . Và cũng trong ngày 12 tháng 07 , trước buổi họp báo ông lại tuyên bố với thái độ khá hằn học “Tôi đã suy nghĩ cặn kẻ hơn mười hôm rồi , tôi đoan chắc là Hoa Kỳ họ khinh đất nước này như một quốc gia bị bảo hộ và người Nhật mình như những kẻ bị lệ thuộc ! Với tư cách là một Bộ Trưởng Ngoại Giao , tôi không chấp nhận được ! Tôi có thể thương thuyết về một vấn đề nào khác chứ không thể nào chấp nhận lời đề nghị của họ . Người Mỹ tiêu biểu là hay áp chế những kẻ yếu hơn họ . Lời đề nghị đầy vẻ ngạo mạn ấy có khác gì cho chúng ta là những kẻ yếu hèn và lệ thuộc . Tôi biết , nhiều người Nhật chống đối tôi , thậm chí có người còn bảo rằng chính đương kim thủ tướng cũng chống đối tôi nốt !”
    Lời nói của ông ta đã bộc lộ sự thống hận khôn cùng của chính bản thân ông đã coi Ngoại Trưởng Hull như một kẻ thù bất cộng đáy thiên “Cũng không ngạc nhiên khi người Mỹ khinh bạc chúng ta như kẻ kiệt quệ nên mới ra những đề nghị vớ vẫn như thế . Tôi đề nghị là chúng ta phải từ chối lời đề nghị của họ ngay và không cần đàm phán gì với họ cả” . Matsuoka lại gọi Roosevelt là “kẻ mị dân thứ thiệt” và lên án ông ta là kẻ dẫn Hoa Kỳ sâu vào một cuộc chiến mà theo lẽ sẽ tránh đi được . Về phần ông , từ thuở còn niên thiếu khi lang bạc nơi xứ người nhớ về cố quốc , ông đã ấp ủ trong lòng một hoài bảo đáng tự hào là nếu mai sau ông trở thành một người có chân trong hàng ngũ lãnh đạo đất nước , ông cố gắng phải làm sao để nền hòa bình giữa hai quốc gia Nhật Bản và Hòa kỳ trường tồn mãi mãi . Bây giờ , thực trạng đã ra nông nỗi , ông chợt thấy nao nao , chẳng biết trong một phút yếu lòng Matsuoka đã nghĩ gì mà sắc mặt trở nên buồn bả lạ thường , ông chép miệng mà nói rằng “Tôi nghĩ chắc không còn hy vọng gì nữa . Nhưng còn nước thì còn tát ! Chúng tôi sẽ cố gắng đến cùng”.
    Cuối cùng rồi thì Matsuoka cũng thốt lên một câu rất mát dạ mấy ông sĩ quan quân đội . Ngay cả khi tình hình quá vô vọng , Tojo vẫn nuôi hy vọng là những chính khách Nhật bên kia bờ Thái Bình Dương đang cố gắng điều đình với Hoa Kỳ . Bộ Trưởng Hải Quân Oikawa cũng thấy có nhiều triển vọng để đàm phán . Theo những báo cáo gần đây thì cho thấy mọi hoạt động của Hải Quân Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương vẫn không có gì thay đổi , nghĩa là họ chẳng có ý định mở rộng chiến tranh ở Thái Bình Dương . Trong khi chúng ta cũng không muốn sinh sự với họ , thế có nghĩa là mình và Hoa Kỳ vẫn còn có một chút ánh sáng để đi đến đàm phán hòa bình .
    Matsuoka cười mỉa mai “Họ có thể lắng nghe chúng ta chỉ khi nào lực lượng quân sự của chúng ta bỏ đi ý đồ Nam tiến” .
    Chuyện đi đến nước này thì nguyên nhân chính dù không nói ai cũng có thể nhận ra là do lỗi của Matsuoka . Chính vì ông có chủ tâm muốn phá hoại cuộc đàm phán này nên mới có những thái độ quá nông nỗi như vậy . Đến như một vị sĩ quan điềm tỉnh nhất như Tojo cũng không thể nào chịu đựng được hành động hết sức ngang ngược của Matsuoka , đến nỗi có một lần ông nêu lên ý kiến cùng Thủ Tướng là nên sa thải Matsuoka cho yên chuyện . Nhưng Konoye lại không muốn công khai sa thải Matsuoka , vì làm như thế chẳng khác nào gieo nên mối bất hòa với vị Ngoại Trưởng mà hào quang của ông vẫn còn sáng chói ngoài công chúng sau chuyến công du Âu Châu gần đây . Ông âm thầm quyết định cho Matsuoka về vườn bằng một giải pháp hòa hoãn hơn : ông sẽ yêu cầu giải tán Nội Các Chính Phủ rồi sau đó thành lập một Nội Các mới với một Ngoại Trưởng mới .
    Konoye kêu gọi một phiên họp đặc biệt của Nội Các lúc 6 giờ 30 ngày 16 tháng 07 , sau khi ông đưa ra quyết định không một ai chống đối ; chỉ có Matsuoka thì cáo bệnh nằm nhà .
    Cũng chính vì sự bất phục tùng khi hành sự và tính khí quá ngang ngược nên kết quả đã đến với Matsuoka , chấm dứt một sự nghiệp đầy tai tiếng . Tai tiếng cho riêng ông và tai tiếng cho cả một đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ cổ chí kim . Chính vì sự bất phục ấy mà cho đến bây giờ Matsuoka vẫn còn chưa tin nỗi bản tin sét đánh là người ta đã cất chức của ông . Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau , một Nội Các mới được thành lập , ghế của Matsuoka được thay thế bởi một vị Đô Đốc có mối quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ là Teijiro Toyoda . Việc làm đầu tiên sau khi nhậm chức là Toyoda gửi ngay một điện văn cho chính phủ Vichy với nội dung : bất luận Chính Phủ Vichy có phản ứng như thế nào , quân đội Nhật cũng sẽ tiến vào Đông Dương ngày 24 tháng 07. Nhưng rồi một ngày trước khi quân Nhật tiến vào , Chính Phủ Vichy chấp nhận giải pháp ôn hòa , nghĩa là Nhật có quyền tự do tiến quân vào Đông Dương . Một bức điện báo gửi về Đông Kinh từ Tòa Đại Sứ Nhật tại Đông Dương cho biết “Pháp đã nhìn rõ sự cương quyết và bước tiến thần tốc của Đại Nhật Bản . Tạm thời , họ không còn cách nào khác hơn là cầu hòa . Đó là lý do tại sao người Pháp dễ dàng chấp nhận lời yêu cầu của chúng ta” .
    Bức điện trên được cơ quan tình báo Hải Quân Hoa Kỳ phát giác và gửi thẳng về Ngoại Trưởng Hull . Đọc xong , ông cả giận và hối thúc Tổng Thống Roosevelt trả đũa ngay bằng cách ban hành lệnh cấm vận Nhật Bản , bất kể lời cảnh báo mới hôm nào của Bộ Hải Quân là hậu quả của nó là khơi mầm chiến tranh vùng Đông Nam Á , nghĩa là Nhật sẽ tấn công Mã Lai , Singapore , sang tận Ấn Độ Dương , và có thể đụng độ với lực lượng Hoa Kỳ Hải Quân trên vùng biển Thái Bình Dương .
    Nhưng theo lời khuyên của Harld Ickes , nguyên Tổng Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ rằng nên có hành động cụ thể để chống lại các quốc gia nuôi ý đồ xâm lược .Tổng Thống Roosevelt đã quyết định . Ngày 26 tháng 07 , ông ban hành lệnh phong tỏa tất cả tài sản trương mục của Nhật tại Mỹ . Anh và Hòa Lan cũng tiếp bước theo Hoa Kỳ hành động tương tợ ngay sau đó . Điều này có nghĩa là Nhật Bản không thể mua dầu hỏa được nữa . Nếu không có dầu hỏa tức thời bộ máy chiến tranh của Nhật sẽ bị tê liệt ngay .
    Mục đích phong tỏa kinh tế của 3 đại cường nhằm phá vỡ Nhật với mộng bá chủ của Mỹ đã gây một làn sóng căm phẫn gần như náo loạn trên toàn cõi Phù Tang . Nhưng trong Bộ Chỉ Huy Tối Cao Đại Nhật Bản , người ta vẫn thấy từng vẻ mặt oai nghiêm trầm tỉnh hơn bao giờ hết .Tổng Tham Mưu Trưởng Hải Quân Hoàng Gia Nhật Nagano , một vị sĩ quan đầy cẩn trọng và có óc xét đoán , sau ba ngày nhưng vẫn còn bàng hoàng với quyết định của Hoa Kỳ , dù ông đã biết sớm muộn gì sự việc này cũng xảy đến . Trong buổi tiếp kiến với Thiên Hoàng Hirohito , Nagato nêu lên ý muốn của mình là không tha thiết gì với một cuộc chiến mà thực tế có thể tránh được nếu chúng ta hủy bỏ hiệp ước với Đức và Ý , một hiệp ước mà phe Hải Quân của các ông đều xác nhận rằng chính nó là một cản trở lớn để đi đến thương thuyết hòa bình với Hoa Kỳ . Đồng thời ông cũng lên tiếng cảnh báo là số dầu dự trữ của quốc gia chỉ dùng đủ trong thời gian 2 năm , nếu chiến tranh xảy ra thì số lượng nhiên liệu kia dù có cắt giảm tối đa nhưng chỉ trong vòng 18 tháng là cạn kiệt .“Trong tình huống này , ta phải biết chủ động . Người Trung Hoa có câu Tiên hạ thủ vi cường . Ta chủ động ra tay trước mới có cơ may chiến thắng” .
    Nagano mở lời quanh co vì có ý muốn cho Nhật Hoàng biết rõ tình hình để ông rút lại quyết định Nam tiến , một quyết định mà đa số sĩ quan Hải Quân chống lại dù không ra mặt . Nhưng trong lối nói quá dè dặt của vị Tham Mưu Trưởng vô tình trở thành lời đề nghị , thừa nhận rằng nếu chủ động tấn công Hoa Kỳ , Nhật sẽ chiếm được tiên cơ . Nhật Hoàng nãy giờ ngồi im lắng nghe , ông gật gù “Trước mắt , đây có lẽ là một lối thoát duy nhất cho đất nước” Trận Đối Mã oanh liệt năm nào đã cho Nga thấy thế nào là sức mạnh của người da vàng , hào quang ấy vẫn còn sáng chói trong trang sử dân tộc Phù Tang . Ông khẻ hỏi “Liệu ta có thể thắng Mỹ một trận vẽ vang như chiến thắng Đối Mã năm nào không ?” . Bấy giờ Nagano mới hối hận cho lời nói của mình , ông ấp úng “Thần không dám to gan đoan chắc , nhưng cũng có thể !
    Hirohito đổi giọng dứt khoát “Thế thì ta quyết một trận sống mái với chúng một phen !” .

  6. #6
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    CHƯƠNG 7 NỔ LỰC TRONG VÔ VỌNG




    Trong những năm chấp chánh với vai trò Thủ Tướng , Konoye đã phải đương đầu với không biết bao nhiêu khó khăn trở ngại , trong chính giới đã có rất nhiều người bày tỏ quan điểm thân thiện và biểu lộ sự thông cảm đối với ông . Tại sao phe Tự Do lại quá yếu mềm dung dưỡng cho phe quân phiệt tạo nhiều vây cánh khuynh đảo cả chính trường ? Tại sao với cương vị là một Thủ Tướng chính phủ mà ông ta chịu lép vế trước một ông Ngoại Trưởng ngang ngược của mình , cứ để cho ông ta ngông cuồng phát biểu gây nguy hiểm cho cuộc thương thuyết với Hoa Thịnh Đốn . Đại Sứ Craigie là người rất hiểu Konoye và thông cảm cho nỗi khổ của ông , trong những bài diễn văn , Craigie thường đề cập đến cá tánh của Thủ Tướng “Ông ta không bao giờ tỏ ra to tiếng hay tỏ ra chút gì là giận dữ khi thuộc cấp đi ngược lại ý kiến của ông . Một đức tính nhã nhặn đáng kính , song bên cạnh đó ông đã phạm một lỗi lầm rất lớn là dùng thái độ hòa nhã để đối phó hoặc kiềm chế với những phần tử quá khích” .
    Cùng với ý nghĩ của Craigie , Trung Tướng Suzuki , một nhà quân sự thông thái cho rằng với nhược điểm ấy khiến cho ông ta gần như không quyết định thẳng một vấn đề gì để hành động cả . Nhưng cả hai lại đồng ý một điểm – đích thân Konoye sẽ gặp riêng Tổng Thống Hoa Kỳ - hy vọng rằng với đường lối chủ hòa của đương kim Thủ Tướng có thể cùng Roosevelt ngồi lại thảo luận hầu tìm ra một cách giải quyết êm đẹp cho hai quốc gia . Ngày 04 tháng 08 , Tướng Suzuki gặp Tojo và Oikawa và cho cả hai biết về ý định của mình “Nếu Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn không thay đổi quyết định , nghĩa là họ đẩy chúng ta vào đường cùng , chúng ta dĩ nhiên không cần đàm phán gì cả” .
    Suzuki nghĩ rằng : muốn đạt được thỏa thuận thì Nhật và Mỹ phải biết nhượng bộ cho nhau và cuộc thỏa thuận càng có kết quả nếu đại diện cho hai quốc gia là những nhà lãnh đạo . Những tư tưởng phóng khoáng trực tiếp gặp nhau dù sao vẫn hơn phải qua một trung gian thừa hành .
    Khoảng một tiếng sau Đô Đốc Oikawa báo cáo là phe Hải Quân đã hoàn toàn đồng ý quyết định này và xin gửi lời chúc chuyến công du của Thủ Tướng gặt hái được nhiều thành quả . Nhưng đối với phe Lục Quân , Tojo nhận thấy ý kiến của họ không đồng nhất . Họ cho rằng cuộc họp thượng đỉnh này sẽ gây ảnh hưởng lớn đến chính sách hiện hành của quốc gia , một chính sách mà căn bản đã dựa trên Hiệp Ước Liên Minh (Nhật Đức Ý) . Tuy nhiên , phe Lục Quân cũng không phản đối chuyến công du của Konoye nếu ông đồng ý hứa chắc với họ là sẳn sàng tuyên chuyến với Hoa Kỳ một khi Roosevelt thoái thác lời yêu cầu hòa đàm của Nhật . Tojo báo cáo rằng phe Lục Quân rất bi quan cho chuyến công du của Thủ Tướng .
    Konoye tự mình không thấy nghi ngại gì cả . Ngày 06 tháng 08 , sau cuộc diện kiến ở Hoàng Cung , Nhật Hoàng khuyên ông dù sao cũng nên gặp Tổng Thống Hoa Kỳ một chuyến . Hôm sau , một bản điện văn đánh gửi cho Ngoại Trưởng Hull đề nghị một cuộc họp thượng đỉnh giữa Thủ Tướng Nhật và Tổng Thống Hoa Kỳ để giải quyết những bất đồng giữa hai quốc gia .
    Nhưng không ngờ Ngoại Trưởng Hull lại tỏ ra không tin cậy ở thiện chí của Konoye . Ông ngờ đây chỉ là một hạ sách để hoãn binh của Nhật mà thôi . Hai ngày sau Hull gặp Đại Sứ Nomura , một người đang nóng lòng chờ đợi lời trả lời chắc chắn của đại diện Hoa Kỳ để báo cáo về Đông Kinh . Hull không hề đi thẳng vào vấn đề , ông quanh co một luận điệu cáo buộc với những lời bình phẩm đạo đức và quả quyết rằng sờ sờ ngay trước mắt , những người Nhật có thiện ý cho nền hòa bình đã “mất hết tự chủ” . Trong khi báo chí Nhật lại không ngớt khích động quần chúng bằng cách thổi phồng tin Nhật Bản đã bị Hoa Kỳ cô lập . Rồi ông nhấn mạnh “Thế giới này không có một luật lệ nào để cô lập một quốc gia khác cả , ngoại trừ chính quốc gia ấy tự cô lập họ mà thôi !”.
    Nomura quá thất vọng nhưng trong hoàn cảnh này bắt buộc ông phải nín thở qua sông , trở lại vấn đề chính là câu trả lời dứt khoát của Hoa Kỳ , và cũng như lúc ban đầu , Hull lặp lại những gì đã nêu ra rồi kết luận “Quyết định này do Chính Phủ của các ông đề ra lúc này , nó có khác gì thủ đoạn hòa hoãn với mục đích giải quyết những khó khăn trước mắt và ít ra cũng gặt hái được chút ít thành quả . Biết đâu với chút ít thành quả thu được đó mà các ông ấy lại có cơ hội phát triển ra thành một kế hoạch như ý sau này!”.
    Lời yêu cầu của Đông Kinh không được Roosevelt đáp ứng vội bởi vì lúc này ông không có mặt ở Tòa Bạch Ốc . Ông đang có mặt trên tuần dương hạm mang tên Augusta trên đường phó hội với Thủ Tướng Winston Churchill ở Vịnh Argentia , Newfoundland . Sáng Chủ Nhật ngày 10 tháng 08 , Roosevelt cùng Churchill dự lễ cầu kinh trên boong thiết giáp hạm Prince of Wales , dưới bóng của những khẩu đại pháo . Sau buổi lễ , Roosevelt ngồi trên xe lăn cùng Churchill nán lại trên boong đón ánh bình minh với ánh nắng đầu ngày êm dịu .
    Hôm sau Churchill và Tổng Thống Hoa Kỳ trở lại hội ý ngay trên tuần dương hạm Augusta . Roosevelt bày tỏ cảm tưởng “đẩy mạnh nỗ lực hầu ngăn cản không để bộc phát một cuộc chiến với Nhật Bản” . Trở ngại là phải dùng đến biện pháp nào – cứng rắn , vừa phải hay mềm dẽo ? Churchill chỉ đáp vắn tắt “Cứng rắn” ; lời đề nghị của Đông Kinh đơn thuần chỉ là “những ngôn từ trơn tru để mặc cả những gì họ có thể nhưng chỉ trong hiện tại , sẽ chẳng giúp ích gì ở tương lai cả”.
    Roosevelt đề nghị là ông sẽ điều đình “về những vấn đề chưa thống nhất” để cầm chân Nhật trong vòng 30 ngày , trong thời gian 30 ngày ấy Anh Quốc phải chuẩn bị sẳn sàng cho việc phòng thủ Singapore . Một tháng thời gian thôi nhưng lại có giá trị lớn cho chúng ta . Rồi ông cẩn thận nhắc lại “Cứ giao hết cho tôi . Cam đoan là tôi có thể “chìu chuộng” họ trong vòng 3 tháng” .
    Sau cuộc hội ý với Roosevelt , Churchill đánh một bức điện tín về Luân Đôn cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Anh Anthony Eden :
    “ …. Khoảng một tuần nữa , sau khi trở về từ sau chuyến phó hộ ngoài khơi vịnh Argentia , Tổng Thống Hoa Kỳ sẽ trao cho Đại Sứ Nhật Bản một lá thư , đoạn phụ chú ở cuối lá thư ấy là phần kèm theo những lời kiến nghị của riêng tôi “Bất cứ những hành động xâm lấn nào của Nhật vùng Nam Thái Bình Dương đều có ảnh hưởng đến việc bang giao giữa hai nước . Hoa Kỳ sẽ có biện pháp thích ứng dù rằng phải đi đến chiến tranh” . Và dĩ nhiên Tổng Thống cũng nêu lên một ảnh hưởng không tốt cho họ là Liên Xô đã trở thành một cường quốc thân hữu với Mỹ , Mỹ sẽ không ngại nhảy vào nếu có sự xung đột ở vùng phía Bắc Thái Bình Dương ….”
    Biện pháp này có lẽ đúng với lối suy nghĩ của Churchill , nhưng với Hull , tự ông nhận thấy rằng đối với Nhật Bản , không có một biện pháp nào ngăn cản được bước tiến của họ cả , ngoại trừ vũ lực . (Vừa rồi ông có nói chuyện với Welles qua điện thoại “Tôi không muốn chúng ta phải lắng nghe bất cứ một lời nào của họ cả . Nhưng họ lại đòi thương thuyết cho bằng được . Thế thì càng hay , cứ đặt những điều kiện tốt có lợi cho mình nhằm mục đích bất lợi cho âm mưu tác oai tác quái của họ”) . Hull thuyết phục Tổng Thống nên tỏ ra khoan hòa đối với cuộc thương thuyết lần này . Ngày Chủ Nhật 17 tháng 08 , Hull thông tin cho Nomura biết là Roosevelt rất lấy làm phấn khởi khi tuyên bố rằng nếu từ bỏ ý định bành trướng và “bắt tay vào chương trình hòa bình trên toàn cõi Thái Bình Dương” thì Hoa Kỳ sẽ sẳn sàng “chuẩn bị một cuộc gặp gở bán chính thức để thảo luận về những bế tắc trong thời gian qua”.
    Tức thì Nomura điện về Đông Kinh “Cơ hội tốt đã đến , đừng nên bỏ lỡ” .
    Chiều hôm sau , 18 tháng 08 , Ngoại Trưởng Toyoda cho mời Đại Sứ Grew . Toyoda đi thẳng vào vấn đề , ông bảo rằng , lấy cương vị của một Đô Đốc Hải Quân Hoàng Gia Nhật chứ không phải là một nhà ngoại giao , ông muốn hai người nói chuyện thẳng thắn với nhau Nhật tiến vào Đông Dương là muốn giúp Trung Hoa trong vấn đề nội bộ chứ chẳng phải vì sự xúi giục hoặc cưỡng ép của Đức Quốc Xã . Hành xử nhau theo lối “đóng băng tài khoản” là có ý muốn đạp đổ tình hữu nghị lâu đời giữa hai quốc gia . Những gì có thể xảy ra ở ngày mai chẳng ai có thể đoán được nếu cuộc thương thuyết bất thành . Cách giải quyết trước mắt là phải sắp xếp để cho hai nhà lãnh đạo của hai quốc gia gặp nhau , hy vọng với sự nhiệt tâm và nỗ lực của hai người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn hiện tại để Hoa Kỳ và Nhật Bản cùng sống chung trong bầu không khí thân mật và bình đẳng như nhau .
    Grew ngạc nhiên cho rằng đây là một tư tưởng mới lạ bởi vì việc đề nghị này chính ông cũng chưa được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thông báo cho biết . Cuộc hội đàm giữa hai nhân vật cao cấp này có thể đạt được một sự thỏa thuận tốt đẹp . Tuy nhiên , nếu có thể tham dự buổi hội nghị đặc biệt này , Grew cho rằng sẽ giúp đỡ rất nhiều cho tiến trình sự nghiệp của mình sau này .
    Nhìn Toyoda một chốc rồi Grew nói “Đô Đốc , ông đã từng đứng trên soái hạm để chứng kiến những cơn bão dữ nhiều khi gầm thét trong đôi ba ngày liền , nhưng ở đây , ngồi trên chiếc ghế Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao này ông sẽ được chứng kiến nhiều cơn bão kinh khiếp hơn nữa và đặc biệt là không bao giờ chấm dứt” .
    Vài tuần trước , Đại Tá Iwakuro và Ikawa , sau khi nhìn ra sự thất bại của “Bản Dự Thảo Sơ Bộ” nên cũng giã từ Hoa Thịnh Đốn trở về . Vừa đến Đông Kinh họ bàng hoàng khi đối diện với không khí chiến tranh đang bốc hơi hừng hực trong mọi tầng lớp tại thủ đô . Lòng căm thù Anh và Mỹ đang bộc phát trong chính giới , họ có cảm tưởng chung rằng họ đang áp dụng chính sách bao vây kinh tế để bóp chết đất nước của họ . Iwakuro chịu khó bỏ ra hàng chục buổi diễn thuyết kêu gọi bộ chỉ huy tối cao quân sự , chính trị cũng như đầu não những công ty kỷ nghệ quốc gia hãy tiếp tục ủng hộ cuộc thương thuyết . Ông cho biết tiềm năng của Hoa Kỳ vượt quá xa Nhật Bản và nếu có đi đến chiến tranh thì chỉ nhận lấy thảm bại mà thôi . Nhưng , mặc cho Iwakuro đã cố gắng thuyết phục , những sĩ quan tham mưu này chẳng những không quan tâm mà họ còn tỏ ra kinh nhờn , thách thức Hoa Kỳ có thể làm gì được họ nếu như họ thực hiện ngay kế hoạch Nam tiến . Thậm chí ngay trong Bộ Hải Quân cũng có người tuyên bố rằng “Nhật đã bị phong tỏa bởi bọn da trắng – Chúng ta không thể bỏ phí thì giờ được nữa – Chúng ta chỉ có một con đường duy nhất – chiến đấu” .
    Iwakuro chợt nhớ lại chỉ mới vài tháng trước đây thôi , Bộ Hải Quân ai nấy đều đồng lòng hướng đến một giải pháp mềm dẽo để củng cố nền hòa bình chung . Gương mặt Iwakuro chợt thoáng buồn , ông quay đi đếm những bước chân trĩu năng và thầm nhủ “Thế là hết” .
    Tuy vậy nhưng ông vẫn chưa chịu bỏ cuộc , ngày ngày vẫn đến nài xin ông bộ trưởng này , van lơn bộ trưởng nọ . Thật ra thì tiếng nói của ông bây giờ chẳng có giá trị gì nữa , ngược lại chính nó có thể gây phiền hà cho ông . Trong một buổi thuyết trình ở phòng họp bộ chỉ huy lục quân , ông có đưa ra một con số thống kê sự chênh lệch về quân sự cũng như kinh tế giữa Mỹ và Nhật . Bảng thống kê ông cho biết rõ như sau :”

    Thép (Mỹ) 20 (Nhật) 1
    Dầu cặn 100 1
    Than đá 10 1
    Phi cơ chiến đấu 5 1
    Tàu chiến 2 1
    Quân số 5 1

    Như thế có nghĩa là nếu chống lại Hoa Kỳ thì Nhật phải dùng 1 chọi 10 , rõ ràng là đi vào chỗ chết nếu xảy ra chiến tranh . Một trong những người lắng nghe có ông Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh , Tướng Tojo . Tojo cho mời Iwakuro ngay và ra lệnh nội nhật ngày hôm sau phải viết một bảng báo cáo rõ ràng về những gì ông vừa nêu ra trong cuộc họp .
    Theo mệnh lệnh , ngày hôm sau Iwakuro đến văn phòng của Tojo để trình diện và nộp bảng báo cáo . Nhưng ngạc nhiên thay , Tojo chỉ cho biết là đã có lệnh thuyên chuyển Iwakuro đến một đơn vị đang đồn trú tại Cao Miên và không nhắc nhở gì đến bảng báo cáo về việc ngày hôm qua cả .
    Hôm tiển đưa Iwakuro lên xe hỏa đến bến tàu xuôi Nam nhận nhiệm vụ mới , chân ông bước lên toa xe nhưng mặt còn quay lại nói với nhóm bạn bè tiển chân rằng “Anh em đến đây để cầu chúc cho tôi được thượng lộ bình an , tôi xin cám ơn anh em nhiều . Nhưng mai đây nếu còn sống sót , tôi chỉ e ngày trở về sân ga này sẽ hoang tàn đổ nát và chung quanh tôi chẳng còn được mấy ai đến đón như ngày hôm nay nữa” .
    Iwakuro cũng vì lòng nhiệt tâm mà bị thượng cấp thuyên chuyển đến tuyến đầu khói lửa , chính ông cũng nhận ra được điều đó bởi chung quanh ông , không ít người đồng chung cảnh ngộ . Đó là biện pháp cách ly hữu hiệu những kẻ dám chống lại chiến tranh .
    Nhưng rồi sau đó , sau những cuộc cãi vã dai dẳng , cuối cùng rồi những sĩ quan cao cấp trong quân đội cũng thống nhất với nhau là tránh đụng độ với Hoa Kỳ dù phải chịu nhượng bộ ở mức tối đa . Cùng ngày khởi hành của Iwakuro , 28 tháng 08 , hai bức điện được gửi đi từ Đông Kinh đến tay Frankin Roosevelt . Một bức của Thủ Tướng Konoye nhắc nhở về cuộc họp thượng đỉnh sắp tới và một của chính phủ Nhật xác định kế hoạch rút toàn bộ quân lực ra khỏi Đông Dương cũng như Trung Hoa , khi mọi xáo trộn trên lục địa này đã được dàn xếp và hòa bình lập lại vùng Đông Á . Nhật Bản cũng long trọng tuyên hứa rằng họ sẽ không dùng sức mạnh quân sự để vi phạm lãnh thổ các quốc gia lân bang , kềm chế mọi sự xung đột quân sự với Liên Xô nếu quốc gia này còn tôn trọng “hòa ước bất tương xâm Nhật – Nga”. Một bước tiến quan trọng mới , Nhật Bản đã đồng ý chấp thuận bốn nguyên tắc cơ bản của Ngoại Trưởng Hull để chuẩn bị đi đến cuộc đàm phán cho “Bản dự thảo sơ bộ” .
    Quyết định này đã gây nên một làn sóng căm phẩn cho một số nhân vật đầu não trong chính giới Nhật , họ cam quyết rằng Hoa Kỳ sẽ thừa cơ hội này bắt chẹt thêm và theo đó Nhật sẽ đi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác . Riêng Tổng Thống Roosevelt , phản ứng đầu tiên của ông thì rất lấy làm lạc quan khi đưa ra một kế hoạch thăm dò là sẽ bỏ ra ba ngày hoặc hơn nữa để cùng Thủ Tướng Konoye vẽ ra một viễn ảnh hòa bình chung cho hai quốc gia . Nhưng Stanley Hornbeck lại không tin tưởng Nhật thành thật hợp tác sau khi Hull đọc những điện tín bí mật của Nhật đã bị cơ quan tình báo Hải Quân Hoa Kỳ chận đuợc và giải mã gửi về , vì vậy cũng không lấy gì làm ngạc nhiên lắm khi Hornbeck tỏ ra nghi ngờ “thiện chí” của chính phủ Nhật . Với Roosevelt , người lúc nào cũng có hứng thú để hội đàm với Konoye vì ông tin chắc rằng chẳng bao giờ “không đạt được mục tiêu thỏa thuận như ý” .
    Tại Đông Kinh , Đại Sứ Grew cùng nhân viên của ông cũng nỗ lực không ngừng để thuyết phục Thủ Tướng Nhật sớm thực hiện lời cam kết rút hết toàn bộ lực lượng quân sự ở Đông Dương và Trung Hoa nhưng để giữ thể diện của họ , Grew đồng ý cho họ tạm thời duy trì một lực lượng tối thiểu để bảo vệ vùng Mãn Châu và Nội Mông . Ông cho biết rằng cuộc họp thượng đỉnh có được Hoa Kỳ chấp thuận hay không là còn tùy thuộc vào thời gian và hành động của Nhật . Một mặt khác Grew lại cảnh báo với Hoa Thịnh Đốn rằng quân đội Nhật Bản “có thể thình lình hành động bất ngờ” vì đó là truyền thống của họ “tâm lý của một quốc gia bị chế ức quá mức thì sự vùng lên để liều mạng là lẽ thường của một dân tộc
    Chính lẽ ấy mà ngay trong một cuộc họp thường lệ diễn ra bên trong hội trường ngày 03 tháng 09 tại bộ Nội Vụ Hoàng Gia . Khi chưa nhận được một câu trả lời chính thức của Roosevelt , tất cả viên chức cao cấp Nhật đều tỏ ra bực tức và hồ nghi thái độ bất hợp tác của Hoa Kỳ . Câu hỏi được đặt ra là sự nhún nhường quá mức cũng vì tinh thần hòa giải của Nhật có phải là một sự lựa chọn lầm lẫn ? Và Hoa Kỳ đang chơi trò dậm chân tại chỗ hầu kéo dài thời gian ra ?
    Tham mưu trưởng Hải Quân Nagano nói trước cử tọa “Với một tình trạng bị phong tỏa , số nhiên liệu dự trữ dùng cho quốc phòng quá giới hạn này nó không cho phép chúng ta ngồi mà chờ đợi mãi . Hoạt động của chúng ta càng ngày càng yếu đi cho đến khi hoàn toàn kiệt quệ . Tôi nghĩ nếu phát động chiến tranh ngay bây giờ thì cơ hội chiến thắng rất lớn , còn nếu cứ chần chờ mãi thì kết quả như quí vị đã biết – cơ may phòng thủ còn không có nói gì đến “chiếu tướng kẻ thù” . Tiềm năng kỷ nghệ - quyết định cho trận chiến thắng ban đầu là yếu tố cần thiết “Do đó , chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất để chọn lựa là “xung phong” về phía trước !”.
    Lời của vị Tham Mưu Hải Quân khiến cho toàn thể quân đội hoảng lên . Sugiyama , Tham Mưu Trưởng Quân Đội tuyên bố “Chúng ta phải cố gắng đạt cho kỳ được mục tiêu ngoại giao quan trọng này trước ngày 10 tháng 10 . Nhưng nếu việc bất thành , chúng ta phải dứt khoát hành động ngay .Ra tay trước chắc chắn sẽ chiếm phần tiện nghi về mình” .
    Đối với hai chính khách nhiệt tâm với hòa bình là Konoye và Ngoại Trưởng Toyoda thì đây là những lời khích động đầy hiểm họa dễ dàng đi đến chiến tranh , nhưng giữa một khối đa số sĩ quan cao cấp xuất thân võ biền quen giải quyết vấn đề bằng vũ lực thì hai ông còn biết sao hơn “im lặng là vàng” thầm cầu mong sao cuộc thương thảo được thành công sớm hơn thì có thể giải quyết hết những bế tắc của nội bộ trong hiện tại . Chỉ trong vòng 7 tiếng đồng hồ sau đó , chính sách của Nhật Bản đã được tu chỉnh lại như sau “Để bảo vệ cho quốc gia và sự sinh tồn của Đế Chế Nhật Bản , chúng ta phải ráo riết chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh . Thời hạn chót dứt khoát vào khoảng thượng tuần tháng 10 . Quyết định này đã thành hiệu lực dù phải đối đầu với Anh , Mỹ và Hòa Lan” . Song song với việc chuẩn bị ra quân , ngay trong thời gian từ đây cho đến 10 tháng 10 , chúng ta cần chờ đợi xem cuộc họp thượng đỉnh có thể mang lại một kết quả khả dĩ nào không , bằng ngược lại thì – chiến tranh sẽ bùng nổ .
    Mọi chiến dịch hành quân và phương án kế hoạch tấn công đều được sắp đặt đâu đó hoàn chỉnh hẳn hòi . Mũi tiến công chính do Hải Quân và Lục Quân phát động cùng một lúc là Trân Châu Cảng , Hương Cảng , Mã Lai Á và Phi Luật Tân . Tổng Tham Mưu Trưởng và vài sĩ quan cao cấp trong Bộ Chiến Tranh chỉ được thông báo cho chiến dịch tấn công Trân Châu Cảng vài ngày trước khi hành động , nhưng Tojo , ông Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh thì chẳng được ai thông báo cho hay biết gì cả .
    Nhưng quyết định đi đến chiến tranh quá vội vàng này chưa được Quốc Hội thông qua thì được tạm ngưng lại sau khi nhận được điện văn trả lời của Roosevelt về cuộc họp thượng đỉnh sắp tới . Bức điện văn chia ra làm hai phần : phần thứ nhất là lời từ chối rất lịch sự cho cuộc họp thượng đỉnh theo lời yêu cầu của Thủ Tướng Konoye cho đến khi nào hai bên đạt được sự thỏa thuận “cơ bản và những yếu tố cần thiết của vấn đề” . Phần thứ hai , không khác gì một lời phát biểu quanh co khá mơ hồ chỉ gây cho chính giới Nhật càng thêm thất vọng . Nó dường như là những lời trả đũa khôn khéo đầy tính chất ngoại giao , không hứa hẹn mà cũng không đòi hỏi gì cả . Tựu chung chỉ là một bức điện văn từ chối khôn khéo mà thôi .
    Một bức điện văn gây căm phẫn không ít trong chính trường Nhật Bản , họ có cảm giác Hoa Kỳ đã có chủ tâm từ khước hảo ý của họ và phe Quân Đội dù hết sức nhượng bộ nhưng vẫn chưa làm vừa lòng Roosevelt , sự từ chối của ông ta là thái độ ngạo mạn quá khinh thường Quân Đội Thiên Hoàng , Quốc Hội Nhật thông qua kế hoạch chiến tranh ngay sau đó và tất nhiên không có một ai chống lại .
    Ngày 5 tháng 9 Konoye mang bản kế hoạch chiến tranh đến hoàng cung đệ trình lên Thiên Hoàng để được ông cho hợp thức hóa . Trên đường , thủ tướng tạt vào văn phòng gặp viên quan Quản Thủ Quốc Ấn Kido . Khi biết được ý định của Konoye , quan Thủ Ấn vội kêu lên “Tình hình biến chuyển ra làm sao mà ông lại xuất hiện thình lình với đề nghị này và đòi yết kiến Thiên Hoàng ngay” . Tuy trách thế nhưng ông cũng xông xáo chạy đi trình lại với Thiên Hoàng , đến 4 giờ 30 chiều Konoye mới được vào hội kiến với Hirohito . Sau khi đọc xong bản kế hoạch , Thiên Hoàng ngẫng lên nhìn Konoye chậm rãi phán “Được , ta sẽ bàn việc này vào ngày mai ở phòng họp . Thủ Tướng hãy cho mời tất cả Bộ Tham Mưu cùng đến thương nghị một thể” .
    Cuộc họp diễn ra trong bầu không khí khá căng thẳng . Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Sugiyama thay mặt Bộ Chỉ Huy Quân Sự đứng ra thuyết trình về kế hoạch hành quân tiến chiếm các quốc gia cận Nam vùng Thái Bình Dương . Nhật Hoàng Hirohito biểu lộ sự không đồng tình , ông nêu lên những khuyết điểm mà quân đội đã gặp phải trong thời gian vừa qua ở Hoa Lục . Ông hỏi Tướng Sugiyama “Đại Tướng có nghĩ rằng chiến dịch đổ bộ lần này thực hiện có suông sẻ và dễ dàng như sự trù liệu không ?” , Sugiyama ngẫm nghĩ rồi lễ phép trả lời “Thần thiết nghĩ nó không quá dễ dàng đâu , nhưng với tinh thần đoàn kết của Hải Lục quân cùng với sự luyện tập không ngừng nghỉ của họ , thần cam quyết chúng ta sẽ vượt qua được tất cả để mang lại chiến thắng vẽ vang cho dân tộc” . Nhật Hoàng gật gù rồi hỏi lại “Lúc trước khi còn là Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh , Đại Tướng có quả quyết rằng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn thôi thì quân đội ta sẽ cho Tưởng Giới Thạch nếm mùi đại bại . Lời tuyên bố chắc nịch của một vị Bộ Trưởng chắc Đại Tướng còn nhớ chứ ?” Sugiyama bất giác cảm thấy ê mặt trước hàng sĩ quan thuộc cấp , ông xuống giọng bào chửa “Thất bại của chúng ta là ở chỗ địa hình Trung Hoa quá rộng lớn và sinh hoạt xã hội khá phức tạp” . Hirohito vẫn chưa chịu buông tha “Ta biết , nhưng vùng Đông Nam Á càng rộng lớn hơn nhiều . Thế thì có thể nào Đại Tướng dám khẳng định là chiến tranh sẽ chấm dứt trong vòng 5 tháng ?” Sugiyama cố gắng giải thích , bằng một lối biện luận dựa trên sức mạnh và tinh thần yêu nước của quân đội Thiên Hoàng chỉ lấy cái chết làm sự cống hiến vĩnh cữu cho quốc gia xã tắc . Vẫn không phải là một câu trả lời thẳng vào vấn đề , Nhật Hoàng vội xua tay , hỏi lại “Liệu Đại Tướng có chắc chắn rằng quân đội ta sẽ chiến thắng ?” . Sugiyama ấp úng thưa “Chắc chắn thì thần không thể quả quyết . Thần chỉ dám thưa rằng chúng ta có thể chiến thắng mà thôi . Nhưng dù sao thì nó cũng không tài nào tái lập hòa bình trong vòng nửa năm hoặc một năm khi nước nhà đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng . Ở đây , thần chỉ mong tìm cho được một nền hòa bình vĩnh cữu mà thôi” . Hirohito gật gù phán “À , Ta hiểu !” Sugiyama như biết Thiên Hoàng vẫn còn băn khoăn lo nghĩ nên ông vội nói “Tốt hơn hết là chúng ta không nên vội vàng . Trước mặt , việc nên làm là cố gắng tìm được một biện pháp hòa giải nào đó với họ , chỉ khi nào bị dồn vào đường cùng bắt buộc dùng đến hạ sách thì chúng ta mới hành động cũng chưa muộn” .
    Nagano vội vàng đến bên viên sĩ quan đồng sự than thở “Tôi nghĩ tình trạng hiện tại nó giống như một bệnh nhân trong cơn hiểm nghèo nằm chờ bác sĩ đến . Điều tối cần thiết là phải đi đến quyết định cho chiến dịch Nam tiến ngay . Chiến dịch chưa quyết định chẳng khác nào bệnh nhân vẫn còn nằm chờ bác sĩ cho đến khi chết” .
    Phiên họp tạm giải tán , vấn đề vẫn chưa được giải quyết được vì Hirohito còn đang phân vân . Hôm sau , trước khi đến phòng họp , ông dò ý viên cố vấn thân cận nhất là Kido là cách giải quyết nào ổn thỏa , chịu thiệt thòi để thương thuyết với Hoa Kỳ hay dùng biện pháp vũ lực chống đối với họ . Nếu đi đến chiến tranh , liệu Nhật có thể thắng nỗi Hoa Kỳ hay không . Kido khuyên nhà Vua hãy tạm thời giữ thái độ im lặng , chỉ chuyển câu hỏi đến Chủ Tịch Hội Đồng Cơ Mật Hara , vì Kido đã chỉ dẫn cho Hara biết phải nên đối phó làm sao rồi . Nhưng lúc mọi sự đã xong , nghĩa là khi việc chiến tranh đã dàn xếp xong thì nhà vua nên cất chức Hara hoặc khuyên ông ta nên từ chức . Chỉ có thế , một điều lệ tạm thời được ra đời “Chỉ thị cho những Sĩ Quan Tham mưu cộng tác với chính phủ tiến hành ngay một cuộc thương thảo với Hoa Kỳ cho đến khi thành công” . Một vỡ kịch chính Kido đạo diễn dàn dựng , ông hy vọng sẽ giúp phe chủ hòa của chính phủ Đông Kinh đão ngược được tình thế bất ổn do giới cầm quyền quân phiệt khởi xướng .
    Cuộc họp chưa chính thức bắt đầu nhưng đã có một vài người đến sớm ngồi chờ sẳn trong hội trường . Thủ Tướng Konoye cũng vừa tới , ông bước lại ngồi khẻ bên cạnh Tướng Suzuki , một sĩ quan cao cấp chuyên trách về tài nguyên và tiềm năng quốc gia . Konoye rỉ tai nói cho Suzuki nghe những dự trù của chính sách mới . Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Suzuki là không nên xuất hiện trước mặt Nhật Hoàng , Konoye cũng đồng tình như thế , nhưng ông lại bảo rằng chính vì Tojo và Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội cứ khăng khăng đòi xúc tiến một cuộc chiến tranh mà chúng ta có thể tránh được . Thế nên , nếu cuộc họp hôm nay không đạt kết quả thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ Nội Các Chính Phủ có lẽ phải giải tán mất . “Đánh hay đàm , vấn đề này sau hãy quyết định . Vấn đề cần kiếp để giải quyết ngay bây giờ đơn thuần chỉ là chuẩn bị để cho quân đội ra trận . Chúng ta vừa đánh vừa đàm . Bởi vậy cho nên tôi phải đành chấp nhận giải pháp nguy hiểm này” .
    Cuộc họp mở màn , Thủ Tướng thay mặt cử tọa phát biểu ngắn gọn và duyệt sơ qua về tình hình căng thẳng hiện tại trên thế giới . Hội trường im lặng lắng nghe . Tham Mưu Trưởng Hải Quân Nagano đứng lên thuyết phục rằng phải cố gắng dùng đủ đường lối mềm dẽo nào có thể để đi đến hòa đàm . Nhưng nếu như một đòi hỏi tối thiểu của phe ta cũng không được Hoa Kỳ chấp thuận thì coi như tuyệt vọng để cầu hòa , vạn bất đắc dĩ phải dụng đến quân sự , chỉ vì vũ lực chỉ giải quyết vấn đề trong tạm thời chứ không thể nào coi là thượng sách trên bàn cờ chính trị và ngoại giao . Trong khi ấy Tham Mưu Trưởng Lục Quân cũng gật gù lộ vẽ tán đồng với ý kiến của vị sĩ quan Hải Quân khả kính dày dạn này . Tướng Teiichi Suzuki được yêu cầu báo cáo về tình trạng nhiên liệu dự trữ cũng như tiềm năng của quốc gia . Ông vẽ lên một viễn ảnh không lấy gì làm lạc quan cho chính giới rằng với số nhiên liệu quốc phòng hiện tại nếu mang ra sử dụng trong mục đích chiến tranh thì tối đa chỉ đủ cho 10 tháng mà thôi . Cuối cùng Suzuki kết luận “Nếu cuộc đàm phán thành công thì chẳng nói gì , nhưng thất bại , chúng ta đã phí phạm một khoảng thời gian quá lâu , đó là mối hiểm họa khôn cùng” . Hoàn cảnh hiện tại chúng ta chỉ có 3 con đường để chọn lựa : Chuẩn bị cho một trận chiến trong khi vẫn tiếp tục đàm phán hoặc chỉ ngồi im mà chờ chết .
    Đến lượt Hara , chủ tịch Hội Đồng Cơ Mật , người đã được Kido dặn dò cẩn thận . Ông nói thời gian đã không cho phép chúng ta sử dụng cách ngoại giao đúng nghĩa thông thường của nó nữa rồi . Quyết định gặp gở Roosevelt ngõ hầu tìm cách giải quyết những bế tắt hiện tại của Thủ Tướng quả là một ý kiến đáng được ca ngợi . Hara chỉ vào một tập hồ sơ đánh máy trên tay và bảo rằng “Đây là một phương sách mới , cũng với nội dung “tiên dụng binh hậu thuyết khách”, nhưng ý nghĩa của nó tôi không thể giải thích là chúng ta sẽ gắng hết sức mình để nhượng bộ hầu tìm một đường lối ngoại giao tốt đẹp và dùng vũ lực giải quyết khi không còn con đường chọn lựa
    Ông Bộ Trưởng Hải Quân Oikawa vội nói “Căn cứ theo lời giải thích của ông Chủ Tịch Hara và sự quyết định của chúng tôi cũng giống hệt như thế chứ có khác điểm nào đâu” . Hara tỏ ra bất mãn trước câu nói của Oikawa , phe Quân Đội , ông nhấn mạnh từng tiếng “Nhìn vào sách lược của các ông , tôi lại có cảm tưởng rằng chúng ta hoàn toàn dựa theo vũ lực mà giải quyết vấn đề và ngoại giao chỉ là thứ yếu , phụ thuộc mà thôi . Hoặc giả các ông đã không có ý định đặt nặng vấn đề ngoại giao ? Tôi rất muốn biết rő quan điểm của Chính Phủ cũng như Bộ Tổng Tư Lệnh quí ông ra sao ?”.
    Cả hội trường im lặng ngột ngạt . Hirohito im lặng hồi lâu như chờ đợi nhưng tuyệt nhiên ai nấy vẫn im lặng như tờ , bất giác Thiên Hoàng lớn tiếng hỏi “Tại sao các người không ai chịu mạnh dạn trả lời ?”
    Tiếng quát hỏi của Thiên Hoàng như ngấm ngầm chứa đựng một sự phẫn nộ cùng cực khiến cho hội trường bàng hoàng kinh hãi . Những vị chỉ huy thường ngày hét ra lửa bây giờ im ỉm đưa mắt nhìn nhau . Oikawa cuối cùng đành phải ấp úng “Tất nhiên chúng tôi sẽ chuẩn bị cho một cuộc tấn công , nhưng bên cạnh ấy vẫn nỗ lực tìm một giải pháp cho một cuộc thương thuyết” . Có lẽ Hirohito chỉ chờ đợi câu trả lời của hai vị Tham Mưu Trưởng Hải và Lục quân nhưng Nagano và Sugiyama vẫn ngồi trơ ra bất động khiến cho ông không nhịn được , liền phán “Như thế thì Bộ Tư Lệnh Tối Cao chẳng có gì để nói ư ?” . Đoạn ông ngâm lên khe khẻ :
    Tứ hải giai huynh đệ
    Hà tất khởi đao binh…
    Bài thơ của một vị Tiên Đế để lại , ngụ ý dạy cho hậu nhân dĩ hòa di quí . Hirohito vẫn nhớ và coi đó như một bảo vật , một lời răn quí giá của tiền nhân .
    Tiếng ngâm nga của Thiên Hoàng Hirohito đã dứt từ lâu nhưng hội trường vẫn im lặng , cho đến một lúc lâu sau đó ông mới lên tiếng , nhưng lần này giọng của ông khoan thai từ tốn hơn “Ta mãi dặn lòng là ngày ngày phải đọc bài thơ này để ghi nhớ lời dạy của Minh Trị Thiên Hoàng Tiên Đế, lấy đạo làm người mà hành xử với nhau và quốc thái dân an làm trọng . Các người nghĩ sao về lời răn của Tiên Đế ?”
    Đến lúc này thì không ai bảo ai cả Nagano cùng Sugiyama cùng đứng lên đồng ý dứt khoát với Chủ Tịch Hội Đồng Cơ Mật Hara , nghĩa là phải nỗ lực để đạt đến bàn thương thuyết , dứt khoát chọn ngày 10 tháng 10 là thời hạn chót , nếu cuộc đàm phán không thành , chiến tranh là giải pháp cuối cùng bất đắc dĩ phải chọn đến để giải quyết vấn đề .
    Quyết định đã được Thiên Hoàng Hirohito đóng ấn ký để hợp thức hóa ngay sau đó , nhưng rồi ông lại bất mãn lẳng lặng bỏ đi với bao nhiêu ngờ vực như những vị lãnh đạo quân đội trong phiên họp ấy . Nhìn theo bóng của vị Thiên Hoàng khuất dần sau cánh cửa , Konoye nhớ lại lúc nãy Ngài đã cẩn trọng nhắc đi nhắc lại với ông rằng phải cố làm sao thuyết phục cho được Roosevelt để mọi trở ngại sớm được giải quyết . Konoye biết đây là cơ hội cuối cùng mà Hirohito đã dành cho mình để đi tìm một giải pháp hòa bình cho quốc gia dân tộc .
    Một trở ngại không nhỏ cho Konoye là bên ngoài công chúng , đa số đều ngã về phe phân phiệt hiếu chiến . Giới báo chí , một công tác truyền thông rộng lớn nhưng lại đứng hẳn về phe quá khích , tiếng nói của họ gây nên một sức mạnh mãnh liệt trong quần chúng lúc bấy giờ . Những ngòi bút thiên tả lúc nào cũng muốn lôi cuốn mọi tầng lớp trong xã hội tin tưởng với họ rằng dưới mắt bọn người da trắng thì Nhật Bản chỉ là một quốc gia nghèo nàn trong cái gọi là Thế Giới Thứ Ba . Tự ái dân tộc như bị tổn thương khiến cho những kẻ ái quốc cực đoan càng có lý do để chống đối với đương quyền . Tình trạng tồi tệ hết sức đến nỗi mỗi khi ra đường , Đại Sứ Grew phải kè kè bên hông khẩu súng ngắn tự vệ , lắm lúc ông tự mĩa mai rằng chả biết mình là một vị Đại Sứ đặc nhiệm hay một gã cao bồi bất đắc dĩ của miền Viễn Tây xa xôi dạo nào nơi cố quốc .
    Rồi sự trở ngại ấy lại trở thành một mối nguy hiểm thật sự : Hai tổ chức bí mật , sau khi nghe tin sẽ chính thức có một cuộc họp thượng đỉnh của Thủ Tướng và Tổng Thống Hoa Kỳ , họ cùng nhau sắp đặt kế hoạch ám sát Konoye . Một phe thì quyết định chọn con đường thanh toán ngay trong thành phố như những tổ chức anh chị giang hồ . Phe thứ hai chọn lối hành động thủ tiêu Thủ Tướng như năm xưa Đạo Quân Quang Đông từng ám sát Trương Quốc Lâm , nghĩa là đánh bom trên một tuyến đường nào đó có Thủ Tướng đi qua . Hành động đánh bom là quyết định cuối cùng của hai nhóm người bí mật này và Trung Tá Masanobu Tsuji , một vị sĩ quan trẻ nhưng mang nặng đầu óc cực đoan , lãnh trách nhiệm thi hành bản án để kết liểu kế hoạch hòa bình của phe chủ hòa trong chính phủ .
    Trung Tá Tsuji chọn lấy một thường dân với thành tích hai lần vào tù ra khám về những tội danh chính trị chống phá chính phủ để tiện việc ra tay . Theo lãnh tụ phe cực đoan Kodama thì Thủ Tướng sẽ lên đường phó hội theo phương tiện duy nhất là thuyền , mà xa lộ dẫn đến căn cứ Hải Quân lại quá tồi , vì lẽ đó ông ta sẽ dùng hỏa xa để di chuyển từ địa điểm xuất phát đến bến , và dĩ nhiên ông sẽ đi ngang qua chiếc cầu Rokugo ở ngoại thành Đông Kinh , nếu cho mìn nỗ trên đoạn này thì dẫu Konoye có cánh cũng không thoát chết .
    Trở lại với Thủ Tướng Konoye . Sau khi buổi họp bế mạc , ông gọi ngay cho cô nhân tình và bảo nàng hãy sẳn sàng để ông cho người đến rước cô . Một chốc sau , một chiếc xe chở cô ta đổ ngay tại căn nhà của Bunkichi Ito . Ito vốn là thứ nam của Hoàng Thân Hirobumi , một trong bốn đại thần của thời kỳ phục chế Minh Trị . Ngôi nhà này vốn không có người hầu .
    Có hai chiếc xe nữa cũng vừa đến nơi , một chiếc người ta thấy có sự hiện diện của Thủ Tướng Konoye và Ushiba , viên thư ký riêng của ông ta ; một chiếc xe khác với huy hiệu ngoại giao đã được tháo đi , chở Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền Grew và viên cố vấn Eugene H.Dooman . Một cuộc gặp gở ngoại giao vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Nhật , Konoye cũng biết như thế nhưng tình thế bắt buộc khiến cho ông không còn cách nào để chọn lựa nên đành phải chấp nhận và những người khách ngoại quốc này có lẽ cũng cảm thông cho ông .
    Konoye giới thiệu cô nhân tình của ông với mọi người là “đứa con gái trong gia đình” , bởi vì vai trò của cô ngày hôm nay trong căn nhà này không ngoài mục đích phục dịch bửa ăn chiều để cho mọi người được thoải mái chuyện trò bàn bạc . Hơn 3 tiếng đồng hồ , Grew và Konoye thảo luận “hết sức thẳng thắn” . Konoye cam đoan với Grew rằng Tướng Tojo và Đô Đốc Oikada cùng muốn có được một cuộc dàn xếp trong hòa bình . Grew lại hỏi về bốn điều kiện của Ngoại Trưởng Hull đưa ra , Konoye cho biết họ đã hoàn toàn chấp thuận “Tuy nhiên nếu mang ra thực hành thì dĩ nhiên vẫn còn một vài trở ngại . Để giải quyết êm thắm mọi trở ngại trên thì cách duy nhất là tôi phải trực tiếp đi gặp Tổng Thống của quí quốc” . Và ông cũng thừa nhận “những thất bại đáng tiếc của sự giao hảo” là do lỗi của chính ông cũng như hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự xáo trộn ở Hoa Lục và Hiệp Ước Liên Minh (Nhật Đức Ý) . Vì vậy ông kiên quyết phải dấn thân mạo hiểm ngõ hầu dàn xếp những dị biệt còn gây khó khăn cho hai quốc gia .
    Nghĩ rằng với Tổng Thống Roosevelt , khi được mặt đối mặt nhau , Konoye chắc chắn rằng sẽ dễ dàng tìm được giải pháp ổn thỏa . Nhưng dù sao thì cũng chẳng giải quyết hết những bế tắt trong lần gặp gở sắp tới được , cuộc thương thuyết nếu muốn đạt được hoàn toàn theo đúng theo quy chế ngoại giao thông thường thì ít nhất cũng cần phải một năm thời gian . Konoye khó có thể bộc lộ được nỗi khổ tâm này vì ông ta chỉ còn không đến 5 tuần lễ phù du nữa là đến thời điểm 10 tháng 10 , nghĩa là hạn chót của cuộc đàm phán mà chính phủ và quân đội của ông đã kỳ hạn cho ông phải thành công .
    Việc phải làm trong một năm nhưng tôi chắc chắn tôi có thể làm được ngay trong hiện tại . Tôi xin tuyên hứa rằng chúng tôi có thể đạt được những bước tiến khả quan chỉ khi nào tôi gặp được Roosevelt . Tôi sẽ đưa ra những dự kiến mà ông ta không thể nào từ chối được” Đoạn Konoye quay sang Dooman , một người đã từng sinh ra và lớn lên ở Osaka (Nhật) vì cha mẹ là những nhân viên ngoại quốc làm việc tại Nhật , ông từ tốn bảo “Anh cũng quá rõ tình trạng hiện tại của đất nước này rồi . Tôi muốn nói với anh những việc mà anh không nên trình lại ông Grew nhé . Anh có hiểu rằng cuộc tranh luận này không có dính dáng gì đến Thiên Hoàng của chúng tôi cả , nhưng sau khi đạt được thỏa thuận với Tổng Thống Hoa Kỳ rồi thì tôi sẽ cấp thời điện về Đông Kinh để tấu trình với Ngài , khi ấy Ngài sẽ ban lệnh cho quân đội phải đình chỉ ngay mọi hoạt động quân sự” .
    Đây là một kế hoạch liều lĩnh táo bạo , có thể nói là chưa từng thấy trong lịch sử ngoại giao từ cổ chí kim của Nhật Bản . Dooman hứa với Konoye là sẽ giữ việc này trong vòng bí mật . Konoye còn cho Grew biết là cùng tháp tùng với chuyến phó hội của ông sẽ có bốn tướng lãnh cao cấp đại diện cho Hải Lục Quân Nhật . Phải thừa nhận là một nhóm tướng lãnh từng bất đồng chánh kiến lại hợp tác với nhau đi tìm hòa bình . Nhưng với sự ủng hộ mạnh mẻ của những sĩ quan cao cấp đầy trách nhiệm ấy , Konoye tin chắc rằng ông có thể bị ám sát nếu ông dám thẳng thắn bác bỏ những ý kiến đối lập của họ . Nhưng nếu quốc gia của ông thoát ra khỏi những bế tắc hiện tại và nhân dân được sống trong hạnh phúc hòa bình , cái chết của ông xem ra cũng có một chút ý nghĩa .
    Một cảm kích sâu sắc chợt bùng dậy trong lòng ông Đại Sứ trước lời trần tình tha thiết của một vị Thủ Tướng hiền hòa vì dân vì nước , Grew cáo từ và không quên nói rằng khi về đến đại sứ quán ông sẽ gửi ngay một công điện “tối quan trọng” về Hoa Thịnh Đốn .
    Bởi đinh ninh rằng dù Tướng Tojo đã chấp thuận cuộc thương thuyết nhưng ông vẫn chưa hoàn toàn ủng hộ mình nên Konoye vội nhờ Hoàng Thân Higashikini , một người dượng rễ của Thiên Hoàng Hirohito , dùng uy thế của ông tác động Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh Tojo . Sáng ngày , Higashikuni cho triệu Tojo . Vừa gặp ông Bộ Trưởng , Hoàng Thân vào đề ngay “Tôi được nghe Thiên Hoàng đặc biệt chiếu cố đến cuộc thương thảo với Hoa Thịnh Đốn và Ngài rất kỳ vọng vào hiệp nghị lần này” , với cương vị một bộ trưởng chiến tranh như Tojo , tất nhiên phải biết tôn trọng mối ưu tư của Thiên Hoàng và phải tạo nhiều ảnh hưởng thuận lợi cho việc đàm phán .
    Tojo mím môi ra chiều nghĩ ngợi rồi chậm rãi trả lời “Thật sự thì tôi rất lấy làm đau buồn khi không được giải thích một cách thỏa đáng với Hoàng Đế . Hy vọng trong những ngày kế tiếp biến chuyển trong quân đội sẽ giải thích cho Ngài hiểu một cách tường tận hơn . Tôi cũng nhận thức được quan điểm của Ngài đối với cuộc đàm phán Nhật – Mỹ cũng như sự điều đình Konoye và Roosevelt” . Ông hứa rằng bằng mọi giá , với bổn phận và cương vị của mình ông sẽ ủng hộ tuyệt đối cuộc thương thuyết này mặc dù cá nhân ông tự đánh giá kết quả của nó không mấy khả quan , 30 phần trăm thành công đã là con số cao lắm rồi . “Nhưng , dù thế nào đi nữa , còn nước thì chúng ta còn phải tát vậy” .
    Bỗng dưng trên mặt của vị Bộ Trưởng nghiêm trang lạnh lùng , giọng ông trở nên đanh lại và chắc nịch , ông tuyên bố “Nếu kết quả của cuộc thương thuyết gây bất lợi về sau cho Nhật Bản , tôi sẽ đứng ra phản đối với Thiên Hoàng” . Nếu như Ngài từ chối không nghe kiến nghị của tôi , lúc ấy tôi sẽ từ chức . Thế thôi , “Đấy là cách duy nhất để tỏ lòng trung thành của tôi đối với Hoàng Thượng” .
    Hoàng Thân Higashikuni kiên nhẩn ngồi im để cho Tojo nói một mạch , bấy giờ ông mới từ tốn góp lời “Khi xưa , lúc tôi còn ở bên Pháp , Pétain và Cle-men-ce-au có nói với tôi rằng Đức là một quốc gia rất chướng mắt của Hoa Kỳ ở Châu Âu và họ đã tống khứ nó đi ở Thế Chiến Thứ Nhất . Cuộc chiến kế tiếp họ sẽ loại bỏ một chướng ngại khác ở Á Châu , đó là Nhật Bản . Hoa Kỳ họ biết sử dụng lối ngoại giao lạc lõng , dùng những chính sách vô lý vớ vẩn để dần dà chèn ép cho đến khi nào Nhật chịu không nỗi sẽ bùng lên chống lại . Nhưng nếu các ông quá nóng nãy không còn tự chủ được nữa để chiến tranh bùng nỗ thì thảm bại tất nhiên sẽ không tránh khỏi bởi vì sức mạnh của Hoa Kỳ là một sức mạnh vô song bất khả địch . Hoàn cảnh trước mắt hiện giống y như lời tiên đoán của Pétain và Cle-man-ce-au . Bởi thế chúng ta nên phải nhún nhường , cố giữ hòa khí tối đa để tránh được một cuộc chiến không hay với Mỹ . Dĩ hòa di quý đó mới là thượng sách . Ông là một thành viên trong Nội Các Konoye , trong quân đội , quân lệnh tất phải thi hành . Bây giờ Triều đình và Nội Các Chính Phủ đang cố gắng vẽ lên một viễn ảnh hòa bình chung , đó là một đại cuộc cho quốc gia dân tộc . Là Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh , tất nhiên ông chỉ có hai chọn lựa : hoặc tuyệt đối thi hành mệnh lệnh của thượng cấp hoặc từ chức . Thế thôi !

  7. #7
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương 8 : VÌ ĐÂU NÊN NỔI



    Một tháng qua , kể từ lúc Iwakuro có mặt ở Newyork cho đến nay , những chuyển biến dồn dập ở Đông Kinh đã khiến cho Hull cảm thấy cục diện càng ngày càng rối rắm thêm . Với hai văn bản sơ bộ trong tay được Nomura gửi đến , một bản do chính Nomura và nhóm Iwakuro thực hiện (bản này Nomura không có báo cáo về Đông Kinh) và một bản do chính Đông Kinh đề nghị , bởi vậy nội dung của nó có rất nhiều điểm rất mâu thuẫn với nhau khiến cho ông không còn đoán ra được ý định của Nhật Bản nữa .
    Trong hoàn cảnh ấy Hull phải bỏ ra cả tuần lễ dài đọc và sắp xếp lại những điểm rối ren phức tạp để đút kết lại thành một văn bản trả lời chính thức . Xong , ông lại gặp Nomura và tự tay trao hơn 6 trang giấy ghi đầy đủ những điều khoản mà ông không thể nào chấp nhận .
    Trong khi Hull đang tìm phương giải quyết với mớ bòng bong của Nomura thì ở Đông Kinh phe quân đội lại nghĩ rằng Mỹ đang câu giờ cố tình kéo dài thời gian gây bất lợi cho Nhật Bản . Họ quay lại chống đối với Konoye dù là nơi công cộng hoặc ở tư dinh . Sự chống đối càng lan rộng và đỉnh của nó là một tổ chức ám sát Thủ Tướng dự định sẽ ra tay ngày 18 tháng 9 .
    Như thường lệ , khi ra khỏi nơi cư ngụ của mình ở Ogikubo , một vùng quê hẻo lánh thuộc ngoại thành Đông Kinh , Konoye phải mất đến 45 phút lái xe đến trung tâm thành phố , nơi ông làm việc . Bốn người đàn ông tay kiếm tay đao cùng xông lại cố trèo lên xe tấn công ông nhưng may mắn thay cửa xe đã khóa kín . Họ dùng kiếm định đập kính xe nhưng vừa lúc ấy có một nhóm người mặc thường phục đến kịp giải vây cho ông .
    Konoye vẫn ít cảnh giác cho sự an nguy của tính mạng mình hơn là thời điểm chót đã sắp đến cho nền hòa bình của quốc gia . Chỉ còn non 3 tuần lễ nữa mà Roosevelt vẫn tuyệt nhiên không cho ông biết thời gian và địa điểm cho cuộc gặp gở . Grew dĩ nhiên là không hay biết chuyện này . Bốn ngày sau khi Thủ Tướng bị ám sát hụt , Grew được mời đến văn phòng của Ngoại Trưởng . Ở đây , Ngoại Trưởng Toyoda phàn nàn với Grew rằng ông không thể nào hiểu nỗi sự chậm trễ của Hull trong việc đàm phán hòa bình . Trong khi ông sẳn sàng tính xa hơn nữa trong công cuộc xây dựng hòa bình . Ông đã chuẩn bị những kế hoạch vãn hồi tình trạng xáo trộn cho Trung Hoa : Giúp họ liên hợp hai chính phủ Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ với tư cách một đồng minh bất vụ lợi , không bồi thường chiến tranh nhưng sẳn sàng hợp tác để phát triển kinh tế , đồng thời cũng triệt thoái toàn bộ binh lực , chỉ dành lại một số nhỏ quân đội ở những nơi hiểm yếu để hỗ trợ với quân Trung Hoa chống lại Cộng Sản .
    Grew tóm tắt những ý định mới của Toyoda và gửi ngay cho Hull . Đồng thời , bởi quá lưu tâm đến những vấn đề nguy hiểm trước mắt nên ông quyết định thực hiện ngay một thỉnh cầu đặc biệt bằng cách tự mình viết ngay một lá thư riêng cho Tổng Thống Roosevelt . (giữa Grew và Roosevelt vốn đã có tình giao hảo lâu dài từ thời hai người còn phục vụ ở Havard Crimson) .
    Thư ông kể rõ tình trạng hiểm nghèo của Konoye , một vị Thủ Tướng yêu chuộng hòa bình sẳn sàng lấy cái chết để tránh được cái họa binh đao cho quốc gia dân tộc , nhưng những bọn quá khích thì không hề hiểu được thiện ý ấy nên cùng nhau âm mưu ám hại ông .
    Nhưng những nhân vật nồng cốt trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại cho rằng Thủ Tướng Konoye chính là kẻ chủ mưu gây hấn . Hull không thể nào quên được khi Konoye chấp chánh vai trò Thủ Tướng trong lúc Nhật Bản đang xâm lăng Trung Hoa và lúc mà Hiệp Ước Liên Minh được thành hình . Mặc dù Konoye tuyên bố ủng hộ bốn yêu tố cơ bản theo đòi hỏi của Hoa Kỳ nhưng đó có nghĩa là không có dụng tâm của ông ta ? Chỉ tóm lược những chi tiết đó thôi thì lý do để thương thuyết hòa bình của Konoye cũng tự mất hết ý nghĩa của nó rồi .
    Vì thế , đối với Roosevelt , ông cảm thấy không còn nhiệt tình hứng thú gì khi quyết định cùng Konoye nói chuyện hòa bình . Trong khi ở Đông Kinh , Grew vẫn nuôi hy vọng hòa đàm và ông quả quyết rằng những giới chức cao cấp ở Hoa Thịnh Đốn không thể nào nhìn thấy được bao nhiêu hiểm nguy đang bao vây lấy Konoye . Ông gửi ngay một bức điện văn báo cáo về Ngoại Trưởng Hull , với nội dung gần như là một lời cảnh báo hơn là khẩn cầu :
    … Đại sứ đặc mệnh toàn quyền (Grew) một lần nữa xin nhắc lại bản báo cáo lần trước , rằng chính trường Nhật luôn bị dao động không ngừng bởi hai chính sách ôn hòa và cực đoan . Muốn lèo lái con thuyền quốc gia đi ngược lại đường lối xâm lăng của họ quả thật là mộng tưởng cho những chính khách có nhiệt tâm , chưa nói đến sự an toàn cho bản thân của họ ….
    Đại sứ xin nhấn mạnh rằng điều quan trọng là phải hiểu rõ tâm lý chung của người Nhật , về căn bản thì không bao giờ tìm thấy ở những quốc gia phương Tây , phản ứng của họ chúng ta không thể nào lường trước được ….”
    Grew kết luận nếu muốn tránh chiến tranh với Nhật , Hoa Kỳ không nên thẳng tay thắt chặc kinh tế của họ . Giúp đỡ Nội Các Konoye vượt qua cơn sóng gió hiện tại là cách giải quyết hợp lý và hữu hiệu hơn cả . Trừ phi Hoa Kỳ tỏ ra “thông cảm những điều kiện hợp lý” cho Konoye và những người ủng hộ ông ta tái tạo lại chính trường Nhật , lúc ấy “chiến tranh Thái Bình Dương” sẽ không còn là đề tài để tranh luận nữa .
    Hôm sau Grew ghi vào quyển nhật ký rằng chính ông đã “vẽ một bức tranh hết sức trung thực về hoàn cảnh hiện tại của chính trường Nhật Bản về cho chính phủ của ông” .
    Mãi cho đến ngày 02 tháng 10 Hull mới chính thức trả lời rõ ràng theo thỉnh cầu mà Nhật đã mòn mõi đợi mong . Ông “nhiệt liệt hoan nghênh” cuộc hội nghị thượng đỉnh và rất “lấy làm phấn khởi” khi bốn điểm của Hoa Kỳ nêu lên đã được Konoye chấp thuận . Nhưng hành động xâm lược của Nhật thì vẫn không thể chấp nhận được , đặc biệt như trường hợp ở Trung Hoa , quân đội của họ vẫn còn chậm trễ trong việc rút hết toàn bộ binh lực . Vì thế cuộc họp thượng đỉnh sẽ phải hoãn lại đến khi nào đạt được những “yếu tố cần thiết” .
    Thật sự thì chúng tôi cũng đâu có muốn cuộc họp bị trì hoãn vì bất cứ một lý do nào” Hull vội vàng quả quyết như để tỏ ra mình có thiện ý với Nomura . Quả thật là một sự dối trá đáng khinh bỉ của một chính khách đang được mọi người kính trọng như Hull , một vị Ngoại Trưởng đầy uy quyền của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ lại không tôn trọng danh dự của lời nói . Hull làm thế nào quên được lời yêu cầu của Tướng George C.Marshall , Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ và Đô Đốc Harold R.Stark Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ là nên cho họ thêm thời gian để củng cố , tăng cường thêm sức mạnh ở vùng Thái Bình Dương . Trớ trêu thay , Hull đã không cho quân lực Hoa Kỳ có đủ thì giờ để hoàn tất việc chuẩn bị bố phòng . Ngược lại , ông dùng thủ đoạn ngoại giao đẩy Nhật Bản vào đường cùng khiến cho họ quyết định tiến đến chiến tranh càng nhanh hơn .
    Đúng 11 giờ ngày hôm sau , tức 05 tháng 10 , Bộ Chỉ Huy Lục Quân mở một phiên họp tại văn phòng của Tojo để quyết định “Đã không thể thương thuyết theo đường lối ngoại giao nữa thì chúng ta cần phải dâng ngay kiến nghị lên Thiên Hoàng chọn ngay giải pháp chiến tranh” .
    Thủ Tướng Konoye tuy vừa trở về sau một tuần lễ nghỉ mát nhưng ông cảm thấy chán nản hơn bao giờ hết . Rạng sáng ngày 12 tháng 10 , ông cho triệu tập tất cả Bộ Trưởng Chiến Tranh , Hải Quân và Ngoại Giao cùng Tướng Suzuki đến dinh thự riêng của mình tại Ogikubo . Đó là một ngày Chủ Nhật đẹp trời mà cũng là ngày sinh nhật lần thứ 50 của Konoye .
    Trước khi buổi họp bắt đầu , Kanji Tomita xuất hiện và trao cho Konoye một lá thư của Tổng Cục Trưởng Hải Quân Takasumi Oka . Thư ông viết “Hải Quân chúng tôi vẫn đặt trọn niềm tin vào cuộc đàm phán Nhật-Mỹ và hy vọng có thể tránh được nạn binh đao khói lửa” . Trong cuộc họp , Tojo muốn Oikawa trình bày một cách thẳng thắn vì theo lá thư ngắn của Oka , theo ông nghĩ , đó là lối biện luận của những kẻ nhát gan (không dám gánh vác trọng trách) . Oikawa chỉ thở dài tuyên bố “Còn gì nữa để thương thuyết chứ !” .
    Bất cứ sự chọn lựa nào cũng phải quyết định ngay . Konoye đứng lên đi quanh bàn với dáng điệu mệt mõi , ông nói chầm chậm như đang nói với chính mình “Đàng nào cũng phải liều một phen . Câu hỏi được đặt ra là sự chọn lựa nào sẽ nhiều có mạo hiểm mà thôi !”. Nhưng ông chợt quay lại nhìn một lượt quan khách và bằng một giọng dứt khoát , ông nói “Nhưng theo tôi , tôi vẫn chọn con đường thương thuyết với Hoa Thịnh Đốn” .
    Tojo tỏ vẻ không đồng ý , ông hừm một tiếng rồi nói “Lẽ cố nhiên đó chỉ là ý kiến riêng của Ngài ? Dù sao thì tôi còn phải hỏi lại quan điểm của Ngoại Trưởng xem sao” . Toyoda gật gù góp lời “Cũng tùy vào hoàn cảnh mà phán đoán . Trước mắt , việc hóc búa nhất vẫn là sự hiện diện quân đội của ta trên khắp miền Hoa Lục . Nếu ta không chịu nhượng bộ theo lời yêu cầu của Hoa Kỳ thì không thể nào ngồi vào bàn hội nghị . Nhưng nếu như quân đội có thể tự nhận thấy đây là một đường lối tốt để đoạt được thỏa hiệp thì việc triệt thoái quân lực ở Trung Hoa chẳng lẽ nào không thực hiện được !
    Tojo bất giác ngắt lời Toyoda “Duy trì lực lượng đồn trú ở Hoa Lục là sự sống còn của quân đội . Không , nhất quyết là không thể nào thực hiện chính sách nhượng bộ này được !” . Theo bản dự thảo mà chính phủ của chúng ta đã chấp thuận thì việc bãi toàn bộ binh lực trên toàn cõi Hoa Lục là một nhượng bộ quá sức tưởng tượng rồi sao bây giờ họ (Hoa Kỳ) còn đòi hỏi chúng ta phải cấp tốc trong một thời gian ngắn để rút hết quân trú phòng nơi quan ngoại . Việc này không thể nào thực hiện được , chỉ trừ khi nào có lệnh vãn hồi hòa bình nơi Hoa Lục . Hàng triệu quân nhân Nhật đang khóa chân nơi những chiến trường khốc liệt , nơi mà Cộng Sản đang bành trướng và vô số dư đảng của những lãnh chúa đang hoành hành , nơi mà rất cần có sự hiện diện của quân đội Hoàng Gia Nhật để bảo đảm an ninh , duy trì trật tự xã hội cho dân chúng và hơn nữa là đẩy mạnh kinh tế cho một lục địa mênh mông với hàng mấy trăm triệu dân đói nghèo . Bởi vậy , việc triệt thoái quân đội trước khi chưa vãn hồi tình trạng xáo trộn là một việc “chẳng biết giữ gìn chân giá trị của quân đội” . Tuyên bố này đã được Ban Tham Mưu cũng như những binh sĩ đồn trú Hoa Lục ủng hộ mạnh mẽ .
    Konoye bất ngờ nhắc lại “Ông tưởng rằng bây giờ mình còn điều kiện để nói đến chuyện vinh dự hoặc trục lợi được nữa hay sao ?” Tại sao không chịu nhượng bộ một chút để thỏa mãn những đòi hỏi của Hoa Kỳ . Cứ như thế đi ! Rút hết toàn bộ binh lực , sắp xếp với người Trung Hoa để cho họ tự điều động quân đội lo việc an ninh bố phòng của riêng họ là xong .
    Không cần suy nghĩ , Tojo vội chêm vào “Đó là một nỗi nhục to lớn cho quân đội nói chung và cho những anh em đang chiến đấu ngoài chiến tuyến nói riêng . Họ tranh đấu vì vinh dự tổ quốc, vì sự sống còn của dân tộc . Nếu như họ tuân lệnh triệt thoái thì có khác nào họ đã khuất phục Hoa Kỳ , đến lúc ấy người Trung Hoa sẽ khinh miệt họ ra sao , mà người chiến sĩ can trường của chúng ta thà chết chứ chẳng bao giờ chịu nhục . Vì thế lệnh triệt quân chẳng những là một sỉ nhục lớn cho quân đội mà vô tình còn giúp cho Hoa Cộng có cơ hội phát triển nhanh chóng , chưa nói đến cái tai hại to tác là bán đảo Triều Tiên và Mãn Châu sẽ không còn nằm trong tầm tay người Nhật nữa” .
    Ngưng lại một lúc , Tojo đưa mắt nhìn quanh phòng họp rồi tiếp tục “Phe Lục Quân của chúng tôi thì không có một chiều hướng nào khác hơn là thi hành quyết định của hội nghị hôm 06 tháng 09 . Nếu thấy hy vọng có thể thành công trong việc đàm phán trước thời hạn đã qui định thì các ông cứ việc tiếp tục bàn bạc . Bộ Trưởng Hải Quân lại bảo với tôi rằng việc hòa hay chiến đều tùy thuộc vào Thủ Tướng cả , tôi thật sự chẳng đồng ý chút nào vì một việc hệ trọng như thế này theo lẽ phải có sự hỗ trợ và bàn thảo giữa cơ quan chính phủ và bộ chỉ huy tối cao quân đội . Và tôi cũng dám nghĩ rằng những rắc rối hiện tại khó có thể giải quyết bằng lối ngoại giao đơn thuần như thế được
    Thủ Tướng Konoye lên tiếng phản bác “Tôi không thể nào cam đoan được rằng chúng ta sẽ thắng cuộc chiến này . Và tôi nghĩ không còn con đường nào để cho chúng ta giải quyết mọi rắc rối bằng con đường thương lượng ngoại giao cả . Nếu bàn đến việc chinh chiến , tất nhiên tôi phải để cho người nào tin tưởng vào chiến thắng thay tôi làm việc ấy” . Đoạn ông quay sang Tojo “Nếu ông cứ khăng khăng đề cập đến chuyện chiến tranh , ông có thể nào dám chịu trách nhiệm hoàn toàn cho lối giải quyết ấy” . Tojo hỏi lại “Nhưng Ngài đã chẳng phải đồng ý quyết định đi đến chiến tranh một khi cuộc thương thuyết thất bại ư ? Dĩ nhiên là có rồi , bởi vì Ngài cũng hiện diện trong buổi họp hôm ấy mà . Tôi cũng không hiểu vì sao Ngài lại thối thoát trách nhiệm ấy một cách nhanh chóng đến như thế” . Konoye cũng không vừa , ông chống trả ngay “Khi tôi còn cơ hội để thương thuyết thì tại sao tôi lại phải gánh vác trách nhiệm ấy chứ !
    Cuộc tranh luận cứ như thế kéo dài mãi cho đến chiều tối , kết quả vẫn là dậm chân tại chỗ , có nghĩa là phải chấp nhận chờ đợi cho đến thời hạn chót là 15 tháng 10 và quân đội vẫn hoạt động bình thường nơi Hoa Lục .
    Rốt cuộc rồi cuộc họp vẫn không đi đến một thỏa hiệp chung nào cả nhưng nó cũng gây được một chút ảnh hưởng trong lối suy nghĩ của Tojo . Từ đầu đến cuối phiên họp ông cứ giữ một luận điệu bướng bỉnh ngang ngạnh , nhưng trên lộ trình về lại Đông Kinh , ông chợt nhận ra quyết định hôm 06 tháng 09 thật là một quyết định quá vội vàng khinh suất , vì phe Hải Quân dường như họ thiếu nhiệt tình nên chưa dứt khoát . Đề xuất một cuộc chiến trong tình huống bất lợi như thế quả là phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng .
    Vừa về đến Bộ Chiến Tranh , Tojo vội cho mời Đại Tá Kenryo Sato đến và cho ông biết phe Hải Quân vẫn còn trong tình trạng nao núng chưa vững lòng tin . Sato vội góp ý “Thưa Bộ Trưởng . Tôi sẽ sắp xếp cho Ngài và Bộ Trưởng Hải Quân cùng 2 vị Tham Mưu gặp nhau ở một nơi nào đó để có thể thẳng thắn bàn luận trong không khí thân mật có tính cách cá nhân hơn , chẳng hạn như ở Sake at a Machiai (một nhà hàng có kỷ nữ Geisha phục vụ) . Ngài có thể đi thẳng vấn đề với ông ta rằng quan điểm của phe Hải Quân như thế nào , ủng hộ hoặc phản đối phải dứt khoát ngay một lập trường . Ngài bảo với họ , một cuộc chiến mà Hải Quân giữ vai trò then chốt , nếu họ không đặt trọn niềm tin vào sự chiến thắng thì tốt nhất chúng ta không cần phải phát động chiến tranh . Và , nếu như không phát động chiến tranh dĩ nhiên sẽ có nhiều tranh cãi nổ ra . Ở vào hoàn cảnh này Ngài cũng nên hứa với họ rằng sẽ không bao giờ viện cớ vì phe Hải Quân thiếu quả quyết . Cho họ biết , với cương vị của một Bộ Trưởng , Ngài sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm khi không muốn giao chiến” .
    Mặt Tojo bất giác đăm chiêu , giọng ông trở nên ấp úng lạ thường “Đại Tá có ý muốn bảo tôi rằng những sĩ quan vai mang nặng trọng trách ấy sẽ không đề cập đến quyết định của Thiên Hoàng trong phiên họp ngày 6 tháng 9 ấy ư ?”
    Đoạn ông từ chối không đi theo một kế hoạch mà ông cho là thủ đoạn lừa bịp , một luận điệu để trốn tránh quá ngô nghê đáng hổ thẹn .
    Dù cuộc họp mặt tại Ogikubo (tư gia Thủ Tướng) chẳng mang lại chút thành quả nào nhưng theo tin đồn của nó được ai đó thổi phồng lên khiến Nội Các Nhật gần như lâm vào tình trạng khủng hoảng và suýt chút nữa đã tuyên chuyến với Hoa Kỳ . Thủ Tướng Konoye rất lấy làm thất vọng . Không còn nhượng bộ nào nữa thì hà tất còn nghĩ đến việc thương thuyết làm gì . Ngồi thừ người ra mà suy tư , mà vẽ ra một tiền đồ đen tối cho đất nước , ông không biết nên phải làm gì khi thời hạn cho phép đã gần kề . Bất giác ông thở dài thườn thượt rồi quyết định gặp Tojo một lần để có một buổi cùng ông Bộ Trưởng Chiến Tranh chuyện trò trong không khí thân mật hơn . Konoye liền điện thoại ngay cho Tojo và ngõ ý muốn gặp ông vào rạng sáng hôm sau , tức 14 tháng 10 , trước khi có phiên họp Nội Các diễn ra vào lúc 10 giờ sáng hôm ấy .
    Gặp nhau , Konoye vào đề ngay :
    - Mọi ý kiến đóng góp cá nhân của Bộ Trưởng tôi đều tôn trọng nhưng vẫn còn một trở ngại không nhỏ là vấn đề cấp bách phải giải quyết ngay là sự hiện diện của quân đội ta ở Hoa Lục ...
    Đã đoán ra ngay ý định của Konoye là muốn mình triệt thoái ngay mọi hoạt động quân sự ở Trung Hoa cho đúng thủ tục theo yêu cầu của Hoa Thịnh Đốn cho nên Tojo nổi giận nhủ thầm “Hắn đã trở lại cái luận cũ cũ rích ấy nữa rồi . Cách giải quyết của hắn chẳng có thể giải quyết được gì cả . Trên trường quốc tế , Hoa Kỳ là con cáo già , được voi đòi tiên vốn là chính sách ngoại giao cố hữu của họ , Konoye vẫn biết như thế . Càng nhịn họ càng làm tới và cuộc chiến này không thể nào tránh khỏi dù sớm dù muộn” .
    Tojo khẩn khoản “Tôi lúc nào cũng tôn trọng lối suy luận của Ngài , nhưng hình như Ngài đã quá lạc quan trong vấn đề này . Ngài vốn hiểu quá rõ những nhược điểm riêng của ta …. Và Hoa Kỳ dĩ nhiên cũng có không ít những nhược điểm riêng của họ …”
    Konoye chép miệng “Quả là một vấn đề có thể tranh cãi được đây
    Rồi ông nhắc cho Tojo nhớ lại thời điểm 1904 . Hôm 04 tháng 02 1904 , Minh Trị Thiên Hoàng cho vời Hoàng Thân Ito và hỏi ý kiến của vị Hoàng Thân này rằng Nhật có thể đánh bại Liên Xô không . Ito liền tâu với sức mạnh của quân đội Nhật hiện tại thì chỉ có thể cầm chân địch quân ngay tại biên giới Triều Tiên trong vòng 1 năm là cùng . Đồng thời ngay lúc ấy Hoa Kỳ có hão ý muốn đứng ra làm trung gian hòa giải hai nước nếu ta cần đến họ . Thế là Minh Trị Thiên Hoàng càng vững tâm hơn khi phê chuẩn cho quân đội Thiên Hoàng tuyên chuyến . Trong hoàn cảnh hiện tại , bên ta không có một quốc gia thứ 3 nào đứng ra làm hậu thuẫn cho việc hòa giải . Do đó chúng ta phải bước từng bước hết sức cẩn trọng , đặc biệt là đối với Hoa Kỳ , một đất nước mà tiềm năng quốc gia có thể cho là vô tận vẫn không ngoa .
    Tojo đờ người hỏi lại “Cẩn trọng ư ? Thời điểm này chúng ta cần phải có đầy đủ dũng khí để làm một việc phi thường ! Cũng giống như nhắm mắt mà nhảy bừa từ trên cao độ rồi rơi vào đâu , kết quả thế nào cũng mặc kệ !”
    Konoye nghiêm nghị nói “Đấy chỉ đơn thuần là một hành động điên rồ của một cá nhân nào đó . Ở đây là chuyện đại sự của một quốc gia dân tộc , những người mang trọng trách chớ nên suy tính một cách dại dột như vậy” .
    Lời nói mang tính chất giáo huấn khiến cho Tojo đứng bật dậy , đôi mắt hung quang chiếu thẳng vào Konoye , giọng ông đanh lại và nói “Tất cả mọi tình huống đã an bài như hôm nay , nguyên do cũng vì sự khác biệt giữa cá tính của chúng ta có phải thế không Ngài ?”
    Tojo hậm hực nghĩ rằng mẫu người như Konoye quá nhu nhược để ngồi ở ghế Thủ Tướng trong một hoàn cảnh hết sức gay go này . Hơn thế nữa , ông cũng chẳng bao giờ biết tôn trọng lời hứa .
    Tojo xô cửa bước ra và đi thẳng vào phòng họp của Nội Các với ý định đã dứt khoát là đứng về phía đối lập với Konoye , và nếu cần ông có thể dùng biện pháp mạnh là hô hào bắt buộc Thủ Tướng nên từ chức . Phiên họp bắt đầu , Tojo hân hoan nghĩ đến kế hoạch đã vẽ ra trong đầu có thể gây ra một cuộc tranh cãi xôn xao trong buổi họp hôm nay . Ông gõ nhè nhẹ tập bìa giấy rồi lên tiếng trước “Quân đội đang tiếp tục chuẩn bị cho cuộc chiến . Tôi không có ý rằng mình đã làm cản trở việc đàm phán , nhưng sự chờ đợi và trò chơi kéo dài thời gian theo lối ngoại giao trịch thượng của Hoa Kỳ là một việc không thể chấp nhận được” .
    Đoạn ông quay sang Toyoda dọ hỏi xem ý của vị Ngoại Trưởng này có bao nhiêu cơ hội thành công trong việc đàm phán với Hoa Thịnh Đốn . Cựu Đô Đốc Toyota không dứt khoát câu trả lời , ông lập luận rằng “Căn cứ về những yêu cầu cơ bản của người Mỹ , việc triệt thoái toàn bộ quân lực trên phần đất Trung Hoa chẳng hạn , chúng ta vẫn chưa thỏa mãn được điều kiện ấy thì kết quả của cuộc đàm phán sẽ ngã về chiều hướng nào bất tất khỏi phải bàn đến . Nếu chúng ta cùng thống nhất với một nguyện vọng hòa bình thì đối với họ , mọi hành động của chúng ta phải quang minh chính đại , hòa ra hòa chiến ra chiến . Trước mặt thì chạy đôn chạy đáo lo hoạch định thương thuyết hòa bình mà sau lưng lại bày binh bố trận thì người Mỹ họ sẽ nghĩ gì về chúng ta ?
    Nóng quá nên mất khôn , Tojo như quên rằng mình đang ngồi trong phòng họp của Nội Các chính phủ , ông mất bình tỉnh đứng lên khoa tay lớn tiếng phản bác “Tôi không nhượng bộ đến độ phải triệt thoái toàn bộ lực lượng . Nó có nghĩa là Nhật Bản bị bại trận dưới tay Hoa Kỳ . Một vết nhơ muôn đời không tẩy sạch trong lịch sử của đế chế Phù Tang ! Đường lối ngoại giao không hẳn lúc nào cũng phải cúi đầu nhân nhượng thái quá ; đôi lúc nó lại trở thành nạn nhân cho một sự áp bức nào đó . Giả như chúng ta chịu thiệt thòi mà nhượng bộ thì sẽ mất lục địa Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên” .
    Nói đoạn ông quay sang phía Hải Quân , bao nhiêu tức giận còn lại đều dồn về phía Đô Đốc Oikawa , giục vị Bộ Trưởng này phải thẳng thắn trả lời trước mặt mọi người rằng phe Hải Quân của ông có thể đã bại Hoa Kỳ hay không . Trong khi ấy Thủ Tướng Konoye và mọi người đều ngồi im lặng chú tâm theo dõi từng diễn biến một . Phát biểu cuồng nộ của Tojo khiến cho mọi người sững sờ như bị hóa đá .
    Dù sao thì những lời hằn học , tuy đanh thép nhưng không kém thực tế cũng mang lại một cho Tojo một chút thành quả như ông mong muốn . Chỉ 3 giờ đồng hồ sau khi phiên họp giải tán , Tướng Suzuki đến văn phòng của Tojo và tự nhận mình là môi giới của Thủ Tướng Konoye . Suzuki bảo Konoye không thể nào ngồi lại cương vị Thủ Tướng nữa trong khi Tojo cho tung ra những quan điểm mạnh mẽ đầy sức thuyết phục như thế .
    Tojo từ chối hủy bỏ lời tuyên bố của mình lúc ban sáng và bảo rằng Konoye vẫn tiếp tục ngồi trên ngôi vị Thủ Tướng chỉ khi nào ông ta sẳn sàng đứng về phía Lục Quân , nghĩa là chủ chiến .
    Chiều hôm ấy , Kanji Tomita , thư ký nội các gọi cho Tướng Muto và bảo rằng “Thủ Tướng không thể tự mình quyết định được gì cả nguyên nhân có lẽ cũng vì sự lừng khừng không dứt khoát của cánh Hải Quân” . Và do đó phe Lục Quân cần phải cân nhắc kỹ càng khi biết chắc rằng phải hành động đơn độc không có sự tham gia của Hải Quân .
    Muto thắc mắc hỏi “Nhưng chẳng phải Hải Quân đã bảo đánh hay đàm đều do quyền Thủ Tướng quyết định cả sao ?”
    Lối trả lời nửa vời của Hải Quân và sự bối rối không nhất quyết của Konoye đã gây hoang mang cực độ trong giới tướng lãnh Lục Quân . Trọn ngày 14 tháng 10 , Suzuki cùng Tomita , Oka và Muto chạy đôn chạy đáo hết văn phòng này đến văn phòng khác trong phe họ để trao đổi , liên hệ soạn thảo kế hoạch , bởi họ ngại nếu sử dụng điện thoại có thể bị người ngoài cuộc ghi lại hoặc nghe lén .
    Tối đến , Suzuki ghé lại văn phòng của Bộ Chiến Tranh . Ông ta đổ tội vì Hải Quân nên tất cả đành đi vào ngõ cụt . Suzuki lại ướm lời với Tojo rằng ai là người đáng mặt để mọi người đề cử thay thế vào chức vị Thủ Tướng của Konoye . Tojo nói “Tôi dám bảo đảm với ông rằng không ai có đủ khả năng ngoài Hoàng Thân Higashikuni cả . Konoye không thể cứu vãn nỗi tình hình này thì chúng ta có quyền chọn một vị trong Hoàng Tộc đứng ra thay thế” . Tojo còn cho biết thêm là vị Hoàng Thân có vai vế dượng rễ của Nhật Hoàng Hirohito này vốn là một trong vài nhân vật Nhật Bản hiếm hoi có đủ uy tín , dù cho ông có ý “dĩ hòa vi quí” với Mỹ thì phe quân đội cũng chẳng nổi loạn . Ông ta có thể triệu tập ban tham mưu và quyết định chống lại chiến tranh mà không một ai dám chống đối . Thiên Hoàng không thể làm được điều này vì đi ngược lại hiến pháp , nhưng với Higashikuni , một thành viên uy tín trong Hoàng Tộc thì có thể được .
    Bàn bạc xong thì Tojo từ giả ra về . Riêng Suzuki lại ghé sang tư dinh của Thủ Tướng Konoye ở ngoại thành Đông Kinh để báo cho ông biết Higashikuni là người đã được Bộ Trưởng Chiến Tranh chọn làm Thủ Tướng . Konoye hân hoan bảo rằng Higashikuni là một mẫu người lý tưởng có thể gánh vác được chuyện lớn . Ông bảo sẽ tâu cùng Thiên Hoàng trong buổi chầu sáng sớm ngày mai .
    Hôm sau , ngày 15 tháng 10 , thời hạn qui định cho việc đàm phán đã chấm dứt . Tướng Suzuki bận rộn hơn bao giờ hết . Vừa sáng sớm ông đã báo cho Marquis Kido biết về sự đề nghị Higashikuni lên thay thế chức Thủ Tướng , nhưng trông vẻ mặt của vị Quản Thủ Quốc Ấn này như không mấy sốt sắng . Tuy là một nhân tài hiếm thấy nhưng Higashikuni lại không có một chút kinh nghiệm nào về chính trị cả . Quan trọng hơn , Hoàng Thân là một thành viên của Hoàng Gia nên ông không thể nào hứng chịu hết mọi trách nhiệm một khi chiến tranh xảy ra .
    Lúc trưa , Konoye cho Suzuki biết là ông đã tâu lên Thiên Hoàng về việc chọn Higashikuni lên thay ông trong chức vụ Thủ Tướng , Konoye còn cẩn thận dặn dò Suzuki nên cho ông ta biết rõ quan điểm của mình cùng Tojo để Higashikuni dễ dàng hành động khi chấp chánh .
    Suzuki vâng lời Konoye , ông đến gặp ngay Higashikuni và bảo rằng “Trong quân đội của chúng tôi không phải ai cũng muốn chiến tranh . Ngài là người mà chúng tôi đặt hết kỳ vọng là có thể cứu vãn tình trạng tồi tệ hiện tại” . Suzuki còn cho biết thêm , Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh Tojo tin rằng duy nhất chỉ có Higashikuni mới có đủ tư cách gặp trực tiếp với Thiên Hoàng hầu thỉnh ý và tìm hiểu quyết định của Ngài để chỉ huy quân đội nên hòa hay chiến . Higashikuni tỏ vẻ nghĩ ngợi “Đây là một vấn đề hệ trọng hết sức , tôi cần có thêm thời gian để suy nghĩ thấu đáo . Và tôi cần bàn qua với Hải Lục Quân trước khi đi đến quyết định dứt khoát” .
    Tối hôm ấy Konoye điện thoại dọ ý Kido là có nên gặp gở bàn bạc thân mật với Higashikuni không . Kido bảo rằng còn quá sớm để bàn bạc “Nhưng một khi chính phủ chịu hoàn toàn trách nhiệm thì tôi cũng chẳng có lý do gì để phản đối” . Tuy nhiên Konoye vẫn bí mật đến gặp Higashikuni , ông cho biết cuộc thương thuyết sẽ không bao giờ có kết quả nếu vẫn còn duy trì lực lượng ở Hoa Lục và với một nội các mới do Hoàng Thân đứng ra thành lập mới có thể lèo lái con thuyền quốc gia qua cơn sóng gió và quan trọng hơn hết là liên hiệp được hai phe Hải và Lục Quân đứng chung cùng một chuyến tuyến .
    Higashikuni nở một nụ cười héo hắt bảo “Yêu cầu này thật quá đột ngột và quá ư là khó khăn cho tôi , khi các người muốn tôi phải cứng rắn quyết định đi ngược lại sự thôi thúc của tình thế” .
    Ông lại trầm giọng như đưa ra một ý kiến “Hay là như thế này nhé . Thủ Tướng vẫn ngồi lại ngôi vị hiện tại và thành lập ngay một tân nội các . Nếu tân nội các đó lại gặp rắc rối với phe quân đội nữa thì dù tính mệnh tôi có thể bị đe dọa đi chăng nữa tôi cũng sẽ nhảy vào như là một phương sách cuối cùng” .
    Thật sự thì Higashikuni cho rằng Konoye rất xứng đáng với vai trò Thủ Tướng . Ông khuyên Konoye khi chọn lựa thành viên cho nội các mới nên chọn lựa một bộ trưởng chiến tranh nào có tư tưởng ôn hòa hơn Tojo , ông còn cam kết là sẽ đặc biệt quan tâm và dùng ảnh hưởng của mình để tạo thuận lợi cho Konoye hơn trong một chiều hướng hết sức bất lợi này .
    Konoye từ giả ra về mà lòng hân hoan thơ thới , ông có cảm tưởng lạc quan hơn và hẹn với lòng là vẫn tiếp tục đóng nốt vai trò Thủ Tướng , lèo lái con thuyền quốc gia thoát ra khỏi phong ba bão táp .
    Trong lúc ấy thì người đối lập của Konoye là Tojo cũng tỏ ra cương quyết vô cùng , ông ta là mẫu người không thể nhẫn nại ngồi chờ khi thời hạn đã chấm dứt mà vẫn chưa có ai động tỉnh gì . Để phá tan sự im lặng quá dửng dưng này , ông quyết tâm dò xét thái độ của Thiên Hoàng qua trung gian Kido , viên quan Quản Thủ Quốc Ấn . Gặp Kido , Tojo nhập đề ngay “Chiếu theo nghị định của cuộc họp hôm 6 tháng 9 thì thời gian hành động đã đến . Xin Ngài cho ý kiến” .
    Kido bảo rằng quyết định ấy được thông qua quá đột ngột không có sự thận trọng và bàn bạc kỷ càng . “Nó phải được cứu xét lại” . Câu trả lời của Kido càng làm cho Tojo nổi dóa , ông gạt ngang bằng một câu cộc lốc “Tôi biết” và quay sang đề tài khác “Thế thì vấn đề cải tổ nội các và ý kiến tiến cử một thành viên của Hoàng Tộc vào ghế Thủ Tướng sẽ tiến hành ra sao ?”
    Kido viện lẽ “Hoàng Thân chỉ tham gia vào chính trường khi quốc gia hòa bình” vì thế không thể chọn Higashikuni thay thế chức vị Thủ Tướng được .
    Những lý do của Kido nêu lên dù chánh đáng nhưng Tojo vẫn không thích nghe , ông cố moi óc tìm một lời cãi lại cho đỡ bực tức nhưng tựu trung vẫn không tìm được một lời khả dĩ để phát tiết . Ông quay lại với đề tài cố hữu là nghị định 6/tháng 9 , dù sao thì đấy cũng có sự đồng ý của Thiên Hoàng kia mà . Ông buột miệng hỏi một câu thật ngớ ngẫn “Nếu chúng ta hành động , chuyện gì sẽ xảy ra cho nước Nhật chúng ta ? Kido , ông nghĩ thế nào ?”
    Kido đáp ngay không cần suy nghĩ “Tôi đoan chắc là nước ta sẽ trở về thời đại lạc hậu hàng thế kỷ trước !
    Cuộc gặp gở ngắn ngủi ấy đã gieo vào lòng Tojo một nỗi chán chường tuyệt vọng trong khi Kido thì vẫn còn mang nặng một mối ưu tư . Đọc được nét mặt bán tín bán nghi của Tojo cùng sự ngang ngạnh cương quyết đối đầu với Konoye trong sự thuyết phục chính giới tìm lại ánh sáng hòa bình cho đất nước , Kido vẽ ra một viễn ảnh không mấy gì sáng sủa lắm cho Konoye cũng như những chính khách có thiện tâm với Hoa Kỳ .
    Kido đã tuyên bố rằng nên bất hiệu lực quyết định 6/9 đi vì chính nó là một nội chứng ung thư , để chúng ta có rộng thì giờ nghiêng cứu và điều chỉnh lại . Người có đủ thẩm quyền quyết định phải là những người trong cuộc rất am tường tình hình hiện tại . Tân Thủ Tướng được chọn ra cũng phải là người trong nội bộ , có ảnh hưởng lớn trong chính giới . Có hai nhân vật được coi là hội đủ điều kiện là Đô Đốc Oikawa và Tướng Tojo . Nhưng từ khi Tướng Tojo nông nổi suýt gây ra cơn khủng hoảng chính trị thì Oikawa coi như là người thích hợp duy nhất cho chức vụ Thủ Tướng chính phủ . Nhưng vấn đề là giới sĩ quan trẻ thuộc phe hiếu chiến sẽ không bao giờ chấp nhận Oikawa , họ sẽ phản đối hoặc tệ hơn nữa là nỗi loạn .
    Kido giải thích thêm cho Konoye rằng “Một người uyên bác và trầm lặng như Oikawa dĩ nhiên sẽ mang lại lạc quan hơn trên trường quốc tế , nhưng nếu như bổ nhiệm ông ấy thì như tôi đã trình bày , phe quân đội sẽ nổi loạn vì bất phục . Vì thế Tojo vẫn là người duy nhất để chọn lựa nắm giữ chức vụ này . Ông ta có thể kềm chế sự bộc phát mãnh liệt trong quân đội một khi chiều hướng ngã theo đường lối hòa bình . Tóm lại , Tojo là một quân nhân đầy hào khí nhưng không tham vọng chính trị , thời gian nắm giữ Bộ Chiến Tranh càng chứng minh tài năng chỉ huy của một vị tướng tài khiến cho Đức Thiên Hoàng càng thêm trọng vọng” .
    Konoye nghe càng đờ người ra , lời nói của Kido khác nào gáo nước lạnh tạt vào mặt ông . Vốn có ác cảm với Tojo nhưng bây giờ lại phải nghe Kido khen ngợi hắn ta không tiếc lời càng khiến Konoye hậm hực trong lòng , nỗi oán ghét trào dâng đến độ ông không còn muốn đối diện với Tojo thêm một lần nào nữa trong cuộc đời này .
    Konoye hữu tâm vô lực đành ra về với lòng ngổn ngang trăm mối , ngậm ngùi thương vận nước non , buồn lo vì cơn rối ren chính sự . Bầu nhiệt huyết vẫn tuôn chảy không ngừng nhưng hiện tại ông quá bất lực , đành bó tay nhìn cơn biến động dập dồn mà không biết đến bao giờ mới nhìn thấy ánh sáng của hòa bình cho non nước .
    Rựng sáng hôm sau , khi Dooman vừa thức giấc thì có tiếng chuông điện thoại reo vang . Ushiba , thư ký riêng của Konoye gọi đến và xin được đến gặp Dooman có chuyện cần bàn ngay . Trong lúc Dooman còn đang dùng điểm tâm thì Ushiba xuất hiện , ông bảo rằng suốt đêm qua chẳng hề chợp mắt vì bận giúp Konoye những thủ tục cần thiết để bàn giao lại cho vị tân Thủ Tướng . Ushiba có mang theo một lá thư riêng của Konoye chuyển giao lại cho Đại Sứ Grew “để ngõ lời xin lỗi và sự thất vọng” cho sự từ chức đột ngột của ông . Đồng thời cũng giải thích cho Grew hiểu rõ tại sao Tojo được chọn làm tân Thủ Tướng .
    Khoảng 1 giờ chiều cùng ngày , 7 vị cựu Thủ Tướng Nhật tề tựu tại tiền sảnh nơi góc phía tây cung điện để cùng các vị sĩ quan và chính khách khác họp bàn tuyển chọn tân thủ tướng thay thế Konoye . Kido cũng hiện diện trong nhóm người này , và nhất quyết tiến cử Tojo . Vài chính khách khác góp ý nên chọn ra một vị Hoàng Thân tài đức nào thay thế cũng được nhưng Kido từ chối thẳng thừng , lý do nếu chiến tranh xảy ra , “Hoàng Gia sẽ phải trực diện với những phản đối kịch liệt của thần dân thiên hạ” . Ông viện dẫn Tojo “là người đã quá quen với những tình huống éo le” và chỉ có ông mới có thể “khéo léo hài hòa giữa Lục quân và Hải quân” , thêm vào đó Tojo mới là người am hiểu nhiều nhất những cần thiết hoặc sửa đổi của nghị định 6/9 .
    Một vị sĩ quan Hải Quân , đô đốc Okada – vốn là cựu Thủ Tướng Nhật , người đã thoát hiểm trong cuộc binh biến 26 tháng 2 – 1936 cực lực phản đối sự đề cử Tojo . Có phải chăng cánh Lục quân của Tojo đại diện quốc gia để chứng minh cho sự cứng rắn và kiên quyết không nhân nhượng ? Theo sự tiến cử của Quản Thủ Quốc Ấn Kido , tôi xin nhắc nhở cho mọi người nhớ lại “trong quá khứ phe lục quân đã có lần bắn vào chúng tôi bằng súng trường , hy vọng rồi đây họ sẽ không sử dụng đại bác để hành động tương tự !
    Kido đồng ý , cho rằng sự kiện vừa xảy ra đó chính là một vấn đề hệ trọng cần phải lưu tâm . Nhưng ở đây , Tojo là người ở một địa vị then chốt , đầy uy tín và đủ khả năng để đè bẹp mọi biến động gây ra bởi một số ít phần tử quá khích trong hàng ngũ sĩ quan trẻ tuổi .
    Cuộc đề cử Tojo lời qua tiếng lại kéo dài đến hơn 3 : 30 chiều . Cuối cùng thì Yoshimichi Hara đại diện với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Cơ Mật Hoàng Gia , chấp thuận đề nghị tiến cử Tojo vào chức vụ tân Thủ Tướng Nhật Bản . Koki Hirota , một cựu Thủ Tướng nêu lên câu hỏi ai sẽ nắm giữ Bộ Chiến Tranh thay thế cho Tojo . Kido chỉ đáp vắn tắc :
    - Tạm thời vẫn để Tojo kiêm nhiệm để dễ bề cai quản bọn quan binh khá khích !
    Buổi họp giải tán , trước khi từ giả Hara tuyên bố :
    - Tôi không nghĩ rằng quyết định của Quản Thủ Quốc Ấn Kido khó làm cho mọi người vừa lòng . Nhưng trước mắt chỉ có một chọn lựa duy nhất mà thôi . Chúng ta không biết phải làm sao hơn , đành phải tuân theo mệnh trời vận nước mà thôi …

  8. #8
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    Chương thứ 9 : LÀM LẠI TỪ ĐẦU






    Chiều hôm ấy , Tojo còn đang ngồi tại phòng làm việc thì Đại Lang Thị Thần điện thoại truyền lệnh cho Tojo phải lập tức nhập cung bệ kiến Thiên Hoàng . Tojo lùa vội mớ hồ sơ bề bộn trên bàn vào hết xách tay rồi hân hoan ra cửa .
    Lệnh nhập cung khẩn như báo cho Tojo biết là dữ nhiều lành ít , may lắm thì cũng một trận quở trách chớ chẳng không . Nhưng đến nơi thì ông mới vỡ lẽ ra rằng chuyện xảy ra ngoài sự tưởng tượng của mình . Thiên Hoàng Hirohito chỉ phán vỏn vẹn một câu :
    - Ta hạ chỉ cho ngươi hãy chiếu theo đúng điều khoản của Hiến Pháp Đại Nhật Bản mà đứng ra thành lập một nội các mới . Chúng ta tin tưởng rằng nước nhà đang đối đầu với một hoàn cảnh tối nghiêm trọng . Hãy ghi nhớ rằng Lục quân và Hải quân , cần nhất là ở giai đoạn này , nên hợp tác chặt chẻ với nhau . Vì đại cuộc , vì quốc gia dân tộc cùng đoàn kết hầu vượt qua cơn sóng gió trước mắt . Đó là sự mong đợi của ta , ngươi hãy nhớ rằng vận mệnh của quốc gia lúc này như con thuyền mong manh trên sóng lớn chỉ trông cậy vào sự uyển chuyển khéo léo của người cầm lái . Ngươi là người cầm lái con thuyền quốc gia , hãy cố gắng đừng phụ lòng ta và thần dân trăm họ đều đặt trọn niềm tin vào ngươi .
    Tojo được Thiên Hoàng nhắn nhủ thêm mấy câu rồi bảo ông ra ngoài phòng đợi . Nơi đây ông gặp Đô Đốc Oikawa , người cũng vừa được Thiên Hoàng thuyết phục nên “hòa hoãn và hợp tác” giữa Hải Lục quân . Kido tiến lại hai người và bảo nhỏ :
    - Tôi cho rằng lời khuyên “cộng tác chặt chẻ giữa Hải và Lục quân” của Thiên Hoàng không ngụ ý gì ngoài sự “đánh giá lòng kiên quyết đối với quốc gia của chúng mình” . Người ước muốn làm sao trong tất cả chúng ta đều đồng lòng gát lại Nghị định 6/9 để chú tâm nghiên cứu thấu đáo về tình hình quốc nội cũng như công tác đối ngoại . Hầu sáng tỏ thêm vấn đề nên Thiên Hoàng gợi ý cho tôi phải truyền đạt ý nghĩ này đến với quí vị . Mong quí vị hiểu nhiều hơn .
    Quả là một việc chưa từng xảy ra trong lịch sử Phù Tang . Chưa có một vị Thiên Hoàng nào ra lệnh bãi bỏ một quyết định đã được chính mình phê chuẩn . Tojo ngồi vào cương vị Thủ Tướng với “mọi việc khởi sự từ đầu” . Chỉ đơn giản là như thế . Giũ bỏ tất cả trách nhiệm từ trước để bắt đầu cuộc đàm phán hòa bình với Hoa Thịnh Đốn .
    Tuy là người trong cuộc , đã trãi qua bao nhiêu biến động không ngừng nhưng dù sao thì Tojo vẫn là một quân nhân thuần túy , quyền hạn và tầm nhìn của ông chỉ giới hạn trong Bộ Chiến Tranh ; nhưng chỉ sau một đêm , một bước dài trên hoạn lộ cũng khiến cho Tojo hụt hẫng đôi chút : chưa nắm rõ hết tình hình chung của toàn bộ bộ máy nhà nước , đối nội và đối ngoại ra sao và nhất là phía Hoa Kỳ , phải xử sự như thế nào để được lòng dân và không phật lòng Hoa Thịnh Đốn ?
    Đứng trang nghiêm trong ngôi đền chiến sĩ trận vong Yasukuni Shrine , giữa những anh linh của hàng vạn vong hồn tử sĩ , Tojo cảm thấy một cái gì đó thật thiêng liêng thúc giục ông phải chấp nhận sự thật , quên mình là một quân nhân thuần túy để nhận lấy một trách nhiệm mới với muôn trùng khó khăn đang chờ đợi . Từ nay , tiếng nói của ông không phải là một mệnh lệnh ban bố trong phạm vi quân đội nhỏ hẹp ấy , mà nó là tiếng nói của một vị chính khách đại diện cho cả một quốc gia , cho cả một hệ thống Đế Quốc Đại Nhật Bản . Nghĩ đến đấy Tojo càng tự tin hơn , ông thầm nhủ “Thiên Hoàng đã đặt tất cả kỳ vọng vào mình thì dù có máu đổ đầu rơi mình vẫn phải chu toàn trách nhiệm để Người không phải vì ta mà thất vọng” .
    Tojo lại cho rằng cuộc đời của mình đang bước sang một ngã rẻ quan trọng và ông tự vẽ ra một phương châm cho hướng đi mới này là : Lấy Thiên Hoàng tối cao làm mẫu mực cho hành động . Lệnh của Ngài tất nhiên ta phải tuyệt đối tuân hành vì Người là đại diện cho mọi sự bình đẳng và không thuộc một giai cấp thứ bậc nào trong xã hội nhơn quần này cả .
    Tojo trở lại Bộ Chiến Tranh với tinh thần hết sức phấn khởi . Vừa bước chân vào cửa thì chạm mặt hai vị tướng dưới quyền . Hai ông hân hoan trao cho Tojo tờ văn thư bổ nhiệm vào nội các chính phủ . Tojo bất đắc dĩ mới đưa tay nhận lấy tờ văn thư và bước thằng vào phòng làm việc , miệng ông càu nhàu nho nhỏ , phàn nàn phe quân đội “hay quấy rầy quá trớn” .
    Vừa ngồi vào bàn ông gọi ngay cho Naoki Hoshino , một cộng sự viên đắc lực khi ông còn công tác ở Mãn Châu . Một lúc sau , Hoshino xuất hiện , Tojo đang ngồi bẹp trên nền nhà , giữa những chồng hồ sơ bị xáo trộn , giấy tờ vứt ngỗn ngang . Ông ngẫng lên nhìn Hoshino rồi bảo “Tôi có ý mời ông đến để phụ giúp tôi . Từ đây ông sẽ là Tổng Thư ký của tôi , ông nhé !” .
    Rồi hai người ngồi lại bắt đầu thảo luận công việc chọn lựa những thành phần mới cho Nội Các . Tojo đưa ý kiến “Phe quân đội thì vẫn giữ nguyên không thay đổi” nhưng ông lại đề nghị Hidehiku Ishiguro , một sĩ quan tuyệt vời có thể thay vào nắm giữ bộ Giáo Dục . Hoshino phản đối , ông cho rằng việc thay đổi này sẽ tạo thêm rắc rối mới từ phe đối lập mà thôi . Thế là tên của Ishiguro bị gạch bỏ ngay trong quyển sổ tay của Tojo . Ngẫng lên nhìn Hoshino , Tojo hỏi tiếp “Đến bộ Kinh Tế , ông nghĩ ai sẽ là người nắm giữ bộ này tốt hơn : Aoki hay Kaya ?” . Không cần suy nghĩ Hoshino đáp ngay ”Cả hai đều là nhân tài thích ứng và đầy đủ kinh nghiệm và khả năng chức nghiệp” . Tojo đánh dấu chọn bên cạnh tên Okinori Kaya rồi hỏi ”Thế còn Togo , ông nghĩ sao nếu tôi bổ nhiệm va vào ghế Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao ?” Hoshino kể lại mối quan hệ thắm thiết của hai người từ dạo còn cộng tác bên nhau khi vừa mua lại tuyến đường sắt miền Đông Trung Hoa từ tay Liên Xô . Cuối cùng ông kết luận ”Togo quả là một người đáng tin cậy được” . Lại thêm một dấu chọn nữa được Tojo đánh vào danh sách của mình .
    Cân nhắc bàn bạc một lúc lâu , khi tạm chọn ra được một danh sách đầy đủ thì Hoshino bắt đầu dùng điện thoại liên lạc trực tiếp với từng cá nhân một . Bảy người đã hân hoan nhận lời ngay , nhưng bốn người còn lại , trong đó có Kaya và Togo vẫn còn do dự và muốn được trực tiếp gặp bàn bạc với Tojo trước .
    Gặp Tojo , Kaya vào đề ngay ”Có rất nhiều tin đồn rằng Nhật và Hoa Kỳ sẽ đi đến chiến tranh . Tôi còn nghe phe nhà binh mấy ổng cũng ủng hộ mạnh mẽ cho vấn đề lắm . Còn ông , ông có cao kiến gì thưa ông ?
    Tojo đáp ngay không chần chừ ”Dự định của tôi là cố gắng thương thuyết tìm giải pháp hòa bình bằng mọi cách . Tôi phản đối chiến tranh và không bao giờ quyết định đi đến chiến tranh cho dù hoàn cảnh có bắt buộc” .
    Kaya thắc mắc hỏi tiếp ”Nếu thế thì tốt rồi . Nhưng vấn đề là Bộ Tổng Tư Lệnh Tối Cao , họ là những người tự quyết không nằm trong quyền lãnh đạo và điều hành của Nội Các thì sao ?”.
    Tojo tỏ vẻ cứng rắn , ông đáp gọn ”Tôi sẽ không bao giờ chấp thuận cho phía quân đội phát động một cuộc chiến mà tôi cho là đi ngược lại với chủ trương của Nội Các Chính Phủ”.
    Sự thẳng thắn của Tojo đã gây được chút ấn tượng đối với Kaya . Nhưng trước khi gật đầu đồng ý bước vào nội các mới của Tojo , Kaya điện thoại hỏi lại ý kiến của cựu Thủ Tướng Konoye . Konoye khuyên ông nên chấp thuận và hãy cố gắng phụng sự đất nước , cố nêu cao lý tưởng hòa bình .
    Shigenori Togo , một sĩ quan xuất thân từ gia đình Kiếm Sĩ Nhật Bản và chẳng có quan hệ ruột rà gì đến vị Đô Đốc lừng danh Togo của những thập niên trước . Ông đến gặp Tojo sau Kaya một bước . Ông là mẫu người to con quắc thước nhưng thâm trầm sâu sắc , lời nói khoan thai nhưng giọng lại nặng trịch thổ âm Kyushu khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu vì chói tai . Theo sự nhận xét của Đại Sứ Grew thì Togo là mẫu người hung ác và “quá khích nhưng dè dặt” Là một nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm và cũng là một người rất am hiểu xã hội Âu Châu , ông từng chống đối truyền thống của gia đình để kết hôn với người vợ Đức . Không giống như bất cứ một nhà ngoại giao nào , Togo có một cố tật là khi nói chuyện hoặc cãi một vấn đề gì thì ông vẫn thẳng thừng tuôn ra cho bằng hết . Nghĩ gì là phải nói tuột ra hết mới hả , bởi thế lắm khi ông cũng làm cho người ta phiền không ít bởi cái tính “thẳng như ruột ngựa” của mình .
    Đề cập đến vấn đề thương thuyết thất bại của Konoye , Togo nói rằng nếu đứng vào vị trí của Konoye lúc bấy giờ ông tin tưởng vào khả năng ngoại giao của mình để có thể mang lại nhiều thành quả tốt đẹp , nhưng chẳng hiểu sao Konoye lại thất bại chua cay đến như thế . Tojo chẳng quanh co giấu giếm làm gì , ông cho biết sự thất bại của Konoye vì phe quân đội cứ nằng nằng một mực không chịu rút hết lực lượng đồn trú ở lục địa Trung Hoa , họ coi hành động đó như “một sự đòi hỏi quá đáng” của Hoa Kỳ . Tojo nhấn mạnh rằng đấy dù sao cũng là chuyện đã qua , ngay bây giờ ông cần được câu trả lời dứt khoát của Togo để ngày mai , khi vào bệ kiến Thiên Hoàng ông đã có sẳn trong tay bản danh sách của những bộ trưởng mới trong Nội Các của ông . Togo liền gật đầu chấp thuận .
    Hôm sau , Tojo , một sĩ quan 57 tuổi được vinh thăng Thống Tướng để hợp thức hóa quyền điều hành . Sau buổi lễ phong chức tại Nội Các , ông lên xe hỏa đến Ise Shrine , một ngôi đền linh thiêng nhất của Thần Đạo Nhật Bản để tỏ lòng cung kính đối với Thái Dương Thần Nữ theo đúng tín ngưỡng tập quán của họ .
    Khi tin tức loan ra chính thức công bố Tojo bước lên vũ đài chính trị thì đại chúng đa số đều hoan hô cổ võ rất nhiệt tình . Tờ nhật báo Yomiuri chạy một tít lớn ở trang đầu tuyên bố đấy là nguồn cảm hứng cho quốc dân “Tỏ ra có khả năng an bang trị quốc và là một cú sốc lay động sức mạnh của những kẻ chống lại phe Trục” . Nhưng bên cạnh ấy vẫn còn những phần tử tỏ ra thờ ơ , điển hình là Hoàng Thân Higashikuni , ông vẫn mãi thắc mắc tại sao Kido lại có thể đề cử một quân nhân có nặng đầu óc “hiếu chiến” như vậy , rồi chẳng biết hắn tâu rỗi thế nào mà cả Thiên Hoàng cũng chuẩn y nốt mới là lạ lùng chớ !
    Không riêng gì Đông Kinh , ngay cả ở Hoa Kỳ , quan điểm của họ cũng chẳng đồng nhất . Otto Tolischus , thông tín viên Đông Kinh cho tờ Newyork Times , sau khi thảo luận vấn đề Tojo với vị cố vấn đại sứ Dooman , Otto ghi lại như sau “Có lẽ quá hấp tấp để nhận định rằng chính phủ mới ở Đông Kinh sẽ sớm bị chi phối bởi phe cực đoan , phe của những kẻ đã từng tuyên bố tham chiến và gây nên sự sụp đổ của Nội Các Konoye . Tojo , mặc dù cá nhân ông đã bảo đảm chắc chắn rằng sẽ chống lại chiến tranh ….. Về một khía cạnh nào đó , cuộc thương thuyết có thể sẽ càng dễ dàng và thuận tiện hơn vì sự thay đổi này …. Bây giờ thì phía Hoa Kỳ đã quá rõ ràng là mình đang giao dịch thẳng với phe quân đội Nhật Bản
    Nhưng đấy chỉ là những nhận định của kẻ bàng quan , cốt yếu và quan trọng nhất vẫn là người trong cuộc mà là kẻ quyết định sự thành bại của cuộc thương thuyết , ấy là Cordell Hull . Theo cái nhìn quá ác cảm của ông thì đặc điểm của vị Tân Thủ Tướng “một sĩ quan Nhật Bản tiêu biểu với cá tính hay quấy rầy và lời nói thẳng như ruột ngựa , bên trong là một “bộ óc thiển cận” đây mới chính là một mẫu người “đần độn đúng nghĩa” . Hull mang Tojo ra để so sánh với Konoye , ông nhận định Konoye dù sao vẫn “tạm được” còn Tojo thì ôi thôi …. “quá bết” !






    ----------------------------------------------------------





    Chương 10 : CỐ GẮNG TRONG TUYỆT VỌNG












    Ngay lúc ấy tại Mạc Tư Khoa , thủ đô đầu não của khối Cộng sản vẫn chưa nắm được chính xác những tin tức biến động trong chính trường Đông Kinh , thậm chí quyết định tiến chiếm bán đảo Đông Dương tại phiên họp ngày 02 tháng 07 họ cũng không biết được mảy may nào . Hotsumi Ozaki , một nhân viên tình báo cũng chỉ thoang thoáng nghe theo tin đồn là Nhật sẽ dồn quân tấn công về phía Nam thay vì ngược lên mạn Bắc tấn công Tây Bá Lợi Á . Để xác quyết nguồn tin ấy , Richard Sorge , thượng cấp của Ozaki muốn ông đi ngay đến Mãn Châu . Và cũng tại nơi đây Ozaki phát giác ra nhóm hơn 3 nghìn nhân công đường sắt trước kia được Đội Quân Quang Đông bí mật đào tạo , cung cấp vũ khí và giao nhiệm vụ tấn công những toán Hồng quân dọc theo biên giới ; bây giờ đã giải tán . Ngày 04 tháng 10 Sorge điện ngay về Mạc Tư Khoa báo cáo tình hình , kèm theo một bức điện văn kể rõ những diễn biến ngoại giao vừa xảy ra gần đây nhất :
    “Căn cứ theo những nguồn tin đáng tin cậy được tiết lộ bởi những viên chức Nhật : Chính phủ Nhật Bản yêu cầu Hoa Kỳ mở một cuộc hòa đàm vào khoảng trung tuần tháng này (10) . Nếu phía Hoa Kỳ không đáp ứng sự yêu cầu trên thì bộ phận đầu não chính phủ Nhật Bản hoặc hàng loạt từ chức hoặc có một cuộc cải tổ quyết liệt , thậm chí cũng có thể xảy ra chiến tranh với Hoa Kỳ . Nếu tình trạng này đến thì chậm lắm có lẽ là cuối năm nay .
    Một nhân vật được giới thẩm quyền Nhật đặt hết kỳ vọng vào là Đại Sứ Grew , vì ông này sẽ đại diện một phần nào của cuộc vận động đi đến bàn hội nghị ….
    Chính giới Nhật hầu hết đều có một quan điểm chung , nếu Đức thắng trên chiến trường châu Âu thì Nhật sẽ tung quân tiến chiếm toàn cõi Đông Dương và không cần thiết phải đối chọi với Liên Xô trên mặt phía Bắc , và giả thử Đức bị sa lầy ở chiến trường Liên Xô để đi đến đại bại ở mặt trận này thì quân Nhật sẽ không vội , họ chờ một cơ hội tốt sang năm . Hoa Kỳ dù có tinh ma đến đâu cũng không thể nào đoán nổi bước tiến quân của Nhật” .
    Bản báo cáo quá đầy đủ và mức độ chính xác của nó đã được Mạc Tư Khoa đánh giá cao . Vì thế toàn bộ Hồng quân trấn đóng dọc theo biên giới Mãn châu được lệnh rút về phòng tuyến phía Tây .
    Ngày 23 tháng 10 , tại một phiên họp của bộ chỉ huy , Tham Mưu trưởng Hải Quân Nagano đưa ra một lời phát biểu như than phiền “Hành động và quyết định chả bao giờ đi đến đâu cả nhưng chỉ biết trong mỗi một giờ đồng hồ hải quân chúng ta phải tiêu mất đi 400 tấn dầu . Tình trạng này coi bộ khẩn cấp lắm rồi , chẳng biết mấy ông ấy lại tính sao đây ?” . Phe Lục quân cũng đồng ý , họ đóng góp ý kiến “Cả một tháng trời chẳng tìm ra giải pháp nào cả . Chúng ta nhất định phải tiến tới chớ chẳng lẽ ngồi chờ chết sao !” Bấy giờ Thủ Tướng Tojo mới lên tiếng , giọng ông bất giác lại giống như cựu thủ tướng Konoye hôm nào “Tôi không hiểu tại sao Bộ Tư Lệnh lại thúc giục quá hấp tấp đến thế . Chính phủ đã chẳng nhắc nhở rằng vấn đề hệ trọng cần phải cân nhắc kỷ càng trước khi quyết định hay sao . Từ khi chúng ta có những ông Bộ Trưởng mới : Hải quân , Kinh tế và Ngoại giao . Chúng ta đã thay đổi đường hướng , có nên chấp nhận quyết nghị 6/9 hoặc đi tìm một giải pháp mới . Vậy ý kiến của Bộ Tư Lệnh các ông ra sao ?”.
    Nagano cùng Sugiyama trả lời rằng họ không có ý kiến .
    Đây là lần đầu tiên Tojo chứng tỏ khả năng quyền lực của ông . Có thể bảo rằng sự quyết đoán của Kido là đúng : Tojo chứng minh được ông có thể đối phó lại sự bất bình của phía quân đội .
    Liên tục những phiên họp tiếp theo hầu như họ đều dành hết nhiệt tâm vào một mục tiêu quan trọng là thương thuyết với Hoa Thịnh Đốn , nhưng bên cạnh ấy vẫn không quên suy tính lợi hại nếu trường hợp chiến tranh xảy ra . Họ đều đồng ý duy trì Hiệp Ước Liên Minh và tôn trọng 4 điều khoản của Hull mà chính quyền Konoye đã chấp thuận . Việc duy nhất mà họ không thống nhất với nhau là rút hết toàn bộ binh lực ở Trung Hoa lục địa . Tojo cứng rắn tuyên bố “như một hành động bày tỏ thiện chí trong việc ngoại giao” sẽ không có sự hiện diện của quân đội Nhật Bản trên thềm đại lục nữa . Sugiyama chống cự quyết liệt viện lẽ đó là một mối sỉ nhục to lớn cho đất nước khi phải chấp nhận một sự nhượng bộ quá đáng . Bầu không khí trong buổi họp càng lúc càng căng thẳng hơn vì không ai chịu nhường ai dù chỉ một bước . Bất chợt có tiếng nói ồm ồm vang lên từ phía bên phải của hội trường “Cách tốt nhất là rút lui toàn bộ hoạt động quân sự về . Rồi thì mọi việc sẽ được giải quyết ổn thỏa ngay !
    Không ai khác hơn là vị tân Bộ Trưởng Ngoại Giao Togo , người ủng hộ mạnh mẻ Tojo trong hướng đi mới này . Ông chủ trương “dĩ hòa vi quí” “nín thở qua sông” , một khi yêu cầu đã được Hoa Kỳ chấp thuận rồi thì đâu lại vào đấy thôi .
    Tóm lại lời đề nghị ấy quả thật táo bạo , có vài người cho rằng Togo đã mất trí đến độ họ phải hoãn cuộc họp lại cho đến ngày hôm sau với lý do chờ cho “đầu óc Togo thật sự tỉnh táo lại” .
    Nhưng vì Tojo cố nài kéo dài thêm phiên họp . Mỗi phút ngắn ngủi trôi qua phải gắng vận dụng tim óc tìm ra phương cách để đi đến một quyết định chung cho toàn cục dù phải ngồi lại suốt đêm cũng phải ráng . Tojo nêu lên ba vấn đề chính yếu là : vì tài nguyên quốc gia có hạn nên tránh lao vào một cuộc chiến qui mô với những chiến phí khổng lồ , bởi vậy chúng ta chỉ còn hai chọn lựa duy nhất hoặc phát động ngay một cuộc chiến bất thình lình để dành lấy ưu thế trên chiến trường hoặc một mặt lo thương thuyết một mặt bí mật chuẩn bị chiến tranh nếu cần thiết . Nhưng theo cá nhân Tojo thì ông hy vọng cuộc thương thuyết sẽ dẫn đến hòa bình .
    Sugiyama và Tsukada rời phòng họp sau đó , họ đều hoang mang cùng cực trước những thay đổi đột ngột của Tojo , lời phát biểu của ông ta đâu có khác nào lời nói của một thường dân nhát gan tham sống sợ chết , thật không phải là khẩu khí của một trang chiến tướng từng trãi tí nào ! Trong lúc ấy thì Tojo cũng trở về văn phòng của ông để gặp lại kẻ tri âm , Kenryo Sato , bấy giờ là Trung Tướng , để bàn kỹ lại ba phương sách đã vạch ra trong phòng họp ban nãy . Sato góp ý rằng quyết định tuyên chiến vội vàng là một hành động liều lĩnh dại dột , nó chẳng giải quyết được những bế tắc giữa Mỹ và Nhật cũng như sự xáo trộn ở lục địa Trung Hoa . Tuy nhiên hạ sách này cũng có thể dùng được khi bộ Hải quân dám chứng minh sức mạnh của họ có khả năng mang lại chiến thắng . Khi ấy tôi sẽ hoàn toàn ủng hộ chiến tranh . Bằng ngược lại ra quân mà không nắm chắc phần thắng thì án binh bất động vẫn là thượng sách .
    Tojo bảo Sato ngầm báo với Sugiyama chớ nên đưa ra ý kiến hối thúc chiến tranh vào phiên họp sáng ngày mai . Nhưng ông Tham Mưu Trưởng này vẫn giữ vẻ cương quyết bảo “Nói với ông Bộ Trưởng Chiến Tranh rằng chỉ có một câu trả lời dứt khoát là “đánh” mà thôi !”.
    Phiên họp bắt đầu vào lúc 9 giờ sáng . Nhưng Tojo cho đòi Sugiyama đến gặp ông sớm hơn , với hy vọng cuộc gặp gở ngắn ngủi có tính cách cá nhân này sẽ dàn xếp được những gì ông sắp đặt . Đúng 7:30 sáng , Sugiyama và Tsukada cùng người ủy quyền của ông cùng bước vào văn phòng của Tojo .
    Tojo nhập đề ngay “Thiên Hoàng phản đối mạnh mẽ việc cắt đứt ngoại giao và mở rộng chiến tranh vùng Đông Dương” , đoạn ông quay ra nói như khuyên với Sugiyama “Nếu như ông nghĩ mình có thuyết phục để Ngài thay đổi ý định và ông cảm thấy tự tin thì hãy tự mình vào yết kiến Ngài một chuyến đi . Còn tôi , tôi chẳng có ý kiến”.
    Sugiyama trả lời rằng ông nghĩ hy vọng để được đàm phán với Hoa Kỳ đã không còn nữa , và một khi người Mỹ đã tỏ ra ngang bướng thì chúng ta chẳng còn hy vọng nào nữa . Nói chuyện thương thuyết với một kẻ hách dịch như thế chỉ có hoài công vô ích mà thôi . Hy vọng đã hết thì chỉ còn một đường lối duy nhất giải quyết là chiến tranh .
    Nói đến đó ông Tham Mưu Trưởng gắt gỏng nặng lời chỉ trích Tojo là một quân nhân và hành sự còn thua xa một người dân dã tầm thường . Tojo im lặng chẳng nói chẳng rằng , ông vừa là Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Bộ Chiến Tranh .
    Cuộc hội nghị được ghi dấu trọng đại của quốc gia , đây là lần thứ 66 kể từ ngày thành lập ngày 01 tháng 11 năm 1936 , phòng họp được thiết kế ngay trong nội điện , giữa không khí nghiêm trang và cổ kính . Giữa lúc vận mệnh đất nước nghiêng ngã , Thủ Tướng đang cố chống lại những ý kiến kỳ quặc của phe quân đội , đó là những ý kiến được đại đa số tán thành . Tojo mang ra phương sách vừa đề cập ngày hôm qua để mổ xẻ trong cuộc họp . Phương sách thứ nhất là đi theo con đường giải quyết bằng chiến tranh .
    Kaya , Bộ trưởng kinh tế lên tiếng hỏi “Nếu chúng ta cứ ngã theo chiều hướng hòa hoãn thì liệu trong vòng vài ba năm nữa Hoa Kỳ để chúng ta yên không ? Hải quân có bao nhiêu phần trăm hy vọng có thể chiến thắng họ được ?
    Đô Đốc Nagano đáp cộc lốc “Chỉ có Trời mới biết !”.
    Kaye lại hỏi “Chắc chắn rằng Mỹ sẽ khai chiến với chúng ta hay không ?
    Nagano trả lời kiểu huề vốn “Năm mươi , năm mươi
    Kaye mắt vẫn không rời Nagano “Nếu chiến tranh xảy ra , liệu Hải quân mấy ông có nắm chắc phần thắng không ?
    Nagano chậm rãi như muốn nhấn mạnh từng lời , từng câu “Một cuộc chiến sẽ xảy ra trong sớm muộn mà chúng ta không thể nào tránh được . Thay vì ngồi đây vẽ kế hoạch hòa hoãn chờ thời thì tại sao không thình lình ra tay tấn công trước . Tiên hạ thủ vi cường , có như vậy Nhật Bản mới chiếm được thế thượng phong chứ !
    Kaye nhắc lại lời tuyên bố của Nagano trong một phiên họp hôm trước rằng : chiến thắng chả mang lại vẽ vang gì khi phải lún sâu vào cuộc chiến ít nhất là vài năm . Rồi ông nhìn thẳng vào Nagano nói “Rồi tiếp tục sau đó thì số phận của Nhật Bản sẽ ra sao ? Tôi quả quyết rằng Hoa Kỳ không thể nào ra tay tấn công chúng ta trước . Cơ hội ấy rất nhỏ , nhỏ đến đổi chúng ta không cần phải đề cập tới . Vậy tôi khuyên quí vị là ý kiến tấn công họ trước chẳng phải là một ý kiến hay !
    Ngoại Trưởng Togo gật gù khen lời phát biểu của Kaye thật đúng ý ông . Nhưng Nagano lại bảo “Hảy nhớ người xưa có câu ‘đừng quá vội tin vào những việc chưa xảy ra’ . Tương lai những ngày kế tiếp chỉ là một dấu hỏi to tướng và việc gì cũng có thể xảy đến . Chỉ trong vòng 3 năm nữa thôi thì ảnh hưởng của Hoa Kỳ sẽ bao trùm cả Đông Nam Á” .
    Kaye chợt lên tiếng hỏi “Tốt ! Vậy bao giờ chúng ta nên tấn công và thắng họ đây ?
    Nagano dứt khoát “Ngay lập tức . Bây giờ thật đúng lúc để phát động chiến tranh . Cơ hội ấy sẽ không bao giờ trở lại !”
    Sugiyama bấy giờ mới lên tiếng phụ họa “Thượng tuần tháng Chạp là thời điểm thuận lợi để ra quân . Nhưng trước mắt việc thương thuyết với Hoa Kỳ vẫn phải tiến hành để quân đội ta có đủ thời giờ lên kế hoạch và chuẩn bị chu đáo” .
    Togo lớn tiếng phản đối “Chúng ta quyết không thể làm như vậy được !
    Tham Mưu phó Hải quân làm bộ không nghe , ông nói lớn “Thay mặt Hải Quân , chúng tôi hạn định cho mấy ông phải hoàn tất việc đàm phán trước ngày 20 tháng 11”.
    Phe Lục quân cũng nôn nóng vô cùng , và họ sẽ không bao giờ chịu bó gối ngồi chờ mãi vì thời hạn chót cuộc đàm phán dù thắng hay bại do họ tự quyết định lấy là ngày 13 tháng 11 .
    Sự việc xảy ra tình trạng càng lúc càng xấu đi . Thế yếu nghiêng hẳn về phía chủ hòa . Đối với Kaye thì nhóm người này đầu óc hoàn toàn quá ngang bướng không bao giờ chịu nghe theo lẽ phải . Thường tự hào là một quốc gia hùng mạnh với 2.600 năm lịch sử mà lại không biết xấu hổ khi dùng đến hạ sách ngoại giao quỉ quyệt hầu giải quyết những khó khăn của đất nước . Togo cũng kịch liệt phản đối , ông nói với giọng đầy căm phẩn “Tôi không thể tiếp tục đi theo đường lối ngoại giao trừ khi có được một cơ hội để đạt đến thành công . Tôi cũng không chấp nhận được cái gọi là “hạn chót” của cuộc đàm phán mà mấy người đã tự vạch ra để khó dễ tôi , cũng như những suy tính và hành động có thể gây ảnh hưởng xấu cho việc đàm phán trong tương lai . Quí vị không thể nào gạt bỏ được cái ý nghĩ “chiến tranh” trong đầu của quí vị hay sao ?
    Chỉ có Thủ Tướng Tojo vẫn ngồi yên giữ vẻ điềm tỉnh suốt trong buổi họp để mặc cho Togo và Kaye ra mặt chống đối phe quân đội . Bấy giờ phe quá khích lại quay sang tập trung vào Togo , thậm chí ngay trong giờ nghỉ giải lao họ cũng không tha . Họ tuyên bố thẳng thừng “Nếu Ngoại Trưởng Togo từ chối không ủng hộ chiến tranh thì họ sẽ thay thế chiếc ghế của ông tức thì” . Sau buổi nghỉ giải lao , Togo trở lại hội trường và vẫn giữ thái độ cứng rắn lớn tiếng mắng phe quân đội không tiếc lời . Cuối cùng , như đã mắng nhiếc đã nư , ông thở dài và xuống giọng “Thời hạn 13 tháng 11 quả thật là một yêu cầu thái quá ! Phe Hải quân lại nới rộng thêm thời hạn đến ngày 20 tháng 11 . Mọi người có thấy rằng sự đòi hỏi của mấy người quá vô lý không ?
    Nhưng chẳng để ý đến lời nói của Togo , Tsukada dõng dạc như thách thức “Ngày 13 tháng 11 là thời điểm cuối cùng . Càng trễ nải càng gây rối loạn trong hàng ngũ quân đội” .
    Bộ Trưởng Hải quân Shigetaro Shimada vốn là một vị Đô Đốc có lối suy nghĩ không mấy linh động nên thắc mắc , ông nêu lên câu hỏi không hiểu vì sao cuộc đàm phán không thể tiếp tục cho đến cuối tháng 11 .
    Tướng Tsukada quát to “Tất cả im lặng !” Ông nhìn Shimada và nói “Lời đề nghị của ông không có căn cứ” . Đoạn ông quay sang Togo lớn tiếng hỏi “Thời hạn chót nào thích hợp nhất cho ông ?”.
    Một lần nữa cuộc họp vẫn chưa đi đến đâu mà không khí lại quá căng thẳng . Tojo cho nghỉ giải lao . Trong vòng 20 phút ngắn ngủi phe Lục quân hội ý và đi đến quyết định : việc thương thuyết được tiếp tục , nếu thấy cần thiết , cho đến cuối tháng 11 .
    Trở lại bàn hội nghị lần này , Thủ Tướng Tojo tỏ ra nhượng bộ hơn nên lên tiếng hỏi “Quí vị nghĩ sao nếu chúng ta quyết định chọn ngày 1 tháng 12 làm thời hạn chót cho việc đàm phán ? Ngoại giao là một vấn đề tế nhị , phải tham khảo bàn bạc từ những phần cơ bản đến từng chi tiết rất tốn kém thời gian , chứ có phải như quí vị vẽ chiến thuật hành quân xung trận đâu . Cho nên chúng ta chấp nhận cho việc đàm phán càng có được rộng rãi thời gian chừng nào thì cơ hội thành công càng nhiều chừng nấy”.
    Tsukada vẫn không tán thành , ông nói “Nhất định là không thể được ! Chúng tôi chỉ có thể đợi đến 30 tháng 11 là thời hạn chót , không thể bàn thêm nữa !” . Đô Đốc Shimada vội hỏi “Ngày 30 tháng 11 , lúc mấy giờ mới được ? Nửa đêm chăng ? Như vậy thì chúng ta chiều ý Thủ Tướng Tojo , quyết định hạn chót là ngày 01 tháng 12” . Tsukada đành chấp nhận , ông xuống giọng nhắc nhở “Thôi được . Nhưng chỉ đến nửa đêm thôi nhé !
    Hạn chót cho việc thương thuyết đã được quyết định mặc dù bên cạnh đó còn lắm người miễn cưỡng gật đầu chưa dứt khoát . Giờ đến lượt cố thuyết phục làm sao cho Hoa Thịnh Đốn đồng ý ký kết một hiệp định chung , trọng trách này phải do Ngoại Trưởng Togo gánh lấy . Ông tuyên bố rằng ông đã chuẩn bị xong hai bản dự kiến để gửi sang Hoa Kỳ . Dự kiến A thì không khác gì một phiên bản nhằm xoa dịu đi phần nào những đòi hỏi lúc trước của Hoa Kỳ đã đưa ra . Một sự hứa hẹn quan trọng trong dự kiến này là rút hết toàn bộ lực lượng quân sự đang trú phòng tại Trung Hoa , bao gồm những đơn vị đang chiến đấu chống Cộng Sản . Dự kiến B chỉ để khi nào Hull không chấp nhận dự kiến A mới mang ra , và đây là phương sách cuối cùng . Nó được Togo tỉ mỉ thảo ra hầu giảm mối nghi ngờ của Hull về việc Nhật tiến quân vào Đông Nam Á , vì chính nó đã bảo đảm với ông rằng Nhật hoàn toàn bác bỏ ý tưởng dùng quân sự xâm chiếm vùng Nam Á .
    Theo bản dự kiến B thì Nhật hứa hẹn sẽ không mang quân tiến xuống miền Nam , và một khi trật tự đã vãn hồi ở Trung Hoa cũng như toàn cõi Thái Bình Dương nền hòa bình được củng cố lại thì quân đội Nhật sẽ rút hết ra khỏi bán đảo Đông Dương . Để thực hiện được từng bước của kế hoạch lui quân từ những nơi xa xôi miền Nam Á , Nhật cần Hoa Kỳ chấp thuận bán cho họ một số lượng dầu lên đến 1 triệu tấn .
    Sugiyama phản đối bản dự kiến B , ông nói “Lợi thế việc đồn binh ở thuộc địa Đông Dương là giữ vững thế cờ Trung Hoa . Một địa thế chiến lược quan trọng nó sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc phòng chống mưu đồ ám muội của Mỹ trên vùng Thái Bình Dương , đồng thời chúng ta cũng thu được nguồn lợi nguyên liệu vô tận nơi này . Thỏa thuận được với Hoa Kỳ không có nghĩa là họ sẽ cung cấp cho chúng ta nguyên liệu ! Chúng tôi dứt khoát không chấp nhận bản dự kiến B” . Lại một lần nữa phải đối diện với những con người quá khích cứng đầu , bắt buộc Togo ra mặt bênh vực cho chủ ý của mình . Ông nhấn mạnh rằng chưa chắc gì bản dự kiến A có nhiều cơ hội được Hoa Thịnh Đốn chấp thuận ngay một khi thời gian điều đình thì quá hạn hẹp . Thực tế mà nghĩ , nếu muốn tìm được ánh sáng hòa bình thì phải tập trung lại một vấn đề Đông Dương . Đoạn ông lớn tiếng trách “Ông đặt tôi vào một hoàn cảnh hết sức khó khăn và bảo tôi phải hoàn thành những gì mà tôi không thể tùy tiện làm được !” .
    Một vài người , trong đó có Tổng Thư Ký Hoshino và Kaye công nhận rằng Togo đúng . Nhưng phía quân đội vẫn trơ ra như đá một mực giữ mãi lập trường đối lập của mình “Chúng ta không thể nào rút quân ra khỏi Đông Dương” Tsukada nhắc lại lập luận của Sugiyama “Rút ra khỏi vùng Nam Á , chúng ra sẽ bỏ lại không biết bao nhiêu nguồn tiếp liệu từ những tài nguyên dồi dào , rồi đó sẽ là một ân huệ lớn dành sẳn cho Hoa Kỳ khi họ đến . Chẳng những với nhiều thiệt hại đáng kể như trên , rút quân đi chỉ đơn thuần kềm chân cuộc khủng hoảng vài tháng hoặc 1 năm là cùng . Với lợi thế của thời tiết , Nhật có nhiều cơ hội thủ thắng bằng vũ lực . Cơ hội ấy chỉ đến rồi đi và sẽ không bao giờ trở lại . Vì thế bản dự kiến B không có giá trị gì cả” .
    Phe quân đội cứ tranh cãi hàng giờ và chẳng hề nhượng bộ bằng lòng rút quân ra khỏi vùng Đông Dương . Họ , phe quân đội chỉ đồng ý duy nhất một bản dự kiến mà họ cho là còn có chút giá trị , bản dự kiến A .
    Tuy hai phe Hải Lục quân liên hiệp nhau ra mặt chống đối cố tạo sức ép nhưng Togo vẫn không chùn bước , cố giữ quyết định bỏ ngỏ Đông Dương . Bấy giờ Thủ Tướng Tojo mới nhắc nhở cho mọi người nhớ rằng ông chỉ là người thừa hành ý nguyện của Thiên Hoàng . Các người là bậc tôi thần cũng nên dành cho Ngài một sự kính trọng nào đó cho đúng đạo nghĩa quân thần .
    Cuối cùng thì Sugiyama đành phải chấp nhận nhưng ông cẩn thận nhắc lại là chỉ mang bản dự kiến B ra khi nào bản dự kiến A bị họ chính thức từ chối . Sugiyama lại tỏ ra lo ngại phải làm thế nào để kềm chế những kẻ quá khích trong hàng ngũ quân đội không vùng lên làm loạn khi họ thấy rằng chính phủ của họ đã quyết định nhượng bộ Hoa Kỳ một cách nhục nhã như thế . Thủ Tướng Tojo lại trấn an “Ông hãy an tâm , việc này tôi đủ sức đối phó” . Rồi họ tiếp tục ngồi lại bàn bạc cụ thể hơn những việc cần phải làm cho đến lúc nửa đêm mà vẫn còn nghỉ giải lao để vào bàn tiếp .
    Cả nhóm người đổ dồn ra ngoài vườn Thượng Uyển , lại một lần nữa nơi đây bị bao phủ bởi một màng không khí nặng trĩu của những cuộc tranh luận cãi vả .
    Đô Đốc Nagano vỗ nhẹ vào vai Togo khẻ hỏi “Ông Ngoại Trưởng có thể nhận lấy trọng trách này và giải quyết êm thắm cả chứ ? Về phía Hải Quân chúng tôi thì tin tưởng rằng ông có thể dàn xếp êm đẹp mọi rắc rối bằng sự tính toán của riêng ông
    Togo thoáng giật mình . Chỉ mấy phút trước đây thôi hắn còn là một đối thủ lợi hại của ông mà bây giờ bất giờ lại lên tiếng cổ vũ , thật là một việc mà Togo không hề tin nổi ở tai mình . Ông hân hoan trở lại phòng họp với một hùng tâm kiên quyết .
    Cuộc họp tiếp tục . Nhưng khi ngồi vào bàn thảo luận tiếp vấn đề thì Nagano quay trở lại ủng hộ chiến tranh ngay . Đấy là bộ mặt thật của phe Hải Quân , tỏ vẻ yêu chuộng hòa bình ở những nơi riêng tư kín đáo và nhiệt liệt ủng hộ chiến tranh lúc ở ngoài chỗ công cộng đông người , cốt ý của họ là để giữ lấy thể diện và không muốn mất chỗ đứng trong quân đội đối với phe Lục Quân . Nagano nói “Dĩ nhiên chúng ta có thể thất bại . Nhưng nếu như chúng ta không chiến đấu thì chúng ta phải chịu nhục để lạy lục van xin Hoa Kỳ . Nhưng nếu đồng lòng chiến đấu thì chúng ta cũng có cơ hội chiến thắng họ được . Không ra quân , không chịu chiến đấu nó cũng có nghĩa là chúng ta đã chấp nhận thua cuộc !”
    Lời tuyên bố của Nagano gây khó chịu không ít cho Tsukada , vì ông nhận thấy nó như một lời cảnh báo rất mơ hồ . Giả như Nagano quyết định đi đến chiến tranh thì tại sao ông ta không dám mạnh dạn đứng lên “ăn to nói lớn” như Tướng Sugiyama ? Nghĩ vậy nên Tsukada nói “Tất cả chúng ta đều tự hỏi rằng không lẽ chẳng còn con đường nào nữa để tái tạo hòa bình hay sao . Vả lại chẳng có được một ai dám thẳng thắn bảo rằng “Đừng có lo , tôi sẽ hoàn toàn đứng ra nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm ngay cả khi đất nước này bị chìm sâu vào một cuộc chiến dai dẳng. Tuy nhiên , vì chúng ta không thể duy trì được thực trạng nên chỉ có một lối thoát độc nhất là phải chiến đấu . Tôi , Tsukada , tin tưởng rằng chúng ta không bao giờ thoát khỏi một cuộc chiến . Một cuộc chiến mà nếu không xảy ra hôm nay nó cũng sẽ xảy ra ở ngày mai . Quân đội Thiên Hoàng mở mặt trận phía Nam là Nhật đã gián tiếp giúp Đức và Ý đánh bại Nga Xô tạo sức ép bắt buộc Trung Hoa phải đầu hàng . Chiếm lấy miền Nam Á là Nhật đã giáng cho Hoa Kỳ một đòn nặng . “Chúng ta sẽ xây dựng một bức tường thép bao bọc và từ từ nghiền nát những kẻ nội thù bên trong châu Á . Kế đến là Anh và Mỹ cũng sẽ cùng chung số phận với bọn họ” .
    Biện luận này bị thượng cấp của Tsukada bác bỏ ngay lập tức . Sugiyama bảo rằng “Vì trường hợp miễn cưỡng đặc biệt” nên ông đành phải chấp nhận lời đề nghị của Tojo , rút toàn bộ lực lượng quân đội đang trấn đóng ở miền Nam Đông Dương .
    Lời tuyên bố đột ngột của Sugiyama đã gây nên một cú sốc lớn cho toàn thể đại biểu trong hội trường , ngoại trừ vài người bạn đồng sự phe nhà binh đã được ông tiết lộ cho biết trước . Sự nhượng bộ này là một mối đe dọa cần phải quan tâm vì ai cũng biết rằng nó có thể gây nên một làn sóng căm phẫn cực độ trong mọi tầng lớp binh sĩ .
    Và người ta cũng tin rằng với thiện chí của Sugiyama , rút quân ra khỏi Đông Dương là không còn sự đối kháng của phe dân sự chủ hòa nữa để họ hiệp lực cùng nhau bắt tay ngay vào công việc đàm phán hòa bình . Nhưng không ngờ Kaye , bộ trưởng Kinh Tế lại từ chối không muốn tiến hành ngay . Ông nói “Tôi không thể đồng ý với một quyết định quá vội vàng khi quyết định này có liên quan đến vận mệnh quốc gia như vậy” .
    Trên đường về nhà Kaye miên mang suy nghĩ . Những gì sẽ xảy ra nếu như mình cứ khư khư chống lại chiến tranh ? Việc này có ảnh hưởng đến Tojo , bắt buộc ông ta phải giải tán cả nội các và thành lập một tân nội các khác . Không nghi ngờ gì nữa , tân nội các này sẽ nghiêng hẳn về phe quân đội . Song , một khi chiến tranh bùng nổ thì kinh tế quốc gia dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng rất nặng , vậy ai là ông Bộ trưởng có đầy đủ kinh nghiệm để tìm cách ngăn chận không cho cơn lạm phát xuống dốc ? Mặt khác , cuộc đàm phán với Hoa Thịnh Đốn vẫn còn có nhiều cơ hội tốt . Vậy ta có nên đeo đuổi kế hoạch trên không ? Kết luận của ông tuy có vẻ hợp lý nhưng hiểm họa chiến tranh với Hoa Kỳ vẫn là một đều khó có thể hình dung ra được cho nên ông không thấy không đủ can đảm để điện thoại cho Tojo biết những ưu tư đang canh cánh bên lòng .
    Đâu phải chỉ riêng Kaye lòng đầy trăn trở , trên đường về lại tư gia , ngồi một mình trước tay lái , Togo cũng thả dòng tư tưởng tận đâu đâu . Bản dự kiến B của ông tuy đã được chấp thuận . Một bước thắng lợi với phe chống đối nội bộ , nó chưa đủ cho ông tin chắc rằng có thể làm vừa lòng chính giới Hoa Thịnh Đốn . Nếu như còn nhiều nhượng bộ nữa thì sẽ gây tổn thương trầm trọng cho phía quân đội . Và lúc ấy thì mình sẽ xử sự như thế nào ? Từ chức chăng ?
    Sau khi chợp mắt được vài giờ , Togo gọi điện thoại đến gặp Koki Hirota , một người bạn vong niên để hỏi ý kiến . Vị cựu Thủ Tướng ngạc nhiên cho rằng Togo nên ở lại văn phòng làm việc . “Ráng tìm cho được cơ hội thành công trong việc đàm phán hòa bình” .
    Togo đến văn phòng Thủ Tướng Tojo để tìm một sự ủng hộ cho việc “tin tưởng hơn vào những quan ngại nếu phải đi xa hơn nữa trong việc nhượng bộ” trường hợp Ngoại Trưởng Hull bác bỏ cả 2 bản dự kiến A và B .
    Tojo tỏ ra sốt sắng trong yêu cầu này . Ông sẳn sàng làm bất cứ điều gì để đi đến thỏa hiệp . Tojo cũng không ngại gì khi nói thẳng cho Togo biết là hằng đêm ông vẫn cầu nguyện sao cho Nhật Mỹ có thể sớm đi đến một thỏa thuận chung . Và để trấn an vị tân ngoại trưởng , Tojo nói ông nghĩ có 50 phần trăm cơ hội bản dự kiến B được Hoa Kỳ chấp thuận .
    Trở lại tình trạng ngấm ngầm chống đối không ra mặt của ông Bộ Trưởng Kinh Tế Kaye , Tojo phải điện thoại thúc giục để hỏi quyết định riêng của ông . Biết không còn có thể ngồi lì mãi ở tại tư gia nên Kaye đành phải lái xe đến văn phòng của Thủ Tướng Tojo . Lúc gặp Thủ Tướng , Kaye chỉ đáp vỏn vẹn có một câu “vạn bất đắc dĩ tôi mới chịu chiều theo ý kiến của đại đa số !”
    Cuối cùng thì cũng tạm gọi là đạt được sự thống nhất chung của nội bộ . Bây giờ đến lúc Ngoại trưởng Togo một mình tự gồng gánh lấy trọng trách và phải cố nỗ lực chạy đua với thời gian quá hạn hẹp mà phe quân đội đã quy định . Togo thầm nhủ chỉ có một cơ hội để thành công ở Hoa Thịnh Đốn là phải gửi người phụ tá sang phụ giúp Đặc nhiệm Đại Sứ Nomura . Người ấy là ai ? Ông suy nghĩ hồi lâu và quyết định chọn Kurusu , một cựu nhân viên ngoại giao đã từng phạm nhiều lỗi lầm trong công tác . Dạo trước Saburo Kurusu được một vị Đô đốc tiến cử vào một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao . Chính Kurusu đã thay mặt chính phủ Nhật Bản đặt bút ký vào Hiệp Ước Liên Minh . Nhưng cũng chính ông ta là người có mối quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ , Alice Jay , vị hôn thê của Kurusu là một công dân Mỹ , sinh ra và lớn lên ở Anh Quốc , cha mẹ nàng hiện cư ngụ tại Washington Square , thuộc Newyork City .
    Lúc ban đầu Kurusu còn lưỡng lự không nhất quyết nhưng sau đó ông đồng ý nhận nhiệm vụ mới . Cái khó là bằng cách nào để Kurusu đến được Hoa Thịnh Đốn càng nhanh càng tốt nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật . Nếu để cho những sĩ quan có khuynh hướng chủ chiến hoặc những kẻ cực đoan quá khích phát giác thì sẽ vô cùng bất lợi , có thể dẫn đến một cuộc ám sát cũng không chừng .
    Chuyến bay Pan-American theo đúng lịch trình sẽ rời phi cảng Hồng công 48 tiếng đồng hồ sau đó , trong khi Kurusu phải mất ba hoặc bốn ngày mới hoàn tất thủ tục xuất ngoại và do yêu cầu của phe Hải Quân , họ cần Kurusu nán lại dự buổi tiệc do ban tiếp tân của họ tổ chức gọi là khuyến khích tinh thần . Cũng nhờ Đại Sứ Grew khéo léo ngoại giao với Maxwell Hamilton , tổng giám đốc cơ quan thương mại vùng Viễn Đông , dời ngày khởi hành của chuyến bay Pan-Am trễ thêm hai ngày nữa .
    Buổi chiều ngày 04 tháng 11 Kurusu đến cáo biệt Tojo để lên đường . Tại đây Kurusu nghe Tojo dặn dò “Người Hoa Kỳ đa số đều khinh ghét chống đối chiến tranh . Tôi tin tưởng ở khả năng của ông , dù phải trả bất cứ giá nào cũng phải cố gắng để đạt lấy thỏa thuận với họ” .
    Đến khuya hôm ấy Kurusu mới trở về nhà . Ông nhẹ nhàng bước vào phòng ngủ và ngồi khẻ xuống bên cạnh người vợ đang ngon giấc nồng . Nghe tiếng động , vợ ông choàng dậy và ngạc nhiên hỏi “Anh định đi đâu thế ?” . Kurusu khẻ bảo “Anh sẽ đi Hoa Kỳ vào ngày mai” . Rồi ông thuật lại cho vợ nghe chi tiết của chuyến đi xa này . Nghe xong , Alice khuyên chồng nên để đứa con , một kỹ sư trẻ 22 tuổi đang phục phụ tại ngành hàng không quân đội , tháp tùng với ông trên con đường từ nhà ga Đông Kinh đến Yokosuka . Như vậy bà mới an lòng vì nơi đây “bất cứ đều gì cũng có thể xảy ra” , việc đón đường ám sát vẫn là một chuyện hết sức bình thường mà bà lúc nào cũng lo canh cánh bên lòng .
    Kurusu gật đầu đồng ý , trước khi từ giả , ông còn nói thêm “Tôi có thể sẽ không bao giờ quay lại !”
    Hôm sau , lúc 10:30 sáng , mười ba người đã hiện diện trong phòng họp , vẻ mặt ai nấy đều tỏ ra hết sức nghiêm trọng . Người thứ 14 xuất hiện , đó là Thiên Hoàng Hirohito . Mọi người cúi đầu hành lễ rồi phân theo ngôi thứ ai nấy đều an tọa . Tất cả như cùng có chung một mối băn khoăn khi Thủ Tướng tuyên bố xác nhận rằng Nghị định 6/9 đang được nghiên cứu lại “Như phải nói đến kết quả của Nghị Định này thì chúng ta phải quyết định dứt khoát đi đến chiến tranh . Với lần gia hạn này , từ bây giờ cho đến 01 tháng 12 , trong giời gian hạn hẹp và cấp bách cho phép chúng ta cần phải nỗ lực làm bất cứ việc gì để giải quyết mọi khó khăn bằng đường lối ngoại giao duy nhất”.
    Ngoại Trưởng Togo cân nhắc lại khả năng thành công của chính sách ngoại giao mình đã đề ra . Ở đó vẫn còn “một chút kẻ hở để dùng thủ đoạn” có cơ hội mang lại thành công là “tỏ ra vô cùng hối hận” .
    Tướng Suzuki lập lại vấn đề rắc rối hàng đầu của Nhật là tiềm năng quốc gia “Tóm lại , đó không phải là một việc dễ dàng cho chúng ta khi phải lún sâu vào một cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ , Anh và Hòa Lan ; trong khi cuộc chiến ở Trung Hoa vẫn chưa ngã ngũ” Tuy nhiên một khi cuộc chiến bùng nổ , cơ hội làm chủ chiến trường trong những tháng đầu quá lớn , nó khiến cho ông tỏ ra lạc quan đến đổi lắm lúc muốn ngã theo đường lối giải quyết bằng chiến tranh . Như thế vẫn còn tốt hơn đơn thuần chỉ “ngồi chờ đến lúc kẻ thù đến để chúng ta hoàn toàn rơi vào thế bị động” .
    Đô Đốc Nagano thì kêu gọi hoạch định một chiến thuật bí mật .Ông nhắc nhở mọi người rằng vận mệnh của Nhật Bản hoàn toàn tùy thuộc vào một chiến thắng quyết định ở giai đoạn đầu trọng yếu khi cuộc chiến mới bùng nổ . Tướng Sugiyama khuyên rằng nên nghiên cứu tỉ mỉ tầm quan trọng của thời điểm quyết định “Khi bắt tay vào chiến dịch , nếu cuộc khai chiến bị chậm trễ , sự tương quan lực lượng giữa ta và địch là mối quan ngại to tác . Càng kéo dài thời gian càng gây bất lợi cho ta . Nhưng ở đây , tôi xin đặt tất cả niềm tin vào giai đoạn đầu , một giai đoạn hết sức vẻ vang cho Đại Nhật” . Ông cũng thận trọng nhắc lại rằng dù sao thì chúng ta cũng phải chấp nhận một cuộc chiến có thể nói là “sẽ kéo dài” . Và ông có cảm tưởng Nhật Bản có thể “xây dựng một pháo đài kiên cố bất khả xâm phạm” vô hiệu hóa những cuộc tiến công của kẻ thù .
    Với những lời tuyên bố chắc nịch đầy hào khí của những con người yêu nước dũng cảm ấy cũng không thể sưởi ấm lại bầu không khí ngột ngạt mang nặng một màu tuyệt vọng đang bao vây kín lấy căn phòng . Tướng Sugiyama đề nghị áp dụng đường lối “đẩy mạnh ngoại giao” . Ông bảo rằng Hoa Kỳ chỉ thích sử dụng những “lời lẽ hoa mỹ trong đường lối ngoại giao” . Khi nhắc lại bản dự thảo thời Konoye , Sugiyama nhấn mạnh “Hiệp Chủng Quốc chẳng thừa nhận bất cứ điểm nào , vì họ cho rằng mục đích của nó chỉ làm cho sự đòi hỏi thái quá của Nhật tăng mãi lên mà thôi” .
    Điểm bàn cãi quyết liệt nhất là vấn đề đồn trú binh lực tại lãnh thổ Trung Hoa . Ông nói “Chúng ta đã gửi đi hơn một triệu quân nhân , trong đó đã có gần hai trăm ngàn vừa là tử sĩ vừa là thương binh . Biết bao nhiêu gia đình tan nát , con xa mẹ , vợ xa chồng . Bốn năm trời gian khổ điêu linh tốn phí quốc gia lên đến hàng chục tỷ Yen . Nếu thình lình ta rút bỏ Trung Hoa , tức thì dân chúng họ sẽ nổi lên chống lại chúng ta” để cố giành lại cho được Mãn Châu và Triều Tiên” .
    Chủ Tịch Hội Đồng Cơ Mật Hara hỏi Togo rằng ông nghĩ Mỹ sẽ phản ứng như thế nào về hai bản dự kiến A và B . Togo trình bày rằng với khoảng thời gian quá hạn hẹp , bản dự kiến A sẽ không mang lại kết quả ngay được , tệ hơn nữa là bản dự kiến B tuy nhiều hy vọng thành công nhưng lại không có đủ thì giờ để mang ra sử dụng . Bởi vậy cho nên tôi nghĩ cơ hội mong muốn sẽ rất nhỏ . Với trách nhiệm là một Ngoại Trưởng , tôi xin gắng hết sức mình . Nhưng … thành thật xin lỗi …
    Trong đầu Hara vẽ ra một viễn ảnh tối đen đầy chết chóc , ông cảnh báo rằng rồi đây màu da cũng sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc chiến . Anh , Mỹ và Đức đều là chủng tộc da trắng “Tôi e rằng nếu Nhật tấn công Mỹ , Mỹ và Đức sẽ bắt tay liên minh với nhau và bỏ rơi Nhật . Chúng ta có thể sẽ phải đương đầu với những người mang đầy lòng căm thù do sắc tộc và màu da gây ra . Sự oán ghét Đức Quốc Xã của họ sẽ quay lại trút hết lên đầu người da vàng chúng ta để kết quả là đảo ngược cuộc chiến Anh-Đức thành một cuộc chiến người da trắng chống lại người da vàng " .
    Tojo cũng lên tiếng nhắc nhở - mối nguy hiểm cho một cuộc chiến dài lâu mà kẻ thù là Hoa Kỳ “Khi tôi nghĩ về việc Hoa Kỳ gia tăng kiểm soát vùng Tây Nam Thái Bình Dương , trong khi tình trạng Hoa Lục vẫn chưa được vãn hồi , cộng thêm muôn vàn khó khăn khác , nó đã cho tôi thấy rằng sự lo lắng của chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt . Mình tất cả có thể nói chuyện “nằm gai nếm mật”, nhưng thử hỏi bao nhiêu năm , bao nhiêu tháng nhân dân Phù Tang này có thể chịu đựng được chứ ?
    Câu nói của Tojo có ngụ ý : mặc dù vài phút trước đây chính ông đã tỏ ra lạc quan đi tìm hòa bình , rồi sau đó lại đồng ý phải dùng biện pháp chiến tranh để giải quyết . Từ khi Anh và Mỹ bắt đầu đe dọa sự tồn tại của Nhật Bản thì chúng ta đã có chuyến tuyến hẳn hòi . “Tôi e rằng đất nước này lại phải tụt xuống ngang hàng với những quốc gia nghèo của thế giới thứ 3 nếu chúng mình cứ bó gối ngồi chờ mãi như thế này . Bằng một cách khác mà nói , nếu nền cai trị chỉ lấy công bằng và lẽ phải làm đầu thì tôi nghĩ những kẻ bị trị sẽ không bao giờ nổi lên chống lại . Người Mỹ áp dụng chính sách thiếu nhân nhượng như thế này thì rồi đây họ sẽ hiểu vì sao chúng ta tiến hành một cuộc chiến chống lại họ " .
    Chủ kiến của Thủ Tướng Tojo đã rõ như ban ngày . Mọi người nán lại bàn bạc cho đến một lúc lâu sau mới giải tán . Thiên Hoàng Hirohito từ đầu đến cuối vẫn giữ vẻ im lặng tuyệt nhiên không có một ý kiến gì .

  9. #9
    Nhà Lá
    Join Date
    Aug 2013
    Location
    A, A
    Posts
    43
    sẽ up tiếp tục cho đến hết .

 

 

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 04-30-2013, 10:17 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 04-01-2013, 12:42 PM
  3. Phim tài liệu: Chopin - Women behind the Music
    By Triển in forum Âm Nhạc
    Replies: 0
    Last Post: 12-29-2012, 10:11 PM
  4. Cái chết của Tổng biên tập báo Đảng CS TQ
    By Tuấn Nguyễn in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 08-25-2012, 07:10 AM
  5. Tháng Tư ngồi xem lại Vượt Sóng
    By Triển in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 0
    Last Post: 04-21-2012, 01:11 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 07:48 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh