Register
Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 25
  1. #1
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263

    Truyện ngắn Nguyễn Đình Phùng

    Cơn Mộng

    Những tia nắng đầu tiên trong ngày len lỏi qua mành của sổ dọi vào mặt An và chàng bừng tỉnh dậy. An đưa tay dụi mắt và khám phá ra mặt chàng đầy vã mồ hôi. Những hình ảnh của giấc mơ hiển hiện mồn một trong ý thức An và chàng bỗng rùng mình. Đây là lần thứ ba như hai đêm trước đó An đã mơ thấy người con gái, trở lại trong giấc mơ của chàng, những hình ảnh, âm thanh và hành động nối tiếp nhau như một cuốn phim chiếu mỗi đêm, đứt đoạn với mỗi lần tỉnh giấc và nối tiếp khi chàng vừa thiếp đi. An xuống giường vào phòng rửa mặt, đánh răng, đầu óc chàng vẫn đầy hình ảnh của giấc mơ đêm vừa qua. Hình ảnh người con gái hiện rõ hơn trong ký ức và sự quen thuộc bắt đầu thành hình. Từ vùng sâu thẳm của trí nhớ những kỷ niệm cũ chợt trở về và An biết người con gái là ai.
    Hai mươi năm trước, An là giáo sự dậy toán trẻ tuổi nhất của trường Chí Thiện, một trường tư thục nằm trong Chợ Lớn, do một linh mục Công giáo làm hiệu trưởng. Chàng được một người bạn lớn tuổi hơn dạy ở đây đã nhiều năm giới thiệu với vị linh mục và sau khi biết chàng là con của người bạn hoạt động trong hướng đạo, cha Hòa đã sắp xếp để chàng dạy toán cho lớp Đệ Nhị A, một lớp học với đa số là nữ sinh. An không biết điều gì đã xảy ra, nhưng mỗi lần vào lớp dạy, chàng thường hơi mất bình tĩnh và phải đến vài phút sau khi cất tiếng, chàng mới tự trấn an và giảng bài được.
    Hôm đó, An ra một số đề toán trên bảng và gọi một vài nữ sinh lên bục để giải toán. Chàng chọn đại một ít tên trong danh sách và gọi từng người. Người cuối cùng là Phan Thị Hà Liên và An không thấy ai trả lời. Chàng gọi tên một lần nữa và một lúc sau từ hàng ghế dưới cùng mới thấy một nữ sinh khó khăn đứng dậy. An lần đầu tiên mới để ý đến nàng và chàng sửng sốt nhìn. Hà Liên có khuôn mặt tuyệt đẹp và thân hình trên nẩy nở của một thiếu nữ mới lớn đầy nhựa sống nhưng nàng bị tật nguyền một bên chân. Một chiếc nạng gỗ được nàng dùng để thay cho chân trái, khẳng khiu, co quắt do bệnh tê liệt từ hồi nhỏ. Hà Liên chậm chạp đi lên và An bỗng cảm thấy đau lòng. Một thiếu nữ đẹp, quyến rũ như người nữ sinh đang tiến về phía chàng bị một căn bệnh quái ác tàn phá một phần cơ thể. Đôi mắt đẹp kỳ lạ, đầy buồn thảm của nàng là bí mật của sự hồi hộp mỗi khi chàng vào lớp. Đôi mắt nàng đã theo dõi chàng, nhìn chàng đăm đăm, xoáy vào tâm hồn chàng và mặc dù không để ý đến trước kia, đã là nguồn giao động cho chàng phải phân tâm, một sức mạnh kỳ bí phủ vây lấy chàng làm chàng khó thở.
    An dạy học và tận tâm với nghề của mình, chàng không hề để ý đến các nữ sinh trong lớp dù đẹp đến đâu chăng nữa, nhưng Hà Liên là một trường hợp ngoại lệ. Có lẽ vì vẻ đẹp khác thường của nàng hoặc vì sự tật nguyền của nàng, An chú ý đến nàng nhiều hơn mỗi khi vào lớp dạy và sau vài tháng, chàng bắt đầu nhận ra sự sai lầm của mình. Niềm hồi hộp và phân tâm của chàng chỉ có tăng mà không giảm., An cảm nhận sự say mê của người con gái đối với chàng và tình yêu mãnh liệt qua cặp mắt của Hà Liên mỗi lần nhìn chàng làm An choáng váng và sợ hãi. An không muốn có những xúc động mạnh, chàng là một người chừng mực, nhất là trong vấn đề tình cảm. An ngại những cuộc phiêu lưu, những đam mê của người khác làm chàng bối rối và khó hiểu. Chàng muốn sống một cuộc đời bình thản, êm ả dù rằng cuộc sống đó có thể buồn nản thế nào đi chăng nữa.
    Hà Liên quả tình làm chàng khó xử. Chàng thương hại nàng vì sự tật nguyền của nàng và vẻ đẹp của nàng làm chàng bị lôi cuốn. Nhưng sự kỳ lạ trong cặp mắt của nàng và nỗi niềm đam mê như một cơn lốc cuồng phong diễn tả trong những bức thư kẹp trong bài nộp của nàng làm An e ngại. Tình yêu một chiều của nàng càng ngày càng lớn mạnh và An bắt đầu cảm thấy sợ những giờ toán chàng phải giảng dạy tại trường Chí Thiện. Chàng sợ đôi mắt của nàng, sợ ngọn lửa cuồng nhiệt trong luồng mắt theo dõi từng cử động của chàng, sợ sự say đắm của người con gái nghe từng tiếng giảng bài của chàng như lời Thánh Kinh. Và chàng nhận thấy tình trạng không thể kéo dài, chàng cảm nhận một sự nguy hiểm, đe dọa nào đó cho cuộc đời bình yên của chàng và điều tốt nhất với An theo chàng nghĩ là sự trốn tránh. Sau kỳ nghỉ Tết năm đó An viện cớ sức khỏe thông báo cho linh mục hiệu trưởng kiếm giáo sư khác thay chàng. An vẫn thường nghĩ về người thiếu nữ tật nguyền những năm sau đó. Đôi lúc chàng cảm thấy mình tàn ác. Chàng thắc mắt không hiểu Hà Liên sẽ ra sao sau khi chàng đột ngột nghỉ dạy nhưng chàng hy vọng nàng sẽ quên. Các cô gái mới lớn có lẽ cũng đều như vậy cả, yêu say đắm một lúc một thời rồi cũng sẽ phôi pha, nhạt nhòa và sẽ lấy chồng, đẻ con và an phận với cuộc sống. An nghĩ thế nhưng trong thâm tâm có một điều gì đó nơi Hà Liên làm chàng không tin như vậy. Và chàng thấy ngăn ở nơi ngực mỗi lần nghĩ đến mối tình đơn phương của người nữ sinh tật nguyền đối với chàng, một tình yêu chàng không thể đáp lại.
    Lần cuối An gặp Hà Liên là những ngày cuối tháng tư 1975 tại đảo Guam. An rời khỏi Việt Nam tương đối sớm sủa và tới Guam được đưa về một building ở tạm vài ngày trước khi sang Mỹ. Một buổi tối trong khi ngồi ăn tại phòng ăn rộng mênh mông của building tạm trú, An nghe vợ chàng nói nhỏ:
    -Anh xem có cô nào đang nhìn mình ghê quá!
    An quay đầu lại để vừa lúc thấy người thiếu nữ tật nguyền với chiếc nạng gỗ đang tiến về phía chàng.
    Nàng nói giọng nhỏ ấp úng:
    -Thưa thầy, em trước học trường Chí Thiện. Thầy có nhớ em không ạ?
    An buột miệng đáp ngay:
    -Cô Hà Liên. Tôi nhớ chứ!
    An thấy hối hận, chàng tự trách mình đáng lẽ không nên nhận nàng. An vừa thấy được niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt nàng và ánh mắt của nàng chàng lại thấy loé lên ngọn lửa si mê của ba năm trước. Nàng cười nói huyên thuyên, giọng ríu rít như chim hỏi thăm An, hỏi thăm người vợ mới cưới của chàng. An nói chuyện nhưng chàng tránh nhìn thẳng vào đôi mắt của nàng, sự cuồng nhiệt trong luồng mắt chàng thấy vẫn còn đó, và đằng sau tiếng cười, tiếng nói của Hà Liên, chàng cảm nhận niềm đau khổ và tuyệt vọng nơi nàng. Sự thương hại pha lẫn một chút sợ hãi bắt đầu xâm chiếm lấy An. Tình yêu mạnh mẽ của người con gái tật nguyền này hầu như không giảm đi chút nào với thời gian. An cảm thấy bối rối, cảm giác mình là nguyên cớ cho sự đau đớn của người khác, một điều chàng không bao giờ muốn nhưng không biết cách nào giải quyết.
    An thấy may mắn khi sáng hôm sau hai vợ chồng chàng được gọi tên để lên phi cơ sang Hoa Kỳ và chàng không hề gặp lại Hà Liên sau buổi đó. Một đời sống mới đang chờ đón chàng và An thấy không có lý do gì để chàng phải vướng mắc, bận tâm về Hà Liên. Xứ sở này quá rộng lớn, cuộc đời quá nhiêu khê, An nghĩ rằng chàng sẽ chẳng còn dịp nào để nghĩ đến Hà Liên, đừng nói đến chuyện gặp lại người con gái tật nguyền đã một thời hệ lụy trong tình yêu một chiều đối với người thầy giáo.

    * * *
    An nghĩ về những giấc mộng trong ba đêm vừa rồi. Chàng không thể tưởng tượng sau hai mươi năm, hình ảnh Hà Liên lại hiện về trong những cơn mơ vật vã như thế. Những cơn mơ như một đời sống thực sự với đầy đủ cảm xúc, âm thanh và hình ảnh của một cuộc sống thật. An ngẫm nghĩ và chàng chợt rùng mình. Tại sao những giấc mơ có thể nối tiếp nhau, như một cuộn phim tạm ngưng vào lúc chàng tỉnh dậy và quay tiếp vào đêm sau, vào đúng chỗ đứt đoạn của đêm hôm trước. Những giấc mơ bình thường không thể có sự liên tục như vậy, như một cuộc đời thứ nhì cho chàng trở thành sự thực trong cơn mơ với chàng và Hà Liên là vai chính. Và tại sao lại là Hà Liên, một kỷ niệm nhạt nhòa của hai mươi năm trước? Đời chàng đã có biết bao biến động, chàng đã có biết bao vết hằn lên tâm hồn và quá nhiều cảm xúc mãnh liệt để lại những ký ức khó phai mờ, tại sao một dấu vết nhỏ nhoi trong những nếp nhăn sâu thẳm của trí nhớ lại có thể chiếm ngự hoàn toàn những cơn mơ từ đêm này qua đêm khác và liên tục như thể muốn tạo ra một đời sống riêng trong tâm thức chàng?
    An nhận thấy một điều khác lạ khi chàng tỉnh giấc về hình ảnh của Hà Liên. Chàng nhớ Hà Liên là một cô gái tật nguyền với cả một bên chân trái bị hỏng vì bệnh tê liệt, nhưng trong giấc mơ, Hà Liên trở thành một người đi đứng bình thường và đẹp tuyệt vời, như tất cả những khuyết điểm nơi nàng đều đã bỗng dưng biến mất và những ưu điểm của nàng được trau chuốt để sáng chói hơn trước. Và những giấc mơ có cốt chuyện như một cuộc đời dành riêng cho Hà Liên và chàng, trong đó Hà Liên và chàng là đôi tình nhân với những gì đẹp đẽ nhất có thể xảy ra cho một đôi tình nhân. Hạnh phúc là chủ đề cho những giấc mơ của chàng với Hà Liên, như những cơn mộng liên tục của chàng đã là những gì mơ ước của Hà Liên, biến thành một đời sống thực trong những giấc mộng của An, một điều hoàn toàn ở ngoài ý muốn của chàng, và không để cho chàng có thể thay đổi, biến cải được.

    * * *
    An là một người giản dị, bình thường và chàng suốt đời ao ước được sống một cuộc đời bình thường, giản dị, không làm phiền ai và cũng không muốn ai làm phiền mình. Tuy nhiên có lẽ như tất cả những ước muốn về đời sống, những gì trái ngược là điều người ước muốn thường được nhận lãnh, An nhận thấy đời mình không thể gọi là bình thường và chàng đành chấp nhận. Những giấc mơ kỳ lạ đến từ khi chàng rời khỏi bệnh viện về nhà, sự việc chàng sống sót sau lần giải phẫu, tất cả là những điều không bình thường xảy đến trong cuộc đời đầy bất trắc của chàng và An không còn ngạc nhiên khi mở đống thư từ tích tụ hơn một tháng trời từ ngày chàng vào bệnh viện, An thấy một gói lớn gửi cho chàng, người gửi đề tên Phan Thị Hà Liên.
    Cuốn nhật ký Hà Liên gởi cho chàng khá dầy và An đọc một mạch. Đến đoạn chót, chàng phải đọc lại vài lần để hiểu sự gì đã xảy ra.

    Ngày... tháng... năm...
    Tại sao định mệnh có thể sắp đặt như vậy? Sau cùng mình cũng gặp lại được chàng. Đã mười chín năm từ ngày cuối thấy chàng lần chót ở đảo Guam, mình sung sướng biết bao khi trông thấy chàng, nhưng cũng đau đớn biết bao khi thấy chàng với người vợ mới cưới. Nhưng mình biết mình đau khổ là vô lý, có bao giờ chàng biết mình yêu chàng đến mực nào và có bao giờ chàng để ý để kẻ tật nguyền là mình. Bao nhiêu năm mình đã đi tìm chàng trên khắp đất Mỹ mà không hề bao giờ gặp. Mình cũng không hiểu tiếp tục đi tìm chàng làm chi. Gặp lại để làm gì? Chàng cũng sẽ không bao giờ để ý đến mình và mình vẫn mãi mãi mang sự đau khổ. Nhưng dù biết như vậy, có bao giờ mình nguôi ý nghĩ về chàng và có bao giờ mình ngưng đi dò hỏi, tìm chàng mỗi khi có cơ hội?
    Nhưng gặp lại chàng trong tình cảnh này có lẽ không hề gặp lại là điều hay hơn. Hoặc nếu chàng được đưa vào khu bệnh lý khác, không phải khu mình làm hồ sơ cho bệnh nhân thì có lẽ mình cũng không bao giờ biết chàng ở ngay trong bệnh viện này. Carol đưa cho mình hồ sơ đề tên Đặng Hoàng An để làm giấy tờ và mình giật nẩy người. Có lẽ một người trùng tên chàng. Nhưng không! Linh tính báo cho mình biết, bệnh nhân tên Đặng Hoàng An, 45 tuổi này chỉ có thể là chàng, và mình không nhầm. Mình chạy vội lên phòng hồi sinh cấp cứu và nhìn qua khung cửa kính, quả đúng là chàng. Và chàng đã hôn mê rồi! Chao ôi! Tại sao định mệnh có thể khắt khe như vậy. Mình đã đi tìm chàng khắp nơi trong 19 năm, có lúc nào mình ngưng ý nghĩ về chàng và giờ đây chàng nằm đó, sát với ngưỡng cửa của tử thần. Tại sao chàng có thể bị một thứ bênh tim gì độc hại như vậy được. Mình hỏi bác sĩ Gilbert, ông nói bệnh tim loại này không chữa được và ông nói chàng chỉ còn được vài ngày là nhiều.
    Mình đứng lặng người. Chàng chỉ còn sống được vài này nữa và không có cách nào cứu chàng thoát chết. Mình gặp lại chàng để nhìn chàng chết. Tại sao có thể như vậy được? Tại sao những bất hạnh tiếp tục đến với mình như vậy? Mười chín năm nay mình chỉ nghĩ đến lúc gặp lại chàng và mình sống cho giây phút đó. Giờ đây gặp lại chàng, chàng không thể nhận ra mình và cũng chỉ còn vài ngày. Định mệnh ơi, ta oán thù mi! Nhưng không được, ta không thể cho phép định mệnh dày vò ta như thế được. Ta phải thách đố định mệnh, ta phải cứu chàng. Nhưng ta làm được gì đây? Những bác sĩ giỏi nhất ở đây cũng phải bó tay rồi, một người làm giấy tờ, hồ sơ quèn như ta có thể làm gì được?

    Ngày... tháng.. năm..
    Mình đọc hồ sơ chàng mỗi ngày. Bệnh chàng càng lúc càng nguy kịch hơn. Hôm nay có một bác sĩ mới đến thăm bệnh. Ông này có ghi câu: “Chỉ có cách ghép tim, thay hẳn trái tim mới có thể cứu được”. Nhưng ông viết tiếp: “Người bệnh này không có ưu tiên và tình trạng nguy kịch hiện tại cũng không thể kéo dài cho đến lúc có thể tìm người chết thích hợp để ghép tim”.
    Mình suy nghĩ mãi về câu viết trong hồ sơ của bác sĩ Stevenson. Như vậy có cách cứu chàng. Nhưng thay quả tim bằng tim người mới chết là chuyện hãn hữu. Bệnh viện này có làm được chuyện ghép tim nhưng hiếm khi có được tim người mới chết thích hợp để ghép. Mình hỏi bác sĩ Stevenson, ông nói có đến hơn mười người đang chờ để ghép tim có ưu tiên. Ông nói phần lớn chết trước khi tìm được tim thích hợp để ghép. Như vậy chàng cũng không có hy vọng gì. Chàng chỉ còn vài ngày, làm sao có thể chờ đợi lâu hơn được?

    Ngày... tháng ... năm...
    Một ý nghĩ kỳ lạ vừa đến trong óc mình. Tại sao mình không nghĩ ra ngay. Mọi ý tưởng chợt đến cùng một lúc như một cơn chớp loé sáng. Mình biết mình sẽ phải làm gì. Và chàng sẽ sống. Chàng không thể chết được, chàng sẽ bắt buộc phải sống. Định mệnh ơi, ta sẽ đánh bại mi. Và ta sẽ sống mãi. Với chàng. Mãi mãi. Không bao giờ ngừng....

    * * *

    An ngồi đối diện với bác sĩ Stevenson, trước bàn làm việc của người bác sĩ giải phẫu tim nổi tiếng. Ông nhìn chàng chăm chú và nói:
    -Chúng tôi có thông lệ giữ kín danh tánh của người chết cho tim để ghép thay tim cho người khác nhưng trường hợp của ông là trường hợp đặc biệt. Vâng! Ông đoán đúng! Quả tim của người chết dùng cho ông là của cô Phan Thị Hà Liên. Ông là người may mắn lạ thường. Ông không có ưu tiên nào so với hơn mười người đang đợi để được ghép tim, tuy nhiên rất nhiều điều may mắn đã xảy ra cho ông. Cô Phan Thị Hà Liên là một nhân viên làm trong phòng hồ sơ ngay tại bệnh viện này. Trên đường lái xe đến bệnh viện làm việc, không hiểu lý do gì làm cô lạc tay lái đụng xe vào một cây cột đèn lớn cách đây hơn nửa dặm. Chỗ này cũng hay xẩy ra tai nạn nhưng trước giờ không có ai bị nặng như cô Hà Liên. Cô bị chấn thương nặng ở đầu và được đưa ngay vào bệnh viện này. Cô ngừng thở khi vừa đến phòng cấp cứu. Tuy nhiên vì trên bằng lái xe cô Hà Liên đã ưng thuận cho phép lấy các cơ quan của cơ thể cho người khác nếu bị tai nạn chết nên chúng tôi đã giữ cho quả tim của cô vẫn sống dù cô chết với óc hoàn toàn ngưng hoạt động.
    Chúng tôi đã bàn luận gay go về việc dùng quả tim của cô Hà Liên cho người bệnh cần thay tim. Tuy ông không có ưu tiên, nhưng trường hợp ông may mắn là loại máu và mô tế bào của ông phù hợp với các đặc tính của cô Hà Liên trong khi những người khác không thích hợp nên chúng tôi đã dùng quả tim của cô ta để thay cho tim ông. Cũng đúng lúc vì tình trạng của ông lúc đó không thể kéo dài hơn nữa. Chỉ cần chậm nửa ngày là chúng tôi cũng đành bó tay.
    Một điều khác nữa tôi chỉ nói riêng cho mình ông. Cô Hà Liên hỏi tôi nhiều lần về tình trạng bệnh lý của ông. Tôi không hiểu liên hệ giữa cô ta và ông như thế nào nhưng tôi nghĩ rằng mặc dù tai nạn xảy ra bất ngờ cô ta chắc hẳn muốn người được quả tim của cô là ông chứ không phải một người bệnh khác. Toi không biết rõ nữa, nhưng lúc bàn cãi về vấn đề này với các bác sĩ khác, tôi có cảm giác rất mạnh về ước muốn của cô ta dù cô Hà Liên đã chết. Một điều gì đó đã thôi thúc tôi phải quyết định như vậy. Và sự thích hợp về loại máu của ông là cái cớ để tôi thuyết phục các bác sĩ khác để bằng lòng việc thay tim cho ông.
    An thấy nhói ở ngực. Tim chàng, không, quả tim của Hà Liên đã mường tượng ra sự thể nhưng nghe chính bác sĩ Stevenson, người bác sĩ mổ thay tim cho chàng, chàng mới biết đích xác hẳn. An nghĩ đến những giấc mơ của chàng và chàng bàng hoàng. Hà Liên đã trở thành một phần của thân thể chàng, sống với chàng từng giây từng phút và cho chàng sự sống, giật chàng khỏi tay tử thần đã đứng đợi trước ngưỡng cửa. Nàng đã cho chàng tặng phẩm của tình yêu đích thực, cho chàng tình yêu kỳ diệu và lạ thường của nàng, chất chứa trong quả tim nàng, để biến thành chính quả tim chàng và tiếp nối sự sống cho cả hai người. An lặng người trước sự rộng lớn, bao la và sâu thẳm của tình yêu của người nữ sinh tật nguyền hơn 20 năm trước, chàng cảm thấy mình không xứng đáng với một tặng phẩm như vậy. Hà Liên đã cho chàng sự sống của nàng, cho chàng tình yêu của nàng để tiếp tục sự sống cho chàng và chàng đã không hề hay biết.
    An hít một hơi dài, tim chàng, tim Hà Liên trở lại nhịp đập bình thường. Ánh sáng từ khung của hắt vào căn phòng như bừng lên dọi vào mặt chàng. An bỗng dưng thấy một cảm giác bình yên lạ lùng. Chàng chợt nhớ đến những giấc mơ của chàng mỗi đêm. Hà Liên đã cho chàng tình yêu kỳ diệu của cả cuộc đời nàng và tiềm thức chàng đã đáp ứng, để chàng sống với nàng mỗi đêm trong những cơn mơ, để dâng hiến lại tình yêu cho nàng, cho một đời sống mới giữa chàng và nàng.
    An chợt thấy tâm hồn phủ đầy, những giấc mơ không còn là một đe dọa hay ám ảnh nữa và từ quả tim, những cảm xúc dâng lên ào ạt như một luồng sóng đổ, những hình ảnh của giấc mơ trở lại trong ý thức chàng, rõ rệt, sáng ngời. An biết rằng từ đây mỗi đêm chàng sẽ đi vào trong giấc ngủ yên lành để tiếp tục đời sống của Hà Liên và chàng, hòa hợp làm một như quả tim của chàng, của Hà Liên, mãi mãi sống trong một tình yêu bất diệt.

    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 10-10-2013 at 09:17 AM.

  2. #2
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Người Chồng Mất Tích

    Ba người đàn bà ngồi yên trong vị thế của mình và không nói một lời nào, họ quan sát lẫn nhau. Căn phòng thật im lặng tưởng chừng như có thể nghe tiếng thở của chính họ và của những người khác. Bầu không khí ngột và đè nén với những cái nhìn nghi hoặc, những dấu hỏi được đặt ra, những thắc mắc nặng nề phủ đầy phòng khách của ngôi biệt thự tráng lệ tọa lạc trong khu River Oaks sang trọng của thành phố Houston. Mỗi người đàn bà đến từ một nơi khác nhau đã được đưa thẳng từ phi trường Intercontinental về biệt thự này, trên những chiếc xe limousine màu đen dài ngoằng, có lẽ đi thuê từ một công ty chuyên cho thuê những loại xe này để đón những quý khách loại VIP từ phi trường. Những người tài xế da màu hoàn toàn không biết gì về ai đã thuê xe và cho có bị gặn hỏi cũng chỉ biết trả lời là có nhiệm vụ đưa họ đến ngôi nhà này tại River Oaks và ngoài ra không biết gì khác.
    Tường Liên là người đến đầu tiên và cũng từ nơi xa nhất. Nàng bay thẳng từ Paris sang thành phố Houston này, một nơi trước giờ nàng chưa hề đặt chân đến và cũng chẳng cần biết đến nếu nàng không nhận được bức điện tín ngắn ngủi ngày hôm trước. Bức điện tín chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Muốn gặp em ngay”, theo sau là ngày giờ và số chuyến máy bay từ Paris sang Houston. Và ký tên Đích, tên của người chồng nàng đã khai báo với nhà chức trách là mất tích từ hàng 14 năm trước.
    Tường Liên nhìn hai người đàn bà ngồi lọt thỏm trong những chiếc ghế bành vĩ đại và chắc hẳn cực kỳ mắc tiền đặt trong mỗi góc phòng. Trước mặt mỗi người là một ly nước trà đặt trên một chiếc kỷ khảm xà cừ. Nàng quan sát từng người. Họ đều trẻ hơn nàng và mặc dù hãnh diện với sắc đẹp của mình, Tường Liên phải công nhận người nào cũng đẹp, mỗi người mỗi kiểu, với vẻ giống chung của họ cũng như nàng, là vẻ lịch lãm của những người đàn bà Việt Nam giàu có, thành công và tự tin trong xã hội nước ngoài. Tường Liên không hiểu những người đàn bà này là ai? Không ai giới thiệu họ với nhau và lần lượt từng người mới đến được một người đàn bà Mễ mặc y phục như người quản gia mời ngồi và yêu cầu chờ đợi. Tường Liên có hàng ngàn câu hỏi nhưng nhìn cặp mắt và vẻ mặt đần độn của người quản gia, nàng biết hỏi nhiều cũng vô ích vì không có câu trả lời và chỉ còn cách chờ đợi.
    Đích và nàng lấy nhau năm 1976, vài tháng sau ngày rời bỏ Việt Nam sang tỵ nạn tại Pháp. Họ gặp nhau trong một bữa ăn ở nhà người bạn một ngày mùa đông đầu năm 76. Trong ngôi nhà xinh xắn ở ngoại ô thành phố Paris, Đích không rời mắt nhìn nàng và Tường Liên cũng bị người thanh niên với đôi lông mày rậm và cặp mắt dữ dội nhìn như soáy vào nàng thu hút ngay. Chàng tỏ tình với nàng trong đêm đó, trên đường lái xe đưa nàng trở lại Paris. Tường Liên làm lễ thành hôn với Đích hai tuần lễ sau mặc dù nàng vẫn không biết thêm được chút gì về người thanh niên đó. Tường Liên chỉ biết lờ mờ là Đích đi lính, tháng tư 75 chạy được và tỵ nạn tại Pháp. Chỉ có thế và nàng không biết gì hơn. Gia đình của chàng, đời sống của chàng trước kia tại Việt Nam, Đích không bao giờ hở môi và dù cho nàng có gạn hỏi, Đích cũng lảng sang chuyện khác.
    Họ làm giầu mau chóng sau khi lấy nhau. Chỉ hai tháng sau đó, Đích và Tường Liên đã mở một tiệm ăn trong một khu khá sang trọng của Paris và thành công ngay. Đích làm việc ngày đêm và chỉ hai năm sau, hai người đã mở thêm 3 tiệm ăn nữa ở các nơi khác. Chàng chăm chỉ làm ăn, không bạn bè và cũng không màng chuyện ăn chơi, hưởng lạc. Tường Liên đôi lúc nghĩ chàng chỉ thích tiền. Nàng thấy chàng đếm tiền thu được mỗi tối, cẩn thận xếp vào từng gói rồi cho vào trong cặp đi ra nhà băng, mặt mày nghiêm trọng và nàng thấy buồn cười. Tường Liên cũng ham làm giầu nhưng nàng không muốn thái quá. Nàng muốn được tiêu pha, gặp người này người khác, cho mọi người biết sự thành công của vợ chồng nàng nhưng Đích hầu như không màng tới. Nàng nghĩ thú vui của chàng có lẽ là lúc nhận được giấy nhà băng gửi mỗi tháng, hí hoáy cộng trừ và vui vẻ khi thấy số tiền trong trương mục tăng lên vùn vụt. Tường Liên đoán có lẽ Đích chỉ có một đam mê duy nhất là kiếm tiền, ngoài ra chàng không muốn gì khác.
    Cả với nàng nữa, Tường Liên không hiểu Đích có thật sự yêu mình không, hay chàng chỉ muốn có một người vợ để cùng chàng làm ăn. Chàng cũng không tha thiết gì chuyện có con. Tường Liên muốn tạo dựng gia đình với hai ba đứa con, nàng muốn một đời yên phận, bình thường nhưng Đích hầu như muốn tránh có con với nàng. Tường Liên không hiểu nữa, nàng yêu chàng nhưng nàng bắt đầu cảm thấy ngột ngạt vì công việc và sự ham mê làm giầu của chàng.
    Có lẽ Đích không bình thường, đôi lúc Tường Liên thầm nghĩ. Hoặc giả chính nàng không bình thường, nhưng chắc không phải. Người nào chả ham tiền nhưng có điều gì đó trong sự quyết tâm làm tiền của Đích làm nàng cảm thấy có điều không ổn. Linh tính báo cho nàng biết sẽ xảy ra một chuyện gì và linh tính nàng không nhầm.
    Tối đó sau khi đóng cửa tiệm về, Đích vui vẻ hơn thường lệ. Tiền thu vào càng ngày càng tăng và chàng nói với nàng có thể sẽ mở thêm một tiệm nữa. Tường Liên lắc đầu không nói nhưng nàng biết tính chàng, và nàng không cảm thấy hào hứng gì khi nghĩ đến công việc một ngày một nhiều. Đích nói một câu hơi lạ nhưng lúc đó nàng không để ý. Chàng không nói chúng ta nhưng nói nàng phải mở thêm tiệm. Tường Liên sau này nhớ lại mới thấy rằng câu chàng nói là câu nhắn lại cho nàng.
    Đích ăn nằm với nàng đêm đó sôi nổi và cuồng nhiệt như những ngày mới cưới làm nàng ngạc nhiên. Đã lâu lắm nàng mới thấy chàng như vậy. Có điều gì đó khác lạ nhưng nàng không thể đoán ra được. Và câu trả lời đến với nàng ngay nửa giờ sau đó. Đích theo thói quen với tay lên đầu giường tìm bao thuốc lá. Bao thuốc trống rỗng. Chàng nói với nàng đi ra đầu ngõ để mua thuốc hút. Đích bận quần áo ra khỏi cửa nói sẽ trở về mấy phút sau. Và chàng không bao giờ trở lại. Tường Liên vừa sợ hãi vừa tức giận. Nàng không hiểu tạo sao. Đích biến mất, ra khỏi đời nàng như chưa bao giờ gặp nàng. Không một lời giải thích, không một dấu hiệu gì báo trước. Như một kẻ qua đường. Chừng như 4 năm của cuộc sống vợ chồng chỉ như một đêm. Và tài sản hai người đã tạo dựng lên nữa. Đích lấy đúng một nửa số tiền trong trương mục của hai vợ chồng, để lại nàng một nửa. Nhưng chàng chỉ lấy ra tiền mặt. Các cửa tiệm đều đứng tên nàng, nhà cửa, mọi sự đều y nguyên. Chàng đã sửa soạn trước. Từ bao lâu nàng không rõ. Nhưng chàng đã rời nàng, với nửa số tiền mang đi, đột nhiên mất tích, không để lại dấu vết nào.
    Đêm đó, đợi cả tiếng không thấy Đích về, nàng sợ tai nạn xảy ra cho chàng. Nàng gọi cảnh sát, gọi cấp cứu, gọi tất cả những người quen. Không ai biết chàng đi đâu. Cảnh sát cũng không tìm được tung tích chàng. Điều tra kéo dài cũng vô ích, sau cùng cảnh sát xếp hồ sơ và ghi tên chàng vào danh sách của những kẻ mất tích. Trên phương diện giấy tờ chàng được coi như một kẻ đã chết. Tường Liên biết chàng vẫn còn sống, ở đâu đó, đã rời bỏ nàng không một lời. Và nàng đành chấp nhận để lập lại cuộc đời mới. Nhưng nàng không hiểu tại sao? Trong suốt mười mấy năm qua! Và nghĩ rằng có lẽ nàng sẽ không bao giờ có câu trả lời.

    ***

    Vi nhìn hai người đàn bà trong phòng khách và nàng thầm so sánh mình với họ. Một người trông lớn tuổi hơn nàng, chắc phải trên 40 một chút. Nhưng trang điểm và y phục lộng lẫy đã làm tăng vẻ đẹp chín mùi của người đàn bà này, ít người có thể dám đoán tuổi và cho là đã đến hơn 40. Vi mỉm cười. Không ai có thể che giấu tuổi với nàng được. Nàng đã quá tường tận về cách làm đẹp. Mỗi lứa tuổi của đàn bà có một cách sửa soạn khác nhau. Một kiểu đánh phấn, một loại son môi, loại nước hoa nào đó và sau cùng là cách ăn mặc và loại hàng. Vi ghi nhận từng điểm một và nàng có thể biết người trước mặt mình bao nhiêu tuổi, hạng người nào, học vấn cỡ nào. Nàng thường kiêu hãnh về cách nhìn người của nàng và quả tình nàng ít khi nào sai.
    Người đàn bà thứ nhì nhỏ hơn nàng. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong 3 người ngồi trong căn phòng khách này. Nhỏ tuổi hơn cả nhưng không kém phần sắc sảo, tinh anh. Vi không hiểu lý do có mặt của hai người đàn bà khác lạ đến gần như cùng một lúc với nàng tại ngôi biệt thự này. Do những chiếc limousines dài ngoằng màu đen đưa quý khách đến từ phi trường lớn. Vi bay đến từ Los Angeles. Nàng đã sửng sốt đến cực độ khi nhận được tấm điện tín cho nàng ngày giờ và số chuyến bay từ Los Angeles sang Houston. Và chỉ vỏn mấy chữ: “Cần gặp em”. Dưới ký tên Huấn.
    Không có người đàn ông nào nàng đã yêu như Huấn và cũng căm thù như Huấn. Vi gặp Huấn trong một buổi ra mắt sách của một nhà văn tại một quán cà phê trên đường Bolsa. Năm đó là năm 1980. Một đêm bắt đầu vào thu với cái lạnh gây gây và dễ thương của quận Cam. Trong bóng tối mịt mù khói thuốc của quán cà phê và giữa những tiếng ồn ào, một người bạn đã giới thiệu nàng với Huấn. Và nàng đã bị lôi cuốn ngay. Huấn có một sức thu hút mạnh bạo, dữ tợn như mùi nồng của con ngựa đực trên cánh đồng cỏ hoang. Nàng không thể rời mắt khỏi chàng được. Và đêm đó nàng đã theo về với Huấn. Dễ dàng như thể nàng là một cô gái nhẹ dạ, sẵn sàng đi theo chàng trai đầu tiên đi qua nhà. Vi không hiểu nổi chính nàng. Nàng đẹp, khôn ngoan, tính toán và cao ngạo với đàn ông. Bao nhiêu người chạy theo cầu xin tình yêu với nàng và nàng không hề để ý đến. Điểm gì nơi Huấn đã khiến nàng ngã vào vòng tay chàng không điều kiện như vậy. Vi không bao giờ cắt nghĩa được điều đó.
    Nàng và Huấn làm lễ thành hôn mau chóng sau đó. Trước khi nàng có dịp hỏi về chàng. Nàng gần như hoàn toàn không biết một chút gì về chàng, về quá khứ của chàng. Vi đã cười biết bao nhiêu người bạn lấy chồng để mấy tháng sau ngã ngửa người khi khám phá ra rằng người chồng vừa cưới đã có vợ và một bầy con còn kẹt lại ở Việt Nam. Nàng đã tự nhủ thầm không bao giờ để cảnh đó có thể xảy ra với nàng. Và nàng đã làm đám cưới với Huấn không hề hỏi câu bắt buộc phải hỏi như nàng đã tự nhủ mình. Như thể nàng đã cố tình quên đi sự khôn ngoan, tính toán của nàng. Như thể tình yêu đến, nàng phải chụp lấy ngay kẻo xổng cương vuột mất.
    Vi nghĩ rằng nàng chọn chồng không nhầm. Vì Huấn là một người tài giỏi. Chàng giầu có và làm ăn lớn. Vi không bao giờ hỏi chồng trước khi lấy nàng, chàng đã tạo dựng sản nghiệp như thế nào, và chắc hẳn Huấn cũng sẽ không bao giờ nói cho nàng biết. Huấn buôn bán đất đai nhà cửa. Với kinh tế của California khoảng thời gian đó, giá nhà, giá đất tăng vùn vụt như không bao giờ biết ngừng nghỉ, Huấn đã làm giàu lớn với tài khéo léo tìm đúng chỗ, đúng địa điểm của chàng. Chàng đầu tư vào những vùng đất hoang vu, hẻo lánh để rồi khi các công ty xây nhà phát triển tới vùng đó, chàng bán lại với giá gấp cả chục lần. Những khu apartments chàng mua để sang sửa lại chỉ một hai năm sau đã bán lại với giá gấp đôi gấp ba.
    Vi phụ chồng một cách đắc lực và cũng hăng say như chàng trong việc làm giầu. Hai vợ chồng nàng đã trở thành một trong những người giàu có nhất trong số những người tỵ nạn tại quận Cam. Có lẽ trong tất những người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ nữa. Vi hãnh diện với sự thành công của vợ chồng nàng và nàng thấy đời nàng có lẽ đã gần đầy đủ.
    Vi chỉ thấy “gần” thôi vì một điều nàng mong muốn nhưng không được. Nàng không có con. Không phải là nàng không thể có con được. Nàng đã đi khám bác sĩ để chắc chắn điều đó. Huấn là người cường tráng, nàng cũng không bao giờ nghĩ rằng chàng là người không thể có con. Nàng biết hai người không có con vì Huấn muốn vậy. Chàng giữ đủ cách để ngừa thai. Thời gian đầu mới lấy, chàng bắt nàng uống thuốc ngừa. Đến khi biết nàng đã tự ý bỏ không dùng thuốc, chàng không nói gì nhưng đã cẩn thận hết sức để nàng không thể có bầu được. Vi chỉ còn cách cầu mong để một ngày Huấn thay đổi. Huấn không bao giờ giải thích tại sao. Vi nghĩ rằng có lẽ suốt đời nàng cũng không bao giờ có thể hiểu được.
    Ngoài ước muốn có con mà chưa đạt được, Vi cảm thấy đời nàng hạnh phúc. Huấn chiều nàng và kính trọng nàng. Sản nghiệp bây giờ đã lên đến mức vĩ đại của hai vợ chồng nàng cũng do công nàng một phần lớn. Huấn chăm chỉ nghĩ cách làm giầu thêm và không hề nghĩ đến chuyện chơi bời, hưởng thụ. Nàng có thể tin tưởng rằng Huấn chưa bao giờ phản bội nàng.
    Và sau 6 năm chung sống, một ngày Huấn đột nhiên biến mất. Không một dấu hiệu báo trước, không một nguyên cớ gì. Hai vợ chồng nàng hòa thuận, yêu thương nhau như một đôi nhân tình. Không một chuyện cãi cọ nào. Không bóng dáng của một người đàn bà nào khác. Càng không phải chuyện tiền bạc. Vi không thể hiểu và không thể ngờ là Huấn rời bỏ nàng. Như một kẻ mất tích. Buổi sáng hôm đó, sau khi ân ái với nàng, Huấn vẫn thường đùa là ăn điểm tâm, chàng nói với nàng đi ra đầu đường để mua bao thuốc lá Dunhill chàng vẫn quen hút. Huấn vẫn thường hút thuốc mỗi khi yêu nhau xong như vậy và chàng phải ra đúng chỗ người bán thuốc quen để mua. Chàng mở cửa ra đi và đó là lần cuối Vi thấy chồng nàng.
    Huấn để lại cho nàng tất cả mọi sự, chỉ mang đi đúng nửa số tiền hai người có trong trương mục và chiếc xe BMW. Nhà cửa, xe cộ, bất động sản khác, tất cả đều để lại cho nàng. Chàng không để lại một dấu tích gì mặc dù Vi đã thuê những văn phòng thám tử tư nổi tiếng nhất để truy dò tung tích Huấn. Chưa kể đến sự điều tra của cảnh sát. Huấn mất tích thật sự. Tuy sự mất tích của chàng đã được chính chàng sửa soạn trước. Vi và mọi người cũng chỉ biết có thế. Và không bao giờ hiểu được nguyên do.
    Cho đến ngày hôm nay, 7 năm sau, ngồi trong ngôi nhà tráng lệ này trong khu River Oaks của thành phố Houston Vi biết rằng nàng sau cùng sẽ hiểu được điều đã ám ảnh nàng từ bấy lâu nay. Sự mất tích của Huấn, chồng nàng.

    ***

    Jennifer nhìn hai người đàn bà Việt Nam ngồi trước mặt nàng và nàng ngạc nhiên vì vẻ đẹp của họ. Mặc dù là vợ Đức, một người Việt Nam, nàng hầu như không gặp một người Việt nào khác. Đức không giao thiệp với người nào cùng chủng tộc với chàng, tuy Jennifer biết có một số khá đông người Việt sống tại New York. Đức và nàng sống ở Long Island và vào làm việc mỗi ngày tại New York. Đúng hơn, ở Wall Street. Jennifer làm việc cho Salomon Brothers, một trong những công ty đầu tư lớn nhất của trung tâm tài chánh của nước Mỹ. Nàng làm trong phòng mua bán trái phiếu, bond trading, mua bán cho thân chủ hoặc cho chính trương mục của hãng Salomon những dịch vụ mua bán hàng trăm triệu đô la. Và Đức, chồng nàng là giám đốc của phòng mua bán trái phiếu cho Salomon, một chức vụ quan trọng của công ty đầu tư này. Quan trọng vì Đức có thể làm lợi cho công ty lời cả trăm triệu đô la hoặc ngược lại cũng có thể lỗ đến mức đó.
    Năm 1989, sau khi làm việc tại Salomon có 3 năm, Đức đã được cất nhắc lên làm giám đốc phòng mua bán trái phiếu, một điều chưa từng xảy ra tại Wall Street. Năm đó, Đức đã kiếm lời cho hãng một số tiền lớn nhất trong lịch sử của công ty. Tiền thưởng cuối năm cho Đức lên đến 1 triệu hai trăm ngàn đô-la, một con số kỷ lục. Và Jennifer đã không ngần ngại kết hôn với Đức trong mùa lễ giáng sinh năm đó. Jennider đẹp, quyến rũ nhưng cũng đầy tham vọng. Như những người trẻ tuổi làm việc tại Wall Street, sự thành công về tài chánh là tất cả mọi sự. Là ma lực hấp dẫn, là ý nghĩa của cuộc sống và cũng là khởi đầu cho tình yêu, định nghĩa bởi Wall Street. Vì thế Jennifer đã bị Đức hấp dẫn ngay. Người đàn ông ngoại quốc, đến từ xứ xa lạ bên kia bờ Thái Bình Dương nhưng có một tài năng kỳ lạ. Tài năng biết đúng lúc nào nên mua, lúc nào nên bán. Đối với Wall Street, tài năng hiếm có này được hoán chuyển ra tiền ngay, một cách dễ dàng. Và không phải là ít. Một triệu, chục triệu, trăm triệu là điều bình thường. Tình yêu đến với Jennifer từ sự thán phục tài năng của chàng và nàng đã dâng hiến cho Đức ngay để giữ lấy chàng. Và sau cùng để làm vợ chàng.
    Đức sau khi lấy nàng đã mua hẳn một ngôi biệt thự lớn, một loại mansion, ở Long Island để chung sống với nàng. Chàng càng ngày càng thành công lớn tại hãng Salomon. Những công ty đầu tư khác bắt đầu tìm cách chiêu dụ Đức để về làm việc với họ, đưa ra những chức vụ và quyền lợi thật hấp dẫn để Đức siêu lòng. Để giữ Đức ở lại, công ty của chàng phải chia tiền lời cho chàng càng nhiều hơn nữa. Jennifer nghĩ rằng chàng phải mặc cả để công ty trả cho chàng ít nhất từ hai mươi đến ba mươi triệu đô la một năm. Và nàng ngạc nhiên khi Salomon Brothers ưng thuật ngay!
    Jennifer hài lòng với cuộc sống của nàng và Đức. Đức trở thành một người có uy tín và ảnh hưởng nhất tại Wall Street, tiền bạc hai vợ chồng nàng kiếm được như nước vì ngoài số lương và tiền thưởng mỗi năm cho hai vợ chồng nàng tại Salomon Brothers, Đức còn dùng tiền để dành của hai người chơi stock. Với tài đầu tư của Đức, tài sản của chàng và nàng mỗi năm tăng lên từ 50% đến 80% một năm. Jennifer không còn ước mong gì hơn. Và nàng cầu mong để mọi sự cứ như thế mà trôi chảy.
    Không phải chỉ một mình Jennifer mà tất cả cộng đồng đầu tư tại Wall Street, những người bạn làm brokers, những ông giám đốc, phó giám đốc v.v.. của các công ty đầu tư, không ai hiểu được tại sao Đức đột nhiên mất tích. Một ngôi sao sáng chói lọi như Đức, tiền bạc kiếm vào nhiều như những huyền thoại về đầu tư của Wall Street, bỗng nhiên bỏ tất cả để ra đi. Không một dấu vết, không một tăm hơi. Như thể tiền bạc không còn ý nghĩa gì nữa. Điều trái với luật lệ tự nhiên của thành phố này.
    Jennifer như điên cuồng. Người chồng của nàng đột nhiên mất tích, người chồng đã đem lại cho nàng tất cả, danh vọng, tiền, uy thế trong xã hội thượng đỉnh này tại New York. Đức bỏ ra đi sau một đêm ân ái với nàng. Lấy cớ đi ra ngoài mua thuốc lá và biến mất, không còn ai có thể tìm được tung tích. Nhưng nàng cũng được an ủi. Đức lấy ra nửa số tiền chung của hai vợ chồng và để lại cho nàng nửa số còn lại. Và nửa phần tài sản là một con số khổng lồ.
    Jennifer nghĩ rằng suốt đời nàng sẽ không bao giờ hiểu được lý do Đức rời bỏ nàng và mất tích khó hiểu như vậy. Cho đến lúc nàng nhận được điện tín của Đức với vé máy bay từ La Guardia tới phi trường Intercontinental ở Houston. Và nàng ngồi đây, với hai người đàn bà lạ mặt khác. Để sau cùng biết được tin tức của Đức, chồng nàng.

    ***

    Cà ba người đàn bà cùng đứng dậy khi người quản gia Mễ ra dấu cho họ. Bà ta đưa Tường Liên, Vi và Jennifer vào cùng một lượt qua một hành lang dài đến một căn phòng rộng như một sảnh đường. Căn phòng đóng kín cửa, chỉ có một ngọn đèn nhỏ đặt ở góc phòng, mờ ảo. Ánh sáng lung linh như ẩn như hiện. Ba người đàn bà bước vào trong phòng và họ cùng đứng sững, thảng thốt. Tường Liên đưa tay lên bụm miệng để giữ tiếng kêu. Vi vịn cả hai tay vào chiếc cột đồng gần cạnh để khỏi ngã. Jennifer mắt nhìn trừng trừng, kinh hoàng. Giữa phòng là một chiếc quan tài lớn, chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Hoa chất đầy chung quanh quan tài. Dưới chân quan tài là một bức hình lớn với khuôn mặt của một người đàn ông linh hoạt và cặp mắt dữ dội.
    Tường Liên cất tiếng kêu: “Anh Đích”. Vi và Jennifer nhìn nhau. Miệng hai người cùng mở để gọi tên chồng của mình: “Huấn”, “Đức”.
    Cả ba người đàn bà bây giờ cùng nhìn nhau. Sự kinh hoàng nhường chỗ cho ngạc nhiên, sửng sốt. Họ định bắt đầu mở miệng để hỏi thì người quản gia đã ra dấu cho mỗi người lại một phía của góc phòng. Mỗi góc có một màn ảnh TV rất lớn trên tường. Một chiếc ghế bành rộng đặt ở dưới chân màn ảnh. Người quản gia đưa cho mỗi người ống nghe gắn trên đầu hình bán nguyệt và ra dấu cho Tường Liên, Vi và Jennifer về mỗi phía của góc phòng có tên sẵn của mỗi người.
    Hình ảnh của người đàn ông chợt xuất hiện trên khung ảnh. Ba người đàn bà đeo ống nghe vào tai và mỗi người nghe tiếng của chồng mình nói trong cuộn băng video:
    “Em tha lỗi cho anh. Khi em nghe tiếng anh nói trong cuộn video này, anh đã không còn trên thế gian này nữa. Anh không dám gặp mặt em trước khi anh chết vì anh đã có lỗi với em quá nhiều. Anh không dám xin sự tha thứ cho anh vì anh biết anh không đáng được em tha thứ. Anh đã sửa soạn để gặp em trong khung cảnh này sau khi anh được biết bị ung thư gan và không còn bao lâu để sống. Nhưng anh không có can đảm nhìn em khi anh còn sống. Và chỉ có cái chết như Thượng Đế đã trừng phạt anh mới rửa được tội của anh và để cho anh được gặp lại em, một ngày sau khi anh qua đời.
    Anh không biết bắt đầu ra sao để giải thích hành vi của anh. Anh chỉ hy vọng em hiểu cho anh phần nào thôi. Vì chính anh cũng không hiểu nổi anh. Khi từ Việt Nam sang đây, anh đã trải qua không biết bao lần gần gũi cái chết trong đường tơ kẽ tóc. Cuộc chiến đã lấy đi rất nhiều người bạn thân của anh, những người đã cùng anh sống chết có nhau. Mỗi cái chết của mỗi người bạn đó anh coi là cái chết của chính anh. Những lần thoát chết đó và chứng kiến cái chết của bạn, anh đã có một ý tưởng kỳ lạ. Là nếu anh không chết và thoát thân được sang đến mảnh đất tự do này, anh sẽ sống nhiều hơn một cuộc đời. Cho ba người bạn thân nhất đã chết của anh, Đích, Huấn và Đức. Anh sẽ sống nhiều cuộc đời, mỗi người bạn một cuộc đời, đầy đủ, như bạn anh đã muốn sống như vậy.
    Anh gặp em, Tường Liên và anh biết rằng nếu Đích còn sống, Đích sẽ yêu một người như em. Nên anh đã là Đích, để yêu em và có một cuộc đời với em, như Đích sẽ có một cuộc đời như vậy. Và Huấn, bạn anh nếu gặp Vi, Huấn sẽ yêu em với tất cả say đắm và cuồng nhiệt của Huấn. Cuộc đời của Huấn anh đã sống, với em, Vi, và anh đã là Huấn để yêu em với tất cả tình yêu của Huấn, cũng như là của anh. Jennifer, anh là Đức, chồng của em, người em yêu nhưng cũng là Đức, người bạn đã chết của anh, người bạn lãng mạn yêu một bóng hình trên màn ảnh của Audrey Hepburn. Jennifer, em có dáng dấp nào đó như thế và anh biết rằng Đức nếu còn sống, Đức sẽ yêu em như anh đã yêu em trong mấy năm qua.
    Anh không biết nữa, anh đã sống những cuộc đời cho ba người bạn thân nhất đời của anh, những người bạn trẻ tuổi đã chết trước khi có một đời sống. Nhưng anh lúc nào cũng yêu em, dù anh là Đích, là Huấn, hay là Đức. Sự mất tích của anh đã làm em đau khổ. Anh biết điều đó và anh suốt đời ân hận vì chuyện đó. Nhưng một điều gì đó đã bắt anh không thể làm khác được. Những sự xui khiến đã đến từ một chỗ vô hình nào đó. Anh biết điều anh làm không nên không phải và anh vẫn cảm thấy bắt buộc phải làm.
    Có lẽ Thượng Đế đã trừng phạt anh. Người ta không thể vì những lời thề với những người bạn đã chết để làm đau khổ cho người khác. Nhất là đối với em Tường Liên. Vi cũng như Jennifer. Khi em nghe tiếng anh trên màn ảnh này là lúc anh đã gặp lại các người bạn của anh. Và anh xin em tha lỗi cho họ. Tường Liên, em tha lỗi cho Đích. Vi, em tha lỗi cho Huấn. Jennifer, em tha lỗi cho Đức. Vĩnh biệt em.

    ***

    Người đàn ông nằm dài trên bãi cát của hòn đảo Aruba. Bên cạnh là một người đàn bà đẹp tuyệt vời của xứ Venezuela kế cận, nơi sinh trưởng của những người đàn bà Nam Mỹ đẹp nhất thế giới. Người đàn ông nhìn vùng biển trong xanh như màu ngọc turquoise và nghĩ đến chiếc quan tài trong ngôi biệt thự River Oaks của thành phố Houston, chiếc quan tài trống rỗng giờ đây đang được ba người vợ của chàng cho hạ huyệt. Người chồng mất tích bây giờ đã được tìm thấy, đã được vùi chôn trong lòng đất lạnh, cùng với bí ẩn và lời thề của những người bạn trong toán biệt kích Lôi Hổ năm xưa. Người người đàn bà góa phụ đã có thể an lòng trở về Paris, Los Angeles hay New York để tìm một đời sống mới, không ràng buộc bởi những ám ảnh về người chồng mất tích đã yêu họ, đã rời bỏ họ và giờ đây đã vĩnh viễn cởi bỏ cho họ mối giây ràng buộc cuối cùng.
    Người đàn ông nhìn người vợ mới cưới của xứ Venezuela và mỉm cười. Đàn bà xứ này đẹp nhất thế giới. Chàng đã nói với Đích, Huấn và Đức như thế trong một đêm hành quân tại mật khu địch 20 năm về trước, nửa tiếng đồng hồ trước khi lằn đạn AK47 cắt ngã ba người bạn thân nhất của chàng. Chàng nhớ đến cuộc đời ba người bạn của chàng đã sống trong 18 năm qua. Giờ đây có lẽ đến lúc mình sống cho chính mình. Chàng thầm nghĩ và quay sang hôn trên làn môi nóng bỏng của người vợ mới cưới đêm qua tại Caracas, thủ đô của xứ Venezuela, nơi có những người đàn bà Nam Mỹ đẹp tuyệt vời và đa tình nhất trên thế giới.

    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 10-10-2013 at 09:18 AM.

  3. #3
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐÊM GIAO THỪA

    NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG

    Chương bàng hoàng khi nghe tiếng người đàn bà nói qua đầu giây điện thoại: “Chúng ta gặp nhau đêm giao thừa 20 năm trước…”

    Giọng nói này chàng có bao giờ quên được. Không một ai trên đời này có giọng nói của nàng, đã đi sâu vào đáy cùng của ký ức sâu thẳm của chàng, nằm đó như một con rắn cuộn mình trong hang, thỉnh thoảng trườn mình ngửng đầu xuất hiện trong những cơn mê thiếp bằn bặt suốt 20 năm qua. Chương quả thật nhiều lúc ngạc nhiên cho chính mình vì ký ức đó. Chàng chỉ biết nàng trong một đêm duy nhất, tưởng chừng cũng sẽ dễ dàng lãng quên như bao người đàn bà khác chàng từng biết, nhưng không, một điều gì đó rất đặc biệt nơi nàng đã gắn chặt vào tâm khảm như một thứ keo thần diệu, không cách gì dứt bỏ được.

    Chắc hẳn là vì giọng nói, nhưng tiếng nói có lẽ chỉ là xúc tác, dẫn dắt đến một nguyên cớ bí ẩn hơn nhiều, đã buộc chặt hình ảnh người đàn bà vào ký ức chàng như vậy. Nàng đẹp vừa phải, không quyến rũ, lộng lẫy như nhiều người đàn bà khác trong buổi dạ vũ năm đó. Chương được một người bạn dẫn đến dinh thự của một tướng lãnh cao cấp tổ chức tiệc tất niên đêm giao thừa và trong những người đàn bà sang trọng của thành phố Sàigòn ăn chơi, xa hoa như không bao giờ biết đến chiến tranh, chàng để ý đến nàng ngay. Nàng đứng một mình trong góc phòng, tay cầm ly rượu nhỏ, chăm chú nhìn đám đông khiêu vũ từng cặp, một vẻ gì đó nơi nàng đã thu hút Chương khiến chàng không thể dời mắt khỏi nàng.

    Có lẽ là vẻ buồn bã trên khuôn mặt nàng, một nét buồn dịu dàng, xa xôi, lạc lõng trong khung cảnh nhộn nhịp, vui vẻ của buổi dạ vũ. Hoặc vì đôi mắt của nàng, trên khuôn mặt đẹp đơn sơ, trang nhã, đôi mắt quả thực tương phản kỳ lạ. Ánh mắt có những tia lửa của đam mê, buông thả nhưng đôi lúc bỗng trở thành giá lạnh vô hồn, như có sự gì dằn vặt, xâu xé đang diễn ra từng phút trong hồn nàng. Chương quan sát nàng một lúc lâu và càng lúc càng thấy sức hấp dẫn của nàng với mình. Chàng quyết định lại gần nàng để tự giới thiệu và làm quen. Phản ứng của nàng thật đột ngột và kỳ lạ làm chàng sửng sốt. Nàng nhìn chàng, mắt mở lớn, khuôn mặt như cứng hẳn lại, miệnh nàng hơi hé mở như định thốt lên một lời nào đó và kìm lại được. Nàng tiếp tục nhìn như xoáy vào chàng làm Chương khó khăn lắm mới nói nên lời:

    “Tôi là Chương. Tôi vừa được đi phép ở Pleiku về. Sàigòn không ngờ vui quá!”

    Chương tự rủa thầm trong bụng. Chưa bao giờ chàng thấy mình lố bịch và vô duyên như vậy, có khi nào gặp một người đàn bà lạ mà chàng mất tự nhiên và ăn nói kệch cỡm đến thế đâu. Nhưng nàng không để chàng ngượng ngùng lâu. Thái độ nàng thay đổi hẳn và nàng vui vẻ bắt chuyện với chàng, Chương được biết nàng tên Liên và chỉ có thế, nàng đánh trống lảng mỗi khi Chương hỏi về nàng trong khi nàng hỏi Chương thật cặn kẽ về đời sống của chàng ở Pleiku, về đơn vị của chàng và các cuộc hành quân. Chương có dịp quan sát nàng kỹ hơn trong lúc nói chuyện. Chàng đoán Liên khoảng 22, 23 tuổi, trang điểm một cách kín đáo phù hợp với vẻ đẹp của nàng, vẻ đẹp của một người sống nhiều về nội tâm và học thức cao. Chàng đoán Liên đã ra trường hoặc sắp xong đại học tuy nàng hoàn toàn không nói một chút gì về nàng.

    Chương tự nhiên thấy e dè, vẻ đẹp, lối nói, kiểu cách của Liên bỗng dưng cho chàng cảm giác nàng ở trong một thế giới nào khác, cao sang, cách biệt với đời sống của chàng, như không thể nào hoà hợp được và chàng thoáng thấy áy náy về chuyện đường đột không ai giới thiệu đã lại bắt chuyện làm quen với nàng. Chương ngạc nhiên thực sự khi nàng ngỏ ý muốn ra sàn nhảy. Chàng đã định nói thêm dăm ba câu rồi kiếu từ ra chỗ khác, sức hấp dẫn của nàng đối với chàng vẫn còn đó nhưng linh tính cho chàng biết rằng nàng không phải là người chàng có thể chinh phục được và Chương thấy không có lý do gì để đứng nán lại. Liên nói, giọng nói trở nên ngọt ngào lạ thường:

    “Tôi thích điệu nhạc này. Ông có muốn mời tôi nhảy bản này không?”

    Chương đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nàng nắm tay chàng trước khi Chương có dịp gật đầu và gần như kéo chàng ra sàn nhảy. Nàng ôm sát lấy chàng theo điệu nhạc và gục đầu vào vai chàng. Chương không thể tưởng tượng được sự thay đổi thái độ nhanh chóng đó, chàng nghĩ nàng là một người khó khăn, giữ gìn, nhiều phần không biết khiêu vũ đừng nói đến chuyện kéo chàng ra sàn nhảy trước. Tuy nhiên không phải vì thế Chương thấy giảm phần nể trọng nàng, chàng chỉ thấy sửng sốt, lạ lùng và tiếp tục giữ phần thụ động để xem phản ứng của nàng.

    Liên đòi chàng nhảy hết bản này đến bản khác. Nàng hầu như không biết mệt. Mắt nàng long lanh, má nàng ửng đỏ, nàng như một người say rượu dù Chương thấy nàng trước đó chỉ nhấp một chút rượu ngọt, không đủ để nàng thay đổi. Liên ôm lấy chàng theo tiếng nhạc, như một cặp tình nhân đã lâu hay như một cặp vợ chồng đã thuần thục. Những bản nhạc êm dịu, chàng nghe tiếng nàng hát nho nhỏ bên vai, âm thanh như tiếng hát cho chính nàng hoặc cho một ai khác.

    Chương nhận thức rõ ràng nàng khiêu vũ với chàng, nàng ôm chàng theo tiếng nhạc nhưng giọng hát thì thầm đó không phải để cho chàng nghe. Giọng nàng đặc biệt, hết sức đặc biệt, Chương cảm thấy bị lôi cuốn vào mê đắm vì giọng hát đó, huyền hoặc như từ đáy mồ vọng lên và chàng bỗng rợn người như nổi gai. Chàng thoáng ý nghĩ nàng có lẽ không thực. Nàng là ảo ảnh hay hồ ly tinh nào đó hiện ra quyến rũ chàng, đưa chàng vào một thế giới khác lạ, nơi đó đọa đày và hủy diệt sẽ chờ đón chàng. Chương tưởng nghe nhầm khi nàng nói nhỏ vào tai chàng lúc bản nhạc chấm dứt:

    “Anh đưa em về chỗ anh ở đêm nay”.

    ***

    Chương chở nàng trên chiếc xe Lambretta của người bạn về căn gác trọ trên đường Trương Minh Giảng của bạn chàng về thăm quê tại Hậu Giang đã để chàng xử dụng mấy ngày Tết. Nàng ôm lấy eo chàng chặt đến nỗi Chương cảm thấy khó thở, ngực nàng sát vào lưng chàng và làn hơi ấm làm chàng ngây ngất. Chương quen nhiều người đàn bà nhưng không ai làm chàng bị kích thích và ngạc nhiên như Liên. Chàng không thể tưởng được một người đẹp, học thức, cao sang như nàng lại táo bạo đến thế. Chàng mới biết nàng không đầy hai tiếng đồng hồ, đã nhảy với nhau như một cặp tình nhân sắp làm đám cưới và sau cùng đã để chàng, không, đã đòi chàng đưa nàng về chỗ chàng ở trong đêm giao thừa này. Chương thoáng có cảm giác sờ sợ. Nàng là hạng người nào? Gia đình nàng thế nào? Tại sao lại chọn chàng? Chương không tin mình đào hoa đến mức đó, chàng thấy mình không có gì đặc biệt. Và giọng hát thì thầm của nàng, đầy vẻ liêu trai, ma quái. Nàng hát cho ai nghe, nếu không phải cho chính nàng và chắc chắn không phải cho chàng.

    Chương đậu xe vào trong sân và đưa nàng lên thang vào căn gác lửng. Vừa khóa cửa xong và quay người lại, chàng choáng váng vì nàng ôm lấy cổ và hôn chàng những nụ hôn nóng bỏng. Mọi câu hỏi, thắc mắc tiêu tan trong khoảnh khắc, chàng chỉ biết đáp lại, say đắm và nồng nhiệt, để thời gian ngừng lại, để chỉ biết có nàng, để chỉ còn mình chàng và nàng trên cõi đời trong căn gác lửng dêm giao thừa năm đó…

    ***

    Trong hai mươi năm Chương không còn nhớ đã quay đi quay lại cuộn phim ký ức của đêm giao thừa kỳ lạ đó đến bao nhiêu lần. Chàng không thể nào quên được. Những xúc động do nàng đem lại cho chàng mãnh liệt quá, đã hằn sâu vào trí tưởng không cách gì gột rửa được, không phai nhòa được dù đời chàng trải qua nhiều biến động, nhiều sóng gió. Những hình ảnh đêm đó như đã được sắp xếp, lưu trữ cẩn thận, gói lại bằng một dấu hỏi làm chàng nhức nhối. Nàng là ai? Tại sao? Chương phỏng chừng Liên cũng không phải tên thật của nàng và thắc mắc, nghi vấn về nàng ám ảnh chàng mãi suốt cả cuộc đời chàng. Vì sáng hôm sau khi tỉnh giấc Chương thấy chỉ còn mình chàng trong căn gác lửng, nàng đã lặng lẽ đi ra khi chàng còn ngủ say, không để lại, một lời từ biệt, giải thích.

    Nàng yêu chàng suốt đêm, cuồng nhiệt và đam mê, như không còn đến ngày mai, như tất cả tình yêu dồn nén đã để dành cho chàng, như sợ chàng chỉ còn hiện hữu được trong giây phút đó, trong đêm đó mà thôi. Chương không hiểu được. Chàng đáp ứng lại nàng, chàng đón nhận tình yêu của nàng một cách ngạc nhiên pha lẫn sợ hãi. Chàng chưa bao giờ gặp một người như nàng và biết chắc chắn suốt cuộc đời chàng sẽ không bao giờ gặp một người đàn bà nào khác như nàng. Tình yêu của nàng kỳ lạ quá, mãnh liệt như một người chết đi vừa sống lại, phủ chụp lấy chàng, kéo dài như từ sự sống vào cõi chết và từ nỗi chết trở lại đời sống. Nàng làm chàng cảm thấy chới với, ngộp thở, tưởng chừng như đòi hỏi chàng phải dâng hiến tất cả, tâm linh và thể xác, cho nàng, để nàng xử dụng, không quyền từ chối. Chàng đã thiếp đi nhiều lần và trong cơn nửa tỉnh nửa mê vẫn thấy chàng yêu nàng như một người hồn lìa khỏi xác quan sát một người nào khác, là mình nhưng cũng không phải là mình, đang tiếp tục yêu đương.

    Một điểm Chương thắc mắc nhất và trong suốt hai mươi năm, mỗi lần nhớ lại nỗi thắc mắc lại càng tăng. Chàng nhge nàng gọi tên chàng nhưng lần thứ nhì chàng không biết đó là Chương hay là Tường. Âm hưởng hai tiếng gần giống nhau và quả thực nàng cũng chỉ biết tên chàng mỗi tối hôm đó. Lần thứ nhì nghe nàng gọi tên cũng là lần chàng vừa mơ hồ tỉnh cơn thiếp ngắn, để thấy nàng như đang nói chuyện với ai, hoặc người tên Tường nào đó, giữa lúc hai người đang yêu nhau và nàng chợt ngưng lại, như thể ý thức đang bị một người lạ bắt gặp.

    Chương không hiểu được, sau này những lúc hồi tưởng chàng có cảm giác như đêm đó có người nào khác cùng ở trong căn phòng chỉ có mình chàng và nàng, hoặc chàng đã biến thành một người nào đó trong một khoảnh khắc những lúc chàng thiếp đi và người đó chính là người nàng yêu đương một cách cuồng nhiệt, thê thảm và đầy tuyệt vọng.

    Buổi sáng hôm sau Chương tỉnh dậy mệt mỏi lạ thường, chàng như không còn chút hơi sức nào và ngạc nhiên, sợ hãi, thất vọng khi thấy nàng đã đi khỏi, chàng tìm cách dò hỏi về nàng suốt ba ngày Tết hôm đó nhưng không ai biết nàng là ai, ở đâu và ngay cả đến tên gì. Nàng đến trong đời chàng một đêm duy nhất và ra khỏi đời chàng ngay nhưng Chương không thể nào quên được. Những cuộc hành quân nguy hiểm, những lần sát với tử thần, những khó khăn của đời sống khi tỵ nạn sang Hoa Kỳ, cuộc đời chàng dần bằng yên phẳng lặng nhưng ký ức về nàng, về đêm giao thừa năm xưa vẫn còn đó không khi nào phai nhòa và nàng vẫn thỉnh thoảng xuất hiện lại trong những giấc mộng của chàng, quay đi quay lại hàng bao nhiêu lần cuốn phim của đêm giao thừa năm đó.

    ***

    Chương lái xe trên con đường ra vùng ngoại ô phụ cận thành phố theo lời chỉ dẫn của nàng. Sau hai mươi năm chỉ cần nghe giọng nói qua đường dây điện thoại, chàng nhận ra ngay, chừng như hai mươi năm chỉ là một đêm và nàng đã gọi lại chàng ngay sáng ngày hôm sau. Nàng không nói gì nhiều, chỉ nói muốn gặp lại chàng và cho chàng địa chỉ nhà. Chương không thể ngờ được sau cùng chàng sẽ gặp lại nàng, và nàng ở ngay vùng ngoại ô thành phố chàng đang sống.

    Chàng dọn về đây được gần hai năm và vì tham dự vào hoạt động của cộng đồng người Việt, tờ báo Việt ngữ địa phương gần đây có đăng bài phỏng vấn chàng với hình ảnh và có lẽ nàng đã nhận ra chàng nhờ thế chăng? Lý do tại sao nàng biết chàng ở đây và liên lạc lại với chàng sau hai mươi năm. Chương thấy cũng không cần tìm hiểu cho lắm. Chàng chỉ thấy náo nức, xôn xao và rung động thật nhiều khi nghĩ đến nàng. Hai mươi năm đã qua hình ảnh của nàng vẫn rõ mồn một, chàng muốn gặp lại nàng và hỏi nàng muôn vạn câu hỏi dồn nén trong trí tưởng suốt thời gian qua. Chương đạp ga xe gần hết tốc độ để mau đến nhà nàng.

    Chương bấm chuông cửa và hồi hộp đứng đợi. Một người đàn bà già nua trông vẻ như một người giúp việc ra mở cửa và mời chàng vào. Chương tiến vào phòng khách và chàng đột nhiên đứng sững lại. Chàng vừa nhìn thấy trên bàn thờ để giữa phòng khách một bức hình của chàng hồi còn trẻ, không một bức hình của một người rất giống chàng. Nếu nhìn thoáng có lẽ ai cũng tưởng là chàng hay anh em sinh đôi với chàng. Chương tiến lại gần nhìn kỹ, sự khác biệt chỉ có một chút ở mắt, khóe miệng và kiểu tóc cắt ngắn của người trong hình, nếu không có lẽ chính chàng cũng sẽ nghĩ đây là hình ảnh của chàng năm 25, 26 tuổi. Chương quan sát kỹ hơn nữa và chàng bỗng rùng mình. Hàng chữ dưới bức ảnh là tên của người chết: Trung Úy Phạm Vũ Tường 1946-1971. Chương lặng người. Chàng mơ hồ đoán một sự gì ghê gớm lắm đã xảy đến cho chàng trong đêm giao thừa 20 năm trước và giờ đây là lúc chàng sẽ biết tất cả sự thật về nàng, về đêm tình yêu kỳ lạ giữa chàng và nàng, về nỗi ám ảnh của chàng suốt 20 năm nay.

    Chương nhìn sang chiếc bàn nhỏ bên cạnh và chàng ngạc nhiên lần nữa. Trên bàn là bức hình màu của một thanh niên trước cổng trường Đại Học của thành phố, tươi cười, nét mặt là nét của chính chàng. Hay nét mặt của người trong hình? Chương không biết nữa. Đầu chàng thấy quay cuồng và chàng ngồi xuống chiếc ghế bành trong góc phòng. Bà cụ già giúp việc nhìn chàng ái ngại:

    “Ông có sao không? Để tôi lấy nước ông dùng. Cô nhà tôi hiện đang ở trong bệnh viện. Cô có dặn nếu ông đến đưa ông bức thư này”

    Bà cụ rút trong túi đưa bức thư cho chàng. Chương vội xé ra đọc:

    “Ông Chương,

    Sau cùng rồi chúng ta cũng gặp lại nhau. Điều không ngờ là chúng ta cùng ở một thành phố trên đất Hoa Kỳ này. Tôi đã tưởng sau đêm hôm đó chúng ta sẽ mỗi người một ngả và không bao giờ gặp lại. Quả thực, tôi muốn chúng ta không bao giờ gặp lại và ông sẽ chẳng bao giờ biết tôi là ai cũng như những gì đã xảy ra sau đêm đó.

    Giớ này chắc ông đã đoán biết một phần câu chuyện. Tường là chồng tôi. Chúng tôi quen nhau từ khi còn thơ dại, yêu nhau và lấy nhau, hạnh phúc như những cặp tình nhân hạnh phúc nhất trên đời này. Hạnh phúc có lẽ là điều không thể có nơi tôi vì một năm sau ngày thành hôn Tường tử trận để lại tôi một mình, đúng hai tháng trước ngày 30 Tết tôi gặp ông năm đó. Điều đau khổ nhất là tôi chưa có con với Tường, điều mà chúng tôi ao ước từng giây từng phút những ngày sống bên nhau. Có lẽ linh tính đã báo trước cho Tường, chàng mong mỏi có đứa con như người biết trước mình sẽ không còn bao lâu để sống. Chàng nói với tôi: “Anh muốn có một đứa con trai. Nếu số anh phải chết trận trước khi chúng ta có con, anh sẽ trở lại với em. Em có sợ anh không?” Dĩ nhiên tôi chỉ biết khóc khi nghe chàng nói thế. Ngày Tường chết, tôi đau khổ tưởng như có thể tự tử chết theo chàng ngay nhưng tôi không đủ can đảm. Điều dau đớn hơn nữa là tôi chưa có con với chàng, tôi không còn chút gì của chàng để bám víu lấy cuộc sống, cuộc sống thiếu chàng đối với tôi không còn lý do gì để níu kéo lại. Điều này dằn vặt tôi biết bao vì niềm ao ước của Tường chưa được thỏa nguyện.

    Đêm giao thừa gặp ông năm đó tôi đã có ý nghĩ tự hủy hoại vì tuyệt vọng nhưng khi thấy ông lần đầu mọi sự đối với tôi đổi khác hết. Vì ông giống Tường quá. Tôi không thể nào tưởng tượng được hai người không liên hệ với nhau có thể giống nhau đến thế được. Và điều tôi gặp ông ngay trong đêm tôi định tự tử có lẽ là số mệnh chăng? Hay lời nói gở của Tường trước khi chết đã trở thành sự thật.

    Tôi phải xin ông tha lỗi vì quả thật tôi có lỗi với ông nhiều lắm. Đêm đó tôi gặp ông nhưng đối với tôi ông là Tường đã trở lại cùng tôi để ước muốn của hai chúng tôi được thành tựu. Tôi theo ông về đêm đó và chúng ta yêu nhau, nhưng đối với tôi, tôi đã yêu chồng tôi đêm hôm đó. Tôi biết điều này làm ông phiền lòng nhưng thực sự là như vậy. Hai mươi năm nay tôi đã suy nghĩ nhiều về điều này và tôi không hiểu hoặc tôi không dám hiểu vì quả thực đêm đó ông là Tường. Không phải chỉ vì giống nhau bề ngoài một cách kỳ lạ đến thế, nhưng có những lúc giọng nói ông là Tường và những lời ông nói hay cử chỉ ông làm lúc đó là điều riêng biệt chỉ hai vợ chồng chúng tôi biết, không thể nào một ai biết những điều kín đáo đó. Tôi không tin là Tường trở về thực sự để giữ lời với tôi trước khi chết nhưng tôi không biết nữa. Chuyện ông giống Tường đến thế cũng là điều không thể tin được rồi huống gì ý nghĩ Tường trở về. Thực sự trong đêm hôm đó tôi hoàn toàn không thắc mắc gì về chuyện này, tôi không suy nghĩ gì cả và chỉ biết cám ơn số mệnh đã xếp đặt cho tôi gặp ông, gặp Tường.

    Thực tại trở lại buổi sáng hôm đó, trong khi ông còn ngủ, tôi tỉnh dậy để biết ông không phải là Tường và hổ thẹn cho chính mình, tôi bỏ đi không một lời từ biệt. Tôi không biết ông có nghĩ nhiều về đêm hôm đó không, hay đó cũng chỉ là một thoáng qua, một kỷ niệm qua đường đối với ông, nhưng đối với tôi, mọi sự thay đổi hẳn. Tôi mang thai sau đó và sinh con trai như điều Tường hằng mong ước. Tôi biết điều này làm ông phiền lòng, nhưng Lân, con chúng ta từ đêm giao thừa đó, tôi vẫn nghĩ về nó như con của tôi và Tường. Lẽ dĩ nhiên bề ngoài nó giống ông cũng như giống Tường nhưng những điểm khác, tôi không biết nói sao, là của Tường. Tôi sống với Tường qua Lân trong suốt hai mươi năm qua và nó cũng chỉ biết Tường là bố nó.

    Tình cờ đã khiến cho tôi biết được ông hiện đang sống ở đây và tôi khó nghĩ vô cùng. Tôi thấy sự công bằng không cho phép tôi giấu ông điều này về Lân cũng như lòng ân hận nếu tôi đã để lại một kỷ niệm nào đó nơi ông bắt buộc tôi phải liên lạc với ông và giải thích mọi chuyện. Điều khác nữa là tôi mắc bệnh nặng nhiều phần cũng sẽ không còn sống bao lâu nữa. Tôi muốn trước khi ra đi để gặp lại Tường ở bên kia thế giới, giải quyết những thắc mắc, vướng bận đã đeo đuổi tôi suốt hai mươi năm qua. Tôi không biết nói sao với ông về Lân, tôi đã lo lắng mọi sự cho nó và tương lai của nó được đảm bảo nhưng câu chuyện này tôi sẽ cho Lân biết trước ngày tôi nhắm mắt để tùy ông và Lân quyết định.”

    Bức thư không ký tên. Chương như người tê dại, chàng không còn một ý nghĩ nào trong đầu, chừng như cảm xúc quá mạnh và bất ngờ đến quá dồn dập làm chàng không còn khả năng suy nghĩ. Chương nhìn lại bức thư. Chàng vẫn chưa biết tên nàng. Kỷ niệm của hai mươi năm trước ám ảnh chàng bấy lâu nay bỗng từ từ tan biến dần, như ngọn sáp khô cứng được ngọn lửa nung nấu và chảy lan, tan biến. Chàng cảm thấy trống rỗng. Có lẽ một phần nào của chàng đã được giải thoát, một góc nào đó của con người chàng đã đè nặng từ bao lâu nay, mang theo như một hành trang không phải của chính mình đã được gạt bỏ.

    Chương nhìn lên bức ảnh trên bàn thờ, có lẽ nào một phần của chàng, từ hai mươi năm nay, từ đêm giao thừa năm đó, không phải là chàng, là một người khác, như một lời thề đã bám lấy chàng đi theo chàng trong thế giới này trong suốt hai mươi năm và giờ đây sau cùng đã được giải thoát.

    Chương nhìn lại một lần nữa. Chàng tưởng hoa mắt nhưng không phải. Chàng vừa thấy đôi mắt của bức hình sống động như một người sồng dậy từ cõi chết trở về và khóe miệng của người chết đang từ từ hơi nhếch lên, nhìn chàng và mỉm cười.

    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 10-10-2013 at 09:19 AM.

  4. #4
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Người con trai

    Nguyễn Đình Phùng

    Bác sĩ Nguyễn Vũ Thanh Sơn chạy vội lên cầu thang, nhảy từng ba bậc một để lên lầu 4. Không dùng thang máy vì phải đợi quá lâu, bác sĩ Sơn vừa chạy vừa nói vào điện thoại cầm tay, ra lệnh cho y tá chích thuốc giải cơn động kinh ngay cho người bệnh nhân nằm trong phòng 412. Chàng mở cửa phòng bước vào, cô y tá người Phi Luật Tân, nhỏ nhắn dễ thương như phần lớn những y tá gốc người Phi làm việc tại bệnh viện của đại học y khoa Irvine này, cười trấn an chàng:
    - Êm rồi! Lúc nãy ông ta làm dữ quá!
    Chàng gật đầu tiến đến gần giường người bệnh, lấy hồ sơ đọc. Ông Lê Hoàng Sử, 62 tuổi, ung thư chính gốc tại gan, đã chạy lan sang phổi và não bộ, bắt đầu lên những cơn động kinh thưòng xuyên và nhập viện được 3 ngày nay. Chàng thuộc nhóm bác sĩ chuyên môn về ung thư của đại học UCI, hôm nay là ngày trực của chàng, phải trông coi hơn chục người bệnh của khu ung thư nằm tại lầu 4 này.
    Sơn nhìn người bệnh. Mắt ông ta nhắm lại, tay chân duỗi ra, đang ở trạng thái của người bị kinh giật vừa chấm dứt. Người bệnh trông đầy quen thuộc, như thể chàng đã gặp nhiều lần nhưng không nhớ đích xác. Sơn cố ngẫm nghĩ. Tại sao ông ta trông quen quá vậy? Chàng gặp ở đâu? Lúc nào? Sơn lắc đầu. Không thể nhớ được. Chàng hỏi người y tá về những kết quả thử nghiệm máu mới nhất. Cô y tá ra khỏi phòng để dùng máy in ra kết quả gửi lên từ phòng thí nghiệm. Trước khi ra cô ta quay đầu lại hỏi:
    - Bác sĩ cần gì khác nữa không?
    Sơn lắc đầu. Chàng nhìn lại người bệnh. Bỗng dưng ông ta mở mắt ra, nhìn dáo dác một lúc rồi dán mắt vào Sơn. Tiếng rú từ người bệnh làm chàng giật nảy người, cô y tá vừa bước ra ngoài chạy vội trở lại đến giường bệnh. Ông Sử nhỏm phắt người lên, hai tay chắp lại, vái chàng lia lịa như tế sao:
    - Ông Thày! Ông Thày! Em, Sử đây ông thày ơi! Ông Thày đừng bắt em tội nghiệp!
    Cô y tá tiến lại, định đè ngưòi bệnh xuống và chích thêm một liều thuốc giải động kinh nữa. Nhưng Sơn ngăn lại. Chàng biết người bệnh lên cơn mê sảng, ảo giác tưởng chàng là ai khác. Chàng nắm lấy tay người bệnh, nói tiếng Việt:
    - Không sao đâu bác! Tôi là bác sĩ Sơn. Bác thấy trong người ra sao?
    Ông Sử tiếp tục lắp bắp:
    - Ông Thày ơi! Em không dám trái lời ông thày đâu. Em vẫn theo dõi con ông thày mà!
    Sơn nhìn lại người bệnh. Câu nói của ông Sử như khêu gợi trí nhớ Sơn, làm chàng đột nhiên nhận ra người đàn ông trước mặt. Chàng đã gặp người này nhiều lần, từ gần hai mươi năm nay. Ông ta đã có mặt trong tất cả những ngày trọng đại của chàng. Ngày chàng học xong trung học, trong buổi ra trường, Sơn là thủ khoa valedictorian, chàng đứng trên bục để đọc diễn văn, người đàn ông này đã ngồi ngay hàng ghế đầu, nhìn chàng chăm chăm. Sơn thấy lạ, nhưng đoán ông ta là phụ huynh của bạn học cùng lớp. Ngày chàng học xong đại học, sau 4 năm tiền y khoa, khi mặc mũ áo chụp hình với gia đình, chàng thấy ông ta lẩn quẩn đứng bên, nhìn chàng chăm chú. Nhưng cũng chỉ nghĩ là người nhà của các bạn khác đang chụp hình bên cạnh. Ngày chàng được nhận vào đại học y khoa University of California ở Irvine này, gia đình Sơn ăn mừng ở tiệm ăn, chàng cũng thấy ông ta ngồi bàn bên cạnh. Buổi lễ mặc áo trắng của năm thứ nhất, white coat ceremony, chàng cũng thấy người này ngồi hàng ghế đầu. Ngày Sơn ra trường với mảnh bằng bác sĩ, cũng có mặt ông ta.
    Bây giờ Sơn đã quả quyết. Người bệnh nhân đang lên cơn mê sảng trước mặt chàng, đã theo dõi chàng từ gần hai mươi năm nay. Nhưng tại sao? Và chàng còn nhớ lại nhiều điều khác. Sơn được nhiều học bổng của các tổ chức người Việt ở Quận Cam này, phòng thương mại, hội bảo vệ văn hóa, hội các thương gia... Chàng thấy tên Lê Hoàng Sử khá quen, hình như ông ta đã là chủ tịch của nhiều hội của người Việt tại Quận Cam này nhiều năm qua. Có thể nào những học bổng dành cho chàng đó là do chính ông Lê Hoàng Sử này?
    Rồi nhiều lần chàng đã ngạc nhiên khi thấy tiền học phí đã được ai trả hết, có hỏi văn phòng tài chánh của trường cũng không biết, chỉ thấy là account của chàng về học phí đã được chuyển tiền bằng điện tử để thanh toán, không biết ai là người gửi.
    Người bệnh chợt im lặng, nằm xuống lại. Một lúc sau, ông ta mở mắt ra. Lần này cặp mắt đã tinh anh, nhận biết khung cảnh chung quanh, như một người đã tỉnh táo sau cơn mê sảng. Ông ta nhìn thấy Sơn và cất tiếng:
    - Chào bác sĩ Sơn! Tôi mừng thấy ông làm việc ngày hôm nay. Tôi có nhiều điều cần nói với bác sĩ.
    Ông Sử đã lấy lại phong thái của một người giàu có, được mọi người kính nể.
    Sơn bây giờ nhớ lại đã nghe nhiều người nói. Ông Lê Hoàng Sử là một trong những người Việt thành công và giàu nhất tại Quận Cam này, chủ nhân ông của một khu shopping lớn trên đường Bolsa, cũng như có nhiều khu apartments cho thuê ở Garden Grove. Ông Sử thở dài:
    - Tôi biết tôi không còn sống được bao lâu nữa. Bác sĩ biết rõ hơn tôi. Tôi đã yêu cầu để đổi ngày trực của bác sĩ sang hôm nay. Vì tôi không biết có còn đến được ngày mai nữa hay không!
    Sơn nhìn lại hồ sơ bệnh lý. Hình CAT scan cho thấy ông Sử đã có ung thư chạy đầy trong phổi, trong xương. Trên não bộ đã có 4 chấm lớn trong thùy thái dương, không lạ gì ông ta bị động kinh và mê sảng nhiều. Nhưng bây giờ chàng thấy ông Sử tỉnh táo và sáng suốt như một người bình thường, không chút bệnh tật.
    Ông Sử tiếp tục:
    - Bác sĩ ngồi xuống đi! Điều tôi cần nói với bác sĩ tôi phải kể hết và sẽ gây ra nhiều bất ngờ. Tôi muốn bác sĩ bình tĩnh!
    Sơn mỉm cười. Chàng có nhiều người bệnh lạ thường, nhưng không ai như ông này. Vừa dứt cơn động kinh, mê sảng, lại khuyên chàng phải bình tĩnh!
    Sơn kéo ghế ngồi. Ông Sử bắt đầu:
    - Cha của bác sĩ là bác sĩ Phan Kim Trấn, tử trận tại bệnh viện tiểu khu Phước Long ở Việt Nam ngày 6 tháng 1 năm 1975. Tôi là y tá của bác sĩ Trấn.
    Sơn lặng người. Chàng không tin ở tai mình. Ông Sử nói bằng một giọng trịnh trọng, thành khẩn. Như một người tin mình đang ở trong giây phút thiêng liêng nhất, để trút lộ một bí ẩn đã đeo đuổi hàng mấy chục năm qua, đã chờ đợi hơn nửa đời người để được giải thoát khỏi một gánh nặng, canh cánh bên mình.
    Ông Sử im lặng. Sơn cũng không nói. Nhưng trong đầu óc chàng hàng trăm ngàn ý nghĩ khác nhau vùn vụt hiện đến. Những thắc mắc, nghi ngờ từ khi còn thơ ấu, những câu hỏi phải dấu kín không dám hở môi để hỏi ai. Tại sao chàng cao lớn như vậy, trong khi mấy em đều thấp nhỏ. Khuôn mặt chàng cũng khác hẳn hai người em trai. Dáng điệu cũng như tính tình của chàng cách biệt quá nhiều với những người em khác. Không ai nói ra nhưng Sơn biết. Chàng xin ra ngoài ở riêng rất sớm và gia đình chàng vẫn vui vẻ, hòa thuận. Nhưng những câu hỏi vẫn nằm đó, chưa bao giờ được trả lời. Cho đến ngày hôm nay.
    Ông Sử nhìn chàng, như để thăm dò phản ứng. Rồi ông nói tiếp:
    - Tôi xin phép để gọi bác sĩ là cháu. Vì lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là em của bác sĩ Trấn, đã từ hơn 35 năm nay! Bác sĩ Phan Kim Trấn ra trường về làm việc tại bệnh viện tiểu khu của tỉnh Phước Long đầu năm 1974, lúc đó chú đã là y tá làm việc tại bệnh viện này được hơn một năm. Chú được bác sĩ Trấn nhận làm y tá thân cận. Tiếng Việt hồi đó hay gọi là đệ tử, hay còn gọi là "tà lọt", những chữ này chắc cháu không nghe đến, tuy chú biết cháu giỏi tiếng Việt. Cháu chỉ cần biết là bác sĩ Trấn rất thương chú, cũng như chú kính trọng và sẵn sàng xả thân để làm mọi chuyện cho bác sĩ Trấn, không quản ngại bất cứ điều gì.
    Chú không biết cháu có tìm hiểu nhiều về Việt Nam hay không, tuy chú vẫn theo dõi cháu và biết hết những sở thích cũng như những học hỏi của cháu. Nhưng cuộc chiến ở Việt Nam đầu năm 1975 khốc liệt vô cùng và tỉnh Phước Long, nơi ba cháu và chú làm việc đã chịu tai họa nặng nề nhất trong các trận đánh của miền Nam lúc đó. Ngày cháu sinh ra đời, mẹ cháu đánh điện tín lên báo tin sinh cháu, ba cháu mừng vô cùng. Nhưng ba cháu không thể về thăm được. Vì tỉnh Phước Long lúc đó đã bị bao vây bốn phía, con đường duy nhất để về là bằng máy bay, ngoài ra là kẹt hết. Hôm đó cũng là ngày người bạn thân của ba cháu, là phi công chở đồ tiếp tế cho tiểu khu bay chuyến bay chót đến Phước Long. Người bạn ba cháu khuyên ba cháu về cùng với ông ta nhưng ba cháu không chịu. Ba cháu bắt chú đi cùng với người bạn và ba cháu ra phố để làm chuyện này.
    Ông Sử im lặng một lúc. Rồi tháo vòng dây đeo cổ bằng vàng, có xỏ một miếng ngọc xanh biếc hình chiếc lá, chạm trổ cực kỳ tinh vi. Ông Sử ngắm nghía một lúc và thở dài:
    - Ba cháu lúc nào cũng đeo hai miếng ngọc bích này, nói là bùa hộ mệnh. Hai miếng ngọc này giống hệt nhau, ba cháu bắt chú đi theo ra tiệm kim hoàn và mua một dây đeo cổ khác để làm thành hai vòng dây đeo, mỗi vòng dây xỏ một miếng ngọc bích này. Ba cháu giữ một vòng, còn vòng kia đưa cho chú. Ba cháu nói:
    - Sử! Mày về đưa chiếc vòng này cho vợ tao, để khi nào con tao lớn cho nó đeo. Tao đã nói chỉ huy trưởng ký giấy phép cho mày về Sài Gòn, giấy phép đây. Mày đi theo anh Kha bay về Sài Gòn để lo cho vợ con tao.
    Chú khóc như mưa. Vì chú biết rằng ở lại Phước Long là chết. Ba cháu vì nghĩa vụ, không chịu về. Nhưng đã lấy giấy phép cho chú để về cùng với đại úy Kha, bay chuyến chót về Sài Gòn. Để lo cho mẹ cháu và cháu. Vì ba cháu đã linh cảm biết mình không qua được trận đánh này!
    Ông Sử ngậm ngùi, mắt nhắm lại. Như hồi tưởng lại những hình ảnh cũ, đã hơn 35 năm, nhưng lúc nào cũng hiển hiện như ngày hôm qua. Ông nhìn Sơn, ngập ngừng:
    - Chắc cháu đang tự hỏi tại sao đến bây giờ chú mới nói chuyện này. Và sao chú giữ vòng dây đeo cổ này từ đó đến nay?
    Ông cúi đầu xuống, như kẻ ăn trộm bị bắt quả tang. Nhục nhã, tự khinh mình.
    - Chú đeo miếng ngọc bích này vào cổ. Và chú không muốn rời nó ra nữa! Ngay đêm hôm sau khi chú về tới Sài Gòn, Phước Long thất thủ và chú nghe tin ba cháu chết trong đêm đó. Chú nhiều lần đến nhà cháu để giữ lời với ba cháu, nhưng nửa đường chú đều quay về. Vì chú tự nhiên có ý nghĩ, miếng ngọc bích này đã cứu mạng chú, nó mang lại cho chú sự may mắn quá lớn. Rời nó ra là chú sẽ chết. Và chú đã phản bội lời hứa với cha cháu. Chú đã giữ miếng ngọc này, đến ngày hôm nay. Chú là kẻ cắp, chú là một kẻ khốn nạn! Nhưng miếng ngọc này đã cho chú những may mắn lạ thường. Từ khi sang Hoa Kỳ đến nay, tuy chú ít học nhưng làm cái gì cũng thành công. Chú tạo được tài sản rất lớn ở đây, tất cả là nhờ chú đeo miếng ngọc ba cháu đưa cho chú, để trao lại cho cháu!
    Chú lúc nào cũng bị cắn rứt về sự phản bội ba cháu. Và chú đã kiếm ra tông tích gia đình cháu từ hơn hai mươi năm nay, để theo dõi cháu, đỡ đần cho cháu. Cháu bây giờ đã thành công, làm bác sĩ như ba cháu, chú cũng đỡ ân hận phần nào. Nhưng bây giờ chú không còn sống được bao lâu nữa, vật xưa phải hoàn lại cố chủ, miếng ngọc này là của cháu, chú xin trả lại cho cháu.
    Ông Sử trao chiếc vòng dây đeo cổ xỏ miếng ngọc bích hình chiếc lá cho Sơn. Và ông rút trong túi áo ra một miếng giấy nhỏ. Ông nói:
    - Chú không biết đây là điềm gì! Nhưng tuần trước, lúc chú còn đi lại được, chú ra ngoài Phước Lộc Thọ và tình cờ chú gặp lại đại úy Kha. Ông nói muốn tìm tin tức cháu. Chú không nói gì nhưng có ghi số điện thoại của ông để liên lạc sau. Cháu gọi cho ông ta!
    Ông Sử như đã quá mệt, thở dốc một hồi rồi nhắm mắt lại. Sơn nhìn ông ta, cảm xúc tràn đầy trong lòng. Chàng không biết nói gì, hỏi gì hơn. Tất cả đến quá đột ngột, chàng cần thời gian để lãnh hội và tìm hiểu. Sơn đeo chiếc vòng dây vào cổ. Miếng ngọc bích mát rượi trên ngực chàng, bỗng dưng đem lại cho chàng một cảm giác lạ lùng chưa bao giờ thấy. Như một sự an bình, như một sự trở về. Nhưng đồng thời vẫn có một thôi thúc nào đó, đòi hỏi sự tìm kiếm. Như nửa phần vẫn thao thức để tìm nửa phần còn lại. Sơn không hiểu nữa. Và chàng cố gạt mọi ý nghĩ để trở lại với công việc, với những người bệnh nhân đang chờ chàng để được săn sóc, để được hồi phục. Chàng phải quên chuyện riêng bây giờ để thi hành nghĩa vụ của chàng trước đã. Như bác sĩ Phan Kim Trấn 35 năm về trước. Sơn vẫn chưa thể nghĩ đến hình ảnh của người bác sĩ này như cha mình được. Chàng cần thêm thời gian.

    * * *

    Sơn bước vào khu Phước Lộc Thọ. Chàng thấy ngay ông Kha ngồi uống bia một mình bên chiếc bàn nhỏ. Qua điện thoại, ông ta đã dặn chàng:
    - Tôi sẽ đội một chiếc mũ nâu, quấn khăn cổ màu nâu, ngồi ở quán ăn nhỏ đầu tiên cạnh đường đi, đối diện với tiệm sách. Đúng một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ đợi cháu ở đó nhé!
    Ông Kha đã sửng sốt bên kia đầu dây khi Sơn gọi, nói chàng muốn biết thêm về bác sĩ Phan Kim Trấn. Chàng không nói gì nhiều hơn. Nhưng chừng như ông Kha đã linh cảm được, và muốn gặp chàng ngay tại khu Phước Lộc Thọ này.
    Ông Kha đứng lên khi thấy Sơn bước vào. Phản ứng của ông y hệt như ông Sử, khi gọi chàng là ông Thày trong cơn mê sảng. Ông Kha sững sờ, ôm chầm lấy chàng, nghẹn ngào:
    - Trấn! Đúng là mày đây rồi Trấn ơi!
    Vòng tay ông ôm siết làm Sơn gần ngộp thở. Chàng khẽ nới tay ông ra và giơ tay ra bắt tay ông Kha:
    - Cháu là Nguyễn Vũ Thanh Sơn. Bác Kha phải không ạ!
    Ông Kha như đã tỉnh trí. Ông ngắm nghía Sơn một lúc rồi nói:
    - Cháu giống bố cháu như hệt! Không khác một điểm nào cả! Bác không cần phải hỏi gì nữa, ai nhìn thấy cháu cũng biết cháu là con của bác sĩ Phan Kim Trấn rồi!
    Ông kéo ghế cho Sơn ngồi:
    - Cháu ngồi xuống đây đi. Đúng là lòng trời run rủi! Bác về đây ở vùng này đã ba năm, lúc nào cũng tìm tin tức gia đình cháu. Ai ngờ đâu cháu ở ngay đây. Lại là bác sĩ nữa. Như bố cháu ngày xưa. Ông Trời có mắt thật!
    Ông gọi món ăn. Bảo chàng còn bao nhiêu chuyện để nói, phải ăn chút ít để nghe ông kể!
    - Bác là bạn thân của ba cháu từ khi còn nhỏ, ở cùng chung xóm. Gia đình ba cháu ngày xưa nghèo lắm. Ông nội cháu từ Bắc di cư vào Nam, làm ăn rất khó khăn, rất chật vật. Bà nội cháu mất sớm, chỉ còn mình ông nội cháu nuôi ba cháu ăn học. Cháu không thể tưởng tượng công lao cực khổ của ông nội cháu lúc đó. Ông cháu đạp xích lô ban ngày, đến chiều về lại còn phải đạp xe ba bánh để đem bán những gạch vụn cho những ai xây cất nhà cửa, tiếng Việt gọi là xà bần, chữ này chắc cháu chưa nghe bao giờ, nhưng không sao. Cháu nói và hiểu tiếng Việt như thế này đã là giỏi lắm rồi. Ba cháu học rất giỏi, nhà nghèo và cực khổ như vậy nhưng vẫn cố gắng để thi đậu vào trường Y Khoa ở Sài Gòn. Bác cùng học lúc nhỏ chung với ba cháu, không hiểu ba cháu lấy thời giờ ở đâu để học. Vì ba cháu sau khi tan trường về vẫn phụ với ông nội cháu để đạp xe ba bánh, thu nhặt từng miếng gạch vụn để đem bán. Nhà cháu có cái ao rau muống nhỏ, cuối tuần ông nội và ba cháu phải cắt rau, bó từng bó rồi mang ra chợ bán để kiếm tiền.
    Nhà nghèo như vậy, cực khổ đủ đường như vậy, mà ba cháu vẫn cố gắng để học thành tài, để ra bác sĩ là chuyện phi thường. Bác không thể tưởng tượng nổi là ý chí con người mạnh đến chừng đó. Ông nội cháu hãnh diện biết bao khi con mình ra được bác sĩ, đó là niềm an ủi duy nhất của ông nội cháu. Vì lúc dó ông nội cháu sức khỏe đã suy kém lắm rồi. Bao nhiêu năm lao lực, làm sao còn giữ được mạnh khỏe như trước nữa. Vì thế mà khi ba cháu chết...
    Ông Kha không nói nữa. Những cảm xúc làm ông nghẹn lời. Một lúc sau ông mới nói tiếp:
    - Bác lại nhảy đoạn rồi. Cháu nói đã nghe anh Sử kể về ngày cuối ở Phước Long rồi phải không? Để bác nói thêm vài chi tiết nữa. Khi ba cháu, bác và y tá Sử của ba cháu ra phố, đúng như anh Sử đã kể cho cháu, bác khuyên ba cháu bỏ nhiệm sở để về Sài Gòn. Vì bác là phi công bay tiếp tế chuyến chót lên tỉnh, bác có vào họp các sĩ quan lúc đó, mới biết rõ là tình hình nguy ngập đến cực độ. Việt Cộng đã bao vây toàn thể tỉnh lỵ, cả hai sư đoàn sửa soạn để tấn công trong nay mai. Trong khi đó bên phía mình, thiếu đạn, thiếu xăng. Phi cơ có sẵn nhưng không đủ xăng để bay oanh tạc. Đạn trọng pháo đã hết sạch, không thể bắn lại được. Binh lính bỏ đơn vị vì súng đạn không đủ để bắn. Bác biết rõ nên nói với ba cháu. Đây là cơ hội chót để thoát thân.
    Nhưng ba cháu trả lời là cả bệnh viện bây giờ chỉ còn hai bác sĩ, làm việc không xuể. Ngoài thương binh về mỗi lúc mỗi nhiều, còn mấy sản phụ đẻ khó các cô mụ đỡ không nổi, cần có ba cháu đỡ đẻ bằng forceps, sắp sinh trong đêm nay. Nếu ba cháu bỏ về sẽ có nhiều người chết vì không được săn sóc. Nghe bác nói ông nội cháu bây giờ bệnh hoạn lắm, ba cháu gửi bác trụ sinh và mấy chai nước biển để đem về cho ông cụ. Cháu thấy ba cháu khổ sở không? Biết cháu sinh ra đời mà không về được. Biết cha mình ốm đau, mà không thể về để săn sóc. Vì nghĩa vụ phải ở lại, vì nghĩ đến các thương binh, các bệnh nhân không được chữa trị. Ba cháu ở lại dù biết là đầy hiểm nguy, cái chết đến như không. Cũng như một người bạn bác sĩ khác đồng khóa của ba cháu, đang ở Sài Gòn nhưng hạn đi phép hết đã trở lại Phước Long trong ngày hôm đó để làm việc lại, dù biết là đi vào chốn của tử thần.
    Ba cháu chết trong đêm Việt Cộng pháo kích tấn công, nhưng không ai biết được mồ chôn của ba cháu nơi đâu. Bác nghe nói lại là sau đó, Việt Cộng cho chôn tập thể, khó tìm ra dấu tích. Ông nội cháu nghe tin Phước Long mất và con mình chết, đã gần như điên cuồng. Ông nội cháu nhất định không tin là ba cháu đã mất, nói là chưa có xác, vẫn còn hy vọng sống. Bác thương ông nội cháu và ba cháu lắm vì ở cùng xóm bao nhiêu năm, nhưng bác cũng không biết làm gì hơn. Tôi nghiệp ông nội cháu. Cả đời hy sinh lo cho con ăn học, nghèo khổ đến như vậy, nuôi con ra được bác sĩ, rồi chỉ mấy tháng sau, con đã tử trận vì cuộc chiến. Ông nội cháu không đầy một năm cũng qua đời vì quá đau khổ trước cái chết của ba cháu.
    Ngày hôm nay bác gặp được cháu là một điềm kỳ lạ. Hôm trước khi thấy anh y tá Sử của ba cháu, bác nhận ra được vì anh ta đeo chiếc vòng dây đeo cổ với miếng ngọc bích này. Cháu bây giờ đeo nó là anh ta đã ăn năn trao lại cho cháu. Bác nghĩ mọi sự đều có cơ duyên cả. Việc anh Sử sắp chết trao lại miếng ngọc này cho cháu, việc bác đang đi tìm cháu, rồi gặp được anh Sử và sau cùng gặp được cháu. Vì chỉ cách đây hơn một tuần, bác được tin lớp học y khoa chung với ba cháu đang tìm cách để tìm ra hài cốt của ba cháu ở Phước Long và xây mộ phần cho ba cháu để tưởng niệm và vinh danh người bạn đồng môn duy nhất đã tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam.
    Phải có sự xui khiến gì để lớp học y khoa ra trường năm 1973 với ba cháu có ý định tìm hài cốt của ba cháu và xây mộ phần. Phải có sự trùng hợp nào kỳ diệu để một người bác sĩ trong nhóm đó quen với bác và hỏi thăm về tin tức gia đình của cháu và sau cùng bác tìm được cháu.

    * * *

    Sơn tiến về phía căn nhà lợp mái tôn. Chàng được cho biết nơi đây đang chứa những bộ xương khai quật từ tuần trước, trong đó có thể có bộ xương của ba chàng.
    Sơn đã bay về Việt Nam sau khi gặp ông Kha và về đến Sài Gòn ngày hôm trước.
    Mọi sự diễn tiến rất nhanh. Chàng liên lạc với nhóm bác sĩ đồng môn với ba chàng và được cho biết mồ chôn tập thể tại Phước Long sau trận đánh 35 năm về trước đã được tìm ra. Nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đã tổ chức và cử người về cùng với mấy bác sĩ đồng môn còn ở lại Việt Nam, ra tận Phước Long để tìm manh mối về mồ chôn. Một người lính cũ trước kia đào mồ chôn tập thể cho những người chết tại bệnh viện tiểu khu đã dẫn họ đến địa điểm này. Sau khi được giấy phép khai quật, 12 bộ xương đã được đưa đến căn nhà lợp mái tôn này để được khảo nghiệm và xác định, chờ đợi thân nhân đến nhận. Nếu không có thân nhân, những bộ xương còn lại sẽ được chôn cất riêng rẽ và làm mộ bia cho từng người, duới danh nghĩa chiến sĩ vô danh. Các phí tổn đều do nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đảm nhận.
    Sơn mở cửa bước vào. Các bác sĩ đồng môn với ba chàng đang đứng nhìn từng bộ xương một. Làm sao biết được bộ nào là bác sĩ Phan Kim Trấn của 35 năm về trước? Một bác sĩ vui mừng nói với chàng:
    - Cháu Sơn đến rồi! Chúng ta có thể thử DNA cho từng bộ xương. Bộ nào có DNA phù hợp với cháu Sơn là của Trấn thôi. Nhưng có điều phải thử cả 12 bộ.
    Sơn bắt tay từng người bác sĩ và cảm ơn họ. Những người bạn đồng môn của ba chàng đã khổ công để tìm cho ra hài cốt của ba chàng, tìm được tung tích của chàng, để xác định chắc chắn đâu là bộ xương của người bạn đồng môn thân thiết đã mấy chục năm về trước. Để cho trọn tình trọn nghĩa của những người bạn cùng học chung dưới mái trường năm xưa.
    Sơn đi qua từng chiếc bàn, mỗi bàn chứa một bộ xương. Chàng dừng lại tại mỗi bàn. Nhưng sự gì đã thôi thúc để chàng sau cùng tiến đến bàn cuối cùng, chứa bộ xương của một người lúc sinh tiền phải là cao lớn. Chàng cúi xuống nhìn rất lâu. Và những cảm xúc chợt ùa đến. Chàng nghĩ đến người cha không bao giờ biết mặt, người cha đã không được nhìn thấy con mình, dù chỉ một lần. Chàng nghĩ đến người ông chàng không bao giờ biết đến, điên cuồng vì cái chết của con.
    Chàng nghĩ đến hai thế hệ trước chàng, đau khổ và thê thảm suốt cả cuộc đời. Đã hy sinh tất cả. Và không được lại điều gì. Chỉ bây giờ 35 năm sau mới thấy được thế hệ thứ ba là chàng, đang đứng trước mặt đây. Có phải bộ xương này là của ba chàng? Và Sơn đứng đó, những giọt lệ lan trên má, lúc đầu chậm nhưng càng lúc càng chảy đầm đìa, tuôn tràn, như không thể ngưng lại được. Những giọt nước mắt nóng rơi xuống từng giọt, từng giọt trên bộ xương.
    Những giọt nước mắt đó, như được hướng dẫn, rơi vào một điểm gồ lên trên xương chẩm của lồng ngực. Và bùn đất tích tụ bao nhiêu năm trên điểm gồ này tan dần để lộ ra một màu xanh kỳ lạ. Ánh nắng lọt từ khe mái tôn chiếu thẳng vào điểm gồ làm màu xanh càng lúc càng bừng lên. Bùn đất bây giờ đã tan hết để lộ rõ ràng miếng ngọc bích màu xanh, nằm ngay trên xương lồng ngực. Sơn vội vàng kéo vòng dây đeo cổ của chàng ra ngoài áo. Ánh nắng chiếu vào miếng ngọc bích trên bộ xương như nhảy múa và phản chiếu lại vào miếng ngọc trên ngực chàng.
    Sơn đứng sững người. Màu xanh của hai viên ngọc như quyện lấy chàng, như ve vuốt chàng, mềm dịu, âu yếm, chập chờn trên gò má chàng, trên sống mũi, trên miệng, trên môi chàng. Như muốn nhận biết đây là người con trai yêu quý, người con chưa bao giờ biết mặt, sau hơn 35 năm đã đến đây, để nhận biết người cha của mình, để biết đâu đã là nguồn sống của mình. Và sau cùng đã đến để giải thoát cho oan hồn của người cha, từ bao lâu nay chỉ chờ đợi giây phút này. Khi những giọt lệ của người con trai dấu yêu đã xóa bỏ những hờn oán, những phẫn nộ không nguôi, những uất ức triền miên và những thành trì trói buộc, để được siêu thăng về nơi chốn của vô cùng và của mãi mãi.

    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 10-10-2013 at 09:20 AM.

  5. #5
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Lạc Lối Thiên Đường


    Duệ bật đèn pha khi thấy cơn mưa mỗi lúc một nặng hạt và cơn lo ngại trong chàng tăng dần. Chàng đưa người vợ mới cưới lên Yellowstone hưởng tuần trăng mật và trên đường về, Duệ nổi hứng thay vì đường quốc lộ liên bang, chàng đi đường chéo liên tỉnh nhỏ, hy vọng cắt ngắn được một khúc. Khi vào đến Nebraska, trời đã sẩm tối và mây đen bắt đầu kéo phủ kín bầu trời. Duệ nhìn cánh đồng mênh mông hai bên đường ngút ngàn, không một bóng nhà cửa và bắt đầu thấy hối, đáng ngại nhất là chàng làm biếng, không chịu đổ xăng ngay khi bắt đầu rời đường quốc lộ, và đèn báo hiệu xăng gần hết đã bắt đầu bật sáng.

    Cơn mưa đổ xuống như thác, xe chàng gạt nước không xuể, Duệ phải lái chậm lại, chàng chong mắt nhìn phía trước cố tìm một trạm xăng hay một đám nhà cửa, thỉnh thoảng sốt ruột nhìn sang vợ chàng nằm ngả người bên cạnh. Nàng nằm thiếp hai tay ôm lấy đầu, cơn nhức nửa đầu của nàng lại bắt đầu tái phát khi chàng bắt đầu đi vào con đường nhỏ này. Duệ tự rủa thầm mình trong bụng, chàng suýt nữa băng ngang qua một con đường nhỏ nếu không nhờ ánh sáng của lằn chớp làm chàng chú ý đến tấm bảng trước mặt. Bảng chỉ đường quẹo nằm trên cột gỗ xiêu vẹo như sắp sửa bị gió thổi bay trên có ghi mấy hàng chữ: Paradise, dân số 850. Đang lo lắng, Duệ cũng phải nhếch mép cười, dân Mỹ có tục đặt những tên kỳ lạ cho các thành phố nhỏ. Mỗi tiểu bang nước Mỹ ít ra cũng có dăm bảy thành phố mang tên thiên đàng và mỗi thiên đàng cũng chỉ có vài trăm đến một ngàn dân, hài lòng với cuộc sống thôn quê của mình.




    Duệ quẹo vào con đường nhỏ chạy giữa cánh đồng và một lúc sau chàng bắt đầu thấy bóng những tháp cao ngất ngưởng bằng tôn chứa lúa mạch hai bên đường và gần đó vài căn nhà rải rác. Duệ ngừng lại ở trạm xăng đầu tiên và có lẽ duy nhất của thành phố, chàng hỏi thăm chú thanh niên mặt đầy mụn đổ xăng:
    - Ở gần đây có motel nào không em?
    - Ông đi xuống thêm hai blocks đường nữa sẽ thấy, ở đây chỉ có chỗ đó thôi.
    Hắn trả lời giọng cấm cẳn như muốn chàng đi cho nhanh để còn vào tiếp tục xem trận football trên TV. Duệ hơi bực mình nhưng chàng thấy kiếm được chỗ đổ xăng và chỗ ngủ cho qua cơn mưa lớn cũng là may mắn lắm rồi. Motel duy nhất ở đây cũng mang tên Paradise Motel và Duệ một lần nữa lại mỉm cười vì sự tương phản của cái tên và sự nghèo nàn của dẫy phòng ngủ. Chàng tặc lưỡi tiến vào trong office để thuê phòng. Ngoài cửa office gần bảng điện chữ đỏ vacancy làm chàng thấy buồn cười, có lẽ chưa bao giờ motel này được dịp bật lên chữ “No vacancy”.




    Duệ đẩy cửa bước vào và được một bà Mỹ già to béo phục phịch, mặt đầy vẻ hiền lành tiếp đón. Duệ điền tên vào giấy thuê phòng và hỏi:
    - Bà làm ơn cho biết gần đây có quán ăn nào không?
    Bà Mỹ chủ motel nhìn tên chàng ghi trên mẫu thuê phòng và hỏi lại giọng có vẻ ngạc nhiên:
    - Ông họ Trần thật sao? Ở đây chúng tôi có một tiệm ăn Tran’s Chinese Foods ngon lắm. Ông Trần này về đây khoảng vài năm nay; thành phố này không có Chinese restaurant bao giờ nên ai cũng thích lắm. Ông có họ gì với ông Trần này không?
    Duệ lắc đầu, chàng ngạc nhiên thấy thành phố khỉ ho cò gáy này cũng có người Việt Nam, chàng đoán anh chàng họ Trần này là Việt Nam, từ năm 75 đến giờ, đi đến chỗ nào trên đất Hoa Kỳ này cũng có thể gặp được người đồng hương định cư tại đó. Duệ ra xe đưa vợ vào phòng, chàng nhìn nàng, mặt xanh nhợt, hai tay tiếp tục ôm đầu. Duệ hỏi, ái ngại:
    - Em mệt lắm phải không? Để anh đi mua đồ ăn về cho, em chịu khó nằm nghỉ chút cho khỏe lại.




    Khi Duệ ra khỏi quán trọ, cơn mưa cũng đã bắt đầu nhẹ hạt, chàng lái xe tìm quán ăn theo lời chỉ dẫn của bà chủ motel. Đi một quãng ngắn, chàng thấy ngay Tran’s Chinese Foods ở bên đường. Tiệm ăn trông nhỏ và tồi tàn, nằm dưới gốc một cây sồi lớn với cành lá xum xuê như chụp lên quán. Đèn bảng hiệu màu đỏ đục nhờ cho Duệ một cảm giác bẩn bẩn, và trong đêm đen tối ẩm ướt với những lằn sáng của cơn chớp ngoài trời tạo nên khung cảnh mang một vẻ kỳ dị, tội lỗi nào đó. Duệ tắt máy xe, bước vào quán và chàng thấy ngay người đàn ông họ Trần chủ quán. Điều làm chàng chú ý đầu tiên là cánh tay trái bị cụt lên gần khủyu tay, chiếc áo sơ mi dài tay được bọc trám lại ở chỗ cụt trông như một chiếc nơ thắt điểm trang cho sự tàn tật, gần như mang một vẻ hãnh diện ngầm cho sự thiếu sót của mình, pha lẫn một chút thách đố, ngạo mạn.
    Người đàn ông nhìn Duệ chằm chằm, soi mói, ánh mắt sắc, dữ dội như muốn tóe lửa làm Duệ cảm thấy khó chịu. Chàng bỗng thấy ngại ngùng, như một cảm giác bất an nào đó thúc giục chàng dời xa chỗ này, tuy nhiên Duệ trấn áp ngay cảm nghĩ đó, hơi ngượng cho sự vơ vẩn của mình. Người chủ quán mời Duệ vào bàn ngồi, lấy thực đơn đưa cho chàng và một lần nữa ánh mắt sắc lạnh của hắn lại chiếu về chàng chăm chú, dò xét. Hắn cất tiếng nói, giọng khàn đục, hơi có vẻ xấc xược:
    - Ông có phải Việt Nam không?
    Duệ mỉm cười gật đầu. Ánh mắt và khuôn mặt của gã đàn ông chợt dịu lại và hắn bắt tay chàng, bàn tay thô, sần sùi và mạnh bạo.
    - Tôi tên Vũ. Mời ông chọn món ăn. Ông có muốn dùng chút rượu mạnh không?
    Duệ lắc đầu. Chàng chọn qua loa vài món ăn cho người bồi bàn ghi, gã chủ quán tên Vũ đã đi vào bếp để sửa soạn. Cả quán bây giờ chỉ còn bàn chàng và một bàn khác với mấy người Mỹ làm nông trại đầu đội những chiếc mũ lưỡi trai mầu xanh trên để chữ Deere, tên của một hãng sản xuất máy cầy. Họ ăn cũng vừa xong và lục tục đứng lên ra quày trả tiền. Người bồi bàn kiêm luôn việc thu tiền và có lẽ là người làm duy nhất trong quán ngoài anh chàng chủ quán, là một người đàn bà còn trẻ có lẽ chỉ độ hai mươi mấy nhưng cũng giống như phần đông đàn bà Mỹ thiếu sắc đẹp và thiếu sửa soạn Duệ thường thấy, trông như khoảng đã ba mươi, bốn mươi, phục phịch, to béo một cách thiếu vệ sinh và đầy vẻ đần độn.
    Vũ, người chủ quán, mang món ăn đầu tiên ra và tự tay mang lại cho Duệ. Hắn nhìn theo ánh mắt của Duệ về phía người đàn bà, mỉm cười nói, giọng hơi chua chát:
    - Nó là vợ tôi đấy, cũng được việc, vừa trông coi tiệm vừa làm việc nhà. Hơi mập nhưng cũng không sao. Càng êm và ấm. Xứ này mùa đông cũng lạnh lắm.
    Duệ cũng cười lại, vô thưởng vô phạt. Vũ nói tiếp:
    - Để ông dùng bữa tối. Nếu cần gì thêm ông cứ nói cho biết.




    Duệ cám ơn và sau khi dặn người chủ quán làm ít món để mang về cho vợ, chàng bắt đầu ăn. Thức ăn dở như những tiệm Tàu chuyên môn làm đồ Tàu cho khách Mỹ ăn nhưng vì đói chàng thấy cũng vừa miệng. Khi ăn gần xong, gã chủ quán đến gần kéo ghế ngồi và để nguyên một chai rượu Johnny Walker trên bàn. Hắn nói:
    - Xin phép để ngồi đây nói chuyện với ông một lúc. Đã mấy năm nay tôi không gặp người Việt Nam nào.
    Duệ mời hắn ngồi, tự giới thiệu tên mình và hỏi:
    - Ông ở đây từ năm nào? Tôi không ngờ thành phố nhỏ như vầy cũng có người Việt. Nếu không lạc đường, chắc không bao giờ có dịp ghé ngang đây.
    Vũ trả lời:
    - Tôi về đây từ năm 84. Ông nói đúng nếu không lạc đường chắc cũng chẳng ai đi ngang cái quán khốn nạn này.
    Hắn rót rượu ra ly, mắt nhìn chăm chú vào ly rượu và Duệ bắt đầu thấy những đường gân máu đỏ nổi lên trên lòng trắng của mắt người đàn ông.
    - Tôi đến đây cũng vì lạc đường.
    Hắn nói tiếp:
    - Đi lang thang mãi trên đất Mỹ này rồi cũng đến vậy thôi, vả lại đã lạc vào Paradise rồi còn đi đâu nữa làm gì?
    Hắn nhếch mép cười, vẻ tự chế nhạo mình.
    - Tôi chết chắc sẽ phải xuống đáy Địa Ngục rồi nên bây giờ còn sống phải ở Thiên Đường cho nó sướng.

    Duệ ậm ừ đưa đẩy vài câu, chàng không thấy hứng thú gì lắm nói chuyện với người đàn ông lạ này nhưng không nỡ cắt ngang. Chàng thấy hắn có vẻ tội nghiệp mặc dù khuôn mặt và cặp mắt của hắn tỏ lộ sự hung dữ của một người phải vật lộn nhiều với đời, sẵn sàng đạp lên mọi chướng vật để đạt được ý muốn. Duệ không hiểu tạo sao chàng có cảm giác bất an như vậy khi ngồi đối diện với người đàn ông. Chàng nhìn kỹ lại một lần nữa, quan sát những đặc điểm của người đối diện. Hắn dong dỏng cao, Duệ áng chừng chiều cao của hắn đối với mình và đoán cỡ khoảng thước bảy.
    Vóc hắn vừa người, không vạm vỡ quá nhưng bắp thịt đầy vẻ cứng rắn, vai rộng vừa phải. Cổ hơi bạnh ra tương đối không được cân xứng lắm so với thân người, không hiểu tạo sao nhưng mỗi lần Duệ thấy một người cổ rộng và bạnh, chàng cảm thấy một sự hung tợn và đe dọa nào đó. Khuôn mặt của Vũ tương đối đều đặn, một sự đều đặn bình thường không đẹp không xấu nhưng lại càng làm cho sự tương phản giữa khuôn mặt và cặp mắt trở nên rõ rệt hơn. Cặp mắt của Vũ là một pha trộn giữa vẻ lạnh, sắc và tàn nhẫn, không phải hòa lẫn, nhưng thay đổi theo từng lúc với vẻ cuồng bạo, đam mê và giận dữ. Cặp lông mày đen, dày và rậm ở phía ngoài mắt trái với một vết sẹo trơn, nhạt chạy lên gần thái dương, càng làm cho Duệ cảm thấy nỗi bất an, khó chịu khi ngồi đối diện với người đàn ông đang uống rượu trước mặt mình.

    Duệ ăn đã gần xong nhưng càng cảm thấy khó lòng đứng dậy để trả tiền rời khỏi quán. Vũ nhìn chàng chăm chú và khi thấy Duệ đưa mắt nhìn tay áo thắt hình chiếc nơ ở chỗ khuỷu tay trái cụt của mình, hắn cất tiếng:
    - Tôi cụt tay này vì một người đàn bà.
    Duệ hơi sửng sốt nhìn lên. Vũ nhếch mép cười, hắn nâng ly rượu lên uống cạn một hơi, nhấc chai Johnny Walker đổ đầy vào ly và nói tiếp:
    - Mất một tay này đã nghĩa lý gì, tôi có cụt cả hai tay hai chân vì nàng cũng còn được cơ mà.
    Vũ bắt đầu kể, cặp mắt hắn nhìn thẳng vào Duệ nhưng chàng cảm thấy như hắn nhìn xuyên qua chàng, về phía một hình bóng mơ hồ nào đó sau lưng. Duệ ngồi yên như chôn chân nghe hắn kể, chịu đựng luồng ánh mắt của hắn như một cặp đinh dài ghim cứng chàng vào thành ghế gỗ đằng sau.




    - Nàng là con bà dì ruột tôi. Tôi không hề được biết trên đời mình có một bà dì cho đến năm tôi 18 tuổi. Mẹ tôi chết ngay sau khi sinh tôi ra và tôi lớn lên với gia đình bên nội, hoàn toàn không biết một chút gì về bên ngoại cả. Bố tôi chắc có chuyện bất hòa với gia đình nhà vợ nên không hề giao thiệp, đi lại với bên ngoại tôi cho đến ngày tôi bắt đầu trưởng thành. Một ngày mùa hè năm ấy khi vừa hết niên học, bố tôi gọi tôi vào phòng đọc sách của ông, thảy cho tôi một bì thơ dầy cộm và nói bằng giọng ơ hờ:
    “Thư của dì Tâm đây. Dì Tâm là em ruột má mày. Năm nay có muốn lên Đà Lạt chơi, tao mày lên ở với dì mày một hai tháng!”
    Nói xong, ông khoác tay đuổi tôi ra, như thể nhắc đến tên dì Tâm nào đó làm bẩn miệng ông và làm ông khó chịu không tả được. Đọc thơ, tôi mới được biết tôi có gia đình bên ngoại, hiện nay đang sống cả ở Đà Lạt. Tôi có hai người bác và một bà dì là dì Tâm vừa gửi thư cho tôi. Trong thư dì nói thương mẹ tôi vô cùng và muốn gặp mặt tôi, đứa con độc nhất của mẹ tôi để xem tôi có giống bà không? Dì hỏi tôi mùa hè này có định đi đâu chơi không và nếu rảnh lên Đà Lạt ở nhà dì ít lâu. Tôi chưa được lên Đà Lạt chơi bao giờ, những mùa hè trước, tôi được ra Cấp chơi một hai tuần lễ đã sướng rồi, nói gì đến chuyện đi xa hơn, nên có dịp được đi Đà Lạt, tôi bắt lấy ngay sợ mất cơ hội. Quả tình, chuyện móc nối lại với gia đình bên ngoại, tôi cũng chẳng quan tâm lắm; liên lạc họ hàng ngay cả bên nội tôi không tha thiết đến, huống gì một bà dì chưa bao giờ nghe đến, chưa bao giờ gặp mặt. Tôi ra đánh điện tín cho dì Tâm ngay ngày hôm đó và sáng sớm hôm sau đã có mặt trên chuyến xe đò Minh Trung đầu tiên từ Sài Gòn lên Đà Lạt.

    Nhà dì Tâm ở trong một khu khá sang trọng trên dốc Hải Thượng, tôi đi xe lambretta lôi từ bến xe đò gần chợ về đến khu nhà dì, quãng dốc còn lại phải ì cạch xách chiếc va li cồng kềnh và nặng leo lên dốc, tên tài xế xe lôi nhất định không chịu chạy tới đầu dốc. Đường phố Đà Lạt sạch và thơ mộng với những hàng thông cao vút dọc đường đi, chỉ tội nhiều dốc quá cao, đi bộ hay lái xe đạp là cả một cực hình. Nhà dì Tâm ở trên đầu dốc, mái ngói đỏ, gạch tường màu nhạt với những cây leo bò lên tận gần đầu tường. Tôi bấm chuông cửa, lòng hơi hồi hộp. Quả tình tôi đi hơi vội, mới đánh điện hôm qua, chiều nay đã lên đến nơi. Nhỡ dì Tâm không có nhà, chưa ai nhận được điện tín, không ai biết tôi là ai cả thì sao?
    Tôi đợi khá lâu, sau cùng cánh cửa từ từ hé mở và khuôn mặt một cô gái hiện ra, tóc thắt bím, chừng độ 15 tuổi. Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân, cặp mắt đen, to tròn và lay láy:
    - Anh Vũ, phải không?
    Tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là điện tín đến kịp.
    - Em là Mai.
    Nàng nói tiếp:
    - Mẹ đang đợi anh.
    Nàng chỉ tay cho tôi vào lối nhà trong. Căn nhà rộng mênh mông với sàn gỗ đánh xi bóng loáng, tôi đi chỉ sợ ngã. Dì Tâm ngồi trong một chiếc ghế bành rộng phòng khách phía trong và bà đứng dậy nắm lấy tay tôi:
    - Cháu Vũ. Cháu giống mẹ cháu như hệt.
    Bà ôm lấy tôi và khóc. Tôi đứng im như khúc gỗ, không biết nói năng gì, cảm thấy hơi phiền. Càng phiền hơn nữa khi nhìn lên tôi thấy Mai đang bụm môi cười, cặp mắt đầy vẻ tinh nghịch nhìn tôi diễu cợt. Sau cùng dì Tâm cũng buông tôi ra, bà lùi lại, ngắm nghía tôi từ đầu đến chân và gật đầu:
    - Cháu giống bên ngoại như vậy là tốt lắm.
    Giọng bà có vẻ nhẹ nhõm như chỉ sợ tôi giống bên nội nhiều hơn. Quay lại nhìn Mai, bà bảo:
    - Con chào anh Vũ chưa? Đứng đó cười cái gì. Xuống bếp phụ vú Hiền làm cơm nhanh lên đi. Anh Vũ chắc cũng đói bụng rồi đấy.
    Bà nhìn sang tôi:
    - Dì chỉ có mình Mai là con, nó còn con nít lắm. Cháu lên phòng cất đồ đi, rồi sửa soạn xuống dùng cơm.
    Tôi lên cầu thang theo chân dì Tâm lên lầu trên. Những bực thang cũng đánh xi bóng loáng màu gụ, đầy vẻ sạch sẽ nhưng trông hơi ảm đạm. Tôi bước từng bước cẩn thận chỉ sợ trượt chân ngã. Dì Tâm vừa bước vừa nói:
    - Trên lầu là phòng ngủ cả, có 3 phòng: phòng của dì, phòng của Mai, phòng của cháu phía bên này; Mai bỏ cả buổi chiều để dọn phòng cho cháu đấy! Cháu rửa mặt, thay đồ rồi xuống dùng cơm tối.
    Tôi đặt chiếc va-li xuống sàn khép cửa và ngả người xuống chiếc giường to choán gần hết phòng, phủ một tấm chăn bông dày cộm. Buổi tối đầu tiên ở Đà Lạt gây gây lạnh, nhìn chăn dày xếp cẩn thận, chắc do Mai sửa soạn làm tôi cảm thấy ấm hẳn lại, chỉ muốn chui ngay vào chăn. Dì Tâm tiếp đón tôi thật nồng hậu, dì hiền từ biết bao, mẹ tôi còn chắc cũng hiền từ như vậy. Còn Mai nữa, cô em họ của tôi mới gặp lần đầu nhưng sao cho tôi những cảm giác lạ lùng. Dì Tâm tôi cảm thấy thân cận như thể bà là mẹ tôi, nhưng với Mai, tôi cảm thấy khác, như thể không phải ruột thịt, họ hàng gì cả với Mai cả. Đồng thời nhớ lại lúc nhìn Mai bụm môi cười khi nẫy, tôi chợt khám phá ra cảm giác kỳ lạ, lâng lâng, khó tả quấn quít tôi nãy giờ bắt đầu từ lúc ấy. Và tôi bỗng thấy hơi ngượng, như thể mình đang làm một chuyện gì xấu xa, bị cấm đoán và bị bắt gặp.

    Vũ ngừng kể, cặp mắt đang nhìn như thấu qua người Duệ bỗng tụ lại với tiêu điểm trên khuôn mặt chàng, hắn ngừng lại một lúc và nói:
    - Tại sao tôi lại kể chuyện này với ông nhỉ? Những chuyện này là những chuyện tôi chưa bao giờ kể với ai, cũng không thể để cho ai biết. Tại sao tôi lại cho ông biết?
    Hắn nheo mắt nhìn chàng, ngắm nghía:
    - Cũng không sao! Chúng ta gặp nhau một lần rồi chẳng bao giờ gặp lại nữa. Ông muốn biết tại sao tôi cụt tay. Không can gì! Tôi sẽ cho ông biết hết.
    Hắn nhìn xuống bàn, chai Johnny Walker đã cạn. Vũ cười khẩy:
    - Ông chê rượu này không uống. Được rồi!
    Hắn đứng lên lại quầy lấy một chai Martell Cordon Bleu còn nguyên và một bịch Perrier lại bàn.
    - Nào, mời ông uống chút rượu với tôi. Tôi không bao giờ say cả, nhưng phải có người cùng uống mới được.




    - Tôi kể đến đâu rồi nhỉ? À! Tôi đang kể cho ông nghe lúc gặp Mai lần đầu. Cảm giác lúc ấy có phải tình yêu hay không, tôi không biết, nhưng nếu quả thật có những cảm xúc khác thường do tình yêu lần đầu mang đến như trong tiểu thuyết vẽ vời; chắc cũng không thể nào khác hơn được những cảm nhận của tôi lúc ấy. Mai đẹp lắm, năm ấy nàng mới 15 tuổi, thua tôi hơn ba năm, nhưng nàng đã trở thành một thiếu nữ đẹp, đẹp lắm rồi. Tôi chưa hề gặp một cô gái nào ở Sài Gòn đẹp như nàng cả. Có lẽ trời Đà Lạt và cái lạnh của Đà Lạt làm tăng thêm vẻ đẹp nàng, nhưng cặp má hồng, khuôn mặt trái soan thanh tú trắng ngần của nàng và đôi mắt trong, to tròn tinh nghịch ấy đã thu hút hồn tôi ngay. Chắn hẳn phải là tình yêu vì đầu óc tôi không còn gì khác hơn là hình ảnh nàng, chiếm ngự hoàn toàn làm tôi ngộp thở. Chuyện nàng là em họ tôi, tôi không quan tâm cho lắm vì tôi có biết nàng là họ hàng bao giờ đâu, cho đến buổi chiều hôm nay.

    Nếu đời sống có thể ép lại được để cuộc đời có ý nghĩa, để đời sống đáng được sống, có lẽ tôi đã sống trọn cuộc đời tôi rồi, trong một tháng trời đó ở Đà Lạt. Tôi sống tràn trề, dạt dào, từng giây từng phút, trong bầu trời Đà Lạt, trong ngôi nhà đầu dốc Hải Thượng đó, với nàng. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn sống với hình ảnh nàng, chờ đợi cho đến buổi sáng để gặp lại nàng bằng xương bằng thịt, cùng nàng và dì Tâm ăn sáng. Cuộc đời sao có thể đẹp và sung sướng đến như vậy!
    Mỗi ngày đối với tôi như một ngày hội, Mai dẫn tôi đi chơi khắp nơi ở Đà Lạt: Than Thở, Prenn, Suối Vàng, hoặc đôi khi chỉ là những đồi thông vắng người, không tên tuổi. Buổi chiều đôi khi tôi với Mai ra ngồi ở Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương nghe nhạc uống nước. Có lúc trời mưa chúng tôi kéo nhau lên trên phòng đợi của khách sạn Palace, ngồi trong những chiếc ghế bành vĩ đại nhìn xuống mặt hồ, nhìn mưa qua khung cửa kính, uống từng ngụm cà phê do những người bồi mặc đồ trắng kính cẩn đem lại. Nếu ngày nào cũng như vậy, đời sẽ đẹp biết bao, ước gì cả một đời còn lại của tôi ở thành phố Thiên Đường khốn nạn này được đổi lấy một ngày xưa cũ trên Đà Lạt với Mai, tôi sẽ đổi ngay, không chút ngại ngùng!
    Một tháng trời hạnh phúc nhất của đời tôi trôi qua như một khoảnh khắc, rồi tôi cũng phải về Sài Gòn, nhưng tôi đã quyết định ngay, mau chóng và dứt khoát; xa Mai một ngày thôi là điều tôi không thể nào chấp nhận được. Cuối mùa hè năm đó, tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt, mặc kệ những lời chửa rủa của bố tôi, ông đã sắp đặt sẵn sàng để cho tôi sang Pháp du học. Làm sao ông hiểu được tôi cần gì tương lai sáng lạng ông vẽ ra trước mắt tôi, nếu tôi không có Mai, không được thở hít cùng một bầu trời với nàng, không được cùng nàng đi chơi trong ánh nắng chan hòa của Đà Lạt đầy thơ mộng.
    Và như thế tôi chọn cuộc đời binh nghiệp để được gần Mai trong mấy năm trời thụ huấn tại trường Võ Bị, mỗi chiều thứ bẩy ra phép với tôi là hạnh phúc, giản dị như cuộc đời hiện tại, chỉ có tôi, Mai và tình yêu. Tình yêu đây là tình yêu của tôi đối với Mai, tôi biết rõ Mai vẫn chỉ coi tôi là người anh họ, không hơn không kém. Mọi sự trước mắt, quá khứ, hiện tại, đối với tôi đều là vô nghĩa, tôi quên hết mọi sự, chỉ để tâm và chờ đợi chiều thứ bẩy, những chiều thứ bẩy thần diệu, huy hoàng và sung sướng.

    Nếu cuộc đời cứ phẳng lặng như thế thì giản dị biết bao nhiêu, nhưng giòng sông nào êm trôi cũng có lúc rẽ khúc, đến năm thứ ba ở Võ Bị tôi bắt đầu thân thiện nhiều với Hoàng, một người bạn khóa sau, và chuyện không tránh được cũng sẽ phải xẩy ra. Một buổi chiều thứ bẩy tôi đưa Mai đi ăn kem ở dốc Hòa Bình gặp Hoàng, tôi bắt buộc phải giới thiệu hai người với nhau, và đời tôi, như đã từng lo sợ và tiên đoán trước một ngày như vậy sẽ xẩy ra, bắt đầu đi vào con đường của thê thảm.
    Những ngã rẽ của cuộc đời có lẽ đều bắt đầu như thế, khi đời đang tươi sáng đến mức cực điểm, tưởng chừng như không gì có thể làm u ám, hủy hoại được. Và có lẽ những khúc quanh của đời đều bắt đầu vào những ngày thứ bảy đẹp trời như vậy. Tôi ngồi nhìn Mai ăn kem, nhìn Hoàng chăm chú nhìn Mai, cười với nàng và nàng ngượng nghịu cười lại, niềm thắt nghẹn chợt ùa đến như giông bão bóp chặt lấy quả tim và tôi ngừng thở, ý thức rõ rệt được sự xấu xa, một sự xấu xa tuyệt đối đang bủa vây tôi và xâm chiếm lấy hồn tôi.
    Vì tôi nhận thấy rõ ràng tình yêu tôi đối với Mai là tình yêu một chiều, nàng sẽ chẳng bao giờ yêu tôi. Mai có thể yêu Hoàng, người đang ngồi đối diện với nàng trong tiệm kem này, những dấu hiệu của tình yêu đang và sẽ xẩy ra giữa hai người tôi nhận thức được ngay. Mai có thể sau này không yêu Hoàng và yêu người khác hay nhiều người khác, nhưng tôi chắc chắn một điều, khẳng định một cách tuyệt đối trong buổi chiều ngày thứ bảy đẹp trời hôm đó, nàng sẽ không bao giờ yêu tôi, và tôi suốt đời sẽ chỉ là một người anh họ, được chú ý đến như một con chiên lạc loài được đón nhận trở lại vào bầy, nhưng chỉ thế thôi, không hơn không kém.
    Từ trước tới giờ tôi không bao giờ để ý đến chuyện tốt, xấu. Có lẽ cho đến lúc đó tôi là người tốt, nếu hiểu tốt như là chưa bao giờ làm chuyện gì xấu, như những điều mấy ông thầy dòng đã cố gắng nhồi vào đầu óc tôi suốt những năm học tiểu học, trung học. Tôi sống bình thường, không làm điều gì hại đến ai, không hề có ý tưởng làm những chuyện phiền lòng cho người khác. Mặc dù tôi không làm điều tốt, nhân nghĩa nào cả nhưng có lẽ so với chán vạn người khác, tôi vẫn tốt hơn nhiều người. Chuyện tốt xấu cũng như cuộc đời có lẽ tùy thuộc nhiều vào hoàn cảnh.
    Giả sử như tôi không gặp Mai, không biết Mai là ai cả, với sự nhồi sọ của mấy ông thày dòng, có lẽ tôi sẽ trở thành một người tốt, tương lai sẽ là một người chồng, cha tốt, một công dân gương mẫu, hoặc giả tôi xiêu lòng vì những lời khuyến khích, dụ dỗ của mấy thầy dòng, đi tu, biết đâu tôi lại trở thành người thánh thiện là đằng khác. Nhưng ngày hôm đó, chiều thứ bảy hôm đó, ngồi nhìn tình yêu đang nảy nở giữa Mai và Hoàng, tôi biết sự xấu đã đến với tôi, xâm chiếm lấy tôi một cách tuyệt đối, vào từng đường da, thớ thịt, vào từng ngõ ngách của tâm linh tôi. Cái xấu chợt ùa đến, chụp lấy tôi như lưới cá của người ngư phủ, càng vùng vẫy càng thắt chặt. Sự xấu không đến từ từ, có lẽ ông không hiểu được điều này và chắc cũng ít người ý thức được; sự xấu đến với tôi ngày hôm đó, mãnh liệt và cuồng bạo, dứt khoát và hoàn toàn, là sự xấu tuyệt đối, không thương hại, không mặc cả.
    Điều làm tôi ngạc nhiên là nhận biết sự xấu đang đến với mình, bủa vây mình không làm cho tôi sợ hãi chút nào cả, như thể tôi đã biết được chuyện sẽ xẩy ra như vậy. Đồng thời tôi bắt đầu ý thức được một cảm giác lạ thường, phải gọi là khoái cảm mới đúng hơn, làm tôi tê dại hẳn đi. Tình yêu tuyệt vời của tôi đối với Mai mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc nhưng những cảm giác sung sướng, hoan lạc nhận được có lẽ không thể so sách với mức cường độ của niềm khoái cảm kỳ lạ do sự xấu phủ chụp lấy hồn tôi, đời tôi, lúc đó đem lại. Phải chăng điều gì cũng có giá của nó và sự xấu muốn tồn tại phải đem lại cho nạn nhân của nó một cái gì đó, xứng đáng, để trao đổi.
    Tình yêu của tôi đối với Mai là tình yêu tuyệt đối nên khi móng vuốt của sự xấu xa chụp lấy hồn tôi lúc đó không thể nào là khác hơn, và chỉ có thể là một sự xấu tuyệt đối. Cánh cửa của định mệnh đã hé mở và tôi nhìn thấy rõ định mệnh của mình, mấy ai trên đời này có thể biết được định mệnh của mình. Tình yêu của tôi và sự xấu xa, quyện tròn, phủ kín lấy nhau, trộn lẫn như hai mặt của tuyệt đối, không thể rời nhau ra cho đến tận cùng của đời tôi. Ngày phân cách sẽ là ngày tôi chết. Vì còn gì có thể tuyệt đối hơn sự chết?

    Như thế, ngày thứ bẩy đẹp trời hôm đó, anh bạn Hoàng đáng thương đã tự đưa mình vào chỗ hủy diệt, Mai cũng không thể ngờ được chính nàng là bồi thẩm đoàn quyết định sự sống còn của Hoàng, ánh mắt long lanh và nụ cười của nàng với Hoàng là lời phán quyết tối hậu, tôi còn có thể làm gì khác hơn việc thi hành bản án.
    Hai tháng kế tiếp sau đó, Hoàng gặp Mai mỗi tuần những ngày thứ bảy ra phép và tôi đi theo, lạnh lùng quan sát như nhìn cuộc tình của một cặp nào đó, không phải giữa Mai, người tôi yêu và Hoàng, người bạn thân. Sự bình thản này làm chính tôi cũng phải ngạc nhiên cho chính mình. Sự ngạc nhiên không kéo dài lâu, chỉ là ngọn lửa yếu ớt của những gì còn sót lại từ những giáo điều xa xưa lụn tắt dễ dàng trước bóng tối dầy đặc của sự xấu đêm đen. Tôi nhìn Hoàng và Mai nắm tay nhau, cười nói với nhau, nhìn nhau âu yếm, lòng dửng dưng không một chút xúc động. Điều này cũng dễ hiểu và có gì có thể ảnh hưởng đến tình yêu tuyệt đối của tôi với Mai. Và vì tôi đang dự trù kế hoạch để giết Hoàng!

    Việc tôi giết Hoàng là việc giản dị, tự nhiên như hai với hai là bốn, tôi chỉ thi hành một bản án do chính Hoàng tự nguyện và Mai đã phán xử. Điều cốt yếu là sắp xếp mọi chuyện để cái chết của Hoàng tự nhiên, không ai có thể nghi ngờ được, nhất là Mai. Người cuối cùng trên cõi đời này biết được việc tôi giết Hoàng sẽ là Mai vì tôi có thể thủ tiêu cả nhân loại này để nàng không biết được điều đó!
    Kế hoạch của tôi giản dị tuy việc đạt được thành quả tùy thuộc vào vấn đề may rủi. Chẳng qua cũng là số mệnh của Hoàng! Vì lần đầu tiên thực hiện đã thành công ngay. Một hình phạt cho khóa sinh của trường Võ Bị trong khoảng thời gian đó là người bị phạt phải chui vào một bao bố, bọc kín và đẩy cho lăn từ đỉnh đồi xuống cuối đồi. Thường khóa sinh bị phạt chỉ trầy trụa chút đỉnh, khó chịu nhiều vì chóng mặt và sợ mà thôi. Đêm hôm trước ra bãi tập trên đỉnh đồi, tôi sửa soạn để Hoàng sẽ là nạn nhân ngày hôm sau. Nửa đêm hôm đó, tôi lẻn ra dưới chân con dốc, lăn một tảng đá khá lớn chôn dưới dốc và lấy bùn đắp lên trên để ngụy trang. Trở về trại, tôi lén đổ chút cát vào nòng súng M-16 của Hoàng, biết chắc tên thượng sĩ già hắc ám khám súng sáng hôm sau sẽ tìm ra ngay.
    Hình phạt cho Hoàng sáng hôm đó là lăn bao bố xuống chân ngọn đồi bãi tập. Sự việc xảy ra như điều tôi dự đoán, Hoàng chết ngay khi đầu đập vào tảng đá dưới chân đồi, ai cũng nghĩ do cơn mưa lớn tối hôm trước làm soi đất lộ ra và cái chết của Hoàng được tất cả mọi người đồng ý là tai nạn. Hình phạt lăn bao bố được bãi bỏ, cuộc điều tra chấm dứt một cách nhanh chóng và trường Võ Bị sau một hai tuần trở lại cuộc sống thường ngày. Không ai có thể nghĩ đến tôi là thủ phạm cả!
    Mai khóc hết nước mắt ngày chôn Hoàng, nàng gục đầu vào vai tôi nức nở suốt buổi hôm đó, điều mỉa mai hơn cả là tình yêu của tôi đối với Mai càng mãnh liệt hơn bao giờ, chừng như tội ác là món ăn kích thích và nuôi sống tình yêu của tôi đối với nàng. Tôi ôm nàng trong vòng tay và cảm thấy hơi sợ hãi cảm giác kỳ lạ này. Nhưng cảm giác đó tan biến ngay, tội ác gì? Việc Hoàng chết là việc phải xảy ra. Chỉ có tình yêu của tôi với Mai mới có quyền hiện hữu, mọi sự khác đều vô nghĩa và việc Hoàng sống hay chết tôi có để ý gì!

    - Chắc ông tự hỏi tôi có ân hận gì không trong việc tôi giết Hoàng? Câu trả lời là không! Hoàn toàn không! Người ta ân hận khi làm điều gì quấy, biết mình làm quấy và ý thức, chấp nhận điều đó là quấy. Tình yêu của tôi đối với Mai là tình yêu tuyệt đối. Đối với tôi, việc phụng sự tuyệt đối cho tình yêu là việc phải, hợp lý, không có gì quấy cả. Những người hiệp sĩ thập tự quân thời Trung Cổ giết người dã man, tàn bạo cho tuyệt đối tín ngưỡng của họ, có ai bảo họ là quấy đâu lại còn được phong thánh là đằng khác. Tôi có bảo vệ tuyệt đối của tình yêu với Mai, phải giết Hoàng cũng là điều không thể làm khác được.
    Chắc ông cho tôi ngụy biện. Trên đời này làm gì có tình yêu nào tuyệt đối như tôn giáo, sẵn sàng giết chóc hay hy sinh tính mạng mình cho điều mình tôn thờ. Có lẽ ông nghĩ thế cũng đúng, cả triệu người, tỷ người trên người trên quả đất này làm gì có tình yêu, họ chỉ có tình dục để sinh con, đẻ cái, truyền giống cho bản năng tự nhiên của con người. Mấy ai đã có tình yêu, cả lịch sử của nhân loại nữa, tình yêu tuyệt đối như tôi đối với Mai có lẽ chỉ có trong truyền thuyết. Tristan và Yseult, Trương Chi Mỵ Nương, còn ai nữa nhỉ? Ông đừng cười, tình yêu của tôi như của họ, chỉ vinh danh trong sự chết. Và sự chết, tình yêu chỉ là hai mặt của một thực thể; đối với tôi, cái chết của Hoàng là một phán quyết của tình yêu, tự nó là tình yêu, được dâng hiến trên bàn thờ của hy sinh cho tất cả, cho tuyệt đối của tình yêu.
    Có lẽ loài người, kể cả ông nữa, nhìn vào sẽ nói rằng tôi giết Hoàng chỉ vì ghen. Điều này đúng, áp dụng cho tất cả mọi người chỉ trừ một nhân vật, người đó là tôi. Ghen tuông là cảm xúc, là mù quáng. Tôi không có triệu chứng nào xác định điều đó cả, lòng tôi bình thản, dự trù kế hoạch, sắp đặt chương trình qui mô, không giận không ghét, thực thi những điều tôi phải làm theo phán quyết của tình yêu. Ghen tuông không khi nào là yếu tố trong việc làm của tôi. Ông tin hay không tùy ông nhưng quả thực là như thế!

    Mọi sự rồi cũng qua đi và Mai cũng dần dần khuây khỏa được nỗi buồn. Dĩ nhiên tôi ở suốt bên nàng những ngày nghỉ phép và đời tôi lại trở về những ngày vui sướng, hạnh phúc, đưa Mai đi chơi cuốn tuần, như những ngày trước đó khi chưa có Hoàng, chừng như sự xuất hiện của Hoàng không để lại một dấu vết gì, biệt tăm như một viên đá chìm sâu dưới đáy hồ. Và tôi tiếp tục thảnh thơi hưởng thụ những dịu ngọt của tình yêu bên Mai trong suốt một năm còn lại trên trường Võ Bị Đà Lạt. Ai dám nói rằng làm ác không đem lại được điều hay đâu?
    Thời gian tôi sắp sửa mãn khóa cũng là lúc đất nước sắp lọt vào tay Cộng Sản. Mùa xuân năm 1975 đó, gia đình Mai dọn về Sài Gòn, trường Võ Bị cũng di tản chiến thuật và tôi mất liên lạc với Mai. Tôi không muốn kể nhiều cho ông nghe về khoảng thời gian này vì dĩ nhiên người nào cũng có những biến động lớn sau ngày 30 tháng Tư đó. Tôi cũng như bao người khác phải đi học tập. Điều làm tôi khổ sở không phải vì sự hành hạ của bọn Cộng Sản mà vì tôi mất liên lạc với Mai. Tôi không hiểu Mai có thoát đi được hay ở lại, nàng còn sống hay chết, hay rơi vào tay bọn cán bộ khốn nạn. Tôi như điên cuồng với những hình ảnh đó nhưng cũng chính nhờ thế tôi giữ gìn mạng sống mình một cách cẩn mật hơn. Trong cảnh lao tù với bọn Cộng Sản, duy trì được đời sống là việc tối thượng và Mai là một ngàn lần lý do để tôi tìm đủ cách để sống, chờ ngày thoát để gặp lại nàng.
    Dịp may đến vào khoảng 2 năm sau ngày tôi vào trại học tập. Tôi và một nhóm sĩ quan tổ chức vượt ngục trong một buổi đi rẫy, một số bị bắn chết nhưng tôi và vài người nữa thoát được. Chúng tôi băng rừng, lội suối sau cùng rồi cũng về được Sài Gòn. Việc đầu tiên tôi làm là đi tìm Mai. Mất cả tháng trời dọ hỏi tôi mới biết tin nàng: Mai đang ở Rạch Giá tìm đường vượt biên. Định mệnh có lẽ đã gắn liền đời tôi với Mai vì sau khi trải qua bao khó khăn để xuống được tới Rạch Giá, ngày tôi gặp lại Mai cũng là ngày nàng sắp vượt biên. Mai ôm lấy tôi khóc, báo tin dì Tâm đã chết, nàng hiện giờ hoàn toàn trông nhờ vào Vượng, hôn phu của nàng, cũng là người tổ chức cuộc vượt biên cho cả nhóm.
    Mai giới thiệu tôi với Vượng và với hai lượng vàng mang theo, tôi điều đình để được lên ghe và chúng tôi vượt biên ngay đêm hôm đó. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu và không diễn tả được tâm trạng tôi lúc bấy giờ. Nỗi nhớ nhung điên cuồng quay quắt trong tuyệt vọng của tôi khi còn trong trại học tập, chỉ mong được gặp lại nàng, nhìn thấy nụ cười của nàng; nỗi thất vọng khi về đến Sài Gòn trải qua bao gian nguy kinh hoàng không tìm thấy Mai; niềm hy vọng trên con đường từ Sài Gòn đến Rạch Giá để tìm Mai. Và mọi sự kết tụ lại như một tình cờ. Không những tôi gặp được Mai, tôi có cơ hội để vượt biên ngay đêm hôm đó. Những cảm xúc ồ ạt xua đến và đi như ngọn triều dâng, bên cạnh Mai trên chiếc ghe mỏng mảnh giữa lòng đại dương, tôi cảm thấy mình vẫn còn được đãi ngộ hậu hĩ, và đời tôi với Mai sẽ lại như xưa, một cánh, một cành, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi.
    Chỉ có một điều ngăn trở trong những giờ đầu tiên gặp lại Mai tôi không hề để ý đến; hạnh phúc tuyệt vời làm tôi quên tất cả; nhưng giữa trời sao và sóng nước mịt mùng, tôi mới chú ý đến điều đã từ từ dâng lên như một cơn nghẹn cổ. Đó là sự hiện diện của Vượng. Mai đã giới thiệu Vượng với tôi lúc mới gặp: Mai quen Vượng lúc chạy từ Đà Lạt về Sài Gòn, giúp đỡ nàng rất nhiều khi dì Tâm mang cơn bạo bệnh và lúc dì mất, tận lực giúp nàng trong việc mở quán cà phê sống qua ngày tìm cơ hội vượt biên. Tôi ngắm nhìn kỹ Vượng, hắn không đẹp không xấu nhưng mang một vẻ gian xảo tôi có ác cảm ngay. Tôi không hiểu sao Mai có cảm tình với hắn, dưới mắt tôi, Vượng tiêu biểu cho một loại người thấp kém và hèn hạ: lúc Việt Cộng chưa vào trốn lính trốn chui trốn nhủi, đến khi miền Nam mất, nhởn nhơ làm ăn. Mặc dù có hắn tôi mới có cơ hội vượt biên, nhưng tôi không cảm thấy một chút ân huệ nào và hắn lại là hôn phu của Mai, người tôi tưởng đã mất đi không bao giờ gặp lại, người của tình yêu tôi, tuyệt đối, bên cạnh một sinh vật thấp hèn như hắn một điều hoàn toàn vượt ngoài tầm ý thức của tôi và dĩ nhiên, không thể nào chấp nhận được.
    Cuộc vượt biên của chúng tôi gặp nhiều điều không may, ngày thứ nhì trên mặt biển bão đổ đến giữa lúc trời quang mây tạnh, bất ngờ và đe dọa. Vượng mặt tái mét hết hẳn lời ba hoa tự khen mình tính toán được thời tiết. Cơn bão nhồi chúng tôi mệt lừ cả đêm. Đến sáng mới tạm yên, nhưng cơn giông bão vừa qua, một thảm họa khác đã chờ ngay. Giữa trưa hôm đó ghe chúng tôi bị bọn cướp biển Thái Lan cặp. Những tên cướp biển hung dữ đầu chít khăn tịch thu tất cả vàng, nữ trang, lương thực. Một người trong ghe chống cự bị chúng bắn chết ngay. Tôi đã thủ sẵn dao dấu trong người ngay khi bọn cướp biển vừa cặp ghe. Tôi ấn Mai ngồi xuống một góc và đứng cạnh nàng sẵn sàng vì tôi biết sau khi lấy xong đồ, bọn cướp sẽ dở trò khốn nạn với đàn bà. Đúng như dự đoán một tên xấn xổ đến phía Mai ngồi, Tôi nhìn quanh, Vượng nằm bất động dưới sàn ghe không cục cựa giả chết. Giữa tên cướp biển và Mai, chỉ còn tôi. Tôi không chần chờ, rút dao đâm ngay. Hắn loạng choạng lùi lại rút súng ra bắn. Tôi khụy xuống, viên đạn trúng bụng nhưng tôi chưa ngất, vẩn ôm dao thủ thế. Một tên cướp khác nhào lại đá văng con dao tôi đang cầm, hắn giơ mã tấu lên chém, tôi đưa tay trái lên đỡ. Cánh tay tôi bị tiện ngay nhưng nhờ thế tôi thoát chết vì lúc tên cướp sắp sửa bồi nhát thứ hai, hắn bị một tên khác ngăn lại. Một chiếc tàu của hải quân Mỹ vừa xuất hiện ở chân trời và bọn cướp hốt hoảng rút lui ngay. Và cũng đúng lúc tôi vừa ngất đi, bên tai nghe tiếng Mai la hét cầu cứu tưởng tôi đã chết.
    Tôi phải mất máu nhiều lắm vì đến lúc tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một giường bệnh trắng toát. Một cô y tá người Tàu vừa nhìn thấy tôi mở mắt chạy lại nói líu lo. Thấy tôi không hiểu, cô nói tiếng Anh và với vốn liếng Anh ngữ ăn đong của tôi lúc đó, tôi được biết đã mê man đến 5 ngày. Sau khi ghe tôi được hải quân Mỹ vớt tôi được chuyển đến bệnh viện này ở Tân Gia Ba và giải phẫu cấp cứu ngay. Vết thương đạn tuy lủng ruột, nhưng không chạm vào cơ quan nào trọng yếu khác, chỉ có điều mất máu nhiều quá, phải truyền đến 10 bịch máu. Cánh tay trái không cứu vãn được phải cắt bỏ. Nhưng sống được như thế cũng là may lắm. Hỏi thăm về chuyến ghe tôi mới biết cả đoàn đã được hải quân Mỹ đưa đi có thể nhập cảnh Mỹ ngay, riêng tôi phải nằm lại Tân Gia Ba dưỡng bệnh và chờ đợïi giấy tờ, có thể mất ít nhất vài tháng nữa.
    Thế là Mai đã được vào Mỹ trước tôi, cùng với Vượng, tên khốn nạn giả chết lúc nguy cấp. Còn tôi phải nằm đây, xa Mai, chờ đợi đến ngày gặp lại.

    Mãi đến gần một năm sau, tôi mới được nhập cảnh vào Mỹ. Nằm trong nhà thương cả tháng trời vì biến chứng, lúc khỏi bệnh lại bị giấy tờ trục trặc, tôi nằm trong trại tỵ nạn lòng như lửa đốt vì Mai tuyệt vô âm tín. Tôi nhờ hội Hồng Thập Tự tìm địa chỉ nàng nhưng vẩn không biết được dấu tích gì. Tôi đoán có lẽ Vượng đã ngăn cản để Mai không liên lạc được với tôi, và Mai đang ở với Vượng, tình yêu của cả một đời tôi bên cạnh một kẻ khốn nạn, đê tiện. Làm sao tôi có thể chịu đựng nổi. Tôi mất thêm một năm nữa ở California sau khi được vào Mỹ. Tôi làm đủ mọi việc vặt để sống qua ngày và để dọ hỏi tin tức Mai. Điều sai lầm của tôi là nghĩ Cali với nhiều người Việt ở chắc Mai sẽ định cư ở đây. Tìm Mai khắp miền Nam Cali không được, tôi lên miền Bắc Cali, không ai biết Mai ở đâu cả.
    Sau cùng rồi tôi cũng biết được địa chỉ nàng. Tôi gặp lại một người đi cùng trên chuyến ghe vượt biên cho biết Mai hiện đang ở với Vượng trên New York. Mai ở Staten Island, một trong năm quận của thành phố New York, cách Manhattan bằng cầu treo Verazano. Tôi ngồi trên taxi đi qua chiếc cầu treo dài nhất thế giới này lòng bồn chồn như lửa đốt. Mai hiện giờ ra sao? Tại sao nàng không chịu liên lạc với tôi khi tôi đang dở sống dở chết trong bệnh viện ở Tân Gia Ba? Tại sao nàng lẩn tránh để tôi không tìm được nàng khắp vùng Cali? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến trong trí trên suốt quãng đường từ phi trường đến Staten Island. Chỗ Mai ở là một khu apartments trên đồi, taxi phải chạy vòng vèo qua những con đường nhỏ tàn cây xum xuê, sau cùng dừng lại trên một con đường cụt hình chữ U, apartment Mai ở nằm ngay trong dãy đầu tiên nên tôi kiếm được ngay.
    Lúc bấy giờ trời đã xẩm tối, tháng 9 trên New York đã lạnh nhiều, tôi bấm chuông và hồi hộp đứng đợi. Cửa mở, Mai hiện ra, nàng nhìn tôi trân trối như nhìn một bóng ma đội mồ sống dậy rồi òa khóc ôm chầm lấy tôi. Tôi hiểu ngay, Mai đinh ninh tôi đã chết khi chuyển đến bệnh viện Tân Gia Ba và tất cả những thiệp báo của Hồng Thập Tự hoặc thư tôi viết đã bị tên Vượng khốn kiếp dấu nhẹm đi cả. Mai đẩy tôi ra, nhìn kỹ tôi một lần nữa, lần này nàng mới chú ý đến cánh tay cụt của tôi. Mai nghẹn ngào:
    - Anh Vũ, anh Vũ...
    Nàng không nói được nữa, dắt tôi vào nhà trong. Vượng đang ngồi trên chiếc sofa, tay cầm ly rượu mặt đỏ ké. Hắn nhìn tôi trân trối rồi lạnh nhạt đứng dậy bắt tay tôi. Mai nhìn Vượng vẻ sợ hãi:
    - Anh Vũ đây anh Vượng! Anh bảo với em anh Vũ đã chết, em cầu trời khấn Phật mãi để cho không phải, lòng thành em được chứng giám đấy anh thấy không?
    Vượng không nói gì, chỉ hừ một tiếng, hắn gượng gạo mời tôi ngồi rồi im lìm để mặc tôi và Mai nói chuyện. Được một lúc, hắn cáo lỗi vì say và vào phòng trong. Tôi ngồi nghe Mai kể chuyện hai năm qua, đợi khi nghe tiếng ngáy của Vượng đều đều từ phòng ngủ vọng ra mới hỏi Mai:
    - Vượng đối xử với em như thế nào?
    Mai im bặt, không nói một tiếng nào nữa. Một lúc sau nàng lặng lẽ khóc, mắt nhìn xuống cánh tay. Tôi nhìn theo và lần đầu tiên từ lúc gặp Mai tôi mới để ý đến: những vết bầm xanh đầy trên cánh tay trắng nõn của nàng nãy giờ bị ánh sáng hơi tối chỗ Mai ngồi che dấu, nay hiện lên rõ mồn một. Máu trong ngực tôi như nhào lên, ruột tôi như sôi lửa, tôi hỏi Mai giọng lạc đi:
    - Vượng đánh em?
    Mai không nói chỉ lặng yên ngồi khóc. Tôi không cần câu trả lời xác định của Mai, mọi sự rõ ràng như ban ngày: Mai người tôi yêu, người tôi bỏ cả cuộc đời để cho nàng, người tôi sẵn sàng làm đủ mọi chuyện tốt, xấu chỉ vì nàng, bị một tên say rượu vũ phu hành hạ. Điều tôi không ngờ đến nhất là câu trả lời của Mai cho câu hỏi kế tiếp của tôi:
    - Tại sao em lại để như vậy?
    Câu trả lời của nàng làm tôi bàng hoàng, như một tiếng sét giữa trời quang mây tạnh, người tôi run lên, mắt như hoa và một lần nữa, điều ám ảnh tuyệt đối năm năm trước lại trở lại, bao phủ lấy hồn tôi.
    - Em yêu Vượng!
    Tôi biết sẽ phải làm gì sau khi nghe nàng nói.

    Tình yêu quả thật kỳ lạ. Tôi yêu Mai như từ trước đến giờ chưa có người nào yêu một người khác như vậy. Tôi có thể chết một ngàn lần vì nàng hoặc giết một triệu người vì nàng. Mai biết điều đó, cảm nhận tình yêu của tôi nhưng nàng chưa hề và sẽ không bao giờ yêu tôi. Suốt đời tôi sẽ chỉ là người anh họ của nàng, giản dị có thế. Và nàng nói với tôi: “Em yêu Vượng”!
    Tôi không thể hiểu tình yêu của nàng, dưới mắt tôi, Vượng chỉ là một sinh vật đớn hèn, không đủ khả năng làm người, nói gì đến một người Mai có thể yêu. Điều tệ hại hơn nữa, không điều gì biểu lộ rằng hắn yêu lại nàng cả. Có lẽ định mệnh đã xui khiến như vậy, tình yêu là sự đuổi bắt, là vòng lẩn quẩn. Tất cả chỉ là mù quáng, ảo ảnh. Dĩ nhiên đối với tôi Mai xứng đáng cho tình yêu của tôi, nàng là tượng trưng cho tuyệt đối, cho những gì đẹp nhất, cao quí nhất. Nàng có thể không yêu tôi nhưng nàng không thể hạ mình xuống tầm mức của tên Vượng được, vòng dây trói giữa tôi và nàng không thể để mấu chốt xấu xa như vậy dính vào được. Và như một con sâu hôi thối cần phải dùng mũi giầy dí nát, tôi quyết định phải trừ khử Vượng, một cách vĩnh viễn!
    Tôi thuê khách sạn gần chỗ Mai ở và suốt tuần đó tôi đều lại chơi, tôi rỏ ra thân thiện với Vượng và sau vài ngày hắn đã hòa hoãn hơn trước. Biết tật uống rượu của hắn, tối nào tôi cũng mua rượu ngon đặc biệt mang đến. Vượng mừng rỡ, mắt sáng lên mỗi lần tôi mở một chai Cordon Bleu như chai này. Hắn đi làm kiếm không được bao nhiêu tiền, cộng với tật bần tiện, khi nào dám uống rượu sang. Mai cũng lộ vẻ an ủi khi thấy tôi vui vẻ với Vượng. Thứ sáu hôm đó, cũng một buổi trời mưa tầm tã như đêm nay, Mai phải đi làm ca nhì, ngày hôm trước nàng đã dặn với tôi Vượng có thể phải một hay hai giờ sáng nàng mới về vì việc nhiều. Tôi đùa:
    - Không sao, chắc anh cũng bận không đến được còn Vượng có uống rượu trừ bữa tối cũng được cơ mà.
    Mai chỉ lắc đầu không nói. Tối hôm đó, biết chắc chỉ mình Vượng ở nhà, tôi mang một lô rượu đến. Vượng hân hoan mời tôi vào, tôi mang ít đồ nhậu bỏ ra và vừa lai rai vừa khích Vượng để hắn uống. Tửu lượng của Vượng cũng vào bực khá, tôi uống cầm chừng, nhồi cho hắn uống thật nhiều. Đến chai thứ hai hắn mới bắt đầu say, càng say nghe lời nói khích hắn càng uống. Được một lúc, Vượng bắt đầu ngả nghiêng rồi nằm vật xuống. Tôi lay thế nào hắn vẫn không tỉnh, mê man hoàn toàn không nhúc nhích.
    Để yên trí hơn nữa, tôi ra xe lấy thêm một chai rượu và một chiếc phễu dài; thọc phễu vào cổ họng Vượng, tôi từ từ tuôn hết cả chai rượu nguyên, tránh không để hắn sặc. Vượng vẫn nằm yên mê man, lần này chắc chắn hẳn, tôi xốc Vượng vào phòng ngủ và đặt hắn nằm lên giường. Tôi ngắm nghía Vượng, mặt hắn đỏ bừng bừng, rãi hai bên mép chẩy xuống trông thô bỉ làm sao. Với số lượng gần ba chai rượu mạnh đổ vào cơ thể trong một thời gian ngắn như thế, hắn không chết cũng còn lâu mới tỉnh dậy được. Nhưng khi nào bỏ qua dịp may, tôi lấy chiếc gối dài phủ kín mặt Vượng, dùng tay và đầu gối đè chặt hai bên. Tôi giữ như vậy cũng lâu lắm, hài lòng với chính mình, không ai có thể nghi ngờ tôi được.
    Mai không biết tôi đến, tôi sẽ thu dọn cẩn thận tang chứng, nói dối với nàng ở khách sạn cả đêm. Mai sẽ tưởng rằng Vượng uống quá độ, say đi ngủ và trúng gió chết. Giới chức trách có khám nghiệm giải phẫu tử thi cũng sẽ chỉ cho Vượng chết với độ rượu quá cao trong máu. Mọi người sẽ chỉ cho là tai nạn, cũng như Hoàng năm năm trước.
    Tôi vẫn đè gối trên mặt Vượng, mải mê với những ý nghĩ trên cho đến khi tiếng động sau lưng làm tôi giật mình quay lại: Mai đang đứng sững trước cửa phòng ngủ, chiếc ví của nàng rơi trên mặt sàn. Điều tôi lo ngại trở thành sự thực, Mai bất ngờ về sớm chứng kiến việc tôi đang giết Vượng. Và tất cả bỗng trở thành mơ hồ, thực tại chợt biến đi không còn nữa, làm sao tôi giải thích cho Mai được mọi sự đều là tình yêu, hoàn toàn chỉ vì tuyệt đối của tình yêu. Sự sống, sự chết, loài người, có nghĩa gì trước tình yêu của tôi đối với Mai. Tôi muốn hét lên cho nàng biết, phá tan niềm im lặng của tuyệt vọng đang bao phủ lấy tôi với nàng.
    Khuôn mặt Mai trắng bệch, mắt mở lớn hãi hùng, nàng nhìn xác Vượng rồi nhìn tôi và trong thoáng chốc tôi biết nàng biết tất cả, lần đầu tiên Mai hiểu được tình yêu của tôi đối với nàng và nàng đứng đó trong kinh hoàng, trực giác đã cho nàng biết lý do cái chết của Hoàng năm năm trước, tình cờ đã cho nàng chứng kiến cái chết của Vượng. Tôi giơ hai tay về phía Mai, đau đớn thấy nàng lùi lại. Mai quay mặt đi, tiếng nói của nàng vọng về phía tôi như lời phán quyết của ngày phán xét cuối cùng:
    - Anh đi đi, đừng bao giờ, đừng bao giờ để tôi gặp lại anh nữa.

    Gã chủ quán gục đầu xuống bàn, chai rượu Martell đã cạn mặc dù Duệ không uống lấy một giọt rượu nào. Chàng nhìn xuống Vũ, gã tiếp tục kể giọng nhỏ hẳn đi:
    - Tôi sống trong địa ngục kể từ lúc đó. Nếu Mai bắt tôi chết đi có lẽ còn hay hơn. Nàng lưu đày tôi vào địa ngục ngay trên cõi trần này. Tôi sống, tôi có mặt trên quả đất này vì tình yêu của tôi đối với nàng. Làm sao tôi có thể tiếp tục được khi biết nàng đang ở đâu đó trên giải đất này và tôi sẽ không bao giờ, không còn có thể thấy nàng, nghe tiếng nàng nói, nhìn nụ cười của nàng. Tôi phải ở một nơi nào để không thể gặp lại nàng. Lúc nàng nói: Đừng bao giờ, đừng bao giờ gặp lại nàng, giây phút đó tôi đã ở trong địa ngục, một địa ngục cũng tuyệt đối như tình yêu của tôi với nàng.
    Bây giờ chắc ông hiểu tại sao tôi chọn thành phố Thiên Đường này để sống. Vì đối với tình yêu của tôi, thiên đường và địa ngục cũng chỉ là một.

    Gã chủ quán tên Vũ giọng nhỏ dần ngừng kể, dường như thiếp vào giấc ngủ. Duệ ngồi lặng yên như người vừa ra khỏi cơn thôi miên. Chàng thấy lòng nặng như bầu trời trước cơn giông bão, linh cảm điều chẳng lành. Đêm đã về khuya lắm, cơn mưa lúc giảm lúc tăng.
    Duệ bỗng cảm thấy nóng ruột như lửa đốt, chàng muốn đứng dậy về mà không sao đứng lên khỏi ghế được. Cơn thôi miên như vẫn còn giữ chặt lấy chàng. Duệ nghe có tiếng xe đậu trước quán, rồi bóng người đàn bà Mỹ to béo và vợ chàng hiện ra trước cửa. Chàng đoán vợ chàng đợi chồng mãi không về, sốt ruột nhờ bà chủ khách sạn đưa nàng đi kiếm. Bà Mỹ già nói giọng vui vẻ:
    - Tôi đã bảo bà mà, ông ở quán này chứ có sao đâu mà bà sợ.
    Duệ thấy vợ chàng quay sang cười với bà Mỹ và đột nhiên nụ cười của nàng tắt hẳn. Mai, vợ chàng, vừa nhìn thấy bóng sau lưng gã đàn ông chủ quán đang gục đầu xuống bàn, cánh tay trái cụt lủng lẳng ống tay áo dài hình chiếc nơ xộc xệch rủ xuống.
    Duệ thấy nhói người, tim đập sai nhịp vài ba cái. Trên đời này có bao nhiêu người tên Mai, chàng nghe gã chủ quán kể chuyện mối tình của hắn và cô Mai nào đó, trùng tên với vợ chàng, làm sao trên đời lại có thể có việc ngẫu nhiên như việc Mai, người yêu của gã chủ quán lại chính là vợ chàng. Linh tính đã cho Duệ thấy điều chẳng lành và sự việc muôn triệu lần chỉ có một, quả thực đang xẩy ra với chàng là người trong cuộc.
    Như một cơn ác mộng trong cuốn phim quay chậm, Duệ thấy gã chủ quán ngồi xoay người lại và ánh mắt chạm ánh mắt Mai vợ chàng. Vũ lảo đảo đứng dậy, miệng lắp bắp:
    - Mai.. Mai... Em.. Em..
    Hắn vịn tay xuống bàn, gục xuống. Hắn nói từng tiếng, đầu cúi xuống giọng mơ hồ như từ đáy mồ vọng lên:
    - Đừng bao giờ, đừng bao giờ gặp lại em nữa.
    Những đường gân xanh trên trán gã chủ quán hằn lên, nổi cứng như sắp sửa bật đứt, cặp mắt đỏ ngầu, hắn quay sang nhìn Duệ trừng trừng:
    - Mày... mày.. chồng của Mai?
    Hắn túm lấy ngực áo Duệ, chàng đưa tay lên gạt ra và đẩy người Vũ về đằng trước. Bà Mỹ già tiến về phía Vũ định can. Hắn thét lên một tiếng đẩy ra rồi chạy vào phía trong nhà bếp. Duệ nắm lấy tay Mai chạy ra phía cửa, chàng vừa nhìn thấy Vũ chụp lấy dao tiến ra phía trước.
    Hắn đã hoàn toàn điên loạn vì bất ngờ gặp lại Mai vừa sau khi xúc động mạnh kể lại chuyện cũ với chàng. Duệ mở cửa xe đẩy vợ vào trong và rồ máy chạy. Vũ hiện ra trước cửa chạy theo, cầm dao gào thét:
    - Mai, Mai.. em trở lại đây!
    Khoảng cách mỗi lúc một xa. Duệ nhìn theo trong kính chiếu hậu. Vũ đứng lại, hắn ngửa cổ lên trời rú lên những tiếng thê thảm, gió thổi tóc dựng đứng bay ra sau với cánh tay áo cụt bay phần phật và cơn mưa đổ xuống ào ạt ướt đẫm khuôn mặt. Một ánh chớp lóe lên sáng rực và Duệ nhìn thấy trong một khoảnh khắc Vũ gào lên thảm thiết, giơ tay đâm lút dao vào ngực, giòng máu đỏ vọt ra thành vòi và người hắn đổ ập về phía trước.
    Dư âm tiếng gào của gã chủ quán đến cùng lúc với tiếng sấm lộng vào trong óc Duệ. Chàng đạp sát chân ga, chiếc xe rồ mạnh lao đi trong màn đêm đưa chàng và Mai ra khỏi thành phố Thiên Đường, xa rời hẳn nơi chốn của Thiên Đường đã biến thành Địa Ngục, để lại trên mặt đường và trong cơn mưa thân xác của người đã biết được tình yêu và đã chọn lựa cho tình yêu mình một địa ngục tối tăm và mãi mãi.

    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 05-27-2014 at 08:34 AM.

  6. #6
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Mây Tóc


    Tuân thấy mái tóc ấy lần đầu tiên vào năm chàng 16 tuổi. Nhà chàng ở trên đường Lê Văn Duyệt, con đường đầy xe cộ và bụi bặm, mỗi buổi sáng nghẹt ứ với xe chở hàng, xe đạp, gắn máy, chen chúc với những xe thổ mộ kéo nặng nhọc bởi những con ngựa gầy giơ xương. Trước cửa nhà Tuân là trạm xe buýt chạy suốt con đường Lê Văn Duyệt lên trung tâm thành phố. Những chuyến xe buýt đầy nhóc người với khách đi xe dồn ra đầy hai bên cửa lên xuống, phần lớn là thanh niên đu đưa bám vào chấn song như những con khỉ lắc lư. Các cô thiếu nữ hay những người già cả gặp những chuyến xe này đều phải đợi lại một hoặc hai chuyến sau mới có chỗ lên được.


    Tuân thường có thói quen mỗi sáng vừa ngồi ăn sáng đợi xe vừa nhìn ngắm đám đông tụ tập quanh cột xe buýt trước cổng nhà. Giờ chàng sắp đi học cũng là giờ các học sinh, phần lớn thuộc trường Nguyễn Bá Tòng đứng đợi xe và năm ấy Tuân đã bắt đầu để ý đến các cô nữ sinh áo dài trắng đứng xúm xít trước cổng sân nhà. Các cô thường đứng tụ với nhau thành một đám, chuyện trò ríu rít hoặc đứng yên lặng vừa đợi xe vừa ăn những nắm xôi của hàng quà chiếm cứ thường trực trước cửa nhà Tuân đã nhiều năm nay. Tuân thường chỉ thấy những tấm lưng của các cô thiếu nữ với những chiếc áo dài trắng đơn sơ và chàng cũng chỉ muốn nhìn có vậy. Tuân vẫn ít khi dám nhìn thẳng mặt các cô nữ sinh đôàng lứa tuổi từ khi chàng bắt đầu dậy thì. Ngày đầu tiên Tuân thấy mái tóc, chàng vẫn nhớ rõ mồn một trong ký ức hầu như chẳng bao giờ phai nhạt.


    Buổi sáng hôm ấy Tuân dậy muộn và sau khi đã ăn sáng và sửa soạn xong để đi học, chàng đứng khựng lại vì trong đám vài ba thiếu nữ áo dài trắng đứng quay lưng lại trước cửa nhà Tuân là một mái tóc dài lạ lùng. Người thiếu nữ với mái tóc đập ngay vào thị giác của Tuân chắc mới dọn đến xóm nhỏ bên hông nhà chàng và lần đầu tiên đứng đợi xe buýt đi học trước cửa nhà. Tuân đứng lặng người nhìn. Mái tóc dài đến gần gót chân, đen óng ánh trong nắng buổi sáng, dầy và mướt; mái tóc như một sinh vật có một đời sống riêng, lượn khúc và uốn éo mỗi khi người thiếu nữ cử động hay xoay mình. Tuân như bị thôi miên nhìn không chớp mắt. Chàng cảm thấy cảnh vật chung quanh như bỗng dưng trở thành bất động với tất cả mọi người và đời sống bên ngoài như vô tri, vô giác, chỉ còn chàng và người thiếu nữ với mái tóc dài kỳ lạ hiện hữu trên mặt đất này. Tiếng động ồn ào ngoài cổng cũng tự dưng trở nên im bặt, yên lặng một cách đe doạ như sự yên lặng của trời đất trước khi giông bão đổ đến. Tuân bỗng cảm thấy mường tượng như đời chàng từ đây cũng sẽ bắt đầu thay đổi lớn lao, với đời sống bình yên của 16 năm trước được thay thế bằng bất trắc và sóng động.


    Khi chiếc xe buýt dừng lại và đám nữ sinh với người thiếu nữ tóc dài bắt đầu bước lên xe, Tuân như bừng tỉnh, chàng chạy vội ra và chen vào đám người đang giành lên xe ở cửa sau. Chàng cẩn thận lên xe cửa sau để tránh nhìn thẳng mặt người thiếu nữ tóc dài chàng tin chắc là đẹp tuyệt trần. Người có mái tóc dài đẹp kỳ lạ như vậy dĩ nhiên cũng phải đẹp khác thường. Tuân tự nhủ mình như vậy. Chàng thấy mình cũng chẳng cần vội vã gì biết mặt ngay và quả thật mái tóc của nàng là trung tâm điểm của tất cả sự chú ý và rung động của Tuân, chàng cũng chẳng thấy cần gì hơn là đứng sau lưng nàng, cách quãng chừng vài người đứng ở lối đi giữa hai hàng ghế ngồi, lặng lẽ dán mắt vào mái tóc dài, chăm chú nhìn vô hồn như người tử tội buổi sáng đứng nhìn sợi dây treo cổ buộc sẵn ở ngoài sân. Suốt quãng đường chiếc xe buýt dừng lại với khách lên xuống dọc đường Lê Văn Duyệt kẹt cứng, Tuân có dịp để ý kỹ hơn về người thiếu nữ. Nàng cao thanh thoát trong chiếc áo dài trắng cắt sát gọn với dáng uyển chuyển hơi có vẻ quý phái, tương phản một cách rõ rệt với sự thô kệch của người và cảnh vật chung quanh trong chuyến xe buýt buổi sáng hôm đó. Nàng chắc học trường Nguyễn Bá Tòng vì Tuân thấy nàng đứng với vài ba cô nữ sinh khách quay mặt về phía Tuân với phù hiệu của trường trên ngực áo. Xe dừng lại trước ngã ba đường Lê Văn Duyệt và con đường nhỏ dẫn đến trường.


    Các cô nữ sinh lục tục đi xuống. Tuân vội vã quay mặt đi để tránh nhìn mặt nghiêng bên phải của người thiếu nữ tóc dài. Khi xe bắt đầu chuyển bánh, Tuân mới quay lại nhìn và hình ảnh của người thiếu nữ với mái tóc dài gần chấm gót đi cùng với mấy người bạn trên con đường nhỏ với hai hàng cây me cao tàn lá phủ là hình ảnh Tuân chắc sẽ ở mãi mãi với chàng trong ký ức sâu thẳm nhất. Mái tóc dài lung linh, gợn sóng chàng thấy không phải như con suối chảy nhưng như một làn mây bay – Mây tóc. Tuân cảm thấy tương đối hài lòng với sự so sánh của mình, thực sự chàng nghĩ, không có hình ảnh hay từ ngữ nào có thể diễn tả được sự rung động của chàng đối với mái tóc của nàng, và chàng đứng đó trên chiếc xe buýt chạy ngang qua con đường nhỏ, ghi nhận với tất cả tâm hồn và tư tưởng của mình dõi theo trong một thoáng của thời gian, mái tóc dài huyền ảo như một thứ định mệnh đã đi vào cuộc đời chàng, thay đổi tất cả, đưa chàng vào một cuộc đời khác, một cuộc đời và một thế giới khác lạ, tương phản và kỳ diệu, với sung sướng và đau khổ, với đi tìm và trốn chạy, với chấp nhận và gạt bỏ.


    Tuân đứng xuất thần với những cảm giác mới lạ và những ý nghĩ chạy vùn vụt qua trong óc đến khi chuyến xe dừng lại trước trạm xe trước bùng binh, chàng mới sực tỉnh và xuống xe đi bộ đến trường. Kể từ hôm đó, đời chàng và mái tóc dài như gắn liền mỗi buổi sáng đi học, Tuân vẫn đứng sau lưng người thiếu nữ trên chuyến xe buýt ngắm nhìn mái tóc riêng của chàng, say sưa và no đủ như một buổi ăn mỗi ngày không biết chán. Chàng cẩn thận để tránh nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ và lâu dần như một phản xạ chàng như phát triển được linh tính để báo trước cho chàng biếât mỗi cử động quay mặt của người thiếu nữ để chàng kịp thời nhắm mắt lại hay quay người đi. Trong suốt một năm học đó, người thiếu nữ với mái tóc dài đều đặn đi học bằng xe buýt và Tuân sung sướng với những ngày đi học,đợi chờ để mong sớm đến sáng hôm sau và thù ghét những ngày nghỉ cuối tuần hay ngày lễ.


    Đầu tiên, Tuân không dám nhìn mặt người thiếu nữ tóc dài vì nhút nhát, chàng cảm thấy sợ hãi những người con gái trong lứa tuổi chàng đầy nhí nhảnh và duyên dáng; Tuân cảm thấy một hấp lực mạnh mẽ lôi kéo nhưng đồng thời cũng cảm thấy sợ hãi vì sự lôi cuốn đó. Từ ngày gặp người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót, chàng càng cảm thấy sự hấp dẫn nhưng sự sợ hãi của chàng lại càng tăng thêm. Tuân đã nhiều lần đứng sát ngay sau lưng gần như chạm hẳn vào mái tóc, mũi chàng đã ngửi thấy mùi hương đặc biệt của người thiếu nữ. Tuân đứng tận hưởng sự gần gũi của chàng với mái tóc dài bằng tất cả giác quan và ý thức của chàng, nhưng đồng thời cũng cảm thấy lòng dằng co mãnh liệt giữa những sợ hãi tự nhiên và ý muốn được biết mặt người con gái. Tuy vậy lần nào cũng thế, vào phút chót Tuân vẫn không đủ can đảm để xem mặt nàng.


    Lâu dần khi tình yêu của chàng đối với mái tóc một ngày một tăng. Tuân lại nhận thấy một điều khác lạ. Chàng tưởng tượng ra những khuôn mặt đẹp tuyệt trần với mái tóc kỳ diệu chàng đang say mê, và mỗi đêm trước khi đi ngủ với hình ảnh mái tóc bồng bềnh bay phủ, chàng thấy bay lượn những hình ảnh tuyệt vời của những người đẹp toàn mỹ đưa chàng vào giấc ngủ. Tuân bắt đầu cảm thấy lo ngại và sợ hãi, lần này không phải là sự sợ hãi của một chàng thanh niên mới lớn với một cô gái nhưng là sự sợ hãi cho một sự thất vọng chàng nghĩ rằng sẽ không thể sống nổi nếu mái tóc dài kỳ diệu của chàng thuộc về một người dưới mức độ chàng tưởng tượng.


    Niên học đã gần hết Tuân bắt đầu phải sửa soạn để thi Tú Tài và chàng tự nhủ với lòng sẽ nhất quyết xem mặt người thiếu nữ tóc dài vào những tuần lễ cuối của niên học. Chàng không biết nàng học lớp mấy và niên học đến có tiếp tục đi xe buýt đến trường nữa không. Tuân mất gần đến mấy tuần lễ mới quyết định được sau khi đắn đo và trằn trọc nhiều đêm. Trong khoảng thời gian này, tình yêu của Tuân càng gia tăng mãnh liệt, chàng hầu như tê liệt hẳn mỗi buổi sáng đứng sau lưng nàng trên chuyến xe buýt. Người thiếu nữ hình như cũng linh cảm thấy sự hiện diện của chàng, nhiều lần nàng gần như quay đầu lại để quan sát nhưng Tuân vẫn kịp thời quay người sang chỗ khác và chưa lần nào ánh mắt của hai người chạm nhau. Tuân có thể chỉ thấy một vài lần thoáng một chút gò má hồng của người thiếu nữ, làm chàng càng bị kích thích nhiều hơn nữa, nhưng tựu trung khuôn mặt của nàng thiếu nữ tóc dài vẫn hoàn toàn là một bí mật đối với Tuân; một bí mật làm tình yêu của chàng đối với mái tóc kỳ lạ càng ngày càng mãnh liệt, một bí mật chàng trìu mến và sợ hãi, đồng thời cảm thấy một nhu cầu che chở như người tu sĩ với lòng tin vào một sức mạnh siêu nhiên bảo vệ cung điện thờ thần bí.


    Tuần lễ cuối cùng của niên học Tuân đã chọn để xem mặt người thiếu nữ tóc dài; tuần lễ đó đến như một thảm họa cho đời chàng. Người thiếu nữ đột nhiên biến mất. Ngày này qua ngày khác, Tuân đợi từng chuyến xe buýt trễ đến cả một hai tiếng đồng hồ vẫn không thấy nàng xuất hiện. Tuân như điên cuồng, lúc đầu chàng cho rằng nàng ốm hoặc bận việc gì đó nghỉ một hai ngày, nhưng hết tuần và sang đến những tuần lễ sau khi các trường đã vào hè chàng bắt đầu thấy tuyệt vọng. Hình ảnh của mái tóc dài phủ xõa hiện lên thường trực trong đầu óc chàng với một niềm đau đớn và xót xa. Mỗi buổi sáng ngồi ăn sáng và học bài thi chàng nhìn ra ngoài cổng xem từng chuyến xe buýt dừng lại và đi, thiếu người thiếu nữ áo dài trắng với mái tóc dài phủ gót, chàng thấy ngực đau nhói và khó thở, nỗi nghẹn dâng dần dần lên trên lồng ngực.


    Tuân thấy mọi sự như trống rỗng, không còn ý nghĩa gì cả. Mùa thi năm đó, chàng chỉ vừa đủ điểm để đậu làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên vì ai cũng nghĩ chàng sẽ phải đậu rất cao, nhưng Tuân nào có thiết gì. Tuân cương quyết từ chối không đi du học dù gia đình chàng đã sửa soạn tất cả và nài ép cho bằng được. Chàng muốn ở lại để có cơ hội gặp lại được người thiếu nữ tóc dài mặc dù trong thâm tâm chàng hầu như đoán biết sẽ không bao giờ gặp lại. Tuân lên đại học vào một ngành chuyên môn để chiều lòng gia đình nhưng đối với chàng học ngành nào cũng vậy. Chàng để tâm hơn vào hội họa và những giờ rảnh rỗi chàng lại nhà một họa sĩ nổi tiếng thân tình với gia đình chàng để học vẽ. Sau vài năm chàng đã bắt đầu vẽ được nhiều tranh có giá trị và sau khi hoàn tất bức tranh người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót với mấy người bạn nữ sinh trên con đường hai hàng me cao và tàn phủ rợp lá, người họa sĩ thân gia đình tuyên bố không còn gì để chỉ bảo thêm cho chàng nữa.


    Những năm dài đằng đẵng trên đại học cũng không làm cho Tuân quên được hình ảnh người thiếu nữ với mái tóc dài. Phòng chàng treo đầy những tranh thiếu nữ với tóc dài phủ gót, nhiều tranh với những khuôn mặt đẹp một cách kỳ lạ hoặc thần bí, nhưng phần lớn là tranh vẽ sau lưng người thiếu nữ không có khuôn mặt. Phần linh động nhất vẫn là mái tóc chàng vẽ bềnh bồng bao phủ như một đám mây bay. Mặc dù người họa sĩ già thầy dậy nhiều lần giục chàng trưng bày tranh, chàng vẫn một mực từ chối, cảm thấy rằng tình yêu của chàng đối với mái tóc là của riêng chàng, không muốn chia sẻ với nhiều người khác. Càng những năm về sau Tuân càng cảm thấy niềm hy vọng gặp lại người thiếu nữ tóc dài càng giảm dần, chàng nhiều lần đi lại hàng giờ trong các khuôn viên đại học, Tuân nghĩ nàng có thể sẽ theo học: Văn Khoa, Luật Khoa, Sư Phạm.. nhưng đều hoài công vô ích.


    Một lần vào lễ Giáng Sinh khi dự lễ nửa đêm ở nhà thờ Đức Bà, chàng thoáng thấy bóng người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót từ đằng xa. Tuân mừng rỡ như điên cuồng, chàng chen vội lên nhưng người đi ra lễ quá đông, khi chàng đến nơi người thiếu nữ tóc dài đã biến mất. Tuân đi khắp các con đường cả đêm hôm đó nhưng bóng người thiếu nữ vẫn biệt tăm. Lần đó Tuân ngẩn ngơ đến cả mấy tháng trời. Hình ảnh mái tóc dài và người thiếu nữ như ẩn như hiện trong những giấc mộng của chàng mỗi đêm và ban ngày chàng phải dùng hết nghị lực mới tập trung trí tưởng được trong việc học.


    Lần cuối chàng được gặp lại mái tóc dài cũng là ngày chàng và bao nhiêu người khác rời bỏ đất nước. Năm đó chàng vừa ra trường và gia nhập quân đội được vài tháng. Những ngày cuối cùng biến loạn của đất nước, Tuân may mắn chạy về được Sài Gòn và ngày đó Tuân thấy lại được mái tóc dài chàng ấp ủ trong tâm tưởng. Chàng vừa dừng xe lại vì đám đông tại tòa Đại Sứ Mỹ một ngày một đông. Trên nóc tòa nhà là chiếc trực thăng cánh quạt thổi vù vù với những người lính thủy quân lục chiến Mỹ đẩy người lên. Tuân đứng như bị thôi miên trong khung cảnh náo loạn chung quanh. Chàng chợt thấy bóng người thiếu nữ với mái tóc thật dài đang được người lính Mỹ kéo lên. Mái tóc dài bị những cơn gió từ cánh quạt trực thăng thổi tung bay. Tuân nhìn không chớp mắt, lòng chàng như trùng hẳn xuống, những tiếng hò hét hỗn loạn bên ngoài như xa dần, trước mắt chàng chỉ còn thấy mái tóc như đám mây phủ bay cuồn cuộn và người thiếu nữ dáng thanh thoát đang biến mình vào trong lòng chiếc trực thăng đen đủi và xấu xí. Tuân thấy đau nhói ở ngực, định mệnh lại bắt chàng một lần nữa lìa xa hình ảnh vừa tìm gặp lại được trong một thoáng giây ngắn ngủi.


    Tuân rời Việt Nam ngay ngày hôm đó và như những người tỵ nạn khác chàng bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống đầy hoang mang và bỡ ngỡ. Chàng tìm được một chỗ thực tập lại ngành chuyên môn của mình trên New York và sau hai năm Tuân đã thấy mình thảnh thơi trong sự tranh sống được một phần nào. Chàng quen một người Do Thái làm nghề buôn bán các họa phẩm có phòng triển lãm tranh ngay tại Manhattan, và khi người bạn mới gốc Do Thái này thấy những bức tranh chàng đã cẩn thận cuốn lại và gói mang đi trong ngày cuối cùng của đất nước, đã khuyến khích chàng trưng bày tranh ngay tại phòng triển lãm của mình.
    Tuân lấy làm khó nghĩ, chàng cảm thấy áy náy khi nghĩ đến chuyện những người khác nhìn vào tâm hồn của mình qua những bức tranh chàng vẽ riêng cho mối tình của chàng và mái tóc kỳ diệu, như một sự xúc phạm đến những gì đẹp nhất chàng hằng ấp ủ, làm tầm thường đi những cảm xúc của chàng. Tuy nhiên với sự thúc giục của người bạn và với ước muốn hão huyền biết đâu nhờ cuộc triển lãm chàng có thể gặp lại được người thiếu nữ tóc dài, Tuân sau cùng ưng thuận để triển lãm trong hai tuần.


    Buổi ra mắt tranh của Tuân thành công rực rỡ với những lời khen ngợi không hết lời của các nhà phê bình, đặc biệt về bức tranh Mây Tóc vẽ hình ảnh thiếu nữ tóc dài trên con đường đến trường học. Tuân thấy lòng dửng dưng với những lời khen ngợi, chàng nhất quyết không bán một bức tranh nào vẽ với hình ảnh mái tóc và người thiếu nữ trong trí tưởng.


    Ngày cuối cùng của cuộc triển lãm khi trời vừa chập choạng tối, Tuân từ căn nhà trọ đến phòng tranh để thu tranh, chỉ còn lưa thưa vài người xem đang sửa soạn ra về. Tuân bàng hoàng khi thấy trong căn phòng hơi tối, đứng trước bức tranh Mây Tóc là người thiếu nữ với mái tóc dài phủ góc bằng xương bằng thịt quay lưng lại phía chàng, lặng lẽ ngắm bức tranh trên vách. Tuân thấy như trời đất thu nhỏ lại, mười năm từ ngày đứng sau lưng nàng trên chiếc xe buýt xọc xạch đến nay như chỉ là khoảng khắc. Chàng tiến lại gần đến sau lưng nàng và đứng lại. Người thiếu nữ vẫn bất động ngắm tranh, tóc nàng vẫn óng mượt và dầy như mười năm trước phủ dài đến gót chân. Tuân nhìn không chớp mắt, chàng thấy không gian như mờ đi, mường tượng như đám sương mù tỏa ra như tình yêu của chàng tiến dần về phía người thiếu nữ, bao phủ lấy mái tóc dài của nàng và sau cùng bao phủ cả thân hình thanh thoát. Tuân không biết thời gian đã trôi đi trong bao lâu, có thể cả giờ hay chỉ trong khoảng khắc, chàng vẫn đứng sau lưng nàng bất động trong tình yêu dâng dạt dào bên trong và bên ngoài thân xác.


    Người thiếu nữ hơi cử động đầu như sắp quay lại, Tuân như bừng tỉnh và như một phản xạ ngoài ý thức, chàng vội vàng thốt lên:
    - Đừng!
    Người thiếu nữ đứng yên, Tuân nói trong hơi thở:
    - Tôi là người vẽ bức tranh này.
    Người thiếu nữ khẽ gật đầu và vẫn không quay đầu lại. Tuân cảm nhận thấy ngay trong cử động của nàng sự nhận biết mình là người trong tranh, và chàng mường tượng một cách mơ hồ như nàng đã biết tất cả về tình yêu của chàng, từ những ngày theo nàng mỗi sáng trên chuyến xe buýt đến những năm dài đằng đẵng trên đại học, tình yêu của chàng đã phủ ra ngoài không gian đến với nàng và được nàng nhận biết. Tuân nói tiếp và ngay khi vừa nói xong chàng cảm thấy câu nói thừa thãi:
    -Tôi đợi em đã mười năm.
    Người thiếu nữ như run lên, mái tóc dài của nàng như lượn theo làn sóng và nàng sửa soạn quay mình lại. Tuân nín thở, tim đập nhanh như muốn phá tan lồng ngực, lần này chàng không chạy trốn, chàng đứng lại để nhìn mặt Tình Yêu, để mười năm đi tìm kết tinh lại trong giây sao ngắn ngủi này, để không gian của cả trời và đất thu hẹp lại trong phòng triển lãm tranh nhỏ này, nơi chàng tìm gặp lại Tình Yêu, vĩnh viễn. Tiếng đứa nhỏ vang lên trong căn phòng như tiếng gọi từ nơi nào vọng lại:
    - Mẹ! Mẹ!
    Người thiếu nữ tóc dài quỳ xuống ôm cô bé con từ phòng bên cạnh nhào lại gần mẹ và Tuân đứng đó như một pho tượng đã trở thành muối lạnh, nhìn mây tóc xõa bay phủ che lấp cả khuôn mặt nàng, khuôn mặt của Tình Yêu chàng vẫn chẳng bao giờ được biết, mười năm về trước và cho đến hết cả cuộc đời chàng. Tuân quay lưng đi ra khỏi phòng triển lãm tranh. Ngoài trời tuyết cũng vừa bắt đầu rơi và những cơn gió lạnh từ cuối phố thổi dốc vào gáy chàng, lạnh như tình yêu buốt giá của cả một đời chàng đã biến thành mùa đông.


    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 05-27-2014 at 08:32 AM.

  7. #7
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Quả Tim


    Vỹ gặp lại nàng lần này là lần thứ ba. Chàng dọn về khu aprtment gần chỗ sở làm cho tiện việc đi lại và sau hai ngày thu dọn tương đối cũng tạm yên, Vỹ bắt đầu để ý đến những người láng giềng chung quanh. Căn chàng ở nằm ngay cuối dãy chỉ sát với một căn bên cạnh lúc nào cũng đóng cửa im lìm và không thấy người ra vào thường xuyên nên Vỹ cũng tạm an lòng không sợ bị làm phiền. Chàng vốn sợ phải sống cạnh một gia đình đầy con nít la hét ầm ĩ hay một cặp quá sống động, vặn nhạc giật mở lớn hết cỡ, cả ngày lẫn đêm. Láng giềng của chàng có lẽ chỉ sống một mình, sáng đi làm khi trời vừa tỏ và đến tối mịt mới về.


    Vỹ đoán là một thiếu phụ còn trẻ, cửa mở vào hai căn ở sát cạnh nhau nên có lần chàng ngửi thầy mùi nước hoa phảng phất từ cửa phòng bên cạnh thoảng vào. Điều Vỹ không ngờ đến là láng giềng của chàng là một người đàn bà Việt Nam và chàng càng không thể nào tưởng tượng được rằng người láng giềng ở ngay cạnh apartment của chàng lại chính là nàng, người đàn bà đã ám ảnh chàng suốt 24 năm qua.


    Nàng không hề nhận ra chàng và chỉ khẽ gật đầu xã giao khi gặp nhau lần đầu tiên trên con đường trải sỏi đi vào cuối dãy. Nàng mở của vào căn phòng nhẹ nhàng và thanh thoát như một bóng ma, để lại Vỹ đứng lặng người trước cửa phòng của mình, bàng hoàng, sững sờ, không tin rằng cuộc đời có thể có những sắp đặt tình cờ đưa đẩy như thế. Hai mươi bốn năm, nửa vòng trái đất và chàng gặp lại nàng lần thứ ba trong cuộc đời, như một cơn mộng dữ run rủi, xui khiến để chàng chỉ cách nàng bằng một vách ngăn mỏng của khu chung cư, không đủ để che dấu, để chặn đứng những âm thanh, hình ảnh và mùi hương của một thời quá vãng tưởng rằng đã xa lìa mãi mãi.


    Vỹ gặp nàng lần đầu tiên năm 1968 trong những ngày sau Tết Mậu Thân khi chàng còn là sinh viên, hăng hái tham dự vào công tác cứu trợ đồng bào lánh nạn tại ngôi trường tiểu học gần khu chàng ở. Nàng là người yêu của Hưng, trưởng đoàn sinh viên phụ trách địa điểm cứu trợ. Vỹ chưa bao giờ gặp một người con gái có sức thu hút kỳ lạ như nàng. Vẻ đẹp của nàng mang một dáng dấp Tây Phương nào đó, khuôn mặt trắng ngần, mũi cao và gò má cũng hơi cao, nàng như cách biệt với tất cả những người chung quanh và một vẻ gì đó trong đôi mắt đượm màu hạt dẻ nhạt của nàng làm mọi người như sợ hãi, úy kỵ nhưng sẵn sàng để bị lôi cuốn, mê hoặc, không chống cự lại được.


    Vỹ cảm nhận sự hấp dẫn của nàng như một ma lực, chàng luôn luôn để ý đến nàng, tìm cách để làm việc gần nàng, mong có dịp để nói một vài câu bâng quơ với nàng. Có lẽ bao nhiêu người trong đoàn sinh viên làm việc trong ngôi trường tiểu học đã cũng cùng ở một trạng thái như chàng. Tuy nhiên điều mà Vỹ và tất cả mọi người đều nhận biết là nàng hoàn toàn không hề để ý đến một ai.
    Cũng như nàng đã thu hút Vỹ và nhiều người khác với một cường độ kỳ lạ, mức gắn bó của nàng với Hưng mang một vẻ khác thường khó diễn tả, như trong một thế giới khác lạ nào đó, không phải là khung cảnh của thành phố Sài Gòn tang thương, với những tiếng súng đạn ầm ì và đổ nát của cuộc chiến tương tàn. Tình yêu của họ hiển hiện một cách mạnh mẽ, dày đặc chừng như có thể cô đọng lại để trở thành vật thể và có thể dùng dao để cắt ra được. Vỹ chưa bao giờ ý thức được tình yêu có thể phát hiện như vậy.


    Vỹ nhìn tình yêu của nàng và Hưng ước ao, thèm thuồng, chua xót và chàng không thể rời mắt ra được. Tâm hồn chàng giao động như muốn nhập cuộc nhưng chàng cảm thấy rõ ràng sự dội ngược trở lại. Tình yêu của nàng đơn thuần và tuyệt đối quá, chàng chỉ có thể đứng ngoài để quan sát và rung động như một sự cộng hưởng, để lấy đó làm điều sung sướng và hạnh phúc của mình. Vỹ để ý nhất đôi mắt của nàng, chàng không thể hiểu đôi mắt màu dẻ nhạt kỳ lạ đó có thể thay đổi nhanh chóng như vậy. Từ một vẻ xa vắng, ơ hờ, khi Hưng lại gần, đôi mắt nàng bỗng trở thành rực lửa ma quái, như chiếm đoạt, bao chặt lấy người yêu của nàng, tách rời tất cả chỉ để lại một khoảng trống như tổ kén chỉ còn lại hai người với bức thành ngoài là một vòng lửa, ngăn chận, phân cách họ với những người chung quanh, với đời sống bên ngoài.


    Vỹ cảm nhận điều này rõ ràng hơn nữa trong những buổi tối văn nghệ tại sân trường tiểu học. Hưng chơi đàn Tây ban cầm cổ điển và thường hay hát những bản nhạc tiền chiến. Vỹ nhìn nàng xõa mái tóc dài ngồi cạnh bên Hưng để hết tâm hồn vào tiếng đàn, tiếng hát của người yêu và Vỹ chợt thấy một sự im lặng lạ kỳ. Chàng nhìn hai người và biết rằng họ không còn ngồi đó nữa, giữa sân trường tiểu học loang lổ vây quanh bởi đám bạn sinh viên. Họ như đi khỏi, chuyển biến thân xác sang một vùng thế giới mới, nơi đó có chim muông cỏ lạ, có những cây thông cao ngút ngàn với mặt hồ phẳng lặng và nàng ngồi yên trên tảng đá phủ xanh rêu, nghe tiếng đàn và giọng hát của người yêu. Tình yêu của họ bao phủ một điều gì lạ kỳ, khác thường và Vỹ thấy nghẹn ở ngực mỗi khi nhìn họ xuất thần như vậy. Chàng linh cảm điều bất tường và một sự ghê gớm nào đó sẽ xảy đến.

    Tình yêu dồn nén như vậy, như thu cả vũ trụ vào để nổ tung, như đứng chập chờn giữa ranh giới của sự sống và sự chết, như trong vùng mờ ảo của sự có thực và điều không thực, phải chăng nàng đã biết như vậy, đã biết điều sẽ xảy đến cho nàng và người yêu, biết được định mệnh của mình và tình yêu của mình. Vỹ nhìn đôi mắt màu dẻ nhạt của nàng và rùng mình mỗi khi ngọn lửa ma quái chợt loé lên trong luồng sóng mắt của nàng ngời lên nhìn Hưng, người nàng đã đưa vào tình yêu kỳ dị chỉ mình nàng chiếm hữu và chỉ mình nàng hiểu được.


    ***


    Vỹ không gặp lại nàng và Hưng sau những ngày Tết Mậu Thân năm ấy nhưng không phải chàng quên được. Hình ảnh người con gái và tình yêu lạ lùng của họ thường xuyên ám ảnh chàng. Vỹ không thể yêu một người nào khác và chàng cũng không cảm thấy buồn lòng về điều đó. Có lẽ số mệnh đã sắp đặt để chàng gặp nàng, để bị mê hoặc vì điều gì đó khác thường nơi nàng, để chứng kiến và nhận thức tình yêu kỳ diệu nàng dành cho một người khác. Vỹ cũng không tìm hiểu và dò hỏi về nàng và Hưng, chàng hầu như biết trước sẽ có ngày gặp lại nàng và chàng nửa mong muốn, nửa lo sợ, đôi lúc ước ao để cả đời chàng sẽ qua đi không hề bao giờ gặp lại nàng, để suốt quãng đời còn lại, chàng được an bình với nỗi ám ảnh lùi dần trở thành kỷ niệm.


    ***


    Mùa hè năm 1972 của tàn khốc và thê thảm đó, Vỹ nằm trong Tổng Y Viện Cộng Hòa. Cả đơn vị chàng chỉ còn vài người sống sót và Vỹ tuy bị thương nặng nhưng may mắn được đưa về Cộng Hòa mổ kịp thời. Chàng nhập ngũ được hai năm và đã tham dự vào hầu hết các trận lớn của cuộc chiến. Một sự tình cờ cho chàng biết Hưng, người trưởng đoàn sinh viên cứu trợ bốn năm trước cùng ở trong quân ngũ, trước chàng một năm, tuy ở trong một binh chủng khác. Vỹ không hề hỏi thêm người bạn cho chàng biết tin về Hưng một điều gì về người con gái chàng gặp trong trường tiểu học năm trước. Tình yêu của họ, chàng cầu mong được trở thành bình thường như trăm ngàn mối tình của những người trẻ tuổi đang sống trong quê hương, đang phải chịu đựng một cuộc chiến tàn nhẫn và không hề thương xót.


    Giường bệnh của Vỹ nằm ở cuối trại sát với phòng mổ và trong hai tuần nằm đợi cho vết thương lành, chàng đã chứng kiến biết bao cảnh tượng của những người vợ gào khóc trước cái chết của chồng, những bà mẹ ngất đi với cái chết của người con trai yêu dấu. Những cảnh mừng rỡ của những người đàn bà chờ đợi trước phòng mổ và được báo tin người thân thoát chết, chàng cũng mục kích và chia xẻ, lây với niềm vui của họ. Vỹ thường nghĩ đến mình trong những lúc như thế, chàng tự hỏi nếu chàng chết sau khi giải phẫu hai tuần trước, ai là người sẽ chờ đợi để biết tin và để khóc cho chàng. Không một chút tình yêu và không người thân thích, Vỹ không hiểu đó là sự may mắn hay là niềm bất hạnh.


    Buổi chiều thứ tư trước ngày Vỹ rời Tổng Y Viện, cơn mưa như giông bão bỗng đổ ập đến, những cành cây ngả nghiêng với tàn cây đập mạnh vào cửa kính trên tường của phòng dưỡng thương hòa lẫn với sấm chớp của bầu trời tối sầm tạo nên khung cảnh hắc ám kỳ dị, Vỹ bỗng rợn người khi thấy bóng dáng của người thiếu nữ chàng gặp bốn năm trước.
    Nàng đứng đó từ lúc nào Vỹ không biết rõ, bất động như một pho tượng, tóc dính vào nhau bệt nước phủ xõa. Dáng nàng vẫn cao, thanh thoát như những năm trước với chiếc áo dài màu trắng đơn sơ. Nàng nhìn chăm chú vào người y sĩ giải phẩu đang từ phòng mổ bước ra, lại gần lắc đầu và nói nhỏ với nàng mấy câu. Vỹ như chôn chân đứng nhìn. Nàng không gào khóc như những người đàn bà khác, thân hình nàng đứng sững, Vỹ tưởng chừng như bắp thịt toàn thân nàng đang căng cứng như sắp vỡ tung, đôi mắt màu dẻ nhạt của nàng mở lớn bất động, hai giọt nước mắt duy nhất từ mỗi bên khoé mắt từ từ chảy xuống hai bên má.


    Vỹ chớp mắt mấy cái, chàng vừa thấy ngọn lửa ma quái đang bừng cháy trong đôi mắt nàng, trong bóng mờ ảo của hành lang trước cửa phòng mổ, như một ngọn đuốc rọi thẳng vào chỗ mịt mù của vô cùng, nơi chứa đựng những gì còn lại cho người yêu của nàng. Ngọn lửa ma quái chàng đã nhìn thấy bốn năm trước, ám ảnh chàng ngày đêm, xuất hiện lại như một đau đớn, một phẫn nộ và một thách thức với định mệnh, vụt sáng ngay trước mắt chàng, hòa lẫn với những ánh chớp của cơn giông bão ngoài trời hắt qua khung cửa kính vào hàng lang trước phòng mổ nơi nàng đang đứng sững và Vỹ ở góc tường như mê dại nhìn nàng.

    Cơn bão kéo dài cả đêm hôm đó và sáng hôm sau Vỹ nghe những người y công thì thào kể lại bằng một giọng sợ sệt, trung úy Hưng người vừa tử trận hôm trước, đêm qua đã bị kẻ nào lạ mặt lẻn vào nhà xác mổ lấy quả tim đi mất. Vết cắt trên lồng ngực khéo léo như do một người giải phẫu lành nghề thực hiện.


    ***


    Vỹ không chắc chắn hẳn người đàn bà ở một mình trong căn apartment cạnh chàng có phải là nàng không? Trong hai mươi năm sau ngày gặp lại nàng trong Tổng Y Viện Cộng Hòa, Vỹ tìm cách để quên nàng nhưng không được. Nỗi ám ảnh tiếp tục triền miên vây bủa chàng, sự kỳ dị từ ánh mắt nàng và nỗi kinh hoàng xâm chiếm chàng buổi sáng hôm nghe tin về Hưng đã làm cho Vỹ không thể nào dứt bỏ được hình ảnh nàng. Chàng tiếp tục cuộc sống cô độc không người thân và trong 17 năm sống tại Hoa Kỳ, chàng đã đi không biết bao tiểu bang, gặp gỡ không biết bao nhiêu người, nhưng sự cô độc vẫn hoàn toàn chiếm ngự. Và nỗi ám ảnh vẫn còn đó, những giấc mơ dị thường mỗi đêm vẫn tiếp tục đến, với hình ảnh nàng, hình ảnh Hưng, hình ảnh một quả tim lơ lửng và một xác người với buồng ngực mở rộng và những động mạch cắt gọn không chảy một giọt máu.


    Vỹ dọn về khu apartment đã hơn một tháng nhưng chàng chỉ thoáng thấy nàng hai lần. Dáng nàng vẫn cao, thanh, với mái tóc vẫn dài như xưa. Nàng có lẽ chỉ hơi già dặn hơn một chút nhưng đôi mắt màu dẻ nhạt của nàng tươi nét như hơn hai mươi năm trước. Vỹ không thấy điều gì khác lạ nữa và chàng tự hỏi phải chăng nỗi ám ảnh kéo dài 24 năm của chàng chỉ là một ảo giác, phải chăng những điều chàng thấy và cảm nhận từ nàng, từ tình yêu của nàng và Hưng là những gì chỉ có trong trí tưởng của chàng, không hề hiện hữu và nàng chỉ là một người đàn bà bình thường như hàng triệu người khác.
    Vỹ đi làm đêm. Giờ giấc của chàng không cho phép chàng gặp nàng nhiều lần. Tuy vậy trong hai lần gặp mặt, Vỹ cũng chỉ gật đầu xã giao và nàng cũng đối xử tương tự, hoàn toàn không hề nhận biết chàng.


    Một ngày thứ tư Vỹ được nghỉ, chàng ở nhà cả ngày và đêm đó khi nghe tiếng cửa mở của căn apartment bên cạnh và tiếng bước chân nàng vào nhà, Vỹ mới chợt nhận ra đầy là lần đầu tiên chàng và nàng cùng ở trong một khoảng không gian, chỉ cách nhau bằng một bức vách mỏng của khu chung cư. Nửa đêm khi vừa sắp ngủ, Vỹ bỗng choàng dậy vì tiếng động lạ bên phòng nàng. Chàng đi vào trong bếp sát với tường bên nàng và áp tai nghe. Vỹ lặng người và chàng bỗng rùng mình. Chàng vừa nghe tiếng đàn Tây ban cầm cổ điển từ phòng nàng vọng sang. Tiếng đàn trémolo với âm hưởng và nhạc điệu này chàng đã nghe 24 năm trước tại sân trường tiểu học, tiếng đàn của Hưng. Chàng không thễ nào nhầm được vì tiếng đàn vừa dứt, chàng nghe giọng hát, những bài hát tiền chiến đặc biệt ít người biết đến chàng chỉ nghe một đôi lần do Hưng hát, hai mươi bốn năm về trước.


    Vỹ như khuỵu người xuống, điều gì đã xảy ra? Chàng biết chắc chắn Hưng đã chết như chính chàng đã thấy trong nhà xác với buồng ngực mở rộng và những động mạch được cắt gọn. Và giờ đây, chàng nghe lại tiếng đàn và giọng hát của Hưng, êm đềm và bình thản như tiếng hát của một người hát cho người yêu, bên những cây thông già cao vút và mặt hồ phẳng lặng của một thời trẻ tuổi với tất cả cho tình yêu và chỉ là tình yêu. Nỗi ám ảnh và sự kinh dị ùa đến như sóng vỗ phủ chặt lấy Vỹ, chàng cảm thấy 24 năm của quá khứ bao bọc lấy chàng và chàng thấy lại ngọn lửa ma quái trong đôi mắt màu hạt dẻ của nàng, đôi mắt không hề thay đổi với thời gian qua.

    Vỹ không đi làm ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, chàng hầu như không ăn không ngủ chỉ đợi đến đêm để áp tai vào tường nghe tiếng từ phòng nàng vọng sang. Và nửa đêm không hề thay đổi, chàng nghe tiếng đàn và giọng hát của Hưng, y hệt như ngày xưa cũ, lập đi lập lại mỗi đêm, như hát cho nàng và giờ đây cho Vỹ, người đã tình nguyện và được định mệnh đưa đẩy để vướng mắc vào tình yêu kỳ diệu của hai người. Tình yêu của nàng và của người đã chết.


    Vỹ như sống trong cơn mộng suốt tuần lễ đó, chàng không còn phân biệt được đâu là thực, đâu là không thực. Sự sống và cõi chết như trải dài trên một đường thẳng không bờ bến, hoàn toàn không còn một ranh giới nào phân cách. Cả bức tường chia đôi giữa hai căn phòng không còn hiện hữu nữa, chàng có thể thấy rõ ràng nàng ở phòng bên kia, ngồi xõa tóc như thuở nào nghe đàn, ánh mắt màu dẻ nhạt của nàng vẫn từng lúc loé lên những ánh lửa ma quái. Hưng, chàng không biết rõ, có thể Hưng ngồi đấy ôm đàn chơi như thuở 24 năm về trước, hay chỉ là một cái xác với buồng ngực mở toang. Vỹ không hiểu nữa. Chàng như trong cơn mê và chỉ sống để chờ đợi nửa đêm đến để nghe tiếng đàn và giọng hát của người đã chết.

    Vỹ không biết thời gian kéo dài đã bao lâu, một tuần hay hai tuần hay lâu hơn nữa, chàng không còn ý thức về thời gian và không gian, tưởng chừng như tất cả đã hòa trộn. Chàng, nàng và Hưng, tiếng đàn và giọng hát, căn phòng của chàng và của nàng, ngôi trường tiểu học, nhà xác của Tổng Y Viện, hai mươi bốn năm dài, mọi sự như cuộn tròn rơi vào vực thẳm không đáy, ở đó sự biến thể đã trở thành toàn diện và có lẽ sau cùng ở đó chàng đã tìm được tình yêu, một tình yêu chàng đã bị gạt bỏ ra ngoài từ 24 năm qua.

    Vỹ tỉnh cơn mê trong tiếng sấm chớp và cơn giông bão ào ạt đổ đến. Chàng nghe tiếng gõ cửa phòng chàng. Vỹ lảo đảo đứng dậy ra mở cửa. Hai người cảnh sát đứng trước phòng nhìn chàng từ đầu đến chân. Một người cất tiếng hỏi: “Ông có biết người nào ở phòng bên cạnh không?” Vỹ lắc đầu. Người cảnh sát tiếp: “Bà ở phòng này bị tai nạn xe nửa tiếng trước. Hiện đang được cấp cứu nhưng sợ khó thoát. Chúng tôi cần báo tin cho người thân trong gia đình.”


    Vỹ thét lên một tiếng lớn. Chàng xô hai người cảnh sát và bước ra ngoài, đẩy cửa vào phòng nàng. Cửa khóa. Người cảnh sát lắc đầu: “Chúng tôi đã thử rồi...” Tiếng nói chưa dứt, chợt ngưng lại. Họ vừa thấy một làn khói từ khe cửa bay ra. Hai người cảnh sát dùng vai tông cửa vào phòng. Vỹ theo sau và chàng chợt dừng lại, cùng hai người cảnh sát kinh hoàng nhìn về góc phòng. Ngọn lửa bốc lên từ chân một chiếc bàn thờ kê trong góc. Trên bàn một bình lớn bằng pha lê chứa một thứ nước đỏ như máu. Một quả tim người lơ lửng nằm giữa. Vỹ thấy chóng mặt, hoa mắt. Quả tim của Hưng! Quả tim hai mươi năm nay đã đi theo với nàng, sống với nàng, đàn những điệu nhạc Tây ban cầm cổ điển và hát những bài tiền chiến cho nàng nghe. Quả tim với ngọn lửa ma quái từ đôi mắt màu hạt dẻ nhạt của nàng đã sống từ hai mươi năm qua, chất chứa tình yêu của nàng và của Hưng, tồn tại mãi mãi với nàng dù thân xác Hưng đã mục rữa trong lòng đất lạnh. Vỹ đã nghe tiếng đàn, giọng hát từ quả tim mỗi đêm trong hai tuần qua, quả tim đã cho phép chàng tham dự trong cuộc tình của họ, như một chứng tích cho mối tình kỳ diệu, dị thường không ai có thể cảm nhận được, ngoại trừ một người cô độc đã có lần thấy được ánh lửa ma quái của đôi mắt màu dẻ nhạt.

    Ngọn lửa mỗi lúc một bốc thêm cao. Vỹ chợt thấy nhói ở ngực. Chàng vừa thấy hình ảnh nàng trong làn khói trước mắt, nằm trên chiếc băng ca trong phòng cấp cứu với một đám người vây quanh. Chàng thấy mắt nàng mở lớn, ngọn lửa ma quái bùng lên một lần cuối cùng và chợt tắt. Quả tim trong chiếc bình pha lê đột nhiên rung chuyển. Lửa từ chiếc bàn bỗng bốc mạnh bao trùm tất cả và chỉ trong thoáng chốc Vỹ thấy quả tim tan vữa dần. Khói tỏa ra mỗi lúc một dày đặc và cả căn phòng rực cháy. Hai người cảnh sát nắm lấy tay Vỹ kéo chàng chạy ra khỏi phòng nhưng Vỹ giật tay lại. Chàng thấy trong ngọn lửa bùng lớn nàng đang đứng đó với quả tim trong lòng bàn tay, đôi mắt mầu hạt dẻ mở lớn nhìn chàng, ngọn lửa ma quái bao phủ chung quanh thân hình mời gọi chàng như tiếng gọi của tình yêu đã từ chối chàng trong 24 năm qua và chàng tiến về ngọn lửa để dâng hiến thân mình, trọn vẹn, hoàn toàn cho nàng và cùng với quả tim, hòa hợp với nàng trong vô cùng và mãi mãi.


    Nguyễn Đình Phùng

















  8. #8
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Tội Ác


    Đôi mắt người đàn ông lạ mặt ngồi ngay bìa ngoài của hàng ghế đầu tiên làm linh mục Hoán chia trí trong buổi thánh lễ. Cái nhìn như gắn chặt vào khuôn mặt của người linh mục trẻ tuổi, soi mói, dò hỏi, phân tích, mổ xẻ từng ly từng tí làm cha Hoán cảm nhận được và thực sự khó chịu. Người đàn ông này đến đây không phải để dự lễ. Cha Hoán chưa bao giờ thấy người này trong số con chiên đi lễ hàng ngày. Vẻ ngồi cứng ngắc, thẳng đơ, ngang nhiên chiếm hàng ghế đầu tiên vốn được dành cho các vị chức sắc làm việc trong họ đạo và hoàn toàn chỉ ngồi yên trong suốt buổi lễ làm cha Hoán ngạc nhiên và bối rối. Người này là ai? Không phải đi dự lễ đến đây có mục đích gì? Và vẻ nhìn kỳ lạ có ý nghĩa gì? Sự khó chịu mỗi lúc một gia tăng khi cha Hoán biết mình đang bị chia trí và không cử hành thánh lễ một cách nghiêm trọng như mọi khi được. Nhưng sự tò mò dần dần lấn lướt. Cha Hoán liếc nhìn vài lần xuống người đàn ông lạ mặt. Ngoài cặp mắt dữ dội, mang một vẻ bệnh hoạn khác thường nhìn chăm bẳm, cha Hoán thoáng có một cảm giác quen thuộc với dáng dấp của người đàn ông đứng tuổi này.


    Khuôn mặt vuông, chiếc cằm bạnh ra hai bên với hàm răng chừng như lúc nào cũng nghiến chặt, đôi lông mày rậm như một con sâu róm nằm trên đôi mắt tạo một vẻ nguy hiểm và ngầm chứa sự ác ẩn hiện đâu đó. Thân hình của người đàn ông tuy ngồi nhưng vẫn cho cảm giác của một người to lớn với đôi vai rộng và ngang. Thánh lễ đã gần xong. Mọi người đứng dậy, cha Hoán liếc nhìn xuống người đàn ông và chợt rùng mình. Cảm giác bất an hiện đến, vu vơ nhưng mạnh mẽ, xâm chiếm như không thể rời bỏ được. Cha Hoán giơ tay ban phép lành chấm dứt buổi lễ và đi vào phòng trong thay áo.
    Người đàn ông đã đợi sẵn ngoài cửa khi cha Hoán ra khỏi phòng. Ông ta nói, giọng khàn, đục nhưng tiếng mạnh và rõ ràng:


    - Nếu cha không phiền tôi muốn được xưng tội.


    Cha Hoán liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Nửa tiếng nữa là giờ họp với linh mục chính xứ. Vị linh mục Hoa Kỳ già, khó khăn, chỉ chờ dịp để bắt bẻ những lỗi lầm cỏn con nhất. Và lúc này không phải là giờ giải tội thường lệ cho bổn đạo. Nhưng một điều gì đó khiến cha Hoán không thể chối từ được. Có phải vì giọng nói. Hay vì đôi mắt nhìn. Cha Hoán không cắt nghĩa được, chỉ biết gật đầu và chỉ tay về phía tòa giải tội, nói giản dị:


    - Ông đi theo tôi!


    Một khung gỗ nhỏ hình vuông với chấn song và một bức màn vải thưa phân cách hai người. Cha Hoán quàng dây khăn thánh qua cổ và ngồi xuống ghế chờ. Người đàn ông quỳ xuống bục gỗ ghé sát vào màn vải thưa và nói nhỏ:


    - Tôi chưa xưng tội đã gần 40 năm nay!


    Cha Hoán bên kia màn vải gật đầu. Không có gì đáng ngạc nhiên. Có lẽ 40 năm nay người này chưa đi nhà thờ, đừng nói đến việc xưng tội. Cha tự hỏi không biết ông ta còn nhớ đến làm dấu thánh giá không?
    Người đàn ông nói:


    - Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào. Nhưng tôi là kẻ có tội. Những tội của tôi làm không ai có thể tha thứ được.


    Cha Hoán nói:


    - Tội lỗi nào cũng có thể được Chúa tha thứ nếu ông có lòng hối cải.


    Người đàn ông lắc đầu:


    - Tôi không muốn xin được sự tha thứ. Tôi cũng không có lòng tin để được Thượng Đế tha thứ. Tôi chỉ muốn xưng tội của tôi. Chỉ thế thôi!


    Cha Hoán ngồi lặng yên không nói. Hai năm sau ngày đưọc phong chức linh mục, cha chưa bao giờ gặp một người như vậy trong tòa giải tội. Một điều gì đó nơi giọng nói của người đàn ông lạ làm cha Hoán sợ hãi, như linh cảm một chuyện bất tường. Người đàn ông bắt đầu xưng tội:


    - Tôi đã giết người và tôi đã hãm hiếp một người tôi thương yêu nhất trên cõi đời này!


    Cha Hoán giật nẩy mình. Chưa bao giờ cha được nghe một lời xưng tội giản dị và ghê gớm đến thế. Người đàn ông ngừng nói. Sự im lặng nặng nề và ngột ngạt làm cha Hoán cảm thấy buồn ói. Người đàn ông lạ cất tiếng, giọng thản nhiên và lạnh lùng:


    - Cha có cần biết thêm chi tiết không?


    Cha Hoán nuốt nước bọt nhiều lần mới có thể nói ra thành lời:


    - Có!


    Người đàn ông trầm ngâm một lúc, như thoáng có chút ngần ngại. Điều không thể nói ra đưọc, chưa bao giờ nói ra và bây giờ một thúc giục nào đó bắt buộc ông ta phải nói. Sau cùng ông ta lên tiếng:


    - Tôi hãm hiếp người em gái ruột của tôi. Tôi giết chết người yêu của nó. Còn tội ác nào kinh khủng hơn thế không?


    Cha Hoán không thể trả lời. Cổ họng cha đắng nghét. Tòa giải tội là nơi chốn để biết những sự xấu xa, khốn nạn nhất của con người, nhưng cha chưa bao giờ nghe một lời xưng tội như ngày hôm nay. Cha bất chợt làm dấu thánh giá. Sự ác như một làn sương khói tỏa ra từ phía bên kia màn vải ngăn cách làm cha rùng mình. Có lẽ có những tội không thể tha thứ được. Điều gì cũng có giới hạn của nó chứ! Cha Hoán làm dấu thánh giá một lần nữa. Không được! Nhiệm vụ của cha trong tòa giải tội này là tha thứ. Và cha Hoán làm bổn phận của mình:


    - Sự việc xảy ra bao lâu rồi?


    Người đàn ông trả lời:


    - Cũng gần ba mươi năm.


    Ông ta lẩm bẩm nói nhỏ như cho chính mình nghe: "Ba mươi năm! Ừ ba mươi năm rồi! Nhanh thật!"
    Cha Hoán hỏi tiếp. Sự khích động lúc đầu đã qua đi. Cha cần biết thêm để xác định tội của người đàn ông này:


    - Sự việc xảy ra ở đâu?


    - Ở Việt Nam, dĩ nhiên. Đúng hơn, ở Bảo Lộc, chỗ chúng tôi ở.


    Cha Hoán gật đầu. Bảo Lộc là nơi cha Hoán sinh đẻ. Người này cũng là người đồng hương! Cha Hoán bỗng có cảm giác thân cận hơn. Nhưng tội ác ghê sợ quá! Những năm dài ở chủng viện và hai năm ra xứ đạo chưa sửa soạn đủ cho cha Hoán để nhận lãnh lời xưng tội của người này. Sự ác có thể ẩn hiện trong muôn hình vạn trạng, nhưng ở điểm cao độ nhất và thuần túy nhất, vẫn là điều người linh mục trẻ tuổi chưa cảm nhận và thấu hiểu được. Người đàn ông nói tiếp:


    - Cha có biết thế nào là tình yêu không?


    Người đàn ông chợt cất tiếng cười. Giọng cười ngạo, khinh mạn. Như một người đã sống nhiều, đau khổ nhiều, đã ở dưới tận cùng của địa ngục và vượt thoát trở lại với cuộc đời, nhìn một kẻ trẻ tuổi hồn nhiên, ngây thơ và trong trắng, không một chút ý niệm nào của cuộc sống thực sự. Người đàn ông lẩm bẩm, như tự nói cho mình nghe:


    - Ừ! Cha còn trẻ quá! Và chỉ biết tình yêu với Thiên Chúa! Làm sao cha có thể hiểu được!


    Cha Hoán hơi nhăn mặt. Giọng trịch thượng của người đi xưng tội này làm cha khó chịu. Cha trả lời:


    - Tôi có thể không biết tình yêu như ông nói nhưng tôi hiểu được sức mạnh và hậu quả của nó!


    Người linh mục trẻ tuổi nói bằng giọng quả quyết như một kẻ bị chạm tự ái. Nhưng trong thâm tâm, cha Hoán không chắc chắn hẳn. Người đàn ông xưng tội bên kia bức màn vải thưa phải là một thứ ác quỷ để phạm những tội lỗi ghê sợ đến thế. Và cha Hoán không tin cha có thể hiểu được loại tình yêu nào có thể là động cơ cho tội ác của người đàn ông này.
    Ông ta bắt đầu kể. Giọng nhỏ, thì thầm. Như nói với chính mình:


    - Tôi biết tình yêu của tôi với người em gái kế tôi không phải chỉ là tình ruột thịt thông thường ngày em tôi làm lễ hứa hôn với người yêu của nó. Tại sao có sự thay đổi lạ thường như thế xảy đến trong tôi, tôi không hề hiểu được. Và đột nhiên sự ghen tức, thù hằn người hôn phu của em gái tôi lên đến mức độ khủng khiếp, thúc giục tôi phải tìm cách giết hắn. Và tôi đã tìm cách thực hiện điều đó ngay trong mấy ngày sau.


    Người đàn ông chợt ngưng tiếng. Như bàng hoàng. Tội ác chợt hiển hiện trước mặt người đàn ông như lần đầu tiên ý thức được điều đó. Cha Hoán hỏi:


    - Ông giết người đó bằng cách nào?


    Người đàn ông như bừng tỉnh. Ông ta trả lời, giọng trở lại bình thường, thản nhiên:


    - Trong một cuộc hành quân. Tôi là đại đội trưởng. Hắn là đại đội phó. Tôi đổ cho là Việt Cộng giết hắn.


    Cha Hoán rùng mình. Những cái chết đến dễ dàng tại mảnh đất quê hương nơi cha đã rời bỏ để đến Hoa Kỳ khi mới chỉ là một đứa nhỏ. Tội ác được phạm đến mỗi giây, mỗi phút của thời kỳ chiến tranh cha Hoán không hề được biết đó. Và thêm một cái chết trong muôn ngàn cái chết của chiến tranh hẳn không nghĩa lý gì, dù là do tội ác của một người!
    Người đàn ông tiếp tục xưng tội:


    - Tôi hãm hiếp người em gái ruột của tôi khi báo tin người hôn phu của nó bị Việt Cộng giết chết. Ngay trong ngày hôm đó.


    Giọng ông ta chợt run rẩy. Bên kia bức màn vải thưa, cha Hoán có thể nghe thấy tiếng rung động của toàn thể châu thân của người đàn ông. Có lẽ lần đầu tiên người đàn ông nghe và hiểu rõ tội ác ghê gớm của mình. Bằng tiếng nói của chính ông ta.
    Cha Hoán làm dấu thánh giá. Sự dữ của con người có thể đến những mức độ như thế sao? Cuộc đời không lẽ đầy dẫy những bí mật kinh khủng chỉ biết được trong tòa giải tội như vậy. Cha Hoán thoáng có cảm giác nghi ngờ tính bản thiện của con người. Phải chăng sự ác cũng là một bản tính tự nhiên?
    Người đàn ông tiếp tục:


    - Tôi không gặp lại em gái tôi sau đó. Nó bỏ về Sài Gòn và tôi không gặp lại. Rồi sau 75 tôi bị vào tù cải tạo mười mấy năm. Ở trong tù tôi có nghe nói em gái tôi có thai và trở lại Bảo Lộc sống một thời gian trước khi đi vượt biên sang Hoa Kỳ.


    Người đàn ông ngưng không nói tiếp. Cha Hoán cũng im lặng. Một lúc người linh mục trẻ tuổi mới nói:


    - Thiên Chúa sẽ tha thứ cho ông nếu ông thực lòng hối lỗi. Nhưng trước đó ông phải xin được sự tha thứ của người em gái ông. Và đứa con của ông nữa!


    Người đàn ông trả lời:


    - Em tôi đã bị bệnh chết tại xứ này. Việc tôi làm đầu tiên khi được sang đây là kiếm tung tích em gái tôi. Tôi mới từ Cali sang đây hôm qua và biết được em tôi đã chết mấy tháng trước.


    Cha Hoán nói:


    - Việc đền tội của ông phải có sự tha thứ của những người ông đã gây ra đau khổ. Còn người con của ông?


    Người đàn ông hỏi lại:


    - Cha có tha thứ cho tôi không?


    Cha Hoán trả lời:


    - Tôi thay mặt Thiên Chúa tha thứ cho ông.


    Người đàn ông và cha Hoán cùng đứng dậy bước ra khỏi phòng giải tội. Họ đứng sững nhìn nhau. Trong bóng tối đang kéo đến của ngôi thánh đường, những ngọn nến lung linh của bàn thờ bên cạnh hắt ánh sáng lên khuôn mặt của người đàn ông lớn tuổi và cha Hoán. Người linh mục biết tại sao có cảm giác quen thuộc với người đàn ông này. Họ có cùng một nét mặt, một dáng người. Và nếu cùng một tuổi tác, người ta sẽ nói họ là anh em sinh đôi. Nhưng họ cách nhau đến ba mươi năm. Và giống nhau từng nét, từng điểm một của người cha đã truyền hết tất cả những đặc tính di truyền xuống người con. Chỉ trừ sự khác nhau trong tận cùng của đáy mắt. Nơi đó có sự khác biệt của tội ác và sự tốt lành.
    Người đàn ông quay lưng đi ra khỏi nhà thờ. Bóng tối đã chụp hẳn xuống bao phủ lấy bóng hình khuất dần trong màn đêm. Như sự ác đã xa rời. Và đã được chính hạt giống của mình nhân danh sự tốt tha thứ cho tất cả.


    Nguyễn Đình Phùng

  9. #9
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Xa Rời Cõi Đêm


    Nguyễn Đình Phùng



    Quang lơ đãng nghe người thuyết trình viên hăng say trình bày một đề tài nhàm chán chàng đã nghe ít ra cũng dăm bẩy lần. Quang nhìn quanh. Phòng họp của khách sạn Hilton này ở Chicago tương đối khá rộng không như phòng họp nhỏ hẹp của các buổi chàng phải tham dự những năm trước.
    Quang làm cho một công ty lớn có chi nhánh khắp 50 tiểu bang và công việc đòi hỏi chàng phải đi họp luôn. Quang cố nén cơn buồn ngủ. Chàng vừa đáp máy bay xuống phi trường đã phải đến đây để họp ngay. Giờ này chàng chỉ muốn được ngả người thoải mái, ngáp một tiếng dài không cần phải để ý đến người chung quanh. Phép lịch sự và địa vị của chàng không cho chàng làm thế. Quang nhìn sang phía bên cạnh. Buổi họp đã được hơn nửa giờ mà người được chỉ định ngồi cạnh chàng vẫn chưa đến. Quang nhìn bảng tên đặt trước chỗ ngồi mỗi người, Kim Johnson. Chàng thắc mắc không hiểu người bên cạnh là đàn ông hay đàn bà, nhiều phần là đàn bà. Quang hơi nhếch mép cười, hãng chàng đang có phòng trào cất nhắc nhân viên thuộc nhóm thiểu số: Mỹ đen, dân gốc Mễ, Á Châu. Đàn bà cũng xếp chung vào nhóm thiểu số, không lạ gì họ xếp chàng ngồi chung với bà Kim Johnson nào đó.


    Quang không còn để ý đến người thuyết trình viên, bỗng dưng chàng tò mò muốn biết người bên cạnh vẫn chưa thấy xuất hiện. Chàng đoán bà này phải là người Mỹ, tóc vàng, mắt xanh, có lẽ phải đep. Quang không hiểu sao mình lại nghĩ vậy. Có thể vì tên Kim làm chàng liên tưởng đến cô đào Kim Novak nổi tiếng cách đây hai, ba chục năm trước, tóc bạch kim, đẹp một cách kỳ lạ, chàng xem phim hồi còn nhỏ. Quang lắc đầu mấy cái. Có thể chàng đoán nhầm, người Mỹ ít có tên Kim, có thể đây là một người Á Châu. Đại Hàn hay Việt Nam nữa không chừng. Quang thấy náo nức hẳn lên, chàng nửa mong người đàn bà xuất hiện để thắc mắc của chàng được giải đáp, nửa muốn kéo dài để nàng vẫn còn là một bí mật đầy hấp dẫn. Quang hơi ngạc nhiên cho chính mình. Chàng lập gia đình đã lâu, sống yên ấm với vợ và hai con. Quang ít để ý đến người đàn bà nào khác, cảm thấy hài lòng, thỏa mãn với cuộc sống hiện tại. Đôi lúc gặp những người đàn bà đẹp, khêu gợi, chàng cũng thấy bị kích thích nhưng tính e ngại những chuyện phiền toái, phiêu lưu mạo hiểm, bao giờ cũng lấn lướt và Quang lại đâu vào đó, ngày ngày đi làm tối về nhà, ngoan ngoãn như một con ngựa kéo xe bị che hai bên mắt, chỉ biết nhìn thẳng tiến về phía trước chờ đợi đến tối về chuồng ăn cỏ.


    Cuộc đời chàng bình thản, đều đặn. Quang đôi lúc cũng muốn có chút gì thay đổi cho đỡ nhàn chán, nhưng nghĩ đến những sóng gió phiền phức, chàng lại tặc lưỡi và tự nhủ: “Việc gì phải như vậy.” Và đời chàng cứ thế trôi dần. Cho đến ngày hôm nay! Quang ra khỏi phòng họp sau một giờ diễn thuyết của người thuyết trình viên. Chàng tự pha lấy một ly cà phê sữa để sẵn trên bàn lớn ngoài phòng họp. Lơ đãng nhìn quanh – Một số ra khỏi phòng họp đứng tụm năm tụm ba nói chuyện – Một số khác vẫn ngồi lại trong phòng, cẩn thận ghi chép lại những điều vừa được trình bày. Quang lắc đầu – chàng không thể nào chăm chỉ như vậy được. Đi học lấy bằng chàng cũng không thể ngồi mãi như vậy được huống gì nghe thuyết trình vớ vẩn.


    Quang bỗng thót người lại, tim chàng đập hụt một nhịp. Ngay bên cạnh chỗ chàng ngồi, một người đàn bà quay lưng lại phía chàng đã xuất hiện từ bao giờ. Sau cùng Kim Johnson cũng đến và Quang chợt nhận thấy một cảm giác lạ lùng. Người đàn bà tóc đen dài ngang lưng Quang thấy quen thuộc vô cùng. Một hình dáng xa vời nào đó chìm sâu trong ký ức bỗng trở lại và choán lấy cả hồn chàng. Không lẽ nào? Một bóng sau lưng chưa rõ mặt, mười mấy năm rồi nhỉ? Và dáng dấp với mái tóc dài này chỉ có thể là một người. Quang đi nhanh về chỗ ngồi và nhìn thẳng sang người bên cạnh. Linh tính chàng không lầm. Kim Phượng đang ngồi bên cạnh chàng. Kim Phượng của thời mới lớn, của tình yêu tuyệt vời, của sung sướng và đau khổ tưởng như không bao giờ có thể quên được, và quả thật chàng vẫn chưa bao giờ quên, chỉ là lùi lại sâu trong tiềm thức để một ngày xuất hiện. Và giờ đây nàng đã hiện ra lại với chàng, bằng xương bằng thịt, ngồi cạnh chàng, lạ lùng như một chuyện thần tiên, mơ hồ bỗng biến thành sự thực, tuy mang một cái tên lạ hoắc, Mỹ hóa đến cùng cực. Kim Phượng vẫn chưa nhận ra chàng. Nàng nhìn lại chàng, mỉm cười lịch sự, Quang thấy lòng mình trùng hẳn xuống. Chàng nhận ra nàng ngay. Nàng có thay đổi bao nhiêu chăng nữa Quang chắc chắn mình vẫn biết, huống gì chàng thấy nàng vẫn trẻ như xưa, thời gian có lẽ đi qua để quên nàng lại, và nàng đẹp lộng lẫy hơn trước nhiều. Cái đẹp của một người đàn bà biết mình đẹp, quyến rũ. Cái đẹp của một người đàn bà đa tình và chín mùi. Quang hơi rùng mình, chàng nhớ lại lòng mê say của mình những năm trước và linh cảm điều bất trắc của cuộc gặp gỡ kỳ lạ này.

    Có lẽ số mệnh đã muốn thế. Số mệnh đã cho chàng biết nàng, biết tình yêu đầu tiên của thời mới lớn, tình yêu câm nín không bao giờ bày tỏ ra chôn chặt đáy lòng tưởng chừng như sẽ nguôi ngoai cùng năm tháng, phôi pha với từng ngày đi qua vì sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại. Vậy mà giờ đây nàng lại xuất hiện, ngồi cạnh chàng, trong phòng họp buồn tẻ này như một luồng ánh sáng kỳ diệu dọi vào từng ký ức sâu thẳm nhất của chàng. Quang biết Kim Phượng qua Vinh, em ruột của nàng. Vinh thua chàng và Kim Phượng một tuổi nhưng lại học cùng lớp với chàng. Lần đầu tiên Vinh rủ chàng đến nhà là lúc vào mùa thi để hai người cùng học chung. Quang chỉ gặp Kim Phượng một vài lần và nói một đôi câu thăm hỏi nhưng thế cũng đã đủ để cho chàng rơi vào tình yêu. Quang say mê nàng cuồng nhiệt nhưng không dám thố lộ và cũng không có dịp thố lộ. Phượng không hề để ý đến chàng, chỉ là người bạn của đứa em nhỏ, ngờ nghệch, vụng về. Nàng đã có người yêu, bận rộn với những cuộc hẹn hò, dạ vũ, khi nào nàng để ý đến chú học trò nhìn trộm nàng đắm đuối. Quang cũng không khi nào dám nghĩ đến chuyện tỏ tình với nàng, chàng mê say nàng trong đau khổ, dằn vặt, sung sướng với khổ đau của tình yêu một chiều của mình.

    Ngày Phượng lấy chồng Quang nằm thui thủi trên gác, thơ thẩn và suy nhược tưởng như không bao giờ chàng có thể bước xuống được nữa. Và rồi mọi sự cũng qua đi. Quang không bao giờ qua lại nhà Vinh cũng như không bao giờ gặp lại Kim Phượng. Chàng tưởng đã quên được nàng, tưởng nàng đã đến và đi khỏi đời chàng như một giấc mộng đẹp, cay đắng rồi cũng phai nhạt dần. Cho đến này hôm nay! Quang nhìn Kim Phượng và mỉm cười. Chàng nói nhỏ vừa đủ cho nàng nghe: “Chào Phượng!” Phượng rùng mình khi nghe chàng nói. Có lẽ từ lâu lắm chưa ai nói với nàng bằng tiếng Việt và gọi tên Phượng của nàng. Nàng nhìn kỹ chàng lại một lần nữa, vẻ ngạc nhiên lộ đầy trong cặp mắt to tròn màu xanh đậm kỳ lạ. Chàng đoán nàng đeo contact lens màu như thời trang bây giờ. Môi nàng hé mở như định hỏi. Quang nói nhỏ thì thầm sợ những người ngồi cạnh nghe thấy:
    - Tôi là Quang, bạn của Vinh.
    Phượng gật đầu như vừa chợt nhớ ra và nắm lấy tay chàng. Bàn tay nàng mềm mại, ấp áp và Quang nhận thức rõ ràng hơi nóng từ bàn tay nàng chạy ùa vào châu thân, ngừng lại trong lồng ngực và chàng bỗng cảm thấy tim chàng như cháy rực. Quang biết tình yêu của chàng đối với nàng chưa bao giờ tắt và ngọn lửa khơi lại mãnh liệt từ bàn tay kỳ diệu của nàng càng lúc càng bùng lên. Quang khổ sở nghe người thuyết trình viên nói, chàng tưởng tượng như ông ta đang diễn thuyết trong một cuốn phim quay chậm không bao giờ ngừng và chàng sốt ruột chờ đến phút giải lao để có thể nói chuyện tự do với Phượng.


    Giờ nghỉ sau cùng rồi cũng đến và Quang được Phượng cho biết nàng sang đây năm 1980, làm việc cùng một hãng với Quang thuộc chi nhánh San Francisco và được hãng cử đi họp ở Chicago này lần đầu tiên, nàng cũng hỏi lại Quang về gia đình của chàng và công việc chàng đang làm. Quang trả lời qua loa và mời Phượng đi ăn. Chàng muốn rời phòng họp ngay để có thì giờ gần với Phượng một cách riêng tư hơn và để biết nàng rõ hơn sau nhiều năm không gặp. Điều làm Quang ngạc nhiên và thắc mắc hơn cả là trong suốt bữa ăn Phượng nói chuyện vui vẻ, tự nhiên và thân mật với chàng khi nói về công việc, về đời sống ở Mỹ nhưng tuyệt nhiên nàng không hề đả động đến khoảng thời gian trước năm 1980, trước khi nàng sang đến Hoa Kỳ.


    Quang có hỏi nàng về Vinh, về đời sống của nàng lúc còn ở Việt Nam nhưng nàng chỉ ngồi im không nói và những lúc đó Quang thấy nàng bỗng nhiên đổi hẳn. Nàng ngồi bất động, mắt mở lớn nhìn đăm đăm về phía trước, chừng như không ý thức được sự vật và người chung quanh nữa, kể cả Quang ngồi đối diện với nàng. Và nàng như đắm vào một cơn mơ nào đó. Sâu thẳm, đầy vẻ sợ hãi, mang một vẻ tuyệt vọng đáng thương làm Quang ân hận, chàng phải hỏi to lên vài ba câu về chuyện khác Phượng mới bừng tỉnh. Sau lần thứ nhì hỏi về thời gian trước và chứng kiến Phượng thay đổi kỳ lạ như vậy, Quang không dám nhắc đến nữa mặc dù chàng càng lúc càng tò mò và băn khoăn nhiều hơn về Phượng. Quang được nàng cho biết thêm sau khi sang đây vài năm nàng lập gia đình với một người bạn Hoa Kỳ vì thế nên mới có tên là Kim Johnson nhưng nàng góa chồng ngay sau khi thành hôn không được bao lâu. Một lần nữa Quang lại chứng kiến sự lạ lùng của Phượng khi nàng nhắc đến cái chết của người chồng Hoa Kỳ, y hệt như lúc chàng hỏi Phượng về thời gian trước ở Việt Nam. Quang tự nhủ chàng phải tìm hiểu cho bằng được và đồng thời chàng ý thức được tình yêu của chàng với Phượng càng lúc càng gia tăng mãnh liêt. Như ngọn lửa trong lòng chàng tưởng chừng đã tắt rụi từ lâu lắm lại có dịp bùng lên với gặp gỡ lại Phượng lần này và bí mật của nàng là ngọn gió khêu lên càng lúc càng mạnh. Phượng cho chàng địa chỉ ở San Francisco và Quang hẹn với nàng sẽ sang ngay sau khi giải quyết xong vài chuyện ở sở. Chàng lấy vé máy bay về New York ngay tối hôm đó tràn ngập hình ảnh Phượng với tình yêu dào dạt dâng lên trong chàng như ngộp thở.


    Trên đường về, Quang nghĩ cách nói dối vợ và quyết định lấy ngay kỳ nghỉ phép ba tuần thường niên. Chàng chưa bao giờ nói dối vợ nhưng thấy không có gì khó khăn lắm. Vợ chàng tin ngay Quang phải đi công tác xa vài tuần, sở chàng cũng không phiền phức gì khi thấy chàng xin nghỉ phép đột ngột như vậy sau khi một vài chuyện quan trọng đã được giải quyết xong. Năm ngày sau Quang đã có mặt ở San Francisco. Và linh cảm thấy đời chàng đang đi vào khúc rẽ, không, một khúc ngoặt của cuộc đời, đầy lạ lùng và đáng sợ.


    Quang tìm đến Phượng ngay sau khi đáp xuống phi trường. Nhà nàng ở trên một đồi cao nhìn ra vịnh San Francisco thuộc khu vực sang trọng của thành phố. Quang đoán người chồng Mỹ quá cố của nàng phải là người giàu có và hơi ngạc nhiên khi thấy Phượng vẫn đi làm cùng hãng với chàng với chức vụ và số lương chắc hẳn không lấy gì làm cao lắm.

    Ngôi nhà của nàng rộng lớn, mắc tiền và trong khu sang trọng như vậy nhiều phần Phượng đi làm chỉ để có việc mà làm không phải với mục đích kiếm sống. Quang bấm chuông. Một người đàn bà Mễ ăn mặc theo kiểu người hầu trong những nhà sang trọng Quang thấy trên TV ra mở cửa. Chàng đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác với nếp sống của Phượng. Ngôi nhà quá đẹp với đồ đạc quý giá và mỹ thuật như những đồ sưu tầm trong viện bảo tàng, sàn nhà bằng cẩm thạch bóng loáng với cầu thang chạy vòng bằng một loại gỗ trác đặc biệt. Phượng đứng trên đầu cầu thang che lấp một phần bởi chiếc đèn treo trần nhà bằng pha lê lộng lẫy. Quang đứng khựng lại khi vừa trông thấy Phượng. Chàng chưa bao giờ và cũng không ngờ Phượng đẹp như vậy. Chung quanh nàng như sáng hẳn lên và ánh lunh linh của pha lê càng làm tăng thêm vẻ đẹp tuyệt vời của nàng, vẻ đẹp của quý phái, xa cách và đầy bí ẩn như hình ảnh của những mối tình huy hoàng, trưởng giả Tây Phương Quang đôi khi đọc đến hay xem trên màn ảnh.
    Chỉ một điều khác là nàng chính là Kim Phượng, người chàng yêu say đắm của thuở mới lớn. Của những ngày ở vùng Tân Định xa xưa. Của quê hương và thời gian đã mất.



    Phượng không ngạc nhiên lắm khi thấy Quang tìm đến nàng, hầu như biết trước Quang sẽ phải sang San Francisco để gặp nàng, chắc chắn như người biết được quyền lực của mình, không lúc nào nghi ngờ khả năng quyến rũ của mình, thản nhiên chờ đợi như loài nhện chờ con mồi đã bước dần vào lưới.

    Nàng đón Quang với nụ cười, vẻ mừng rỡ vừa phải, vừa đủ để Quang không thấy bối rối khi tìm đến nàng, nhưng cũng không săn đón, vồ vập. Quanh nhận thức điều đó và chàng chợt thấy lo ngại bâng quơ. Chàng biết gặp lại Phượng với tình yêu bùng cháy của nhiều năm trước, chàng sẽ không đủ nghị lực để phán đoán và suy nghĩ như nếp sống an bình cũ. Nhưng đồng thời niềm thắc mắc, lo âu, bị từ chối, bị xua đuổi của những mặc cảm trong ký ức cũ được dịp trổi dậy và xâm chiếm hồn chàng . Quang nhìn lại Phượng, nhìn vẻ đẹp thu hồn của nàng, ngửi mùi nước hoa nhẹ hòa với mùi da thịt nàng và chàng không ngần ngại nữa. Đam mê trong đời chỉ đến một lần, Quang thấy vỏ ngoài mẫu mực của chàng bắt đầu rữa nát, tan biến dần, chỉ còn lại một khối lửa hừng hực cháy. Chàng nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng xiết nhẹ, gật đầu nói với nàng dễ dàng như thể hai người đã là cặp tình nhân từ lâu lắm:
    - Em đi ăn cơm tối với anh.


    Quang đưa Phượng đi vào một tiệm ăn nhỏ, lịch sự, nhìn ra biển. Bàn ăn có những đĩa nến nhỏ, lung linh chiếu lên khuôn mặt và mái tóc Phượng, chàng nhìn nàng và cảm thấy niềm bí ẩn dù còn đó nhưng với từng giây phút ngồi cạnh nàng, niềm thân cận đã cho chàng chút hy vọng hiểu được nàng hơn, biết được điều gì đó làm cho Phượng trong một khoảnh khắc như trở thành người khác lạ, sợ hãi, tuyệt vọng, co dúm như một con chim bị đạn run rẩy dưới cơn mưa tầm tã.
    Quang không hỏi Phượng về những ngày ở Việt Nam, hoặc về Vinh, em nàng.Chàng lờ mờ phỏng đoán một tương quan giữa thái độ kỳ lạ của Phượng và những ngày xưa cũ. Chàng nhớ lại vẻ mặt của Phượng lúc chàng hỏi nàng về những điều đó lần gặp ở Chicago. Quang cảm thấy bất an vô cùng khi chứng kiến sự thay đổi của Phương. Chàng sợ hãi và chàng cố tránh để trong khi nói chuyện với Phượng không nhắc đến những điều đó nữa. Quang không tỏ lộ tình yêu của mình với Phượng, chàng biết nàng biết về tình yêu của mình và Quang thấy không cần gì phải xác nhận lại một cách thừa thãi. Điều làm chàng thắc mắc là không biết Phượng có yêu chàng không. Những ánh mắt, nụ cười của nàng, lúc Phượng là Phượng, người đàn bà đẹp, quyến rũ và long lanh đa tình, cho chàng cảm giác là nàng cũng yêu lại chàng.
    Nhưng còn những lúc Phượng đột nhiên thay đổi, im lặng, xa xôi và đầy khổ sở, những lúc đó chàng thấy mình không là gì cả dưới mắt Phượng. Tưởng chừng như chỉ là một người lạ, bàng quang không dính líu gì đến cuộc đời của nàng.


    Quang đưa Phượng về nhà sau bữa ăn và thuê một khách sạn gần nơi nàng ở. Cả tuần lễ liền chàng đưa nàng đi chơi khắp miền Bắc của tiểu bang, tìm những thành phố nhỏ dọc bờ biển, vào những quán ăn xinh xắn, dễ thương, hay đưa nàng vào những chỗ trồng nho của thung lũng Napa, nếm tất cả các loại rượu cất tại vùng này.
    Buổi tối chàng đưa nàng về San Francisco, ăn tối tại quán ăn đầu tiên chàng đưa nàng đến. Và từ giã bằng cách nắm chặt đôi bàn tay nhỏ, ấm áp của nàng, để hơi ấm của nàng truyền vào chàng và hôn nhẹ lên bàn tay. Quang không muốn đi xa hơn, chàng muốn để tình yêu nảy nở nhiều hơn nữa giữa chàng và Phượng, để những giây phút xuất thần lạ lùng của Phượng chàng không hiểu nổi và vẫn ám ảnh chàng thưa dần hơn nữa. Sau mấy ngày đi chơi, Quang đã thấy những khoảnh khắc đó ít hơn trước và chàng cảm thấy mừng thầm.



    Ngày cuối tuần hôm đó, sau khi đi chơi xa về, Quang đưa Phượng vào quán ăn đã trở thành quen thuộc. Người hầu bàn lăng xăng đưa hai người vào bàn ăn thường ngồi như mọi ngày.
    Quang bỗng cảm thấy nhột nhạt như bị chú ý, theo dõi. Trong bữa ăn chàng kín đáo quan sát những thực khách chung quanh và quả không nhầm, chàng để ý đến một người khách Á Đông khác, ngồi ở một bàn nhỏ tại góc phòng sau lưng chàng, đang nhìn về hướngchàng và Phượng một cách chăm chú.


    Phượng không hề để ý và vẫn nói chuyện với chàng như thường. Nhưng Quang không lòng dạ nào chú ý vào câu chuyện đang nói với Phượng. Chàng thấy bồn chồn, bực bội vì cảm giác bị người lạ nhìn chăm chăm, nhất là không hiểu lý do soi mói của người khách lạ. Chàng để ý một lần nữa và thấy hắn ta đã đứng tuổi, hai bên mái tóc đã điểm bạc, khuôn mặt và dáng điệu đầy vẻ lịch sự, có học. Chừng như hắn ta muốn lại bàn chàng và Phượng ngồi nhưng không dám và tỏ ra sốt ruột như chờ đợi một cơ hội nào đó. Phượng đứng dậy đi vào phòng sau để trang điểm và Quang thấy người khách lạ như một chiếc lò so, bật nhổm dậy và tiến về chỗ chàng ngay khi bóng Phượng vừa khuất sau cánh cửa. Hắn giơ tay cho chàng bắt và tự giới thiệu:
    - Tôi là Tâm, xin lỗi tôi đã đường đột nhưng tôi có chuyện cần nói với ông.
    Quang nhíu mày:
    - Tôi là Quang, nhưng xin lỗi chúng ta chưa bao giờ biết nhau.
    Người đàn ông lại nói:
    - Tôi để ý đến ông và bà Kim Johnson từ ba đêm nay tại quán ăn này. Ông có thể cho tôi biết ông quen với bà Kim được lâu chưa? Quang bắt đầu tức giận:
    - Tôi biết bà này đã lâu, nhưng đây là chuyện riêng của chúng tôi.
    Người khách tên Tâm ngắt lời:
    - Tôi xin lỗi ông một lần nữa, nhưng tôikhông thể nói chuyện nhiều ở nơi đây, điều mà tôi có thể nói là xin ông hãy cẩn thận, rất cẩn thận.
    Hắn dúi vào tay chàng một tấm danh thiếp:
    - Đây là địa chỉ và điện thoại của tôi, nếu có thể xin ông ngày mai gọi cho tôi, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều hơn.
    Vừa thấy bóng Phượng bước ra khỏi phòng trang điểm, hắn quay lưng và nhìn Quang gật đầu nhẹ như khẩn nài, hắn bước ra khỏi quán đi ngay...

    Quang đưa Phượng về với đầu óc xoay chuyển hàng trăm ý nghĩ. Người đàn ông lạ tên Tâm là ai? Liên hệ thế nào với Phượng? Tại sao hắn khuyên chàng phải cẩn thận? Quang không muốn hỏi Phượng về người đàn ông lạ, chàng đoán đây cũng là một trong muôn vàn bí ẩn của Phượng, nếu có hỏi chàng cũng sẽ chỉ thấy một Phượng im lặng, biến đổi thành một người xa lạ như những lần chàng tìm cách dò hỏi về cuộc đời của nàng trước đó.


    Vừa mở cửa xe cho Phượng vào, Quang vừa suy nghĩ cho đến khi những hạt mưa nặng và lạnh hất lên đầu rơi vào mặt chàng Quang mới bừng tỉnh. Chàng chạy vội vào xe. Cơn mưa đổ xuống thành phố vào mùa này như một điềm bất thường.Cũng bất thường như tình yêu giữa chàng và Phượng, bí ẩn của nàng và lời nhắn nhủ cũa gã đàn ông lạ. Quang lắc đầu như muốn xua đuổi muôn vàn ý nghĩ quái gở đang bủa vây lấy chàng. Chàng chỉ muốn được gần bên Phượng, được nhìn thấy nàng, nghe tiếng nàng nói và ý thức được niềm hạnh phúc của mình, chàng không muốn biết đến những bất trắc, đe dọa làm mờ ám cuộc tình của chàng với Phượng.


    Cơn mưa đổ xuống mỗi lúc một lớn, sấm chớp đầy trời. Quang nhìn sang Phượng, nàng có vẻ sợ hãi trước cảnh trời đe dọa. Phượng ngồi thu mình, hai tay ôm lấy đầu. Trông nàng tội nghiệp như một con chim nhỏ. Quang thầm nghĩ và đưa tay ôm ngang vai Phượng. Nàng mở mắt, ngửng đầu lên nhìn chàng và nói nhỏ, thì thầm, giọng nàng lạc đi:
    - Anh ở lại với em đêm nay.
    Quang dắt nàng chạy vội từ mái hiên đậu xe vào nhà. Ở giữa là một khoảng trống và với trời mưa đổ xuống như thác, hai người đều ướt sũng nước khi vào đến nhà trong. Phượng ôm chặt lấy Quang, môi nàng tìm môi chàng nóng bỏng, nàng nhắc đi nhắc lại:
    - Em yêu anh! Em yêu anh!
    Quang ngạc nhiên và sững sờ trước cử chỉ của Phượng, suốt một tuần lễ đi chơi với nàng, chàng chưa bao giờ thấy nàng như vậy. Phượng chỉ nắm tay chàng hay nhìn chàng âu yếm và chàng cũng thế, chưa bao giờ ôm hẳn Phượng trong vòng tay hay hôn nàng.
    Quang muốn mọi sự diễn tiến theo tình yêu thuần túy, bằng mối tình ngày xưa của chàng bùng cháy thành tình yêu mãnh liệt khi gặp Phượng. Chàng không muốn những ý tưởng về tình dục dính dấp đến tình yêu của chàng, mặc dù chàng thấy Phượng đẹp và khêu gợi biết bao.

    Tình yêu của chàng nâng niu, đặt trên một bệ thờ cao và chàng không muốn những đòi hỏi về xác thịt là động lực cho tình yêu của chàng. Quang biết sự kích thích của Phượng đối với chàng, của vẻ đẹp đa tình và quyến rũ của nàng đối với chàng và chàng tìm cách trấn áp những kích thích đó trong suốt tuần lễ qua. Cho đến này hôm nay. Quang như rơi vào một cơn mê. Tai chàng nghe thấy tiếng mưa đổ rào rào trên mái hòa với tiếng thở và lời nói yêu đương của Phượng. Sấm chớp ngoài trời lâu lâu làm sáng lên căn phòng ngủ của Phượng.

    Cơn mê của chàng kéo dài bao lâu Quang không biết đến nữa. Ý niệm thời gian như không còn gì với chàng vì chàng chỉ còn ý thức được tất cả đã trở thành tình yêu hợp nhất giữa chàng và Phượng, kết hợp là một và kéo dài, kéo dài mãi mãi... Có lẽ điều gì đó đã làm chàng chú ý đến sự thay đổi. Có thể là vì lằn chớp quá sáng cho chàng thấy khuôn mặt Phượng hay những bắp thịt của Phượng chợt căng cứng một cách khác thường. Chàng chợt biết điều khác lạ nơi Phượng.

    Nàng như im lặng, ngừng thở, chỉ vài giây trước đó, tiếng thở của nàng vang lên trong căn phòng. Khuôn mặt nàng trắng bệch và đôi mắt nàng mở lớn, ánh lên một vẻ nhìn kỳ lạ. Quang bỗng thấy một ánh bạc lóe lên phản chiếu từ quả đấm bằng đồng bóng loáng ở đầu giường, cùng lúc với làn chớp bên ngoài dọi vào.
    Chàng xoay người vừa được nửa thân hình để kịp thấy lưỡi dao đâm thẳng từ trên bổ xuống. Lưỡi dao nhọn hoắt, dài và nhỏ như lá liễu đâm xuyên qua bả vai và thấu vào lồng ngực chàng.
    Quang rú lên một tiếng kinh hoàng, cơn đau xé buốt làm chàng tê liệt hẳn đi, nhưng bản năng tự vệ làm chàng bắt kịp cườm tay tay Phượng. Chàng bẻ tréo tay để lưỡi dao rơi xuống mặt giường và loạng choạng bò dậy, tay kia ôm lấy bả vai sau sườn. Máu chàng bắt đầu chảy ra ướt đẫm.

    Quang thấy hoa mắt, khó thở. Chàng nhìn lên giường. Cảnh tượng cuối cùng chàng thấy trước khi ngất đi là Phượng bắt đầu lên cơn động kinh. Cả người nàng giật lên từng hồi, mắt trợn trừng, đầu nàng đập qua đập lại. Quang cố dương mắt nhìn nàng lần cuối và, như một làn vải trắng phủ trước mặt chàng, bóng Phượng mờ dần. Quang bắt đầu thiếp đi vào cơn mê man.

    Cơn đau trong lồng ngực đánh thức Quang dậy. Chàng nằm trong bệnh viện đã được một tuần. Quang nghe kể lại khi đưa vào phòng cấp cứu chàng chỉ còn thoi thóp thở, sát cạnh ngưỡng cửa của tử thần. Cuộc giải phẫu kéo dài hơn 4 tiếng đồng hồ và sau cùng chàng thoát chết. Người bác sĩ giải phẫu nói cho chàng biết mũi dao đi gần sát vào tim. Chỉ nhích thêm một chút nữa và chàng không thể sống được. Tuy vậy chàng cũng phải thở bằng máy nhân tạo và phải để một ống dài hút máu đọng lại trong lồng ngực mất gần một tuần.


    Quang không hỏi gì được về Phượng vì ống thở chạy dài suốt xuống khí quản khiến chàng không nói được. Chỉ buổi sáng hôm nay ống thở mới được rút ra và Quang được chuyển ra nằm phòng ngoài. Chàng mới cảm thấy dễ chịu và thoải mái đôi chút. Người khách đầu tiên vào thăm Quang là một người chàng không ngờ đến nhất. Tâm, người đàn ông lạ trong quán ăn bước vào và Quang giật mình vì vẻ mặt của hắn. Một khuôn mặt tiều tụy và thê thảm đến cực độ, khác hẳn với người chàng đã gặp trong quán ăn mấy bữa trước. Hắn giơ tay nắm lấy tay chàng và nói:
    - Mừng ông khỏe lại. Tôi mang lại cho ông một tin buồn. Phượng đã chết rồi!
    Hắn gục đầu xuống. Quang thoáng thấy cặp mắt của hắn long lánh ướt và hình như giọt lệ bắt đầu đọng lại trong khóe mắt. Người đàn ông tên Tâm nói tiếp:
    - Phượng tự tử bằng thuốc ngủ hai hôm trước. Lỗi tại tôi cả.
    Hắn giơ tay khoác không để cho Quang nói.
    - Ông không cần phải hỏi. Tôi sẽ giải thích tất cả mọi chuyện.
    Hắn kéo chiếc ghế ngồi cạnh giường chàng và bắt đầu kể. Mắt hắn nhìn vào trong góc phòng tối như nhìn vào cõi đêm của u ám, của nỗi chết vương vất, ám ảnh:


    - Phượng là bệnh nhân của tôi. Tôi chuyên môn về bệnh tâm trí. Phượng đến với tôi vào khoảng ba năm trước sau ngày người chồng Hoa Kỳ của nàng chết. Vụ ông Gilbert Johnson bị giết bằng dao đâm trúng tim ngay trong đêm thành hôn với một người đàn bà Việt Nam mới ty nạn sang đây đã là đề tài sôi nổi của thành phố San Francisco này cả hàng mấy tháng trời.


    Gilbert Johnson là người giàu có, tăm tiếng trong thành phố, không ai hiểu tại sao ông ta mê say một người thư ký ngoại quốc đến mức chỉ mới quen nhau vài tháng đã quyết định thành hôn ngay. Lý do tại sao không quan trọng lắm và chắc trên đời này chỉ có ông và tôi, những người đã biết Phượng, mới hiểu được sự quyến rũ và mức hấp dẫn của Phượng. Tôi đoán rằng Johnson có lẽ cũng lâm vào tình trạng mê say như vậy. Ngay trong đêm thành hôn, theo lời báo chí tường thuật, người quản giagốc Mễ nghe thấy một tiếng rú rừng rợn, chạy vội lên lầu và chứng kiến một cảnh hãi hùng – Johnson nằm chết trên giường với lưỡi dao đâm sau lưng xuyên qua tim trong khi Phượng đang nằm dưới đất lên cơn động kinh mãnh liệt, đầu nàng cũng chảy máu chan hòa. Cửa phòng ngủ mở tung và bàn ghế đổ ngả nghiêng trong phòng. Khi cảnh sát và xe cứu thương đến nơi, Phượng mới tỉnh cơn động kinh và khóc lóc thê thảm trước cái chết của người chồng vừa cưới. Nàng khai không nhớ gì về sự việc xảy ra trước lúc Johnson chết, không biết có người lạ nào vào giết chồng nàng hay không, không biết tại sao cửa mở tung và bàn ghế gẫy đổ đầy trong phòng. Tóm lại nàng hoàn toàn không biết gì cả. Điều cảnh sát và những người cứu thương đến chứng kiến là nàng vẫn còn động kinh dữ dội khi họ vừa đến và chuyện mất trí nhớ ngay lúc trước khi động kinh là đúng sự thật.


    Cuộc điều tra kéo dài hàng mấy tháng trời không đưa đến bằng chứng cụ thể nào. Hai giải thuyết được đặt ra: hoặc chính Phượng giết chồng, hoặc Johnson bị một kẻ lạ mặt thù oán lẻn vào giết chết ngay đêm tân hôn. Trong những lần lấy khẩu cung, không ai có thể nghi ngờ lòng thành thật của Phượng, nàng không dấu diếm một chuyện nào cả và tất cả mọi người đều tin như vậy, chỉ có điều nàng hoàn toàn không biết một chút gì về chuyện xảy ra. Chứng động kinh của nàng là lý do, điều này được cảnh sát và những người cứu thương xác nhận và không ai chối cãi được. Sau cùng giới thẩm quyền phải chấp nhận giả thuyết thứ nhì: Johnson bị kẻ thù lạ mặt lẻn vào giết và cuộc truy tầm thủ phạm cũng đi vào ngõ bí. Hồ sơ án mạng của chồng nàng sau cùng bị xếp xó và được coi là kết thúc.


    Phượng thừa hưởng tất cả sản nghiệp của chồng, tuy nhiên nàng vẫn giữ nếp sống giản dị, vẫn đi làm với đồng lương khiêm tốn, nàng không hề tiêu xài hoang phí, sống đơn độc với một người hầu trong căn nhà rộng lớn. Điều này làm những người nghi ngờ nàng đến mấy chăng nữa, nhất là phía gia đình nhà chồng nàng, cũng dần dần thay đổi thái độ. Vụ án của chồng Phượng sau cùng cũng chìm vào quên lãng. Phượng đến khám bệnh tôi vào khoảng hai tuần sau ngày chồng nàng chết. Lý do chính là vì những cơn ác mộng nàng có mỗi đêm và những lúc mất trí nhớ của nàng. Phượng nói mỗi ngày nàng có khoảng vài lần như vậy, hoàn toàn không biết, không nhớ nửa giờ trước đó nàng làm gì.

    Đôi khi nàng chợt thấy mình đang ở trong một chỗ xa lạ, một tiệm ăn, một con đường, nàng hoàn toàn không hiểu tại sao lại đến đó. Điều này làm nàng sợ hãi, cộng thêm với những khủng hoảng do cái chết của chồng và cuộc điều tra đem lại, theo lời khuyên của một người bạn, nàng đến tôi để chữa bệnh. Điều tôi không ngờ là chữa bệnh cho Phượng khó hơn điều tôi dự đoán. Các thuốc an thần loại mạnh cũng không giúp ích gì cho Phượng và ngồi hàng giờ nói với Phượng cũng không đem lại tia sáng nào. Nàng tuyệt nhiên không nói đến chuyện quá khứ, nhất là của lúc trước khi sang đến Hoa Kỳ. Mỗi lần tôi hỏi đến, nàng chỉ yên lặng. Tôi không biết làm thế nào để giúp Phượng hơn sau hai tháng trời trị bệnh.


    Gần như tuyệt vọng, tôi thử dùng một phương pháp mới: thôi miên. Tôi vốn không tin tưởng vào chuyện thôi miên cho lắm, tuy nhiên mới đi dự một khóa hội thảo về thuật này và không biết làm gì khác hơn, tôi thuyết phục Phượng để tôi dùng thôi miên khám phá về bệnh trạng của nàng. Hai tháng trời khổ công định bệnh và chữa bệnh Phượng vô ích, chỉ trong buổi thôi miên đầu tiên tôi đã tìm ra ngay.
    Dưới ảnh hưởng của cơn ngủ thôi miên, tôi bắt đầu hỏi Phượng và được nghe giọng người khác trả lời, hoàn toàn khác hẳn giọng nói lúc bình thường của Phượng. Dáng điệu cũng khác hẳn. Phượng như thay đổi hẳn dưới cơn thôi miên. Mắt nàng mở lớn, nhìn trừng trừng, chiếu ra những tia sáng căm hờn, có lúc lại trở thành đầy sợ hãi, tuyệt vọng. Tôi biết ngay đã gặp trường hợp nhị hóa nhân cách.

    Trong Phượng là hai người hoàn toàn khác hẳn nhau, lúc là người này, lúc người kia. Phần lớn thời gian là Phượng, khoảnh khắc thay đổi là lúc nhân cách kia chiếm ngự và Phượng trở thành người khác hẳn, biến đổi một thời gian ngắn rồi Phượng lại trở lại là Phượng.
    Đây là lý do tại sao nàng than phiền mất hết trí nhớ, hoặc thấy mình bỗng dưng ở một nơi xa lạ. Những lúc đó là lúc nhân cách thứ nhì của Phượng hoàn toàn chiếm ngự nàng. Trong cơn thôi miên, tôi được cho biết nhân cách này tự đặt một tên khác, xưng là Vân và tất cả những bí ẩn của Phượng và thảm kịch của nàng là do Vân gây nên.


    Vân bắt đầu xuất hiện trong Phượng trong cuộc hành trình vượt biên của nàng. Nàng không đi đường biển như nhiều người khác nhưng đi đường bộ qua ngả Cam Bốt đến Thái Lan. Cuộc vượt biên này là một thảm họa. Nhóm người đi cùng với Phượng và Vinh, em trai nàng lọt vào tay bọn Khmer Đỏ. Đàn ông bị chúng giết ngay, trong đó có Vinh. Phượng và những người đàn bà khác bị chúng hãm hiếp.. Chỉ một mình Phượng được tên đầu bọn tha không giết và bắt đi theo. Những người xấu số khác đều bị bắn bỏ.

    Một tháng trời ròng rã Phượng là nạn nhân của bọn quỉ khát máu. Nàng phải cắn răng chịu đựng để được sống sót và dần dần Vân bắt đầu xuất hiện trong nàng. Nàng gan lì hơn, cứng cỏi hơn và tìm cách để thoát thân. Một đêm mưa bão trong rừng nơi bọn Khmer Đỏ trú đóng, nàng dùng dao đâm chết tên đầu đảng ngay khi tên này đang thỏa mãn thú tính và băng rừng bỏ trốn.
    Bị săn đuổi, đói khát với thần chết luôn kề cận bên mình, sau cùng Phượng cũng đến được biên giới Thái Lan và trại tỵ nạn. Vào được nơi an bình, Phượng ngã quỵ và sốt mê man mấy ngày liền. Khi khỏi bệnh nàng mất hết những ký ức của mấy tháng vừa qua. Chừng như những kinh hoàng của cuộc vượt biên đã bị ý thức của nàng dồn nén xuống tận vực sâu của tiềm thức.


    Điều mà ý thức của Phượng không biết là từ đó nàng đã tự tạo ra một nhân cách khác, sống triền miên, vây bủa bởi những thảm cảnh kinh nghiệm của mấy tháng trời sống trong địa ngục, hoàn toàn hành động và suy nghĩ theo bản năng sinh tồn và không từ bất cứ chuyện gì để tự vệ.
    Nhân cách này tự đặt tên cho mình là Vân để phân biệt với Phượng. Vân ý thức được sự hiện hữu của Phượng, về cái tôi khác của mình. Và nói về Phượng một cách trìu mến, bảo bọc .Như Vân thấy có bổn phận phải bảo vệ Phượng. Gìn giữ nàng trước những nguy hiểm của cuộc đời, trước những tai ách của con người, nhất là đàn ông. Trước con mắt của Vân, tất cả đàn ông đều như những tên Khmer Đỏ hành hạ nàng và nàng phải tìm cách phấn đấu, giết chết bọn chúng để trốn thoát.


    Phượng, ngược lại không hề ý thức nàng mang trong mình một nhân cách thứ hai là Vân. Nàng sống giản dị, tôi nghĩ rằng Phượng giữ được tất cả nhân tính của nàng trước khi gặp tai họa tại Cam Bốt. Và là người chúng ta gặp để say mê, như Johnson đã được biết và như ông đã biết. Chỉ đôi lúc Vân xuất hiện là nàng lâm vào tình trạng mất trí nhớ ngắn hạn trong khoảng thời gian Vân chiếm ngự nàng. Hoặc những kinh nghiệm, hồi tưởng của Vân đã hiện lên trong ý thức nàng dưới hình thức những cơn ác mộng. Nói đến đây chắc ông đã đoán biết Phượng, đúng hơn là Vân, đã giết Gilbert Johnson trong đêm tân hôn. Phượng hoàn toàn không ý thức gì, không biết gì đến những khoảng khắc nàng trở thành Vân, để sẵn con dao nhọn ở đầu giường để sửa dọan cho ngày đám cưới.

    Và Vân đã hoàn toàn chiếm ngự lấy Phượng đêm đó, dùng dao đâm người chồng mới cưới như nàng đã đâm tên Khmer Đỏ ba năm về trước. Cơn động kinh đến với nàng như một giải thoát. Vân biến mất chui vào tiềm thức để Phượng ngơ ngác và kinh hoàng trước cái chết của người chồng. Những điều này tôi không nói với một ai biết được vì tương quan giữa người y sĩ và bệnh nhân, tôi không nói với ai lúc đó khi Vân thuật lại hết những sự việc xảy ra và cũng không hở môi với bất cứ người nào khác sau này, trừ ông ra vì ông là người trong cuộc.

    Điều làm cho Phượng trở thành nguy hiểm và trách nhiệm tôi nặng nề vô cùng là với Vân còn ở trong nàng ngày nào, người đàn ông nào yêu thương nàng và được nàng yêu thương lại sẽ trở thành kẻ thù của Vân, cần phải trừ khử khi gần gũi xác thịt với Phượng. Tôi tìm đủ cách trong các cuộc thôi miên để giảng giải cho Vân, để lôi kéo nhân cách nàng về giống với nhân cách Phượng, để hy vọng rằng Vân sẽ dần dần biến mất và sẽ không còn là mối nguy hiểm cho Phượng, cho người đàn ông nào tương lai sẽ được nàng yêu.
    Quả thực lúc đầu tôi cũng rất lạc quan, Phượng cho tôi biết đã ít còn bị những lần mất trí nhớ và thôi miên Phượng để Vân hiện lên cũng khó khăn và ít thành công. Phượng tỏ vẻ yêu đời, sung sướng hơn trước. Phượng đến tôi thăm bệnh cũng thưa dần. Lần cuối cùng nàng đến phòng mạch là hơn 6 tháng trước, trước ngày tôi đi tu nghiệp tại Boston. Lần đó Vân hoàn toàn không thấy xuất hiện dù tôi thôi miên nàng rất lâu. Tôi tưởng nàng đã hoàn toàn khỏi bệnh.


    Ngày ở Boston về là ngày tôi gặp ông và Phượng trong quán ăn. Tôi theo dõi trong mấy ngày và sau khi biết được ông và Phượng đang nẩy nở tình yêu, tôi đường đột đến gặp ông tối hôm đó để dặn ông đề phòng. Tôi dự định sẽ nói hết cho ông ngày hôm sau nhưng không ngờ thảm họa lại xảy ra ngay đêm hôm đó.


    Người y sĩ tên Tâm ngừng lại không nói tiếp dường như bị xúc động mạnh. Quang cũng im lặng không nói, chàng thấy bàng hoàng như đang trong cơn mộng, có lẽ mọi sự chỉ là cơn mộng chăng? Chàng gắng gượng mãi mới hỏi được:
    - Phượng.... Phượng, tại sao nàng tự tử?
    Tâm trả lời:
    - Phượng bị nhà chức trách giữ lại sau khi ông được đưa vào nhà thương. Họ nghi ngờ nàng và đòi mở lại hồ sơ vụ án mạng của Johnson. Phượng được luật sự đóng tiền thế chân tại ngoại hầu tra nhưng tôi đoán Vân đã hoàn toàn chiếm ngự lấy Phượng. Có lẽ Vân đã quyết định tự vẫn. Hoặc giả Phượng ý thúc được sự hiện hữu của Vân và tuyệt vọng nàng tự tử. Tôi không biết được nhưng dù sao đi nữa tôi cũng có trách nhiệm với Phượng. Với ông.


    Quang lắc đầu không nói. Tai chàng không nghe thấy Tâm nói gì nữa. Trước mắt chàng là hình ảnh của Phượng, đẹp lộng lẫy, tươi cười cùng chàng đạp nước bên bờ biển. Phượng đưa chùm nho mọng chín lên miệng cắn, môi nàng mọng hơn những quả nho đỏ. Nàng không thể nào và không khi nào là một ai khác. Nàng là người Quang yêu say đắm và nàng yêu lại chàng, tại sao mọi sự không giản dị như thế. Tại sao bầu trời trong sáng chàng đã biết, đã sống với Phượng trong một tuần lễ tuyệt diệu của đời người, lại trở thành cõi đêm, của kinh hoàng, của sự chết. Tại sao đời sống không tiếp nối, không vĩnh cửu.. tại sao, tại sao Phượng không còn nữa?


    Người đàn ông tên Tâm đứng dậy đưa cho chàng một phong bì mỏng:
    - Họ nhờ tôi đưa cho ông thư này của Phượng. Họ tìm thấy thư trên giường nàng.
    Quang run rẩy mở thư xem. Trong thư chỉ vỏn vẹn mấy hàng chữ: “Tha lỗi cho em. Em yêu anh. Phượng.” Quang không dấu được tiếng nghẹn. Trước khi chết, Vân đã trả lại Phượng cho chính nàng và nàng đã nghĩ đến chàng, đến tình yêu của hai người. Nhưng hạnh phúc của tình yêu chàng và Phượng đã không đủ để đưa Phượng ra khỏi cõi đêm. Để thoát khỏi ràng buộc của ký ức kinh hoàng vây chặt lấy nàng, không cho nàng một lối thoát.


    Quang nhìn ra bầu trời. Trời trong sáng nhưng chàng thấy như mờ ảo. Một tia nắng nào đó như lung linh, nhảy múa ngoài cửa sổ. Có lẽ Phượng đấy chăng? Nàng đã thoát khỏi tăm tối của cõi đêm và nàng đang đứng đó, đẹp lộng lẫy, huy hoàng, chờ đón chàng và dịu dàng nắm lấy tay chàng đi dạo suốt mùa xuân của vĩnh cửu và vô cùng.


    Nguyễn Đình Phùng
    Last edited by Frank; 05-27-2014 at 08:57 AM.

  10. #10
    Nhà Ngói
    Join Date
    Jul 2013
    Posts
    263
    Đám cưới đêm ba mươi


    Nguyễn Đình Phùng





    Tùng lấy chiếc phong bì chứa tấm ngân phiếu mừng đám cưới đưa cho Thăng và quay sang nói với Cường:


    - Mày đưa tiền mừng cho thằng Thăng. Để nó đại diện bàn. Họ sắp đến rồi kìa!


    Chàng nhìn về phía đám hai họ đang đi chào bàn và thu tiền mừng. Chú rể có dáng dấp quen thuộc nào đó chàng vẫn chưa nghĩ ra giống ai. Ba người bạn thân được đàng gái mời dự đám cưới đúng đêm ba mươi tết. Ông Hoành, ba của cô dâu là bạn mạt chược của ba người, nói giọng như xin lỗi khi mời:


    - Hai đứa chúng nó muốn làm đám cưới sớm mà mấy nhà hàng Việt Nam bắt phải đợi đến hơn 6 tháng mới có chỗ. Chỉ có mỗi thứ bẩy ba mươi tết này là trống. Tôi muốn kiêng mà chúng nó nằng nặc đòi làm mình đành phải chịu.


    Ông lắc đầu:


    - Chúng nó là Mỹ rồi mấy cậu ơi! Con cái đặt đâu mình ngồi đó vậy thôi!


    Tùng nhìn lên. Ông bà Hoành và cô dâu đang tiến lại bàn, đi cùng với chú rể và bà mẹ. Không thấy bố chú rể đâu. Ông Hoành nói mấy câu giới thiệu như người trả bài, những câu nói giống hệt nhau đã lập đi lập lại hàng mấy chục lần suốt bao nhiêu bàn. Thăng cũng đứng lên chúc tụng vài câu và đưa đống phong bì mừng tiền cho chú rể. Tùng thấy Thăng cũng ngẩn người nhìn kỹ chàng thanh niên đứng trưóc mặt. Chàng đoán Thăng cũng như chàng, đang thắc mắc chú rể giống một người quen nào đó mà chưa nghĩ ra.


    Ông Hoành rót chút rượu ra ly nhỏ đặt trên chiếc khay phủ khăn đỏ được người nhà mang theo đến mỗi bàn. Ông đưa ly cho chú rể và nói:


    - Mời mấy chú mấy bác uống chút rượu cùng mừng cho hai cháu.


    Chú rể ngửa cổ nốc cạn ly rượu. Tùng liếc mắt nhìn Cường và Thăng. Hai người đang nhìn lại chàng. Phong cách uống rượu của chàng trẻ tuổi này làm chàng sực nhớ đến một người. Và hai người bạn chàng cũng cùng một ý tưởng.


    Đột nhiên chú rể cất tiếng cười ha hả. Mọi người ngạc nhiên nhìn. Chú rể như người lên đồng, lắc đầu mấy cái, đưa tay vò mái tóc và rút trong túi ra cặp kính trắng đeo lên mắt. Miệng nở nụ cười tươi tắn, chàng thanh niên ôm lấy vai Cường:


    - Mày lại hài đàm rồi Cường ơi!


    Quay sang Thăng, chú rể nói giọng ngạo:


    - Thăng! Mày chỉ hòa với chúng nó nhưng không đồng được đâu!


    Và đưa tay ra bắt tay Tùng:


    - Tùng! Cậu đừng có sụp nửa mi mắt nhìn đời khinh bạc như vậy chứ!


    Ba người bạn cùng đứng lên kinh ngạc. Thăng và Tùng không nói nên lời. Cường như người mắc nghẹn, mắt trợn trừng nhìn chú rể và nuốt nước bọt mấy lần mới cất được giọng, run run:


    - Mày! Trụ! Có phải mày đấy không?




    * * *




    Cường là người bạn đầu tiên với Trụ. Từ những ngày đầu quen nhau ở trường Luật, Trụ đã là mẫu người Cường thán phục. Thông minh, sắc sảo, với tiếng cười ha hả và những lời châm chọc nhẹ nhàng cho bạn bè nhưng đau đớn cho người không ưa, Trụ có nhiều người muốn làm thân cũng như đầy kẻ thù, nhưng chàng cũng chỉ thân thiết với mình Cường. Hai người cùng học Luật nhưng hầu như không bao giờ đến trường, chỉ lấy những tập cua ronéo dầy cộm mang về, để chất đống một xó và cuối năm học gạo, đến trường thi và lên lớp đều đều. Cả năm học, hai người chỉ cần để ra một tháng cuối năm để học, thời gian còn lại là giang hồ khắp nơi khắp chỗ. Kỷ niệm sâu đậm nhất giữa Cường và Trụ là khi hai người ra Cam Ranh, nơi ông bố ghẻ của Trụ là Trưởng Ty cảnh sát tại đậy


    Khoảng thời gian đó Cam Ranh là nơi chốn xao động nhất nước. Tình hình chiến sự ngày một gay cấn và Hoa Kỳ đổ quân đổ tiền như nuớc lũ buông tràn vào Cam Ranh. Những bar rượu mọc lên như nấm và những cô gái điếm Việt Nam cũng theo nhau kéo đến đầy ngập Cam Ranh. Trụ và Cường dựa hơi ông bố ghẻ của Trụ, hưởng đủ mùi đời. Nhưng những trụy lạc của thành phố cũng không giữ hai chàng được lâu.


    Từ Cam Ranh, hai người đi về miền Trung và tại đây, Trụ đã gặp mối tình đầu tiên của chàng. Trụ yêu một cô gái, hơn chàng mấy tuổi, giữ chức vụ quan trọng trong đảng Đại Việt tại miền Trung. Và như một câu chuyện tình bi thảm trong tiểu thuyết, người yêu của Trụ bị bắn chết, vì một lý do mơ hồ về chính trị nào đó. Trụ trở về Nha Trang, uống rượu say khướt hàng mấy ngày liền. Và một buổi sáng tỉnh rượu, chàng khám phá ra mình đã làm đám cưới đêm trước với một cô gái nào đó, cùng tên với người yêu cũ của mình!


    Thăng quen Trụ qua Cường. Chàng thân với Cường những ngày Cường học Luật, qua một người bạn khác. Và khi Thăng vào làm thiếu úy cảnh sát ở quận ba, Trụ đã trở thành thân thiết với Thăng cũng như Cường, ba người ngao du khắp phố phường Sài Gòn trên chiếc xe Jeep cảnh sát của Thăng. Nhưng Thăng thân với Trụ nhất khi chàng đi học khoá đại úy cảnh sát và được thuyên chuyển lên giữ chức vụ trưởng ban Phượng Hoàng trên Đà Lạt. Trụ cũng vừa được về dạy ở Võ Bị Đà Lạt và Đại Học Chính Trị Kinh Doanh. Hai người cùng ở một thành phố và cũng cùng túng thiếu như nhau. Thú giải trí duy nhất chỉ là ngồi quán cà phê và đánh bi da qua ngày. Chỉ khi nào Tùng lên chơi Đà Lạt, mang tiền bố mẹ cho lên tiêu xài, hai người mới sống huy hoàng được dăm ngày.


    Tùng thân với Trụ qua Thăng. Chàng là bạn học từ nhỏ với Thăng. Thuộc loại con nhà giàu, chân chỉ hạt bột, Tùng chỉ biết học và không hề biết những thú vui giang hồ nào. Cho đến khi bắt đầu chơi thân với Cường và Trụ. Và những ngày Thăng làm thiếu uý cảnh sát tại quận ba, những cuộc vui ban đêm với ba người bạn đã mở mắt cho Tùng thấy cuộc đời còn nhiều chuyện vui khác ngoài chuyện học giỏi, lên lớp đều đều mỗi năm!


    Kỷ niệm giữa Tùng với Trụ sâu đậm nhất là khi Tùng biết Trụ đang đói rách, chờ đến ngày nhập ngũ vào Thủ Đức, đã lặn lội đi tìm việc cho bạn. Bà dì của Tùng vừa được cơ quan Ford Foundation thuê để dịch các bài báo Việt Nam viết về chiến dịch khai quang rắc chất hoá học Agent Orange của quân đội Hoa Kỳ, nhằm tìm hiểu về phản ứng của dư luận báo chí Việt Nam thời đó trước chiến dịch khai quang này. Bà dì của Tùng cần những sinh viên giỏi Anh ngữ để vào thư viện quốc gia dịch tất cả các bài báo viết trong khoảng thời gian đó. Và Trụ là người đầu tiên Tùng nghĩ đến để giúp khi biết có công việc thích hợp cho Trụ, lại ngắn hạn trong mấy tháng trước ngày Trụ nhập ngũ cộng với tiền thù lao béo bở.


    Khoảng thời gian làm việc tại thư viện quốc gia này có lẽ là lúc hạnh phúc nhất cho cuộc đời Trụ. Công việc nhàn nhã, thảnh thơi, lại có tiền đủ để Trụ hút thuốc, uống rượu. Chàng lại đem lòng mê say cô sinh viên Luật cùng làm một chỗ với chàng. Mối đam mê đến với chàng như những ngày của mối tình đầu với người yêu bị giết chết tại miền Trung. Nhưng Trụ chỉ dám say đắm một chiều, dù chàng biết nàng cũng có cảm tình và để ý đến chàng.
    Vì Trụ đã có vợ. Và một đứa con trai mới sinh! Trụ không hề để ý đến người vợ chàng cưới trong cơn say ngày nào tại Nha Trang. Nhưng đứa con trai, Khuất Nguyên, là một ràng buộc mới cho chàng. Và mối tình đẹp một chiều, cũng chỉ như thế, không thể trở thành gì khác, chỉ còn lại một kỷ niệm êm đềm cho chàng những ngày trong quân trường.


    Trụ vào Thủ Đức, sau khi xong Cao Học Luật. Chàng không còn lý do nào khác để được hoãn dịch. Dù gia đình Trụ thế lực và có thể chạy chọt để chàng được miễn dịch vĩnh viễn. Trụ không thể chấp nhận điều đó. Bản tính chàng không bao giờ muốn luồn lọt để được an thân. Và dù quan niệm của chàng vẫn không thay đổi về sự phi lý của cuộc chiến, Trụ bình thản lên đường vào Thủ Đức để nhập khoá sĩ quan.


    Điều Trụ không ngờ đến là cá tính của chàng ra ngoài khuôn khổ để theo kỷ luật và sự huấn luyện của quân trường. Chàng không chịu nổi sự chỉ huy và áp chế của người khác. Trụ luôn luôn nhìn thấy những yếu điểm và những giả tạo của cấp trên. Và chàng không bao giờ im lặng để giữ những nhận xét đó cho riêng mình. Những chỉ trích của chàng đưọc coi là sự nhạo báng cấp trên và những lý luận của Trụ bị coi là sự chống đối không thể chấp nhận được cho kỷ luật của quân trường. Và kết quả là ngày tốt nghiệp khoá sĩ quan, Trụ bị đánh rớt. Và bị tống ra ngoài Đồng Đế để đi học tiếp khoá hạ sĩ quan!


    Chứng nào tật ấy! Ngay cả khi bị hành tại Đồng Đế, Trụ vẫn không thể im lặng và không thể ngưng những câu chỉ trích, chế nhạo những kẻ có quyền hành, có đủ phương cách để làm đời chàng khốn khổ. Trụ sau đó bị đuổi khỏi trường huấn luyện hạ sĩ quan để ra làm binh nhì, tống lên một khu tiền đồn lẻ loi trên Ban Mê Thuột! Trong mấy tháng này, cuộc đời Trụ có lẽ đã xuống đến tận cùng. Chàng viết thư cho Tùng, tả những ngày làm bạn cùng khỉ vượn trong rừng sâu của vùng cao nguyên, giờ đây chỉ biết "sụp nửa mi mắt nhìn đời khinh bạc".


    Đến giai đoạn này, gia đình của Trụ thấy không có cách nào khác hơn là nhúng tay vào can thiệp. Dù Trụ không nói và không yêu cầu, ông bố ghẻ của chàng đã dùng những đường dây quen thuộc trong Tổng Tham Mưu để đưa Trụ ra khỏi tiền đồn hẻo lánh trên Ban Mê Thuột và bốc chàng trực tiếp về trường Võ Bị Đà Lạt để dạy về Chính Trị Học tại đây!


    Trụ là một sinh viên sáng chói tại trường luật. Chàng là người trẻ tuổi nhất đậu Cao Học Luật và những cuộc tranh luận của chàng tại trường đã được các giáo sư Luật nể vì. Một người tài giỏi như Trụ không thể vì những thù hằn cá nhân của một số huấn luyện viên tại Thủ Đức và Đồng Đế dìm đến mức đánh rớt trở thành binh nhì và đầy ra một tiền đồn hoang vu. Bộ Tổng Tham Mưu sau khi xem xét hồ sơ của Trụ và được các vận động và khuyến cáo của các giáo sư Đại Học Luật Khoa, đã quyết định đưa chàng về trường Võ Bị Đà Lạt để dùng tài năng cuả chàng cho đúng mức.


    Đời Trụ đã tươi sáng trở lại ngày chàng lên Đà Lạt. Trụ cũng được mời để dạy thêm tại trường Chính Trị Kinh Doanh của Đại Học Đà Lạt. Chàng gặp lại Thăng nay đã là Đại Úy cảnh sát của chương trình Phượng Hoàng. Hai người bạn thân tương đối đã tạm ổn cuộc sống, thường xuyên mỗi đêm ra quán cà phê để đấu láo và bàn chuyện thế sự, chuyện những cấp trên tham nhũng, hách dịch và dốt nát.


    Trụ vẫn không thể bỏ được thói quen phê bình và chế nhạo những cấp chỉ huy của chàng. Những buổi nói chuyện tán gẫu này được Trụ gọi là "hài đàm", danh từ chế riêng của chàng. Và cuộc đời tuy yên ổn nhưng vẫn nhiều xung khắc của Trụ với những sĩ quan khác trong ban giảng dạy của trường Võ Bị, đã được Trụ mệnh danh là "hòa nhưng không đồng". Trụ đành chịu yên hòa với những người chàng coi thường và không ưa của ban giáo sư trường Võ Bị, nhưng chàng vẫn khinh bỉ và cương quyết không bao giờ trở thành "đồng", giống như họ và theo những đường lối chàng không chấp nhận được của họ.


    Tuy Trụ và Thăng yên ổn trên Đà Lạt nhưng cả hai người đều túng thiếu. Không thể làm được những chuyện bẩn để kiếm ra tiền, hai người chỉ sống vào đồng lương, không bao giờ đủ tiêu. Thăng gửi thư cho Tùng rủ bạn lên Đà Lạt chơi và nhân chuyện "tả oán". Tùng đã ra trường và làm việc ở Tây Ninh. Nhận được thư, chàng ra ngay bưu điện để gửi mandat tiền nguyên tháng lương vừa lãnh cho hai bạn. Vốn con nhà giàu, Tùng không bao giờ thiếu thốn. Ngay cả lương của chàng cũng chỉ vừa đủ để đổ xăng cho chàng chạy xe.


    Nhận được tiền của Tùng gửi lên, Thăng gọi ngay Trụ để ra tiệm ăn sang nhất trên Đà Lạt ăn uống một bữa no say. Hai người ngồi uống rượu thả tràn để say khướt đến hơn nửa đêm mới về. Thăng cũng đưa tiền cho Trụ để mua đủ thuốc lá Pall Mall hút cho cả tháng! Trụ thiếu gì cũng được nhưng thuốc lá Pall Mall và rượu Johnny Walker, chàng không thể thiếu. Đã có lúc Trụ đem đồng hồ đi cầm để có ít tiền mua thuốc, mua rượu. Nhà chàng không có đồ gì không cầm cố ít ra hai ba lần những lúc thiếu tiền cho hai thứ ghiền này.


    Ngày cả bốn người bạn gặp lại nhau là lúc Đà Lạt di tản chiến thuật và Trụ và Thăng đều chạy về được Sài Gòn. Cường và Tùng cũng đã có mặt tại Sài Gòn những tuần lễ cuối. Họ hẹn gặp nhau tại một quán cà phê và nói chuyện tìm đường để đi. Tùng được một người quen hứa đưa vào Tân Sơn Nhất để nằm chờ được phi cơ Mỹ bốc. Thăng và Cường bàn tính để ra Nhà Bè tìm đường biển để chạy. Riêng Trụ nhất định không đi. Chàng nói muốn ở lại để đối đầu trực tiếp với cộng sản khi chúng vào Sài Gòn. Chàng tiên đoán sẽ bị giết chết. Và chàng nói với ba người bạn thân: "Nếu chúng đem tao ra xử bắn, tao sẽ đòi một ân huệ cuối cùng. Là chúng đưa một tên lý thuyết gia giỏi nhất về chủ nghĩa cộng sản gặp tao để tranh luận tay đôi với tao về chủ nghĩa này!".


    Họ không gặp lại nhau sau đêm ngồi quán cà phê đó. Cả ba người Tùng, Thăng và Cường đi thoát ngày 30 tháng 4. Và Trụ ở lại, bị bắt đưa đi học tập. Đúng như Trụ đã tiên đoán, chàng đã bị cộng sản đem ra xử bắn ngay trong trại học tập chỉ ít tháng sau đó. Vì chúng đã không thể đàn áp được chàng. Những nhạo báng và chống đối của chàng đã làm chúng điên đầu. Và cách xử lý dễ dàng nhất của cộng sản với những người bất khuất như Trụ là đem ra giết ngay. Ba người bạn sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ được tin Trụ bị giết chết trong trại học tập. Họ không biết Trụ có được thoả nguyện cuối cùng là một cuộc tranh luận với một tên lý thuyết gia của cộng sản trước khi bị bắn hay không. Chắc chắn là không, vì đời nào cộng sản chịu sự nguy hiểm và nhục nhã là một lý thuyết gia có hạng của chúng, cãi không lại với Trụ!




    * * *




    Chú rể tiếp tục cất tiếng cười ha hả. Ba người bạn nhìn nhau. Tiếng cười này họ khi nào quên được. Biết bao lần họ đã nghe Trụ cả cười như thế. Tiếng cười hào sảng, ngạo nghễ nhưng vẫn nồng ấm khi chung quanh là bạn bè. Và khinh bạc khi có mặt những kẻ Trụ coi thường. Giọng cười xoáy vào tim ba người bạn. Vì chàng thanh niên trước mặt, với mái tóc bồng và cặp kính trắng, là Trụ, là bạn thân của ba người, của những ngày hơn ba mươi năm trước đây.


    Chú rể bỗng lắc mạnh người và mắt trợn lên, ngồi phịch xuống ghế. Hai tay và chân bắt đầu co giật mạnh. Tùng định tiến người lên để đỡ nhưng nhanh hơn, bà mẹ chú rể đã nhào lại, tay móc trong túi áo ra một viên thuốc nhỏ và banh miệnh chú rể nhét thuốc vào. Bà quay lại nhìn Tùng nói:


    - Cháu nó bị kinh giật, phải uống thuốc Tegretol này. Đã lâu lắm không bị, không ngờ hôm nay lại lên cơn như vậy.


    Chú rể gục đầu xuống chừng hơn nửa phút và bắt đầu mở mắt ngơ ngác nhìn quanh.
    Bà mẹ nói:


    - Con uống chút nước! Khổ quá, không chịu uống thuốc đều. May mẹ mang sẵn thuốc đi cho con.


    Ba người bạn nhìn nhau. Dù Trụ là bạn thân, họ chưa bao giờ gặp vợ con Trụ. Và thiệp cưới chỉ đề tên bà mẹ và tên người chồng chắc hẳn là chồng sau. Tùng xem lại thiệp mời. Chàng bây giờ mới để ý tên chú rể là Khuất Nguyên, tên đứa con Trụ đã hãnh diện đặt tên theo một nhân vật Tàu thời cổ và đã kể cho Tùng nghe sự tích tên đứa con của mình.


    Chú rể đứng dậy, xin lỗi mọi người và sau vài phút, tiếp tục cùng đoàn quan viên hai họ đi sang bàn khác chào bàn, như không có chuyện gì xảy ra. Tùng nhìn Thăng và Cường. Hai người chưa hoàn hồn, tiếp tục đứng yên như trời trồng, chỉ biết đưa mắt nhìn Tùng. Chàng lắc đầu:


    - Đừng hỏi tao! Tao không thể giải thích được. Khuất Nguyên này đúng là con của Trụ rồi. Tao đoán là nó bị động kinh thuộc loại do thùy thái dương ở trên não bộ. Những ngưòi bị động kinh loại này hay có những ảo giác rất lạ trước khi lên cơn giật. Nhưng ảo giác biến thành lời nói và cử chỉ của thằng Trụ như thế thì tao cũng chịu không hiểu ra sao nữa.


    Thăng và Cường lắc đầu, không nói. Tùng là người của khoa học. Chàng chỉ tin vào những gì có thể chứng minh được. Nhưng Tùng biết, Thăng, Cường đều như chàng, đã nhìn thấy những gì xảy ra khi chú rể ngưng cơn kinh giật. Họ đã thấy một bóng mờ, thoát ra từ hai bên thái dương của chú rể. Và bóng mờ đứng đó, trong khoảnh khắc, dơ tay chào ba người, miệng mỉm cười, trước khi tan biến như làn khói vào thinh không.


    Nguyễn Đình Phùng

 

 

Similar Threads

  1. Nhạc khúc Nguyễn Đình Phùng
    By Frank in forum Âm Nhạc
    Replies: 1769
    Last Post: Today, 07:54 AM
  2. Truyện ngắn Mặc Bích
    By Frank in forum Truyện
    Replies: 10
    Last Post: 05-31-2014, 12:08 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 08-10-2013, 01:44 PM
  4. Truyện ngắn của Mưa PN
    By Mưa PN in forum Truyện
    Replies: 16
    Last Post: 11-02-2012, 09:30 PM
  5. Bán chữ - Truyện ngắn của Phan Trang Hy
    By huongcali in forum Truyện
    Replies: 0
    Last Post: 11-11-2011, 07:32 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 05:11 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh