Register
Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 17 of 17
  1. #11

    huyễn hoặc

    huyễn hoặc
    tôn thất tuệ

    Những đứa con tôi như nhành bông lúa
    chờ ánh nắng há mồm uống nắng

    chiều chờ sương ngậm miệng giữ hơi sương

    trong thinh vắng đồng quê ngây dại

    thả tâm hồn cùng đom đóm nói yêu thương.


    Những đứa con tôi thích dòng nước mịn

    trong vách đá trào ra như máu rịn

    nuôi bên bờ những cây cói đứng song song

    làm tàng lọng che lũ cá màu trắng bạc.


    Chúng quên bẵng những ngày dài khoai sắn

    ruột như bào không đủ cơm canh

    thèm kẹo ngọt nên tưởng bờ rào là mía

    có thỏi đường trong đống đá bốc hơi.


    Chúng chia sẻ nguồn cơn của người lớn:

    có ai kìa gọi bố lên làng

    ba ngày gạo mà đi công tác

    bồ về chăng hay ở mãi không thôi.

    Ba ngày gạo đã là chuyện khó

    mà bố đi ai dẫy cỏ nương khoai

    trời mưa xuống một ngày bằng một tháng

    phải chạy đua cho kịp mùa mưa

    mà nắng đến cỏ khô bốc cháy

    khô mãnh vườn và khô cả nồi cơm,

    nhỡ bố đi không về như dạo trước

    thì làm sao biết sống chết nơi nao.


    Tôi để lại những đứa con nầy trong cỏ rác

    với vợ hiền vóc dáng sinh viên

    tay gõ nhịp trên cán cào tre nứa

    hát lời ca mấy độ mới thương nhau.

    Tôi để lại một lũ con thích hát

    những cung vần gia điệu thật vu vơ

    như gió lạc như chính mình đi lạc

    thế giới người chỉ biết sợ nhau thôi.


    Tôi khẳng quyết là tôi không có tội

    cùng đấu tranh thua thắng chuyện đua bơi.

    Nhưng tôi thấy tội tôi dày tâm khảm

    đem chúng vào thế giới của đời tôi

    cùng gánh chịu một oan khiên vô lối

    một tội danh hoang đường huyền thoại.


    Và cô bé trời xanh đi học

    áo em xanh trả hàng me xanh lá

    ly mía ngọt hồi xưa em uống

    nay đắng nhiều với những ngày còn sót lại với đời ta.


    Ôi tội danh từ thinh không mà có

    định cho ta mà cũng quyết cho đời em

    rồi thấm xuống lũ con vô tội.

    Ta hối hận vì ta đã chung sống

    với giống người

    tôn huyễn hoặc

    lên làm vua.-

    Last edited by tonthattue; 02-25-2012 at 07:26 AM.

  2. #12

    email cuối năm với nàng thơ

    (dưới đấy là một email cuối năm cho các bạn học cũ, xin giữ nguyên tuy có vài điểm nhỏ có tính cách riêng rẻ)




    Thưa bà con cô bác,
    Năm nay Nhâm Thìn tui e bình tài xuất nhập ngang nhau vì bốc ra quẻ xăm cô nhỏ xâm hình rồng nầy thiệt là rồng lộn, không như mấy cô áo xanh e Viêt Nam ngày nào. Cho nên tui xin thêm quẻ nữa thì thấy hình trái thanh long, ruột đầy sung mãn, màu sắc hài hòa tươi mát. Theo lối bốc dịch, hai quẻ ấy tốt xấu hủy diệt nhau thì tui phải xin một keo khác mới rõ hên xui. Nhưng kẻ đến sau bao giờ cũng thắng thế, cho nên xin lấy cái thùng phi to tướng bỏ trái ấy vào nấu chia cho bà con cô bác mỗi người một chén nước. Của ít người nhiều, đó là cách chia sẻ như ngày xưa Dương Diên Nghệ được vua cho một trái cam, đem về làng nấu trong chảo to để muôn loại thần dân đều hưởng ơn của Minh Quân, kẻ theo lý thuyết đại diện cho trời đất.
    Xem như năm Mão đã qua; mà cho nó qua cho rồi. Năm Mão 1975 rõ là: Mèo ngao cắn cổ anh già; anh già bắt được cả bầy mèo ngao.

    Thìn cầm tinh con rồng cho nên đừng cho mấy lão như Putin và nói chung dân tây phương biết, họ sẽ đưa Saint Georges cầm kiếm giết chết như đã ghi trong Histoires (des) Saints. Rồng của mình thì quý lắm.
    Long tu là cây thuốc trị bá bệnh; mùa nóng nấu chè với đậu xanh trị nhiễm trùng đường ruột.
    Xương rồng lá lép dân Mễ ăn như mình ăn rau muống. Nhà nào cũng treo một nhánh xương rồng gai để trị ma. Quết cây xương rồng thả xuống ao, cá chết nổi lềnh bềnh.
    Thanh long ăn mát nhưng trái ấy đã làm rừng vùng Khánh Hòa tan hoang vì dân chúng đi lấy cây gỗ quí làm dàn. Thanh long cũng được nuôi thúc như nuôi gà bằng cách chong đèn nê ông sáng như ban ngày.
    Đậu rồng trong Nam không đến nỗi tài danh như đậu bắp (okra) nhưng not bad.
    Long nhãn đúng là mắt rồng vì ăn nhiều đỏ con mắt muốn đui luôn.
    Long não ngữi vô là long cái não mà bay như rồng, bỏ vào áo quần dán mối chạy re.
    Rồng thì nói mô cho hết, mà đó là tài của Võ Dật, hãy chờ nghe. Lắm rồng, lắm long.

    Nhưng long đong thì phải đốt phong long. Lấy cái trách đất hay cái chảo ra quán tạp hóa mua bộ đồ trị phong long, gồm giấy tiền vàng bạc, bỏ vào trách đốt, thêm muối hột cho nổ, thêm vài loại lá cho thơm như lá chanh, lá rosemary. Các bà chủ tiệm như tiệm ăn tiệm áo cưới mà business trì trệ thì đốt như rứa rồi nhảy qua nhảy về như nhảy " xồn tố mị, bụng to lo chi" mà nhiều người được dạy trong chiến khu.
    Tuần trước Phan Ngọc than nay đã lộn thời, cho nên nàng thơ cũng bỏ đi chơi, Mệ Để thì phán: lộn đời. Tui thì phải kéo nàng thơ làm thủ tục đốt phong long. Mệ Để hiểu lầm chữ "hôi mùi khét" mà cười ha há y dư mùi khét qua tận Toronto nhảy vô lỗ mũi của hoàng thân. Tui xin chép lại chân nguyên, không xiêng xỏ.

    Lộn trời cũng tại cái lộn lèo
    buồm rách lèo lộn mà đi kêu kêu lộn trời
    tầm bậy dư ri trời sẽ phạt:
    suốt đời làm răng cho tàu bè không lộn lèo.
    Có được mần ri thì thuyền mới tới
    Tây vực ngồi chơi nướng củ khoai
    mà không sợ cảnh:
    kìa cái diều ai nó lộn lèo.

    Thời đã rách bươm như xơ mướp
    lót ổ chó nằm chó cũng chê
    nàng thơ vén váy đốt phong long
    xả xui nắm muối nổ bôm bốp
    ma quỉ,văn nhân sợ chạy re;
    nàng thơ vén váy mưa tầm tã
    hủ bát trôi sông, cồn (an côn) đã vô ruột.
    Nàng đốt phong long hôi mùi khét
    râu tóc nam nhi cháy sạch bách
    Buồn quá đi thôi rượu cạn rồi (thơ Phan Ngọc)
    Rờ lên đầu sói muốn đi tu
    Trợ duyên xin mượn chiếc váy củn
    xếp thành tay nảy đựng tôm khô,
    dăm bảy cuốn kinh không chữ viết
    xé đốt phong long, sửa lộn lèo
    quyết đốt phong long, sửa lộn thời.

    Vậy thì, hạ nhân đã đốt phong long của năm mèo. Và xin mời chén nước thanh long từ trái thanh long quý sáng của quê mẹ. Xin chúc bà con cô bác có cả triệu mùa xuân.

    triệu mùa xuân
    tôn thất tuệ

    Xuân ở bờ lau xuân tháng sáu
    xuân ở bờ lau mưa không ướt nhánh
    đâm cành mọng dù mưa không ướt đất
    ý xuân nồng tháng hạ khô khan
    cho thu mượn tình xuân
    thu ca vịnh suốt ngày đông
    giữ cành khô không cho gió mang đi.

    Ôi trong sáng, bình minh ướm nhụy
    khi một người từ bỏ ra đi
    xin giao lại ngai vàng điện ngọc
    gốc bồ đề khởi thảo thơ xuân
    chiếu ánh sáng vùng thâm sâu duyên nghiệp
    nhận chân mình qua khỏi mộ chiêm bao
    lên tiếng gọi tình yêu vũ trụ
    có con người và trùng dế hát trong đêm.

    Kìa giọt máu rơi từ Thánh giá
    dấu đinh sâu gieo giống tình thương
    dạy con người đem thân bón xới
    đóa hoa xuân trên sỏi đá bốc hơi
    và gánh chịu hàm oan thế kỷ
    không hận thù mà yên ổn lương tri.

    Trong trầm lắng nhiều mùa xuân thắm đọng
    như mẹ tôi khâu áo mỗi chiều
    mắt trông ngóng đàn con đi học
    trên đường làng có những bụi cỏ thơm thơm.

    Và người vợ lưng gầy quảy nặng
    sắn khoai khô qua khu rừng khốc liệt
    bón thân tôi trong tù đày ác nghiệt
    cho tôi thấy một mùa xuân trở lại
    để còn cười và giữ lấy tin yêu.

    Xuân cũng nở xuân hiền cùng Matisse
    những mãnh trời rực rỡ ý thơ bay
    với màu tươi Nguyên Khai Bửu Khải
    cứ yêu người như thuở mới lên năm.

    Nay xuân mới
    Ta yêu em gió xuân ta đang thở

    bến sao thưa chuyển lòng khung trời hẹp
    Triệu mùa xuân ngập hồn ta đang sống
    mạch máu đầy ta có cả triệu mùa xuân.-



    ghi chú: nếu thân hữu có comment, xin ghi ở Dấu Ngàn Năm, chuyện linh tinh:
    https://dtphorum.com/pr4/showthread....u-Ngàn-Năm

    Ngày đầu năm Dương Lịch 2012








    Last edited by tonthattue; 01-01-2012 at 07:10 AM. Reason: sưa size chữ

  3. #13
    kinh không chữ viết

    Theo lời yêu cầu của một người bạn, tôi đã sửa mấy câu dí dỏm trong post kề trên như sau.

    Bạn cũ phiền trách sinh lộn thời
    Nàng thơ không đến rượu cạn khô
    Khác nào Tây Vực thuyền không tới
    Gió chướng buồm thưa lèo tréo hẻo.
    Thời đã rách bươm như xơ mướp
    lót ổ chó nằm chó cũng chê
    nàng thơ vén váy đốt phong long
    xả xui nắm muối nổ bôm bốp
    ma quỉ,văn nhân sợ chạy re;
    nàng thơ vén váy mưa tầm tã
    mâm bát trôi sông, hủ phơi đáy.
    Nàng đốt phong long bay mùi khét
    râu tóc nam nhi cháy sạch bách
    Buồn quá đi thôi rượu cạn rồi.
    Rờ lên đầu sói muốn đi tu.
    Trợ duyên xin mượn chiếc váy củn
    nàng xé chia cho nửa yếm đào
    để lộ núi đồi cây nhẵn thín
    tinh yêu ma quỉ đứng chận đường.
    Đạo sinh trố mắt giật khung vài
    xếp thành tay nảy đựng tôm khô,
    dăm bảy cuốn kinh không chữ viết
    xé đốt phong long sửa lộn đời
    quyết chí ra tay dẹp loạn thời.

    Trong thư ông nói tôi bịp khi viết câu: dăm bảy cuốn kinh không chữ viết nhưng ông lại thích và với nhãn quan riêng ông đã gởi cho mấy câu sau:

    Dăm bảy cuốn kinh không chữ viết
    Bần trơn gà chọi không lông đuôi
    Nhưng người đã ngộ khi chó sủa
    Tay nãy đạo sinh nực mùi tôm.

    Ông bạn không nói thêm vì sao cho tôi bịp. Tôi hiểu thế nào là kinh không chữ viết? Tôi hiểu rất đơn giản, không theo mô thức của thiền như phá chấp v.v… Khi mình không đọc được thì những gì cầm trên tay đều là không chữ viết. Khi ai đưa cho cuốn kinh chữ Hán thì xin chịu, chỉ đọc được chữ nhất, nhị, tam là chấm hết. Đưa cho tôi một tập nhạc cũng như đưa cho xấp giấy trắng, tôi có biết cái khóa sol thường tượng trưng cho bộ môn nầy.
    Còn nhớ có người đem cuốn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đưa cho Lục Tổ Huệ Năng xin Ngài giải thích giúp. Ngài nói: ta có biết chữ mô mà đọc. Hãy đọc cho ta nghe xem sao.
    Nghe rồi, Ngài tóm lược trong bốn chữ: khai thị ngộ nhập.
    Khi viết câu nầy, tôi không nghĩ đến Lục Tổ mà vì kinh nghiệm của người bình dân.
    Ở VN, mãi cho đến 1975 vẫn có những tiệm cho thuê sách truyện. Ở Huế, tôi thấy mỗi chiều thứ bảy, mấy bà bán rau, bán cá, thuê truyện tàu như Phong Thần, Tây Du, Đông Chu, Thuyết Đường … tuy các bà không biết chữ, chủ quán có đưa lộn cũng ô kê. Các bà đem về nhà gọi con cháu, hay bạn con cháu đến đọc. Trẻ con làm sau biết những ý nghĩa cao xa, chỉ biết đọc. Nhưng các bà giải thích cho nghe.
    Từ đó tôi kính trọng người không học, họ có sự hiểu biết như Lục Tổ tuy không đọc được chữ.
    Vậy thì đạo sinh dốt, nếu muốn học theo vô ngôn, thì xé đốt nhóm lửa, hoặc sẽ nhờ người khác đọc.
    Mặt khác tôi không dùng chữ thiền sinh vì tránh động chạm, đạo sinh rộng rãi hơn, đạo là đường, là trường đời.

    Nói lại: nếu có ý kiến, tham luận xin ghi ở mục Dấu Ngàn Năm, chuyện linh tinh, hay bất cứ tiêu đề nào do tôi mở; vì Không Gian Riêng không nhận trả lời
    Last edited by tonthattue; 01-27-2012 at 12:16 PM.

  4. #14


    trẻ con trên xứ Nepal, hình từ internet

    giới thiệu một bài viết của Lữ Hồ

    Lúc ấy vào giữa chiều 29 tháng 04, tôi ngừng xe Honda trước cửa nhà thường được nói là của Nguyễn Cao Thăng vì thấy Lữ Hồ đang đứng bên vĩa hè mặc bộ bà ba trắng. Lữ Hồ - bảy năm sau khi viết bài nầy - vui buồn không để lộ nhưng có lạ là không ngậm ống điếu. Cả hai chúng tôi nhìn theo chiếc xe jeep trắng mui trần chạy hối hả trên đường Phan Thanh Giản về hướng xa lộ Biên Hòa; Trần Văn Đôn ngồi trên ghế trước. Sau vài câu chẳng nằm đâu, tôi ra về để tiếp nhận cái rời rả của đô thành như con cú đã thấy mùi tử khí của con bệnh trong nhà để đón đi cho ma ăn (ngạn ngữ: cú kêu ma ăn). Hơn ba năm sau, tôi từ vùng kinh tế mới về thăm Saigon, tôi ghé lại nhà LH ở Gia Định. LH ở một mình, vợ con đã đi Pháp, anh lại vừa qua khỏi bệnh nan y bằng cách chú tâm niệm Phật.
    Hơn mười năm trước nữa, chính tại căn nhà nầy LH biếu vợ chồng tôi cái bao lì xì Tết với khoản tiền khá lớn, anh nói tôi khỏi cảm ơn vì là nhuận bút một bài tôi viết về đứa con của Bokassa. Tôi giờ nầy cũng quên mất tờ báo của LH. Dạo ấy LH ngồi ké trong tòa báo Đời của Chu Tử. Lúc ấy LH có viết về Tây Du Ký; tôi không đọc; nhưng LH nói anh ca ngợi Chư Bát Giới, tượng trưng cho nhục thể, cho bản năng, cần thiết cho một cuộc sống. Trong lúc ấy người ta chỉ chú ý đến Tôn Ngộ Không, như một loại trí thức mà quên rằng trí thức ấy đã mang một mối nguy trong mình cho nên cần có kim cô điều khiển khi thái quá. Tuy vậy đây chỉ là một truyện tàu, tự nó không mang tính cách giáo lý cũng như Tam Quốc chưa phải là lịch sử như nhiều người tin tưởng. Ở điểm nầy LH có phần nào mâu thuẩn khi viết trong bài nầy:
    Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có chí lớn, trèo non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy chú Tề thiên, Bát giới, Sa tăng với 72 chúa yêu.
    Về thị hiện, lối dễ hiểu nhất là chỉ có con rắn đực mới thấy con rắn cái đẹp. Lối khó hơn là kinh Pháp Hoa: Ta thành Phật từ muôn vạn kiếp trước không thể nào đếm được tuy rằng tất cả trong thế gian trời, người, a tu la đều nói Phật Thích Ca rời cung thành họ Thích đến thành Dà Gia ngồi nơi đạo tràng cách nay thật không xa chứng vô thượng chánh giác.

    Thị hiện là biểu lộ một phần nhỏ của một thực thể không thể thấy, ví như nhiệt lượng cần những chất dẫn như không khí, nước v.v… điện cũng thế, nó hiện diện khi ta nấu, sấy tóc. Một ví dụ không chính xác nhưng gần gũi: hình ảnh một xướng ngôn viên trên TV, người ấy không chỉ ngần ấy thôi; trước và sau khi ra khỏi màn hình có cả một thế giới không nhìn thấy được.

    Thị hiện có tính chất kỹ thuật, cần nhưng chưa đủ (nói theo lối toán học). Thị hiện vào Diêm Phù Đề, Phật không từ bỏ tục đế tuy mục đích cuối cùng là chân đế. Mặt trời đâu có lên xuống đông tây, mà làm gì có hướng đông tây nhưng Ngài phải nói phương đông, tây thì chúng sinh mới hiểu. Chân đế và tục đế không xa lìa nhau. Trong kinh Niết Bàn, Ngài nói rằng Phật cũng như trâu bò sinh trong bào thai, nhưng không thể nói rằng Phật chỉ là trâu bò.

    Ngài nói: Ta là con vua Tịnh Phạn nhưng ta cũng là Như Lai (vào thời Pháp Hoa, Ngài giảng với tư cách Như Lai).

    Có sự trùng hợp với Chúa Jesus Christ: Ta là con của người và là con của trời. Thật vậy, con của người là con của bà Marie, con của Trời tức là thuộc một chân lý vĩnh cữu như pháp thân.

    Bế tắt của Tây Phương là không nhìn theo lối thị hiện và chỉ nhất quyết Jesus chỉ có một tư thế là con của Trời mà thôi. Họ đã đi truyền đạo bằng cách nói Phật chỉ là con ông vua còn Jesus là con Thượng Đế mới đáng theo. Tây Phương đã đi rất xa với Đạo Chúa nguyên thủy (christianisme primitif) như Nghiêm Xuân Hồng có nói. Biến thái nầy đã đưa đến quan điểm thần học khắc nghiệt và thiếu nhân bản.

    Tam thế chư Phật đều thị hiện, như trong Pháp Hoa: Như Lai quảng diễn kinh điển độ thoát chúng sinh, khi chỉ việc mình, khi chỉ việc người, khi chỉ thân mình, khi chỉ thân người. Qua thị hiện, có người nói rằng Phật giáo siêu mà không cao, siêu là xuyên thấu tất cả nhưng không cao xa, xa vời với con người. Âu cũng là một cách nói.

    Thân chúc Nhâm Thìn cầm tinh con rồng cùng con phụng hân hoan, lúc nào cũng như mình: we are married today.


    tôn thất tuệ




    Ý nghĩa thị hiện của Phật Đản
    Lữ Hồ

    Nên hiểu một cách đơn giản: “Phật là giác ngộ” thì ngày Phật đản chính là thời điểm của ánh sáng giác ngộ ra đời. Sự hiển hiện của con người xuất thế tại vườn Lâm-tỳ-ni vào một ngày trăng tròn cách đây 2592 năm (tính theo thời điểm 1968) là hình ảnh của Chân lý viên dung. Ngày Phật đản cho tới nay đã được các nhà bác học, văn nghệ, truyền giáo thuật lại với nhiều vẽ linh động, nhiều dữ kiện huyền bí. Có sách nói Ngài đã từ trong cánh tay vương mẫu bước ra, bước bảy bước trên bảy hoa sen nở tươi dưới gót, miệng nói “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Có người theo khuynh hướng khoa học lại cứ đoán chắc Đức Phật ra đời không khác mọi người trần tục. Những gì là quả đất rung chuyển, hoa Đàm mưa xuống, hương thơm sực nức đều là những điều tô điểm của người sau. Chung quy, một đàng coi Đức Phật như một bậc tiên thánh thần thông, một đàng nhìn Ngài dưới lăng kính của giác quan thế tục.
    Nhưng điều quan hệ không phải ở đó. Điều chính yếu là Phật với Chân lý, Phật với Giác ngộ là một. Sự đản sanh của Phật là sự xuất hiện của Giác ngộ.

    Có người bẻ lại rằng: Nếu thái tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ từ phút sơ sinh thì:

    – Tại sao Ngài phải du ngoạn bốn cửa thành rồi mới chứng được hệ luận thứ nhất: “Đời là bể khổ” qua thực tế “sinh, lão, bệnh, tử”?

    – Tại sao, sau khi cưới vợ, sinh con, rồi đợi một đêm trăng tròn tháng hai, Ngài mới lìa xa cung vàng điện ngọc, đổi thay trang phục vương giả để lấy tấm áo chăn chiên, đi tìm chân lý?

    – Tại sao, Ngài phải đi qua con đường khổ hạnh, phải suy tư sáu năm ở Núi Tuyết, rồi một sớm ngày trăng tròn tháng chạp mới chứng ngộ được Chân lý Giải thoát?

    Xem thế, con đường tầm đạo của Đức Phật, tưởng cũng không khác với con đường khảo nghiệm, phát minh của các triết gia, khoa học.

    Suy ra, những vấn nạn trên không vượt ra ngoài ý niệm căn bản: Đức Phật chỉ là một con người như mọi con người. Và nói theo luận lý thì những khám phá của Đức Phật, dù thuộc phạm vi siêu hình hay biểu tượng, cũng chỉ là kết quả của một chuỗi suy luận lâu dài chứ không phải là một trực kiến siêu việt như người ta hằng ca tụng. Đức Phật là một siêu nhân chứ không phải là đấng siêu nhiên. Thật ra, nếu đứng trên quan điểm thường-nghiệm như vậy, ta sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa nhân bản của Đạo Phật, của Phật đản, của các Đức Phật.

    Điều trước tiên, ai cũng thấy rõ, Chân lý có thể đến trong trí tuệ nhân loại bằng hai đường: THẤY và TÌM. Thấy được Chân lý là con đường trực kiến. Tìm Chân lý là con đường suy nghiệm. Những chân lý trong những lãnh vực khoa học, tư tưởng đều phát sinh từ suy nghiệm. Điều ấy đã hiển nhiên. Những khám phá của khoa học, triết học ngày một tiến tới. Lý thuyết sau thay thế lý thuyết trước. Nguyên lý nọ đạp đổ nguyên lý kia. Quá trình phát triển của khoa học, triết học, là một chuỗi chân lý kế tục thay thế nhau, chen lấn nhau khiến cho nhân loại cứ đi mãi về cái đối tượng “chưa tìm thấy” ở đàng trước. Chưa tìm thấy thì chưa có thể tin. Chưa biến thành đức tin thì còn phải quanh quẩn ở phê phán. Nhờ tìm thấy mãi, các nhà khoa học, triết học đã có một ảo giác là đi vào quang phổ Chân lý lung linh màu sắc mà càng ngày càng cảm thấy bơ vơ! Các triết gia cho yếu tính của triết học là hoài nghi. Không hoài nghi cái “hiện có” thì không còn ai đi tìm cái “chưa có” nữa. Như vậy, những điều khám phá được mệnh danh là chân lý trong khoa học, triết học, đã không có giá trị tuyệt đối. Đã tương đối thì phải đối đãi, phải so sánh và đương nhiên không thoát khỏi thăng trầm. Đức tin cốt yếu của nhà khoa học, triết học là phải công nhận những khám phá của mình không có giá trị vĩnh cửu dù rất phổ quát và tất yếu. Phổ quát vì áp dụng rất đúng với sự vật. Tất yếu, vì đó là những bậc thang của lý trí không thể thiếu để hoạt động. Tin mình không tin như thế là tự thú một mặc cảm, xác nhận một trình độ. Mặc cảm về khả năng tương đối của suy nghiệm, thú nhận sự bất lực của những công trình nhân tạo.

    Ngược lại, “thấy” Chân lý là trực giác ngoại lý siêu việt của đấng xuất thế. Thấy Chân lý là trực kiến được quy luật sâu xa chi phối mọi hiện tượng hữu hình, mọi định mệnh chi phối thân phận con người. Đã là trực kiến thì không thể biện giải được. Bởi thế, con người đạo học trong khi suy nghiệm Chân lý giải thoát là để thấy rõ cái thấy vi diệu của chư Phật chứ không phải đi tìm. Theo Phật mà đi tìm Phật thì có khác chi ngồi với chủ nhà lại đi tìm chủ nhà. Mọi sự biện giải đều là phương tiện để thấu hiểu chứ không phải để bài bác, biện giải. Muốn biện giải thì phải nhờ tới suy nghiệm, mà phương tiện này không thể đạt được cái tuyệt đối, thì dù có mượn cũng không dùng được và nếu gượng ép thì lại làm cho Chân lý bị phân hóa đi. Trước nay, đã có nhiều người cố gắng biện giải đạo Phật qua lăng kính triết học, khoa học. Ta phải nhận rằng, nhờ họ mà ánh sáng Chơn lý trở thành lung linh nhưng họ cũng làm cho ta choá mắt và không vượt nổi hình thức, giáo điều. Biết đạo chưa phải là hiểu đạo. Hiểu đạo chưa phải là hành đạo. Hành đạo cũng chưa phải là liễu đạo.

    Chân lý giải thoát của Phật đã tuyệt đối, không thể biện giải được. Đã không biện giải được thì làm sao mà truyền bá cho quần sanh?

    Trong mục đích này, chư Phật đã dùng một phương tiện để cảm thông: Đó là thị hiện.

    * * *

    Thị hiện
    là gì?
    Tức là đem cái vô hình lồng vào cái hữu hình. Là cụ thể hóa các ý niệm trừu tượng. Là đem những gì ở lĩnh vực khả tri gắn liền với hiện tượng khả giác. Phật đản, Xuất gia, Thành Đạo đều là những biểu thị chân chính của đạo Phật. Một triết gia hiện đại có nói: “Cho dù Thượng đế có tạo ra con người chăng nữa, thì sự hiện hữu của Thượng đế cũng phải biểu hiện qua sự hiện hữu của con người”. Quả vậy, ý niệm Thượng đế chỉ có thể tồn tại qua những chứng tích của con người. Ai chẳng biết Thượng đế chỉ là một ý niệm sơ khởi. Ý niệm ấy được các người hữu thần gán cho cái khả năng sáng tạo muôn vật, nhưng nếu không có sự hiện hữu của muôn vật thì lấy ai để cho biết là có Thượng đế đây? Tôn giáo nào cũng có tượng ảnh, nghi lễ, kinh sách, giới luật, văn chương... tức là đã vay mượn các công trình sáng tạo của con người. Đã có tượng hình là đã vay mượn cái hình thể con người. Có thờ phụng là có mượn công trình kiến trúc, xây dựng của con người. Có kinh sách là có mượn ngôn ngữ, văn tự. Và, giới luật là gì? nếu không phải là những hình thức, khuôn khổ ghép con người vào phương tiện để đi vào cứu cánh? Cho nên, dù con người dù có thấp hèn, ngu dốt, vẫn là trọng tâm của mọi hiện hữu của thế gian. Vì đó, ta có thể nghĩ rằng: “nếu không có con người thì lấy ai để chứng minh cho sự hiện diện của Thượng đế?” Ấy vậy, lắm nhà thuyết giáo vẫn không chịu xác nhận sự hiện hữu nhân bản, sự hiện hữu của con người.

    * * *

    Đức Phật đã không vào đời với con đường ấy. Đức Phật không phủ nhận sự hiện hữu nhân thể. Trước tiên, Ngài là một nhân vật có được phụ mẫu sinh dưỡng theo quy luật sinh tử của con người phổ biến. Hoàng hậu Magia cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đúng ngày sinh nở, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi trẻ khác. Có điều, Ngài là một bậc vương giả, sinh trong gia đình quý tộc, phong kiến, giữa thời đại đa thần thì tất nhiên các quan thái sử chẳng ngần ngại gì mà không thêm bớt một vài huyền thoại cho vị Hoàng đế tương lai! Đến khi Phật giáo truyền qua Trung Hoa, thế giới của truyện ma quái, thì tiểu sử của Ngài lại được nhuộm thêm một phần hoang đường huyền bí nữa. Rất đổi, Ngài Huyền Trang chỉ là một vi cao tăng có trí lớn, trèo non, lội suối qua Ấn Độ thỉnh kinh mà các văn sĩ Trung Hoa cũng ghép vào mấy chú Tề thiên, Bát giới, Sa tăng với 72 chúa yêu, muốn cho Ngài muốn gặp Đức Quán Thế Âm lúc nào thì gặp, huống nữa là đức Bổn sư? Cũng may là các nhà văn ấy chưa dám tiểu thuyết hóa đời Ngài như một ông văn sĩ nước ta bây giờ. Dù vậy, các khuynh hướng thần lý trong tư tưởng học thuật Trung Hoa cũng đã lũng đoạn Chân lý không phải ít!

    Lớn lên, Thái tử cũng biết nóng đến phải ở cung mùa hè, cũng rét đến ở cung mùa đông và cũng sẽ có vợ con như nghìn triệu con người khác. Tuy nhiên, những dữ kiện đầy nhân tính ấy không chứng tỏ Đức Phật trong tương lai chỉ là một kẻ nhân giả tầm thường mà chính Phật đã thị hiện nhân bản để gây nên cái ý thức tự cứu nơi mỗi con người. Đạo Phật không truyền bá sự cứu rỗi, không ai cứu ai được. Mỗi cá nhân được chư Phật chỉ cho sự u mê, vạch đường Chân lý thì phải tự mình tu tập để tự cứu. Cùng một lẽ đó, nếu Đức Phật giáng trần như một bà tiên cho phép lạ thì có ngay hai cái hại: Một là, con người nảy ra tính ỷ lại. Hai là, không tin mình có thể tự cứu lấy thân phận mình. Vì vậy, Đức Phật đã lấy đời người làm xuất phát điểm. Đản sanh, xuất gia, thành đạo, nhập diệt. Bốn giai đoạn, bốn bước tới Chân lý từ thấp đến cao. Thật rõ ràng và thực tế biết bao nhiêu? Đức Phật đã không chối bỏ con người, Ngài lại cũng không quên sự ràng buộc đớn đau của hoàn cảnh. Sống trong một hoàn cảnh kiêu xa như Thái tử Tất Đạt Đa mà nói tới sự “bỏ tất cả để được tất cả” không phải là một điều giản dị. Người ta chỉ chối bỏ hiện tại khi bị đau khổ, nghịch lý áp bức. Chính Thái tử đã không chịu được sự thống khổ đó. Nếu chỉ có những người cùng hoàn cảnh mới thương mến nhau, thì phải nói Thái tử Tất Đạt Đa là con người lẻ loi nhất thời đó và trong xã hội nhiều giai cấp như Ấn Độ, không ai có được hoàn cảnh quyến rũ như Ngài. Cần phải có sự giao tiếp với tha nhân, với ngoại cảnh. Thế rồi, nhân cuộc du ngoạn, Ngài cảm được sự đau khổ của những con người không cùng chung giai cấp, tuổi tác, hoàn cảnh. Sự thông cảm ấy đương nhiên khó mà có ở thường nhân. Đức Phật không phải nhờ học nhiều sách, nghe nhiều thầy mà nhận định được “Đời là bể khổ”. Có bao giờ phụ vương Tịnh Phạn lại dám để cho Ngài buồn đâu? Tự Ngài đã thấy, đã trực kiến, đã chấp nhận sự đau khổ của tha nhân và cũng là của tự thân, tức cái thân phận con người. Và rồi, Ngài lẫn tránh mọi phiền trược để đi tìm Chân lý.

    Chính đây mới là vấn nạn lớn nhất của những người hứa đựng óc thực nghiệm. Họ cho rằng: “Phật phải tu luyện, phải suy tư rồi mới thấy được Chân lý”? Ngài là một triết gia như mọi triết gia. Và, vì Ngài xuất chúng quá nên Bertrand Russel đã suy tôn là Đại tư tưởng, Đại giáo dục, v.v...

    Để hiểu được ý nghĩa thâm diệu của giai đoạn này, ta cần lưu ý tính cách liên tục suốt cả hành trạng của đời Ngài, một chuỗi thị hiện thuần nhất rất phù hợp với quy thức Tứ đế sau này. Từ giai đoạn đản sanh là một biểu thị nhân bản đến việc du ngoạn chứng kiến cảnh sinh, lão, bệnh, tử là ý thức tự giác, đến giai đoạn này là giai đoạn tìm Chân lý, vẫn có một tiến trình điều hòa vi diệu. Thực vậy, trực kiến Chân lý là diệu năng của chư Phật. Thế còn chúng sanh thì có trực kiến ấy không? Vậy thì, nhận biết chúng sanh không thể có trực kiến để thấy được tuyệt đối, sáu năm suy tưởng của Ngài ở Tuyết sơn là bài học cho thấy: con đường suy nghiệm dù chỉ có giá trị tương đối, không giúp chúng sanh thấy được Chân lý và chỉ vẫn có thể nhờ đó mà tìm tới Chân lý do Đức Phật đã trực kiến mà thôi. Công việc này có khác chi nhà triết học sau khi tìm ra tư tưởng đã phải dùng tư tưởng để giúp cho mọi người hiểu được tư tưởng của mình. Cao hơn nữa, Đức Phật lại cho rằng Chân lý không ở ngoài con người. “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Cái ý thức tự giác đốt lên trong tâm hồn của từng cá nhân. Và ý nghĩ của chuỗi ngày suy tư dưới gốc Bồ Đề chỉ bao hàm một ý dụ là bất cứ một chúng sanh nào, nếu chịu y cứ vào giáo pháp thì đều có thể chứng ngộ được Chân lý giải thoát do Ngài đã trực kiến được.

    * * *

    Kỷ niệm Phật đản, căn cứ vào những dữ kiện đã trình bày ở trên, ta có thể rút ra những hệ luận sau đây, nói về sự thị hiện của Phật giáo:

    1. Đức Phật chấp nhận nhân bản tính

    Đức Phật không bao giờ tự xưng là đấng sáng thế mà chỉ bày tỏ thiện niệm cứu thế. Có người nói: “Tôi không chấp nhận sự hiện hữu của ông sáng thế, vì ổng đã bày đặt ra lắm trò rắc rối, chỉ làm khổ cho chúng sinh. Ông càng có lại càng làm thêm rắc rối cho nhân sinh. Tôi chỉ thờ phụng đấng cứu thế mà thôi. Ai cứu tôi, cứu cuộc đời quanh tôi khỏi khổ đau là tôi thờ phượng”. Ý nghĩ ấy kể cũng có phần chua chát đấy nhưng vẫn thâm trầm lắm. Thật vậy, Đức Phật đã không tự phong cho mình chức vụ sáng thế mà chỉ muốn hoàn thành nhiệm vụ cứu thế. Thiện nguyện của Ngài đã đi trước thời đại hằng ba mưoi thế kỷ và để hoàn thành thiện nguyện ấy, Ngài cũng không tạo ra những phép thuật mầu nhiệm để phạt tội, đe dọa hay tha tội cho ai như một vài tôn giáo đã chủ trương. Ngài đã đản sanh trong nhân thể, nhân cách của con người. Ngài gợi ra cái ý thức tự cứu của cá nhân. Sống trong một xã hội phong kiến, trong khi nhân loại còn đắm trong hoang đường, thần lý, mà Đức Phật lại đề ra một phương thức tự giác như vậy thì quả là táo bạo và tiến bộ. Táo bạo vì sẽ không thoát tay bọn phù thủy Bà la môn. Tiến bộ vì không chịu mặc lấy bộ áo hoang đường. Thuận theo sự tiến triển của tư tưởng nhân loại thì trong trạng thái thần lý (état théologique) như Auguste Comte nói: “con người chỉ chấp nhận những gì hoang đường huyền bí, mà phủ nhận những gì hiện thực”. Đức Phật đã đi ngược lại. Người đi vào con đường của khoa học hiện tại. Nếu có ai đã đọc cuốn kinh “Báo phụ mẫu ân” tức thấy Ngài diễn tả sự biến hóa của cái bào thai trong bụng mẹ rất kỹ càng không khác gì khoa phôi sinh học ngày nay. Hơn nữa, Đức Phật bắt đầu việc truyền giáo từ ý thức tự cứu tức là Ngài “tìm sự giác ngộ cho mình” rồi mới “đem bốn mươi chín năm đi giác tha” cho nhân loại.

    2. Đức Phật lấy nhân bản để hướng lên Siêu việt

    Ở trên, căn cứ các dữ kiện, ai cũng thấy Đức Phật đi vào lòng người để cứu rỗi con người. Dù vậy, những chất người trong đời Ngài chỉ có tính cách biểu thị mà thôi. Chứng cớ, sau bốn mươi chín năm thuyết pháp, Ngài đã tuyên bố là “chưa từng nói một lời gì” hoặc “giáo lý là ngón tay trỏ, Chân lý là mặt trăng”. Không nên bám vào ngón tay (phương tiện biểu hiện) mà quên Chân lý. Ngài đã dùng cái “cụ thể” (hình hài, ngôn ngữ, hành trạng) để biểu hiện cái “trừu tượng” là Chân lý. Ngài đã đản sanh và hành đạo qua nhân thể là đem cái khả tri gửi vào biểu tượng khả giác cho mọi chúng sinh từ sơ cơ tới thượng tri đều có thể hiểu được, bắt chước mà làm theo được? Dù vậy, với hệ luận “thành, trụ, hoại, không”, Ngài luôn luôn nhắn nhủ cho nhân loại thấy mọi biểu tượng đều giả trá, tạm bợ. Đó chỉ là “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Thuyết tương đối của Einstein hiện đại đã làm cho ánh sáng Chân lý của Đức Phật thêm hiện thực. Các cuộc du hành không gian hiện tại nào có thoát ra khỏi “ba ngàn đại thiên thế giới” do Đức Phật phát kiến? Những khám phá của khoa học, triết học hiện tại chỉ là những dẫn chứng cụ thể cho giáo lý vi diệu của Đức Phật. Cũng vì đượm nhiều nhân bản tính, đạo Phật đã không mâu thuẩn với khoa học, triết học. Nhờ ở viễn kiến của Ngài mà Phật giáo đã không vấp phải một trận thánh chiến nào, dù trong lãnh vực tư tưởng. Nhà khoa học chủ trương đả phá thần quyền. Đạo Phật không đề cao thần quyền thì làm sao trở thành đối tượng đả phá của họ được. Triết học chủ trì hoài nghi nhưng làm sao nghi ngờ được Chân lý Phật giáo khi mà họ chưa đạt được cả ba đối tượng Chân, Thiện, Mỹ? Nhà chính trị cũng không phủ nhận giá trị đạo Phật vì trong công cuộc hiện đại hóa của đạo Phật có chủ nghĩa nào tiến bộ hơn phép lục hòa, tứ nhiếp của đạo Phật chưa?

    * * *

    Kỷ niệm ngày đản sanh, chúng ta đón nhận luồng tư tưởng giác ngộ chói rạng tâm hồn. Không nên coi đây là sự xuất hiện của một con người mà phải chiêm nghiệm sự ban bố của Chân lý. Chân lý giác ngộ ấy không ở ngoài ta. Đức Phật đản sanh ở trong ta, trong sự đau khổ hiện thực của ta, của những con người. Đức Phật vì sự đau khổ của con người mà tìm phương giải khổ cho con người. Ngài không phải là một nhà khoa học vì Ngài không đem cái trí tuệ minh mẫn của mình để chế ngự thiên nhiên bằng tư tưởng. Ngài không phải là một nhà khoa học vì Ngài không biện giải những tư tưởng hoài nghi. Xuất thân là một vị vương giả, đã nghiêng mình xuống, hòa mình với kẻ bần cùng, đau khổ. Giáo lý Ngài tồn tại trong tim óc người bị áp bức, đày đọa. Xưa nay, giáo lý của Ngài chưa bao giờ bị bọn thống trị dùng làm khí cụ để khống chế nhân loại. Các vị tăng lữ, dù hữu hành hay vô hành, đều chỉ có hai đường lối: hoặc là nhập thế độ sanh, hoặc là ly thế nhập định chứ không hề có một vị nào trở thành một phần tử của đẳng cấp thống trị. Cho nên, hãy nghĩ rằng Đức Phật đã vì ta mà đản sanh, Đức Phật đã vì chúng sanh mà thị hiện. Vậy trong cương vị chúng sanh, tưởng chúng ta chỉ có một nhân sanh quan rất nhân bản là:

    Nhận định:
    Đời là bể khổ.
    Giải pháp
    : Tự giác để giác tha.
    Ánh sáng Chân lý đã chiếu rọi, ta chỉ cần phát triển cho rực rỡ lên. Đó cũng là tâm niệm lớn nhất cho con người Việt Nam đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực./.

    (
    Tạp chí Từ Quang, số 185-186, tháng 1 & 2 năm 1968)


  5. #15
    Thiền Gà hay Thiến Gà ?
    Sau khi nhận bài viết về thị hiện, post #14 ngay trước đấy. Một thân hữu gởi tôi email dưới đây. Bà là thân hữu ở gần nhất trong khu núi đồi nầy. Gần nhà xa cửa ngõ; hai gia đình dùng hai lối khác nhau khi đi Atlanta phía Nam và Chattanooga phía bắc, cho nên có khi hơn một năm chẳng gặp. Bà vui tính và cho tôi cái tên nhà thiền gà; khi tay chọt bậy trên keyboard mà thành nhà thiến (dấu sắc) gà, tôi cũng cho chạy luôn khỏi sửa. Thiến gà hoạn heo là môn đệ của Hoa Đà thời Tam Quốc.

    Thiền sư nuôi gà ơi,
    Hôm trước sư huynh có nói với muội mấy chục cái không có trong việc thành Phật mà muội nghĩ thiền sư gà nên ghi vào phần giới thiệu. Theo Phật, không có chuyện đắc đạo vì những phép bất thường như đi đầu xuống đất, như phải chặt một cánh tay, nhai cát với gạo. Bình thường, bình thường. Không bình thường là tu luyện mấy chục năm để qua sông bằng cái nón lá, bình thường là trả vài xu cho cô lái đò nhờ qua sông.
    Nhân chuyện cô lái đò, muội được biết Phật có danh hiệu là Thuyền sư, chèo ghe đưa người qua biển khổ. Hình ảnh ấy đơn giản rất gần với mình.
    Phật chính là tam bảo. Phật là Phật, là pháp thân; Phật là Pháp, Phật cũng là Tăng. Hóa hiện như một kẻ đồng hành, hóa hiện hình người.
    Muội không hiểu gì nhiều về thị hiện như câu nói của Jesus và Phật. Nhưng muội thấy hai Ngài rất bình dân. Chúa rửa chân cho tông đồ; Phật tự rửa bình bát, thu xếp chiếc chiếu nơi ngồi giảng kinh Kim Cang.
    Một người cùng quê với Đức Phật, sống thời hiện đại, đã phiền trách xã hội Ấn Độ (cho cả thế giới?), quá nhiều lễ lạc, quá nhiều nghi thức chế biến thêm mỗi ngày, quần áo màu mè, mũ mão dù lọng đã làm cho giới tăng lữ có quá nhiều quyền lực. Thi sĩ Tagore không ám chỉ PG. Nhưng muội thấy câu nói của Lữ Hồ năm 1968 sau đây cần xét lại trong hoàn cảnh hiện nay: Các vị tăng lữ, dù hữu hành hay vô hành, đều chỉ có hai đường lối: hoặc là nhập thế độ sanh, hoặc là ly thế nhập định chứ không hề có một vị nào trở thành một phần tử của đẳng cấp thống trị.
    Nếu chư huynh, chư tỷ nào muốn, thì hãy cùng muội làm những đứa trẻ trong câu nói nầy cũng của Tagore:
    From the solemn gloom of the temple, children run out to sit in the dust, God watches them play and forgets the priest.
    (trẻ con chạy xa cái tăm tối uy nghi nơi đình miếu, ra ngồi trên đất cát; Thượng Đế nhìn chúng đùa chơi và Ngài phọt ghét đám tăng tu).
    Có chi thì xin thiền sư gà tụng kinh giải nghiệp cho muội. Amen me culpa.


    htc


    Last edited by tonthattue; 02-25-2012 at 07:27 AM.

  6. #16


    Au milieu du chemin de la vie
    Dante
    góc đường xa
    Tôn Thất Tuệ

    Tôi vẫn nghĩ cuộc đời như con đường, như dòng suối chảy mãi. Con đường biểu tượng cho sự xây dựng của con người, tự nó không có khi trời đất lập nên. Mượn hình ảnh ấy, nhà văn Trung Hoa Lỗ Tấn nói rằng hy vọng do con người tạo ra như con người tạo dựng những con đường buổi ban sơ. Những ngánh sông, những ngã ba đường bao giờ cũng cho ta ý niệm xa xăm ở góc đằng kia có cái gì. Ai ở đằng kia?

    @

    Hồi tôi còn bé, có phong trào các nhật báo Saigon tặng bản đồ để câu khách. Tôi mua treo đầy tường khắp nhà, đứng ngắm nghía lấy que tre chỉ chọt chỗ nầy chỗ nọ. Một ông hàng xóm đến nói trong nhà rằng thằng bé sau nầy sẽ trở thành một nhà chính trị hay chiến lược. Lúc ấy tôi chưa thấy sự liên hệ giữa địa dư và chính trị. Đến khi tôi biết điều nầy, tôi cũng biết rằng người kia không biết việc tôi làm. Tôi đã không nghiên cứu các thế chiến lược, những eo bể, nách sông, những pháo đài trên mặt trận toàn cầu.

    Tôi cầm bút chì chỉ chỗ nầy là Groeland, chỗ kia là góc sông Amazone, chỗ nọ là Sibérie... Các nơi ấy giờ nầy, giờ tôi đang đứng trước bản đồ, một ai đó, một kẻ nào đang làm gì? Họ ngủ chăng? Họ ăn chăng? mà ngủ thì ngủ đâu, trong giường ấm hay nơi đất lạnh? Mà ăn thì ăn sao? sung túc hay ăn trái ổi chua lừa cơn đói? Và cứ thế giờ nầy qua giờ nọ, từ Phi Châu đến Á Châu, qua Mỹ Châu... vẫn những câu hỏi vớ vẩn ấy, hỏi lấy một mình trước những tấm bảng đồ màu mè xanh đỏ tím vàng.

    Việc làm ngớ ngẩn ấy được thực hiện trên bình diện lớn với bản đồ. Nó chỉ tiếp tục công việc vu vơ của tôi từ thuở bé. Đi học về với đôi chân không xủi tung bụi trên đường đất mịn, tôi cứ thầm hỏi giờ nầy ở nhà chị đang làm gì; ở làng kia cậu đang câu cá chăng? Ở tỉnh nọ, ông giáo về hưu còn sống hay chết rồi?

    Những con đường vẽ vội trên bàn đồ hay trong trí tưởng đã đưa tôi đến những con người ở một nơi xa xôi không bao giờ đặt chân đến. Tôi vẫn giữ tâm cảm cho một ai rất xa, một hình bóng nhân thể. Tôi vẫn mường tượng một em bé đi trên đường mòn nhỏ như sợi chỉ, một chú bé trên lưng bò như những hình ảnh sáng chói của nhân loại. Chính vì vậy khi đọc một bài trên Asiaweek mà tôi làm quen trên đất Thái, tôi đã ủng hộ việc làm của tuần báo nầy là đưa báo chí đến những nơi lãng quên. Bất cứ nơi nào có dấu chân người đều nằm trong sứ mệnh của người cầm bút.

    @

    Vào một đêm văn nghệ cuối năm học, tôi được mời đóng vai Cát Nhiếp trong một vỡ kịch về Kinh Kha, chỉ xuất hiện chừng hai phút. Kiếm sĩ già đã nói với tráng sĩ trên đường hành thích Tần Thủy Hoàng vỏn vẹn có một câu:

    - Ngày mai trên các nẽo đường thiên hạ, ngươi sẽ về đâu?

    Xong câu ấy, tôi tiễn Kinh Kha lên đường và tôi tiễn tôi ra khỏi sân khấu để chấm dứt công việc.

    Câu ấy cứ gieo mãi trong đầu tôi ý niệm cuộc đời như con đường, như ngánh sông, như một khả thể. Cảm quan ấy làm tôi nghe bản "Kỷ Vật Cho Em" của Phạm Duy với tất cả bâng khuâng, với cái mong manh của cuộc đời. Có thể, anh trở về với hàng cây nghiêng ngả, với vinh quang. Có thể, anh trở về hòm gỗ đầy hoa. Có thể anh trở về bên em tật nguyền chai đá trong ánh mắt không quen của người yêu, đó là em. Có thể, có thể, có thể... nhiều có thể hơn câu ca dao: "một xanh cỏ hay đỏ ngực".

    @

    Tôi gặp một huynh trưởng Hướng đạo cầm cây gậy 1,2m, một đầu bọc sắt nhọn, một đầu là một nạng hai hình chữ V, dấu hiệu tráng sinh lên đường. Anh ấy giải thích tráng sinh phải phân biệt hai con đường tốt và xấu. Sau lửa trại, chúng tôi rời đồi Từ Hiếu (Huế) đến một ngã ba đường dự lễ lên đường của một tráng sinh khác.

    Nằm ngay trục lộ là một cây đèn bão. Tráng sinh lên đường đọc ba lời hứa (trung thành với tổ quốc, tôn trọng danh dự và luật Hướng đạo). Tiếp đến anh bảo trợ trao cây gậy có nạng hai và cây đèn bão, làm nguồn sáng duy nhất cho buổi lễ đơn giản nầy. Hành sĩ chào tất cả, tay cầm cây đèn, vai đeo ba lô, tay kia cầm cây gậy. Chúng tôi tiễn người đi bằng những tiếng chiêng ngân trong đêm tối. Âm thanh chập chờn như ánh đèn chập chờn từ từ xa dần. Lên đường như đi vào cuộc đời. Mọi người trở về khu cắm trại trong yên lặng như người kia yên lặng bước đi với cây đèn trong tay.

    Tôi ngã người nằm trên đất cạnh lều vải trong cái lành lạnh nhè nhẹ của hơi sương, trong cái âm ấm nhè nhẹ của đất triền đồi. Ngẩn mặt lên, trời đầy sao. Sao vẫn đi, sao vẫn có một quĩ đạo. Tôi tưởng tượng chốc nữa hành sĩ kia sẽ ngã người ra nghỉ, mắt cũng nhìn sao, sao đi. Nhưng giờ nầy đang cầm cây gậy nạng hai.

    Cái nạng như hai con đường mà tráng sinh kia quan niệm. Dĩ nhiên ai cũng có quyền gán cho sự vật một ý nghĩa, một nội dung. Nhưng tôi không đồng ý quan niệm cứng nhắc cho rằng cuộc đời chỉ có hai con đường. Cuộc đời có nhiều khả thể, không duy chỉ có hai; tuy rằng mỗi chúng ta chỉ có thể chọn một con đường vì chỉ có một đôi chân. Một giây phút chỉ có thể có một tâm cảm dành cho một sự việc, cho một người. Một con đường tuy rằng đời như ngánh sông. Các nẻo đường ấy hẳn làm chúng ta bâng khuâng như Cát Nhiếp đã hỏi Kinh Kha: Ngày mai trên các nẻo đường thiên hạ, ngươi sẽ về đâu?

    @

    Nếu con đường gợi ý niệm đời như một sinh thành, cũng không nên quên ảnh hưởng của nó trong lịch sử. Vua Lê Đại Hành đã đích thân đến khánh thành con đường phóng từ Thanh Hóa xuống Nam. Đó là ngày khai tử của dân tộc Chàm. Đó cũng là ngày khai sinh của miền Nam gồm đất Chiêm Thành và một phần lớn của Thủy Chân Lạp (xem "Lịch Sử Xứ Đàng Trong" của Phan Khoang). Con đường Trường Sơn là đòn trí mạng đánh vào số phận miền Nam. Đó là đường xương sống Việt Mên Lào vì ai chiếm cao nguyên Boloven sẽ chiếm Đông Dương, lời một nhà chiến lược Pháp và cũng là kinh nhật tụng của bất cứ ai muốn chiếm bán đảo nầy. (Qui tient Boloven tiendra l'Indochine).

    Con đường xuyên Á đang được nghiên cứu sẽ ảnh hưởng đến đại lục trầm lặng nầy. Những hành lang từ Âu Châu đến Bá Linh là huyết mạch cho hòn đảo tự do trong vùng đất đen; quyết định phong tỏa của Kroutchev đã tạo nên cơn sốt hãi hùng cho thế giới. Nói đến đường, phải kể đường dầu đi, khí đốt đi. Đường tải dầu từ Alaska xuống Mỹ, đường hơi đốt từ Nga xuống Âu Châu hay qua Nhật sẽ ảnh hưởng định mệnh của thế giới. Đó chưa kể đến đường bay đường thủy, những quĩ đạo vệ tinh, sự xuất hiện phi thuyền con thoi Columbia sẽ đưa nhân loại đến một khung cảnh sống mới.

    @

    Nhưng thật ra tôi chỉ quan tâm đến những con đường, những mạch sống không nằm trong đầu óc của máy điện toán, trong những con người tính toán thiệt hơn
    . Tôi vẫn thấy con đường trong nét bút, con đường trong những dòng nước mưa chảy trên sân. Tôi vẫn thấy những con đường chảy theo những giọt nước trên cửa kính như những giọt nước mắt từ đôi mắt ướt đẫm chảy xuống má vì một phút nhớ nhung hay vì một ray rức của tâm hồn.
    Tôi vẫn thấy con đường trong các lối sáng tạo nghệ thuật, những con đường khai thông bế tắt của tư tưởng. Tôi vẫn thấy tình yêu là con đường đưa đến thế giới vô biên của cõi lòng như một vườn hoa rất đẹp đưa ta đến kinh nghiệm tâm linh rất đặc biệt, những biên giới mới cần khám phá.

    Một xe Lambro ba bánh dừng lại ở một làng quê: một gánh hát dạo nghèo, tất cả gói ghém trong chiếc xe kiểu đặc biệt của người Ý trên bước đường lưu diễn. Một bà mẹ đem bé gái hơn mười tuổi bán cho đoàn văn nghệ. Bé sống đây làm các công việc vặt vãnh. Có cảm tưởng ông bầu mua bé trong một phút bốc đồng, động lòng trắc ẩn muốn cho bà có số tiền lúc túng quẩn phải đem con đi bán.

    Sự hiện diện của bé chỉ làm cồng kềnh thêm cho gánh hát, thêm một miệng ăn, cho thêm sức nặng đè lên xe ba bánh xe; một cục thịt thừa, một khúc ruột dư cho cơ thể vốn cần sự gọn gàn di chuyển, di chuyển mãi trong sự nghiệp cầm ca.

    Bị la rầy đánh đập là chuyện thường. Bé vụng lắm; sống với quê với mẹ nào có biết gì, mà bé lại gầy, những tháng qua đâu có đủ ăn. Dần dà người ta tập cho bé thổi kèn đồng, khi những con khỉ nhảy múa trong áo quần dơ dáy, quây quanh là các khán giả đầu đường. Cuộc sống cơ cực nay đây mai đó với sự ruồng bỏ, sống xa mẹ. Tất cả chỉ làm cho bé xanh xao võ vàng thêm. Hôm ấy đoàn người ghé lại một vùng thấp có những vũng nước lầy. Sau khi mọi việc đã xếp lại chờ đi vào sáng mai, bé ra giữa đám sậy, tay cầm cây kèn đồng như một thiên thần bay lạc. Bé thổi một khúc nhạc rất buồn.

    Rồi đêm ấy bé chết, trên bước đường lưu diễn của bố già, của bố già khó tính, trong đám người không chút để ý đến bé. Rồi người ta chôn bé tình cờ vào nơi chiều qua lúc mặt trời gần khuất bé tấu khúc nhạc cuối cùng của tuổi thơ. Đoàn xe tiếp tục công việc như mọi ngày.

    Bất giác bố già thấy mất một cái gì, thấy đau đớn trong lòng. Bố đã mất một bé thơ mà bố đánh đập, mà bố xem như gánh nặng cho chính mình và cho các vỏ xe. Không, bố không có mặc cảm tội lỗi. Xe bồng bềnh nhồi đời trẻ thơ, nào đâu có muốn, bố muốn đường êm xe lướt nhẹ. Gánh hát bố nghèo, nào đâu có muốn; bố muốn giàu làm một ông bầu có cơ sở ổn định, nào bố có muốn lang thang đầu đường cuối xóm miền Nam Ý cằn cỗi này. Nào bố có biết mẹ bé là ai. Mẹ bé nghèo mà bán bé cho gánh hát, vì thương mà bố mua.

    Nhưng bố mất một cái gì mà tâm hồn bố lúc bé còn sống bố đã thua, đã nhường bước cho công việc. Cái chết của bé làm sống dậy một hiện diện còn giữ lại như ra đi còn kẹt một chân. Bố phải đi một đoạn đường mới rõ sự việc. Bố định quay đầu xe trở về nơi chôn bé nhưng lại thôi. Vì con đường gập ghềnh xưa nay không đưa bố đến gặp bé tuy bé vẫn ngồi kề trên xe. Con đường hôm nay, con đường trong lòng bố mới thật đưa bố về với bé. Cho nên tìm về nơi chôn bé có lấy lại được bé đâu. Bé đã bay đi như tiếng kèn thổi vào một chiều định mệnh. Bố tiếp tục con đường gập ghềnh lưu diễn nay đây mai đó.

    Từ đây con đường vật thể đá nhấp nhô đã thành con đường tâm cảm giúp bố tìm về nét héo mòn của trẻ thơ, của bờ sậy còn nghe tiếng kèn một chiều rất lắng bên ao nước trên đoạn đường đời của bố.*


    Tôi vẫn thấy con đường như một hy vọng dù mong manh. Nhiều lần đi máy bay từ Saigon một mình và hai phi công ngoại quốc nhất là về đêm, tôi thấy gắn bó đời mình vào tiếng nói xa xăm, tiếng nói vô hình với tôi mà đi qua tay người lái. Những hành lang không khí chẳng khác gì những con đường phóng ngang một khu rừng hay ruộng lúa. Tôi vẫn hỏi giờ đây tôi nằm đâu trong không trung và ở góc nhà kia có một ai đó đang làm gì, một ai đó đang ngồi nghe tín hiệu nơi đài không lưu. Cũng giống như giờ nầy tôi đang viết, vợ con tôi làm gì ở VN và gần hơn nữa bạn hữu đang làm gì trong trại Sikiw nầy. Những tâm cảm cứ chồng chất lên nhau.

    @

    Và đây một con đường của hy vọng mà là con đường vô vọng nhất. Vì lẽ không có đường mà lại quá nhiều đường. Ví như con tàu trên biển.

    Con tàu như một điểm trên mặt phẳng từ đó có thể vẽ vô số đường thẳng. Biết bao con đường mà biết đi con đường nào đây, khi không có hải đồ, không hải bàn, khi không có xăng nhớt, khi không có thức ăn. Mà biển đâu có bằng như mặt phẳng của hình học, bao gió táp, bao đá ngầm và bao con người không có nụ cười đang nhấp nhô trong vô tận chờ đón những ai lấy biển khơi làm con đường lớn nhất cho hy vọng lớn nhất.

    Nói không có con đường trên biển; trước nhất vì các hải đạo nầy đâu có dành cho những con đò, các chiếc mãn, chiếc bách mà thuyền nhân níu kéo như giải pháp cuối cùng đối chọi với biển khơi. Đó là chiếc lá mỏng manh hơn chiếc thuyền trẻ con xếp bằng giấy thả vào lúc trời mưa ngập nước ngõ sân. Thứ đến nào đâu có thấy con đường, nó chỉ lộ ra đằng sau với lằn rẻ nước kế cận cái chân vịt thô sơ của máy đuôi tôm, rất ngắn trong tầm gợn, không đủ để phản chiếu ánh trăng. Không có con đường vì trước mắt đường còn quá xa, miệng đã khô, da mặt nhăn vì muối đóng khằn, trí óc không bình tĩnh vì đã nhét đầy những ảo giác của biển khơi.

    Mà có khi không phải là con đường của ta mà của một xác chết đang trôi. Xác ấy cũng như thuyền ta hư máy, mất chân vịt, cả hai đang giành nhau con đường của gió mà chơi. Nó còn hơn thuyền của ta nữa: nó nhấp nhô với sóng một cách êm ả, không có tiếng la của trẻ con, không có tiếng ói mữa của thiếu phụ.
    Cái xác ấy, nó có con đường, con đường hủy diệt, trong lúc con thuyền của ta chưa tìm ra được con đường sinh thành.
    @

    Và ai cũng có một con đường như cuộc đời trôi chảy không ngừng nghỉ, trôi chảy không thôi để không ai tắm hai lần trong một dòng suối như Hiraclide nói. Đó là con đường đi vào ý thức của cuộc sống, làm quan niệm sống, tự soi lấy cho mình một con đường. Tôi thích danh từ "hành giả" dành cho người đi vào hiền triết Đông phương. Chỉ có chính mình đạt được vùng ý thức. Trong cái đảo điên của sự vật, trong sự quyến quận của nguyên nhân và kết quả, hành giả phải thấy cho mình cái chân cái hư bằng kinh nghiệm tâm linh mượn của người khác và của chính mình. Miễn làm sao đi đến một mẫu số chung, cái còn lại cuối cùng để có thề nằm chung với mọi người trên vạn nẽo đường thiên hạ.

    @

    Từ đó tôi vẫn xem những con đường - con đường vật thể như lối đi, con đường của sáng tạo, con đường của tư duy - như dây mướp, dây dưa hấu trổ ra những trái ngọt, giống như đường thiên lý cưu mang những đời người, những làng mạc, những thành phố.

    Và trên con đường ta đi, ta sẽ gặp những bạn đồng hành để chia sẻ khó khăn của tâm hồn hay khó khăn của ngoại cảnh. Để cùng nhau thấy cái sinh thành của cuộc đời. Để có lúc chia tay ở ngã ba đường. Để có lúc còn gặp lại ở một nơi nào đó.

    Dây mướp vẫn bò thêm, vẫn nở hoa.

    Con đường riêng rẻ của đời tôi bao giờ cũng làm cho tôi hỏi chính tôi: ai chăng đó đang làm gì ở góc đường xa?


    -----------
    * đoạn nầy viết theo ký ức về phim La Strada của Ý sản xuất 1954. Lâu quá không nhớ hết nên cốt chuyện có chút sai biệt nhưng ý nghĩa đầy đủ. Xin tham khảo http:\\en.wikidepia.org.wiki/La_stada_(film)



  7. #17
    Hồ Xuân Hương làm đĩ?!

    Tôi chợt nhớ đã có đọc một bài trích lời của Xuân Diệu gọi Hồ Xuân Hương là kỹ nữ (nói toạt là làm đĩ). Tác giả minh chứng luận điệu nầy sẽ gảy đổ.
    Tác giả Trần Nhuận Minh ở trong nước quê Quảng Ninh. Quảng Ninh là quê chồng HXH cũng là nhiệm sở của ông và là nơi bà sinh sống. Quảng Ninh cũng là vùng có vịnh Hạ Long và sông Bạch Đằng.

    Trần Nhuận Minh không những chỉ phê phán Xuân Diệu mà còn quả quyết rằng các bài thơ gọi là tục là của người khác gán ghép cho HXH. Điều nầy trước đây Hoàng Xuân Hãn và Trần Thanh Mại đã nói. Tác giả vẫn còn nhẹ tay vì còn sợ bóng ma Xuân Diệu có quyền sinh sát ít nhất thời sau 1954.
    Trước đấy chừng giữa thập niền 1950, Hà Như Chi, trong một cuốn sách giáo khoa Việt văn, đã viết rằng HXH mặt mày xấu xí, rỗ hoa, da ngâm đen, tình duyên trắc trở. Giáo sư đã dùng cái dồn nén giống tính lối phân tâm học của Freud mà nói rằng nữ thi sĩ nầy đã dùng những danh từ thuộc phần sinh dục để thỏa mãn cái libido.


    Rất tiếc không thể biết xuất xứ.

    ĐÃ XÁC ĐỊNH ĐƯỢC
    NĂM SINH NĂM MẤT CỦA
    BÀ THAM HIỆP TRẤN YÊN QUẢNG
    NHÂN ĐÓ BÀN THÊM VỀ
    THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
    (1772 – 1822)

    Trần Nhuận Minh


    Xung quanh tiểu sử của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, có một số điều đã được thời gian bạch hóa. Bà là vợ kế ( chứ không phải vợ lẽ ) quan tham hiệp trấn Yên Quảng ( tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Bà đã hai lần từ Nghi Tàm ( Hồ Tây,Thăng Long) về Yên Quảng thăm người yêu, là ông Trần Phúc Hiển, để lại 2 bài thơ tình chữ Nôm viết bên bờ sông Bạch Đằng và 5 bài thơ viết về Vịnh Hạ Long bằng chữ Hán, đã in trong tập LƯU HƯƠNG KÍ, từ năm 1814. Như vậy, bà ở hẳn tại Yên Quảng từ năm 1815 ( khi ông Hiển cưới bà, thường cho bà dự vào việc quan) đến khi chồng bà bị án tử hình, vì đã nhận hối lộ 700 quan tiền, (dù bố chồng bà là tướng Trần Phúc Nhân, đã từng giúp vua Gia Long đánh thắng Tây Sơn rồi tử trận). Việc chồng bà chết ở Yên Quảng năm 1919 còn ghi trong Thực lục của nhà Nguyễn.
    Căn cứ vào các tài liệu mới tìm ta, năm sinh của Hồ Xuân Hương là 1772, đặc biệt năm mất là 1822. Điều đó đã được dòng họ Hồ Quỳnh Đôi Nghệ An, quê hương bà, cho khắc vào tấm bia đá lớn, thờ ở ngay đầu làng.
    Nếu năm mất được xác nhận là 1822, thì nơi mất là chùa Giải Oan ở Yên Tử. Sau khi chồng chết, để thể hiện lòng thủy chung đúng đạo nhà nho của bà, bà đi tu ở Yên Tử và khi mãn tang chồng thì chết theo chồng ở đây. Bà yêu thi hào Nguyễn Du, điều đó cũng đã rõ vì bà có thơ tặng người yêu cũ là Nguyễn Du, in trong Lưu Hương Ký hẳn hoi. Chắc bà có tâm sự với người bạn thân nhất của Nguyễn Du là Phạm Quí Thích, nên trước khi bà tự tử, Phạm Quí Thích có đến Yên Tử thăm bà. Chồng bà (Trần Phúc Hiển) mất năm 1819, người cũ của bà (Nguyễn Du) mất năm 1820, bà mất năm 1822. Năm 1823, phủ Tam Đới, mà ông Hiển từng làm tri phủ khoảng hơn 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường.
    Vậy bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường mà hàng chục năm nay gán bừa cho bà là không phải của bà vậy. Ấy là chưa kể, khi chồng chết vì án tử hình, liệu có bà vợ nào nỡ khóc chồng : Cán cân tạo hóa rơi đâu mất / Miệng túi càn khôn khép lại rồi. Ta hiểu cán cân kia và miệng túi ấy là cái gì rồi. Khóc thế không những vô văn hóa mà còn vô cả đạo lý nữa. Ấy là chưa kể, phủ Vĩnh Tường có tên, khi Hồ Xuân Hương đã chết rồi. Còn mộ bà hiện nay ở đâu ? Sau mấy năm hung táng ở Yên Tử, thân nhân đã đưa hài cốt bà về nơi ở của bà trước khi làm vợ kế ông Hiển, là ở Nghi Tàm, gần Hồ Tây. Căn cứ vào bài thơ của Tùng Thiện vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, con vua Minh Mạng, em ruột vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, in trong Thượng sơn thi tập, thì nơi đó ở bên hồ Tây, và bây giờ có thể là ở lòng hồ, gần bờ hồ.
    Trong tập Lưu Hương Ký, mà theo Lời Tựa của Tốn Phong viết ở đầu sách, khắc in năm 1814, thì Hồ Xuân Hương nói rằng: “đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay, trong đó không có một bài thơ nào trong số hơn 100 bài thơ Nôm truyền tụng được gán cho bà mà Xuân Diệu vinh danh là Bà chúa thơ Nôm. Trong bài Tựa nói trên, viết tháng 3 năm Giáp Tuất (1814), Tốn Phong nhận xét, thơ Hồ Xuân Hương " xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng...thơ đúng phép mà văn hoa.. Như vậy thơ thực của bà hoàn tòan xa lạ với thơ được coi là của bà.
    Xuân Diệu còn khẳng định đặc trưng để bà có lối thơ ám chỉ cái ấy của phụ nữ và chuyện ấy trong buồng kín, ( dù đã được viết rất tài ) tạo thành đặc sắc nhất thế giới của thơ bà vì bà làm Kỹ nữ, mà bất cứ quyển Từ điển tiếng Việt nào cũng ghi kĩ nữ là mãi dâm, là làm đĩ. Trong cuốnCác nhà thơ cổ điển Việt Nam, phần Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm, có một mục viết hoa THIÊN TÀI, KĨ NỮ Xuân Diệu viết: “ tâm hồn Xuân Hương đẹp đẽ như vậy. Và do một số điều kiện sinh lí nào đó, với do hoàn cảnh gia đình xã hội ở thời đại Xuân Hương, tâm hồn ấy cũng là hiện tượng độc đáo kì lạ, có thể nói là một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kĩ nữ.” Xuân Diệu còn nói rõ: “ Chẳng lẽ bây giờ, ta yêu cầu Xuân Hương đừng là kĩ nữ nữa? Như vậy là ta đã mất Xuân Hương.”
    Đến đây thì ai cũng biết: nhà thơ Xuân Hương họ Hồ Quỳnh Đôi, Nghệ An, vợ kế quan Tham hiệp trấn Yên Quảng (tỉnh Quảng Ninh ngày nay), người từng yêu Cần Chánh điện học sĩ – Hầu tước Nguyễn Du, chú ruột vợ vua Gia Long, em tể tướng Nguyễn Khản, con tể tướng Nguyễn Nghiễm… bản thân bà cũng có anh con bà cả làm tể tướng, bố chồng hàm Thái bảo, một trong ba tước cao nhất của triều đình, không phải là gái làm nghề … mãi dâm. Trong nghiên cứu khoa học, cứ liệu nền tảng không vững vàng, ổn định, thì các luận điểm đưa ra, chắc chắn không vững bền, dù tác giả của những luận điểm ấy là một người có uy tín rất lớn. Theo tôi, công trình rất nổi tiếng Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm này của Xuân Diệu dứt khoát sẽ tự sụp đổ, chỉ có sớm hơn hay muộn hơn mà thôi.
    Tôi đồng tình với nhận định của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đưa ra tại Paris (Pháp) từ năm 1952 và giáo sư Trần Thanh Mại,đưa ra tại Hà Nội năm 1964, cho rằng, TOÀN BỘ thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, tất thảy đều không phải của Hồ Xuân Hương mà là thơ dân gian của các ông đồ, sáng tác và nhuận sắc cùng thời với truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn.
    Để hiểu diễn trình dân gian hóa thơ được gọi là của Hồ Xuân Hương, tôi chỉ dẫn một bài là Chơi đu đã có trong thơ Lê Thánh Tông ( 1442 – 1497) Bốn cột lang nha khéo trồng / Ả đánh cái, ả còn ngong / Vái thổ địa, khom khom cật / Khấn hoàng thiên, ngửa ngửa lòng… Tôi thấy thơ vua Lê, âm hưởng rất hay, hình ảnh rất đẹp và sang trọng. Bốn cột người đứng đầu xã ( lang nha) đã cho trồng, để dựng cây đu. Ả lên chơi đu (đánh cái) rồi, ả còn chờ đến lượt mình. Chữ ngong chính là chứ ngóng biến dạng mà thành. Hai câu tả chơi đu rất chuẩn xác mà rất gợi cảm, khi cây đu quay lại, người cúi xuống là vái đất, lúc cây đu hất lên, người ngửa ra là khấn trời…Hai câu thơ rất tài nghệ đó, khi bị “Hồ Xuân Hương hoá” là lập tức có “mùi giường chiếu”, để người đọc hình dung cái “chuyện kia”: Trai cong gối hạc, khom khom cật / Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng…
    Xin dẫn thêm nguyên văn hai bài thơ của Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương kí để các bạn cùng đọc. Bài thứ nhất viết về mối tình của bà với quan Tham hiệp trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển, lúc bà về thăm ông, ở trấn lị Yên Quảng, bên bờ sông Bạch Đằng, khi ông chưa cưới bà làm vợ. Đọc bài thơ này, các bạn sẽ thấy bà Hồ Xuân Hương yêu ông Hiển đến mức nào, chỉ lo ông Hiển không giữ lời hứa với mình:
    BẠCH ĐẰNG GIANG TẠM BIỆT
    Khấp khểnh đường mây bước lại dừng
    Là duyên là nợ phải hay chăng
    Vun hoa khéo kẻo lay cành gấm
    Vục nước mà xem động bóng giăng
    Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt
    Lời kia nay đã núi giăng giăng
    Với nhau tình nghĩa sao là trọn
    Chớ có lưng vơi cỡ nước Đằng…
    1813
    Các sách đều chú thích nước Đằng là một quốc gia nhỏ bé bên Trung Quốc. Theo tôi, chú thích thế là sai. Nước Đằng chỉ là nước sông Bạch Đằng khi lưng, khi vơi theo mức lên xuống của thuỷ triều. Bà Hương nhắc ông Hiển lòng dạ yêu bà chớ có như thế.
    Bài thứ hai là nỗi nhớ người cũ, gửi Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân:
    CẢM CỰU KIÊM TRÌNH CẦN CHÁNH HỌC SĨ NGUYỄN HẦU
    (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)
    Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ mong
    Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
    Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
    Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
    Phấn son càng tủi phận long đong
    Biết còn mảy chút sương siu mấy
    Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong
    1813
    Nguyên tác ghi rõ Hầu người làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân. Như vậy, Nguyễn Hầu ở đây đúng là Nguyễn Du, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, được phong tước Hầu, tháng 2 năm Quí Dậu (1813), vua Gia Long bổ nhiệm làm Cần chánh điện học sĩ, rồi cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc.
    Để kết thúc, tôi nghĩ ta cũng nên đọc lại hai bài thơ truyền tụng, được coi là của Hồ Xuân Hương, để xem xét, đối chiếu, suy ngẫm:
    GIẾNG NƯỚC
    Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông
    Giếng tốt thảnh thơi, giếng lạ lùng
    Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
    Nước trong leo lẻo một dòng thông
    Cỏ gà lún phún leo quanh mép
    Cá diếc le te lách giữa dòng
    Giếng ấy thanh tao, ai chẳng biết
    Đó ai dám thả nạ dòng dòng
    Thả dòng dòng ( cũng gọi là đòng đòng) là thả con cá nhỏ vào cái giếng ấy.
    DỆT CỬI
    Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
    Con cò mấp máy suốt đêm thâu
    Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
    Một suốt đâm ngang thích thích mau
    Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
    Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
    Chị nào muốn tốt ngâm cho kĩ
    Chờ đến ba thu mới giãi màu…

 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 08:52 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh