Register
Page 3 of 8 FirstFirst 12345 ... LastLast
Results 21 to 30 of 76
  1. #21
    chuyện dài ...nhiều tập của VNCS !!!
    lnl




    Nhạc Vàng, ca sĩ đỏ và văn hóa vận CSVN

    Sau ngày CSVN cưởng chiếm Miền Nam Việt Nam Tự Do, màng nhĩ người dân Miền Nam đã bị đục thủng, dội bom suốt ngày đêm với các bài nhạc đỏ như "Tiếng Đàn Ta Lư", "Chiếc Gậy Trường Sơn", "Anh Ở Đầu Sông Em Cuối Sông", "Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng", "Cô Gái Sài Gòn Đi Tải Đạn", "Tiếng Chày Trên Sóc Bom Bo",... Đây là thời kỳ mà người dân Miền Nam bị ép buộc phải nghe, phải hát những bài nhạc tuyên truyền, nghe rất ngô nghê, chói tai không chỉ về lời nhạc mà luôn cả âm điệu.

    Thoạt đầu, cán bộ, bộ đội và người dân Miền Bắc rất hãnh diện về những bài hát đỏ này. Nhưng chẳng bao lâu sau, vì bản năng của con người (bình thường) là luôn hướng tới "chân thiện mỹ", tất cả mọi người, từ quan tới dân (Miền Bắc) đều tìm đến với nhạc Vàng. Lúc đầu còn lén lút vì bị cấm đoán nhưng từ từ cả nước đã nghe nhạc Vàng một cách công khai. Với đủ mọi thể điệu, với những lời ca trữ tình, đầy cảm xúc - tình yêu quê hương, dân tộc, đôi lứa, cha mẹ, gia đình, bạn bè, tình huynh đệ chi binh, ... nhạc Vàng đã đi vào lòng người, mang những nét sâu đậm của một nền văn hóa nhân bản của Miền Nam Việt Nam.



    Click here to view the original image of 512x512px.


    Chính vì thế các ca sĩ đỏ muốn được nhiều người biết đến đều phải hát nhạc Vàng. Muốn có tiền, có tiếng thì phải hát nhạc Vàng. Muốn được mời đi lưu diễn trong nước hay ở hải ngoại thì phải hát nhạc Vàng.

    Nói cách khác, một chế độ đã tự xưng tên vỗ ngực là đã đánh thắng 3 đế quốc Nhật Pháp Mỹ, tự cho mình là "đỉnh cao trí tuệ của loài người", là "thiên đàng CS",... ấy vậy mà lại không có được những bài nhạc (cho ra hồn) để cho các ca sĩ (ca nô) của chế độ nghêu ngao. VNCH không còn nữa, "Ngụy" đã nhào nhưng nhạc Vàng của "Nguỵ" đã thấm sâu vào trong từng tế bào, mạch máu của người CS. Và nực cười thay, tiếng tăm và đời sống xa hoa của các ca sĩ đỏ đã được làm nên, nuôi dưỡng bằng nhạc Vàng của "Ngụy".

    Trong nước, thời gian sau này, vì nhận thấy không thể nào ngăn chận trào lưu tiến hóa của con người, CSVN đã "mở trói" cho âm nhạc trong nước, từ đó đã có một số bài nhạc xuất hiện chuyển tãi những dòng cảm xúc chân thật của con người.

    Tuy nhiên, vì CSVN là một chế độ vô thần , vô gia đình, vô tổ quốc, vô giáo dục, vô văn hóa, vô liêm sĩ,... cho nên đã sinh sản ra vô số những "nhạc sĩ" xuất thân từ "rác rưởi" ("Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời" - Dalai Lama) với những bài nhạc mà chỉ cần thoạt nghe cái tựa bài vô duyên là đã thấy "kinh bỏ mẹ", "hãi thấy cha", chẳng hạn như: "Đường Cày Đảm Đang", "Những Hàng Số Điện", "Lời Cây Cột Anten", "Tổng Đài Tiếng Chim", "Bồng Bềnh Sóng Điện", "Tiệm Bánh Dâu Tây", "Thà Trắng Thà Đen", "Mảnh Ghép Đời Tôi", "Anh Muốn Em Sống Sao", "Người Ấy Và Tôi Em Chọn Ai", "Đưa Nhau Đi Trốn", "Em Mệt Rồi Còn Anh", "Em Đâu Đủ Tư Cách", "Em Đang Đi Bên Ai Đó", "Anh Không Xứng", "Không Ổn", "Trả Giá", "Yêu Như Đúng Rồi", "Đừng Nhìn Em Khóc Mới Biết Em Đau", "Chào Em Bà Xã Người Ta", "Ây Da! Ây Da!", "Không Bao Giờ Bó Tay",...

    Quả tình chỉ còn biết lắc đầu ngao ngán, không bó tay thì bó gì đây?!

    Còn đối với hải ngoại, CSVN đã trơ trẽn cho phép (nếu không muốn nói là khuyến khích) các ca nô hát nhạc Vàng để làm công tác văn hóa vận. Nhưng văn Hóa vận của CSVN luôn gặp phải sự chống đối quyết liệt ở Úc Châu nhất là các chương trình ca nhạc. Bất kể trời mưa gió, giá buốt hay nắng nóng cháy da, đồng bào luôn có mặt trong các cuộc biểu tình chống văn công CSVN.

    Biểu tình là mặt nổi của công cuộc đấu tranh đòi Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam. Đằng sau các cuộc biểu tình là sự làm việc không ngừng nghĩ của BCH CĐNVTD của các tiểu bang với các văn phòng di trú, thuế vụ,... Kết quả là con số các chương trình ca nhạc có ca sĩ đỏ đã giảm xuống. Một phương cách khả thi có thể chấm dứt sự tung hòanh của các ca sĩ đỏ làm công cụ cho các chiến dịch văn hóa vận (theo NQ36) là kêu gọi các nhạc sĩ "Nguỵ" (tác giả của các bản nhạc Vàng) hãy cùng đứng lên bảo vệ bản quyền của mình bằng luật pháp của quốc gia sở tại.



    Các tác giả có thể với tư cách cá nhân hoặc dưới danh nghĩa của một hội (có thể lập một hội gọi là, ví dụ, "Hội các Nhạc Sĩ VNCH") sẳn sàng thưa kiện bất cứ bầu show, ca nhạc sĩ đỏ nào sử dụng nhạc của mình mà không xin phép và không trả tiền tác quyền. Xin nhớ rằng các ca nhạc sĩ đỏ (hát nhạc Vàng) được trả cả chục ngàn đô trong một buổi trình diễn trong khi đó thì tác giả chẳng có được một xu. Các ca nhạc sĩ đỏ thì càng ngày càng trở nên giàu sụ, có lối sống xa hoa còn nhạc sĩ "Nguỵ" thì nghèo rớt mồng tơi và đã có nhiều người chết trong sự túng quẩn, nghèo khổ.

    Chúng ta đang sống trong những quốc gia mà quyền công dân được pháp luật bảo vệ một cách công minh thì chúng ta cần phải tận dụng những quyền lợi chúng ta đang có (nếu không thì chúng ta đi vượt biên, xin đi tỵ nạn CS để làm gì?!).

    Từ nay các bầu show, các ca nhạc sĩ đỏ, trước khi trình diễn, phải xin phép và thỏa thuận trả tiền tác quyền theo sự ấn định của tác giả (giá cả nên được ấn định rõ ràng trên khế ước (contract) theo tỉ số phần trăm của số tiền thâu được trong từng buổi ca nhạc). Đi xa hơn vấn đề tác quyền, các nhạc sĩ "Nguỵ" có quyền (dựa theo luật pháp) cấm chỉ hoàn toàn các ca nhạc sĩ đỏ sử dụng nhạc của mình. Những ai vi phạm (kể cả các đài truyền thanh, truyền hình đỏ có cơ sở trên các quốc gia tự do) thì sẽ bị kiện ngay, kiện trắng mắt và đòi bồi thường thật nặng.

    Nếu không được hát nhạc Vàng thì các ca nô chỉ còn biết trở về với nhạc đỏ, rồi sẽ có mấy ai bỏ tiền ra mua vé đi xem các buổi ca nhạc đỏ. Như vậy các ca nhạc sĩ đỏ sẽ không còn tung hoành trên các vùng đất của Người Việt tỵ nạn và vấn đề văn hóa vận của CSVN cũng sẽ sớm đi vào ngõ cụt.

    Tuy đã quá muộn, nhưng thà muộn còn hơn không, đã đến lúc các vị nhạc sĩ tài danh của VNCH cần phải đứng lên bảo vệ tác quyền, bảo vệ quyền lợi của chính mình, để không còn bị các ca nhạc sĩ đỏ lợi dụng, sống trên tim óc, sống trên "thân xác" của những đứa con tinh thần của quý vị.

    Phan Trâm Anh
    15/09/2016


  2. #22
    Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái





    Vũ Đông Hà (Danlambao)
    -


    Nếu ai hỏi tôi rằng sau ngày 30 tháng 4, 1975 cái gì mà cộng sản không thể "giải phóng" được; cái gì vẫn âm thầm nhưng vũ bão giải phóng ngược lại tâm hồn khô khốc của người dân miền Bắc lẫn nhiều cán binh cộng sản; cái gì vẫn miệt mài làm nhân chứng cho sự khác biệt giữa văn minh và man rợ, giữa nhân ái và bạo tàn, giữa yêu thương và thù hận; cái gì đã kết nối tâm hồn của những nạn nhân cộng sản ở cả hai miền Nam Bắc... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.


    Nếu ai hỏi tôi, ảnh hưởng lớn nhất để tôi trở thành người ngày hôm nay, biết rung động trước hình ảnh của Ngoại già lầm lũi quang gánh đổ bóng gầy dưới ánh đèn vàng, biết nhung nhớ một khe gió luồn qua hai tấm ván hở của vách tường ngày xưa nhà Mẹ, biết man mác buồn mỗi khi đến hè và trống vắng với một tiếng gà khan gáy ở sau đồi, biết tiếc nuối một mặt bàn lớp học khắc nhỏ chữ tắt tên người bạn có đôi mắt người Sơn Tây, biết ngậm ngùi trăn trở chỉ vì một tiếng rao hàng đơn độc đêm khuya... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.


    Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành một chất keo gắn chặt cuộc đời tôi vào mảnh đất mang tên Việt Nam. Âm Nhạc Miền Nam đã làm tôi là người Việt Nam.


    *


    Tôi lớn lên theo những con đường đất đỏ bụi mù trời và cây reo buồn muôn thuở. Niềm say mê âm nhạc đơm mầm từ các anh lớn của Thiếu và Kha đoàn Hướng Đạo Việt Nam, trổ hoa theo những khúc hát vang vang của các anh giữa vùng trời Đạt Lý đang vào mùa cà phê hoa trắng nở: "Tôi muốn mọi người biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau. Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu..." Các bậc đàn anh như nhạc sĩ Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang của Phượng Hoàng đã lót đường nhân ái cho đàn em nhỏ chúng tôi chập chững trở thành người, để biết ngước mặt nhìn đời và "cười lên đi em ơi, dù nước mắt rớt trên vành môi, hãy ngước mặt nhìn đời, nhìn tha nhân ta buông tiếng cười..."


    Những đêm tối, giữa ngọn đồi nhiều đại thụ và cỏ tranh, bên nhau trong ánh lửa cao nguyên chập chờn, chúng tôi cảm nhận được niềm hãnh diện Việt Nam với bước chân của cha ông và bước chân sẽ đi tới của chính mình: "Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng. Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm. Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng chân tươi. Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời..." Và anh Nguyễn Đức Quang, người nhạc sĩ của thị xã đèo heo hút gió đã trở thành thần tượng của chúng tôi. Có những buổi chiều buông trong Rừng Lao Xao bạt ngàn, những đứa bé chúng tôi theo anh ngậm ngùi số phận "Xương sống ta đã oằn xuống, cuộc bon chen cứ đè lên. Người vay nợ áo cơm nào, thành nợ trăm năm còn thiếu. Một ngày một kiếp là bao. Một trăm năm mấy lúc ngọt ngào. Ôi biết đến bao giờ được nói tiếng an vui thật thà." Nhưng cũng từ anh đã gieo cho chúng tôi niềm lạc quan tuổi trẻ: "Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn tràn nước mắt. Hy vọng đã vươn dậy như làn tên..." Và từ anh, chúng tôi hát cho nhau "Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi. Mà phải cùng nhau ta làm cho tươi mới." Cô giáo Việt văn của tôi đã mắng yêu tôi - tụi em thuộc nhạc Nguyễn Đức Quang hơn thuộc thơ của Nguyễn Công Trứ!


    Nguyễn Công Trứ. Đó là ngôi trường tuổi nhỏ có cây cổ thụ già, bóng mát của tuổi thơ tôi bây giờ đã chết. Tôi nhớ mãi những giờ cuối lớp tại trường, Cô Trâm cho cả lớp đồng ca những bài hát Bạch Đằng Giang, Việt Nam Việt Nam, Về Với Mẹ Cha... Đứa vỗ tay, đứa đập bàn, đứa dậm chân, chúng tôi nở buồng phổi vang vang lên: "Từ Nam Quan, Cà Mau. Từ non cao rừng sâu. Gặp nhau do non nước xây cầu. Người thanh niên Việt Nam. Quay về với xóm làng. Tiếng reo vui rộn trong lòng..." Nhìn lên lớp học lúc ấy, có những biểu ngữ thủ công nghệ mà cô dạy chúng tôi viết: Tổ quốc trên hết, Ngày nay học tập ngày sau giúp đời, Không thành công cũng thành Nhân... Nhưng đọng lại trong tôi theo năm tháng vẫn là những câu hát "Tình yêu đây là khí giới, Tình thương đem về muôn nơi, Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người..."


    Cô giáo của tôi đã ươm mầm Lạc Hồng vào tâm hồn của chúng tôi và cứ thế chúng tôi lớn lên theo dòng suối mát, theo tiếng sóng vỗ bờ, theo tiếng gọi lịch sử của âm nhạc Việt Nam, để trở thành những công dân Việt Nam yêu nước thương nòi và hãnh diện về hành trình dựng nước, giữ nước của Tổ tiên.


    Trong cái nôi nhiều âm thanh êm đềm nhưng hùng tráng ấy, trừ những ngày tết Mậu Thân khi tiếng đạn pháo đì đùng từ xa dội về thành phố, cho đến lúc chui xuống gầm giường nghe tiếng AK47 và M16 bắn xối xả trước nhà vào ngày 10 tháng 3, 1975, tuổi thơ tôi được ru hời bởi dòng nhạc trữ tình của miền Nam để làm nên Những Ngày Xưa Thân Ái của chúng tôi.


    Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai
    Anh còn gì cho tôi tôi còn gì cho em
    Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù
    Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em...


    Các anh, những người anh miền Nam đã khoát áo chinh nhân lên đường đối diện với tử sinh, làm tròn lý tưởng Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm, đã hy sinh cuộc đời các anh và để lại sau lưng các anh những ngày xưa thân ái cho đàn em chúng tôi. Nhờ vào các anh mà chúng tôi có những năm tháng an lành giữa một đất nước chiến tranh, triền miên khói lửa.


    Lần đầu tiên, chiến tranh tưởng như đứng cạnh bên mình là khi chúng tôi xếp hàng cúi đầu đưa tiễn Thầy của chúng tôi, là chồng của cô giáo Việt Văn, một đại úy sĩ quan Dù đã vị quốc vong thân. Cô tôi, mồ côi từ nhỏ, một mình quạnh quẻ, mặc áo dài màu đen, tang trắng, đứng trước mộ huyệt của người chồng còn trẻ. Cô khóc và hát tặng Thầy lần cuối bản nhạc mà Thầy yêu thích lúc còn sống - "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo... Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa! Trên cõi đời này, trên cõi đời này. Từ nay mãi mãi không thấy nhau..."


    Và tôi say mê Mùa Thu Chết từ dạo đó. Trong những cụm hoa thạch thảo đầy lãng mạn ấy có đau thương đẫm nước mắt của Cô tôi. Có hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ nắp quan tài của người Thầy Đại úy Sĩ quan Binh chủng Nhảy Dù vào mùa Hè hầm hập gió Nồm năm ấy.


    *


    Từ những ngày xa xăm tuổi nhỏ, những người lính VNCH là thần tượng của chúng tôi. Tôi mơ được làm một người lính Dù bởi anh là loài chim quý, là cánh chim trùng khơi vạn lý, là người ra đi từ tổ ấm để không địa danh nào thiếu dấu chân anh, và cuối cùng anh bi hùng ở lại Charlie. Giữa những đau thương chia lìa của chiến tranh, những dòng nhạc của Trần Thiện Thanh đã cho tôi biết thương yêu, kính trọng những người lính không chân dung nhưng rất gần trong lòng chúng tôi. Những"cánh dù ôm gió, một cánh dù ôm kín đời anh" cũng là những cánh dù ôm ấp lý tưởng đang thành hình trong tâm hồn tuổi nhỏ của chúng tôi.


    Nhìn lại quãng thời gian binh lửa ấy, tôi nhận ra mình và các bạn cùng lứa không hề biết rõ Phạm Phú Quốc là ai, chỉ biết và say mê huyền sử của một người được "Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời. Đặt tên cho anh, anh là Quốc. Đặt tên cho anh, anh là Nước. Đặt tên cho Người. Đặt tình yêu Nước vào nôi", chỉ ước ao một ngày chúng tôi cũng được như anh, cũng sẽ là những "Thần phong hiên ngang chẳng biết sợ gì!" Chúng tôi, nhiều đứa núi đồi, rừng rú, chưa bao giờ thấy biển nhưng thèm thuồng màu áo trắng và đại dương xanh thẳm, thuộc lòng câu hát "Tôi thức từng đêm, thơ ấu mà nghe muối pha trong lòng. Mẹ là mẹ trùng dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau. Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội. Mà lòng thì chưa hề yêu ai". Chúng tôi cũng không tìm đọc tiểu sử, cuộc chiến đấu bi hùng của Đại tá Nhảy Dù Nguyễn Đình Bảo, cũng không biết địa danh Charlie nằm ở đâu, nhưng Đại tá Nguyễn Đình Bảo là biểu tượng anh hùng của chúng tôi để chúng tôi thuộc lòng khúc hát "Toumorong, Dakto, Krek, Snoul. Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu. Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình. Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành." Chúng tôi không biết "Phá" là gì, "Tam Giang" ở đâu, nhà thơ Tô Thùy Yên là ai, nhưng "Chiều trên phá Tam Giang anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận. Em ơi, em ơi..." đã thân thiết chiếm ngự tâm hồn để chúng tôi biết thương những người anh chiến trận đang nhớ người yêu, nhớ những người chị, cô giáo của chúng tôi ngày ngày lo âu, ngóng tin từ mặt trận xa xăm.


    Trong cái nôi của những ngày xưa thân ái ấy, từ nơi khung trời đầy mộng mơ của mình chúng tôi chỉ biết đến nỗi niềm của các anh bằng những "Rừng lá xanh xanh lối mòn chạy quanh, Đời lính quen yêu gian khổ quân hành". Giữa mùa xuân pháo đỏ rộn ràng con đường tuổi thơ thì chính âm nhạc nhắc cho những đứa bé chúng tôi biết đó cũng là "ngày đầu một năm, giữa tiền đồn heo hút xa xăm, có người lính trẻ, đón mùa xuân bằng phiên gác sớm". Giữa những sum vầy bình an bên cạnh mai vàng rực rỡ, thì ở xa xăm có những người con rưng rưng nhớ đến Mẹ già và gửi lời tha thiết "bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm, Mẹ ơi con xuân này vắng nhà..." Âm nhạc Việt Nam đã gieo vào tâm hồn chúng tôi hình ảnh rất bình thường, rất người, nhưng lòng ái quốc và sự hy sinh của thế hệ đàn anh chúng tôi - những người lính VNCH - thì ngời sáng. Và chúng tôi biết yêu thương, khâm phục, muốn noi gương các anh là cũng từ đó.


    *


    Sau ngày Thầy hy sinh, chúng tôi gần gũi với Cô giáo Việt Văn của mình hơn. Nhiều đêm thứ bảy, tôi và các bạn ghé nhà thăm Cô. Đó là lúc chúng tôi đến với Một thời để yêu - Một thời để chết. Chúng tôi bắt đầu chạm ngõ tình yêu với những Vũng lầy của chúng ta, Con đường tình ta đi, Bây giờ tháng mấy, Ngày xưa Hoàng Thị, Tình đầu tình cuối, Em hiền như Ma Soeur, Trên đỉnh mùa đông, Trả lại em yêu... Đó là lúc Cô đọc thơ Chiều trên Phá Tam Giang của Tô Thùy Yên cho chúng tôi nghe, giảng cho chúng tôi về tài nghệ "thần sầu" của Trần Thiện Thanh trong lời nhạc "anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ... ôi niềm nhớ........ đến bất tận. Em ơi... em ơi!..." khi diễn tả nỗi nhớ ngút ngàn, và sau đó chú Trần Thiện Thanh Toàn - em ruột của nhạc sĩ Nhật Trường ở Sài Gòn lên thăm Cô, vừa đàn vừa hát. Những buổi tối này, mình tôi ở lại với Cô tới khuya. Cô đọc thơ và hát nhạc phổ từ thơ của Nguyễn Tất Nhiên, chỉ cho tôi tính lãng đãng của lời nhạc Từ Công Phụng, khắc khoải của Lê Uyên Phương, mượt mà của Đoàn Chuẩn - Từ Linh, sâu lắng của Vũ Thành An... Và qua âm nhạc, Cô kể tôi nghe chuyện tình của Cô và Thầy. Hai người đến với nhau khởi đi từ bản nhạc mà Cô hát khi Cô còn là nữ sinh Đệ Nhất và Thầy là Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Bản nhạc ấy có những dòng như sau:


    "Nhưng anh bây giờ anh ở đâu
    con ễnh ương vẫn còn gọi tên anh trong mưa dầm
    tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ
    Dạo tháng Ba tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa
    nghe như tiếng gầm phẫn nộ đến từ cuối trời."


    Thầy và cô tôi yêu nhau từ sau khúc hát Người Tình Không Chân Dung ấy và "người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này" cũng là định mệnh Thầy, của cuộc tình bi thương giữa một cô giáo trẻ và người lính VNCH.


    Cô tôi sống một mình và qua đời vào năm 2010. Bạn cùng lớp của tôi là Phương lùn, vào một ngày cuối năm, từ Sài Gòn trở về Ban Mê Thuột, xách đàn đến trước mộ Cô và hát lại "Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo" để thay mặt những đứa học trò thơ ấu kính tặng hương hồn của Cô. Còn tôi, năm tháng trôi qua nhưng tôi biết rõ trong dòng máu luân lưu và nhịp đập của tim mình vẫn đầy tràn những thương yêu mà Cô đã gieo vào tôi bằng Âm Nhạc Miền Nam.


    *


    Một buổi tối chúng tôi ngồi hát với nhau. Các bạn từ Hà Nội, Nam Định, Yên Bái, Đà Nẵng, Sài Gòn... nhưng chỉ có mình tôi là sinh ra và lớn lên trước 1975. Các bạn tôi, hay đúng ra là những người em đang cùng đồng hành trên con đường đã chọn, đã thức suốt đêm hát cho nhau nghe. Rất tự nhiên, rất bình thường: toàn là những ca khúc của miền Nam thân yêu.


    Đêm hôm ấy, cả một quãng đời của những ngày xưa thân ái trong tôi sống lại. Sống lại từ giọng hát của những người em sinh ra và lớn lên trong lòng chế độ độc tài. Các em hát cho tôi nghe về những người lính miền Nam mà các em chưa bao giờ gặp mặt "Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó, đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ, đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ, anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về...". Tôi hát cho các em mình về những ngày tháng mộng mơ trước "giải phóng" của những "Con đường tuổi măng tre, nắng vàng tươi đẹp đẽ, bóng người dài trên hè, con đường tình ta đi..." Các em tâm sự về cảm nhận đối với người lính VNCH qua những dòng nhạc êm đềm, đầy tình người giữa tàn khốc của chiến tranh: "Tôi lại gặp anh, người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước lê qua đường phố; tôi lại gặp anh, giờ đây nơi quán nhỏ, tuổi 30 mà ngỡ như trẻ thơ".. Tôi chia sẻ với các em về nỗi ngậm ngùi quá khứ: "Như phai nhạt mờ, đường xanh nho nhỏ, hôm nay tình cờ, đi lại đường xưa đường xưa. Cây xưa còn gầy, nằm phơi dáng đỏ, áo em ngày nọ, phai nhạt mây màu, âm vang thuở nào, bước nhỏ tìm nhau tìm nhau"...



    Đêm ấy, khi các bạn nói lên cảm nhận về những mượt mà, êm ả, nhân ái của Âm Nhạc Miền Nam, tôi đã tâm sự với các bạn rằng: Chỉ cần lắng nghe và hát lên những dòng nhạc ấy, các em sẽ hiểu thấu được những mất mát khủng khiếp của con người miền Nam. Những mất mát không chỉ là một cái nhà, một mảnh đất, mà là sự mất mát của cả một đời sống, một thế giới tâm hồn, một đổ vỡ không bao giờ hàn gắn lại được. Khi những mượt mà, nhân ái ấy đã bị thay thế bởi những "Bác cùng chúng cháu hành quân""Tiến về Sài Gòn" thì các em hiểu được tuổi thanh xuân và cuộc đời của những thế hệ miền Nam đã bị đánh cắp hay ăn cướp như thế nào.






    *



    Gần 42 năm trôi qua, Âm Nhạc Miền Nam vẫn như dòng suối mát trôi chảy trong tâm hồn của người dân Việt. Chảy từ đồng bằng Cửu Long, xuôi ngược lên Bắc, nhập dòng sông Hồng để tưới mát tâm hồn của mọi người dân Việt đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa bạo tàn cộng sản. Dòng suối trong mát ấy cũng cuốn phăng mọi tuyên truyền xảo trá của chế độ về xã hội, con người miền Nam trước 1975 cũng như về tư cách, phẩm giá, lý tưởng của những người lính VNCH và tình cảm trân quý, yêu thương của người dân miền Nam dành cho họ.


    Gần 42 năm trôi qua, trong tuyệt vọng của những kẻ thật sự đã thua trận trong cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, nhà cầm quyền cộng sản đã tìm mọi cách để tiêu diệt Âm Nhạc Miền Nam. Nhưng họ không biết rằng, dòng âm nhạc đó không còn là những bản in bài hát, những CD được sao chép, bán buôn... Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành máu huyết và hơi thở của người dân Việt, bất kể Bắc - Trung hay Nam, bất kể sinh trưởng trước hay sau 1975. Bạo tàn và ngu dốt có thể đem Âm Nhạc Miền Nam vào những danh sách cấm đoán vô tri vô giác, nhưng không bao giờ đem được Âm Nhạc Miền Nam ra khỏi con người Việt Nam.


    Ai giải phóng ai? Hãy hỏi Con Đường Xưa Em Đi và đốt đuốc đi tìm xem Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân đang nằm trong cống rãnh nào trên những con đường Việt Nam!!!




    24.03.2017



    danlambaovn.blogspot.com







  3. #23
    Kỷ Niệm Tháng Tư Đen









  4. #24
    Tháng Tư: Gọi Tên Cuộc Chiến


    Trần Trung Đạo

    Giáo sư Drew Gilpin Faust, Viện trưởng Viện Đại Học Harvard viếng thăm Đại học Fulbright Việt Nam. Nhân dịp này bà đọc một diễn văn tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Phần khá dài của diễn văn, bà dành để nói về Chiến tranh Việt Nam, nội chiến Hoa Kỳ và hòa giải Nam Bắc Mỹ.
    Trong suốt diễn văn bà Drew Faust không hề nhắc đến sự chịu đựng của người dân miền Nam Việt Nam hay nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chính phủ đại diện cho hơn một nửa dân số Việt Nam ngày đó.

    Người viết không nghĩ bà dè dặt hay không muốn làm buồn lòng quốc gia chủ nhà. Nhưng giống như một số khá đông các trí thức Mỹ trước đây, sau 44 năm từ khi các đơn vị trực tiếp chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam vào tháng Ba năm 1973, bà vẫn chưa nhìn sâu được vào bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.

    Việt Nam trong diễn văn của bà Drew Faust là Cộng Sản Việt Nam.

    Bà Drew Faust không hiểu được trên con đường Việt Nam đầy máu nhuộm chạy dài suốt 158 năm, từ khi viên đại bác của Rigault de Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đảng CS là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, dứt khoát, kiên trì và bất chấp mọi phương tiện để hoàn thành mục tiêu đã vạch ra.

    Bà Drew Faust là người học nhiều, hiểu rộng. Chắc chắn điều đó đúng. Nhưng nghe một câu chuyện và cảm thông với những nạn nhân trong câu chuyện là một chuyện khác. Ngôn ngữ không diễn tả được hết nỗi đau và đôi mắt thường không thấy được những vỡ nát bên trong một vết thương.
    Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.

    Là một sử gia, bà biết lịch sử được viết bởi kẻ cưỡng đoạt không phải là chính sử. Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.

    Một ví dụ về chính sử. Năm 1949 tại Trung Cộng, trong cuộc bỏ phiếu bầu chức vụ Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao tin tưởng tuyệt đối 547 đại biểu sẽ bỏ phiếu cho ông ta. Không, chỉ có 546 người bỏ phiếu thuận, nhà nghiên cứu triết học Zhang Dongsun bỏ phiếu chống lại Mao. Ông bị đày đọa và chết trong tù nhưng lịch sử Trung Hoa ngày sau sẽ nhớ đến ông như một người viết chính sử Trung Hoa.

    Việt Nam cũng thế. Chính sử vẫn đang được viết không phải từ những người đang đón tiếp bà mà bằng những người đang ngồi trong tù, đang bị hành hạ, đày ải, trấn áp dưới nhiều hình thức. Khát vọng độc lập, tự do, từ những ngày đầu tháng 9, 1859 ở Cẩm Lệ, Quảng Nam, nơi máu của Đô Thống Lê Đình Lý chảy xuống cho đến hôm nay, vẫn cùng một dòng và chưa hề gián đoạn.

    Nhân dịp tháng Tư năm 2017, người viết xin phân tích một số định nghĩa về nội dung của cuộc Chiến tranh Việt Nam.

    Chiến tranh Việt Nam là Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War)?

    Chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War) là cuộc chiến tranh mà các quốc gia bên ngoài, thường là cường quốc, không tham gia trực tiếp cuộc chiến nhưng qua hình thức cung cấp võ khí, tài chánh cho các phe cánh, lực lượng trong quốc gia đó đánh nhau vì quyền lợi riêng của các phe nhóm này nhưng cũng tương hợp với quyền lợi của nước bên ngoài.

    Chiến tranh đang diễn ra tại Syria thường được báo chí gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Mỹ, Nga, Iran, Thổ, Anh, Pháp, Saudi Arabia và Qatar góp phần tàn phá Syria khi yểm trợ cho các phe nhóm, nhiều khi bất cần hành vi khủng bố của các phe nhóm này, để tranh giành ảnh hưởng và tài nguyên của vùng Trung Đông.

    Không ít báo chí quốc tế và nhà nghiên cứu Chiến tranh Lạnh gọi chiến tranh Việt Nam trước khi Mỹ đổ bộ vào tháng Năm, 1965, là chiến tranh ủy nhiệm, trong đó Trung Cộng, Liên Xô một bên, Mỹ và đồng minh một bên.

    Định nghĩa chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ủy nhiệm chỉ đúng khi nhìn cuộc chiến từ quan điểm đế quốc dù là Mỹ, Liên Xô hay Trung Cộng chứ không phải từ vết thương, từ vị trí của nạn nhân buộc phải chiến đấu để sống còn như dân và quân miền Nam Việt Nam.

    Như có lần người viết dẫn chứng, một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được.

    Không ai “ủy nhiệm” anh lính Nghĩa Quân cả. Anh không bảo vệ chiếc cầu giùm cho Mỹ mà cho chính anh và bà con trong thôn xóm của anh. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng vĩ đại bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.

    Trong phần lớn chiều dài của cuộc chiến, quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á và quyền lợi của VNCH tương hợp. VNCH đã nhận hầu hết viện trợ quân sự của Mỹ kể cả nhân lực nhưng không đánh thuê cho Mỹ như CS tuyên truyền.

    Sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 và Hiệp Định Paris năm 1973, chính sách của Mỹ tại Đông Nam Á thay đổi, quyền lợi VNCH và Mỹ do đó không còn tương hợp nữa. Mỹ rút quân và cắt giảm viện trợ quân sự quá chênh lệch so với nguồn viện trợ quân sự CSVN nhận từ Liên Xô, Trung Cộng và phong trào CS Quốc Tế.

    Cho dù cạn kiệt nguồn cung cấp, quân và dân VNCH vẫn chiến đấu và hy sinh cho tự do của họ, không phải chỉ sau Hiệp định Paris 1973, không phải đến ngày 30-4-1975 mà cả sau 30-4-1975, hôm nay và cho đến khi chế độ CS còn hiện diện tại Việt Nam.

    Chiến tranh Việt Nam là Nội chiến (Civil War)?

    Nhiều người chỉ nhìn vào mái tóc, màu da, khuôn mặt, chủng tộc, dòng máu và kết luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến. Thật ra, mái tóc, màu da, khuôn mặt, dòng máu chỉ là hình thức.

    Thế nào là nội chiến?

    Theo các định nghĩa chính trị học, Nội chiến (Civil War) là cuộc chiến tranh giữa hai thành phần có tổ chức trong cùng một quốc gia vốn trước đó thống nhất, mục đích của một bên là chiếm đoạt bên kia để hoàn thành ý định chinh phục lãnh thổ hay thay đổi chính sách nhưng không thay đổi thể chế.

    Theo định nghĩa này, chiến tranh Nam-Bắc Mỹ là nội chiến, hoặc xung đột võ trang giữa chính phủ da trắng và Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là ANC chống chính sách Phân biệt Chủng tộc tại Nam Phi là nội chiến.

    Bắc Mỹ dưới sự lãnh đạo của TT Abraham Lincoln thắng cuộc nội chiến Mỹ nhưng chỉ thay đổi chính sách nô lệ, trong lúc cơ chế chính trị và chính phủ cấp tiểu bang gần như không thay đổi nhiều.

    Tại Nam Phi cũng vậy. Sau cuộc đấu tranh dài dưới nhiều hình thức, cuối cùng ANC đã thắng nhưng cũng chỉ hủy bỏ chính sách Phân Biệt Chủng Tộc (Apartheid) tại Cộng Hòa Nam Phi nhưng không xóa bỏ nền kinh tế thị trường tư hữu. Không chỉ cựu Tổng thống de Klerk trở thành cố vấn của TT Nelson Madela trong suốt nhiệm kỳ mà nhiều viên chức trong chính phủ của de Klerk, các tư lịnh quân binh chủng, lực lượng cảnh sát quốc gia đều tiếp tục nhiệm vụ của họ.

    Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.

    Giấc mơ tươi đẹp của nhân dân miền Nam đã bị ý thức hệ CS với vũ khí của Liên Xô, Trung Cộng tàn phá vào buổi sáng 30-4-1975.

    Sau khi VNCH bị cưỡng chiếm, đảng CSVN không phải chỉ thay đổi về chính sách như trường hợp Mỹ hay Nam Phi mà thay đổi toàn bộ cơ chế. Nói theo lý luận CS đó là sự thay đổi tận gốc rễ từ thượng tầng kiến trúc chính trị đến hạ tầng cơ sở kinh tế bằng các phương pháp dã man không thua kém Hitler, Mao, Stalin.

    Do đó, gọi chiến tranh Việt Nam là nội chiến chỉ đúng về hình thức, nội dung vẫn là chiến tranh của các chính phủ và nhân dân miền Nam chống ý thức hệ CS xâm lược.

    Chiến tranh Việt Nam là "Chiến tranh chống Mỹ Cứu Nước"?

    Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Theo William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin nói với Hồ Chí Minh tại Moscow "Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng chí qua ngả Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp." Sau đó tới phiên Mao, y cũng lần nữa xác định với Hồ "Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Viêt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp."

    Theo Trương Quảng Hoa trong Hồi ký của những người trong cuộc, Hồ Chí Minh thưa với Mao trên xe lửa từ Liên Xô về Trung Cộng "Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc."

    CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách chào hỏi. Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm Điện Biên Phủ.

    Sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của Mao, từ đó kẻ thù lớn nhất của Mao Trạch Đông là Mỹ. Mao chỉ thị toàn bộ bộ máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi giá. Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt Mỹ và chống Mỹ khi không có mặt Mỹ.

    Tuân lệnh Mao, trong Hội nghị Lần thứ Sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ.”

    Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai nghén từ quan điểm và thời điểm này.

    Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt, lý do trong thời điểm này chưa có một người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở Việt Nam. Hôm đó, ngay cả Hiệp định Geneva 1954 cũng còn chưa ký.

    Với chỉ thị của Mao và kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề ra từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh đã nói. Gần hết đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.

    Lý luận chính phủ VNCH không thực thi “thống nhất đất nước” theo tinh thần Hiệp định Geneva chỉ là cái cớ tuyên truyền.

    Thực tế chính trị thế giới của giai đoạn sau Thế Chiến thứ Hai là thực tế phân cực và sự chọn lựa của thời đại là chọn lựa giữa ý thức hệ Quốc gia và Cộng sản. Không chỉ các quốc gia bị phân chia như Nam Hàn, Tây Đức mà cả các quốc gia không bị phân chia như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… cũng chọn thế đứng dân chủ Tây Phương để làm bàn đạp phát triển đất nước.

    Giả sử, nếu có bầu cử để “thống nhất đất nước” và đảng CS thua, liệu họ sẽ giải nhiệm các cấp chính trị viên và sáp nhập vào quân đội quốc gia, giải tán bộ máy công an chìm nổi, đóng cửa các cơ quan tuyên truyền, từ chức khỏi tất cả chức vụ điều hành đất nước? Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây và lặn ở hướng đông điều đó không bao giờ xảy ra.

    “Trên trời có đám mây xanh,
    Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng…”

    Câu ca dao quen thuộc mà ai cũng biết. Đó là chưa kể đến mây xám, mây đen, mây hồng, mây tím trong thơ và nhạc. Nhưng mây màu gì? Mây thực sự chỉ là màu trắng. Màu mây thay đổi do ánh nắng mặt trời tùy theo mỗi khoảnh khắc trong ngày.

    Cuộc chiến Việt Nam cũng vậy. Tên gọi của cuộc chiến khác nhau tùy theo quan điểm, góc nhìn, quyền lợi và mục đích, nhưng với nhân dân miền Nam, đó chỉ là cuộc chiến tự vệ của những người Việt yêu tự do dân chủ chống lại ý thức hệ CS độc tài toàn trị xâm lược. Không thấy rõ bản chất xâm lược của ý thức hệ CS sẽ khó có thể chọn con đường đúng để phục hưng Việt Nam.

    Trần Trung Đạo - Tháng 4, 2017






  5. #25
    cất vào kho...

    sức khỏe và tiền bạc

    Ba câu nói của bệnh viện
    1, Bệnh này của ông rất nghiêm trọng.
    2, Tuy nhiên vẫn có thể chữa được.
    3, Chỉ có điều cần phải tốn rất nhiều tiền.

    Ba câu nói của ngân hàng khiến bạn “đã rét vì tuyết lại cóng vì sương”
    1, Chúng tôi thật sự rất thông cảm cho anh.
    2, Nhưng quy định chính là như vậy.
    3, Không trả xong nợ thì phải tịch thu nhà.

    Ba câu nói của chuyên gia mang đến than hồng trong ngày giá rét cho bạn
    1, Bác sĩ tốt nhất chính là bản thân mình.
    2, Bệnh viện tốt nhất chính là nhà bếp.

    3, Liều thuốc tốt nhất chính là món ăn.


    Trên thế giới giường gì đắt đỏ nhất?
    Là giường bệnh!
    Tiếng xe cấp cứu vang lên, một năm làm lụng chăn nuôi coi như mất trắng.
    Một lần nằm bệnh viện, ba năm tiền lương mất sạch.
    10 năm tích cóp dành dụm, một cơn bệnh nặng đều đổ sông đổ biển.
    Bệnh nhẹ, còn kéo dài được mạng sống.
    Bệnh nặng, phải sống chung với bệnh.
    Bệnh khó qua khỏi, chỉ đợi ngày trình diện Diêm Vương!
    Đầu tư sức khỏe thì luôn nói không có tiền, dù cho có cũng nói không; đợi đến lúc bệnh tốn cả khối tiền, lúc này dù không có cũng phải kiếm cho ra!
    Những lúc bàn luận sức khỏe với người khác, dù rảnh cũng bảo không có thời gian; đến khi Diêm Vương triệu kiến, dù cho không rảnh cũng phải đi!


    Thời đại thế kỳ 21, thứ gì đắt đỏ nhất : Là sức khỏe!
    Thời đại thế kỷ 21, tòa lầu nào (có giá) cao nhất? Là bệnh viện!


    Thế nào là khỏe mạnh:


    Khỏe mạnh là bản thân không phải chịu tội khổ.
    Khỏe mạnh là con cái không phải vất vả gian nan.
    Khỏe mạnh là bớt tốn tiền thuốc men.
    Khỏe mạnh là có nhiều tiền dưỡng lão!

    Vậy sức khỏe và tiền bạc có mối quan hệ gì?
    Thân thể khỏe mạnh cũng như tài sản vô hình.
    Giữ cho thân thể khỏe mạnh cũng giống như gửi khoản tiền tiết kiệm ở ngân hàng.



    Bệnh tật chính là khoản bội chi ác tính.
    Bệnh nặng thì khuynh gia bại sản!
    Vất vả phấn đấu mấy chục năm.
    Một cơn bệnh nặng về lại lúc trước.
    Yêu vợ yêu con yêu gia đình.
    Không yêu sức khỏe cũng như không!


    Có người có thể lái xe thay bạn, kiếm tiền thay bạn, tiêu tiền thay bạn, nhưng lại không ai có thể bệnh thay cho bạn! Thứ gì mất đi đều có thể kiếm lại được, nhưng duy chỉ có một thứ một khi mất đi thì không thể kiếm lại được nữa, đó chính là mạng sống!
    Vậy nên bắt đầu từ bây giờ, bạn phải yêu bản thân mình hơn, coi trọng sức khỏe của bản thân mình. Quang cảnh đời người ở ngay trên đường, chỉ có sức khỏe tốt ta mới có thể đi thưởng ngoạn cảnh đẹp của thiên nhiên, bạn nghĩ có đúng vậy không?
    Điều không thể xem nhẹ nhất của đời người chính là sức khỏe của bản thân, một khi sức khỏe không còn nữa, mọi thứ cũng đều sẽ trở nên vô nghĩa!

    Thiện Sinh (biên dịch)












  6. #26

    để nghiền ...và ngẫm

    1.Tranh chấp với người nhà, giành được rồi thì tình thân cũng mất đi.


    2.Tính toán với người yêu, rõ ràng rồi thì tình cảm cũng phai nhạt.

    3.Hơn thua với bạn bè, chiến thắng rồi thì tình nghĩa cũng không còn.

    4.Khi tranh luận, người ta chỉ hướng đến lý lẽ mà quên rằng cái mất đi là tình cảm, còn lại sự tổn thương là chính mình.

    5.Cái gì đã đen thì sẽ đen, trắng là trắng, tốt nhất hãy để thời gian chứng minh.

    6. Rũ bỏ sự cố chấp của bản thân,dùng lòng khoan dung để nhìn người xét việc; thêm một chút nhiệt tình, một chút điềm tĩnh và ấm áp thì cuộc sống sẽ luôn có ánh mặt trời và suốt đời mình sẽ là người thắng cuộc.

    7.Ở đời, sống là để bản thân mình xem, đừng tham vọng mọi người đều hiểu bạn; cũng đừng mong cầu mọi việc đều theo ý mình.

    8.Khi đau buồn hay mỏi mệt, nên biết tự an ủi lấy bản thân.


    9.Không có người lo lắng thì càng phải mạnh mẽ.


    10.Không có ai cổ vũ cũng phải biết tự bay lên.

    11.Không có người chiêm ngưỡng cũng cần thơm tho và tươm tất.

    12.Cuộc sống, không có khuôn mẫu cố định, chỉ cần một trái tim trong sáng và nhiệt huyết.

    13.Gặp phiền não thì tự tìm lấy niềm vui riêng, đừng quên đi hạnh phúc

    14.Dù bận rộn cũng nhớ giữ lại chút thanh nhàn, đừng để mất sức khỏe.


    15.Mệt mỏi rồi thì tạm dừng lại nghĩ ngơi, đừng đánh mất niềm vui cuộc sống.


    16.Chỉ cần trong lòng luôn nhớ đích đến và biết hiện giờ mình đang làm gì ở đâu thì yên tâm, sẽ không bị lạc đường!

    st


























  7. #27

    TẠ TÌNH



    T
    hời con gái mộng mơ. Những buổi sáng nắng tôi ngồi trên sân thượng, thả hồn theo những cụm mây trắng. Những chiều mưa khoác chiếc áo tơi, lang thang trên những con đường dài có lá me bay. Những đêm buồn nằm ôm chiếc cassette, chơi vơi với những khúc nhạc tình để hoặc thổn thức hoặc mỉm cười vu vơ với cái đình màn... Tuổi con gái tôi ôm ấp nhiều hoài bão, ngẩng mặt nhìn lên đi tìm thần tượng. Thắc mắc trong lòng không biết người ấy sẽ là ai, một nửa kia đâu. Tôi ở đây còn chàng ở nơi đâu! Với lòng đa sầu, đa cảm, tính tình lãng mạn, chất ngất đam mê, tôi vẽ cho tôi một mẫu người trong mộng, để rồi – “Ai đi tìm ai suốt đời” – Có những lúc tưởng như là tình yêu nhưng chỉ là cái bóng. Có những lúc tưởng như gặp người trong mộng nhưng mộng lại vỡ tan.




    Một buổi chiều đúng lúc ngang nhà chàng thì cơn mưa ập đến, mưa Sàigòn, mưa Tháng Sáu. Em đến thăm anh một chiều mưa, không mơ màng như “Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” của Tô Vũ mà ướt lướt thướt, ướt tả tơi. Ông Tơ bà Nguyệt đã đợi sẵn đâu đó để xe sợi chỉ hồng. Chàng không phải là người toả hào quang nhưng ở chàng tôi tìm được nơi nương tựa, một sự che chở và một tình yêu tuyệt đối. Chàng là anh họ của một nhỏ bạn cùng lớp ở Trưng Vương, âm thầm để ý tôi từ năm cuối trung học. Nhưng dưới mắt con bé mười tám còn nhiều cao vọng, chàng không lọt được vào tầm nhìn. Sau đám cưới chúng tôi có một tuần lễ thần tiên trên Đalat, một năm sau con gái Hạnh Quyên chào đời, cùng thời gian tôi ra trường với mảnh bằng Dược Sĩ. Cuộc đời tưởng cứ êm đềm trôi, tôi yên phận cho thuê bằng để ở nhà lo cơm nước cho cha con Anh Giáo. Chúng tôi sống thật Hạnh Phúc, cái Hạnh Phúc nhỏ bé, tầm thường, để rồi hai năm sau có thêm thằng bé Thiên Khôi. Chúng tôi chỉ mong một mái ấm và một đàn con xinh.



    Nhưng... 30/4/1975... Cha đi học tập, chồng đi cải tạo. Mới hai mươi mấy tuổi đầu, một nách hai đứa con thơ, tôi bị quăng vào đời thật tàn nhẫn. Một chiếc xe đạp mini, con ngồi ghế nhỏ đằng trước, con ôm lưng mẹ đằng sau, hai bên ghi đông hai giỏ cói. Tôi trải miếng ni lông ở vỉa hè thương xá Tax, mua bán, bán mua... thế mà cũng chả yên thân, người ta muốn làm đẹp thành phố nên dí súng AK vào đầu đuổi đi. Tôi lang thang, lăn lộn trong những khu vực chợ trời để kiếm sống. Bên Nội có đó, bên Ngoại còn đó mà nào dám để lụy phiền. Ai cũng còn gánh nặng phải mang. Ai cũng ngơ ngác, tang thương trước cảnh đổi đời. Những đêm nằm ôm hai con thơ mà nuốt nước mắt, xót xa phận mình, thương chồng và cha đang nhục nhằn trong trại cải tạo. Nhưng biết làm sao, cái đau chung của cả một dân tộc, mọi người đều trôi nổi theo vận nước nổi trôi.



    Trời Sàigòn không còn đẹp, nắng không còn tươi, cảnh vật ủ ê khoác lên màu xám. Một ngày, cũng với tâm trạng ngậm ngùi đó, tôi thơ thẩn lên thương xá Tam Đa, đánh liều mướn một quầy nhỏ trong gian hàng của Phạm Mạnh Cương, thế rồi... may, thêu, vẽ... Tận dụng hết các nghề tay trái của mình để kiếm gạo nuôi con. Như Hảo chia cửa hàng của chị làm năm phần, ngoài cùng là hai quầy nhỏ, tôi một bên, hai chị em Vân Ly một bên. Đằng sau tôi là quầy hàng của Nhã Ca, có cô em Bội Hằng tươi vui, nhí nhảnh, khôn lanh. Đối diện với Nhã Ca là gian hàng của vợ chồng NXH với cô vợ DT khéo léo, nhanh nhẹn, đảm đang. Còn Như Hảo giữ lại một quầy lớn nhất trong cùng. Nhớ lại khoảng thời gian đó tôi thấy cũng vui vì tự nhiên mình lại lọt vào nơi toàn là văn nghệ sĩ. Thỉnh thoảng đươc tiếp chuyện với nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Trần Dạ Từ. Lâu lâu được đến nhà anh chị Phạm Mạnh Cương để thưởng thức bánh bột lọc và món nhậu tôm khô củ kiệu tuyệt cú mèo của Mạ. Dạo phong trào bán áo thung vẽ, bên Nhã Ca và NXH thuê người vẽ toàn các nhân vật Disney, Cartoon. Còn tôi... vẽ lấy! Buổi tối sau khi ru con ngủ là ngồi vẽ, cũng hình thiếu nữ mà hôm nào vẽ đẹp thì “Chợt dáng buồn xưa đọng mắt em” (Thơ Cung Vĩnh Viễn). Hôm nào coi không được thì “Ác quỷ hiện hình khi trăng lên”. Khi mệt quá khoắng đại mấy vòng tròn như huy hiệu Olympic, thế mà thò cái nào ra là bán liền cái đó vì... “unique”! Lúc khấm khá vẽ một mình không xuể tôi phải giao bớt cho lũ em, đề tài tự do. Phương Nam hồi đó cũng giúp chị rất đắc lực, lúc vẽ thằng hề, lúc vẽ con sên, con ốc hoặc một đám lá vàng rơi... Đến khi thấy tác phẩm của mình đi ngoài phố cô nàng khoái chí về khoe.



    Chẳng được bao lâu, nhà mẹ bị đánh tư sản mại bản, nhà con bị đánh tư sản kinh doanh. Mẹ phải mua một túp lều lá hồi hương để khỏi đi kinh tế mới. Con phải ngồi nhà để lãnh thêu may. Rồi cũng đến một ngày chồng được tha về, tôi phải ra quận để làm giấy bảo lãnh và cam kết sẽ giáo dục chồng (!). Những ngày tháng vụn rời kế tiếp, ngơm ngớp lo âu. Chàng được sở giáo dục điều về dạy ở một trường cấp hai tại quận mười một với đồng lương chỉ đủ cho một người ăn quà sáng. Ngày ngày cong lưng đạp xe đi làm, thỉnh thoảng được phân phối một miếng thịt heo khoảng hai lạng (200g) buộc tòn ten bằng sợi lạt cói. Ngoài giờ làm việc chàng phải chở vợ đến nhà khách hàng để nhận và giao đồ thêu may. Hai vợ chồng ráng chắt chiu dành dụm, kiếm đủ một chỉ đi mua một chỉ, gom đủ mười chỉ đổi lấy một cây. Chúng tôi thì thào nhỏ to đi tìm đường vượt biển, cũng bị mất mát vài phen nhưng may không bị bắt.



    Cuối cùng Tháng Tư năm 1980, chúng tôi cũng ra khơi trên một chiếc ghe lồng mỏng manh, nhỏ bé vượt đại dương. Đến bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải làm lại từ đầu, vất vả cực nhọc từ sáng sớm đến nửa khuya, làm việc quần quật để lo cho tương lai. Thời cuộc đẩy đưa, phất lên như diều gặp gió. Năm 1983 cho ra đời thêm chú bé LamSơn. Diều lên vun vút... rồi diều lại đứt dây, tay trắng lại hoàn trắng tay!!



    Chúng tôi gửi các cháu lại cho ông bà ngoại và các dì trông nom Hai vợ chồng lại dắt nhau đi tìm đất mới. Chỉ vì vụng tính, kém suy nên bao nhiêu tiền của như nước lã ra sông, tôi nhìn các con mà đau lòng xót ruột. May mắn thay các cháu cũng nên người. Tôi nhìn chàng thương xót, chàng nhìn tôi xót xa. Chúng tôi an phận làm nghề lao động, chen vai thích cánh với lực lượng thợ thuyền Mễ và Mỹ đen. Những đêm dài khó ngủ, tôi vùi đầu vào ngực chồng khóc tức tưởi, chàng cũng chỉ im lặng thở dài.



    Lúc quen công biết việc, tâm hồn thôi chao đảo, xao động thì tôi phải vào bệnh viện. Sau hơn mười ngày điều trị, làm đủ thứ thử nghiệm trên đời, bác sĩ phán rằng tôi bị “Pulmonary Hypertension”, bịnh hiếm, không chữa được, chỉ chờ chết hoặc đợi thay tim phổi. Ông ta thản nhiên nói, tôi chỉ còn hai năm để sống, hãy về mà vui những ngày tháng cuối của cuộc đời.



    Sau khi xuất viện tôi phải thở bằng bình dưỡng khí. Bác sĩ không cho đi làm. Tôi trở thành kẻ tàn phế! Tại sao trời cao lại cho tôi trăm cay, nghìn đắng! Tôi chỉ biết khóc, và khóc. Đêm ngủ không được vì vừa lo nghĩ, vừa giận mình, giận đời. Tôi dọn ra phòng riêng vì không muốn làm phiền chàng, chàng cần nghỉ ngơi để sáng còn phải đi làm. Sau mỗi lần bị chụp thuốc mê, đi vào cơn chết tạm để bác sĩ thông tim, khám phổi, khi mở mắt tỉnh dậy, tôi thấy khuôn mặt chàng méo xẹo, xám ngoét ngồi bên, thấy mà thương.



    Rồi như một cơ duyên, tôi nhận được kinh Phật và băng giảng của các Thầy, tôi bắt đầu thiền tập, từ từ thấy tâm an lại, thấy lẽ vô thường, thấy đời là phù du, mộng ảo... Buổi sáng sau khi tập Dịch Cân Kinh, tôi ra sân sau nằm võng đọc sách, ngắm hoa, ngắm lá, nhìn ánh nắng lung linh... thấy đời thật đẹp, thật đáng sống. Tôi không còn sợ chết.



    Thời gian cứ trôi, Hạnh Quyên lập gia đình và có hai thằng con trai. Thiên Khôi đã lấy vợ và có một cháu bé gái. Khi chàng về hưu chúng tôi quyết định dọn về ở gần các con. Hai cây củi mục mong đem sức tàn để giúp cho đàn con cháu. Tôi trông con bé cháu nội, chàng dạy hai thằng cháu ngoại. Cả ngày chúng tôi quấn quýt với mấy đứa trẻ. Chúng tôi cố gắng để các cháu không quên tiếng mẹ đẻ. Thằng bé bốn tuổi ở nhà với bà nhiều nên giỏi tiếng Việt nhất, biết giải thích cho thằng anh sáu tuổi. Buồn cười nhất là bà bắt cháu nói tiếng Việt, không cho nói tiếng Mỹ, thằng bé vít cổ bà xuống an ủi: “Don’t worry bà ngoại, I can teach you English (!).” Rồi khi ông hàng xóm ra sau làm vườn, nó kéo bà ra giới thiệu còn nói nhỏ vào tai bà: “Ông Don speaks English only”. Thế là hai bà cháu cứ nửa Việt, nửa Mỹ nói chuyện với nhau. Cho đến nay các cháu nói tiếng Việt rất khá, biết hát “Bà ơi cháu rất yêu bà... “ và ngày nào cũng “Kéo cưa lừa xẻ... “



    Phải chăng đời là một giấc chiêm bao? Thời Trưng Vương áo trắng, tưởng như mới hôm qua. Thời gian vùn vụt trôi. Tôi với chàng đã trải qua bao nỗi thăng trầm, lên voi xuống chó. Có với nhau ba đứa con ngoan ngoãn, giỏi giang, một bầy cháu kháu khỉnh, khôi ngô. Bây giờ tóc đã bạc, răng đã long, mỗi buổi sáng ngồi bên tách cà phê nóng, vẫn còn nhìn nhau, mắt trong mắt, tay trong tay. Chàng vẫn lo cho tôi từng viên thuốc bịnh, cũng như nhắc nhở tôi uống từng viên thuốc bổ. Tuổi già cũng có những cái chướng ách của tuổi già. Lời nói không còn ngọt ngào như xưa mà đôi khi còn gắt gỏng như mắm. Nhưng nhìn quanh tôi vẫn cảm nhận được niềm Hạnh Phúc, cái Hạnh Phúc của Tình Yêu Vĩnh Cửu, của Sự Kết Hợp Chung Thân. Ngày xưa tôi hay hát phần đầu – “Ai đi tìm ai suốt đời” – thì hôm nay tôi xin hát lên lời cuối – “Tình yêu này em cám ơn anh”. Xin được nói một lời Tạ Tình cho người chồng chung thủy.



    Đỗ Dung (2005)





  8. #28
    Chuyện của 4 anh em sinh tư cùng được nhận vào Harvard và Yale



    (email)



    Từ trái, Zach, Aaron, Nigel và Nick Wade tại trường trung học Lakota East High School. (Hình: AP/Photo)


    OHIO – Trong thời buổi xin được học bổng vào đại học là điều khó khăn, mà lại được đại học danh tiếng nhận vào gần như là điều vô cùng hiếm hoi. Nhưng cả 4 anh em sinh tư từ trường trung học Lakota East ở Ohio vừa được cả hai đại học Yale và Harvard nhận đơn vào cuối tháng Ba vừa qua.

    Tỉ lệ nhận sinh viên mới của hai trường này đều ở dưới 10%, Harvard nhận 2,056 trong số 39,000 đơn (5.3%) và Yale nhận 2,272 trong số 32,000 đơn (7.1%).

    Đó là bốn anh em sinh tư nhà họ Wade, có tên Zach, Aaron, Nigel và Nick Wade. High School.

    Cha của các em, Darrin Wade, một ‘kiến trúc sư’ về lập trình cho General Electric, người được mệnh danh là “bố của bộ tứ,” nói rằng thành quả của các con ông không có bí mật cả: “Họ không có sự lựa chọn chỉ sàn sàn bậc trung.”

    Dưới đây là câu chuyện xin vào đại học rất hi hữu này của bốn anh em nhà họ Wade, được ký giả Anemona Hartocollis của tờ New York Times tường trình hôm 6 tháng Tư vừa qua.

    * Nộp đơn tập thể, một chiến thuật ăn tiền

    Một ngày kia Nick Wade chợt nẩy ra ý tưởng viết về thân phận một người sinh tư. Nghĩ vậy, Nick vào phòng chat của “College Confidential,” một trang mạng tư vấn đại học. Tại đây, học sinh đang chuẩn bị xin vào đại học bàn luận về viết bài luận văn nộp kèm theo đơn xin học, Nick hỏi ý kiến mọi người là đây có phải một đề tài hay hay không.

    Một chuyên gia tư vấn đại học, Christopher Hunt, để ý câu hỏi của Nick, trả lời: “Đương nhiên là đề hay rồi.” Nhưng ông Hunt, một cựu phóng viên hiện đang sống tại Boulder, Colorado, cho Nick một số lời khuyên. “Đề tài thì tốt đấy, nhưng không chỉ viết vỏn vẹn chỉ “bạn biết không, tôi là một trẻ sinh tư, mà phải giải thích cho độc giả hiểu, điều đó đã ảnh hưởng đến cuộc đời bạn như thế nào.”

    Thế là Nick nghe lời khuyên của Christopher Hunt, và cả ba người anh em sinh tư của Nick nữa. Và họ đã trúng mối.

    Cả bốn anh em theo học tại một trường trung học ở ngoại ô Cincinnati, vừa mới được các trường Harvard và Yale, hai đại học trong nhóm hàng đầu nhận vào học.
    Như những người sinh đôi, sinh ba, sinh tư khác, anh em họ Wade phải bỏ ra nhiều nỗ lực để cố gắng phát triển mang tính cá nhân. Nhưng đến giai đoạn nộp đơn vào đại học, họ hành xử khác, nộp đơn cùng nhau. Thoạt đầu, họ định viết chung một bài luận văn, nhưng sau đó quyết định mỗi người sẽ viết một bài luận kể tỉ mỉ về kinh nghiệm sống của một người sinh tư.


    Trong giải pháp thông minh “đột xuất” này bốn anh em viết những bài luận văn đọc riêng cũng đã đủ nghĩa, nhưng được viết theo kiểu khi gộp lại đọc chung với nhau, sẽ hay hơn nhiều, và ăn khớp như những bốn mảnh của một câu đố. Mỗi bài luận tự nó đều quyến rũ, chinh phục được tuyển sinh, nhưng khi đọc chung thì hay hơn bội phần, và giới tuyển sinh ở các trường đại học đều cùng ý nghĩ là họ không muốn bốn anh em nhà Wade phải chia tay khi lên đại học.

    Hãy đọc qua những bài luận ăn tiền của các em.

    Bài luận văn của Nick bắt đầu:

    ‘Wade. Wade. Wade. Wade!” Huấn luyện viên đá banh hô tên họ của tụi tôi 4 lần như thế khi ông điểm danh với một tốc độ chóng mặt. ‘Có mặt’ chúng tôi đồng thanh hét lên.”

    Cả đội banh cười như vỡ chợ. Mỗi ngày, huấn luyện viên đều đùa như thế. Và mỗi ngày, cả đội banh đều cười ầm lên như đó là điều buồn cười nhất thế giới. Tôi chẳng bao giờ thấy điều đó buồn cười, nhưng vẫn cười theo, như để lừa mọi người rằng có chung một cái họ với ba anh em, ra đời chỉ cách nhau khoảng mười phút, là điều ngộ nghĩnh nhất trên đời, chứ không phải là điều mà tôi đã phải phấn đấu cả đời để làm quen, chấp nhận…”

    … Chẳng ai gọi tôi bằng cái tên Nick, mà họ nói: “một trong những anh em nhà họ Wade…” Hay họ hỏi: “Em là cậu Wade nào vậy?” Người ta không nghĩ đến tôi như một cá nhân mà là một phần của một tập hợp…”

    Bài của Aaron:

    “Cái gì đó, Nigel?” Tôi cúi đầu và liếc mắt vào cái bàn trống của Nigel. Hôm nay Nigel nghỉ học vì bệnh. Nhận ra mình đã lầm, cô giáo cười một cách ngượng ngùng, “mấy em trong giống y chang nhau.” Cô nói, “chẳng đời nào tôi có thể phân biệt em nào với em nào.”

    “Em đeo niềng răng,” Tôi cười cái cười hơi lạnh. “Nick và Nigel keo kính cận. Còn Jack thì cao nhất.”

    “Giải thích thế nào thì cũng vậy thôi. Bốn đứa chúng tôi có cùng một khuôn mặt.”

    “Nhưng kể ra thì sinh tư cũng có cái lợi. Nghĩ đến chúng tôi, người ta lập tức nhắc đến “anh em nhà họ Wade.” Và họ nghĩ chúng tôi là những chuyên gia về việc dùng chung mọi thứ.
    Cùng sinh nhật. Cũng phòng ngủ. Cùng một chiếc xe Toyota Camry 2006. Quan trọng hơn, Nick, Nigel, Zach và tôi cùng chia sẻ một phấn đấu là muốn mọi người thấy sự cá biệt của mình…”


    Bài của Nigel:

    “0.00000125%. Đó là xác suất mà mẹ tôi sẽ sinh tư.

    100%. Là xác suất mà người đàn bà đang bước về phía chúng tôi và sẽ làm tôi thấy cảm thấy mình như một con cừu đen (black sheep – một thành viên khác biệt trong một tập thể).

    Người đàn bà ấy quay qua nói chuyện với Aaron trước, “mẹ em bảo em đánh piano y như Beethoven vậy, và em đã sáng tác ba bản nhạc.” Rồi bà đối mặt với Nicholas, “còn em thì sắp đi Morocco để học tiếng Ả Rập!” Bà ta nhìn Zachary bằng một cái nhìn như đánh giá, “Giờ thì tôi hiểu tại sao em đoạt giải nhì về tranh luận trong học khu.” Cuối cùng bà ấy nhìn tôi: “Nigel,” rồi bà ngập ngừng… “rất vui được gặp em…”

    “Tôi không trách bà ấy tí nào cả. Thực đấy. Tôi đã quá quen với việc bị so sánh với ba anh em…”

    Và cuối cùng, bài luận của Zach bắt đầu:

    “Thay cái áo khác đi,” Tôi nói. (Zach và Aaron cùng vào bàn ăn sáng mặc hai cái áo giống hệt nhau).”

    “Aaron nhìn qua bàn ăn, qua cả tô cereal của tôi, và chăm chú nhìn vào cái áo T-Shirt trắng đen của Lakota East Highschool. Aaron thở dài, và bước lên lầu để tìm một cái áo khác.”

    “Một số người thích là người sinh đôi, vì lúc nào mình cũng có một người bạn, nhưng khi bạn sinh tư thì nó khác. Thầy cô luôn luôn gọi tôi bằng tên của anh/em tôi, ngay cả sau khi đã khai giảng cả tháng. Cuối cùng, thay vì phải cố gắng học tên chúng tôi, thì họ chỉ đơn giản gọi tất cả chúng tôi là “Mr. Wade.” Học tên chúng tôi là điều đòi hỏi quá đáng chăng? Vì chúng tôi sinh tư, chắc vậy!”

    * Có chiến thuật nhưng cũng phải giỏi

    “Đó không phải là một chiến thuật dễ thực hiện,” Aaron, một nhạc sĩ muốn học ngành trí tuệ nhân tạo. “Cách viết của chúng tôi là thiết lập danh tính mình như một trong những người sinh tư, rồi sau đó, viết về những điểm riêng của mình,” Aaron nói. Tôi nghĩ rằng cách này củng cố cảm nhận của người ta. Khát vọng cá nhân và mục tiêu của từng người khiến chúng tôi làm nổi bật con người riêng của mình, bên cạnh tính cách của một anh em sinh tư.”

    Bốn anh em Wade ra đời qua thủ tục hỗ trợ sinh sản (fertility babies), một thành phần ngày càng tăng của lứa tuổi đại học. Vì vậy, có lẽ sau này giới tuyển sinh sẽ chán đọc về những bài luận tương tự, nhưng ngay bây giờ, đây vẫn là những điều khá mới mẻ, trong trường hợp anh em nhà Wades, một phần vì họ sinh tư, phần khác vì cha mẹ họ đã nuôi dậy được bốn đứa con trai có thành tích rất cao.

    Thành tích cao của họ không phải tự nhiên mà có, các em cho biết. Thuở ấu thơ, cha các em, Darrin Wade, một kiến trúc sư về lập trình cho General Electric, trừng phạt những em vi phạm kỷ luật bằng cách bắt phải tập thể dục bằng hình thức gập bụng hay chạy quanh khu nhà. Cha và mẹ các em, bà Kim, một hiệu trưởng, bắt các em chơi ô chữ, học thuộc các bảng toán học, và viết bài tường trình ở nhà từ lúc còn rất nhỏ tuổi.

    Hai bố mẹ, cũng bắt các em chơi ô chữ, học thuộc lòng các bảng toán học và viết những bài tường trình ở nhà từ khi còn nhỏ.

    Ông Wade nói về triết lý dạy con: “Không có ông già Noel, nhưng có một Thượng Đế,” ý muốn nói là không có gì trong đời này là miễn phí cả, nhưng ai chăm chỉ và làm điều thiện sẽ được đền bù.

    Hai vợ chồng ông Wade gặp nhau ở lớp toán tại Đại học Jackson State University, một trường đại học da màu lâu đời ở tiểu bang Mississippi. Trường đại học này chắc chắn đã cấp học bổng cho cả bốn cậu bé sinh tư, nhưng đám con trai nhà Wade có những ý nghĩ khác.

    Họ không ỷ y là việc xin vào đại học sẽ dễ dàng. Tất cả đều nói rằng các em đã bị sốc khi được nhận vào nhiều trường đại học, đặc biệt là các trường hàng đầu như Harvard và Yale nhận đơn.

    Bốn anh em nộp đơn xin học tối đa – Nicholas và Aaron nộp đơn vào khoảng 20 đại học, còn hai người kia nộp vào khoảng hơn mười hai trường, vì tất cả đều cố gắng xin được học bổng càng cao càng tốt. Việc gửi bốn đứa trẻ đến trường đồng thời không phải là chuyện dễ dàng, ngay cả đối với một gia đình tầng lớp trung lưu.

    Cho đến giờ, Yale cho họ học bổng cao nhất, và đã hăng say “theo đuổi” các em. Yale cung cấp vé máy bay cho họ đến New Haven để thăm trường, điều mà các em không thể làm được trước khi được nhận. (Yale từng nhận một nhóm sinh tư, hai trai, hai gái, người Mỹ gốc Châu Phi vào năm 2010.)

    Các anh em họ Wade không rõ là học bổng của Yale có phải là một hợp đồng trọn gói không, nghĩa là nếu Aaron muốn chọn đi học một nơi khác, thì những người còn lại sẽ mất học bổng không. Aaron thích học ở đại học Stanford, và đã được trường này chấp nhận.

    “Một trong những chuyên ngành mà Standford dạy được gọi là “hệ thống biểu tượng,” Aaron nói. “Tôi muốn học ngành trí tuệ nhân tạo. Tôi thích một trường tập trung vào ngành khổng lồ có nhiều liên quan này, khoa học máy tính, khoa học nhận thức, ngôn ngữ học, triết học, toán học – Tôi chỉ thích tất cả những môn đó.”

    Nigel, người muốn học về khoa học thần kinh, đang ở trong danh sách chờ, và Zach, người muốn học ngành kỹ thuật hóa học, đã bị Stanford từ chối. Như vậy, đây có lẽ là lần đầu tiên trong đời họ, lợi ích của người này đi ngược lại lợi ích người khác.

    Aaron đã được Ohio State, Miami University (“trường đại học công “ưu tú” của của Ohio), và các trường Case Western, Jackson State, Brown, Pennsylvania University, Vanderbilt, University of California, Berkeley, và University of Michigan (danh sách còn dài), và bị hai trường Northwestern và Tulane từ chối.

    Nick, nhà ngoại giao tương lai, là người duy nhất chưa bị từ chối hoặc phải vào danh sách chờ của một trường đại học nào. Cười vui, Nick nói em là người chuẩn bị ít nhất về mặt học thuật, nhưng nghĩ giới tuyển sinh đã bị hớp hồn vì em đã được Bộ Ngoại Giao cấp học bổng đến Morocco. Đó là chuyến đi ra khỏi Mỹ đầu tiên của Nick. Nick học tiếng Ả Rập và thường được gọi đùa là “Obama”, em nói.

    Một phát ngôn viên của Đại Học Harvard cho biết họ không ưu tiên em nào trong bộ tứ. Đại Học Yale từ chối bình luận.

    Anh em họ Wade yêu cầu không tiết lộ tỉ mỉ chi tiết học bạ của họ. Nhưng nói rằng tất cả đều nằm trong 10% cao nhất lớp. Aaron, nhạc sĩ, cho biết anh là một trong số 25 học sinh hàng đầu trong lớp mình, và điểm ACT của họ nằm khoảng từ 94 đến 99 phần trăm. (HG)






















  9. #29
    đọc NGUYỄN QUANG LẬP....


    Sài Gòn giải phóng tôi.

    (một bài tự sự rất hay về đất và người Sài Gòn)

    Mãi tới 30.4.1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là sinh nhật của tôi. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.


    Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30.4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt: Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.


    Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng: đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là “bút nguyên tử”. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.


    Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành gia vũ trụ, người thường không bao giờ có.

    Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi.


    Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn Ca số 7. Kết thúc Sơn Ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!


    Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kỳ nghỉ hè năm sau, tháng 8.1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.


    Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, tivi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi.Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.


    Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.


    Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nylon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nylon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nylon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.


    Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.


    Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.


    Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác - Lê: cuốn Tư bản luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quan vui vẻ nói, dạ chú, sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.


    Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

    Nguyễn Quang Lập

    https://www.facebook.com/notes/nguy%...5678213081415/


    Last edited by lengoclan; 04-22-2017 at 06:38 AM.

  10. #30




    THUỶ THIÊN NGA


    NHƯ NGÃ


    (Viết theo lời kể của Chị Nguyễn Thanh Thuỷ (K1), cựu BĐT Thiên Nga/Bài đã in trong ĐS Phượng Hoàng Xuân Đinh Dậu 2017)






    Chị Thủy Thiên Nga trước và sau 1975




    Đã lâu rồi, người ta hay gọi tôi là “Thuỷ Thiên Nga” để phân biệt tôi với những người có cái tên Thuỷ giống như tôi. Sở dĩ mọi người gọi tôi là Thuỷ Thiên Nga vì có thời tôi là người chỉ huy đội tình báo nữ mang tên Thiên Nga của ngành Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà. Cái chức vụ này đã cho tôi nhiều kỷ niệm vui buồn, nhưng đồng thời cũng làm cho tôi bị nhiều khổ luỵ vì nó với 13 năm tù cộng sản sau tháng Tư 1975.


    Nếu tôi nhớ không lầm thì Thuỷ Thiên Nga là cái tên đã bị báo chí Việt Cộng gán ghép cho tôi trước nhất. Khoảng năm 1988, lúc tôi mới được ra khỏi tù ít lâu, để mưu sinh, tôi có mở một cái quán cóc bán cà phê trên vỉa hè đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần), Quận 3 Sàigòn. Khách của tôi phần lớn là các anh chị cựu tù “cải tạo” đến để ủng hộ tôi đồng thời cũng là để có dịp gặp nhau hàn huyên tâm sự, ôn lại chuyện tù, đồng thời bàn tán chuyện thời sự linh tinh. Do đó, cái quán cóc của tôi chẳng bao lâu đã trở thành giống như một cái câu lạc bộ mini cho các anh em bạn tù gặp gỡ. Ngồi uống cà phê, chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm trong tù, điểm danh những bạn bè xem ai còn ai mất mà ngậm ngùi nhớ đến những người bạn đã vĩnh viễn ra đi, hay vui cho những người đã vượt thoát đến được bến bờ tự do. Chúng tôi cũng bàn tán về những tin tức thời sự hàng ngày, nhất là những tin tức có liên quan đến đám cựu tù chúng tôi như chương trình H.O. đang được bàn tán xôn xao lúc đó. Nhưng cái quán của tôi cũng chẳng được yên thân, nó cứ bị công an phường đến làm khó dễ xua đuổi hoài viện cớ choán lòng lề đường làm tôi cứ phải thường xuyên di tản từ chỗ này qua chỗ khác. Tuy nhiên, riết rồi chúng cũng làm ngơ vì thấy cái quán của tôi cũng nghèo nàn chẳng có gì đáng giá ngoài mấy cái ly tách cà phê kiểu dã chiến. Nhờ vậy, các bạn tù của tôi vẫn có chỗ tìm tới để tiếp tục ngồi tán gẫu. Có lần, một bạn tù đã mang đến quán cho tôi xem một bài báo trên tờ Công An TP.HCM của Việt cộng (VC), số Xuân Mậu Thìn 1988. Bài báo có tựa đề “Thuỷ Thiên Nga” của một tác giả tên Nam Phương. Nam Phương là một trong nhiều bút hiệu mới của tên ký giả nằm vùng Huỳnh Bá Thành tức Hoạ Sĩ Ớt ở Sàigòn trước 1975.








    Quán Cà phê Thiên Nga vỉa hè Sàigòn 1988 (Hình do Chị Thủy TN cung cấp)


    Sau ngày 30/4/1975, hầu hết bọn Việt cộng nằm vùng đều đã xuất đầu lộ diện không cần dấu diếm. Một trong số những tên đó là Huỳnh Bá Thành, người đã nhiều năm hoạt động nằm vùng len lỏi trong giới báo chí tại Sàigòn. Y tên thật là Huỳnh Thanh Tâm chuyên vẽ hí hoạ ký tên Hoạ Sĩ Ớt trên nhật báo Điện Tín của chủ nhiệm Hồng Sơn Đông. Sau Tháng Tư 1975, Huỳnh Bá Thành đã lộ nguyên hình là một Trung tá công an VC, một hung thần đối với giới ký giả, văn nghệ sĩ Sài Gòn cũ trong vụ án mà chúng gọi là vụ án “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”. Gần một chục nhà văn, nhà báo trong đó có Hoàng Hải Thuỷ, Doãn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường (tức Dê Húc Càn), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Dương Nghiễm Mậu,.… đều đã bị bắt rồi bị đưa ra toà xét xử với những bản án rất nặng nề chỉ vì họ là những người cầm bút chống cộng dưới chế độ cũ VNCH. Ngoài ra, y còn nổi tiếng với “Vụ án Hồ Con Rùa” và “Vụ án thập nhị Tăng Ni Già Lam”. Vụ án Hồ Con Rùa là vụ nhóm kháng chiến Phục Quốc đặt chất nổ ở Công Trường Quốc Tế trên đường Duy Tân, gần trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn; còn vụ án Tăng Ni Già Lam là vụ một số Tăng Ni thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở chùa Già Lam tranh đấu đòi tự do tôn giáo.


    Khoảng giữa thập niên 1980, Huỳnh Bá Thành, khi đó đã là Đại Tá, được cử làm Tổng Biên Tập tờ tuần báo Công An Thành Hồ rất ăn khách. Nhưng con đường công danh mà y được hưởng của VC chưa bao lâu thì đang sống bỗng chuyển qua… từ trần ngày 25/1/1993 một cách đột ngột đầy nghi vấn. Nghe nói vì y có người em ruột vượt biên qua Mỹ nên đã bị thất sủng và bị đầu độc cho chết khi vừa từ Pháp trở về sau một chuyến công tác tại đây(?).


    Một bài báo khác của Việt cộng đề cập đến tôi nữa là loạt bài “Thiên Nga Gẫy Cánh” của tác giả Thành Tín trên báo Quân Đội Nhân Dân. Sau này tôi mới biết, Thành Tín là bút hiệu của Bùi Tín khi đó đang là Phó Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân của VC, nay đã đào tị xin tỵ nạn tại Pháp từ đầu thập niên 1990. Cũng giống như bài “Thuỷ Thiên Nga”, bài báo “Thiên Nga Gẫy Cánh” cốt ý làm nhục, bêu riếu tôi bằng cách mô tả những công việc lao động khổ sai mà VC đã hành hạ tôi trong tù hàng ngày; không những vậy bài báo còn xuyên tạc những việc làm của Biệt Đội Thiên Nga là tay sai của Đế Quốc Mỹ, là cánh tay nối dài của CIA. Chúng kể công, mặc dù tôi đã đánh phá “Cách Mạng” và có nhiều nợ máu với nhân dân nhưng chúng vẫn khoan hồng tha cho tôi tội chết.


    Ngoài hai bài báo nói trên, báo chí VC thỉnh thoảng vẫn còn nhắc đến cái tên “Thuỷ Thiên Nga” nhiều lần nữa trên các báo chí của chúng; tất cả cũng không ngoài mục đích bôi nhọ việc làm của Biệt Đội Thiên Nga mà tôi là người chỉ huy biệt đội này.


    Có lẽ cũng vì những bài báo đó mà tôi đã trở thành “nổi tiếng”. Cho nên, từ khi được định cư ở hải ngoại, một vài báo chí Việt Mỹ cũng đã tìm gặp tôi để tìm hiểu, nhưng dĩ nhiên họ tìm hiểu để cảm thông với những việc làm của tôi, của Thiên Nga nhiều hơn, không như báo chí của VC. Do đó, trước kia, chỉ các anh chị em trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia biết tôi là người chỉ huy Biệt Đội Thiên Nga, nhưng nay thì hầu như mọi người trong và ngoài ngành đều đã biết.


    Mặc dù bị báo chí VC hạ nhục và bôi bẩn nhưng tôi vẫn hãnh diện về những việc làm của Thiên Nga. Qua những năm tháng làm việc dưới cái tên đẹp đẽ dễ thương này, tôi nghĩ tôi đã cống hiến, đóng góp một phần nhỏ công sức của mình vào việc giữ gìn an ninh trong công cuộc bảo quốc an dân của ngành CSQG mà tôi đã dấn thân phục vụ.


    Vào đầu thập niên 1990, tôi được định cư ở Mỹ theo diện H.O. Sau ba năm đi làm công cho một nhà hàng ở vùng Little Saigon, năm 1995, tôi đã cố gắng dành dụm được một ít tiền đủ để mở một cái quán nho nhỏ. Vốn là người có biết chút căn bản về nấu nướng và làm bánh học được từ khi còn ở Sài Gòn, tôi đã mở một gian hàng bán thực phẩm “food to go” lấy tên là “Thiên Nga Deli” ở ngay trong Little Saigon. Cái tên Thiên Nga Deli không chỉ là cái cửa hàng cho tôi mưu sinh mà còn là cái tên để cho tôi gợi nhớ về một thời tôi từng gắn bó với những hoạt động của Thiên Nga. Một vài người bạn gặp tôi đã hỏi, bộ tôi không sợ sao lại đặt tên quán là “Thiên Nga” như vậy. Họ lưu ý tôi, coi chừng bọn VC nằm vùng ở hải ngoại này nhiều lắm, một người “nổi tiếng” như tôi từng có nhiều ân oán với chúng cần phải đề cao cảnh giác. Dĩ nhiên tôi luôn phải đề cao cảnh giác, nhưng tôi không sợ vì dù có lấy tên gì thì chúng cũng đã biết rõ tôi là ai rồi, chẳng trốn đi đâu được.






    Quán Thiên Nga Deli ở Little Saigon (CA)

    Gian hàng của tôi rất nhỏ ở trong thành phố Fountain Valley, ngay sát Little Saigon. Nói là tôi làm chủ là nói cho oai vậy thôi chứ tôi vừa là chủ vừa kiêm đủ thứ. Nào là, vừa là người đứng bán hàng, vừa là đầu bếp, kiêm tạp dịch,v.v… Còn ông xã tôi là người phụ bán hàng và dọn dẹp, giao hàng. Hàng ngày, tôi phải dậy sớm cùng ông xã đi chợ mua các thứ về để chuẩn bị thực đơn bán hàng cho một ngày. Mặc dù phải tất bật từ sáng sớm cho đến chiều tối nhưng tôi rất vui vì được tự mình làm chủ và phục vụ khách hàng. Cái quán Thiên Nga Deli này đã trở thành niềm vui và điểm tựa tài chánh cho cả gia đình. Nó tuy không giúp cho tôi làm giàu nhưng ít ra, tôi có thể hãnh diện, nó đã giúp cho chúng tôi có thể tự lực cánh sinh bằng chính công sức của mình.


    Cũng giống như thời gian làm cô hàng bán cà phê ở vỉa hè Sàigòn, cửa hàng “Thiên Nga Deli” của tôi ở Little Saigon cũng được bạn bè truyền tai nhau nên mọi người đã đến ủng hộ cho tôi khá nhiều. Phần lớn họ là những anh chị em cựu tù “cải tạo” đến Mỹ định cư theo diện H.O. như tôi. Tôi rất cảm kích tấm lòng của họ. Họ đến cửa hàng của tôi không hẳn vì những thức ăn của tôi ngon rẻ mà chỉ vì họ muốn thể hiện mối thân tình huynh đệ chi binh giữa những người từng cùng chiến tuyến, cùng cảnh ngộ. Gặp lại nhau nơi xứ người, chúng tôi lại có dịp ôn lại chuyện xưa, chuyện nay, chia sẻ những khó khăn khi hội nhập trên đất khách. Hầu hết chúng tôi khi đến Mỹ đều đã lớn tuổi, lại thêm ngôn ngữ bất đồng, tiếng Anh không giỏi, nên thật khó để hoà nhập vào cuộc sống mới; nhưng mọi người đều vui vì từ nay được hít thở không khí tự do, không còn lo bị bọn công an VC hạnh hoẹ làm khó dễ. Nói thì nói thế nhưng cá nhân tôi, nhiều khi trong giấc ngủ chập chờn thỉnh thoảng vẫn có những cơn ác mộng ám ảnh bởi những sự hành hạ, khổ ải mà tôi từng bị bọn VC khủng bố trong tù. Chúng tôi nay như được hồi sinh, vui mừng vì tương lai con cái có cơ hội được vươn lên. Ngay cả hai trong ba người con của tôi, là con gái, mặc dù bị khuyết tật nhưng chúng vẫn được đi học, được hướng dẫn vừa học nghề vừa đi làm, thỉnh thoảng chúng còn ra tiệm phụ giúp cho tôi làm bếp, bán hàng. Đó là những ngày tháng đã mang lại cho tôi những hạnh phúc không thể tả.


    Khi thấy những đứa con tật bệnh của tôi được đi học, đi làm, tôi đã mừng và thầm cám ơn nước Mỹ. Chính sách của họ dành cho những con người kém may mắn bị khuyết tật như các con của tôi thật là cao cả, nhân đạo và nhân bản. Nếu chúng còn ở Việt Nam có lẽ chúng đã bị gạt ra bên lề xã hội. Chúng không chỉ bị kỳ thị vì có cha mẹ là người của chế độ VNCH cũ mà còn bị bỏ rơi vì những khuyết tật của chúng.


    Nhưng niềm vui và hạnh phúc ấy đến với tôi không kéo dài được lâu. Đầu năm 2001, đứa con gái lớn đầu lòng của chúng tôi kém may mắn vì bị khuyết tật đã chẳng may qua đời vì bị một bệnh hiểm nghèo không vượt qua được. Cái chết của con gái tôi là một mất mát lớn không gì bù đắp. Cả hai vợ chồng tôi đều suy sụp tinh thần không còn thiết tha đến việc kinh doanh. Nỗi buồn chưa vơi thì họa vô đơn chí đến lượt tôi cũng bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo. Sau cái chết của con gái chưa được bao lâu, trong một lần đi khám bệnh, bác sĩ đã phát hiện ra tôi bị ung thư cổ tử cung. Tin nghe như sét đánh ngang tai. Đây cũng là lý do khiến tôi phải dẹp tiệm Thiên Nga Deli để lo chữa bệnh, một căn bệnh mà tỷ lệ tử vong khá cao, nhất là trong giới phụ nữ Việt. Lúc đầu, tôi cứ tưởng bệnh của tôi chưa trầm trọng đến nỗi phải giải phẫu, nhưng sau nhiều lần xạ trị trong hơn một năm mà bệnh không thuyên giảm mà còn có vẻ nặng hơn, nên cuối cùng, bác sĩ đã đề nghị tôi phải giải phẫu, cắt bỏ toàn bộ tử cung. Dĩ nhiên, để sống sót tôi không còn chọn lựa nào khác. May mắn, cuộc giải phẫu đã diễn ra tốt đẹp. Sau đó, các thử nghiệm hậu phẫu đã có kết quả rất tốt, ung thư đã không lây lan nên tôi không phải xạ trị như phần lớn những bệnh nhân ung thư khác sau khi mổ. Đến nay đã 15 năm, mỗi năm tôi đều phải tái khám lại nhưng may mắn chưa có dấu hiệu bệnh tái phát.


    Sau khi chữa lành bệnh ung thư, tôi bị rơi vào bệnh trầm cảm khi đứa con gái út còn lại của tôi cũng bị bệnh phải giải phẫu. Nỗi lo sợ lại bị mất con một lần nữa khiến cho tôi hoảng sợ, Nhưng may mắn thay, lần này cả mẹ và con, bệnh đều được chữa lành.


    Sau những bất hạnh dồn dập đến cho tôi và gia đình, tôi đã chính thức ngưng hẳn việc điều hành Thiên Nga Deli để dành thời giờ chăm sóc cho gia đình riêng nhiều hơn. Tuy nhiên, vì vốn là người năng động, tôi không muốn suốt ngày cứ quanh quẩn ở trong nhà nên tôi đã tình nguyện tham gia vào những công tác xã hội, thiện nguyện. Từ nhiều năm nay, tôi là một thiện nguyện viên công tác trong Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa hiện do cựu Nữ Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn làm Hội trưởng. Nhiệm vụ của tôi là tiếp nhận và xác minh hồ sơ của các quả phụ VNCH gởi tới Hội xin giúp đỡ. Có nhiều người thắc mắc nghĩ rằng, đã hơn 40 năm qua rồi những người phụ nữ góa bụa ấy mấy ai còn là quả phụ. Điều ấy đúng, nhưng cũng không đúng vì không thiếu những người phụ nữ đã ở vậy thờ chồng nuôi con. Là người từng trải qua những đau thương, tôi hiểu những nỗi bất hạnh và bi thương của họ. Họ là những người vợ lính VNCH trung trinh đáng được tuyên dương; họ nay còn ở trong nước đang phải gánh chịu những thiệt thòi, đày đọa và bất công. Việc làm của tôi chỉ là góp một bàn tay cùng các anh chị khác trong và ngoài Hội để an ủi một phần nào những người vợ của những người đã một thời từng là chiến hữu của tôi.


    Đã hơn 40 năm rồi, những cánh chim Thiên Nga đã không còn tung cánh như ngày nào, nhưng không phải vì vậy mà chúng gẫy cánh. Những cánh chim Thiên Nga chúng tôi ngày nay đã bay tản mác khắp bốn phương trời. Ngoài những công việc nội trợ hàng ngày như bao phụ nữ khác, hầu hết chúng tôi đều tham gia vào những sinh hoạt ngoài xã hội hay trong những hội đoàn – trong đó có những hội CSQG – tại địa phương. Ngày xưa, những thiên nga chúng tôi phải bí mật xâm nhập vào các tổ chức của địch để thu thập những tin tức tình báo; nhưng ngày nay, chúng tôi công khai tham gia những sinh hoạt cộng đồng với lòng ước mong, qua sự góp sức của mình, sẽ làm cho cộng đồng ngày một vững mạnh và thăng tiến. Tuy nhiên, mặc dù chúng tôi không còn thực hiện những công tác tình báo nhưng cái nghiệp dĩ năm xưa vẫn luôn đeo bám chúng tôi. Nó đã nhắc nhở chúng tôi luôn luôn phải đề cao cảnh giác, và dưới con mắt nghiệp vụ, chúng tôi biết rằng, kẻ thù đang dấu mặt ở quanh đây và chúng đang tìm cách len lỏi trong cộng đồng để tìm cách gây phân hóa, xáo trộn. Để vượt qua được nó, điều mong ước của tôi là, chúng ta phải có một cộng đồng đoàn kết, thống nhất và vững mạnh ở hải ngoại. Mong lắm thay !!!


    NHƯ NGÃ






    Thiên Nga Có Đàn Có Đôi



    Thanh Thủy theo học tại Viện Đại Học Đà Lạt, 1964-1965.


    Hoài niệm về một tháng Tư năm nào luôn nặng trĩu những ngậm ngùi. Ký ức của người kể khởi nhớ thị xã Mỹ Tho, nơi cô sống với tuổi thơ trôi êm đềm bên giòng sông Tiền.


    Ngày đó, Thanh Thủy thi đậu có hạng vô lớp Đệ Thất nên được nhận học bổng suốt thời gian theo học trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu, tiền thân là Collège de My Tho, một trong những ngôi trường trung học lâu đời nhất của Việt Nam. Nhưng cô học ở đó chỉ hai năm.


    Sau khi trường Nữ Trung Học được xây dựng, các nữ sinh của trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu được chuyển sang ngay khóa đầu tiên, năm học 1957-1958. Từ đó trường Nguyễn Đình Chiểu chỉ dành riêng cho nam sinh cho đến năm 1975.


    Thanh Thủy bắt đầu làm quen với ngôi trường Nữ Trung Học mang tên công chúa Lê Ngọc Hân. Hồi tưởng lại, trí cô còn đậm nét hình ảnh ngôi trường ẩn mình dưới những hàng me trên con đường Ngô Quyền, bước qua cổng trường là thấy phượng vĩ nở đỏ rực sau cơn mưa tháng năm.


    Tốt nghiệp Tú Tài II, Thanh Thủy thi đậu Đại Học Dược Khoa theo ước muốn của ba cô. Không bao lâu các thầy dạy khuyên Thanh Thủy nên chuyển ngành học do cô bị viêm xoang mũi quá nặng, không thể hoàn tất phần thực tập vì phải tiếp xúc với nhiều hóa chất. Anh Hai của cô lúc đó đang theo học Chính Trị Kinh Doanh ở bên Pháp hướng dẫn cô chọn cùng ngành như anh. Cô ghi danh tại Viện Đại Học Đà Lạt, đồng thời cũng theo học luôn Sư Phạm Công Giáo. Đối với dân miền tây như Thanh Thủy, khí hậu Đà Lạt quá lạnh. Ngoài viêm xoang mũi, cô còn bị bệnh thống phong. Dù có xe đưa rước đến tận cửa lớp nhưng cô vẫn đi đứng khó khăn, phải bỏ học ngang về Sài Gòn chữa trị.


    Cùng năm đó Học Viện Cảnh Sát lần đầu tiên mở khóa đào tạo nữ cảnh sát. Một anh bạn học cũ đang làm cảnh sát thấy thông tin niêm yết liền báo cho Thanh Thủy biết. Cô dự thi để cốt ý được theo học ở nơi có khí hậu ấm áp thích hợp cho sức khỏe mặc dùbản thân chưa rõ nghề Biên Tập Viên Cảnh Sát sắp tới của cô sẽ làm công việc cụ thể ra sao.Số lượng thí sinh ghi danh đông nhưng Học Viện chỉ tuyển số ít. Bài thi của cô đạt điểm xuất sắc, sau này các thầy nhắc lại và hỏi thì Thanh Thủy cho biết nội dung thi tập trung vào đề tài chính trị mà cô đã từng học ở Đà Lạt nên cô làm bài hết sức tự tin và vững vàng.


    Trúng tuyển vô ngành là một chuyện. Trải qua thời gian huấn luyện cam go và vượt hết các vòng sát hạch đầy thử thách lại là một chuyện khác. Nếu nói đây là khóa đầu tiên và cũng là khóa duy nhất đào tạo chính qui nữ cảnh sát thì không sai bởi vì sau đó Cảnh Sát Quốc Gia chỉ tuyển thành phần đào tạo ngắn hạn mà thôi. Kết quả cho thấy 18 cô Biên Tập Viên có bằng cấp Tú Tài II cùng 30 cô Thẩm Sát Viên với Tú Tài I được công nhận tốt nghiệp. Thanh Thủy được bổ nhiệm về làm việc tại Khối Đặc Biệt.


    Tháng 8 năm 1968, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia quyết định thành lập Biệt Đội Thiên Nga chỉ gồm các nữ nhân viên nhằm đáp ứng nhu cầu tình báo trên toàn lãnh thổ miền Nam. Thanh Thủy được chỉ định làm Biệt Đội Trưởng cho đến ngày Sài Gòn thất thủ.


    Năm 1973 Mỹ rút quân. Họ có kế hoạch cho đàn Thiên Nga vỗ cánh: các cô tốt nghiệp từ Học Viện Cảnh Sát với cấp bậc sĩ quan có tên trong danh sách đưa sang Mỹ. Hạ sĩ quan phải ở lại. Thanh Thủy đã phần nào dự cảm chánh biến sẽ xảy ra nhưng chỉ chưa biết chính xác lúc nào mà thôi.


    Vào thời điểm Tháng Tư Đen một chín bảy lăm, Thanh Thủy trằn trọc mất ngủ cả tháng. Hạ sĩ quan không được bốc đi thì các hồ sơ lưu với đầy đủ mật danh và ám số ắt gây nguy hiểm cho họ. Họ gồm đủ thành phần: hồi chánh viên, cộng tác viên, mật báo viên. Họ còn là những sinh viên, học sinh, phụ nữ có con nhỏ.


    Khi nghe tin tức dồn dập rằng vị Tư Lệnh và vị Trưởng Khối Đặc Biệt đã rời nhiệm sở, Thanh Thủy hít một hơi dài, mím môi, tự động quyết định. Đôi cánh đầu đàn không đủ rộng để che chở tất cả thì ít ra cô phải tận dụng khả năng của mình để giữ an toàn cho cả đàn Thiên Nga.


    Đó là những ngày cùng tháng tận. Thanh Thủy không liên lạc được với tài xế để đưa cô đến sở làm. Cô nhờ chồng chở xe gắn máy đến gần Bộ Tư Lệnh, cô đi bộ vào sở còn anh qua trường Sư Phạm ngồi chờ. Thanh Thủy được cấp một thẻ ưu tiên ra vào Khối Đặc Biệt bất cứ lúc nào. Tự tay cô soạn, và cũng chính tay cô hủy hồ sơ để bảo đảm rằng không hồ sơ nào bị sót lại. Đối với các chị em đã được đưa ra ngoài để làm việc tại các cơ sở khác, Thanh Thủy trấn an rằng họ cứ làm việc bình thường vì cô đã lo mọi chuyện chu toàn. Ngoài ra, cô vẫn giữ bí mật, không hề thổ lộ với ai rằng mình đã hủy hồ sơ.


    Giữ bí mật là nguyên tắc bắt buộc của ngành tình báo. Ngay chính người bạn đời trăm năm thân thiết của Thanh Thủy cũng không hề biết vợ mình là Thiên Nga đầu đàn.


    Việt Cộng muốn ám sát cô nhiều lần nhưng không tìm ra đúng người. Sau những lần đụng địch, tài liệu của phía địch bị tịch thu cho thấy chúng đã biết đàn Thiên Nga hoạt động nhưng chưa nhận diện được cụ thể người nào vì các Thiên Nga tuổi trạc như nhau, vừa tầm nhau. Thanh Thủy ít khi đi một mình. Cô vô cửa này mà đi ra cửa khác. Đi làm cô mặc thường phục, đôi khi ngụy thức, tức hóa trang đủ mọi thành phần, nên hành tung khó đoán.


    Chiều 30 tháng Tư, chúng theo dõi nhưng tìm nhà không ra vì đường hẻm khó kiếm.




    Đôi bạn Long-Thanh Thủy trước cổng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, 1967.


    Ngay từ ngày 1 tháng 5, chúng đã tống đạt giấy triệu tập trình diện trong khi Thanh Thủy đưa con gái bị sốt cao đi bác sĩ. Chồng ở nhà nhận giấy triệu tập chuyển lại cho vợ. Giấy tờ nêu đích danh Nguyễn Thanh Thủy, Thiếu tá Biệt Đội Trưởng Tình Báo Thiên Nga. Anh chưng hửng. Lần đầu tiên anh đọc thấy cái tên Biệt Đội Thiên Nga. Anh nói ngay khi vợ về đến nhà:


    - Hồi sáng có thằng công an xuống đưa cái giấy triệu tập em.


    - Làm gì có!


    - Anh đọc rành rành đây mà.


    Chồng của Thanh Thủy đi từ chưng hửng này đến chưng hửng khác...


    “Chưng hửng kể từ lần đầu biết cổ lận!” Anh nhắc nhớ kỷ niệm với những lời trìu mến. Chưng hửng vì cô đã hớp hồn anh từ giây phút mới gặp. Chưng hửng vì cô duyên dáng, mặn mà. Ngay đến giờ này sống bên cô, anh vẫn chưa hết chưng hửng vì người bạn đời của anh lúc nào cũngđằm thắm.Trong lúc chồng còn bồi hồi với ký ức năm xưa thì vợ nối lời: “Ảnh nghĩ cưới một cô giáo chớ đâu có nghĩ cưới cô cảnh sát đâu!” Để rồi tiếng cười ròn rã tiếp theo sau: “Nếu biết sớm chắc ảnh xuống tàu đi mất luôn.”


    Ngày đó, Lê Thành Long, chàng trai quê ở Cần Giuộc, Long An, tốt nghiệp khóa 13 Thủ Đức, biệt phái về Năm Căn, Cà Mau để góp tay thực hiện công tác bình định gom dân lập ấp. Lần đầu tiên Long về phép, chiếc xe đò đưa anh từ Bạc Liêu ghé qua Cần Thơ đón thêm khách trước khi về Sài Gòn. Trước đó Thanh Thủy xuống Cần Thơ thăm người bạn. Vào ngày Long đáp chuyến xe về phép, Thanh Thủy ra bến xe Cần Thơ mua vé về lại Sài Gòn. Bước lên xe, chiếc ghế trống bên cạnh Long được Thanh Thủy tình cờ chọn ngồi. Tưởng chỉ là cuộc chuyện trò đặng quên quãng đường dài, đặng rút ngắn thời gian chờ qua hai bến phà sông Hậu và sông Tiền, có ngờ đâu cú sét ái tình đánh trúng chàng Long trong chuyến xe đò duyên phận này.


    Thời xưa con gái giữ ý lắm, không đường đột đưa tên tuổi mình cho người mới quen huống hồ là địa chỉ. Vừa xuống xe đò, Thanh Thủy xăm xăm đón tắc-xi về thẳng nhà. Có biết đâu khi chiếc xe đò chở hai người vừa cập bến xe Chợ Lớn thì Long đón ngay chiếc tắc-xi khác chạy theo chiếc tắc-xi chở Thanh Thủy tận đến con hẻm dẫn vô nhà cô.


    Qua hôm sau Long đến đúng chỗ, nói kiếm cô em trong cái nhà này. Ông anh tưởng là bạn của em gái, xăng xái mời vô. Tình cảm đôi bên được dịp bắc cầu.


    Khi Long hoàn tất khóa học Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp tại Đà Lạt, anh được trường Võ Bị tuyển chọn làm Trưởng Ban Nghi Lễ. Đối với sĩ quan độc thân như Long, Trường Võ Bị dành cho anh chỗ ở tại Khách Sạn Thủy Tiên 2, đối diện với Đại Học Xá Đà Lạt nơi Thanh Thủy theo học. Những thắng cảnh thơ mộng của Đà Lạt là nơi hò hẹn của đôi uyên ương trước khi đi đến hôn nhân.


    Lấy nhau xong,chồng vẫn đóng tại Đà Lạt còn vợ làm việc tại Sài Gòn. Lâu lâu anh về phép không báo trước. Đôi khi, trong những lần bất ngờ đó Thanh Thủy phải đi kích đêm. Thường thì cô để đồ dã chiến ở trong sở, vô đó mới thay đổi quân phục rồi ra đi với lính có súng ống hẳn hòi vào mật khu. Gặp lúc chồng về phép không báo trước, Thanh Thủy đành nói: “Cho em đi. Mới có lệnh công tác. Giới nghiêm em về tới.”


    Long biết vợ làm việc ở Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ngoài ra không biết gì hơn. Tin tưởng vợ là đủ.


    Tài xế lái chiếc xe mang số ẩn tế, tức loại bảng số dành cho mục đích công vụ, đến đón vợ Long đi. Công tác xong cô trở lại sở thay quần áo, lính lái xe đưa về nhà. Xe ngang qua ngã sáu bùng binh Chợ Lớn, cô nói với lính:


    - Cho tui xuống đây đi rồi chú lái trở lại Bộ Tư Lệnh cất xe. Ông xã tui chơ đằng kia.


    - Sao chị hay vậy?


    - Chớ sao nữa!


    Quả nhiên ở đằng quán sinh tố, anh Long đang thấp thỏm, thấy vợ xuất hiện thì mới an lòng. Anh chỉ hỏi:


    - Em làm gì mà khuya lắc khuya lơ mới về tới?


    Vợ đáp gọn lỏn:


    - Em công tác ở Củ Chi mới về.


    Vậy là thôi. Không hỏi tới nữa.


    Từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 cho đến lúc Thanh Thủy chính thức đi tù cải tạo, Việt Cộng liên tục đến nhà xét hỏi, lục soát giấy tờ, đập phá nền nhà để đào bới xem cô có chôn dấu hồ sơ tài liệu về Biệt Đội Thiên Nga hay không. Mỗi ngày cô phải vào Khối Đặc Biệt trình diện. Cô bị kết tội trụ tại một chức vụ liên tục 10 năm nên chắc chắn nắm rất rõ nội dung công việc; tội thứ hai la ắt hẳn cô thấm nhuần lý tưởng Việt Nam Cộng Hòa nên mới gia nhập quân ngũ cùng nam giới trong khi phái nữ không bị bắt buộc động viên. Chưa kể cô bị qui kết là có cấp bậc Trung tá. Thực sự, sau này gặp lại vị chỉ huy cũ ở bên Mỹ, cô mới biết được rằng giấy bổ nhiệm thăng cấp Trung tá cho cô đã về tới nhưng Sở còn chờ đến 1 tháng 6 năm đó, Ngày Truyền Thống Cảnh Sát Quốc Gia, mới gắn lon.


    Ngoài Thanh Thủy với cấp bậc Thiếu tá Cảnh Sát Trưởng Biệt Đội Thiên Nga của Khối Đặc Biệt, các anh em trong gia đình của cô lần lượt đi tù cải tạo: anh Ba là Trung úy Công Binh, anh Tư tốt nghiệp Võ Bị khóa 20 là Đại úy Bộ Binh Sư Đoàn 7. Cậu Sáu em trai Thanh Thủy tốt nghiệp Võ Bị khóa 22 là Thiếu úy đã trở thành thương phế binh trong trận đụng địch trước năm 1975. Tuy cậu Sáu không bị vướng tù cải tạo nhưng sau đó bị bắt giam không lý do. Ngày ngày vợ cậu phải đem cơm nuôi tù và cậu chỉ được thả khi bị buộc ký giấy giao cho chính quyền cộng sản căn nhà nhỏ trong hẻm mà vợ chồng Thanh Thủy và vợ chồng cậu đang ở chung.


    Phía bên Long cũng chịu kiếp nạn tương tự. Chồng của chị Hai là Thiếu tá làm việc tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, chồng của chị Ba là Đại úy đóng tại Trung Tâm Truyền Tin Viễn Địa; Long là Đại úy Bộ Binh Sư Đoàn 21, chú Sáu em trai Long là Đại úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 3/15 Sư Đoàn 9 bị bắt làm tù binh ngay năm 1972 và giải đi tận Yên Bái, tù chục năm có dư.


    Mỗi gia đình có bốn người trong quân ngũ. Hai lần bốn là tám, vị chi hai bên sui gia có tám người ở tù: con ruột, con rể, và con dâu. Nữ tù nhân Thanh Thủy lại là người ở tù lâu năm nhất, bóc đến 13 quyển lịch đời. Hai ông sui gia, từng là bạn đồng môn Sư Phạm Sài Gòn khi xưa, vào thời điểm đó trở thành hai ông giáo già ngậm ngùi chia sẻ nỗi đau thời cuộc để rồi không bao lâu lần lượt qua đời. Ông thân sinh của Long đổ bệnh mà chết chỉ vài tháng sau ngày mất miền Nam.


    Tư-thục Thủ-Khoa tại thị xã Mỹ Tho do thầy giáo Nguyễn Ngọc Phái, thân sinh của Thanh Thủy, thành lập và là hiệu trưởng từ đầu thập niên 60 đến ngày mất miền Nam,bị cộng sản tịch thu. Chúng đòi chiếm luôn căn nhà ba gian mà hai vợ chồng ông, mấy đứa con, cùng đàn cháu dại đang tạm sống qua ngày. Ông thường xuyên bị kêu hỏi, hăm dọa, khó dễ. Đến ngày nhắm mắt lìa đời ông vẫn không hề biết con gái mình làm việc gì cụ thể trong ngành Cảnh Sát.


    Học trò của ông rất đông, đi tù cải tạo cũng nhiều. Ngày trở ra tù, họ đến thăm ông và hỏi: “Thầy có biết con gái Thầy làm gì không?” Nghe mà bần thần, ông hỏi tới. Họ chỉ kết luận: “Con gái Thầy đi không biết khi nào mới về được” để rồi thấy ông nhìn trân trân vào khoảng không trước mặt, lặng im.


    Người cha già ngày một sinh bệnh cho đến lúc từ biệt cõi trần vẫn còn khắc khoải rằng con gái yêu của ông đã làm gì mà chịu tù tội đọa đày đến thân tàn ma dại.


    Vợ chồng Long và Thanh Thủy đi tù cải tạo mỗi người một ngả. Ba đứa con thơ sắp lớp: bảy tuổi, sáu tuổi, và đứa nhỏ nhất chưa đầy bốn tuổi mà trong đó hai đứa bệnh tật, sớm chịu phận côi cút theo dì Tám về nương náu bên ngoại.


    Long ra khỏi trại tù cải tạo ở Suối Máu năm 1981. Anh khiếu nại lấy lại căn nhà bị tịch thu thì nhận câu trả lời: “Nhà anh nay công an ở rồi, anh phải ngủ ở trước cửa thôi.” Nương náu tại nhà chị, nhà em của Long cũng không đặng vì cứ nửa đêm là gia chủ bị đập cửa hoạch họe kiểm tra hộ khẩu. Long đành về quê làm ruộng kiếm sống qua ngày.



    Tư-thục Thủ-Khoa tại Mỹ Tho.


    Lần đầu tiên Long đi thăm nuôi vợ tại trại tù Long Thành, ngay lúc Thanh Thủyđang bị kỷ luật rút phép thăm nuôi sáu tháng. Năn nỉ cách mấy đều không được, Long đành gửi lại túi đồ thăm nuôi rồi ra về mà buồn tê tái. Phải đợi đến khi Thanh Thủy chuyển sang trại tù khác thì Long mới gặp lại vợ mình, tính ra đã hơn bảy năm xa cách.Tâm cang anhchết lặng vì không thể mường tượng người nữ tù nhân còm cõi, hốc hác đang đứng trước mặt lại làngười vợ thân yêu của mình. Bản thân từng trải qua sáu năm tù đày nên Long càng thấu hiểu sự tình, lòng đau đớn khôn nguôi.


    Ngoài vô số lần biệt giam lẻ tẻ, Thanh Thủy là nữ tù nhân duy nhất bị chuyển đến trại giam Thủ Đức để chịu cảnh biệt giam hơn một năm: bị cô lập hoàn toàn, ăn uống thiếu thốn, cán bộ chấp pháp luân phiên hỏi cung ngày đêm nên cô phải đấu trí liên tục để bảo mật cho Biệt Đội ThiênNga. Tên Đại tá chấp pháp đã nhiều lần nổi dóa, đập bàn la hét: “Bản tự khai của chị viết cả nghìn trang rồi mà nội dung cứ lửng lơ con cá vàng nghĩa là sao?” Đau yếu quặt quẹo, cô chỉ có thể trườn bò khi di chuyển vì không đủ sức mà đứng lên đi lại dù chỉ là một đoạn ngắn từ chỗ bị giam đến nhà vệ sinh.


    Đôi lần tưởng rằng tử thần đã đem cô đi. Lần đó, cơn sốt rét rừng ác tính ở Hàm Tân khiến côrét run vật vã. Một bạn tù là bác sĩQuân Ygom góp thuốc từ các anh emtù để giúp cô cắt cơn. Lần khác thì bao tử cô bị xuất huyết trầm trọng. Lúc đó vào khoảnggiữa năm tù thứ 13, bao tử của cô không còn nghiền nổi bo bo và các lát khoai mì mốc meo khôkhốc được nữa. Nhưng không ăn thì chết đói nên đành phải đưa các thứ khó tiêu hóa đó vô miệng ngậm cho mềm rồi nuốt trệu trạo. Một bạn tù khác làm đội trưởng nhà bếp thấy tội nghiệp mỗi ngày sớt cho một “gô” (các tù nhân gọi tắt cho loại lon đựng sữa bột Guigoz) nước cơm chắt để cô uống cầm cự. Vậy chơ hai hàm răng để đâu mà sao không tiếp sức cho bao tử? Xin thưa: hàm răng trên đã mất hết, hàm dưới còn vài cái răng trồi sụt, làm sao mà nhai? Nướu tụt, lở loét vì những chiếc răng đau được nhổ bởi cái xà beng được chế tác từ cái muỗng kim loại mà tù hình sự quăng lén cho mượn. Cái dụng cụ thô sơ đó được sát trùng bằng cách nhúng vào nước nấu sôi rồi đưa vô miệng nạy, nhổ răng. Đau chết ngất. Máu chảy ròng khó kềm.


    Người cùng quê đi thăm nuôi người nhà của họ khi trở về ái ngại nhắn với gia đình cô:


    - Phải lo thăm nuôi chỉ đi vì chỉ bị xuất huyết bao tử nặng lắm rồi,còn không thì chỉ chết.


    Thanh Thủy chẳng hề dám trông đợi thăm nuôi. Thăm tù đã là chuyện khó mà nuôi tù lại là chuyện xa xỉ đối với hai bên nội ngoại của các con. Dì Tám tụi nhỏ bậm môi cố không khóc để nói với chị mình: “Em thăm chị kỳ này chớ lần sau em không thể thăm được nữa. Chắc chị không hình dung nổi nhà mình nghèo cỡ nào đâu!”


    Thơ của dì Út cô gửi vô cho biết khi đến chúc Tết ba mẹ cô chỉ thấy ông bà ăn chuối chấm muối tiêu thay cơm. Còn gia đình bên Long trồng củ cải đem bán nên quà thăm nuôi cô thường là củ cải phơi khô ngâm nước mắm, kế đến là món muối sả, may mắn lắm mới có thêm bịch đường cát. Kiếm tiền mua vé xe cho mấy đứa con để lâu lâu chúng được gặp mẹ là điều ráng hết sức của người chồng rồi.


    Sau này có người hỏi Long: “Thời đó các bà đi thăm nuôi chồng tù cải tạo chớ có nghe nói chồng đi thăm nuôi vợ đâu?” thì nhận nụ cười hiền hòa đáp lại: “Người ta ca ngợi những cánh cò lặn lội thăm chồng thì đúng rồi nhưng tui cũng cực khổ không thua gì các bà hết! Cảnh gà trống thăm vợ chăm con ngậm ngùilắm đa.”


    Sang năm tù thứ 13, Thanh Thủy lao động khổ sai tại xưởng may. Trại tù ký hợp đồng may quần áo lạnh xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, buộc tù nhân may theo chỉ tiêu bằng vớitốc độ máy may công nghiệp trong khihọ phải làm việc với những chiếc máy may cà rịch cà tang. Gần đến ngày giao hàng, tù nhân phải ăn, ngủ ngay chỗ làm việc để hoàn tất sản phẩm. Đến khi những chiếc xe chở hàng đến lấy xong xuôi thì các tù nhân đều vật ra ngủ tại chỗ, không thể về trại nổi.


    Cán bộ coi tù thấy Thanh Thủy sau giờ lao động hoặc trong giờ nghỉ giải lao đều cặm cụi ngồi may tay những miếng vải vụn thành quần áo gửi về cho các con, đã phải động lòng mà thốt: “Ở đây có bà mẹ giờ này vẫn còn nhớ tới con.” Thậm chí, cô còn nhắn gia đình mua lại những áo len cũ gửi vào để cô gỡ ra từng sợi đan lại thành áo chờ gặp dịp nhờ người thăm nuôi cùng quê đem về đưa cho em gái bán lấy tiền mua thức ăn cho các con.


    Một ngày kia, một người khách từ Bộ Nội Vụ ghé thăm nhà tù:


    - Chị này bịnh gì mà nằm đây?


    Trại trưởng đáp lại:


    - Báo cáo đồng chí: chị hai này bịnh nặng lắm rồi. Tui đề nghị nhiều lần rồi sao không thấy cho về. Để chỉ chết ở đây mình mang tiếng.


    Người khách đi trở lên, yêu cầu lấy hồ sơ ra coi, xétthấy nhân thân Nguyễn Thanh Thủy không vi phạm điều gì nên ký giấy cho về trong số những tù nhân bịnh nặng.



    Quán Thiên Nga nhắc nhớ hình ảnh Biệt Đội Thiên Nga thời chiến.


    Không còn bộ đồ nào khác, Thanh Thủy đành mặc bộ đồ tù bước ra khỏi trại tù Z30–D Hàm Tân, Thuận Hải. Hai bên túi áo tù còn nhét hai chiếc bao tay may ráp bởi những rẻo vải vụn. Đôi bao tay được dùng để nhổ cỏ ngoài giờ lao động khổ sai tại xưởng may. Kêu về mà có phát giấy ra trại đâu! Khi xe tù đưa về Sài Gòn làm thủ tục tại quận Nhì, cô còn bị phỏng vấn cắc cớ:


    - Bà được Mỹ can thiệp hay chánh phủ nhà nước cho về?


    Là người sau cùng bước khỏi nơi làm thủ tục ra tù, Thanh Thủycòn đang phân vân: nhà cửa không còn mà hộ khẩu cũng chẳng có, bất ngờ cô nghe tiếng gọi. Vợ chồng cậu Sáu đọc báo thấy có đợt thả tù nhân bèn chạy đến tìm cầu may, nào ngờ gặp được chị mình. Từ quê, anh Long được nhắn tin. Vợ chồng gặp nhaumừng mừng tủi tủi, đưa nhau về ngoại gặp các con. Lúc đó, hai đứa con gái dù bệnh tật cũng gắng sức phụ dì Tám và bà ngoại se cói kiếm cơm. Con trai đi làm công lột vỏ dừa cho người ta, bữa đói bữa no.


    Vợ chồng gắng trụ lại Sài Gòn mở quán vỉa hè lây lất nuôi gia đình, chia sẻ cùng nhau bao gian truân cho đến ngày sang Mỹ theo diện tỵ nạn chính trị. Bước đầu định cư nơi xứ người, gia đình Long và Thanh Thủy cũng trải qua những tháng năm vất vả như bao người Việt tỵ nạn khác nhưng cả nhà được sum họp, yên ổn, không bị xách nhiễu. Quán bán thức ăn nhanh mà vợ chồng Long và Thanh Thủy duy trì được bảy năm mang tên Thiên Nga để nhắc nhớ hình ảnh Biệt Đội Thiên Nga thời chiến đã thầm lặnggóp cánh bảo vệ đất nước Việt Nam Cộng Hòa và sắt son giữ vững lý tưởng.


    Ngồi kể lại mà nước mắt Thanh Thủy lăn dài. Cô hãnh diện về đàn Thiên Nga trong cảnh tù đày: các chị em rất thương yêu và đùm bọc cho nhau. Dù Biệt Đội Trưởng đã ngầm dặn rằng chị em Thiên Nga cứ đổ hết trách nhiệm cho cô nhưng các cộng sự không hề làm vậy, họ khai báo ngắn gọn và giữ y lời khai. Ra tù cô đạp xe kiếm thăm các chị em Thiên Nga nhưng hầu hết đã hồi hương hoặc cải đổi danh tánh nên không biết tìm đâu mà gặp lại. Đàn Thiên Nga tan tác. Nếu tính tuổi đời, các Thiên Nga hiện nay hầu hết đã mỏi cánh.Từ ngày sang Mỹ nếu liên lạc được với Thiên Nga nào còn ở lại Việt Nam mà biết họ cần giúp đỡ, Thanh Thủy không bao giờ đợi họ phải nói đến lần thứ hai, vấn đề chỉ là giúp được bao nhiêu thôi chớ cô chưa hề từ chối.


    Huyền thoại kể rằng vào lúc cuối đời, những con Thiên Nga vốn chỉ im lặng sẽ cất tiếng hót ngọt ngào. Cô đàn trưởng Thiên Nga giờ đây chỉ muốn nói lên tiếng lòng rằng trong suốt bao nhiêu năm nay cô luôn nhớ đến các Thiên Ngacộng sự, ao ước gặp đông đủ các chị em một lần cuối. Mong lắm thay!


    Thiên Nga, loài thủy cầm quyến rũ, còn là một trong những biểu tượng của tình yêu và lòng chung thủy vì tập tính kết đôi suốt đời. Con trống luôn đi sau bảo vệ và dõi theo con mái, còn con mái thường âu yếm quay đầu về phía con trống. Cặp đôi Long và Thanh Thủy từ lúc kết duyên đến nay hiểu rằng trái tim họ thuộc về nhau dù có lúc phải chia xa bởi các bước ngoặt lớn nhỏ khác nhau trong đời mỗi người. Tuổi già kèm theo bệnh tật là điều không tránh khỏi, nhất là từ hệ lụy của những năm tháng đọa đày. Ông từng được chữa trị ung thư máu. Từ khi cô con gái đầu lòng của ông bà qua đời sau những chống chọi với căn bệnh, bà đã trải qua thời gian dài trầm cảm, rồi phải cắt bỏ khối u, nay lại cao máu, cao mỡ, tiểu đường nặng, đau bao tử kinh niên,và phải đặt máy trợ tim. Mắt bà mờ không phân biệt được độ cao thấp nên bước hụt và té liên tục nhưng luôn có ông một bên nắm taydắt bà đi.


    Ông quan niệm: “Thương yêu nhau thì phải giúp đỡ nhau”.Đơn giản!


    Bà nhắc nhở ông lịch hẹn khám bịnh, uống thuốc; ông đi lâu chưa về tới là ngóng là chờ. Chăm chút vậy thôi. Bà cũng có phần trăn trở riêng mình. Vẫn biết rằng Chúa thương cho bà sống đến ngày hôm nay nhưng bà vẫn chưa sẵn sàng ra đi khi Chúa gọi vì bà mong được ở bên những người thân yêu càng lâu càng tốt, nhất là bên cô con gái út bệnh tật.


    Có đàn có đôi. Thiên Nga muôn đời là thế!


    Orchid Thanh Lê



    * Chú thích của người viết: “ngụy thức”, “kích đêm”, “ẩn tế” là thuật ngữ dùng trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.





 

 

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 12-06-2014, 04:52 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 03-09-2014, 04:46 PM
  3. Tình khúc dưới sao
    By Frank in forum Âm Nhạc
    Replies: 0
    Last Post: 07-25-2013, 08:30 AM
  4. khói ở trên trời
    By k h ó i in forum Tùy Bút
    Replies: 45
    Last Post: 03-13-2012, 12:34 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 12:09 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh