Register
Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 26
  1. #11
    Biệt Thự Triển's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    27,367
    Quote Originally Posted by khúc dương View Post
    Tại sao Sắc không khác Không, Không không khác Sắc.
    Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như vậy?


    Đã nói cái Có (ngũ uẩn) là do cái Không mà ra, thì Không là căn bản, là nguồn cội, là bản thể của cái Có.

    Không có cái "Không" thì không có cái "Có". Có cái "Có" là vì có cái "Không".
    5 Triển gạt giò anh Khúc Dương phần 1:

    => Cái KHÔNG không thật sự có, thì làm sao là bản thể của cái CÓ?
    Một cái giả lập (CÓ) thành lập, xây dựng trên một cái giả lập khác (KHÔNG) kết quả là sự không thành thật chăng?


    Ví dụ:
    5 Triển mơ mộng là tổng thống (Không phải tổng thống thật, ba xạo thôi, cái KHÔNG thiệt bự),
    5 Triển phang đại là tổng thống nước Cộng Hòa Nổ Chết Người.
    Anh Khúc Dương thình kinh đi ngang Cộng Hòa Nổ Chết Người quốc, tổng thống quốc gia này là 5 Triển ký cho cái văn thư đã có đi ngang đây, có chữ ký hẳn hòi và con dấu tổng thống chế ra (CÓ, cái CÓ hẳn hòi xây trên cái KHÔNG tưởng tượng). Anh Khúc Dương đi tiếp và đi đến đâu cũng khoe có chứng từ (CÓ) do tổng thống 5 Triển (tự phong, giả lập, KHÔNG có) của nước Cộng Hòa Nổ Chết Người (giả lập, cái KHÔNG) cấp cho.
    Tờ chứng từ quả thật cầm trên tay (CÓ, giấy trắng mực đen, sờ mó vật lý hẳn hòi), con dấu đóng lên cũng là mực lem vật lý rõ ràng, nhưng tổng thống là chức ba xạo, nước Cộng Hòa Nổ Chết Người cũng là mộng tưởng, không có trên bản đồ, phạm vi chỉ là dốc láo ở ngã ba cây ngò thôi. Vậy thì cái CÓ kia là "ngụy dẫn", vì đặt trên nền tảng KHÔNG CÓ, không còn giá trị nữa. Nói chung là cái chứng từ của anh Khúc Dương là 'hàng nhái', 'bằng giả'.

    Cái KHÔNG của ví dụ trên có thật là bản chất của cái CÓ trong ví dụ bên trên hay không, khi cái KHÔNG được gọi là "căn bản" đó lại không thật CÓ? Suy ra là có hay không có cái KHÔNG, cũng sẽ không có cái CÓ khi cái KHÔNG đó không thật CÓ. Rồi, rối loạn chưa? hahahaha





    Quote Originally Posted by khúc dương View Post
    Phàm phu cho sóng là sóng, là một vật riêng biệt và Thực Có, không dè nó là một bóng dáng, một cái gì giả dối nhất thời. Tuy nhiên toàn những cái giả dối ấy đều là nước, vì sóng không khác với nước, cũng như Sắc bất dị Không.

    5 Triển gạt giò anh Khúc Dương phần 2:

    Sóng là hiện tượng, trong vật lý để chứng minh có sóng, chỉ cần để một thau nước, lấy cái quạt máy chỉa vào thổi. Sức gió đánh vào nước tạo nên sóng. Sóng có thật vì có thể lặp đi lặp lại (reproduction). Hiện tượng vật lý nào có thể chứng minh được sự hiện hữu lặp đi lặp lại thì gọi là CÓ. Sự nhấp nhô ấy gọi là sóng, chứ không phải nước. Sóng là tình trạng nhấp nhô của nước khi có gió, nước để không, không có nhấp nhô không gọi là sóng. Đây là hai trạng thái lỏng khác nhau. Một cái nhấp nhô có chiều cao vật lý, có amplitude, một cái phẳng lặng không nhấp nhô.

    Tuy nhiên quy sóng về nước, vì nói cả hai đều là nước cũng sai. Vì nước cũng chỉ là một trạng thái trong vòng tuần hoàn ở thể lỏng. Khi gia tăng nhiệt độ môi trường, nước bốc hơi mất đất, không còn ở thể lỏng nữa, nên người ta mới gọi là 'hơi nước'.

    Cho nên nói sóng không thật, là giả dối, vì sóng là nước, thì nước không thật vi không vĩnh cửu, giả dối cấp tám luôn, vì chỉ cần để cái nồi nước lên bếp, đun 3 sôi 2 lạnh là thể tích lỏng le đó một chập bay mất tiêu, biến thành hơi nước mất rồi, do đó nước cũng không thật luôn.

    Hơi nước bay lên, học sinh lớp 4 bảo, ơ hơ chạy lên đỉnh Hy Mã Lạp Nhạp mà xem, hơi nước tụ thành mây, lại rơi xuống thành tuyết. Vậy hơi nước cũng không thật vì không vĩnh cửu, mới gặp lạnh thôi là sốt rét rồi, thành thể rắn rồi.
    Hoa tuyết rơi linh tinh xuống đất chất đống, dồn cục lại thành băng đá, lại là một dạng thể vật lý khác nữa. Vậy rốt cuộc tuyết là cái gì? Băng đá gặp mùa hè đến thì lại tan thành nước, chảy ra sông, ra biển, ngấm xuống đất. Vậy băng đá cũng chỉ là một trạng thái mang tính cách giai đoạn, không bền vững, nghĩa là cũng không thật nốt. Vậy thì rốt cuộc trong cái vòng tuân hoàn này có cái gì thật không?

    Không có cái nào thật hết, vì chẳng có cái nào vĩnh cửu. Nếu không có cái nào thật, thì chứng minh phản chứng, là thuyết KHÔNG ban đầu cũng không thật nốt. Bởi vì sao dám nói Sóng là giả dối, khi Nước cũng chỉ là giả lập mà thành?

    Gạt giò anh Khúc Dương chơi cho vui thôi. Cách giải thích "tánh không" của anh Khúc Dương rất dễ kê cẳng ngỗng.
    Last edited by Triển; 05-17-2015 at 12:50 AM.

  2. #12
    Xét đến bốn uẩn khác là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cái lý cũng như vậy. Tại sao ? Tại vì có thân là Sắc, mới có cảm giác, tư tưởng, lo nghĩ và hay biết. Nay thân (Sắc) đã Không thì bốn cái tuỳ thuộc kia của thân làm gì chẳng Không luôn? Bởi vậy nên Kinh nói: Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

    Tìm hiểu câu: " Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng, bất sanh bất diệt..."

    Đối với Đàm Hư Đại sư, "Ngũ uẩn đương thể tức thị Chơn-không chi tướng".

    Ngũ uẩn ở đây thay cho "chư pháp": là muôn sự muôn vật. Theo lời giải này, thể của muôn sự muôn vật là tướng của Chơn-không, nghĩa là bóng dáng do Chơn-không làm cho hiện bày, chớ không phải là thực.

    Người phàm cho vạn vật có sanh có diệt, có dơ có sạch, có thêm có bớt, nhưng nay đã nói vạn vật là bóng dáng của Chơn-không, mà Chơn-không trước sau như một thì làm gì có sanh diệt?

    Vì vậy Đại sư bảo toàn câu kinh có nghĩa là: Tất cả vạn vật đều không sanh. Tất cả vạn vật đều không diệt. Tất cả vạn vật đều không dơ. Tất cả vạn vật đều không sạch. Tất cả vạn vật đều không thêm. Tất cả vạn vật đều không bớt. Sự thật, sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt đều là những danh từ đối đãi, do chỗ so sánh mà hư tạo ra thôi.

    Để kết thúc, Đại sư nói: "Thể của ngũ uẩn là Không, mà ngũ uẩn là chỉ tất cả muôn vật (chư pháp), vậy trong muôn vật, không vật nào là không phải tướng của Chơn-không. Đã là tướng của Chơn-không thì cũng như Chơn-không, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Nói cách khác, cái tướng Không của vạn vật đương nhiên là không sanh không diệt.Cứ như trên thì vạn vật, tuy có bề ngoài vật chất, uế trược, nhưng bề trong là Thực tướng, là Chơn không, là Chơn tâm, là Phật tánh, tức là cái gì hết sức thiêng liêng, trong sáng, thường còn, bất biến.

    Nay xin lấy điện-khí thí dụ cho Thể (tức Thực tướng) vá ánh sáng của một ngọn đèn điện thí dụ cho Tướng (tức Ngũ uẩn, Giả tướng). Khi ta bật cái chốt, đèn cháy, sanh ra ánh sáng; khi ta khoá, đèn tắt, ánh sáng diệt. Nhưng dù ta mở, ta đóng, điện nằm trong dây, vẫn trước sau như một, không sanh không diệt, không thêm không bớt. Vậy nếu chúng ta cứ chỉ thấy bề ngoài là ánh sáng, thì ắt thấy có sanh có diệt đối đãi nhau, nhưng nếu chúng ta thấy được cái sự thực bề trong, tức là cái thể của ánh sáng là điện, thì không có sanh, không có diệt.

    Cái thân tâm ngũ uẩn của chúng ta đây cũng như ánh sáng đèn kia. Ánh sáng đèn do cái Thể điện là hiện tướng, thì thân tâm ta cũng do cái Chơn thể mà hiện Tướng. Chơn thể là Diệu-hữu Chơn-không, là Chơn tâm, là Phật tánh, là Pháp thân... không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Vậy đứng trên phương diện bản thể mà soi xét thì thân ta giả sanh giả diệt, chứ không có thực sanh, thực diệt, cũng như ánh đèn kia, khi cái Thể (điện) hiện, thì có cái giả tướng sáng, khi không điện, thì có cái giả tướng tối.

    Thấy được vật chất là hiện tướng của Thực-tướng là tự nhận mình không phải phàm phu, là tự thấy mình là sư tử, nhất định không làm cừu mà quyết sống đại hùng, đại lực.

    Quý biết bao!
    Hồi đầu thị ngạn

  3. #13
    5. Tìm hiểu câu quyết đoán thứ năm : " Thị cố không trung vô sắc, vô thọ...diệc vô đắc"

    Vì câu kinh gồm nhiều đoạn khác nhau về phần ý, chúng tôi xin đề nghị lối phân tích như sau:

    A/ Phá Ngã chấp :

    Đoạn a): Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức.

    B/ Phá Pháp chấp :

    Đoạn b: "Thị cố, không trung vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới" (thế gian pháp)

    Đoạn c): "Thị cố, không trung vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí, diệc vô đắc" (xuất thế gian pháp).

    Toàn câu có nghĩa như sau: " Bởi cớ trong "Không" không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình sắc, không có tiếng tăm, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới cho tới ý thức giới, không có cái vô minh cũng không có cái hết vô minh, dẫn đến không già, chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc" .

    Phá Pháp chấp: Vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.

    Đoạn này có nghĩa như sau: Bởi cớ trong "Không" không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình sắc, tiếng tăm, không hương, không vị, không xúc, không pháp; không có cảnh giới của cái biết bằng mắt, cho đến cảnh giới của cái biết bằng ý cũng không.

    Một vài nhận xét:

    1. Về danh từ Nhãn giới : Trong kinh nói tắt là "Nhãn giới". Muốn nói cho đúng và đủ, phải nói "Nhãn thức giới". Vì lẽ này chúng tôi đã dịch: Cảnh giới của cái biết bằng mắt. Chúng ta có tất cả sáu lối nhận biết là: bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Mỗi lối có một cảnh giới riêng.

    2. Về đoạn: "Nãi chí vô ý thức giới".
    Đã nói rằng: Mỗi lối biết có một cảnh giới riêng, thì lẽ ra kinh phải kể cho đủ là Nhãn thức giới, Nhĩ thức giới, Tỹ thức giới, Thiệt thức giới, Thân thức giới, Ý thức giới. Nhưng kể như vậy thì quá dài, nên kinh nói tắt: từ Nhãn thức giới dĩ chí Ý thức giới.

    3. Về chữ "Giới" chúng tôi dịch là Cảnh giới, theo Hán Việt từ điễn của Đào Duy Anh. Tiếng Pháp là "Domaine" cũng có thể dịch là lãnh thổ, địa hạt.

    4. Về danh từ Căn, Trần, Thức:
    Căn chỉ Ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và Ý là quan thứ sáu. Chữ Căn đây tương đương với chữ "cơ quan".

    Trần nghĩa thiệt là bụi, chỉ những cái gì làm mờ gương lòng con người. Những cái ấy không gì lạ hơn là vạn vật trong trời đất, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, mà Phật Giáo bao gồm trong danh từ "Sắc". Chữ Sắc này rộng nghĩa hơn chữ Sắc trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Sắc gồm có ba loại:

    a) Loại tiếp xúc và thấy được (khả đối khả kiến). Đó là những hình dáng và màu sắc có thể dùng mắt mà tiếp xúc và nhìn thấy, tóm lại là tất cả những gì hoàn toàn vật chất. Tên chung của loại Sắc khả đối khả kiến nầy là chữ Sắc trong ngũ uẩn.

    b/ Loại tiếp xúc được mà không thấy được ( khả đối bất khả kiến). Tức là âm thanh, các thứ mùi, các thứ vị, các thứ cảm giác.

    c) Là loại không tiếp xúc được mà cũng không thấy được (bất khả đối bất khả kiến). Đây là những hình sắc, mùi vị, cảm giác mà chúng ta cảm thấy và hưởng thọ trong thâm tâm, lắm khi không cần có ngoại cảnh làm động lực, như khi ta tưởng tượng và do tâm phân biệt mà có.

    Bây giờ đến chữ Thức.
    Last edited by khúc dương; 07-21-2015 at 09:51 PM.
    Hồi đầu thị ngạn

  4. #14
    Bây giờ đến chữ Thức.

    Thức nghĩa là biết, có những cái biết bằng mắt, gọi là "thấy", có những cái biết bằng tai, gọi là "nghe", mà thấy thuộc nhãn, nghe thuộc nhĩ, nên Phật giáo gọi những cái biết này theo tên riêng của mỗi căn, như nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

    Căn, Trần, Thức hợp lại thành toàn thể vũ trụ sắc pháp, hay thế gian pháp, tức là thế giới của hiện tượng, như chúng ta sẽ thấy sau đây :

    Chúng ta hãy lấy con mắt mà nói trước, tức là nói về nhãn căn. Hiểu được việc của con mắt sẽ hiểu được việc của năm căn kia.

    Mắt để làm gì? Để thấy. Thấy gì? Thấy những vật gì có hình dáng, có màu sắc. Vậy con mắt chỉ hoạt động có hiệu quả trong cái giới của Sắc, và giới nầy là giới dành riêng cho mắt, không một căn nào khác xâm lấn được, đó là Nhãn giới, cảnh giới của cơ quan thấy. Những vật để cho mắt thấy (hình dáng, màu sắc) hợp thành một lãnh vực khác, một thế giới khác, đó là giới của những vật bị thấy hay để cho thấy.

    Có thấy được (như không đui chẳng hạn) và có vật bị thấy, lẽ cố nhiên phải nảy sanh ra một cái biết thuộc về loại thấy. Đó là Nhãn thức. Tất cả những cái biết về loại nầy hợp thành thế giới của những sự biết bằng mắt, gọi là Nhãn Thức Giới.

    Vậy cái Thấy có ba giới :

    Một thuộc căn : Nhãn giới
    Một thuộc trần : Sắc giới
    Một thuộc thức : Nhãn thức giới

    Mấy cái khác (nghe, ngửi, nếm....) cũng có ba giới như thế, ví dụ về nghe:

    Một giới thuộc căn: Nhĩ giới
    Một giới thuộc trần: Thanh giới
    Một giới thuộc thức: Nhĩ thức giới

    Để dễ nhận, xin xem bãng sau đây :

    Sáu giới của Căn:
    Nhãn giới
    Nhĩ giới
    Tỹ giới
    Thiệt giới
    Thân giới
    Ý giới

    Sáu giới của Trần :
    Sắc giới
    Thanh giới
    Hương giới
    Vị giới
    Xúc giới
    Pháp giới

    Sáu giới của Thức :
    Nhãn thức giới
    Nhĩ thức giới
    Tỹ thức giới
    Thiệt thức giới
    Thân thức giới
    Ý thức giới

    Cộng thành 18 giới, gồm 6 căn, 6 trần và 6 thức, như chúng ta thường nghe nói "thập bát giới".

    Mười tám giới nầy bao gồm vũ trụ, là toàn thể những gì mà chúng ta thấy biết được, nghe biết được, ngửi biết được, nếm biết được, sờ biết được và nhận được trong tâm ý.

    Nhưng ai cảm thấy biết, ai cảm thấy nghe...? Lại nữa cái gì gọi là "cảm thấy"?

    "Cảm thấy" là một cái gì do ba cái khác nhau tương phối, tương hợp mà thành.

    1. Có mắt mà không vật thì không thành cái thấy.
    2. Có vật mà không mắt thì không thành cái thấy.
    3. Có mắt, có vật, mà không có cái tánh thấy, thì cũng không thành cái thấy.

    Vậy phải có bộ ba nầy, cái thấy mới thành.

    Ở đoạn đầu, Kinh nói: "Sắc tức thị Không"

    Sắc là vật bị thấy đã là Không, thì mắt (nhãn căn) và nhãn thức cũng Không luôn, vì lẽ trong bộ ba nói trên, hễ một cái Không thì cả ba đều Không như nhau.

    Về câu hỏi: Ai thấy biết? Ai nghe biết? Xin trả lời: Con người, Ta, Thân tâm, Ngũ uẩn. Nhưng Ngũ uẩn đã bị cho là Không, như vậy khác nào cây trụ chánh đã bị ngã. Trụ đã ngã thì những gì do trụ ấy chống chỏi làm gì chẳng ngã theo. Đây là một lẽ do đó Kinh nói 18 giới hay vũ trụ đều là Vô, đều không có.

    Một lẽ nữa: Vũ trụ 18 giới thuộc thế gian pháp, tức là Tướng, còn Không là Thể.

    Tuy biết Tướng là do Thể biến hiện ra, nhưng trong Thể nhứt định không có Tướng nằm trong đó.

    Một lẽ thứ ba nữa, như ngài Minh Chánh thiền sư nói: "Tâm có sanh, pháp có sanh, nếu tâm diệt thì pháp cũng diệt". Nói cách khác, mọi sự mọi vật trên thế gian đều do tâm niệm của ta mà có hay không có.

    Hai người cùng đi đường. Lúc đến ngang một rạp hát bóng đang hát, một người biết đó là rạp "hát bóng" còn một người lại không hay biết gì hết. Đối với người trước, rạp hát đó là một vật Có, nhưng vật Có ấy lại Không Có đối với người thứ hai. Phải chăng tại người thứ hai không để tâm đến những cái gì đã báo cho anh thứ nhứt biết đó là một rạp hát bóng, nhưng anh thứ hai chưa chắc là người "không tâm". Có thể anh đang nghĩ tới một vật hay một việc khác, tâm anh lúc ấy không ở với anh mà nó đang theo đuổi một cảnh nào đó. Như thế thì 18 giới đâu có trong cái Không ấy (là cái Không của những Bồ tát quán tự tại).

    Để kết thúc đoạn nầy, chúng ta có thể nói: Theo Kinh dạy, một khi lòng đã lóng trong thì chỉ thấy cái Thể bề trong của vạn vật mà không thấy cái Tướng bề ngoài nữa. Cho nên dầu có nhà cao cửa đẹp, đàn ngọt hát hay đi nữa, những cái ấy hoàn toàn là "vô". Có "vô" như thế mới tự tại. Tới đây, chẳng những cái Thân tâm Ngũ uẩn đã chết mất với Bồ tát mà cả vũ trụ cũng chết luôn, tâm hồn sống trong cảnh vô vi, ngao du trong cảnh vô tận, thung dung tự tại như mây như gió. Đến đây cái say đắm sự vật ở thế gian đã bị đánh vỡ,cái "pháp chấp" bị phá tan. Nhưng "pháp" nầy chỉ mới là "thế gian pháp", còn một thứ pháp nữa là "Xuất thế gian pháp" cũng cần phá vỡ.

    Last edited by khúc dương; 07-21-2015 at 10:03 PM.
    Hồi đầu thị ngạn

  5. #15
    Phá Pháp Chấp:

    c) Đoạn Vô: "vô Vô-Minh, diệc vô Vô-Minh tận; nãi chí vô Lão Tử, diệc vô Lão Tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệc vô Đắc."

    Đoạn nầy có nghĩa:

    1. Không có "vô-minh" cũng không có cái "hết vô-minh", thậm chí cũng không có cái "già chết" cũng không có cái "hết già chết".
    2. Không có sự khổ, không có nguyên nhân của khổ, không có sự diệt khổ, không có con đường dẫn đến sự diệt khổ.
    3. Không có Trí Huệ cũng không có Được cái gì.

    Ở đây, Kinh đề cập đến ba tầng giáo pháp của Phật đã dạy, nếu theo đó mà tu hành thì sẽ có một nếp sống phi phàm, nếp sống của bậc Thánh. Vì vậy pháp nầy được gọi là " Xuất thế gian pháp".

    Sau đây là ba tầng giáo pháp ấy:

    1- Tứ Thánh Đế
    2- Thập Nhị Nhân Duyên
    3- Lục Độ

    I - Tứ Thánh Đế (Bốn chân lý về KHỔ)

    1- Sự khổ có ở thế gian (Khổ đế)
    2- Nguyên nhân của khổ (Tập đế)
    3- Sự diệt khổ (Diệt đế)
    4- Con đường diệt khổ (Đạo đế)

    Vậy câu kinh "Vô khổ, tập, diệt, đạo" là một lối nói tắt. Lẽ ra phải nói "Vô khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế" tức là "Vô Tứ Thánh Đế". Đúng hơn nữa, chúng ta phải trở lại đầu câu mà nói "Thị cố, không trung vô khổ đế, vô tập đế, vô diệt đế, vô đạo đế".

    Theo sự tin tưởng của các hàng đệ tử của Phật từ trước cho đến khi Phật nói Kinh Bát Nhã thì pháp Tứ Đế nầy là cỗ xe không thể rời bỏ được, nếu muốn đạt đến bốn ngôi vị thánh, gọi chung là Thanh Văn.

    Do đó mà pháp Tứ Đế còn có tên là "Thanh Văn Thừa". Chính Phật đã bắt đầu dạy những chân lý nầy nhưng nay Phật lại đánh đổ. Vì lẽ nào? Về sau chúng ta sẽ thấy.

    II - Mười hai Nhân Duyên:

    Một giáo pháp của Phật vạch chỉ 12 nguyên nhân làm cho chúng sanh kẹt mãi trong vòng sanh tử luân hồi không thoát khỏi.

    Mười hai nguyên nhân đó là:

    1. Vô minh (ngu muội)
    2. Hành (mê loạn tạo nghiệp)
    3. Thức (biết phân biệt)
    4. Danh sắc (tên gọi và hình tướng)
    5. Lục nhập (sáu đối tượng của sáu căn)
    6. Xúc (tiếp xúc)
    7. Thọ (cảm giác)
    8. Ái (ưa thích, khao khát)
    9. Thủ (nắm giữ, trìu mến)
    10. Hữu (có, làm người)
    11. Sanh
    12. Lão, tử (già chết)

    Lẽ ra Tâm Kinh phải nói đủ như thế nầy: Vô Vô-minh, vô Hành, vô Thức, vô Danh Sắc, ...cho đến số 12 là vô Lão, Tử. Nhưng Kinh lại nói tắt và chỉ lấy phần đầu và phần đuôi, là "Vô-minh" và "Lão, Tử" mà nói thôi.

    Cứ theo lời Phật dạy từ trước, ai hiểu và thực hành được giáo pháp "Thập Nhị Nhân Duyên" nầy, sẽ đạt đến một địa vị Thánh cao hơn bốn địa vị trước, gọi là Duyên Giác hay Độc Giác. Do đó mà giáo pháp nầy còn có tên là Duyên Giác Thừa.

    III - Lục Độ hay Lục Độ Ba La Mật:

    Đây là một phương pháp để độ mình, độ người, gồm có sáu điều cần phải tu tập như sau:

    1. Bố thí (cho, để trừ lòng tham)
    2. Trì giới (giữ giới, để trừ ô nhiễm)
    3. Nhẫn nhục (nhường nhịn, để trừ giận hờn)
    4. Tinh tấn (sốt sắng, để trừ lười biếng)
    5. Thiền định (chuyên chú, để trừ loạn tâm)
    6. Trí huệ (sáng suốt, để trừ ngu si)

    Chữ "Trí" trong câu "Vô Trí" chỉ phần thứ sáu, là "Trí Huệ" trong Lục Độ. Nhưng vì Trí Huệ là bước cuối cùng của pháp Lục Độ, vậy nói "Vô Trí" tức là nói "Vô Lục Độ" (không có Lục Độ). Lại nữa, theo sự hứa hẹn của Phật, ai hành trọn vẹn sáu phép tu nầy thì được sáng suốt của quả vị Phật. Vậy chữ "Đắc" trong câu "Vô đắc" là ý nói: Vô Phật quả khả đắc (không có cái quả của Phật phải cố được). Ở đây cũng như ở hai đoạn trước, Phật đả phá những gì Phật dạy, từ thuyết "Tứ Thánh Đế" cho đến thuyết "Lục Độ" ngang qua thuyết "Thập Nhị Nhân Duyên". Mà hễ phá những "Xuất thế gian pháp" nầy tức cũng phá luôn những kết quả mà Phật đã hứa với người tu hành là bốn bậc Thánh gồm chung gọi là Thanh Văn, và bậc chót tột cao là Bồ Tát.

    Tại sao có sự trái ngược như vậy ? Chúng ta hãy theo những kiến giải của chư Tổ mà thử tìm hiểu.

    * * *
    Hồi đầu thị ngạn

  6. #16
    Ai ở đời cũng cho rằng thân tâm Ngũ uẩn (ngã) là Có, và lấy cái "ta" làm trọng. Thân "ta" Có, thì những đối tượng của thân là vạn vật (thế gian pháp) cũng phải Có.

    Cho rằng có Ta, là chấp có Ngã (ngã chấp). Cho là có vạn vật là chấp có pháp (pháp chấp).

    Nay Kinh đã chỉ cho thấy "ngã" và "pháp" đều Không, thì ắt chúng ta không còn chấp ngã, chấp pháp nữa. Như thế là chúng ta bỏ con đường thế tục với tất cả những sai lầm bấy lâu. Nhưng Phật còn một điều ngại là nếu chúng ta không mê chấp việc đời, chúng ta sẽ lại mê chấp việc đạo, cho những gì nói trong ba tầng giáo pháp là thật có. Như nghe nói khổ, tưởng khổ là cái gì thật có, hay nghe nói vô-minh, tưởng vô-minh là cái gì thật có, hay nghe nói Trí huệ phải tu, Phật quả phải được, rồi cũng tưởng Trí huệ và Phật quả là những gì thật có.

    Vì tiên đoán như thế nên Phật phá luôn những cái chấp của người tu hành, tức là phá cái chấp về "Xuất thế gian pháp".

    Khi đã tưởng khổ là thật có, thì phải lầm tưởng luôn sự diệt khổ là thật có, y như việc muốn hết bị cọp ăn (khổ) thì phải giết cọp (diệt); hễ lầm tưởng Vô-minh là thật có, thì phải lầm tưởng luôn là phải chấm dứt Vô-minh (Vô-minh tận); hễ lầm tưởng Trí huệ là thật có, thì phải lầm tưởng luôn là có thể một ngày kia sẽ nắm lấy cái Trí huệ; hễ lầm tưởng Phật quả là một cái gì thật có, ắt phải lầm tưởng luôn rằng đó là một cái gì mình sẽ thu thập được (đắc).

    Lầm tưởng như thế là bịnh của người đang di (hành giả) trên con đường "xuất thế gian", tức hạng tu hành cầu giác ngộ, giải thoát, nhưng chưa đi đến chổ cuối cùng.

    Chổ cuối cùng ở đâu? Ở mức "hành thâm Bát Nhã Ba La Mật", ở cái phút mà trong thân tâm trống rỗng và vắng lặng hoàn toàn, bỗng một ánh sáng huy hoàng bộc phát làm cho con người thấy rằng:

    Khổ, Tập, Diệt, Đạo chỉ là giả danh.
    Mười hai Nhân Duyên chỉ là giải danh.
    Trí huệ, Phật quả chỉ là giả danh.

    Tất cả những pháp ấy đều là danh từ, không có gì là thực tế, và những niệm do những danh từ ấy tạo ra trong tâm não ta đều là nguỵ tạo, là giả, do đối đãi mà lập ra.

    Chúng ta thử xét từng pháp một, coi giả dối chổ nào.
    Hồi đầu thị ngạn

  7. #17

    I/ Về Tứ Thánh Đế:

    Phải chăng vì chúng ta cho có thân là có khổ, nên đối lại Phật mới chỉ cho phương Diệt khổ, là thuyết Tứ Đế? Nay nếu chúng ta sống với chơn tánh trong chơn tánh (tức chơn không), mà không sống với thân và trong thân, thì thân dầu Có, đối với chúng ta, vẫn Không; và cái khổ do thân cảm thọ cũng tiêu mất. Huống chi khổ là cái gì? Nó có thực thể không? Xin trả lời là Không!

    Cái gì không xứng ý vừa lòng, không thích với xác thịt, nói tóm là nghịch với sở thích của Ngũ uẩn thì chúng ta gọi là khổ chứ cái "khổ thật" không có. Nếu cay, đắng, là khổ, cớ sao có người thích ăn ớt, uống rượu, và có ớt có rượu mới sung sướng ? Nếu nói danh lợi đem hạnh phúc đến cho con người, làm cho con người sung sướng, cớ sao có người ngậm danh lợi như ngậm bồ hòn ? Vậy khổ là cái gì do lòng say đắm, tối tăm, do vọng tưởng mê hoặc của con người sống vì vật chất tạo ra, nó không thực có và nhứt là nó "không có" trong lòng người đã tỉnh ngộ, trong những tâm hồn trong sạch, sáng suốt triệt để, tức là chơn không.

    Vậy đứng về cái góc chơn không tuyệt đối mà nhìn, rõ ràng không có khổ. Không có khổ thì không có nguyên nhân của khổ (tập), không có phương pháp diệt khổ (diệt), không có con đường diệt khổ (đạo).

    Do đó mà Kinh nói: "Thị cố, không-trung vô khổ, tập, diệt, đạo".
    Last edited by khúc dương; 06-25-2015 at 12:43 AM.
    Hồi đầu thị ngạn

  8. #18
    II/ Về Mười hai Nhân Duyên:

    Chấp pháp Tứ Đế đã bị phá, nay tới pháp "Mười hai Nhân Duyên".

    Theo thứ tự đã ghi ở phía trước thì tuỳ Vô-minh mà có Hành, tuỳ Hành mà có Thức, mà có lục nhập ...rốt hết tuỳ Sanh mà có Lão, Tử. Vậy nguyên nhân xa nhứt và xác thực nhứt của "già, chết" là Vô-minh. Trừ được cái khoen đầu tiên nầy thì tất cả sợi dây chuyền Nhân Duyên phải vỡ theo.

    Nhưng Vô-minh là gì? Vô minh chỉ là một giả danh như chúng ta sẽ thấy trong lời nói sau đây của Minh Chánh Thiền sư.

    "Không nhận, không biết, không hiểu rõ chân lý tuyệt đối thì gọi là vô-minh; để cho năm uẩn che đậy gọi là vô-minh; bị tham, sân, si, phiền não, làm chướng ngại nặng nề gọi là vô-minh; say sưa dính dấp với sáu trần, năm dục của thế gian gọi là vô-minh... Vậy không có cái gì thật sự là vô-minh, mà chỉ có những trạng thái mê mờ của tâm hồn, của trí huệ". Vô minh đã không thật có, thì làm gì có cái việc gọi là làm cho vô-minh tiêu mất hay làm cho "hết vô-minh" (vô-minh tận)? Vô-minh là như thế thì những cái khoen nối tiếp là hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão, tử cũng như thế cả, nghĩa là không có thực, và vì vậy mà cũng không có cái việc gọi là làm cho hết hành, hết thức và hết lão, tử (lão tử tận).

    Để kết thúc đoạn trên, nên nói rằng pháp Mười hai Nhân Duyên cũng như pháp Tứ Đế là những phương thuốc mà Phật quyền biến chế ra để, trong tương đối, trị chứng mê lầm, lấy giả làm thật của chúng sanh.

    Vì chúng sanh chưa sáng mắt, chưa có Bát Nhã, chưa được quán tự tại, cho nên còn thấy có vui buồn, sướng khổ, sanh tử, là những cái đối đãi. Phật nương theo đó mà dạy rằng nguyên nhân căn bản của dòng sống đau khổ, sanh, già, bệnh, chết là vô-minh. Phải cạn nguồn vô-minh nầy, dòng sống kia mới dứt, mới tận. Nhưng làm sao tát cạn nguồn ấy? Chỉ đừng vô-minh nữa. Mà muốn không vô-minh nữa thì phải hết say đắm.

    Hết say đắm gọi là người sáng suốt.
    Người sáng suốt là người hết vô-minh.
    Hồi đầu thị ngạn

  9. #19
    III/ Về Lục Độ:

    Vậy cái Trí Huệ mà người tu Lục Độ phải đạt đến ở mức cuối cùng, là một giả danh, và không có cái gì là "thật Trí huệ". Cũng thế, cái gọi là "được thành Phật" (đắc Phật quả) là một giả danh khác trong vòng tương đối, vì lẽ chấp có chúng sanh mê muội đau khổ, nên phải có cái chấp đối lại là có Phật sáng suốt an vui. Tóm lại, trọn đoạn kinh từ "Vô Vô-minh"... cho đến "vô Trí diệc vô Đắc" có nghĩa là:
    Trong chơn không, trong sự thật, trong tuyệt đối, không có những cái gọi là Tứ Đế, Mười hai Nhân Duyên, Lục Độ, cũng không có cái Trí huệ phải tu, Phật quả phải được.

    Những pháp nầy là những giả danh, những ảo tưởng để đối trị những ảo tưởng nghịch lại. Đối với ai còn sống trong vòng mê muội tương đối, những pháp tương đối nầy rất cần, chẳng khác người lặn hụp dưới nước thì cần có phao, có thuyền. Nhưng ở đây Kinh đưa chúng ta sang một thế giới khác, thế giới của chơn không, của thực tướng, của tuyệt đối, trong ấy không có gì cả. Do đó mà những bậc đã thấy chơn không, sống trong cái Thể mà không thấy Tướng, không còn nói đến kinh sách mà cũng không còn biện luận bàn cải gì nữa, như người đã lên bờ không còn cần đến thuyền phao....

    ***
    Hậu quả của sự phá chấp:

    I. Dĩ vô sở đắc, cố Bồ đề tát đoả y Bát nhã Ba la mật đa, cố tâm vô quái ngại.

    Muốn hiểu rõ phần nầy, cần định nghĩa danh từ "quái ngại".

    Quái ngại là trở ngại, ngăn ngại. Tâm không có điều ngăn ngại là không còn chia ra có kẻ oán người thân, không còn bị cái tướng bề ngoài của vạn vật làm cho bị lầm.

    Tâm ta có thể ví như nước ở sông. Thể của vũ trụ có thể ví như nước ngoài biển. Nước với nước lẽ ra phải lưu thông với nhau, nhưng vì "tâm nước sông" của ta bị cái đê "Ngũ uẩn" ngăn trở, chia cách với cái "thể nước biển", cho nên nước sông phải sống đời sống nhỏ hẹp, dơ bẩn, không được tự do tự tại, không được to lớn và trong sạch như đời sống của nước biển.

    Người có "tâm vô sở đắc" là người đã trở về với đời sống của nước biển. Biết mình là biển rộng bao la chứ không phải là con sông nhỏ hẹp. Mà biết được như thế là vì đã phá tan cái đê Ngũ uẩn chia cách ngăn trở làm cho cứ tưởng lầm rằng Tướng là thật có, không dè đó là cảnh chiêm bao, là những hình ảnh trên màn bạc. Chẳng những thế, còn cho "tướng" là mình, rồi vì thấy tướng của mình và tướng của các loài chúng sanh khác nhau khiến cho sự chia cách, ngăn ngại càng dày chặt và chi chít hơn nữa. Điều quan trọng nhất là thấy mình là chúng sanh bất tịnh, khác với Phật thanh tịnh, tưởng chúng sanh và Phật khác nhau. Vì vậy mong được thành Phật, không dè chúng sanh bản nguyên là Phật, cũng như tằm kia bản sanh là bướm.

    Hồi đầu thị ngạn

  10. #20
    II. Vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đão, mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

    Ở đây cũng cần giải thích một số chữ:

    Khủng bố: là sợ hãi. Có bốn thứ lo sợ cho bốn hạng người:

    1. Phàm phu thì sợ chết vì mê chấp sắc thân (xác thịt) là mình, nên sợ xác tan là mình mất.

    2. Hàng Thanh Văn thì sợ cái khổ khi làm người, vì chấp Khổ là có thật, Tam giới, Lục đạo, Sanh, Lão, Bệnh, Tử là có thật.

    3. Hàng Duyên Giác thì sợ khó đoạn phiền não, khó dứt trừ Vô-minh, vì mê chấp cho rằng Mười hai Nhân Duyên là thật có như bánh xe lăn.

    4. Hàng mới phát tâm Bồ tát thì sợ không thành Phật, vì còn chấp chúng sanh là riêng, Phật là riêng, mà chúng sanh thì đông vô số kể, làm sao độ cho hết để mình thành Phật ?

    Tóm lại, kẻ ngu cũng như người mới phát trí huệ đều lo sợ không đúng, chỉ vì một nguyên nhân duy nhất là không thấy vạn vật ở cái Thể của chúng, mà lại thấy ở Tướng.

    Viễn ly: là xa lìa. Đây là một lối nói, chứ thực ra còn xa lìa gì nữa, trong khi tất cả đều bị lên án là "Không"! Vậy nên hiểu: lúc nào mà ta không còn để cho "Mộng cảnh phiền não" làm cho ta lầm thì nói được là ta đã "Viễn ly".

    Điên đảo: là đảo lộn giá trị của mọi vật.

    Có bốn thứ điên đảo:

    1. Trong chổ không trong sạch lại cho trong sạch.

    2. Trong cái khổ lại cho là vui.

    3. Trong cái không thường còn, lại cho là có thường còn.

    4. Trong cái "vô ngã" lại thấy có "ngã".

    Lấy dơ làm sạch, lấy khổ làm sướng, lấy vô thường làm thường, lấy vô ngã làm ngã, như thế không phải là đảo lộn giá trị sự vật sao ?

    Mộng tưởng: Mộng là chiêm bao, là những cảnh thấy trong giấc ngủ, do ý thức tạo ra. Tưởng là ngầm nhớ, ngầm thấy hình tượng. Đây ám chỉ cảnh thế gian là cảnh ảo vọng, chẳng khác cảnh ta thấy trong chiêm bao.

    Cứu cánh: Cuối cùng.

    Niết bàn: có nghĩa là tắt dứt tất cả phiền não, mê hoặc, hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại. Vậy toàn phần nầy có nghĩa là: "Vì lòng không còn bị ngăn ngại nên hết lo sợ, không còn đảo lộn giá trị sự vật, không còn mê chấp như người nằm mộng cho nên rốt cuộc đến chỗ hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại".

    Nghĩa Niết bàn là vậy. Niết bàn không phải là một cảnh giới như nhiều người lầm tưởng, mà chỉ là một danh từ tạm dùng để diễn tả cái ý nầy. Ai được hoàn toàn giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế tình, hoàn toàn sáng suốt, không còn một mảy may mê lầm, hoàn toàn biết mình là thiêng liêng và sống trong thiêng liêng, không còn lầm nhận mình là vật chất và sống trong vật chất, ai được như thế thì gọi người ấy là "được Niết bàn".

    Vậy rõ ràng Niết bàn không phải là một cái gì thật có mà ta phải cố thu thập cho được. Nói cách khác, đó không phải là một kết quả của những nỗ lực tích cực mà là của những cố gắng tiêu cực. Ý muốn nói như thế nầy: Ở đời, muốn giàu phải cố làm ra tiền hằng ngày. Vậy mọi nỗ lực hằng ngày là một nỗ lực tích cực. Không làm là không có tiền, mà không tiền thì không giàu.

    Trong đạo không phải như vậy. Chỉ đừng làm là được như ý. Đừng làm gì ? Đừng lấy Ngũ uẩn làm thật có, đừng lấy vạn vật, vũ trụ làm thật có, đừng để tâm mình bị ngăn che, đừng lo sợ hảo huyền, đừng sống mơ mộng, đừng nghĩ tưởng xằng bậy, đừng đảo lộn giá trị của sự vật như lấy khổ làm vui, lấy nhơ làm sạch v.v... chỉ làm những việc phá trừ, chỉ nỗ lực tiêu cực như thế là được ba cái mà Kinh sách gọi là "ba đức" của Niết bàn là Giải thoát, Bát nhã và Pháp thân, mà tôi đã dịch là: hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn tự tại.

    Để kết luận đoạn nầy, xin nhắc lại câu của Minh Chánh Thiền sư : "Người tu hành, nhờ cái sáng suốt triệt để, soi thấy trước sau đều là trống rỗng và vắng lặng, không có một vật gì là thật có hết, chẳng khác nào người vừa chợt tỉnh giấc chiêm bao. Sự vật trong giấc chiêm bao đã là những sự vật không thể nắm lấy được thì sự vật ở đời cũng thế, toàn là cảnh giới do mình điên đảo mơ hồ mà tạo ra. Biết được vậy ắt không còn theo đuổi những ý nghĩ mong muốn ngông cuồng, như thế gọi là xa lìa. Bởi xa lìa mọi nghiệp mê lầm, sống trong chơn không luôn luôn thường còn vắng lặng, nên nói : cuối cùng là Niết bàn".
    Hồi đầu thị ngạn

 

 

Similar Threads

  1. Dịch Cân Kinh
    By hienchanh tran in forum Sức Khoẻ/Sắc Đẹp
    Replies: 1
    Last Post: 01-08-2015, 06:39 PM
  2. Yếu Tố Thành Công Của Một Chiến Dịch
    By ngocdam66 in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 03-18-2012, 09:04 PM
  3. ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM VÀ NỖI KINH HOÀNG thái san
    By ttv2007 in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 0
    Last Post: 03-16-2012, 12:31 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:52 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh