Results 91 to 100 of 439
Thread: Theo dấu thời gian ...
-
02-04-2016, 05:53 AM #91
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 862
Chuyện xưa tích cũ ...ngày về
Cũng nhờ nhành hoa mộc của của anh Nam mang từ chùa Cầu Đông đã dẫn đưa tôi về với chuyện tình của Tú Uyên và Giáng Kiều.
Có phải anh Nam đã khéo léo kéo tôi về nơi đó vì anh cũng rất yêu thích chuyện thần tiên như tôi thuở bé. Tôi biết không chỉ riêng tôi hay anh Nam, mà tất cả chúng ta, ai cũng thích những chuyện cổ tích, chuyện của ngày xửa, ngày xưa...do ông bà kể lại vào những đêm trăng, những ngày tháng êm đềm xưa cũ...
Nói đến chùa Cầu Đông là nói đến chuyện Bích Câu Kỳ Ngộ của Việt Nam ta và chuyện tình đẹp và thơ của chàng công tử Tú Uyên và người đẹp trong tranh Giáng Kiều nơi đất Bích Câu, mà chùa Cầu Đông là nơi chàng thấy bức tranh với hình tố nữ đó.
Câu chuyện bằng thơ mà tôi đã học vào năm đầu của thời trung học. Tôi vẫn không nghĩ chuyện là có thật và nó chỉ là cổ tích như muôn ngàn cổ tích khác mà thôi. Có thể vì lúc đó tôi vẫn nghĩ Hà Nội là đất không chung trời và cách nhau mấy ngàn đời rồi.
Giáng Kiều trên giấy hoa tiên
Vướng vòng tục lụy để duyên hồng trần
Cùng Sinh trao gởi phận thân
Nào hay chẳng Tú Uyên Trần dễ duôi
Rượu chè chàng bỗng sặc mùi
Nàng buồn về núi cho người ăn năn
Ngẫm đời như áng phù vân
Giúp nhau tu luyện để gần thánh tiên...
( Thảo Hiền )
Vì khi sanh ra và lớn lên, tôi chỉ được nghe nói đến tên Hà Nội gắn liền với chế độ mà ai cũng sợ hãi, bỏ chạy và là đất của chết chóc, hãi hùng. Còn Thăng Long chỉ là tên của miền kinh đô trong sách sử vào ngàn năm trước đã không còn hiện diện ngoài đời nữa. Hai nơi đó, một nơi là cấm địa, một nơi đã mất lối, quên tên...
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
( Thăng Long thành hoài cổ, BÀ Huyện Thanh Quan )
Nhưng khi ra đất ngàn năm xưa cũ này rồi, thì hầu như chỗ nào cũng đều là dấu vết hay di tích lịch sử lần lượt hiện ra và bủa vây quanh tôi.
Từ cái tên mới của Thăng Long được sửa thành tên gọi Hà Nội từ đời vua Gia Long, đến hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm và Tháp Rùa hay chùa Một Cột và trường đại học đầu tiên của nước nhà vào ngàn năm trước là Quốc Tử Giám với đền thờ Khổng Thánh và các vua quan ta còn đó.
Từ tên ông quan thanh liêm nổi tiếng sử sách, là Chu Văn An, dâng sớ xin vua chém đầu bảy nịnh thần mà tôi học trong giờ Sử khi xưa, giờ thấy tượng và bàn thờ ông uy nghi trong đền làm tôi rung động tâm mình.
Từ những bài thơ của Vua Lê thánh Tôn với Nhị Thập BÁt Tú của hội Tao Đàn, ngỡ chỉ là biết tên vị vua yêu văn thơ và qua vài bài thơ Đường như vịnh Cái Chổi, Bù Nhìn hay Miếu Vợ chàng Trương, không ngờ nay lại thấy chứng tích rõ ràng là những bia Tiến sĩ do vua kêu dựng kia hàng hàng ngay ngắn.
Tôi cứ ngờ ngợ như người mơ ngủ khi những câu thơ cứ vang vang trong đầu của vua Lê Thánh Tôn:
Lời chúa trao truyền xuống ngoc giai
Cho làm lệnh tướng quét trần ai
Ba phen vùng vẫy trời tung gió
Bốn cõi tung hoành đất sạch gai
( vịnh Cái Chổi )
và nhớ tới hình ảnh vị vua gần gũi với dân gian qua bài
VỊnh miếu vợ chàng Trương
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy đến nàng
( vịnh Miếu vợ chàng Trương)
Tôi đã bị nao núng trong lòng vì biết mình chưa chuẩn bị tinh thần gì cả. Quả là tôi đã về Thăng long như khách lạ phương xa rồi sao ?
Rồi cạnh bên ngai thờ vua Lê thánh Tôn, là vua LÝ thánh Tông, không lẽ bài thơ tôi thuộc lòng từ nhỏ là nói về lòng nhân từ của vị vua này ?
LÝ Thánh Tông ông vua nhân đức
Lòng thương dân tiếng nức sử xanh
Buổi kia vua dạo quanh thành
Thấy một xác chết xám xanh mặt mày
áo quần rách che thây không đủ
dãi gió sương nằm rũ bên đường
Ngậm ngùi vua động lòng thương
Cởi ngay áo ngự đắp chòang lên cho
Gương nhân đạo ngàn thu sáng tỏ
Người đời nên lấy đó soi chung
Giúp nhau những lúc khốn cùng
Thương nhau như thể tình chung một nhà...
( từ trong sách của VN xưa )
-------------------
( hình do anh Nam đưa lên )
Bia Tiến Sĩ:
Bảng ghi công 3 vua:
(Vua Lý Thánh Tông : Văn Miếu)
(Vua Lý Nhân Tông: Quốc Tử Giám)
(Vua Lê Thánh Tông: Bia Tiến Sĩ)Last edited by NganHa1; 02-05-2016 at 09:38 AM.
-
02-04-2016, 08:36 AM #92
Chùa Cầu Đông
Những ai đi từ hồ Hoàn Kiếm đến chợ Đồng Xuân đều đi qua Hàng Đào, Hàng Ngang rồi Hàng Đường. Mỗi đường chỉ có 1 hay 2 dẫy nhà. Hàng Đường là nơi có những tiệm bán mứt, bán ô mai, ...
sấu dầm
-
02-04-2016, 09:30 AM #93
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 862
Quành lại gõ tiếp....
------------
Quả sấu
Trời ơi anh Nam có phải đã giết người không dao kéo rồi không?. Hay anh đã có theo dõi và biết tôi đã rất muốn nếm thử xem trái sấu ra sao lần ra ngoài Hà Nội. Tôi đi ra Bắc với lòng nôn nóng muốn biết một thứ thôi là hương vị trái sấu. Vậy mà người đạp xích lô chỉ gợi ý với tôi về những thứ mà các du khách chỉ muốn thử: chả rươi Hà Nội.
Tôi đã cười nhẹ nhàng có chút ra cái điều nói với anh rằng tôi rất tiếc giờ đã ăn chay nhiều hơn ăn mặn, nên không còn thèm nước mắm rươi mà lần trước người quen ở trong quê Nam đã chưng và mang ra đãi chúng tôi. Tôi nhớ lần đó cóc tôi đã buộc lòng phải mở miệng hỏi về chén nước mắm đỏ au và thơm ngon tinh chất này. Tôi giờ vẫn còn cái cảm giác hạnh phúc với lần được ăn cá cháy là loại cá vùng nước lợ rất ngon, chấm với nước mắm rươi. Thật là tuyệt vời !!!
Còn về trái sấu, hay củ sấu gì đó. Tôi đã được nghe một người quen kể lại, anh ta nói rất thèm ăn trái sấu ở quê anh nên nếu có về Bắc, anh tìm những trái sấu đó.
Tôi chỉ nhìn anh, vẫn thờ ơ như người không để ý gì cho lắm, nhưng tôi thấy một tình cảm dịu dàng len nhẹ trong tim mình. Có lẽ tình yêu của người đất Bắc với một trái cây nào đó với cái tên lạ hoắc và chẳng đẹp như mơ hay đào, nhưng mộc mạc đã làm lay chuyển lòng tôi chăng.
Anh ta du học từ năm lên mười tám và đã yêu cô vợ tóc vàng mặt hiền và nhu hòa còn hơn cả người Việt mình.
Thỉnh thoảng cô gọi anh bằng hai tiếng " anh... oi" làm tôi ngỡ ngàng vài giây rồi chợt hiểu đó là hai chữ " anh ơi " cô gọi người chồng Việt hiền lành, văn nhã từ miền đất xa xôi tên gọi Thăng Long sang nước cô du học, đã làm cô yêu tha thiết và bất chấp tất cả gia đình để theo làm dâu nhà Việt Nam từ mấy chục năm rồi...
Vì một mối thương tâm nào đó, có lẽ vì đã một lần, anh đã ôm vai tôi từ giã trong một buổi tiệc làm tôi cũng thấy nao lòng. Có những thứ ta hoài đời mơ ước nhưng vẫn ngoài tầm tay, như tiếng Việt thân yêu, như những món ăn Việt mộc mạc, đơn sơ và dân giã mà ước ao hoài vẫn không nếm lại được như hương vị trái sấu.
Cho nên, lần về Hà Nội, tôi cũng cố ý dò xem trái sấu ra sao mà lại ngại ngùng mắc cỡ mà không dám nói cho ai biết. TÔi có nghe văng vằng tiếng rao mời trái sấu đây mà lại không dám hỏi han để nếm thử một lần xem sao.
Giờ đây, cũng lại anh Nam nhà mình, mang trái Sấu ra cho tôi xem cho kỹ, ăn "cách cảm", nói theo tiếng của bà bạn vong niên xưa. Nhưng có người vẫn thắc mắc, là thấy bạn bè trong phố lăng xăng mời ăn món này, thức kia với những tô bún riêu, bún bò, miếng bánh Tây bên tách trà nóng hay ly cà phê thơm ngát. HỌ hỏi thật sự người đọc có thưởng thức được gì không mà mời chứ ?
Tôi cũng đã tự hỏi và tự nghiệm ra câu trả lời là : CÓ, đôi khi còn đậm đà hơn cả ăn thật ngoài đời. Vì đó là tấm lòng thành, là những nụ cười thân mến chỉ muốn người đối diện được vui và thưởng thức tác phẩm từ lòng đam mê nghệ thuật nấu ăn mà những tay công ngôn dung hạnh cở Du Lan, Hương Xưa, Thoa, Tà áo Xanh, Lãng du và còn nhiều các anh chị trong phố...ưu ái tặng cho người ghé ngang bếp hồng. Cảm ơn những bàn tay ngọc...
Và cảm ơn một thau sấu dầm của anh Nam...
------------
Cảm ơn anh Nam đã xem lại giùm tôi và giúp dùm vài chi tiết cần thiết. Tôi sẽ sửa sau.
Quote : từ anh Nam:
"Hình như Tú Uyên mua tranh ở chợ Cầu Đông gần đó?
Chợ CĐ đã bị gộp vào chợ Đồng Xuân rồi.
Những ai đi từ hồ Hoàn Kiếm đến chợ Đồng Xuân đều đi qua Hàng Đào, Hàng Ngang rồi Hàng Đường. Mỗi đường chỉ có 1 hay 2 dẫy nhà. Hàng Đường là nơi có những tiệm bán mứt, bán ô mai, ... "
sấu dầm
[/left][/QUOTE]
( xin anh Nam ăn dùm ... thau sấu dùm ...m nhé ! hihihi ....)
Người miền Nam hay dùng chữ " trái", ai dè lại có sự phân biệt giữa trái và quả , nên không có trái sấu mà chỉ có " quả sấu", anh Nam lại không để trái hay quả gì dưới cái hình anh post mà chỉ để " sấu dầm", nên tôi cứ thật thà mà đề tựa là "trái sấu ". Anh Nam sửa lại nên tôi đổi là quả sấu cho đúng chữ của Bắc kỳ....Last edited by NganHa1; 02-05-2016 at 10:15 AM.
-
02-04-2016, 10:10 AM #94
Trời ơi sáng giờ HX vào mấy lần gõ về Sấu dầm lại đi ra không post ...
Tim đập rộn ràng từ lúc thấy Sấu dầm mà ... ấm ức .
Theo Dấu Thời Gian là nơi hiện bây giờ sáng nào HX cũng chờ đọc .
HX cám ơn chị Ngân Hà , anh Nam và anh Hai Việt đã cho HX những háo hức qua hình ảnh và bài viết .
Rất quý mến .
HX
PS I: HX sẽ tặng lại Hải Đường cho anh Nam , tuy không đẹp nhưng là Hải Đường HX tận mắt thấy , đụng tới và chụp .Nếu còn cảm xúc , HX sẽ " theo dấu thời gian " đưa anh chị em về " khung trời kỷ niệm " của miềnTrung yêu dấu , Huế và Sài Gòn hoa lệ cùng những tỉnh lẻ hiền hoà , trù phú của miền Nam mến yêu .
PS II : Chị Ngân Hà cũng " giết " người bằng món mắm Rươi rồi đó . HX còn nhớ rõ vị mắm Rươi ra sao .
Hấp dẫn làm sao chiếc lá rau diếp ( xà lách ) xanh mởn non xèo gói gọn vào lòng chút bún trắng phau , miếng thịt ba rọi it mỡ , it trứng chiên xắt sợi , chả lụa xắt sợi , tôm luộc bóc vỏ củ kiệu và và các thứ rau thơm nhỏ rí mà thơm ơi là thơm . Tất cả những thức ấy được cột lại bằng cọng hành luộc buộc ôm lấy tất cả những tinh hoa trời đất lúc lập đông . Món này chấm với một thứ nước chấm khác làm bằng cơm rượu nhưng người quen lại cho HX thử chấm với mắm Rươi thế là ... chết một nửa hồn vì món ấy ... Và bây giờ thì hết luôn giờ cơm trưa của HX rồi nhé , có nên bắt đền không nhỉ ?
HX mến chào anh Luân Tâm .
Last edited by HXhuongkhuya; 02-04-2016 at 01:46 PM. Reason: quay lại ...
-
02-04-2016, 01:59 PM #95
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 1,633
Chào Ngân Hà và mọi người .
Theo chân Ngân Hà đọc nhiều lần rồi mà chưa tiện lên tiếng . Những tấm hình , những bài thơ , bài viết ... của mọi người rất hay . Thoa đã đi Bắc 2 lần và mong mong tìm được những thứ gì trong văn chương , sách báo cũ nói về ... Thú thật Thoa hơi thất vọng ! Vào đây đọc những dòng chữ của ACE và các bạn còn thú vị hơn . Thoa cũng có giữ kỷ niệm một số hình ảnh miền Bắc ( lần thứ 2 . Lần thứ nhất bị mất rồi) . 80% những nơi ACE mô tả Thoa nghe và thấy qua rồi . Rất thích như nhớ lại một kỷ niệm ! Không có nhiều thì giờ nhưng hôm nào , mạn phép chủ nhà Thoa sẽ góp vào một số hình ảnh đã ghi nhận cho vui .
Về trái sấu Ngân Hà đang nói và củ sấu nó khác nhau đấy . Trái sấu của người Bắc thì Thoa cũng mới thấy lần đầu hình trên , chưa nếm qua . Còn củ sấu thì nếm qua rồi . Không thích vì dở hơn ... hột sầu riêng . Củ sấu hình dáng như chiếc sừng trâu nhỏ cỡ 2 ngón tay lồi lõm , móp méo . Tục ngữ ta có câu rất hay :
Khi thương củ ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo
Nghĩa đen và nghĩa bóng nói về 2 loại trái , củ trên .Nơi nào có anh , những người khác chỉ là tạm bợ .Tôi không thích tạm bợ .
-
02-04-2016, 04:25 PM #96
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 862
Cảm ơn Thoa, có hình nào về chuyến đi của Thoa rảnh rảnh dán thêm cho mình nhé
Mình cũng không rõ củ sấu hay trái sấu mà anh bạn mình nói. Nhưng chắc là loại chua mà củ ấu hình như không chua.
---------
Hà thành ơi...
" Ai tri âm đó mặn mà với ai".(ND)
hình anh Nam đưa lên
Bạn tôi ơi, tôi đâu ngờ bạn thích dõi theo bước chân ngập ngừng cùng với nỗi băn khoăn của tôi khi đi và viết về miền đất dường như xa lạ mà lại rất đỗi thân quen trong huyết quản của mỗi người dân Việt.
Chính cái mâu thuẫn dữ dội trong lòng đó mà yêu với ghét, thương và hận, đau đớn và thiết tha nó đã làm cho tim mình héo hắt, lòng mình khổ sầu và có một cái gì nhức nhối mà không thể tả thành lời...
Những tình cảm này làm tôi như mang nặng gánh rất nặng, "hầm- bà- lằng" do bạn bè gởi trên vai hồi nào mà không biết. Như cô Hương Xưa căn dặn cứ chụp hình để ghi lại cảm xúc, rồi tôi lại được dặn đừng mang cái i phone ra ngoài đường nên tôi ngồi trên xích lô, đi giữa lòng Hà Nội chẳng chụp hình nào mà nhủ lòng hãy ghi nhận bằng trái tim coi có được gì không...
Cuối cùng rồi tôi đi mà bạn lại ghép hình vào khiến tôi mừng vui như trẻ nhỏ, tinh nghịch kiểu " thử coi tui hỏng thèm chụp hình rồi có ai thèm thắc mắc gì hông "
Hình anh Nam đưa lên
hồ Gươm gợn sóng
Cuối cùng rồi tôi đã phải trả cái giá đó bạn ạ. Đây hình cô Hương Xưa, nọ hình anh Nam, kia hình anh Hải Việt. Hình nào cũng cho tôi thấy rõ mồn một từng góc đường với tên của bao vua chúa, anh hùng dân tộc để rồi linh hồn của Thăng Long xưa qua sách vở sống lại đến nổi tôi khó mà ngừng tay vì tôi biết bạn đợi chờ.
Cái tình của bạn dành cho Thăng Long xưa cũng giống như tôi nên mới là như vậy đó. Giờ thì bạn cũng đã thấy có những thứ vô hình lại nặng oằn tim gan, không bỏ xuống được, nên giờ đây chắc là tôi đành phải tiếp tục mới được nhẹ lòng mà thôi...
Vì đâu thế ?
Sao cơ ?
Cái quái gì vậy ?
Thế thế ...
Phải rồi, có một nỗi sợ, một nỗi lo khi đến vùng đất đó. Nói nhỏ nhỏ, nhẹ nhẹ vừa đủ nghe, để khỏi phải phiền lòng vì những kinh nghiệm của người đã đến trước mình làm mình loạn cả lên...
Rồi thì cũng xong chuyến đi...
Hà Nội hôm nay, Thăng long xưa cũ, có gì để trao gởi về nhau khi bước chân ai đó đã xa rồi ?
[CENTER]
Hình Hai Viet st
Như khi mình yêu ai mà không dám tỏ, vì lễ giáo, vì sợ người cười chê mà bỏ đi cái rất thật của lòng. Nhưng thôi, đó cũng là cái rất dễ yêu do sự e thẹn của người mình yêu, nhờ vậy mà nụ hoa tình yêu mới lâu phai tàn và sau này còn có nhiều điều để kể cho nhau nghe.
Nếu là hoa xin hãy khoan là trái
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua ( sưu tầm )
Tôi đã rón rén bước những bước vô cùng khó khăn, như người đi trên nỗi lòng của cả một dân tộc đáng thương và đáng tội nghiệp vì yêu mà sợ họ hàng phản đối vì bất đồng nhiều thứ như tôn giáo, ngôn ngữ, chính kiến....mà không thể và không dám nói thành lời, chứ đừng nói là viết ra trên giấy trắng mực đen những lời tỏ tình yêu chân thật của mình. Nỗi lòng đó cứng như đá nhưng cũng mềm như nước, nỗi lòng khắc khoải như con quốc quốc nhớ nhà mà không nói được thành lời của Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Hoặc là như tâm trạng của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,
Đây hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Ban đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
ct
------------
hồ Gươm gợn sóng
hình anh Nam đưa lên
tháp Rùa in bóng
Chắc bạn không hiểu vì đâu mà tôi lại xót xa thương cảm Thăng Long nhiều như thế.
Chỉ vì khi tôi dò tìm dấu tích của Hà Thành xưa cũ, tôi phải trải qua bao nhiêu lần khai quật, phải đưa tay mở thật nhiều lớp vải khâm liệm, để nghe lòng thật nhiều tang thương, cuối cùng rồi lặng lẽ nhìn thấp thoáng dáng Kiều xưa che mặt giấu sau mành...
Chính vì thế mà tôi có cảm tưởng như Thăng Long chẳng khác gì thân phận của nàng Kiều, đã hứng chịu bao dâu biển của cuộc đời và bị dày xéo thô bạo dưới gót giày xâm lược cùa ngoại bang không biết bao nhiêu lần uất hận khóc một mình.
cửa Văn Miếu hình HX )
Văn Miếu sở dĩ còn là vì có thờ đức Khổng Tử án ngữ, nên nên gương mặt đẹp của Hà Thành không bị hủy hoại, dù đôi mắt nàng như mặt hồ Gươm long lanh ngấn lệ, mơ bóng người anh hùng Lê Lợi dong thuyền về nhận lưỡi gươm thiêng để cứu lấy giang san gấm vóc.
Vua Lê đã thắng quân Minh sau mười năm, rồi triều đại của vua Lê Thái Tổ cũng qua nhanh chóng để vương triều nhà Nguyễn kế tiếp. Rồi sau đó là cảnh nước nhà rơi vào tay thực dân suôt cả một thế kỷ dài đăng đẳng.
Và Kiều của Nguyễn Du, của anh, của tôi, của cả nước Việt Nam ra sao ? Có còn đâu nữa:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da (K)
Rồi thêm một lần nữa, những lâu đài, cung điện và những gì huy hoàng của các triều đại cũ lại bị san bằng, xóa sạch hoặc khỏa lấp bởi giặc Minh rồi đến thực dân Pháp. Bao bảo vật quốc gia bị đánh cắp, chẳng còn lại dấu tích gì trừ những thứ thực dân cần giữ lại như Cột Cờ để làm pháo đài quan sát bốn phương canh dân mình nổi lên chống lại.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (ND)
Cho nên dù tôi có chuẩn bị chuyến đi bằng tâm tình của người khách lạ, dù cho tôi có quyết tâm:
Nếu có về tôi nhủ lòng chớ để
Những đau thương làm chết mộng ban đầu
Nhưng tôi đã nói dối vì tận trong cõi lòng tôi thật là tan nát vì những mất mát, những điêu tàn mà Thăng Long đã phải gánh chịu suốt ngàn năm qua.
Khi tôi ở trong Nam, thì bom đã dội trên mình Hà Nội, khi tôi ở nước ngoài vào năm 79, thì người đạp xích lô chở tôi đã ra tận Lạng Sơn để chống quân thù để bảo vệ đất nước. Nhờ vậy mà bây giờ, tôi mới có còn được một quê hương để mà về. Vậy thì ai là anh hùng dân tộc, ai đã vì quê hương Việt Nam mà thật sự đổ máu xương đây ?
Vì vậy mà tôi đã bàng hoàng đến ngẩn ngơ nhìn người đàn ông đã đạp xe đưa tôi đi giữa lòng Phố Cổ đợi chờ tôi sẽ nói vài câu gì đó. Nhưng tôi đã chạy đến cậu em tôi vì tôi không mang tiền trong người. Tôi thấy mình tầm thường và vẫn còn nợ người đó một lời cảm ơn mà dù có lời nào đi nữa, cũng bằng thừa...
Cho nên tôi vẫn bất ổn trong lòng và như người chạy trốn một sự thật hiển nhiên. Chỉ có người ở lại mới thật sự cầm súng chiến đấu bảo vệ quê cha đất tổ của họ vì lòng yêu nước thật sự của họ thật lớn lao.
Tôi trở về, biết mình còn thiếu sót lớn nếu không đi được con đường mang tên Cổ Ngư thì đã được anh Hải Việt đưa lên.
Tôi tự hỏi có thể nào con đường Cổ Ngư nối dài thêm một quãng xuân thì ngày cũ của Hà thành không ?. Có thể nào HỒ Gươm vẫn mãi soi bóng hình thanh tân của Thăng Long xưa với hội đạp thanh để cho tình nhân ly hương vẫn nhớ hoài buổi chiều gặp tình yêu đầu đời của thuở mười sáu trăng tròn khi đã xa Hà Nội.
Tôi xa Hà NỘi năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều...
Tôi xa Hà Nội năm em mươi sáu trăng tròn đắm say
đôi tay ngọc ngà yêu đương tình ái em đong thật đầy...
( nhạc Anh BẰng)
Hồ Tây (st) con đường Cổ Ngư Hai Viet sưu tầm
---------------
Thăng Long Thành Hoài Cổ
Bà Huyện Thanh Quan
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa thành thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường.Last edited by NganHa1; 02-05-2016 at 08:21 PM.
-
02-05-2016, 08:07 AM #97“Tứ trấn Thăng Long”
(VOV) - Tứ trấn Thăng Long thờ 4 vị thần trấn giữ 4 phía, có lịch sử gắn bó ngàn năm với Kinh thành, như một dấu ấn văn hóa tâm linh Việt.
Thủ đô Hà Nội có nhiều danh lam thắng cảnh cổ kính, lãng mạn như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu - Quốc Tử Giám… Nhưng Hà Nội cũng có những di tích văn hóa, lịch sử nổi tiếng khiến người ta phải kính trọng và tri ân. Đó là “tứ trấn Thăng Long” - bốn ngôi đền thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ những vị trí huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến để che chở, bảo vệ cho cho kinh thành Thăng Long, ngày nay là Thủ đô Hà Nội luôn được bình yên.
Thăng Long Tứ trấn gồm bốn ngôi đền: Đền Bạch Mã trấn phía Đông; Đền Voi Phục trấn phía Tây; Đền Kim Liên trấn phía Nam; Đền Quán Thánh trấn phía Bắc. Mỗi ngôi đền thờ một vị thần có nguồn gốc và ý nghĩa khác nhau: thần Long Đỗ thờ ở đền Bạch Mã, thần Cao Sơn thờ ở đình Kim Liên, thần Linh Lang thờ ở đền Voi Phục và thần Trấn Vũ thờ ở đền Quán Thánh.
“Tứ trấn” được xây dựng từ rất sớm, gắn liền với việc ra đời kinh đô Thăng Long thời nhà Lý từ những năm 1010. Thăng Long tứ trấn trải quá nhiều thời kỳ còn được tôn là “Thượng đăng phúc thần”. Vào thời kỳ đó Tứ trấn Thăng Long là nơi diễn ra các lễ hội Xuân, là nơi nhà vua chọn đến để dâng hương những ngày đầu năm. Và có lẽ cũng từ đó, truyền thống này được tiếp nối cho đến tận ngày nay.
Tứ trấn thờ 4 vị thần trấn giữ 4 phía: đông, tây, nam, bắc của thành Thăng Long từ ngàn năm trước cho đến tận ngày nay. Mỗi ngôi đền thờ một vị thần có nguồn gốc và ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, theo dân gian, người khai sáng Thăng Long - Vua Lý Thái Tổ - vốn là một võ tướng, có lẽ vì vậy mà cả 4 vị thần trấn giữ Thăng Long đều là võ thần chứ không phải văn thần.
Trấn Đông: Đền Bạch Mã
Đền Bạch Mã xưa thuộc huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là số nhà 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo hộ của Kinh Thành trấn giữ hướng Đông. Ngài là vị thần thiêng, được chúng dân thời xưa ở Thăng Long rất tôn sùng, kính phục.
Ngựa trắng là một biểu tượng thiêng liêng của Đền Bạch Mã và được thờ bên trong.
Truyền thuyết kể rằng: Khi vua Lý Công Uẩn định đô Thăng Long (năm 1010), xây thành mà cứ bị sụt lở, nhà Vua tới đây cầu lễ và lạ thay, một buổi sáng chợt thấy có vị ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, chạy đến đâu để dấu chân đến đấy rồi trở lại Đền và vụt biến mất. Vua Lý cứ theo vết chân ngựa mà xây, thành không lở nữa. Từ đó thành được đắp cao lên, rất vững chắc. Thành xây xong, nhà Vua xuống chiếu cho chúng dân Thăng Long phong thần Long Đỗ làm thành Hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Từ đấy Ngựa trắng là một biểu tượng thiêng liêng của Đền.
Đền Bạch Mã đã được trùng tu nhiều lần. Đền quay mặt về phía Đông Nam. Trong đền còn giữ được 15 tấm bia chép sự tích đền và thần, nghi lễ cúng bái, các lần trùng tu tôn tạo… Đền Bạch Mã với diện tích hơn 500m2, là một công trình đồ sộ còn được gìn giữ, bảo quản khá tốt. Tuy đền đã được trùng tu nhiều lần, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ kiến trúc thời Trần, Lê. Các cửa võng, các mảng điêu khắc trong đền mang tính nghệ thuật cao.
Hội Đền Bạch Mã hằng năm được tổ chức vào ngày 12 và 13/2 âm lịch.
Trấn Tây: đền Voi Phục
Đền Voi Phục còn có tên là Thủ Lệ hay Linh Lang do thờ thần Linh Lang Đại Vương. Đền nằm phía Tây kinh thành Thăng Long cũ, tọa lạc bên hồ Thủ Lệ, nay thuộc phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội.
Truyền thuyết ghi lại rằng thần vốn là một Thiên sứ đầu thai làm con nàng phi thứ bảy của vua Lý Thái Tông, được vua cha yêu quý đặt tên là Linh Lang. Tương tự như người anh hùng làng Gióng, khi đất nước có giặc ngoại xâm, Hoàng tử nhỏ vươn mình trở thành một dũng sĩ cưỡi voi xung trận, diệt tan quân xâm lược. Sau chiến thắng, bỗng nhiên hoàng tử lâm bệnh, vua cha đến thăm, chàng cho biết mình không phải là người trần rồi biến thành con giao long trườn xuống hồ Dâm Đàm (tên cũ của Hồ Tây) và biến mất. Vua cho lập đền thờ, phong là “Thượng đẳng thần”.
Cổng vào đền Voi Phục - trấn Tây Thăng Long Thành.
Trấn Nam: đền Kim Liên
Đền Kim Liên còn gọi là đền Cao Sơn, đình Kim Liên, trước đây thuộc địa phận phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Đền thờ thần Cao Sơn.
Tương truyền, thần Cao Sơn đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh và sau này lại giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê. Chính vì thế vua Lê cho xây đền, dựng bia để hương khói thờ phụng.
Tam quan và Đền xây trên gò đất cao, từ sân bước lên phải qua chín bậc gạch, hai bên thềm là hai sấu đá niên đại thời Lê.
Chịu tác động của thăng trầm lịch sử, đến nay ngôi Đền không còn nguyên dạng (toàn bộ Nhà Bái đường đã bị tàn phá), chỉ còn lại Nhà Hậu đường ba gian, tam quan, cổng gạch và hai giải vũ. Năm 2000, đền được tôn tạo, phục chế lại như ngày nay.
Tam quan và Đền xây trên gò đất cao, từ sân bước lên phải qua chín bậc gạch, hai bên thềm là hai sấu đá niên đại thời Lê. Tam quan xây thành nhà hoàn chỉnh, kiểu tường hồi bít đốc. Bốn góc tường hồi có bốn cột trụ, bốn bộ vì đỡ mái làm theo kiểu chồng giường, giá chiêng, cột trốn. Các con rường chạm nổi hình mây cuốn, câu đầu và chạm lộng nhiều lớp hình tứ linh vô cùng đẹp với kỹ thuật tinh xảo.
Hậu cung là nơi thờ thần Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng: Thuỷ Tinh đệ Tam - Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh phu nhân.
Di sản quý báu của Đền đặc biệt còn tấm bia đá đồ sộ mang tên "Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh" cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m. Tấm bia ghi về thần tích và bài minh ca ngợi Thần do Sử thần Lê Tung soạn năm Canh Ngọ - Hồng Thuận thứ 3 (1510) và được dựng ngày 1 tháng Trọng Thu năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772).
Đền còn giữ được 39 đạo sắc phong về thần và các câu đối.
Lễ hội đền Kim Liên mở vào ngày 16/3 âm lịch hàng năm.
Trong đền vẫn còn long ngai thờ thần Cao Sơn và hai nữ thần phối hưởng: Thuỷ Tinh đệ Tam Tôn nữ và Huệ Minh phu nhân.
Bia đá trong hốc cây mang tên "Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh" ghi về thần tích và bài minh ca ngợi Thần do Sử thần Lê Tung soạn.
Trấn Bắc: Đền Quán Thánh Đền Quán Thánh còn gọi là đền Trấn Vũ, nằm ở ngã tư giao đường Thanh Niên với đường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ.
Truyền thuyết xưa kể rằng: Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương Bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái; trừ rùa thành tinh (đời Hùng Vương 14); trừ cáo chín đuôi ở Tây Hồ; giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa; diệt hồ ly tinh trên sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông... Đến thời nhà Lê, các vua cũng thường đến đây để cầu mưa mỗi khi có hạn hán.
Hàng năm đền Quán Thánh có hàng trăm nghìn lượt du khách đến dâng lễ, vãnh cảnh.
Theo tư liệu cũ, ngôi Đền được xây dựng vào những năm đầu khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Năm 1823, Vua Minh Mạng lên ngôi đổi tên Đền là Trấn Vũ Quán. Đến đời vua Thiệu Trị năm 1842, đổi tên là Đền Quán Thánh như hiện nay.
Đền Quán Thánh tọa lạc ở một địa thế rất đẹp trên đường Cổ Ngư, cạnh hai hồ là Trúc Bạch và Hồ Tây. Trong đền có một bức tượng đồng Trấn Vũ cao lớn uy nghi nặng 4 tấn. Tượng cao khoảng 3,96m, chu vi 8m, mặt vuông, mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên bục đá, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống lên lưng vị rùa. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của Việt Nam cách đây ba thế kỷ.
Trong đền còn có quả chuông đồng trên gác tam quan với tiếng ngân khi đánh lên đã đi vào lòng người dân Việt Nam: “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”.
Đền Quán Thánh tổ chức chính hội vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm.
Bức tượng đồng Huyền Thiên Trấn Vũ cao lớn uy nghi được đúc năm 1677. Tượng cao khoảng 3,96m,nặng 4 tấn.
Đó là tác phẩm nghệ thuật của những người thợ tài hoa làng đúc đồng Ngũ Xã, Hà Nội.
Bốn ngôi Đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên, Quán Thánh xác định địa giới Thăng Long, tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh đất kinh kỳ. Vì thế, cả bốn ngôi đền đều là những địa điểm mà người dân Hà Nội thường đến dâng lễ cũng như vãn cảnh đặc biệt vào đầu xuân mới và ngày mồng Một, ngày Rằm. Đây cũng là một cách thể hiện lòng thành kính đến với những vị thần ngày đêm canh giữ, bảo vệ để người dân kinh kỳ có cuộc sống ấm no, an lành.
Việc thờ 4 vị thần bảo vệ thành Thăng Long từ 4 phía là nét độc đáo của văn hóa tâm linh Thăng Long. Không chỉ thế, tứ trấn là những di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc, điêu khắc độc đáo gắn với huyền thoại dân gian, lịch sử Thăng Long và đất nước Việt Nam được nhiều người tìm tới để hiểu biết thêm về Thăng Long ngàn năm văn hiến. Đây còn là địa chỉ du lịch hấp dẫn nhiều du khách nước ngoài khi tới thăm quan thủ đô Hà Nội./. Phỉ Thúy/ VOV OnlineLast edited by HaiViet; 02-05-2016 at 08:49 AM.
-
02-05-2016, 08:56 AM #98
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 862
Tuyệt vời quá anh Hải Việt!.
Anh cứ phụ thêm những bài viết, sưu tầm giá trị vào nhé.
Ới ... Thoa, HX, dulan, Chiều, Tax, Sông Thương và các bạn ghé ngang nghe kể chuyện nhé...
---------------
Chuyện đời Hùng Vương
1. Sơn Tinh đến sớm
Sơn Tinh đến sớm rước người yêu
Sính lễ chàng mang tặng thật nhiều
Một vùng núi Tản mây bao phủ
Một tấm lòng thành biết bao nhiêu
Sơn Tinh đến sớm rước Mỵ Nương
Công chúa ngờ đâu chuyện tình trường
Còn có một người mang sính lễ
Nhưng vì đến trễ hận yêu đương ...
Mây phủ đầu non thật mơ màng
Núi rừng trùng điệp đón xuân sang
MỴ Nương ngơ ngẩn nhìn sông núi
Một tấm lòng yêu bỗng dâng tràn
Từ đó hàng năm bão ngập trời
Nhớ về chốn cũ đã xa xôi
Lâu đài cung điện đều khuất nẻo
Chỉ một Sơn Tinh đủ đền bồi ...
( Thảo Hiền )
---------
2. Trọng Thủy - Mỵ Châu
Tôi không biết các thế hệ sau tôi có được học những gì giống như tôi đã học thời Trung học hồi trước 75 hay chăng. Theo tôi thì dù khởi đầu của nguồn gốc dân Việt chỉ như huyền thoại hoang đường, không cơ sở khoa học gì hết. Nhưng càng nghĩ tôi ngày càng thấy thấm thía cái ý nghĩa sâu xa của tổ tiên ta với một chuyện đời xưa như vậy. Ông cha ta tuyệt vời và thông minh vô cùng, vô tận, vô biên !!!
Cũng như dân Do Thái lang thang không nhà suốt hai ngàn năm, tứ tán khắp thế giới nhưng nhờ tin tưởng vào kinh thánh của họ, cho mình là dân được Thượng Đế, Chúa Trời đã chọn, nên dù trong suốt hai ngàn năm không đất dung thân, phải làm nô lệ cho Ai Cập đến Âu Châu, ăn nhờ ở đậu xứ người, bị Hitler diệt chủng mà cuối cùng vẫn tìm lại vùng đất hứa cho dân họ kéo về.
Nhờ đâu ? CÓ phải chăng nhờ chuyện mà người đời vẫn cho là huyền hoặc mơ hồ và tưởng tượng đó ?
Cho nên tôi không hề thắc mắc về chuyện họ HỒng Bàng, từ Lạc Long Quân đến bà Âu Cơ và 18 đời Vua HÙng Vương và những chuyện cổ tích liên quan đến các vua chúa hoàng tử và công chúa của mười tám đời này là có thật hay không làm gì cho vô ích.
Tôi chỉ biết nó là một gia tài quý giá và những bài học ngàn đời cho con cháu từ những kinh nghiệm rất thật, đầy tính nhân bản, mà khởi đầu là chuyện Trọng Thủy MỴ Châu vào cuối đời các vua Hùng. CŨng vì sự ngây thơ, cả tin vào chồng mà sự nghiệp của vua cha là An DƯơng VƯơng Thục Phán đã tan tành và về tay Triệu Đà, cha của Trọng Thủy.
--------
Khởi đầu nước Việt ta là dòng giống đẹp như Tiên và dũng mãnh như Rồng nên còn gọi là giống Tiên Rồng. Hai ông bà Lạc Long Quân và Âu Cơ có được 100 con cùng được sinh ra chung một bọc trứng nên gọi là đồng bào.
Khi các hoàng tử vừa khôn lớn, thì nhà vua đã tâm sự với vợ, như Từ Hải sau khi kết hôn với Thúy Kiều được sáu tháng thì đã phải quyết định ra đi vì sự nghiệp. Không biết bà mẹ Âu Cơ của chúng ta có than thầm giống như nàng Kiều hay không:
Nửa năm hương lửa đang nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương ( ND)
Lạc Long Quân năn nỉ bà Âu Cơ rất hợp lý hợp tình:
- Ta là Rồng nàng là Tiên ở với nhau lâu dài không tiện việc cai trị Văn Lang. Vì thế ta muốn chia đều mỗi người 50 đứa con để dễ bề khai khẩn hai miền Kinh, Thượng và cùng giúp nhau phát triển nước đất nước.
Rồi như thế mà nước Việt, từ một nơi chốn bé nhỏ là Bạch Hạc hay Phú Thọ bây giờ, đã phát triển dần dần thành một giải giang sơn được mệnh danh là hạt Minh châu của trời Đông Á đã hơn bốn ngàn năm qua.
Với 18 đời vua Hùng Vương, từ nước Văn Lang đến tên hiệu Âu Lạc, sử sách đã chép lại biết bao là chuyện, nhưng tôi lại thích những chuyện như SƠn Tinh, Thủy Tinh, Phù Đổng Thiên VƯơng, sự tích Trầu Cau, Sự tích Bánh dày bánh chưng, SỰ tích quả Dưa Hấu, Chuyện Tấm Cám, và những mối tình đẹp như Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung hay Trương Chi Mỵ Nương. CÒn chuyện Tú Uyên thì mãi đến đời Lê hay Trần sau này...
Chuyện đáng nói nhất đối với tôi vì nó có nhiều chua xót, bi ai, lẫn huyền hoặc nhưng chứa chất nhân bản là chuyện tình của Trọng Thủy với Mỵ Châu. Nó là kinh nghiệm ngàn đời của cha ông ta về việc giữ nước. Cho nên có câu: có những chuyện quốc gia phải dùng hôn nhân và tình yêu mới giải quyết được, dù có phải hy sinh con ruột của mình là Trọng Thủy cũng mặc. Cái gọi là đạt mục đích bất chấp thủ đoạn là đây chăng.
Vì chuyện tình này mà thời HÙng Vương chấm dứt khi những chiếc lông ngỗng của công chúa MỴ Châu đã rắc bay suốt quãng đường đào thoát của vua cha đã dẫn đường cho quân Triệu Đà và con trai là Trọng Thủy dẫn quân đuổi theo.
Cuối cùng rồi chỉ còn lại biển cả mênh mông trước mặt nên vua An DƯơng VƯơng đã phải ngước mắt lên trời mà than với Thần Kim Quy sao đã cho nỏ thần để chiến thắng yêu quái lúc dựng nước, một phát bắn ngàn mũi tên, mà lần này giặc tấn công lại không linh nghiệm gì hết là sao!
Thần Kim Quy bấy giờ mới hiện lên và chỉ về phía sau lưng vua và nói giặc đang ngồi sau lưng bệ hạ. Vua chợt hiểu, đành vung gươm chém con gái yêu là Mỵ Châu rồi tự sát.
Trọng Thủy vô cùng hối hận mang xác vợ là MỴ Châu về chôn ở CỔ Loa, xong nhảy xuống giếng gần bên tự tử.
Truyền thuyết cho rằng những con trai ngoài biển thấm máu của Mỵ Châu nên người ta mang những viên ngọc của chúng ngậm trong miệng mà rửa bằng nước giếng thành CỔ Loa thì ngọc lại sáng ra thêm. Yêu đến chết là thế, mối tình dù có ra sao, mà khi chết rồi vẫn lóng lánh tuyệt vời, ai nỡ nói gì hở bạn khi yêu ?
Trọng Thủy Mỵ Châu
Trọng Thủy đành tâm nỡ gạt nàng
Tin yêu chàng quá để làm gan
Cho chàng thấy được thần nỏ đó
Để vua phải sụp đổ ngai vàng
Đây chiếc áo lông ngỗng tặng nàng
Nhắn nhủ MỴ Châu bước quan san
Ngày mai ai biết ra sao nhỉ
Nàng nhớ mang theo ở bên đàng
Vua đã thua rồi, nỏ thần đâu ?
Cùng cha lên ngựa giục vó câu
MỴ Châu vẫn rắc hoa tang trắng
Để chàng theo đến tận chân cầu
Vua giờ mới phải tuốt gươm thiêng
Giết con, tự vẫn chốn huỳnh tuyền
Máu nàng rơi vỡ như châu ngọc
Rửa bằng châu lệ mới sáng thêm...
( thơ Thảo Hiền )
----------
Cuối đường Thục Phán
Thục Phán ngày xưa cũng chỉ vì
Nhận lời cầu khẩn gả con chi
Mà sao không tiễn con xuất giá
Để họ Triệu kia cướp thành trì
Tình đã đổi bằng máu lệ ai
Nên thiên tình sử đã bao ngày
Vẫn không xóa hết sầu vạn cổ
Yêu cũng sai, mà không cũng sai
Bài học ngàn năm đó có gì
Yêu người ta hãy cứ yêu đi
Dù cho phải đổi bằng mạng sống
Vẫn hóa thân thành muôn bài thi
Mỵ Châu khờ quá chuyện chiến trường
Lông ngỗng vương đầy sau yên cương
Thục Phán ngẩn ngơ nhìn con gái
Nén nhát thương đau ở cuối đường ...
Thơ Thảo-Hiền
------------Last edited by NganHa1; 02-05-2016 at 11:26 AM.
-
02-05-2016, 09:42 AM #99
Ngân Hà không hỏi ra được sấu ở Hà nội là phải rồi! Vì họ làm gì có 'trái' sấu hay 'củ' sấu, hihihi... !!!
Hà nội có nhiều đường trồng cây sấu như Sài gòn trồng cây me và người Hà nội mê sấu cũng như người Sài gòn mê me vậy!
Nếu kiếm không ra quả sấu thì có thể nhâm nhi vài lá sấu cho đỡ ghiền !
Lá sấu có vị chua chua, chát chát đó!
Bây giờ Sài gòn cũng có bán quả sấu ở mấy tiệm của người Bắc, hình như ở cuối đường Pasteur, trên đường Yên Đổ.
Còn củ ấu thì có lần tôi thấy bán rất nhiều ở mấy sạp ngoài tỉnh Cần thơ, hướng đi Sóc trăng, Bạc liêu hay Cà mau gì đó?
Tiện đây tôi xin chú thích lại vài hình:
Cửa Văn Miếu
Khuê Văn Các
nhà thờ lớn hay nhà thờ chánh toà Hà nội có tên là nhà thờ thánh Giuse (St Joseph), nơi an nghỉ của 3 vị Hồng Y:
Trịnh Như Khuê, Trịnh Văn Căn và Phạm Đình Tụng.
Tượng Regina Pacis trong khuôn viên nho nhỏ đằng trước nhà thờ
Last edited by nam2010; 02-05-2016 at 04:56 PM.
-
02-05-2016, 06:38 PM #100
- Join Date
- Sep 2011
- Posts
- 862
Sang trang mới, xin được mang theo chùm hoa Mộc mà anh Nam đã gởi tặng nơi đây..
Xin gởi đến anh chị em ghé ngang cùng thưởng thức.
Tại chùa Cầu Đông, Hàng Đường, HN
Thân mến và chúc vui...
--------------
Nhân viết về chuyện An Dương Vương, tôi xin mang vào kịch thơ tặng bạn đọc
Giếng ngọc Loa thành
Truyện Thơ
Tinh Hoa & Thảo Hiền
Các Vai : Thái Tử, Lương Tâm, Linh Hồn .
Thái tử:
Nghe lời Vương Phụ vì đất nước
Bán lương tâm cho mộng ngôi cao
Giờ đây đã đạt thành mơ ước
Trái tim đau cắn rứt cồn cào
Vầng hào quang của người thắng trận
Lịm tắt trong biển tối xôn xao
Lông ngỗng vương trên đường uất hận
Gió hờn căm, thổi lạnh rì rào
Lương tâm:
Chiều nay Thượng uyển mờ nhạt nắng
Cỏ hoa cúi rạp, úa heo may
Bóng hình Công chúa chìm xa vắng
Cô độc chân lê nặng dấu giày
Tìm đâu hài ngọc cùng sánh bước
Ai làm Loan Phụng phải lìa đôi
Hóa công không sắp bày bạo ngược
Chính từ độc ác của mình thôi
Thái tử:
Đừng trách tâm ơi, đừng trách nữa
Hèn hạ đời ta quá đủ rồi
Hối hận như dao cùn mãi cứa
Cõi lòng bầm dập máu trào sôi
Chí lớn Đại bàng cao ngạo cánh
Khinh mạn thấp hèn phận uyên ương
Tự hào trọng trách giang sơn gánh
Chung tình nhi nữ lỡ xem thường
Lương tâm:
Nên giờ dằn vặt cuồn cuộn sóng
Làm sao quay ngược bánh thời gian
Má hồng khoe nắng trời hoa mộng
Rực rỡ nụ cười tiếng dòn tan
Âu yếm vợ chồng bao nồng thắm
Kỷ niệm như tranh họa rạng ngời
Công chúa ngây thơ tình say đắm
Ân ái ngày xưa đẹp tuyệt vời
Thái tử:
Nhớ Mỵ Châu diễm kiều nhan sắc
Phơn phớt da đào mịn màng hương
Lóng lánh mắt hồ thu trong vắt
Nhỏ nhắn môi son ngọt lạ thường
Suối tóc bồng bềnh thơm ngát mật
Tấm thân tinh túy kết kim cương
Nàng là báu vật trong trời đất
Bên nhau như sống giữa Thiên đường
Lương tâm:
Vậy mà người nhẫn tâm đạp đổ
Để chốn thần tiên hóa hoang vu
Từng chiều tưởng niệm niềm đau khổ
Vò xé hồn buốt nhói âm u
Tình yêu trái chín tròn hôn lễ
Lại nỡ lừa nhau mất cả đời
Âm mưu xâm lược đầy tác tệ
Máu hồng oan ức nhuộm biển khơi
Thái tử:
Lòng ta cũng chết từ dạo ấy
Cầm sắt ngậm ngùi khúc chia ly
Mắt xưa mù quáng nào nhận thấy
Ngai vàng quyền lực có ra gì
Chỉ mỗi yêu thương là quý trọng
Hiểu được thì ta đã bạc tình
Trái tim chất chứa toàn tham vọng
Hạnh phúc còn đâu chỗ nương mình
Lương tâm:
Dẫu cố vùi sầu trong men rượu
Hằn sâu dấu ấn chẳng phôi phai
Tình vẫn đang mơ về vĩnh cữu
Dối gian đã bẻ gãy trâm cài
Tài trai thi thố nơi trận mạc
Sao lại đem ra gạt nữ nhi
Ngắn ngủi thanh xuân ngày hoan lạc
Nghẹn ngào nuốt trọn lệ ai bi
Thái tử:
Ham muốn vinh quang trên chín bệ
Ép cuộc chung thân vỡ não nề
Tai bởi thèm nghe lời Vạn tuế
Cam đành nhắm mắt bước u mê
Từ đâu gió hú rờn rợn quá
Như tự tha ma khóc vọng về
Khua động vườn hoang rền rĩ lá
Hoàng hôn ráng chín đỏ sơn khê
Lương tâm:
Bụi hồng vướng mắt mù cay khói
Nhàn nhạt lam chiều hiu hắt loang
Phòng cũ Mỵ Châu đèn le lói
Ánh lửa thiêu thân bấc lụn tàn
Giếng ngọc bao năm trời tĩnh lặng
Bỗng nhiên gờn gợn dậy phong ba
Nước réo rắt sôi hờn văng vẳng
Có phải nàng về để trách ta?
Thái tử:
Lưng trời đùn đục sương vây phủ
Thành giếng mịt mờ rợp làn hơi
Âm khí linh lung hồn quy tụ
Chập chờn ẩn hiện bóng ma trơi
Hình dáng thân quen tuyền đài các
Phiêu hốt nhẹ nhàng tựa như mây
Chân lướt không gian mềm cánh hạc
Áo lông ngỗng trắng ủ vai gầy
Linh hồn:
Trọng Thủy trái tim chàng vẫn khỏe?
Vẫn đập nhịp hùng ngạo nghễ kiêu?
Đáy bể ngọc trai hồn quạnh quẽ
Tìm về nghe tiếng thở than yêu
Lời buồn chân thật hay gian dối?
Nhớ lớp tuồng xưa diễn khéo thay
Dại dột say tình nên nông nổi
Bị tráo nỏ thần cũng chẳng hay
Thái tử:
Nàng ơi ta vô vàn lầm lỗi
Chẳng dám cúi đầu xin thứ tha
Bởi chưa xứng đáng lòng sám hối
So nỗi oan khiên lấp Thiên Hà
Nàng có làm gì đâu nên tội
Mà trời vụt tắt ánh sao rơi
Lỡ lầm lấy phải chồng phản bội
Chớp lóe tay gươm chém rụng rời
Linh hồn:
Thiếp tự thấy mình hai tội lớn
Đã yêu và đã quá tin chàng
Ngu ngơ không biết người đùa giỡn
Thả lời ong bướm chiếm giang san
Thân son trẻ thác đành cam chịu
Hậu thế khinh cười một chữ yêu
Khờ khạo theo tình quên trung hiếu
Khiến cho non nước cảnh tiêu điều
Thái tử:
Hết biện minh gì thêm được nữa
Hành động năm xưa quả xấu xa
Nhơ nhuốc thiên thu khôn gội rửa
Bia miệng ngàn đời cứ mắng ta
Chỉ xin đừng trách người con gái
Vì yêu ta nên bất hạnh nhiều
Cái chết đớn đau đầy kinh hãi
Đã tội nghiệp nàng biết bao nhiêu
Thái tử:
Tội xưa xin trả bằng tính mạng
Nàng ơi ta giờ chẳng còn gì
Khi người yêu quý không còn nữa
Ngai vàng nào có đáng là chi !
Linh hồn
Trung với quốc gia chàng đã chọn
Hiếu với Phụ hoàng chàng hy sinh
Giờ đây Trung Hiếu đều trọn vẹn
Có đáng gì đâu một chữ Tình !
Thái tử
Ôi nỗi oan khiên nàng ôm trọn
Thác oan hồn chẳng được siêu sinh
Hiếu Trung danh nghĩa ngày xưa chọn
Giờ đây ta càng hận chính mình
Cũng bởi Phụ Hoàng chẳng kể chi
Còn ta nào chọn lựa được gì
Nên đành phó mặc cho Vương Phụ
Sắp xếp bày mưu chẳng nghĩ suy
Linh hồn
Nhớ những ngày đầu xiết chi vui
Thượng Uyển hai ta ngập tiếng cười
Rồi bỗng một hôm chàng ũ rũ
Mắt nhìn xa vắng thở dài thôi
Thái Tử
Lúc đó lòng ta quá não nề
Phụ hoàng nhắc nhở chớ u mê
Đề phòng đừng để yêu thương thật
Hãy nhớ đừng quên lời huyết thề
Nếu ta không tráo lấy nỏ thần
Phụ vương ta cũng sẽ liều thân
Quân sĩ sẵn sàng vào chỗ chết
Lòng ta đứt đoạn với phân vân
Linh hồn
Rồi một chiều kia nắng nhạt nhòa
Chàng xin được vào thăm Cổ Loa
Bỗng sấm chớp rền lên điềm dữ
Mây đen che kín khắp Sơn hà
Thái Tử
Lúc đó lòng ta hóa âm u
Đã đổi yêu thương lấy ngục tù
Hình như ta thấy mình đang chết
Nàng vẫn ngây thơ bên kẻ thù
Ta thấy lòng mình quá xót xa
Ai đổi yêu thương lấy San hà?
Ta đã say vùi trong đau đớn
Định về thuyết phục với vua cha
Linh hồn
Nhưng rồi trời đất dậy phong ba
Chiến tranh lần nữa bởi Triệu Đà
Phụ vương ta ỷ y thần nỏ
Cùng đường lên ngựa với vua cha
Ta vẫn mong chờ gặp người yêu
Lông ngỗng vương bay quá tiêu điều
Trước mặt mênh mông là sóng dữ
Sau lưng quân giặc thét gào kêu
Thái Tử
Ta đã đuổi theo để cứu nàng
Nhưng rồi lông ngông hóa màu tang
Ôm xác người yêu về chốn cũ
Lòng ta ôi quá đỗi bàng hoàng
Ta chẳng còn chi ở trên đời
Khi lòng hối hận mãi không nguôi
Chữ tình vuột mất không về nữa
Ta quyết theo nàng người yêu ơi ....
Linh hồn:
Thái Tử trầm mình xuống giếng sâu
Mà thiên tình sử chẳng nhạt màu
Người ơi chê trách làm chi nữa
Để buồn Trọng Thủy với Mỵ Châu ....
Hết
Kịch thơ Giếng Ngọc Loa Thành ( Trọng Thủy- MỴ Châu )
và Đêm Hỏa Táng ( Huyền Trân - Khắc Chung ),do Tinh Hoa và Thảo Hiền đã viết chung vào 2004 trên một diễn đàn cũ. Nơi có một mục kịch thơ do nhà văn Linh Bảo khuyến khích mà thành.
Dù cả hai tác giả chưa hề quen biết hay gặp nhau ngoài đời, nhưng được biết Tinh Hoa là bút hiệu của một giáo sư toán ở trường Trung Học ĐTH, Saigon, còn Thảo Hiền là một công chức ở Hoa Kỳ )
Xin mạn phép bạn Tinh Hoa đặng lại hai kịch thơ nơi đây.
Kich thơ Đêm Hỏa Táng sẽ đăng trên đường vào miên Trung với giòng sông Nhật Lệ, Quảng Bình
Thảo Hiền - Ngân Hà kính bút
--------------
Khúc khải hoàn
Chiến thắng mừng ai khúc khải hoàn
Dâng người chén rượu của vua ban
Kiếm báu diệt xong loài yêu quái
Gươm vàng trừ tuyệt bọn tà gian
Vua cha đắc ý trên ngôi báu
Công chúa rộn ràng chốn phòng loan
Tình riêng dẫu biết là không thể
Vẫn một lòng trung với ngai vàng
-----
Một chút hương
Tuổi mộng xa rồi vẫn luyến thương
Nhớ cành phượng thắm dưới mái trường
Trời Nam phương ấy vầng trăng sáng
Biển Bắc nơi này đám mây vương
Tựa gối trông vời lên cung Quảng
Buông rèm vọng tưởng đến cố hương
Tình thơ dù có thành cổ tích
Xin giữ cho đời một chút hương
-------
Hạnh ngộ
Bỡ ngỡ nhìn nhau giữa cuộc đời
Chợt lòng nghe nặng tiếng thơ rơi
Đường hoa ai bước trong đơn lẻ
Lối mộng người về có chung đôi
Dõi mắt trông trời mây bát ngát
Cúi đầu nhìn biển nước đầy vơi
Hạnh ngộ nơi bài thơ có đủ
Nhắn gởi về nhau có đôi lời
Thảo HiềnLast edited by NganHa1; 02-05-2016 at 09:24 PM.
Similar Threads
-
trần gian một cõi ...
By lạc việt in forum ThơReplies: 0Last Post: 02-24-2015, 12:42 PM -
Theo Chân Những Cặp Giò Xứ World Cup 2014, Brazil
By hat cam in forum Du LịchReplies: 0Last Post: 06-29-2014, 10:06 PM -
Cuộc Hành Trình Theo Đường Thẳng Của Con Cúm- Trịnh Thanh Thủy
By hat cam in forum TruyệnReplies: 0Last Post: 01-24-2014, 11:11 PM -
Theo Gió Thu Bay
By Triển in forum Tiếng Hát Đặc TrưngReplies: 21Last Post: 07-07-2012, 10:08 PM -
Không có thời gian
By Võ Thanh Liêm in forum Âm NhạcReplies: 0Last Post: 06-08-2012, 06:40 PM