Register
Results 1 to 2 of 2
  1. #1
    Nhà Lầu
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    351

    Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh 1926- 2022

    Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh

    “Tôi đi tu chỉ vì tôi muốn dành trọn thì giờ của mình để giúp những người khác.”

    22/01/2022 VĂN TÂM

    Thích Nhất Hạnh
    Tên khai sinh: Nguyễn Xuân Bảo.
    Năm 1926: Sinh tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
    Năm 1942: Xuất gia tại chùa Từ Hiếu, tỉnh Thừa Thiên – Huế, đây cũng là nơi ông sống những năm cuối đời.
    Năm 1967: Được đề cử giải Nobel Hòa bình.
    Năm 1982: Thành lập Làng Mai tại miền Nam nước Pháp.
    Năm 2018: Trở về an dưỡng tại tổ đình Từ Hiếu cho đến lúc qua đời vào ngày 22/01/2022.

    Lời tòa soạn: Khi bắt đầu viết về thiền sư Thích Nhất Hạnh, chúng tôi phát hiện ra nhiều ghi chép, phỏng vấn của ông về các giai đoạn cuộc đời và quan điểm của mình. Ở một chừng mực nào đó, chúng tôi nghĩ rằng có thể tạo một bài viết mà chính ông là người kể chuyện về cuộc đời của mình. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi sắp xếp các đoạn được trích từ nhiều nguồn khác nhau (phỏng vấn, sách, thư, v.v.) ở những thời điểm khác nhau về cùng một giai đoạn hoạt động nhất định. Các đoạn có dấu ngoặc kép trong bài là nguyên văn (hoặc được dịch từ tiếng Anh) của ông. Các đoạn in nghiêng là chú thích của người viết về bối cảnh ở từng thời kỳ. Độc giả có thể xem chi tiết hơn về các đoạn trích dẫn trong phần chú thích.

    Xuất gia tại chùa Từ Hiếu (1926 – 1949)

    Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 trong một gia đình có bố làm quan trong triều đình Huế.

    “Tôi đi học tiểu học ở ngôi trường có chương trình song ngữ tiếng Việt và tiếng Pháp. Chúng tôi cũng có một vài giờ học tiếng Trung ở trường. Chúng tôi học tiếng Pháp. Tôi phải học lịch sử, địa lý bằng tiếng Pháp. Và tôi cũng phải học lịch sử và địa lý Việt Nam bằng tiếng Việt nữa.

    Chúng tôi biết về sự tồn tại của phong trào phản kháng bí mật, chống lại người Pháp và chế độ thuộc địa. Tôi đã chứng kiến những thanh niên, trai cũng như gái, bị bắt chỉ vì họ là thành viên của lực lượng kháng chiến. Khi tôi lớn lên, tôi cũng chứng kiến những người đói ăn. Có một khoảng thời gian mà mỗi buổi sáng thức dậy, tôi thấy rất nhiều xác chết trên đường phố bởi vì người ta không có gì để ăn. Học sinh phải đi xin gạo. Và vào buổi trưa, chúng tôi đến từng nhà xin từng bát cơm. Chúng tôi chia cơm thành từng bát nhỏ hơn cho những người đang chết đói…” [1]
    “Vào năm bảy hay tám tuổi, tôi được chiêm ngưỡng hình vẽ Bụt trong một tập san về Phật giáo, người ngồi an nhiên trên cỏ, mỉm cười và bình an hơn bất cứ ai xung quanh tôi lúc bấy giờ. Hình ảnh đó đã cuốn hút tâm trí tôi ngay lập tức. Vì vậy mà tôi khao khát trở thành một nhà sư như Bụt.

    Ban đầu, gia đình chưa sẵn sàng với ý định xuất gia của tôi vì bố mẹ tôi nghĩ rằng cuộc đời tu hành rất vất vả. Tôi vẫn nuôi dưỡng mong ước đó, và đến năm tôi 16 tuổi, gia đình đã cho phép tôi xuất gia [tại chùa Từ Hiếu].
    Tôi luôn cảm thấy mình sẽ không hạnh phúc nếu không trở thành một thầy tu. Chúng tôi gọi cảm giác đó là tâm trí của người mới bắt đầu (beginner’s mind) – một ý định sâu kín, một mong muốn sâu sắc nhất mà một người có thể có. Và có thể nói rằng kể từ đó đến nay, tâm trí của người mới bắt đầu ấy vẫn sống trong tôi.”

    “Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm. Một hôm thầy sai tôi đi làm một việc. Tôi hăng hái, hấp tấp, đi nhanh ra và khép cửa vội vàng.
    Thầy kêu tôi lại: ‘Này con, con lại đây’.
    Tôi trở lại, đứng vòng tay chờ.
    Thầy tôi nói: ‘Con đi ra lại và khép cửa cho đàng hoàng coi’.
    Đó là bài học đầu tiên của tôi về thực tập chánh niệm. Khi đó tôi đi ra trong chánh niệm, ý thức từng bước đi, nắm lấy cánh cửa trong chánh niệm, và mở cửa trong chánh niệm. Kể từ đó thầy không còn phải dạy tôi cách đóng cửa lần thứ hai.” [3]
    “Tôi sống trong một ngôi chùa có không khí khá giống như một gia đình. Sư phụ giống như một người cha và các thầy giống như những người anh em lớn nhỏ của mình. Nó như một gia đình. Tôi không có ham muốn tạo dựng gia đình, vì rõ ràng là tôi đã có thời gian hạnh phúc của một chú tiểu. Tôi hay nói với các nhà sư và đệ tử trẻ của mình rằng nếu con thấy hạnh phúc trong hai năm đầu đời đi tu thì thầy nghĩ rằng con sẽ còn hạnh phúc khi trở thành một nhà sư.” [4]

    “Ngày xuất gia và được thọ giới sa di, tôi được trao pháp danh là Trừng Quang, pháp tự là Phùng Xuân. Phùng Xuân nghĩa là gặp mùa xuân.” [5]

    “Chúng tôi là sự nối tiếp của Bụt và chư tổ sư, trong đó có Trúc Lâm đại sĩ, thiền sư Lâm Tế, thiền sư Liễu Quán và thiền sư Nhất Định.” [6]

    Sau ba năm thọ giới, Thích Nhất Hạnh được gửi vào Phật Học Viện Báo Quốc. Chỉ một thời gian sau, ông cùng bạn đồng môn vào Sài Gòn để tìm hiểu về triết học, văn học, ngoại ngữ, những thứ chưa được giảng dạy ở trường Báo Quốc. [7]

    Năm 25 tuổi (1951), Thích Nhất Hạnh thọ Tỳ-kheo trở thành một tu sĩ Phật giáo. Tiếp đến, ông dạy thiền học và giảng dạy về đạo Phật tại Phật Học Viện Ấn Quang ở Sài Gòn trong những năm 1950. Cũng từ đây, ông bắt đầu công cuộc làm mới đạo Phật bằng các nghiên cứu, giảng dạy và viết sách trước tình trạng đàn áp tôn giáo của chính quyền và sự suy thoái của Phật giáo. [8]

    “Chúng tôi đã đau khổ vì tình trạng chính trị của đất nước. Chúng tôi lại càng đau khổ vì tình trạng của đạo Phật. Hồi ấy chúng tôi đã nói tới vấn đề hiện đại hóa đạo Phật. Hồi ấy chúng tôi đã cố gắng mọi cách gây ý thức về một nền Phật giáo dân tộc để phục hồi sinh lực dân tộc trong ước vọng xây dựng xứ sở. Tôi đã làm báo, đã viết sách. Nào báo Hướng Thiện, nào báo Liên Hoa, nào báo Sen Hái Đầu Mùa.”

    Làm báo (1955 – 1959)

    “Năm 1955, tôi được Tổng hội Phật giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật, nên đã cố gắng viết tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất toàn vẹn.
    Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những loạt bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: ‘Ai lại tờ báo của Tổng hội mà đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ’.” [9]

    “Thế là chúng tôi mất khí giới cuối cùng. Chính trị thì khôn ngoan, tìm đủ mọi cách cho tiềm lực dân tộc không có cơ hội phát hiện. Tổ chức Phật giáo thì thủ cựu, chia rẽ. Chúng tôi, những người trẻ tuổi, không có tiền bạc. Không có uy thế, không có một ‘miếng đất để cắm dùi’, làm sao thực hiện được ước mộng? Sau một thời gian ốm đau tưởng chết, tôi rút về nằm ở ngôi chùa nhỏ bé và an tĩnh ở Blao [Đà Lạt].” [10]

    Đến Hoa Kỳ (1961 – 1963)


    Không lâu sau đó, ông cùng những người bạn thành lập Phương Bối, một chỗ tu tập và sống cuộc đời đạm bạc cách Sài Gòn hơn 180 cây số. Nơi này chỉ tồn tại được một thời gian thì lại bị chính quyền đàn áp do nghi ngờ dính líu đến các hoạt động chống chính quyền. Trước tình hình đó, Thích Nhất Hạnh phải trốn về Sài Gòn để lánh nạn. Năm 1961, vì thời cuộc bức bối, ông sang Hoa Kỳ nghiên cứu về Phật giáo ở Đại học Princeton rồi giảng dạy tại Đại học Columbia.
    Quang cảnh hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào ngày 11/6/1963 tại Sài Gòn để phản đối chiến tranh và chính sách đàn áp tôn giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ảnh: Malcolm Browne/ AP.

    Mâu thuẫn giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm lên đến đỉnh điểm vào năm 1963. Phật giáo phản kháng bằng nhiều cuộc biểu tình, tự thiêu trên đường phố nhằm gây chú ý trước tình trạng đàn áp tôn giáo.
    Thích Nhất Hạnh lúc này ở Mỹ cũng bắt đầu bận rộn với việc vận động cho quyền tự do tôn giáo và chống chiến tranh ở quê nhà. Ông xuất hiện trên truyền hình, gặp ký giả, dịch các tài liệu về vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vận động các tổ chức quốc tế và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào tình hình bi đát ở nước nhà.
    Dấn thân với các hoạt động xã hội (1963 – 1966)

    Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Thích Nhất Hạnh trở về Sài Gòn vào tháng 12/1963 theo lời mời của Tổng hội Phật Giáo Việt Nam.

    “Dọc theo con đường dài từ phi trường Tân Sơn Nhất về nhà, tôi chứng kiến lại một cách hiện thực tình trạng chậm tiến của xứ sở này. Những dãy nhà còn lụp xụp ngổn ngang, đầy nhóc những người, những bác xa phu cong lưng đạp xích lô, mồ hôi nhễ nhại.
    Dân nông thôn đã đổ xô lên Sài Gòn quá nhiều. Chắc chắn là vùng quê ít chỗ có được an ninh. Những hình ảnh đó khiến tôi nao nao. Việt Nam đang ở trong một giai đoạn lịch sử quyết liệt. Không biết chúng tôi có thể làm được cái gì để đóng góp vào trong cái hướng đi mới của một dân tộc vừa thoát khỏi một chế độ độc tài hay không.” [11]


    “Xã hội chúng tôi đã bị phân hóa quá, bởi vì chiến tranh […]. Ngày nay quần chúng nghi ngờ mọi thiện chí, mọi hứa hẹn. Chúng tôi nhận thấy ngoài chất liệu tôn giáo, không còn có chất liệu nào có thể tạo dựng được đoàn kết tính và xã hội tính.” [12]
    “[…] trong hàng chục năm qua, người dân đã nghe quá nhiều những hứa hẹn cải tiến xã hội nhưng nếp sống cơ cực vẫn hoàn cơ cực. Thêm vào đó, chiến tranh làm cho ruộng vườn hư nát, làm cho cơ nghiệp sụp đổ, làm cho an ninh bị đe dọa.

    Người dân quê đã bị đánh lừa nhiều lần khiến họ không còn tin tưởng ở một lời hứa hẹn đường mật nào nữa. Họ đã bị lợi dụng. Và họ đã sợ hãi phần đông những người cán bộ mà họ tiếp nhận từ trung ương. Họ [những cán bộ] chẳng làm được việc gì đáng kể. Họ chỉ tuyên truyền qua loa chính quyền, và được đào tạo cấp bách, non nớt, không hiểu được tâm lý quần chúng, không có tâm niệm phụng sự, họ nói và làm những điều phật ý nông dân.” [13]

    “Người Mỹ đã tin tưởng quá ở mãnh lực đồng tiền và chính phủ của ông Diệm, đã tin tưởng quá ở sức mạnh bạo lực.

    Ấp chiến lược […] nhắm tới một mục tiêu quân sự và chính trị chứ không nhắm tới mục tiêu xã hội. Chính vì thế mà những tuyên truyền về cách mạng xã hội đều không được ai nghe theo. Chúng tôi thấy rõ điều đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. Chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật và vô tổ chức.” [14]

    “Tương lai đất nước chúng tôi tùy thuộc vào rất nhiều ở những nỗ lực hiện tại để cải tiến xã hội nông thôn. Chủ quyền độc lập của xứ sở chúng tôi […] chỉ có thể đảm bảo khi nào chúng tôi có thể đứng vững trên hai chân của chúng tôi.” [15]

    Thích Nhất Hạnh dạy trẻ em tập đọc bằng một bài hát về Quán Thế Âm Bồ Tát tại một làng tự nguyện những năm 1960. Ảnh: PVCEB.

    “Chúng tôi đã làm xong một dự án về một tổ chức đào tạo, những ‘làng tự nguyện’. Những người này [những thanh niên] sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, có đủ kiến thức về xã hội về tôn giáo và nhất là về phương pháp thực hiện các dự án chống nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt và vô tổ chức.

    Họ sẽ hành động không vì lương bổng, quyền hành mà vì tình thương, ý thức và trách nhiệm và ý thức tự nguyện. Chỉ với chất liệu tâm lý do chí nguyện đó, họ mới có thể thành công. Mà những người trai trẻ như thế […] không hiếm ở đất nước này đâu. Tôi dám chắc […] là có hàng vạn hay hàng chục vạn. Tôi đã gần gũi họ trong những ngày gần đây, và đã thấy trong mắt họ sáng lên trong niềm tin mới. Chỉ trong mấy tháng nữa chúng tôi khai giảng trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, và ngôi trường này sẽ là một trường chuyên nghiệp thông thuộc một viện đại học trẻ trung vừa mới thành lập. Ban giảng huấn của trường gồm toàn những người trẻ tuổi, tất cả đều nao nức về công việc sắp thực hiện.” [16]

    “Chúng tôi hiện có hai làng thí điểm tại miền Nam, hai làng tại miền Trung – một tại Khánh Hòa, một tại Thừa Thiên.“ [17]
    “Ba tiếng ‘làng tự nguyện’ gợi cho chúng ta hình ảnh một khu làng mà trong đó dân chúng tự tổ chức lại nếp sống kinh tế, giáo dục và y tế của họ theo những tiêu chuẩn phát triển cộng đồng.

    Họ chấm dứt thái độ tiêu cực và trông chờ, phải có những người bạn có óc tổ chức, có kiến thức căn bản về sinh hoạt xã hội nông thôn sống ngay trong xóm làng, làm chất men cho tinh thần tự nguyện phát khởi. Ở khu làng thí nghiệm này, chúng tôi đã được dân làng chấp nhận [sau một khoảng thời gian thí nghiệm] như là anh em bà con của họ, cái nhà mà tôi đang ở đây là một cái nhà bốn gian, ba gian là trường học, một gian là trạm y tế. Tất cả đều do các nông dân trong làng tạo dựng, với sự có mặt của chúng tôi.” [18]

    Học viên của trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. Ảnh: PVCEB.“Ban đầu thì phải nghiên cứu về tình trạng chung của làng về các mặt y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội. Rồi tùy theo tình trạng mà bắt đầu công cuộc cải tiến. Phải đánh thức ước muốn của dân làng dậy bằng những công tác trình diễn chứng minh. Và tự nhiên dân làng hưởng ứng. Tuy vậy cũng công tác đầu phải làm ở nhiều làng vốn không phải là những công tác y tế và giáo dục.

    [Về giáo dục], ban đầu, một công tác viên về làng, và làm quen với vài em bé trong lúc chơi đùa, câu cá, hát hò. Rồi anh công tác viên đó hỏi thăm về sự học hành của các em, và rốt cuộc là các em bằng lòng để cho anh dạy cho mà học thay vì đi chơi rong suốt ngày. Họ ngồi dưới gốc cây, kê một tấm gỗ để viết chữ. Thế rồi chỉ một tuần sau, số học trò tăng lên mười mấy em.

    Khi học trò đông quá mà chỗ học thiếu thốn, các phụ huynh họp lại để giải quyết vấn đề trường ốc. […] Một buổi họp như thế cố nhiên đưa đến kết quả là sự quyết định dựng một ngôi trường cho làng. Và người thì cho tre, người thì cho gỗ, người thì cho gạch, người thì cho công. Vật liệu không hiếm. Ban đầu chỉ cần là trường bằng tre, tranh và đất thôi. Khi mà dân làng ý thức được sự cần thiết, thì tự nhiên khả năng của thôn quê để tự cải tiến trở nên lớn lao. […] Họ không cầu xin của Chính phủ hay của viện trợ một xu nào.” [19]

    Năm 1965, cuộc chiến ở miền Nam ngày càng leo thang.

    Ảnh lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ ở Đà Nẵng vào tháng 3/1965. Ảnh: PVCEB.

    “Tháng Sáu năm 1965, tôi đã viết một lá thư cho mục sư Martin Luther King để giải thích vì sao các nhà sư Việt Nam lại tự thiêu. Tôi nói rằng đó không phải là một vụ tự sát. Để tiếng nói được lắng nghe trong tình trạng đất nước lúc đó là rất khó khăn. Đôi khi chúng tôi phải tự thiêu mình để tiếng nói được lắng nghe. Đó là sự từ bi. Đó là hành động của tình yêu thương và không tuyệt vọng.” [20]

    Sự thành công của “làng tự nguyện” đã gây được ấn tượng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 9/1965, giáo hội cho phép thành lập trường như một phân viện của Viện Đại học Vạn Hạnh. Tuy nhiên, sau lời kêu gọi hòa bình của Thích Nhất Hạnh vào năm 1966 thì trường bị loại khỏi viện đại học này vì ông bị cho là thân cộng sản. Mặc dù vậy, trường vẫn tiếp tục phát triển.

    “Chúng tôi đã lập được trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đào tạo trên 600 tác viên và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các làng hoa tiêu và làng tự nguyện để nâng cao phẩm chất của sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức.
    Chúng tôi đã có những công tác tại các xóm nghèo Mã Lạng Quốc Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ năm 1961, của Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn). Chúng tôi bắt đầu lập làng Tình Thương […] với hơn 100 sinh viên Phật tử. Chúng tôi đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và cứu đói [vào năm 1964] dọc theo hai bờ sông Thu Bồn lên đến Thượng Nguồn.”

    Đến năm 1966, Thích Nhất Hạnh trở thành một trong những nhân vật lãnh đạo phong trào Phật giáo trong nước. Ông còn là một trong những người sáng lập ra Viện Cao đẳng Phật học tại chùa Pháp Hội (sau chuyển thành Viện Đại học Vạn Hạnh vào năm 1966), [21] nhà xuất bản Lá Bối và Dòng tu Tiếp Hiện (một dòng tu thể hiện sự dấn thân của Phật giáo vào đời sống).Sáu đệ tử trong Dòng tu Tiếp Hiện cũng là thành viên của

    Vận động cho hòa bình (1966 – 1975)


    Ngày 12/5/1966, Thích Nhất Hạnh khi ấy 40 tuổi rời Việt Nam để vận động cho hòa bình tại quê nhà.
    “Chiều mai tôi phải đi rồi.” [22]
    “Đêm nay, trời sáng tỏ một cách kỳ lạ. Tôi chưa đi mà đã nhớ nhà rồi. Tôi đi rồi tôi lại về thì có sao đâu. Lòng tôi hơi xao xuyến một chút, nhưng mà vẫn yên tĩnh. [23]

    Tôi tới Hoa Kỳ để kêu gọi chấm dứt thả bom. Thời điểm đó, nửa triệu quân lính Hoa Kỳ đã có mặt tại Việt Nam, trong số đó có trên năm mười ngàn quân nhân đã bị giết hay mất tích trong chiến tranh. Đất đai, rừng núi, sông ngòi bị tàn phá và ô nhiễm vì các chất độc hóa học.

    Khi ấy tôi đã là một giáo thọ và nhà văn được biết tiếng trong nước. Tôi có ý định ở lại Hoa Kỳ trong ba tháng để kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Nhưng sau ba tháng, tôi được biết là chính quyền Việt nam không cho phép tôi trở về nước vì tôi đã cả gan lên tiếng kêu gọi hòa bình.” [24]

    Thích Nhất Hạnh lên đường sang Mỹ để vận động ngừng chiến tại Việt Nam. Ảnh: PVCEB.

    “Chúng tôi bị kẹt giữa hai bên lâm chiến và chúng tôi buộc phải lên tiếng. Nhưng đa số chúng tôi không có đài phát thanh, không có đài truyền hình, không có báo chí để nói lên thực trạng. Những ai dám kêu gọi chống chiến tranh đều bị bắt. Cho nên có những người đã tự thiêu để thu hút công luận, để công luận không còn thờ ơ trước nỗi đau của đa số dân chúng không muốn chiến tranh.” [25]

    “Chỉ khi đó báo chí mới thấy rằng đa số người dân Việt Nam không chấp nhận chiến tranh. Đó là lý do vì sao tôi quyết định đi sang các nước Tây phương để nói cho thế giới biết những đau khổ của đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam.” [26]

    “Trong năm đầu tiên, tôi đã nằm mơ về đến nhà gần như mỗi đêm. Tôi đã thấy mình leo lên một ngọn đồi xinh đẹp, rất xanh, rất hạnh phúc, và đột nhiên tôi thức dậy và thấy mình sống lưu vong. […] Một năm sau đó thì giấc mơ như thế dừng lại.” [27]
    Thích Nhất Hạnh dành toàn thời gian để tranh đấu cho hòa bình ở quê nhà từ năm 1966. Ảnh: PVCEB

    “Đúng một năm sau khi tôi viết thư cho mục sư King thì tôi gặp ông ấy ở Chicago. Chúng đã có một cuộc thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Và chúng tôi đồng ý rằng nếu không có cộng đồng chúng tôi không thể tiến xa trong cuộc vận động của mình.” [28]

    Năm 1967, Martin Luther King đã đề cử Thích Nhất Hạnh cho Giải Nobel Hòa bình.

    “Tôi nhớ lần cuối cùng tôi gặp mục sư King tại Thụy Sĩ, trong một hội nghị do Hội đồng Thế giới các Giáo hội (World Council Churches) tổ chức, lấy tên là Pacem in Terris (Hòa bình trên Trái đất). […] Đó là năm 1968. Mục sư đã mời tôi lên ăn sáng để đàm đạo: vì bận họp báo nên tôi lên trễ nửa giờ. Ông vẫn cố giữ thức ăn sáng cho nóng. Trong buổi gặp gỡ này, tôi đã có dịp nói với ông là: các bạn ở Việt Nam rất yểm trợ ông và xem ông như một vị Bồ Tát sống, ông rất hoan hỷ khi nghe như thế và sau này mỗi khi nghĩ tới buổi họp mặt ấy, tôi lại thấy hài lòng vì đã nói được với ông câu ấy, bởi vì chỉ mấy tháng sau ông bị ám sát.” [29]
    “Khi tôi nghe về vụ ám sát mục sư King, tôi không thể tin được. Tôi nghĩ: ‘Người Mỹ đã tạo ra King nhưng không có khả năng bảo vệ ông ấy’.” [30]

    Thích Nhất Hạnh cùng mục sư Martin Luther King trong một cuộc họp báo về chiến tranh Việt Nam ở Chicago vào ngày 31/5/1966. Ảnh: PVCEB.Thành lập tăng đoàn ở hải ngoại (những năm 1980 – 2018)

    “Sau khi được biết chính phủ Việt Nam Cộng hòa không muốn tôi trở về Việt Nam, tôi vẫn tiếp tục kêu gọi chấm dứt chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Sau đó, tôi đi sang châu Âu, châu Á và châu Úc. Cuối cùng tôi dừng lại ở Paris và thiết lập một trung tâm tu học để tiếp tục công tác kêu gọi hòa bình.” [31]
    Thích Nhất Hạnh và tu sinh ở Làng Mai vào năm 1990, lúc đó ông 64 tuổi. Ảnh: Simon Chaput.

    Trong khi lưu vong, Thích Nhất Hạnh vẫn liên lạc và sắp xếp những hoạt động nhân đạo tại Việt Nam và ở các nước khác.
    “Chúng tôi đã lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (từ 1965 đến 1975), Ủy ban Tái thiết và Phát triển Việt Nam (từ 1971 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của hòa thượng Thiện Hòa).

    Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, [chúng tôi] đã điều động vớt được 600 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên vịnh Thái Lan […] (1976 – 1978). Chúng tôi đã thành lập Chương trình Cứu trợ xã hội Hiểu và Thương và hoạt động âm thầm từ năm 1975 tới 2009.” [32]

    Và nhiều chương trình nhân đạo khác. Tuy nhiên, ông không lên tiếng trực tiếp và mạnh mẽ khi chính quyền đàn áp tàn nhẫn đồng môn của mình ở quê nhà sau năm 1975.

    Thuyền nhân Việt Nam trên tàu Roland. Con tàu do Thích Nhất Hạnh và môn đồ thuê để vớt những người Việt Nam trôi dạt ngoài khơi biển Singapore vào năm 1976. Ảnh: PVCEB.

    “Trong gần 30 năm hành đạo tại Tây phương, tôi đã truyền Năm Giới cho hàng trăm ngàn người Âu, Mỹ, Nga, Úc, Trung Hoa, Nhật Bản… Người nào cũng pháp danh bắt đầu bằng chữ Tâm, thế hệ thứ 43 của phái Lâm Tế và cũng là thế hệ thứ chín của dòng Liễu Quán.”
    Thích Nhất Hạnh chủ trì một buổi lễ truyền đăng công nhận những môn đồ trở thành giảng sư dạy về thiền định. Ảnh: Simon Chaput.Trở về Việt Nam sau 40 năm ở hải ngoại (2005)

    Từ thập niên 1990, chính quyền Việt Nam mở cửa với thế giới. Những thuyền nhân, những người đã ra đi sau năm 1975 được kêu gọi quay về quê hương đóng góp cho kinh tế. Những nhân vật nổi tiếng được chính quyền mời về nước để thu hút những người Việt đã bỏ xứ ra đi.
    Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai thiền hành tại Hồ Gươm vào năm 2005. Ảnh: PVCEB.

    “Suốt thời gian bốn mươi năm, chúng tôi đã cố gắng dàn xếp để trở về Việt Nam. Cuối cùng, tháng Giêng 2005, tôi được phép trở về quê hương.

    Phái đoàn cùng về Việt Nam với tôi gồm hai trăm người. Tôi muốn trở về Việt Nam như một tăng thân, một tăng thân đích thực chứ không phải như một tế bào (bị rách ra khỏi cơ thể như lúc ra đi), để trình bày pháp môn thực tập hiểu biết và thương yêu, bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi thực tập vững vàng, tinh tấn và chân thực thì chúng tôi có thể chuyển hóa sự nghi ngại của chính quyền.” [33]

    Thích Nhất Hạnh cùng tu sinh đi trên một con đường ở Huế trong lần đầu tiên trở về nước vào năm 2005. Ảnh: PVCEB.

    Các hoạt động tu tập của ông trong lần đầu trở về nước đã gây được ấn tượng với chính quyền nhưng vẫn luôn bị công an Việt Nam giám sát vô cùng chặt chẽ. Thích Nhất Hạnh cùng môn đồ được phép tổ chức nhiều buổi nói chuyện công khai với công chúng, bao gồm các đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên – Huế và Hà Nội.

    Nói về chính trị (2007)

    “Trưa ngày 9/10/2007, tạp chí Time có đến vấn tôi về những biến cố ở Miến Điện và về vấn đề hâm nóng Trái Đất. […] Tôi có nói các vị xuất gia bên ấy đã can đảm đứng dậy đưa đường chỉ lối cho toàn dân về vấn đề nhân quyền và dân chủ. Các vị đã tỏ ra xứng đáng là những người lãnh đạo tâm linh của đất nước.

    Tuy đang bị đàn áp, tù đày hoặc giết chóc, nhưng tâm của họ rất an, vì họ đã làm được việc họ phải làm: Cung cấp cho đất nước và dân tộc họ vai trò lãnh đạo tâm linh. […] Các tầng lớp dân chúng trong nước mỗi khi nghĩ đến các vị ấy là thấy lòng mình xúc động. Chính năng lượng của tình thương và của niềm tin ấy sẽ là động lực nuôi dưỡng hành động của họ để mang lại nhân quyền và dân chủ cho đất nước họ. Thế giới đang yểm trợ Miến Điện, như thế giới đã từng yểm trợ cuộc tranh đấu của Phật tử và đồng bào Việt Nam trong những năm sáu mươi […] Không phải chỉ một Phật tử đứng lên mà toàn thể các Phật tử cùng đứng lên một lượt. Bây giờ Miến Điện cũng thế. Không phải chỉ một thầy đứng lên mà tất cả các thầy đều đứng lên. Đây mới thật sự là lãnh đạo tâm linh.” [34]

    Thích Nhất Hạnh được đón chào nồng nhiệt trên hầu hết các quốc gia mà ông đặt chân đến. Ảnh Thích Nhất Hạnh cùng tu sinh tại Indonesia. Ảnh: PVCEB.

    “Đất nước và dân tộc không thể không có một chiều hướng tâm linh. Đời người cũng không thể thiếu vắng một chiều hướng tâm linh. Thiếu một con đường tâm linh, ta sẽ không có khả năng đối diện với khổ đau, chuyển hóa khổ đau và hiến tặng được gì cho cuộc đời. Người không có đường đi là người đi trong bóng tối. Có đường đi rồi, ta sẽ không còn lo sợ.

    Tăng thân của tôi và tôi đã thực tập quán chiếu khổ đau không những cho phe cộng sản hay phe chống cộng mà của cả những người lính Hoa Kỳ, vì họ đã bị đưa tới một đất nước xa lạ để giết người và bị giết. Tôi không hận thù bởi vì tôi có hiểu biết về thương yêu. Rất nhiều người trong chúng tôi đã sống sót được nhờ thực tập hiểu biết và thương yêu đó.

    Kinh nghiệm của tôi từ nhữngcuộc chiến tại Việt Nam đã khiến cho tôi tin tưởng vững chắc rằng bạo lực không thể loại trừ được khủng bố. Và lắng nghe sâu có sức mạnh hơn bom đạn. Khủng bố sinh ra do tri giác sai lầm. Quân khủng bố có tri giác sai lầm về họ và về chúng ta. Vì thế nên họ muốn tiêu diệt chúng ta, trừng phạt chúng ta.

    Nếu hiểu được cách tư duy, cũng như cách nhận thức của họ thì chúng ta có thể giúp họ loại bỏ tri giác sai lầm. Loại trừ tri giác sai lầm là nền tảng của công cuộc chuyển hóa bạo động, khủng bố và xây dựng hòa bình.” [35]

    Nói về môi trường và kinh doanh (2007)

    Thích Nhất Hạnh cùng tu sinh trên đỉnh núi Vulture Peak linh thiêng của Phật giáo ở Ấn Độ vào năm 2008. Ảnh: Borje Tobiasson.

    “[Về hiểm họa trái đất bị hâm nóng], sẽ có nhiều những người trong chúng ta chết vì tâm bệnh (vì lo sợ, tuyệt vọng mà sinh bệnh ngày càng nhiều), trước khi hiểm họa kia đi tới.

    Trong buổi giảng [vào tháng 10/2007 tại trường Đại học San Diego], tôi đã đưa ra phương pháp thực tập mà Đức Thế Tôn chỉ dạy: Nhìn nhận và chấp nhận sự thật mà đừng trốn tránh nó […]: Tôi thế nào cũng phải già, phải chết, phải bệnh. […] Tôi không mang theo được gì hết ngoài thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của tôi. Đó là gia tài duy nhất mà tôi có thể mang theo. Thực tập chấp nhận được như thế, mình sẽ có bình an, mình sẽ có khả năng sống lành mạnh và từ bi, không còn gây đau khổ cho mình và cho người khác.” [36]

    “Mẹ ta, Trái Đất, Hành tinh xanh, đã từng bị khốn khổ nhiều lần, đã từng khổ đau vì thầy đàn con dại dột. Chúng ta tàn phá Đất mẹ như một loài vi trùng tàn phá một cơ thể con người, vì Đất mẹ cũng là một cơ thể. Nhưng có những loài vi khuẩn rất thân hữu và có ích cho cơ thể con người. Hàng tỉ con như thế đang có mặt trong ta, nhất là trong hệ thống tiêu hóa, chúng giúp bảo vệ cơ thể và chế tác những sinh tố mà ta cần đến. Loài người có thể là những sinh vật có khả năng bảo vệ cơ thể Đất mẹ như thế, nếu loài người tỉnh thức, biết sống có trách nhiệm và từ bi. Đạo Phật ra đời là để ta học sống có trách nhiệm và từ bi. Ta phải thấy được tính cách tương tức, đồng sinh cộng tử giữa ta với Đất mẹ.” [37]

    Thích Nhất Hạnh trồng cây bồ đề ở Ấn Độ vào năm 2008. Ảnh: PVCEB.

    “Đối với vấn đề bảo vệ môi trường cũng thế. Kinh doanh với tâm từ bi, với ý thức trách nhiệm là điều có thể làm được. Kinh doanh với tâm từ bi không làm suy yếu khả năng cạnh tranh mà trái lại có thể gia tăng lợi tức. Ngoài ra ta có thể thêm bạn và hạnh phúc hơn. […] Còn chỉ lo thu lợi mà làm ảnh hưởng tới môi trường tức là ta không còn từ bi và sẽ gây tàn hại sinh vật. Nếu biết rằng ta đang tàn hại sinh vật thì lương tâm ta bất an và sinh ra nội kết. Mặc dầu làm ra nhiều tiền, nhưng lương tâm ngày càng bất an thì một ngày nào đó ta sẽ không còn hạnh phúc được nữa.” [38]

    Tổ chức các “trai đàn chẩn tế” tại Việt Nam (2007)

    Năm 2007, Thích Nhất Hạnh cùng môn đồ được trở về nước lần thứ hai. Trong chuyến đi này, ông đã tổ chức các buổi cúng cầu siêu quy mô lớn ở nhiều nơi.
    Đông đảo Phật tử và công chúng đón tiếp Thích Nhất Hạnh cùng tu sinh tại sân bay Tân Sơn Nhất trong chuyến về nước năm 2007. Ảnh: PVCEB.

    “Những oan ức và khổ đau của hàng triệu người Việt trong và sau thời gian chiến tranh đã dồn chứa lại, và năng lượng tiêu cực ấy đã đè nặng lên đời sống của dân tộc trong bao nhiêu thập niên.
    Tại các trai đàn chẩn tế, chúng ta đã hết lòng chế tác năng lượng từ bi, của tha thứ, của bình an để mong chuyển hóa được thứ năng lượng tiêu cực kia. Ta đã mời những người đã chết, đi bằng hai chân của chúng ta. Ta đã mời các vị ấy nhìn bằng hai mắt của chúng ta để thấy rằng non sông cẩm tú vẫn còn đó, và chúng ta nguyện nỗ lực giữ gìn để đừng đánh mất non sông ấy.” [39]
    Thích Nhất Hạnh trong lễ truyền Năm Giới tại chùa Bằng trong chuyến về nước vào tháng 5/2008. Ảnh: PVCEB.

    Vụ việc Bát Nhã (2005 – 2009)

    Không lâu sau chuyến về Việt Nam lần thứ ba vào năm 2008, xung đột lớn xảy ra giữa những môn sinh tu tập theo pháp môn Làng Mai và các môn đồ của chùa Bát Nhã cùng tu tập tại ngôi chùa này ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Chính quyền Việt Nam bị cáo buộc có nhúng tay vào vụ việc.

    Sau khi chùa Bát Nhã được mở rộng làm nơi tu tập cho môn sinh theo pháp môn Làng Mai từ năm 2005 thì đến giữa năm 2008, trụ trì chùa Bát Nhã không chấp nhận những môn sinh Làng Mai nữa (trước đó trụ trì đã xin hiến chùa cho thiền sư Thích Nhất Hạnh để truyền dạy pháp môn Làng Mai tại Việt Nam). [40] Sau khi trụ trì chùa Bát Nhã từ chối các môn sinh Làng Mai, chính quyền ra quyết định trục xuất 379 tu sinh ra khỏi chùa sau hàng loạt các vụ bạo động ở đây do đám đông được cho là “người dân” gây ra.

    Đến tháng 9/2009, tu viện Bát Nhã bị một nhóm người đến đập phá. Các môn sinh Làng Mai tin là những người này có sự ủng hộ của công an. Toàn bộ tăng ni theo pháp môn Làng Mai bị đuổi hết ra khỏi chùa sau nhiều tháng bị cắt điện và nước. Họ đến tạm lánh ở chùa Phước Huệ được một thời gian, nhưng sau đó cũng phải rời khỏi ngôi chùa này. [41]

    Đồ dùng của các tu sinh theo pháp môn Làng Mai bị ném ra sân của Tu viện Bát Nhã trong sự kiện xảy ra vào năm 2009. Ảnh: RFA.

    Vụ việc này bắt đầu không bao lâu sau Lá thư Làng Mai số 31, đăng vào tháng 2/2008. [42] Báo Công an Nhân dân cũng sử dụng bức thư này để phỉ báng Làng Mai và Thích Nhất Hạnh vì cho rằng ông muốn can thiệp quá sâu vào quản lý tôn giáo và chính trị khi nêu nhiều quan điểm liên quan đến đảng, “công an tôn giáo” và Ban Tôn giáo Chính phủ. [43]

    Trong bức thư gửi tu sinh trong nước vào tháng 12/2009, Thích Nhất Hạnh đã viết: [44]
    “Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức.

    Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của Thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên những đề nghị ấy đã bị Công an và Ban Tôn Giáo Nhà nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình.

    Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.”

    Đầu năm 2010, trong một bài viết, Thích Nhất Hạnh đã gọi vụ việc ở chùa Bát Nhã là một “công án thiền”. Những nhận định của ông trong bài viết này cũng phản ánh về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam: [45]

    “Tại sao mình chỉ muốn tu thôi mà người ta không cho mình tu? Tại sao các bậc tôn túc muốn che chở bảo lãnh cho mình tu mà nhà nước lại không cho bảo lãnh? Mình có biết chính trị là cái gì đâu và chẳng tha thiết gì tới chuyện chính trị, tại sao người ta cứ nói là mình làm chính trị và tại sao cứ nói Bát Nhã là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia? Tại sao phải giải tán cho được Bát Nhã dù phải áp dụng những biện pháp như thuê côn đồ, vu khống, lừa gạt, đánh đập, đe dọa? Tại sao họ là những người đáng bậc cha chú mình mà họ nỡ làm như thế đối với mình? Nếu nhà nước không cho mình tu chung như một Tăng thân nữa mà bắt mình phải mỗi người đi một ngả thì làm sao trong tương lai mình có thể có lại một Tăng thân? Tại sao ở các nước khác người ta có tự do để thực tập pháp môn, còn ở đây thì không? Những câu hỏi như thế dồn dập đi tới.”

    Đặt mình thuộc hàng giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông lên tiếng:
    “Nhưng tại sao mình [những giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam] bất lực không che chở được cho họ? Tại sao mình phải sống và hành xử như một nhân viên của chính quyền? Tách rời chính trị khỏi tôn giáo, giấc mơ này đến bao giờ mới thực hiện được? Trong thời Thực dân, trong thời ông Diệm và ông Thiệu, tuy hành đạo có khó khăn thật đấy, nhưng người tu cũng không bị kiểm soát gắt gao quá đáng như trong hiện tại.

    Người ta chỉ muốn có một đạo Phật của tín mộ, của thờ cúng, người ta không muốn có một đạo Phật có khả năng lãnh đạo tinh thần và văn hóa đạo đức cho quốc dân. Một đạo Phật thật sự có uy quyền lãnh đạo tinh thần, người ta rất sợ. Người ta chỉ chấp nhận được một tổ chức Giáo Hội mà người ta có thể kiểm soát được, sai xử được.”

    Thích Nhất Hạnh có sức ảnh hưởng lớn đối với công chúng ở nhiều đất nước. Thích Nhất Hạnh cùng tu sinh tổ chức thiền định tại quảng trường Trafalgar, Anh Quốc, vào ngày 31/3/2012. Ảnh: PVCEB.Di nguyện về tang lễ (2012)

    Năm 2012, trong buổi tụ họp nhân ngày sinh của mình tại Làng Mai, Thích Nhất Hạnh nói với môn đồ về việc chôn cất ông sau khi qua đời:

    “Thầy không muốn sau này quý vị xây cho Thầy một ngôi tháp ở Tổ Đình. Xây tháp như thế sẽ không có ý nghĩa gì nếu ngày hôm nay quý vị không nối tiếp được những gì Thầy đang trao truyền.

    Thầy rất không thích chuyện lấy một mớ tro từ hình hài của Thầy rồi bỏ vào trong một cái hũ, rồi đặt vào trong tháp. Thầy không phải là cái nắm tro đó. Không có lý Thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao? Thầy nhiều hơn cái nắm tro đó. Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có Thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có Thầy.

    Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền tọa, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng, có Sám Pháp Địa Xúc là có Thầy. Không được nhốt Thầy, bỏ Thầy vào trong một cái hũ nhỏ rồi đặt Thầy vào trong một cái tháp. Thầy không muốn Thầy có một cái tháp. Tốn đất chùa vô ích.” [46]

    Nói về chia rẽ Hàn Quốc – Triều Tiên (2014)
    Thích Nhất Hạnh trò chuyện trên một chương trình truyền hình ở Seoul vào ngày 13/5/2014. Ảnh: Yonhap.

    Năm 2013, Thích Nhất Hạnh đến Hàn Quốc. Tại đây, ông đã chia sẻ suy nghĩ của mình về xung đột ở hai miền đất nước này. [47]
    “Vũ khí hạt nhân cản trở mối quan hệ tốt đẹp giữa miền Nam và miền Bắc. Nó cho thấy sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ trong chúng ta. Chúng ta sẽ không chế ra vũ khí hạt nhân nếu chúng ta không sợ hãi và giận dữ.
    Để giữ hòa bình, điều đơn giản không phải là gỡ bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ trong chúng ta. Nếu chúng ta có thể giảm chúng đi thì hòa hợp là một điều dễ dàng.”

    Theo ông, chìa khóa cho sự hòa giải thù hận là lắng nghe với tâm từ bi.
    “Lắng nghe với tâm từ bi làm cho các bên đau khổ ít đi. Nếu chúng ta nhận ra rằng họ cũng như mình thì chúng ta không còn giận nữa.
    Nếu bạn là chính trị gia, bạn có thể sẽ muốn học cách thương lượng trong Phật giáo. Đạo Phật có những chỉ dẫn rất rõ ràng và cụ thể về truyền thông phục hồi và việc mang sự hòa giải trở lại.”

    Sức khỏe suy yếu (2014 – 2018)

    Tháng 11/2014, sức khỏe của ông đã suy yếu. Ông trải qua một cơn xuất huyết não nặng, phải điều trị tại bệnh viện ở Pháp trong nhiều tháng. Đến tháng 4/2015, ông trở lại Làng Mai và sức khỏe hồi phục khá tốt.

    Thích Nhất Hạnh cùng tăng thân Làng Mai vào mùa hè năm 2014. Ảnh: PVCEB.

    Năm 2015, ông gửi thư đến Liên Hiệp Quốc chia sẻ về vấn đề biến đổi khí hậu. [48]
    “Chúng ta phải tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng lòng từ bi trong ta. Hiện nay nhiều người trong chúng ta đang tiêu thụ một cách rất bạo động. Những khu rừng đang bị tàn phá để làm đồng cỏ nuôi gia súc lấy thịt hay để trồng ngũ cốc làm rượu, trong khi hàng triệu người trên thế giới đang chết đói. Nếu ta giảm ăn thịt và uống rượu xuống 50% thì đó là một hành động thương yêu, thương yêu chính mình, thương yêu Trái Đất và những loài khác.

    Những thế kỷ của chủ nghĩa cá nhân và cạnh tranh đã gây ra sự tàn phá và chia cách rất lớn. Chúng ta cần tái lập sự truyền thông thật sự với chính mình, với đất Mẹ và với những chủng loại khác trên hành tinh này với tư cách là những đứa con cùng chung một mẹ. Chúng ta cần phát minh ra nhiều kỹ thuật tân tiến hơn để bảo vệ hành tinh này. Chúng ta cần những cộng đồng thật sự và cần sự hợp tác với nhau.”

    Trở về tổ đình Từ Hiếu và qua đời (2018 – 2022)

    Ngày 29/8/2017, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam kể từ lần thăm gần nhất năm 2008. Lúc này, ông đã 91 tuổi và sức khỏe đã suy yếu rất nhiều.


    Trong lần trở về vào năm 2018, ông đã xin ở lại chùa Từ Hiếu, ngôi chùa mà ông đã xuất gia vào năm 16 tuổi, cho đến lúc qua đời.

    “Tôi đã quyết định trở về Việt Nam để được sống nơi đất Tổ, có mặt cùng chư huynh đệ và con cháu của Tổ đình cho đến ngày tôi chuyển bỏ hóa thân này.” [49]

    Giữa tháng 9/2020, sức khỏe của thiền sư Nhất Hạnh suy yếu nặng. Trong bối cảnh hạn chế nhập cảnh do dịch bệnh COVID-19, chính quyền Việt Nam đã ưu tiên cho các đại đệ tử của ông được nhập cảnh vào Việt Nam để chuẩn bị hậu sự cho ông. [50]
    Thích Nhất Hạnh cùng Dalai Lama trong một bức ảnh chụp vào năm 2006. Ảnh: Bhuvan Lall.Cho đến nay, Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, truyền pháp môn Làng Mai ra khắp thế giới. Ông là một trong số ít người Việt Nam có ảnh hưởng đối với quốc tế. Khi nói đến Phật giáo trên thế giới, danh tiếng và tầm hưởng của Thích Nhất Hạnh chỉ đứng sau Dalai Lama. Nhưng đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa cho phép pháp môn Làng Mai của ông được truyền dạy ở trong nước.

    Vào lúc 0 giờ, ngày 22/01/2022, thiền sư Thích Nhất Hạnh qua đời tại tổ đình Từ Hiếu, tỉnh Thừa Thiên – Huế, khép lại cuộc đời đầy sống động khi mùa xuân đang đến rất gần, như pháp tự mà ông được đặt: “Phùng Xuân”.

    https://www.luatkhoa.org/2022/01/cuoc-doi-cua-thien-su-thich-nhat-hanh/







  2. #2
    Nhà Lầu
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    351

    BIỂN LỬA GIỮA HOA SEN
    Trần Kiêm Đoàn


    G
    iở lại lịch sử Phật giáo, một câu chuyện cổ sơ, mòn nhẵn, nhưng bao giờ cũng mới. Mới không phải vì sự hùng biện của ngôn từ, mà vì sự im lặng. Sự lặng im đầy chánh pháp.

    Theo Cảnh Ðức Truyền Đăng Lục thì vị tổ đầu tiên của Thiền tông Trung Hoa là Ðạt Ma Tổ Sư. Cuộc đối thọai giữa Tổ Ðạt Ma và vua Lương Vũ Ðế (502-549) được truyền tụng hơn 15 thế kỷ qua đã trở thành một biểu tượng về tinh thần phá chấp khi nói đến Thiền trong đạo Phật. Truyền Ðăng Lục ghi cuộc đối đáp này như sau:
    Lương Vũ Ðế hỏi Tổ Ðạt Ma:

    Trẫm từ khi lên ngôi đến nay đã cho xây chùa, dựng tượng, in kinh, độ tăng rất nhiều. Vậy trẫm có công đức gì chăng?”
    Tổ Ðạt Ma đáp: “Chẳng có công đức gì cả.”“Tại sao làm Phật sự nhiều như thế lại không có công đức?“Bởi vì đó chỉ là những tiểu quả mà thôi. Ðấy chỉ là cái nhân giả lập như bóng theo hình, có mà chẳng thật.”“Vậy phải làm thế nào mới được xem là công đức?”“Phải tự mình rèn cho trí trong sạch, tâm thanh tịnh, tánh rỗng lặng, thân an vui, như thế mới là Công Ðức. Công đức ở nơi tự tánh, chứ chẳng phải do vật chất bên ngoài mang đến.”Vua hỏi tiếp: “Chân lý tối cao của bậc thánh là gì?”“Khi tỉnh ra, thông suốt rồi thì không có gì gọi là thánh cả.”“Người trước mặt trẫm là ai?”“Chẳng biết!”

    Vua Lương Vũ Ðế không lãnh hội được, cuộc đối thoại chấm dứt. Tổ Ðạt Ma biết căn cơ không hợp, lặng lẽ lên núi Tung Sơn, chùa Thiếu Lâm, trọn ngày ngồi thiền đối diện với bức tường trong suốt chín năm.Khi không còn đối thoại thì rút vào im lặng là đạo lý của tư duy. Nói để mà nói, tranh tụng hơn thua con gà hay cái trứng có trước, là sự rỗng mòn của nếp nghĩ và cũng là ngõ cụt về những ý thức mới.Bao nhiêu sách vở hơn nghìn năm sau vẫn chưa nói hết được phần tinh túy nhất của sự im-lặng-muôn-trùng-tiếng-nói nầy.Trong thế giới Thiền, phải chăng ngôn ngữ chỉ là quy ước nghèo nàn, thô lậu; có khi ồn ào mà vô nghĩa, bất lực trong sự chuyển tải những suối nguồn tư tưởng thâm diệu của con người?!Khi nói đến thiền ngôn và thiền ngữ trong nghệ thuật Thiền, thiền sư Khánh Hữu, trụ thế ba trăm năm sau Sơ Tổ Ðạt Ma, đã làm bài kệ “Chân ngôn ký”, có đọan đại ý nói rằng:

    Ðáng xấu hổ thay những người tự nhận mình là Phật tử lại dùng miệng lưỡi dung tục để nói chuyện Thiền môn phi Phật pháp. Ðáng thương thay những người chưa nhảy qua miệng giếng tri thức đã lạm bàn chuyện mây trời. Và tội nghiệp thay những kẻ ngậm lời quỷ sứ phun mặt chân nhân.
    Cái hiện trạng đáng xót xa "Ngậm lời quỷ sứ phun mặt chân nhân" hình như không chỉ xẩy ra nghìn năm trước mà vẫn lập lại hoài cả nghìn năm sau và thời nào cũng có...

    Người viết bài nầy vốn là kẻ vô can thế mà bỗng cảm thấy dị ứng trước một hiện tượng nóng bỏng, xin tạm gọi là "Hiện tượng luận bàn về thầy/sư ông/thiền sưThích Nhất Hạnh"!
    "Vô can" vì tôi chẳng có một liên hệ cá nhân nào với thầy Nhất Hạnh, ngoài việc đọc một số sách của Thầy đã xuất bản trong vòng năm chục năm qua như muôn nghìn người khác.

    Xa hơn thế nữa, tôi đã viết bài tham luận "Sự thống nhất cần thiết của tính thuần Việt và Hán Việt trong ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam" để nói lên thái độ không tán đồng về việc thầy Nhất Hạnh chủ xướng đổi từ Phật thành "Bụt". Theo chỗ hiểu của tôi thì Bụt là một hiền thánh, một vị "Tiên Ðất" thuần túy Việt Nam. Cô Tấm ngày xưa gặp cơn họan nạn kêu Bụt, Bụt hiện lên giúp đỡ. Trẻ con Việt Nam hát đồng dao về Bụt: "Bụt khéo như Tiên, Bụt hiền như Phật, Bụt thật như cơm...". Bụt mang căn tánh từ bi của Phật nhưng không phải là Phật.

    Về mặt đạo pháp, tôi vẫn còn xa lạ với khuynh hướng hành Thiền đậm tính "trú xứ" của Làng Mai. Và về sau nầy, tôi cũng không còn thú đọc những tác phẩm giảng pháp theo mô thức "văn nói" do các thiện giả ghi lại đã làm nhạt bớt tính sáng tạo văn chương, vốn rất uyển chuyển và tài hoa của thầy Nhất Hạnh. Nói tóm lại là khi tự soát xét lại chính mình, tôi không có lý do để đứng về phía đả kích gay gắt hay phía ca ngợi nhiệt thành thầy Nhất Hạnh. Ðược học tập từ nền văn hóa Việt Nam và được cơ hội tiếp thu thêm văn hóa xứ người trong một khoảng thời gian dài gần ngang nhau ở quê nhà và quê người (trên dưới 25 năm mỗi phía), tôi tôn trọng sự công bằng và thẳng thắn trong đối thọai. Nói lên lời ủng hộ hay bày tỏ thái độ phê phán về một nhân vật nào đó là sinh hoạt bình thường và lành mạnh của đời sống tâm lý và tri thức cần được duy trì và phát huy trong một xã hội nhân văn. Tuy nhiên, xã hội nhân văn đòi hỏi cung cách văn hóa tối thiểu trong tiếng khen cũng như lời chê. Khen ai lựa lời thích hợp đã khó; chê ai chọn cách trình bày mang tính thuyết phục lại càng khó hơn.
    Cái triết xử thế khôn khéo của dân gian Việt Nam: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe..." không đòi hỏi địa vị và bằng cấp, mà chỉ cần một tâm hồn trong sáng.

    Un đúc từ lịch sử dựng nước và giữ nước gian nan; chịu đựng những thăng trầm suốt dòng lịch sử nghìn năm Bắc thuộc, trăm năm Tây đô hộ và bao năm chinh chiến... đã để lại cho người Việt một lối sống mềm dẻo, lối xử thế khôn khéo. Dân tộc nào cũng có mặt "giương" để chiến đấu và mặt "thủ" để sinh tồn. Ðấy là lối ứng xử tinh tế, biết tiến, biết thoái và biết lách mình né tránh kẻ mạnh đúng lúc để có lợi, để yên thân, để tránh sự đương đầu trực diện với một đối thủ mạnh hơn. Nếp sinh hoạt tinh thần đó là tiền đề tạo ra nguồn tâm lý tiểu xảo. Về mặt tích cực, tâm lý tiểu xảo là vũ khí để sống còn của dân tôc Việt Nam trong thế thường xuyên phải đương đầu với những thế lực cường bạo xâm lăng. Tuy vậy, di lụy của nguồn tâm lý tiểu xảo đã sản sinh ra những nhà "trí thức khôn vặt" - những ông Trạng Cười Việt Nam - vốn là những du tử thông minh, lanh lợi nhưng thường chỉ có những hành trạng rắn mắt, quyền biến mẹo vặt trong cuộc sống như Trạng Quỳnh, Trạng Bùng, Trạng Lợn... Và cũng chính cái di lụy tâm lý tiểu xảo nầy đã tạo ra nếp nghĩ nhược tiểu và tâm lý cạnh tranh tiêu cực. Trong cuộc cạnh tranh, thay vì nâng mình cao hơn đối thủ để tự chứng minh phẩm chất ưu việt của mình so với đối thủ thì người mang tâm lý tiểu xảo lại đứng yên từ vị trị yếu kém của mình để vùi dập đối thủ, cố đè bẹp đối thủ xuống bằng những phương tiện hạ sách như nói xấu, châm biếm, vu vạ, đặt điều thiếu công bằng hợp lý và không hợp với tầm vóc của đôi bên.

    Cái giá phải trả của tâm lý tiểu xảo trong lĩnh vực nhân văn là người Việt tuy thông minh và sáng tạo, tự hào có bốn nghìn năm văn hiến, nhưng chưa un đúc được một triết gia, một nhà tư tưởng hay một triết lý dân tộc độc lập có tầm cỡ trong lịch sử tư tưởng thế giới. Nếp nghĩ nhỏ chỉ tạo ra được những sản phẩm nhỏ. Thói quen tiểu xảo là chuyên đè bẹp người bằng phương tiện nhỏ nhen và vô minh. Không có thiện xảo mà chỉ có thuần tiểu xảo thì chính tác nhân tiểu xảo đó là kẻ trước tiên tự dìm mình xuống trước mặt đối thủ của mình và vô hình chung hạ thấp nhân cách của mình.

    Trong rất nhiều trường hợp Thầy Nhất Hạnh đã bị nhìn từ một góc độ tâm lý tiểu xảo như thế.

    Một người chỉ cần mang cái "nghiệp" của người cầm bút thôi cũng đủ bị đặt trên dàn phóng của sự khen chê rồi. Huống hồ người đó còn là một nhà sư có tăng đoàn và đường lối riêng, một luận sư mang khuynh hướng cải cách, một khuôn mặt nổi bật trong cộng đồng tôn giáo thế giới như thầy Nhất Hạnh thì biển đời khen chê làm sao tránh khỏi.

    Những bình luận, nhận định, phân tích, chỉ trích, tán dương... xuất hiện quanh chuyến đi Việt Nam của thầy Nhất Hạnh là một phản ứng tất yếu, một hình thái sinh hoạt tinh thần lành mạnh và cần thiết.

    Lời khen chê xưa nay vốn là chuyện đời thường. Nhưng khi sự lộng ngôn và hý luận lại khoác áo "trung ngôn và chính luận" lập đi lập lại một cách dai nhách vì thiếu chất tươi của tri thức như bò sữa gặm cỏ cháy thì quả là chuyện "lạ thường" trong một xã hội bình thường! Diễn đàn thông tin và nghị luận và quần chúng đang bị coi thường quá đáng. Với trình độ dân trí của người Việt hải ngoại sau mấy thập niên tiếp cận với văn hóa Âu Mỹ, những khuynh hướng "ngu dân" coi thường quần chúng tự nó đã chôn vùi vai trò và tác dụng của chính nó. Hẳn nhiên, quần chúng thầm lặng của thế kỷ 21 đã quá đủ già dặn về cả hai mặt thông tin và tri thức để cười rất "thiền" với những kẻ đáng thương như lời sư Khánh Hữu!

    Trong một bối cảnh văn hóa lành mạnh, hiện tượng luận bàn về thầy Nhất Hạnh đáng lẽ phải trổ hoa, đâm chồi nẩy lộc về nhiều mặt như tôn giáo, triết học, giáo dục... thì thực tế lại đang phát triển theo chiều ngược lại.

    Sự "thoái trào" của ý thức và tâm thức đáng tiếc nầy xẩy ra vì sự dung tục quá đáng, đôi khi đến chỗ cực đoan của phương pháp luận bàn. Nói về tu mà dùng lời tục; nói về thiền mà thiếu mất một phong thái và một ngữ cảnh về thiền; nói về Phật giáo mà bám riết vào tinh thần chấp trước cực đoan phi Phật giáo... là đem sự ồn ào vọng động để truy tìm cái chân tánh rỗng lặng của nhà Phật. Phải chăng đây là sự nghịch lý mà một số người đang vô tình hay cố ý theo đuổi?!

    Như đã trình bày ở trên, tôi không phải là "fan", là đệ tử của thầy Nhất Hạnh nên rất có thể sẽ không làm bằng lòng những phía cực đoan. Do vậy, những dòng viết về thầy Nhất Hạnh sau đây là những hiểu biết rất khiêm tốn và đồng thời cũng chỉ là những cảm nghĩ riêng của cá nhân mình để mong chia sẻ với những người Việt có tâm hồn, khối người Việt tha hương tỉnh táo nhìn thế sự qua cái nhìn khách quan và thầm lặng.
    *
    Huế là một thành phố nhỏ nhắn miền Trung, một kinh đô cũ của nước Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn. Huế còn được mệnh danh là một "thủ đô Phật giáo" trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại.

    Mấy trăm cơ sở chùa chiền tu viện của Huế không mang dáng vẻ phô trương mà ẩn mình trong mầu thiên nhiên của núi sông cây cỏ. Các tu sĩ Phật giáo ở Huế cũng hòa vào đời sống đạm bạc của quần chúng mà đặc biệt là quần chúng bình dân theo đạo Phật.
    Các tu sĩ nhỏ tuổi thường được gọi một cách thân mật là "Chú". Các tu sĩ trẻ xưng là "Thầy" và quý Thầy cao niên xưng là "Ôn" (Ôn = Ông, khác với “ôn đới”, “ôn hoà”).
    Những danh xưng đầy vẻ "đạo cao" như Thiền sư, Sư ông, Ðại đức, Thượng tọa, Hòa thượng... không hiện diện trong tương quan sinh hoạt thực tế hàng ngày của đời sống Phật giáo Huế. Và những chức vụ "đức trọng" như Thượng thủ, Pháp chủ, Tăng thống, Pháp sư, Tôn sư, Tổ sư... lại càng xa lạ với tinh thần Phật giáo hơn. Một nét khiêm cung và tình cảm điển hình trong văn hóa Phật giáo Huế là các thiện nam, tín nữ thường chỉ biết đến các bậc tu hành đạo cao đức trọng qua danh tiếng của ngôi chùa và tiếng "Ôn" rất điềm đạm và từ ái như: Ôn Từ Ðàm, Ôn Từ Hiếu, Ôn Linh Mụ, Ôn Tây Thiên, Ôn Châu Lâm, Ôn Trà Am...

    Thầy Thích Nhất Hạnh là một tu sĩ Phật giáo xuất thân từ Huế.

    Với một bối cảnh tôn giáo như thế, trong bài viết nầy, người viết xin được dùng danh xưng "Thầy" rất gần gũi thay vì phải dùng những danh từ tôn xưng xa lạ với truyền thống Phật giáo, như đã trình bày ở trên khi nói về thầy Thích Nhất Hạnh và quý tu sĩ Phật giáo khác.

    Thầy Thích Nhất Hạnh là một trong những tu sĩ Phật giáo Việt Nam được cộng đồng tôn giáo thế giới biết đến nhiều như: Thầy Thích Thiên Ân, thầy Thích Minh Châu, Thầy Thích Tuệ Sỹ, Ni sư Thích Nữ Trí Hải...

    Năm 1966, thầy Nhất Hạnh rời Việt Nam: Hoa sen trong biển lửa!

    Năm 2004, thầy Nhất Hạnh về Việt Nam: Biển lửa giữa hoa sen?!

    Bốn mươi năm: Một chặng đường lửa dậy!

    Kinh Pháp hoa nói về lửa: "Ba cõi không an, chẳng khác nhà lửa". Lửa tham sân si; lửa nghi hoặc chấp trước; lửa kiêu mạn; lửa ái dục... cứ ngấm ngầm ngày đêm thiêu đốt tâm thức của chúng sanh.

    Lửa tam muội, lửa ta bà, lửa từ bi, lửa hận thù, lửa vô minh, lửa khai sáng và lửa duyên nghiệp... vẫn trùng trùng dấy lên trong từng nhấp nháy của cuộc sống. Có những ngọn lửa dập tắt được, nhưng vẫn có những ngọn lửa vô hình không dập tắt được. Người ta vẫn phải sống với lửa hàng ngày. Con người tồn tại vì con người biết sống với lửa. Không để bị lửa đốt cháy mà biến lửa thành một hơi ấm, một phương tiện thiện xảo cho đời sống thể chất lẫn tinh thần.

    Hoa sen là một biểu tượng của tinh thần Phật Giáo. Ðó là ý niệm "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ðó là hình ảnh bàn tay mở ra hứng lấy những khổ đau, hận thù, sinh diệt triền miên. Nếu chỉ có mùa đông lạnh lẽo mà không có lửa hạ, sẽ không có hoa sen. Nếu không có khổ đau của chúng sinh thì đức Phật và đạo Phật không có lý do ra đời và tồn tại để giải bớt khổ đau. Vì thế, hình tượng hoa sen trong biển lửa là hình ảnh dấn thân của người Phật tử giữa cuộc đời đầy tương tranh và đau khổ. Biển lửa giữa hoa sen là biểu tượng của sự trang bị tinh thần và trí tuệ Phật tánh, bồ tát hạnh, sẵn sàng dấn thân vào đau khổ để diệt mầm đau khổ và tiếp cận với tương tranh để hóa giải tương tranh.

    Thầy Nhất Hạnh trở về Việt Nam sau 40 năm lưu vong trong một hoàn cảnh như hiện nay là đi trong biển lửa giữa hoa sen.

    Vào những năm đầu thập niên 1960, bên cạnh đời sống tu sĩ, thầy Nhất Hạnh còn là một nhà văn, nhà thơ có khuynh hướng cải cách và gần gũi với tuổi trẻ qua hình thức mang triết lý tư tuởng Phật giáo và nếp sống thiền vị vào những tác phẩm sáng tạo văn chương. Những tác phẩm văn học của thầy Nhất Hạnh như Tình người (bút hiệu Tâm Quán), Nẻo về của ý, Nói với tuổi hai mươi, Bông hồng cài áo, Ðạo Phật hiện đại hóa... đã gây một tiếng vang và có tác động tích cực vào đại chúng Việt Nam trong nội bộ Phật giáo cũng như ngoài xã hội, đặc biệt là giới trí thức và tuổi trẻ miền Nam đương thời.

    Cuộc chiến tranh Việt Nam càng ngày càng bạo liệt trong nước, thì tiếng nói phản chiến kêu gọi hoà bình của cộng đồng quốc tế càng tăng cường độ ở các nước châu Mỹ và châu Âu. Ngay cả Ðức Giáo Hoàng Paul VI, khi đề cập đến cuộc chiến Việt Nam, cũng đã lên tiếng trong Hội trường Liên hiệp quốc ở New York:"Hãy ngưng chiến tranh. Ðừng đánh nhau nữa, đừng bao giờ để chiến tranh tái diễn!" (Stop the war. No more war, never again war).

    Sáng lập trường Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội năm 1965 là một khuynh hướng dấn thân rất mới của tuổi trẻ theo kiểu Kiboutz của Do Thái. Ðó là trường huấn luyện thanh niên thiện nguyện với chiều hướng phục vụ làng xã Việt Nam bằng sức bật, kiến thức, tài năng và tấm lòng của tuổi trẻ, chung tay xây dựng đất nước khi chiến tranh chấm dứt. Bên cạnh đó là những tác phẩm văn chương mang tiếng nói tha thiết kêu gọi hòa bình của thầy Nhất Hạnh, một cách vô hình chung, bị coi như một sự cổ xúy và đồng lõa với phong trào phản chiến đang nổ ra trên toàn thế giới và tại các thành thị miền Nam.

    Tháng 5 năm 1966, thầy Nhất Hạnh được đại học Cornell ở Mỹ mời diễn thuyết hòa bình. Với tuổi 39, đây là bước khởi đầu cho những loạt diễn thuyết và gặp gỡ các nhân vật thời danh như Robert McNamara, Eugene McCarthy, Martin Luther King và được hội kiến với đức Giáo Hoàng Paul VI vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. Vì những cuộc vận động hoà bình nầy, Chính phủ miền Nam không cho thầy Nhất Hạnh về lại nữa. Ở ngoại quốc, lập trường chính trị trong công cuộc vận động hòa bình của thầy Nhất Hạnh phối hợp với những nhân vật nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau tại Âu Châu cũng như Mỹ Châu, được báo chí ngoại quốc nhận định như sau:"Thích Nhất Hạnh và những thành viên Phật giáo vận động trong phong trào hòa bình không về phe Cộng sản ở miền Bắc, cũng không về phe chống Cộng ở miền Nam. Họ cũng không mưu cầu một quyền lực chính trị nào cho chính họ."

    (Thich Nhat Hanh and his fellow Buddhist activists sided neither with the communists north nor the anti-Communist south. Nor did they harbour desire for political themselves. Stephen Batchelor. TCN. GD 2001). Trong số những lời diễn thuyết, những bài viết kêu gọi hòa bình của thầy Nhất Hạnh thì tác phẩm Hoa sen trong biển lửa (Lotus in the Sea of Fire) là tiếng kêu mạnh mẽ và thống thiết nhất. Tác phẩm nầy ra đời vào mùa Xuân năm 1966, được một nhà Thần học Thiên Chúa giáo nổi tiếng của Mỹ là Linh mục Thomas Merton viết lời tựa và Alfred Hassler viết lời bạt. Tác phẩm nầy được dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng bản dịch Việt ngữ lại bị cấm lưu hành tại Việt Nam thời bấy giờ.

    Đối với chính quyền Việt Nam, trước và sau 1975, thầy Nhất Hạnh vẫn là người đứng bên lề. Nghĩa là chẳng có một bên nào coi thầy Nhất Hạnh là "người của ta" cả. Mỗi phía đều có lý do nội tại của nó, nhưng nhìn một cách khách quan và công bằng thì cho tới ngày 24-1-2005, ngày phái đoàn Phật giáo Làng Mai về Việt Nam, thì thầy Nhất Hạnh, sau gần 40 năm xa xứ, vẫn giữ được một thái độ độc lập tương đối với các thế lực tôn giáo cũng như chính trị trong và ngoài nước.

    Nói lên điều nầy, chủ tâm người viết chỉ mong nói đến "thầy Nhất Hạnh như thầy Nhất Hạnh". Nghĩa là tránh quan điểm phong thánh hay "tả quỷ" dễ dãi để tâng bốc quá đà hay miệt thị đầy định kiến đối với một nhân vật nào đó xuất phát từ sự chủ quan đầy cảm tính vì sự ngưỡng mộ hay tâm lý chống báng nặng cảm tính nhất thời.

    Trong mắt nhìn của những người tìm hiểu khách quan, bản thân và sự nghiệp của thầy Nhất Hạnh được ghi nhận như sau:

    Ðứng về mặt tôn giáo, thầy Nhất Hạnh là một nhà tu; một nhà nghiên cứu Phật học có chiều sâu với một phương pháp luận kết hợp hài hòa giữa tính lô-gích phương Tây và tính trực cảm phương Ðông.

    Ðứng về mặt văn học nghệ thuật, thầy Nhất Hạnh là một nhà văn, một nhà thơ. Ðặc biệt thầy Nhất Hạnh là một tác giả Việt Nam đầu tiên ở nước ngoài đã viết cả trăm tác phẩm văn chương và khảo luận về tôn giáo, xã hội, triết học bằng tiếng Việt mà trong đó đã có đến vài chục tác phẩm viết trực tiếp hay được dịch ra bằng tiếng Anh. Trong số sách bằng tiếng Anh về lĩnh vực tôn giáo được xuất bản lưu hành khắp thế giới, có khoảng 10 cuốn sách tiếng Anh của thầy Nhất Hạnh thuộc vào hàng sách bán chạy (best seller). Có những cuốn đã phát hành khắp thế giới với hàng triệu ấn bản.

    Ðể thẩm định giá trị hành động hay tác dụng ý thức của một nhân vật, một con người thì điều cần yếu trước tiên phải có là sự công bằng và cách nhìn tỉnh táo. Sự tâng bốc hay bài xích cá nhân mang tính cực đoan, định kiến và bảo thủ sẽ trở thành mồi lửa rơm bùng lên đốt cháy một cách nhanh nhất giá trị và sự đáng tin cậy của nhận định chính nó. Trong chiều hướng đó, thử theo dõi và ghi nhận những nét nổi bật trong chuyến đi về thăm Việt Nam của thầy Nhất Hạnh như thế nào.

    Ngày 11 tháng 01 năm 2005, thầy Nhất Hạnh cùng với tăng thân Làng Mai rời Pháp về Việt Nam trong một chuyến thăm viếng và truyền pháp kéo dài 3 tháng (12-01-2005 đến 11-4-2005).
    Ðây không đơn giản là một cuộc hành hương hay một chuyến viếng thăm tập thể tuỳ nghi hay tùy thích của cả hai phía Việt Nam và Làng Mai mà là kết quả của một sự cân nhắc lợi hại cho cả hai phía. Một bên là thế lực lãnh đạo đương quyền và một bên là chức sắc tôn giáo. Bởi vậy, ngay bước đầu tiên khi trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế nêu lên mối quan ngại rằng, nhà cầm quyền Việt Nam có thể lợi dụng chuyện viếng thăm nầy để tuyên truyền cho quyền tự do tôn giáo của họ, thầy Nhất Hạnh đã trả lời rằng:

    "Có thể (bị lợi dụng) như thế lắm. Nhưng cách suy nghĩ của tôi không bị ảnh hưởng bởi các chuyện đó."
    Trả lời về sự nghi ngờ thiện chí của phía Việt Nam, thầy Nhất Hạnh cũng đã nói với báo Time: "Tôi biết chúng tôi sẽ bị quan sát bởi nhiều người - đặc biệt bởi công an. Nhưng chúng tôi không bận tâm bởi chúng tôi tin công an cũng có Phật tánh. Nếu bạn phát ra niềm vui, yêu thương, cảm thông, hòa bình và an lạc, họ cũng có thể cảm thụ và hưởng được lợi ích từ đó." (Time 24-01-05. “A Long Journey Home” của Kay Johnson)

    Nội dung và tinh thần cơ bản của các buổi giảng pháp, các khóa tu học của thầy Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai trong suốt 3 tháng du hành khắp cả ba miền Bắc Trung Nam không có gì khác lạ với tinh thần thiền Làng Mai và sinh hoạt tu học do Thầy hướng dẫn tại Pháp và các nước ngoài.

    Ðến đây, tưởng cũng nên dừng lại một chút để điểm qua khái niệm Thiền học truyền thống Việt Nam và Thiền Làng Mai của thầy Nhất Hạnh có gì khác biệt...


    Thiền Việt Nam và Thiền Làng Mai

    Vài nét về Thiền Việt:

    Thiền hay thiền na (Phạn ngữ: Dhyãna; Nhật ngữ: Zen; Anh ngữ: Meditation) là một tên gọi tương đối gần gũi với đạo Phật để chỉ một hình thức tu dưỡng tinh thần bằng nhiều phương pháp khác nhau, nhưng hình thức phổ quát nhất vẫn là sự trở về suy tư và soi rọi chính mình trong tĩnh lặng.

    Lịch sử Thiền gắn liền với lịch sử tri thức của con người. Ðây là một hình thức tĩnh tâm an dưỡng được nhiều tôn giáo sử dụng để đạt trạng thái tỉnh giác nội tại. Nếu tôn giáo là câu trả lời tạm thời cho những câu hỏi, những thắc mắc chưa có lời giải đáp dứt khoát của con người thì Thiền chính là một phương tiện trực tiếp để con người tự mình đi tìm một cách trả lời tương đối hợp với căn cơ của chính mình. Bởi vậy, nếu có bao nhiêu lối nhìn, lối suy tư về cuộc sống thì có bấy nhiêu khái niệm hay cách định nghĩa "Thiền là gì?"

    Qua nhiều chặng đường hình thành và phát triển đời sống tâm linh của con người, hình thức tĩnh tâm - Meditation - đến với các tôn giáo khác như đạo Chúa, đạo Hồi, đạo Ấn, đạo Do Thái... như một thí nghiệm đến rồi đi, không ở lâu. Riêng với đạo Phật thì hình thức tĩnh tâm đó đã gắn liền và dung hợp với bản chất "tâm không, tự độ" điển hình của đạo Phật. Do đó, thiền tu, thiền hành, thiền định... đã biến thành một hình thức tu trì xương sống của Phật giáo.

    Trong đạo Phật, người tập Thiền nhờ định tâm, định trí mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm thức. Tâm và thức của người hành thiền phải trải qua nhiều chặng, trong đó lòng tham dục và các pháp bất thiện sẽ bị rũ bỏ dần dần nhờ sự lắng đọng chuyên tâm suy tưởng của hành giả. Cuối cùng, người hành thiền sẽ đến được trạng thái tỉnh giác và an lạc.

    Thiền phương Ðông hình thành và phát triển trong khoảng thế kỷ thứ 6, 7 khi Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ mang pháp Thiền của đạo Phật sang Trung Hoa. Nhà Phật học danh tiếng người Ðức, H. W. Schumann đã nhận xét: "Thiền tông có một người cha Ấn Ðộ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc..."

    Thiền Trung Hoa là một sự hoà quyện giữa Thiền tông và Lão giáo nên từ Sơ Tổ Ðạt Ma đến Lục tổ Huệ Năng (638-713), Thiền Trung Hoa phát triển sâu rộng trong giới vua quan, quý tộc, học giả, trí thức mà ít thâm nhập vào quần chúng bình dân.

    Thiền Việt Nam rất khác với tinh thần Thiền học Trung Hoa và Nhật Bản vì Phật giáo Việt Nam là một nền Phật giáo nhập thế, không tách rời hẳn với khung cảnh chính trị, văn hoá và xã hội đồng thời. Tuy vẫn duy trì được phần tinh yếu của nguyên lý "tùy duyên bất biến" trong đạo Phật, nhưng nhiều thiền sư trong lịch sử như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Tuệ Trung Thượng Sĩ... vẫn góp phần xây dựng đất nước một cách tích cực trong vai trò lãnh đạo tinh thần và tham vấn trong công cuộc trị nước an dân.

    Trong bối cảnh truyền thừa của Phật giáo Á châu, chưa đất nước nào mà khái niệm Phật giáo Tiểu thừa và Ðại thừa lại có sự gắn kết và hỗ tương hài hoà trong công cuộc hoằng pháp độ sanh trong suốt cả chiều dài lịch sử như Phật giáo Việt Nam.

    Ðại thừa nhập thế, nhưng vẫn thường xuyên đi và về để tiếp cận với dòng suối trong mát đầu nguồn của tinh thần Tiểu thừa, nguyên thủy. Có thể nói bước tiến xã hội hóa và Việt Nam hóa Thiền học là một quá trình phát triển độc lập, độc đáo đáng tự hào đời sống tâm linh của tinh thần Phật giáo Việt Nam.

    Ðạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch và Thiền học Việt Nam khởi đầu bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ thứ III. Theo dòng sử Việt, Phật giáo đã có mặt suốt 20 thế kỷ trong dòng sinh mệnh Việt Nam tính từ thời Tiền và Hậu Lý Nam Ðế (542- 603) mở đầu nền tự chủ cho nước nhà; đến nhà Ðinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009), đạo Phật được triều đình coi là tôn giáo của cả nước; sang nhà Lý (1010-1225) và tiếp theo nhà Trần (1225-1400), đạo Phật lại càng được phát triển mạnh trong đời sống xã hội. Bên cạnh những giai đoạn cực thịnh, đạo Phật cũng trải qua những giai đoạn khó khăn và suy yếu, những thời kỳ Pháp nạn. Pháp nạn do tác động của hoàn cảnh chính trị, lịch sử, xã hội bên ngoài và pháp nạn do sự phân hóa bên trong.


    Vài nét về Làng Mai và "Thiền Làng Mai"

    Ngay khi có tin thầy Nhất Hạnh và phái đoàn tăng thân Làng Mai về thăm viếng và mở những buổi pháp thuyết và pháp đàm tu học tại Việt Nam, giới Phật tử tại quê nhà cũng như khắp năm châu phản ứng lạc quan cũng nhiều mà bi quan cũng lắm. Giới lạc quan thì cho rằng, thầy Nhất Hạnh sẽ là một thiện duyên để góp phần khơi dòng nguồn suối sức mạnh hóa giải vốn tiềm tàng từ bên trong nội bộ Phật giáo. Từ đó, Phật tử xuất gia cũng như tại gia có thể tùy duyên phân thân hình thức nhưng tinh thần thì vẫn hòa hợp. Giới bi quan thì cho rằng, sự về thăm quê hương của thầy Nhất Hạnh chỉ có lợi cho thế quyền chứ chẳng mang lại lợi ích gì cho Phật giáo. Sự hoài nghi không vọng động là một biểu hiện ý thức lành mạnh tạo sự quân bình cho dòng tri thức của xã hội có điều kiện tiến hóa. Ngược lại, chỉ có sự cực đoan và cuồng tín - tiêu biểu là sự khen hoặc chê quá đà và vội vã, thậm chí đôi khi thô thiển trong ngôn từ và thô bạo trong luân điểm - mới tàn phá và chận đứng dòng tiến hóa cần thiết của tri thức mà thôi.

    Trong khi sinh hoạt của thầy Nhất Hạnh bị "cấm vận" trong nước từ trước 1975 thì thầy đã kiên trì tìm một hướng đi riêng từ bên ngoài đất nước.

    Một hướng đi mà nhân loại đang cần và trong hoàn cảnh nào cũng được tôn vinh, đó là con đường của tình thương và tinh thần đấu tranh cho lẽ phải để hóa giải hận thù bằng phương pháp không bạo động. Mahatman Gandhi, Martin Luther King, Ðạt Lai Lạt Ma, Desmond Tutu... là những nhà tranh đấu đòi tự do và quyền làm người cho khối người bị áp bức bằng phương tiện bất bạo động mà nhân loại, không phân biệt mầu da hay chủng tộc, hằng ngưỡng mộ. Thầy Nhất Hạnh đã theo con đường của những nhà đấu tranh bất bạo động đi trước bằng môt tinh thần uyển chuyển và sáng tạo rất Ðông phương, đặt căn bản trên tinh thần cốt tủy từ bi, trí tuệ của Phật giáo. Làng Mai được thành lập trong tinh thần tu dưỡng và khai sáng đó.

    Làng Mai là một trung tâm thiền tập tọa lạc tại miền Tây Nam nước Pháp được hình thành vào đầu năm 1982.

    Những năm đầu, nhiều cây hồng ăn trái (persimon) đã được trồng lên cho nên trung tâm thiền tập này được gọi là Làng Hồng. Nhưng sau đó, 1250 cây mai thuộc loại pruniers d'Agen, rất ngọt và đậm đà, đã được trồng bằng tiền túi của thiếu nhi gốc Việt Nam về tu học, cho nên Làng Hồng đã đổi tên thành Làng Mai - tiếng Pháp là Village des pruniers, tiếng Anh là Plum Tree Village, gọi tắt là Plum Village. Tên chữ của Làng là Ðạo Tràng Mai Thôn.

    Mấy năm đầu thì Làng Mai chỉ có hai xóm: Xóm Thượng và Xóm Hạ. Nhưng vì nhu cầu càng ngày càng lớn của thiền sinh, Làng Mai mở thêm các xóm như: Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Trung, Xóm Ðoài và Xóm Mới. Xóm Thượng đã trở thành chùa Pháp Vân, tên chữ là Thệ Nhật Sơn Pháp Vân Tự. Xóm Hạ đã trở thành chùa Cam Lộ, tên chữ là Mai Hoa Thôn Cam Lộ Tự. Xóm Mới đã trở thành chùa Từ Nghiêm, tên chữ là Thiên Ý Thôn Từ Nghiêm Tự. Xóm Mới có thêm Xóm Mới Ðầu Thôn và Xóm Mới Lưng Ðồi để đủ cung ứng nơi cư trú cho thiền sinh tới thực tập càng lúc càng đông. Ngoài ra, Xóm Mới cũng mới có thêm một ngọn đồi và một con suối gọi là Ðồi Dương Xuân và Suối Dương Xuân, một niềm vui lớn cho các vị thường trú. Chùa Pháp Vân là thiền viện của các vị xuất gia nam, chùa Từ Nghiêm là thiền viện của các vị xuất gia nữ. Trong số các thầy và các sư cô, có nhiều vị gốc Anh, gốc Pháp, gốc Hòa Lan, gốc Mỹ, gốc Ái Nhĩ Lan, Úc... Làng Mai cũng là trú sở của Viện Cao đẳng Phật học, nơi đào tạo các vị giáo thọ xuất gia và tại gia. Tại Đạo Tràng Mai Thôn, ngoài chúng xuất gia, cũng có chúng tại gia thường trú, tu học rất tinh chuyên.

    Mỗi năm Ðạo Tràng Mai Thôn tổ chức những khóa tu mùa Hè, mùa Thu, mùa Ðông, v.v... Số thiền sinh về tham dự hàng năm có thể lên tới nhiều ngàn người. Ða số là người ngoại quốc, tới từ khoảng ba mươi quốc gia. Ðạo Tràng Mai Thôn đã trở nên một thiền viện quốc tế. Tại Làng Mai, thầy Nhất Hạnh đích thân giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu học cùng với sự phụ tá của gần hai chục vị giáo thọ thường trú, phần lớn là giới xuất gia (Theo Làng Mai Website).

    Với sự ra đời của Làng Mai, thầy Nhất Hạnh đã tiếp nối phát huy tinh thần đại chúng hóa của Phật giáo Việt Nam, đưa tinh hoa của Thiền tông và Tịnh độ đến gần với mọi người không phân biệt chủng tộc hay hoàn cảnh xuất thân.

    Ðối với xã hội Âu Mỹ, đời sống đua chen vật chất và vòng quay quá nhanh của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho tinh thần cũng như thể chất con người thường xuyên lắc lư theo đà quán tính của cuộc sống hàng ngày. Sự ra đời của máy vi tính, điện thọai cầm tay và phương tiện truyền thông tinh vi, nhanh như ánh sáng khiến cho con người mất chỗ trú ẩn. Con người bị đào bới tận gốc rễ từ trong nếp suy tư, giữa ý thức và vô thức. Cả vũ trụ vật lý nầy đều bị đào xới và ô nhiễm. Núi, rừng, sông, biển... cùng lắm thì cũng chỉ là chỗ trú thân và trú chân chứ không thể nào là chỗ an trú của tinh thần. Thiền bỗng trở thành một giải pháp. Ða số, người Âu Mỹ ngồi Thiền không phải để tìm sự giải thoát thành Phật mà để thành Người, một con ngườn an lạc, đỡ bị bức xúc hay căng thẳng. Thế thôi.

    Bên cạnh Thiền Ấn Ðộ, Nhật Bản, Trung Hoa, Tây Tạng, Ðài Loan, Ðại Hàn... thì Thiền học Việt Nam theo mô thức Làng Mai (cũng gọi là Thiền Làng Mai) cũng được hàng ngàn, hàng vạn người Âu Mỹ quan tâm tìm hiểu và theo học. Trong hiện trạng sinh hoạt văn hóa và tâm linh tại các nước Âu Mỹ, phải khách quan để thấy rằng, thầy Nhất Hạnh là một trong những hiện tượng hiếm hoi về sự thành công của một nhà sư Phật giáo Việt Nam trong cộng đồng thế giới. Ttrong gần 40 năm qua, thầy Nhất Hạnh đã liên tục mở những khóa tu học cho cả Việt Nam và người nước ngoài.

    Ðặc biệt tại Mỹ, những buổi nói chuyện về các đề tài Thiền học và cách ứng xử với cuộc sống hàng ngày trước mắt bằng tinh thần Thiền học do thầy Nhất Hạnh thuyết giảng và hướng dẫn tại nhiều nơi trên đất Mỹ thường thu hút đông đảo người nghe. Những hội trường rộng mênh mông không còn chỗ trống. Nét đặc trưng của các khóa tu học hay thuyết giảng về Thiền của thầy Nhất Hạnh là tính chất đơn giản và thực dụng, rất hợp với căn cơ của người Mỹ và người Việt trong xã hội công nghiệp Âu Mỹ. Thính chúng không cần phải có một căn bản giáo lý hay một quá trình tu học vẫn theo dõi và hiểu được.

    Từ một cơ sở lý thuyết cao siêu, trừu tượng và đặt trọng tâm vào tự lực tự chứng của Thiền học, thầy Nhất Hạnh đã đưa ra những phép tu, phương pháp thực hành và lề lối suy niệm rất đơn giản vào đại chúng.

    Sau đây thử ghi lại một trong năm bài tập thiền tập có hướng dẫn rất dễ làm theo phương pháp của thầy Nhất Hạnh. Ai cũng có thể tập thử để thấy tính chất thực tiễn của thiền. Bốn bài đầu có tác dụng nuôi dưỡng. Bài thứ năm có tác dụng trị liệu, tất cả được trích trong sách Sen búp từng cánh hé.

    Bài tập thứ nhất:

    Thở vào, tâm tĩnh lặng. Thở ra, miệng mỉm cười. Tĩnh lặng. Mỉm cười.
    Thở vào, an trú trong hiện tại. Thở ra, giây phút đẹp tuyệt vời. Hiện tại. Tuyệt vời.


    Nhiều người bắt đầu thực tập thiền bằng bài tập này. Có nhiều người dù đã thực tập bài tập này trong nhiều năm vẫn còn tiếp tục thực tập, bởi vì nó tiếp tục đem tới nhiều lợi lạc cho hành giả.

    Thở vào, ta chú tâm tới hơi thở: Hơi thở vào tới đâu ta cảm thấy tĩnh lặng tới đó, giống như khi ta uống nước mát; nước đi tới đâu thì ruột gan ta mát tới đó. Trong thiền tập, hễ tâm tĩnh lặng thì thân cũng tĩnh lặng, bởi vì hơi thở có ý thức đem thân và tâm về một mối. Khi thở ra ta mỉm cười, để thư giãn tất cả các bắp thịt trên mặt (có khoảng 300 bắp thịt trên mặt ta). Thần kinh ta cũng được thư giãn khi ta mỉm cười. Nụ cười vừa là kết quả của sự tĩnh lặng do hơi thở vào đem lại, mà cũng vừa là nguyên nhân giúp ta trở nên thư thái và cảm thấy sự an lạc phát hiện rõ ràng thêm. Hơi thở thứ hai đem ta về giây phút hiện tại, cắt đứt mọi ràng buộc với quá khứ và mọi lo lắng về tương lai, để ta có thể an trú trong giây phút hiện tại. Sự sống chỉ mặt trong giây phút hiện tại, vì vậy ta phải trở về giây phút ấy để tiếp xúc với sự sống. Hơi thở này giúp ta trở về sự sống chân thật. Biết mình đang sống và biết mình có thể tiếp xúc với tất cả mọi mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta, đó là một phép lạ. Chỉ cần mở mắt hoặc lắng nghe là ta tiếp nhận được những mầu nhiệm của sự sống. Vì vậy cho nên giây phút hiện tại có thể là giây phút đẹp nhất và tuyệt vời nhất, nếu ta thực tập sống tỉnh thức bằng hơi thở. Ta có thể thực tập hơi thở thứ nhất nhiều lần trước khi đi sang hơi thở thứ hai. Bài này có thể thực tập bất cứ ở đâu: trong thiền đường, trên xe lửa, trong nhà bếp, ngoài bờ sông, trong công viên, trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và ngay cả lúc đang làm việc (Theo Website Làng Mai)...


    Phật giáo Việt Nam hôm nay

    Lịch sử đạo Phật đã chứng minh rằng, pháp nạn do tác động của hoàn cảnh và thế lực khách quan, cho dù bạo liệt đến đâu, cũng dễ tìm ra phương thức giải trừ. Nhưng pháp nạn do tác động nội tại "sư tử trùng thực sư tử nhục" sẽ tạo nên một sự khủng hoảng thật xót xa:

    Môi hở thì lạnh tới răng.
    Trùng trong sư tử tự ăn thịt mình.

    Sự bất đồng nội bộ thường là nguyên nhân của sự phân hóa có khi vô phương hóa giải nếu không có một nguồn suối sức mạnh dấy lên và tỏa chiết từ bên trong.

    Hiện trạng Phật giáo Việt Nam trong những năm qua - ít nhất nữa thì cũng về mặt hình thức và tổ chức - đang đứng giữa (theo khuynh hướng bi quan) hay đang đứng bên bờ (khuynh hướng lạc quan) của pháp nạn. Pháp nạn Phật giáo Việt Nam hiện nay là tứ chúng chưa có điều kiện đồng tu và tăng già chưa có điều kiện hòa hợp. Hai khuynh hướng chư tăng thân chính quyền và chống chính quyền đang đóng cửa nhìn nhau, chưa tìm ra một mảnh đất chung, khách quan hợp lý để hóa giải những khác biệt cơ bản của nguyên nhân phân hóa. Tứ chúng, như một "phản ứng có điều kiện" tất nhiên, là theo khuynh hướng thầy tổ của mình. Vô hình chung, quần chúng Phật tử tự động phân hóa theo "phía bên nầy hay phía bên kia." Sự phân hóa khi âm thầm, khi hiển lộ đã kéo dài hơn 20 năm.

    Phật giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước đang lâm vào cảnh phân hóa. Sự thay đổi về chính trị và thế quyền luôn luôn có tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự sinh họat tôn giáo và giáo quyền. Phật giáo trong nước chia làm hai khối: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) thành lập từ năm 1964 và Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thành lập từ năm 1982, hay còn gọi là Giáo hội Phật giáo Nhà nước, Phật giáo thuộc Mặt trận Tổ quốc (Cũng có người gọi là "Phật giáo quốc goanh" nhưng cách gọi nầy là không đúng, đơn giản vì tôn giáo không phải là một thành tố kinh tế mà là một thực thể nhân văn trong một đất nước.)

    Về mặt cấu trúc, hệ thống thế quyền nhà nước Việt Nam đương đại có 3 cơ chế là: Ðảng Cộng sản, Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc. Hệ thống giáo quyền Phật giáo có 3 cơ sở: Phật, Pháp, Tăng gọi là Tam Bảo. Nhà nước Việt Nam đòi hỏi tất cả các đoàn thể quần chúng và tôn giáo trong nước đều phải là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Nghĩa là các tổ chức tăng đoàn Phật giáo cũng giống như tất cả các đoàn thể quần chúng khác, phải nằm trong Mặt trận Tổ quốc. Quý thầy và sư cô trong hệ thống Giáo hội Phật giáo đòi hỏi Giáo hội và Tăng đoàn phải được tổ chức và sinh hoạt độc lập, đứng ra ngoài Mặt trận Tổ quốc. Ðấy chính là nguyên nhân trực tiếp của sự phân chia Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành hai khối khi các Thầy và Sư cô chọn lựa một trong hai thái độ làm phương tiện tu trì. Hoặc là nhất thiết phải đòi hỏi cho được thế độc lập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đứng ngoài cơ chế chính quyền, hoặc là chấp nhận một cơ chế chung áp dụng cho mọi tôn giáo và đoàn thể trong nước. Quý Thầy và Sư cô chọn thái độ độc lập với nhà cầm quyền Việt Nam đứng vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, quý Thầy và Sư cô chọn thái độ thứ hai mặc nhiên đứng vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

    Trên thực tế thì hầu hết quý Tăng ni và Phật tử chọn một thái độ tu hành thầm lặng. Một sự thầm lặng tích cực trong tinh thần "tùy duyên bất biến" của Phật giáo, xả bỏ những hệ lụy nhân sinh và chính trị để an tịnh tiến bước trên đường Ðạo. Như trong thư của thầy Thích Viên Ðịnh (GHPGVNTN) gửi thầy Thích Nhất Hạnh đề ngày 19-01-05 cũng đã xác định khuynh hướng nầy: "Như chư tăng ở Già Lam - Gò Vấp, hơn 70, 80 vị, cùng ở chung, cùng ăn chung, cùng tụng kinh, bố tát chung, cùng hoà hợp, nhưng trong đó có vị theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có vị theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Mặt-trận, có sao đâu. Chùa Giác Hoa ở Bình Thạnh cũng vậy, trên 40 tăng chúng cùng tu học, có vị này vị khác chứ có theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hết đâu, nhưng vẫn hoà hợp bố tát, có chia rẽ gì đâu."

    Trong lĩnh vực tôn giáo và tâm linh, sự phân hóa không đồng nghĩa với vết cắt hình tướng vật lý. Khi một vết cắt đã có, nếu nó không hiện diện bên ngoài thì nó sẽ lắng vào bề sâu. Người theo đạo Phật nói chung, sau những biến cố của đất nước và đạo pháp, nhất là trong thời buổi mà các phương tiện truyền thông đại chúng quá nhanh chóng và tinh xảo nầy, không ai còn dễ dãi "giao khoán" đức tin Tam Bảo của mình vào tay bất cứ một thế lực nào. Ngoại trừ những nhóm mưu cầu đặc quyền đặc lợi (interest groups) từ tôn giáo, Phật tử Việt Nam đều cung kính đảnh lễ chư Tăng, Ni đạo cao, đức trọng. Ðạo đức Phật giáo đích thực không chấp tướng, chấp tánh; không căn cứ vào thành quả thế tục đầy giả tướng và phi Phật giáo như chùa to, chức lớn, thế lực, danh vị tôn xưng, đông người bảo hộ để đánh giá sai lầm về một đối tượng nào cả, nhất là đối tượng thuộc hàng cao tăng thạc đức trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo.

    Sự tương tranh và phân hóa trong cuộc đời thường đã quá sức chịu đựng của người Phật tử nên họ tìm đến Ðạo như một chỗ dựa tinh thần. Họ là những dòng sông mệt mỏi vì đã trải qua nhiều sóng gió, giờ muốn tìm về với biển khơi an lạc thái hoà. Cuộc đời mỗi người quá ngắn và sự kiên nhẫn của mỗi người đều có giới hạn để họ có đủ nhiệt tình đối diện với một "Pháp Nạn tự thân" ngay trên con đường học Ðạo.

    Phật tử trong nước cũng như ngoài nước đã trực hay gián tiếp biểu tỏ 3 thái độ: (1) Theo Giáo hội Phật giáo Thống nhất, (2) theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hoặc (3) bên nào cũng theo hay không theo bên nào cả mà tự lập nhóm chuyên tu hay cá nhân tu hành độc lập tại gia.. Nếu không có một người dân nào muốn làm dân một non sông hận thù và chia cắt thì cũng chẳng có một người Phật tử nào lại muốn quý Tăng Ni trong hàng giáo phẩm quay lưng lại với nhau.

    Cư sĩ Nguyên Trung trong bài viết: "Tâm lý tiểu xảo và tinh thần hóa giải của Phật giáo Việt Nam", đăng ở tạp chí Thiện Hữu 19, viết:

    "Trong suốt 20 năm qua, Phật giáo Việt Nam như một đại gia đình với hai tuyến nhân vật khác nhau. Những thành viên trong gia đình tránh mặt nhau hay vạn bất đắc dĩ phải gặp gỡ nhau một cách gượng ép. Ðạo Phật vẫn phát triển và sinh hoạt theo dòng sinh mệnh của dân tộc và con người. Song, người ta vẫn tự hỏi rằng, từ trong căn cơ và bản chất, đạo Phật là đạo Hóa Giải. Tinh hoa của tinh thần hóa giải đó đã vượt thắng những chặng đường pháp nạn gian lao nhất trong suốt 2500 năm qua. Tại sao 20 năm qua sự phân cách vẫn cứ còn giữ nguyên ranh giới? Chờ đợi một hoàn cảnh thuận lợi, một chế độ chính trị thích hợp, một quyền lực từ bên ngòai để "hoá giải" cho Phật giáo Việt Nam hay Phật giáo Việt Nam có đủ năng lực nội tại để hóa giải BIỂN LỬA GIỮA HOA SEN trong bất cứ tình huống và hoàn cảnh nào?"

    Câu hỏi tự nó không đợi một câu trả lời mà cần một sự trầm tư suy nghĩ...

    MỘT GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HỢP NHẤT vẫn là khát vọng chính đáng của tất cả hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia.


    Thầy Nhất Hạnh và chuyến viếng thăm Việt Nam

    Giữa dòng suy tư và trong một hoàn cảnh phân hóa vừa trình bày ở trên, thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn 190 Tăng thân Làng Mai (quy tụ từ 30 quốc gia khác nhau) từ Pháp về Việt Nam trong một chuyến viếng thăm 3 tháng vừa mang tính chất hành hương, vừa mang tính chất thuyết giảng và tu học, vừa mang tính chất thăm viếng.

    Người ta sẽ rất ngạc nhiên nếu không có phản ứng nào từ phía quần chúng trong cũng như ngoài nước về chuyến viếng thăm nầy. Và, người ta sẽ ngạc nhiên nhiều hơn nếu chỉ có một phản ứng xuôi chiều, nghĩa là chỉ có ủng hộ hay chống đối. Người ở trong cũng như người ở ngoài đạo Phật hằng quan tâm đến sinh họat văn hóa và xã hội đều muốn biết và muốn nghe diễn tiến và tác dụng của chuyến đi nầy một cách khách quan và trung thực. Tôn giáo, tự bản chất, là một hiện thể ra đời để làm giảm bớt sự thống khổ về tinh thần của nhân loại. Thế giới nầy lại là một hợp thể từ đơn giản đến phức tạp; từ thấp đến cao. Vì vậy, con đường của tôn giáo là con đường trung đạo. Sự cực đoan trong tôn giáo sẽ đi ngược lại tinh thần tôn giáo. Thay vì tôn giáo ra đời để hóa giải những tranh chấp, hận thù và đau khổ, thì chính sự cực đoan sẽ làm cho tôn giáo vong thân, cùng gieo rắc hận thù và đau khổ.

    Sự cực đoan trong môi trường truyền thông qua hình thức ca tụng quá đà hay lời lẽ đả kích thô bạo trong thông tin và bình luận về tôn giáo chẳng những không mang lại một ý nghĩa lợi ích nào cho ai mà chỉ tự trở thành chướng ngại đối với đa số quần chúng thầm lặng theo dõi. Ðiều nầy cũng đây đó xẩy ra một cách đáng tiếc trong chuyến về thăm Việt Nam của thầy Nhất Hạnh.

    Mỗi cá nhân hay nhóm phái đều có một góc nhìn riêng. Nói như thiền sư Viên Minh:
    "Cũng chỉ là một dòng nước mà con cá thì thấy đó là lẽ sống, ngạ quỷ thấy đó là máu mủ tanh hôi, người thấy đó là dòng nước mát, bậc thiên nhân thấy đó là huyết mạch của đất trời... và đến cái nhìn tánh không của Phật giáo thì thấy đó chỉ là Không!" Trước một đối tượng, mỗi phía nhìn một cách không những hoàn toàn khác nhau mà có khi còn đối chọi lẫn nhau từ hiện tượng đến bản chất.

    Cũng chỉ là vấn đề thầy Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai về Việt Nam, nhưng có vô số cách nhìn và tầm nhìn riêng biệt. Ðiển hình nhất là các khuynh hướng:

    Người quan tâm đến lễ nghi, quan cách thì nhắc đến hình ảnh Phật tử cờ quạt đưa đón sắp hàng dài cả cây số và đợi chờ từ khi trời chưa sáng để đón thầy Nhất Hạnh.
    Người thích chuyện Võ hiệp kiểu quần hùng Thiếu Lâm tự thì chú tâm đến chuyện thầy Nhất Hạnh gõ cửa đứng chờ mà các thầy Tuệ Sỹ, Huyền Quang, Quảng Ðộ không mở.
    Người ưa chuyện "Ðồ tể quăng dao thành Phật" thì kể chuyện những đại lễ quy y tập thể của Phật tử thuộc nhiều thành phần xã hội với thầy Nhất Hạnh.
    Người chuộng việc tham thiền thì nhắc nhở thiền Làng Mai: “Thở vào tâm rỗng lặng, thở ra miệng mỉm cười..." trong các khoá tu học của thầy Nhất Hạnh.
    Người mến đạo Phật thì cho thầy Nhất Hạnh đã làm được việc lớn là hòa hợp được hai khối tu sĩ thuộc cả hai Giáo hội Phật giáo Thống nhất và Việt Nam ở các chùa Từ Ðàm, Từ Hiếu, Linh Mụ, Linh Quang... vốn dĩ đã không hoà hợp suốt 20 năm nay, lần đầu cùng ngồi lại bố tát (sinh hoạt tu học thường kỳ của giới tu sĩ) với nhau và ra thông cáo chung sẽ hòa hợp bố tát lâu dài.Người đeo nặng căn cơ dục tính thì cứ đem thầy Nhất Hạnh với sư cô Chân Không làm đối tượng vu vạ, gán ghép theo tầm nhìn và cảm quan phù hợp với nhãn quan tính dục riêng mình.
    Người có khuynh hướng chính trị cực hữu thì suy đoán rằng, thầy Nhất Hạnh về nước là theo khuynh hướng thân cộng, làm lợi cho phía nhà cầm quyền Việt Nam.

    Và người thích đội nón quai... da, quyết đoán giản đơn thì đồng hóa luôn thầy Nhất Hạnh là cộng sản cho nó... khớp với lập trường quan điểm đã dấy lên và xẹp xuống từ 1963!Ðối với khối người thầm lặng, tỉnh táo theo dõi tình hình, người ta không ngạc nhiên về sự khen chê, đả kích nhưng lại ngạc nhiên và thất vọng về sự đơn giản đến độ nghèo nàn, thấp kém của chiến thuật và nội dung đả kích. Khai thác dữ kiện làm căn bản cho sự chống báng một nhà sư với tầm vóc như thầy Nhất Hạnh mà người ta chỉ có thể đưa ra những "chứng lý" ở trình độ ngồi lê đôi mách, thiên hạ đồn rằng trong các con hẻm Việt Nam... thì quả là đáng ngạc nhiên.

    Ðối với những người sính chữ nghĩa, luận đàm thì bị thất vọng vì không ngờ thực lực phản công của phe chống thầy Nhất Hạnh ở hải ngoại lại "mỏng" và "vị thành niên" (adolescence: chữ của Kant) đến như vậy!


    Thất vọng và hy vọng

    Sau ba tháng thăm viếng, lắng nghe, thuyết giảng không ngừng nghỉ... phái đoàn thầy Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai đã đưa ra một thông điệp nhất quán và xác tín, rằng là: Chỉ có Tấm lòng, Tình thương và Trí tuệ mới đủ sức hóa giải những hiểu lầm, nghi kỵ, phân hóa, đổ vỡ... do con người gây ra và con người hứng chịu. Cuối chuyến đi, thầy Nhất Hạnh đã đưa ra những đề nghị: Sáu điểm về sự cởi mở của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Bảy điểm về chính sách của nhà nước Việt Nam đới với Phật giáo. Giới quan sát khách quan cho rằng đấy là những đề nghị thiết thực và khả thi.

    Trước khi về Việt Nam, từ năm 1998, thầy Nhất Hạnh và Đạo Tràng Mai Thôn chính thức được mời thuyết giảng tại Trung Quốc.
    Năm 2000, Trung Quốc Phật giáo Hiệp hội đã gửi một phái đoàn đại diện tất cả 48 tỉnh hội Phật giáo Trung Hoa lục địa do ông Dương Ðồng Tường, thứ trưởng và vụ trưởng Quốc gia Tôn giáo Vụ, hướng dẫn qua thăm Ðạo Tràng Làng Mai. Sau đó là những cuộc thăm viếng và thuyết giảng chình thức của phái đoàn thầy Nhất Hạnh tại Ðại Hàn. Mãi đến năm 2004, sau gần một năm thương thuyết gay go giữa chính quyền Việt Nam với đại diện Ðạo Tràng Làng Mai, thầy Nhất Hạnh và phái đoàn tăng thân Làng Mai mới được chấp thuận về thăm Việt Nam.
    Ðây không phải là một cuộc "thăm chui" để làm lợi cho một thế lực nào đó như nhiều "tin chui" đã loan báo. Ðây là kết quả một cuộc vận động khởi xướng từ Âu, Mỹ.
    Tại Pháp có Thượng Nghị sĩ Jean-Francois Poncet, Bernard Dussaut và Philippe Marini lên tiếng. Tại Thụy Sĩ, Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ Flavio Cotti cũng đã viết thư trực tiếp cho chính phủ Việt Nam ngày 11-9-1998. Tại Mỹ Thượng Nghị sĩ John Mc Cain cũng đã viết cho Thủ tướng Việt Nam ngày 24-3-1998. Ông Frederick Mayors, giám đốc UNESCO cũng đã viết thư gửi đến chính quyền Việt Nam ngày 9-4-1999.
    Phương tiện và cường độ ngôn ngữ của mỗi nhân vật ngoại giao một khác, nhưng tựu trung đều có chung tiếng nói là họ đã biết rõ thầy Nhất Hạnh là ai và khuynh hướng tu học theo khuynh hướng Làng Mai như thế nào, để từ đó vận động kêu gọi phía chính quyền Viêït Nam chấp nhận cho thầy Nhất Hạnh và phái đoàn Làng Mai về Việt Nam.

    Nêu lên những dữ kiện kiểm chứng được trên đây, tôi không nhắm mục đích phê phán hay biện minh cho ai cả. Ðây không phải là hành trạng mang tính "thâm cung bí sử" của một nhà tu thường thấy trong các tuồng tích. Ðây là một thực tế rõ ràng mà mọi người đều có thể nhìn thấy, theo dõi và kiểm chứng được, nếu cần. Chuyến đi về nước của thầy Nhất Hạnh là cả một câu chuyện dài với nhiều tình tiết. Có nhiều tình tiết là câu hỏi mà phải cần thời gian mới thấy được đáp án. Những đáp án trong đạo Phật vượt ra ngoài tầm nhìn hạn hẹp của các khẩu hiệu chính trị nhất thời và sự suy diễn tùy tiện một chiều.

    Sau 30 năm cuộc chiến Mỹ / Việt chấm dứt, hơn một nửa tổng dân số 84 triệu người Việt Nam trong và ngoài nước ra đời từ sau năm 1975. Thế hệ tiền chiến Mỹ / Việt chỉ còn là vang bóng. Thế hệ chiến tranh Mỹ / Việt đang lụi tàn dần theo ngày tháng và thế hệ trẻ, thế hệ đàn em, thế hệ hậu chiến Mỹ / Việt đang từng bước thay cho thế hệ đàn anh lên cầm vận mệnh của đất nước. "Tre tàn măng mọc" là quy luật nhân sinh tất yếu và khách quan. Thế giới đang bước vào thế kỷ 21 với tốc độ siêu đẳng để đưa quần thể loài người gần lại với nhau như một "làng địa cầu" mà có thể xóm Ðông là Việt Nam và xóm Tây là Mỹ quốc.

    Cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nói chung, trong lĩnh vực truyền thông, tin học, tốc độ nháy mắt và khối lượng khổng lồ của mạng lưới thông tin liên lạc đã tác động tận gốc rễ của đời sống tri thức. Những huyền thoại một thời đang nhường bước cho hiện thực và dữ kiện. Tri thức con người không còn dễ bị thuyết phục bằng niềm tin thuần túy không cần kiểm chứng như thời quá khứ.

    Trong lĩnh vực tôn giáo và thần học, nhân loại đang bước qua bóng tối của sự khải huyền (mythologization) để bước vào ngưỡng cửa "giải huyền" (demythologization) của thế kỷ 21 nhằm đánh tan những huyền thoại, phá bỏ bức màn u tối của tình trạng vô minh để khai sáng. Người Việt Nam trong cũng như ngoài nước, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần phải được hưởng những tiện ích thời đại cơ bản, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh riêng. Sự giao lưu quốc tế về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thể thao, nghệ thuật, tôn giáo... không còn là "xa xỉ phẩm" mà đang trở thành những nhu cầu thiết thân của đời sống. Sự chọn lựa tin hay không tin vào một hệ thống tín lý hay triết lý tôn giáo là quyền cá nhân. Tuy nhiên, dẫu tin hay không tin; theo hay không theo một tôn giáo hay một hệ thống triết lý nào đó thì việc trang bị một kiến thức phổ thông về tôn giáo, triết lý nói chung vẫn là quyền lợi chính đáng cần phải được tôn trọng.

    Theo thống kê mới nhất của cơ quan Truyền thông Phật giáo Á Châu (Asian Buddhist Information. December, 2004. Volume VI- 2A) thì 95 phần trăm tuổi trẻ thế hệ từ 15 đến 30 tuổi tại Trung Hoa, Việt Nam, Ðại Hàn hoàn toàn không quan tâm hay thiếu sự hiểu biết căn bản về Phật giáo. Thống kê này còn cho biết là tỷ số giới trẻ "mù tịt tôn giáo" thấp hơn đối với các hệ thống tôn giáo có tổ chức sinh hoạt chặt chẽ như Thiên Chúa giáo, Tin Lành...

    Trước một thực trạng như thế, sự hiện diện của thầy Nhất Hạnh và Tăng Thân Làng Mai là một sự dấn thân tiếp cận tích cực để góp phần tạo điều kiện và phương tiện thuận lợi cho sự giới thiệu một hình thái sinh hoạt Phật giáo đặc biệt của Ðạo Tràng Làng Mai.

    Nếu có chăng sự hoài nghi và thất vọng khởi lên từ phía nầy hay phía khác thì đấy cũng là những phản ứng tâm lý thông thường và dễ hiểu trong một hoàn cảnh tế nhị như hiện nay. Thế nhưng niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho Phật giáo tại quê nhà cũng đồng thời dâng cao sau chuyến viếng thăm của thầy Nhất Hạnh

    Cầu nguyện cho Dân tộc và Ðạo pháp có đủ thiện duyên để hóa giải những xung đột và phi lý đang trùng trùng biến hiện trong biển lửa giữa hoa sen.

    Sacramento, Cali. Mùa Phật Ðản 2005
    Trần Kiêm Đoàn
    Last edited by SP500 SPY; 02-05-2022 at 07:10 AM.

 

 

Similar Threads

  1. Qatar 2022
    By Triển in forum Thể Thao
    Replies: 377
    Last Post: 12-31-2022, 12:52 AM
  2. 2022 australian open
    By ngocdam66 in forum Thể Thao
    Replies: 68
    Last Post: 03-22-2022, 08:08 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 01-23-2022, 01:25 PM
  4. Shepard c. Lowman (1926-2013)
    By ngocdam66 in forum Nhân Văn
    Replies: 3
    Last Post: 03-17-2013, 10:05 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 11-07-2011, 11:48 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:19 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh