Register
Page 17 of 19 FirstFirst ... 71516171819 LastLast
Results 161 to 170 of 186

Thread: Kiếm Đạo

  1. #161
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Có những vết thương tồn tại lâu hơn cả đời người.

    Ngày xưa, nơi ấy có những thảo nguyên mênh mông. Có những chú lạc đà chung thủy. Có những con người biết cưỡi ngựa trước khi biết đi. Và có những vết thương tồn tại lâu hơn cả đời người.

    Tin vị tướng tử nạn nhanh chóng truyền đi khắp nơi, nhanh như cơn gió chạy qua thảo nguyên. Có người vui, vì kẻ tàn phá quê hương mình đã chết. Có người khóc, vì người anh hùng đã bỏ họ ra đi. Và có người khóc, vì không còn được tự tay giết chết con người đã xéo nát quê hương gia đình họ


    Cả cuộc đời chinh chiến, vó ngựa, thanh gươm, vị tướng đã tạo ra quanh mình quá nhiều ân oán. Vị tướng sẽ được an táng ngoài thảo nguyên, theo nghi thức đã làm với những vị tướng ngày trước:

    Ngày đưa vị tướng đi, một đội kỵ binh tinh nhuệ nhất theo bảo vệ từ xa, không cho kẻ thù theo tấn công và theo dõi. Người ta còn cẩn thận chọn hai mẹ con lạc đà khỏe nhất, đẹp nhất, dẫn theo.


    Hai mẹ con lạc đà theo đoàn người ra thảo nguyên.

    Thảo nguyên một màu xanh.

    Sau khi chôn vị tướng, người ta giết lạc đà mẹ, lấy máu tưới lên trên mộ, trước mắt lạc đà con. Đội kỵ binh xếp thành 10 hàng ngang, ra sức xéo nát nơi vừa chôn cất, một vùng rộng lớn chỉ toàn vó ngựa, xóa sạch dấu vết nơi vị tướng vừa yên nghỉ, vó ngựa xóa hết dấu vết một con người. Kẻ thù có muốn quật mộ, lấy xương về giã nát ra cho hả giận cũng không được.

    Thảo nguyên mang một vết thương rất lớn.


    Sau vài cơn mưa, cỏ mọc trở lại. Thảo nguyên lành vết thương. Một màu xanh, mênh mông, bằng phẳng, bình yên. Không người nào trên thế gian này còn nhớ nơi chôn cất vị tướng nữa, trừ bé lạc đà con.


    Từ thời điểm ấy, mỗi lần muốn ra thăm mộ, người ta lại nhờ lạc đà con dẫn đi.


    Lạc đà con vẫn còn nhớ con đường hai mẹ con đã đi qua, nhớ mùi của mẹ, nhớ chính xác cả nơi người ta đã giết mẹ mình, nhớ nơi máu mẹ thấm vào đất.


    Khi thấy chú lạc đà con quỳ xuống, rống lên thật thảm, nước mắt ứa, không chịu đi nữa, nơi ấy là mộ vị tướng. Người ta bày biện ra tí lễ vật, ngồi với vị tướng một lát rồi về, thụ dọn cẩn thận mọi thứ, không để lại dấu vết gì, dáo dác nhìn quanh, xem thử có người nào theo dõi mình không.


    Lạc đà con được con người bảo vệ chăm lo cẩn thận, lâu lâu nó lại dẫn con người ra thăm mộ. Ngày lạc đà con già, nó vẫn còn nhớ con đường ngày xưa, vẫn nhớ mẹ thật nhiều, mọi thứ chỉ mới như hôm qua.

    Và con người, bao năm vẫn vậy, luôn thấp thỏm âu lo, như mới hôm qua.


    Ngày nọ, khi đưa con người ra thăm mộ, lạc đà con ngày xưa, giờ đã già, thấy người ta dẫn theo đứa con bé nhỏ của nó.


    Hai mẹ con lạc đà dẫn đoàn người ra thảo nguyên.

    Thảo nguyên vẫn một màu xanh.

    Vô Thường

    https://www.facebook.com/cuocsongnhi...6229709842418/



  2. #162
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Vẫn chưa đến Tết

    Sớm ra, đợi cả nhà thức dậy, bà nội chống gậy tìm tới từng người rồi thủ thỉ bảo tối qua ông bây lại về.

    Như chưa đủ khiến người trong nhà thấy nặng nề và sợ hãi, bà mô tả cụ thể chuyến về của ông: “Ông bây ngồi đầu giường ngó tau ngủ. Có khi tau sắp theo ông cũng nên”.

    Những người già thường rủ rỉ kể nhau nghe về cái chết và con đường đến đó. Hình như phải đi qua một cây cầu dài, có người dẫn đường và mình chỉ cắm cúi đi theo. Bà nội thường thắc mắc không biết ai vẫy tay dẫn ông đi. Và thắc mắc thêm không biết lúc về dưới, người ta sẽ tiếp tục già hay cứ ở mãi cái tuổi vừa chết. Nghĩ tới đó, bà níu áo tôi kêu sợ, nhỡ bà tiếp tục già họm hẹm trong khi ông bây vẫn ở tuổi cũ thì khi gặp lại ắt khó coi.

    Ba cười hiền, nắm tay bà rồi nhẹ nhàng bảo chắc tại bà ngủ mê thôi. Quay sang nháy mắt với mẹ, ba dặn tí đi chợ nhớ mua ít hạt sen về nấu cháo cho bà. Bà cứ ăn ngon ngủ ngon để sống lâu với con cháu, ông luôn mong bà sống vui mà. Ngúng nguẩy như đứa trẻ nít cần dỗ dành, bà nội lay tay tôi rồi nhắc lại: “Không, rõ ràng là ông bây. Bây không tin tau à? Nhưng vẫn chưa tới Tết, tau chưa đi đâu”.

    Thực tình, lời bà nội nói xưa giờ không ai dám tin trọn vẹn. Bà có tật hay bịa chuyện hoặc nói quá lên chuyện đã xảy ra. Dù rằng lời đó không gây hại đến ai nhưng đôi khi làm người ta khó chịu. Hồi tôi còn nhỏ, bà hay thơm má tôi rồi bảo: “Cháu đích tôn của bà thông minh hơn người, mai mốt nhất định sẽ làm to”. Trong khi tôi học hành không mấy giỏi giang, trầy trật lắm mới xong cấp ba, bà nội vẫn mang nỗi tự hào thái quá dành cho con cháu mình như vậy. Mỗi lần giỗ chạp hay gặp bà con hàng xóm, bà vẫn thường khoe ba mẹ, chú thím tôi hiếu thuận thế nào, biết mần ăn ra sao, anh em tôi học giỏi, thông minh này nọ. Mẹ nói có lần đi chợ nghe người ta quở nhà mình sắp mua ôtô, mà trời ơi, mình sắp mua hồi nào mà mình không biết. Hỏi quanh mới hay, ra là bà nội nói với người ta như vậy. Ba bảo đó là niềm vui của người già nên cứ vờ như không nghe không biết, đừng tỏ thái độ làm bà buồn lòng.
    *

    Thế nhưng, chuyện bà bảo trông thấy ông cứ khiến chúng tôi hoang mang. Lần đầu bà làm cả nhà sởn da gà là lúc đang làm lễ cúng cơm cho ông. Bà kêu đẩy cái bát cơm tới một tí, ông bây với tay không tới. Cả đám con cháu nhìn nhau, tặc lưỡi nghĩ tại thương nhớ ông nên bà nói sảng. Hiếm có người già nào thương nhau kiểu như ông bà nội. Niềm yêu thương đó ít khi được nói bằng lời. Tại ông tôi điếc nặng, gần như không nghe được.

    Bữa vừa xong bốn chín ngày của ông, bà tả đêm đó ông đi quanh nhà rồi ngồi khóc ở phòng khách. Bà cứ nói chút chút từng chi tiết một làm thằng cháu nhát gan như tôi rùng mình ớn lạnh. Vẫn biết là ông của mình nhưng nếu xuất hiện trong nhân dạng khác thì sợ lắm. “Ông bây mà sợ chi”, bà nội gõ trán tôi rồi cười khì khì.

    Không ai nghĩ ông mất trước bà. Ông chỉ điếc chứ tay chân xương khớp linh hoạt, đi đứng thẳng băng. Sức khỏe của bà kém hơn ông. Bà ăn uống ít, lại hút thuốc nhiều. Mỗi khi trời trở lạnh, bà thường lên cơn hen, phải nhập viện cả tuần. Lúc bà nằm ốm yếu trên giường bệnh, ông lại gần, ngó vào mắt bà rồi hiền hòa bảo: “Chưa tới tết mà”. Bà gật đầu, cười tươi rói. Trăm lần như một, câu nói đó cứ như thần chú làm bà tôi khỏe lại. Dăm ba bữa sau, bà sẽ ngồi dậy ăn cháo, uống thuốc, lại cười nói với chúng tôi mỗi ngày.
    Hồi ông còn sống, chúng tôi hay bực mình và buồn cười vì sự điếc của ông. Nói gì ông cũng không nghe, phải tiến sát lại gần, gần như hét vào tai ông mà có câu nghe được, có câu ông hiểu sai ý. Có điều, ông điếc rất dễ thương. Không nghe người ta nói gì, ông sẽ dí sát vào mặt họ rồi cười rạng rỡ, thì thào: “Bây nói to lên, tao điếc”.

    Ông thương bà bằng cách chiều bà như đứa con nít. Bà nghiện thuốc nặng, loại thuốc vấn đặc quánh mùi mà đứa trai như tôi cũng thấy hôi rình. Mẹ có lần bảo sao bà không chuyển qua nhai trầu như mấy bà già khác, so với thuốc hẳn mùi trầu dễ chịu hơn. Bà nghiện thuốc từ hồi trẻ, vắng thuốc vài ngày là người lờ đờ, buồn tay buồn chân. Thuốc bà hút do ông trồng, tự thu hoạch và chuẩn bị kỳ công. Sau khi hái vào, ông xỏ dây và treo cả dãy trước sân, phơi qua vài đợt nắng rồi hì hục cắt thành sợi nhỏ. Ba bảo hồi xưa, mỗi năm ông thường làm hai, ba đợt như vậy rồi cho vào bao tải cất trữ để bà dùng dần. Mấy mùa lũ lụt, người ta hớt hải chạy ngược xuôi lo lúa gạo khỏi ướt thì ông nội tất tả lo cất bao thuốc cho bà. Thế mới nói, trên đời này chẳng ai chiều bà như ông.


    Bà đáp lại bằng cách hiểu thấu sự điếc đác của ông, bước vào thế giới không âm thanh đó chẳng bằng một âm thanh nào. Nhiều bữa tôi thấy ông bà nội ngồi uống trà bên nhau, không ai nói gì mà như đang thủ thỉ rất nhiều chuyện. Tôi khều mẹ thắc mắc, mẹ bảo nhà này mà cụ thể là ông bà có nhiều chuyện mẹ chưa tường tận dù mần dâu cũng ngót nghét hơn hai mươi năm. May sao tình cảm thì luôn đong đầy, không thiếu tiếng cười, tiếng chuyện trò sớm tối. Nói thì nói vậy nhưng tôi biết mẹ luôn chờ đợi được bà dốc bầu tâm sự với mình. Khi nào những nỗi niềm chung riêng san sẻ hết, khi đó yêu thương mới không còn giới hạn.


    Mỗi tối, lựa lúc bà xem phim, ông sẽ soạn đồ ra quấn thuốc để sẵn đó. Bữa trước, ông đi khi quấn xong số thuốc dành cho cả tuần. Nhẹ nhõm như không, ông trút hơi thở từ trong giấc ngủ. Ngó cảnh bà nhìn ông trân trối đầy thắc mắc mà ai cũng đau lòng. Hiện diện cùng nhau mấy chục năm trên đời nên khi thiếu vắng đột ngột, bà buồn quá mà nhớ nhớ quên quên mọi chuyện.


    Mức lú lẫn nhớ quên của bà chưa đến nỗi nặng, bà vẫn tỉnh táo biết chờ đến tết. Độ ấy đã tới tháng chạp nhưng cả nhà nhất trí thời gian sẽ ở mãi tháng mười. Sớm nào bà cũng ngó tờ lịch vẫn còn tháng mười mà ba tôi cất công xé dán. Cả nhà “thông đồng” cùng nhau rằng ngày tháng trong nhà, một là đứng yên, hai là đi lùi.


    Có điều, tết đến thì vẫn phải đón. Mẹ tôi giấu giếm soạn sửa này nọ thì bị bà bắt gặp. Bà quở sao bây mua hành kiệu chi sớm, mới tháng mười đã bày rau củ mứt trái hả bây. Mẹ phân bua, con tranh thủ nắng nôi phơi cho ráo, nghe đâu mai mốt mưa gió triền miên. À, ba mấy đứa kêu thèm mứt, con làm nhiều để tết ăn luôn. Bà gật đầu ừ hử rồi thở dài than Tết năm nay lâu tới quá!

    Không phải mình bà đợi tết. Hồi trước, ông nội còn nôn nao ngóng tết hơn cả bà. Sự chờ đợi tết đến xuân về của ông bà không như đám con nít chờ được nghỉ học, chờ được mặc đồ mới, chờ được đi chơi... nhưng niềm háo hức và ngóng trông thì hệt vậy. Năm nay, bà đợi để khấp khởi vui thêm phần của ông.

    “Tết nào đó, tôi sẽ về”. Từ ngày nghe một lời ngắn ngủi được tường thuật lại từ môi người khác, trước đó đã băng qua vài ba người nữa, xuyên biên giới nửa bán cầu, không rõ là bao nhiêu năm, ông bà tôi bắt đầu đợi. Lời nhắn nhủ mong manh kia đã níu những ngày sống cuối đời của ông bà nội. Đáng tiếc ông không chờ được.

    Bác là anh cùng cha khác mẹ với ba tôi. Mối quan hệ giữa bà nội và bác là mẹ ghẻ con chồng. Mẹ tôi bảo chắc chắn hiềm khích nào đó giữa ông bà và bác rất sâu đậm nên bác tôi cắt đứt toàn bộ liên lạc trong mấy mươi năm. Mâu thuẫn mẹ ghẻ con chồng thì hẳn lắm lý do, có thể bà làm gì đó, nói năng sao đó nên bác giận lẫy. Rồi nhìn kiểu ông thương bà thì biết ông bênh bà nên bác càng giận chớ chi. Những rạn nứt đó hình như chẳng ai rõ ngọn ngành, kể cả ba và chú út bởi đâu nghe ai nhắc tới.


    Mấy bữa tháng mười lẩn quẩn lặp đi lặp lại, bà lên cơn hen suyễn đến ba lần. Bác sĩ có lần tuyệt vọng lắc đầu bảo không dám chắc bà có gắng gượng qua nổi cái tết này không. Bà nghe thấy, cười móm mém với chúng tôi, được chớ, còn chưa tới tết, bà chưa đi đâu. Nhớ câu nói hiệu nghiệm nọ, ba tôi nắm chặt tay bà, tin tưởng và hy vọng. Vậy rồi cũng qua, uống thuốc vài ba ngày, bà được cho về nhà điều trị.

    Năm nay nhà tôi chẳng trang hoàng tết nhất như mọi năm. Cây mai trước sân nở sớm, nở đúng mấy dịp bà nằm trên giường bệnh. Thế nên, sự báo hiệu tết đến xuân về bằng cách nào đó đã khuất mắt bà nội. Đó là gốc mai chính tay ông trồng. Hồi ông còn, ông chăm sóc ngắt lá đúng ngày nên năm nào mai cũng nở bung đều đặn.

    Độ này, điệp khúc “hồi ông còn” được chúng tôi nhắc tới nhiều hơn. Ba nhắc chuyện hồi còn nhỏ, ông nghiêm khắc với ba và chú út ra sao. Mẹ ngậm ngùi nhớ mấy ngày đầu về làm dâu, mẹ ít nói nên ông bảo cứ ăn nói tự nhiên, ông không nghe đâu mà lo. Ký ức của tôi về ông nội có nhiều niềm vui tiếng cười. Nhớ lúc hai ông cháu chơi cờ, bực bội vì ông suy nghĩ lâu, tôi hay mần áp lực kiểu ông nghĩ lâu thì con không chơi nữa. Gõ đầu tôi, ông nộ: “Cha tổ bây, chơi cờ rồi còn…đi bơi chi nữa”.


    Khoảnh sân trước nhà in đậm bóng dáng của ông nội. Góc nào cũng do ông chăm bẵm, bắt sâu, tỉa lá. Có lần tôi banh tai ông ra để kể lể mấy chậu lan, gốc tiểu quỳnh hay chậu sen mini kia biết bao giờ mới trổ hoa, trồng vậy con thấy nản. Ông nói người ta sống cần kiên nhẫn, cần biết chờ đợi chớ con. Hồi đó, tôi nghĩ ông an ủi mình khi ra trường cứ trầy trật bởi việc làm và thu nhập. Hóa ra, mỗi người trong nhà đều âm thầm mang một nỗi đợi chờ nào đó na ná nhau.

    Ba thắp thuốc ngồi trầm ngâm trước hiên nhà, tôi nghĩ có khi ngay cả ba cũng không chắc bác tôi có về hay không. Là tết năm nay, năm sau hay nhiều năm sau nữa? Tôi chỉ mong những cái tết sẽ đến trong rộn ràng thật sự để có thể nghe tiếng dép lẹt xẹt của bà nội ở hành lang. Bà chống gậy ra sân đứng ngó ông trời bữa nay mần mưa hay nắng. Rồi lại quay qua ngó tờ lịch, lẩm nhẩm tính nhiêu ngày nữa tới tết. Nếu năm nay bác tôi chưa về thì chắc là năm sau. Có thể năm nay hết vé, có thể bác bận việc đột xuất. Luôn có lý do để người ta không trở về sum họp với gia đình khi hết năm tàn tháng.
    Ba nói bác chết hụt hồi năm ngoái. Vừa lúc có ý định về thì gặp tai nạn, giờ nằm một chỗ. So bề công nuôi dạy chăm sóc thì bà chăm lo cho bác còn tường tận hơn ông và thương bác hơn cả thương ba. Kiểu tình thương khó lý giải và hiếm tồn tại giữa mẹ ghẻ, con chồng. Bác bỏ đi vì giận dỗi ông nội cấm cản chuyện yêu đương với một người phụ nữ hơn bác chục tuổi. Bác đi theo người đó và lén cầm thêm mấy khâu vàng mà bà nội chắt chiu dành dụm. Sau này, tại đi xa nên không có cơ hội quay về, chứ thật tâm bác luôn hướng về nhà. Ba để bà nội giữ nguyên ý nghĩ bác sẽ về sum họp vào một ngày nào đó, bởi sẽ tốt hơn ý nghĩ bác khó có thể về. Tất cả chỉ để quãng thời gian nhắc về bà nội sẽ không phải bằng cụm từ “hồi bà còn” như đang nói về ông.

    Cuộc điện thoại từ phương xa làm cha con tôi khấp khởi. Đó là bác tôi. Ba nói trong nước mắt, dặn dò bác giữ gìn sức khỏe, chừng mô thật khỏe hẳn tính chuyện về. Có nhiều bao biện để giải thích phân bua cho nguyên do sao lâu nay không hề liên lạc. Một cuộc gọi như thế này có thể được kết nối từ lâu lắm rồi, từ hồi ông còn chẳng hạn. Hẳn bác đã chuẩn bị câu trả lời nhưng ba tôi không hỏi. Chỉ cần bác nói đã đặt vé đợt ra giêng, ba mỉm cười bảo để em báo lại cho bà mừng.


    Gật đầu cười tươi và ngó bâng quơ ra cửa sổ, bà nội rớm nước mắt rồi nói thầm trong miệng: “Đã tới tết đâu, ra giêng e còn lâu lắm”.

    Lâu cách mấy, bà vẫn đợi được cho coi, huống hồ khi đó giao thừa cũng vừa đến.

    Diệu Ái
    https://thanhnien.vn/van-hoa/van-chu...ai-931811.html






  3. #163
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Chậm từng giọt chữ…

    (Nguyễn Ngọc Tư)

    Có lần ngồi nói chuyện văn chương với Già, ông nói bây giờ người ta đọc nhiều nhưng không đọc kỹ… Bạn thấy nhột ran, thấy trong hai chữ "người ta" đó có mình. Những lần Già nhắc tới cuốn sách nào đó bạn hớn hở kêu đọc rồi, nhưng nhắc một đoạn trong đó thì bạn không nhớ. Những lần bạn ngắc ngứ không gọi được tên một nhân vật. Những lần bạn quên tên tác giả hoặc nhớ tác giả thì quên tên sách. Những lần bạn khen cuốn sách X đó hay những hay làm sao thì bạn không diễn tả được. Giống như lướt đi trên những mối tình hờ hững, đã từng yêu nhưng có lẽ thiếu đậm sâu, đến nỗi chả nhớ nốt ruồi cô ấy nằm ở đâu.

    Già thì khác. Tám mươi sáu tuổi Già vẫn giữ cách đọc sách kỳ lạ. Mỗi chữ trong sách với Già là thưởng hớp trà, ngụm rượu. Nên còn gì sướng bằng trà rượu ngon. Già xướng một câu, chắc lưỡi hít hà một cái, gật gù khen quá đã. Có những đoạn văn bạn đã từng lướt qua trên trang sách giờ qua ngữ điệu duyên dáng của Già bạn thấy ngỡ ngàng, tươi mới bao nhiêu. Và bạn thấy lạ lùng bao nhiêu khi ngó Già đọc lại một câu văn tâm đắc, dù Già dùng hai chữ "thấy ghê", sau khi rướn cái cổ gầy gò nhăn nhúm nuốt nước bọt.

    Già nói thấy ghê, nhưng không phải chê, mà nghe trong đó sự ngưỡng mộ, nể nang, thán phục. Già hay thảng thốt "thấy ghê" sau mỗi câu văn hay ho mà Già đã đồng cảm đến mức thuộc nằm lòng. Mà Già thì thuộc nhiều câu dài lắm, kinh điển lắm, phức tạp lắm… đến Sông Đông êm đềm chữ như rừng vậy nhưng Già vẫn có thể tỉnh bơ đọc một đoạn nào đó, bằng trí nhớ mẫn tiệp, bằng tình yêu văn chương, bằng sự trân trọng sách, bằng cách đọc thật chậm, nâng niu từng câu chữ.

    Chống chế rằng cái thời Già sống sách hiếm hoi, nên người ta quý sách, người yêu sách coi sách như miếng ăn, hơi thở. Nhưng cái thời cầm sách đọc mà sợ hết qua rồi, giờ sách đầy rẫy, đẹp, sang… không đọc nhanh thì tiếc. Và đọc sách như một công việc, không phải thú chơi. Trong bạn bè của bạn, có nhiều người đọc sách để điểm tin trên báo, đọc sách để khoe (rằng đã đọc), đọc sách để học viết, đọc để… kể lại. Nên ai cũng mau mau cho đến trang cuối cùng. Lâu lắm rồi bạn không còn nhấm nháp từng trang sách, như bụi lục bình trôi nhẩn nha trên sông, lúc tấp bờ này khi dạt vào bụi nọ. Bạn cũng đam mê, cũng nghiến ngấu mà như là nghiến ngấu bánh mì kẹp thịt, tô phở… không phải ngồi nhẩn nha vừa thổi vừa gỡ lớp vỏ cháy khét của củ khoai lùi.

    Bạn cảm thấy bệnh sống nhanh sống gấp dường như đã di căn đến thú nhàn nhã cuối cùng của mình, xộc vào thành lũy cuối cùng. Và chỉ khi gặp Già, ngồi giữa căn nhà lấp ló trong vườn dừa của Già nghe Già đọc một đoạn văn của Hemingway, Lỗ Tấn, Lev Tolstoi… thì mới cảm thấy thật rõ ràng. Chỗ Già gì cũng chậm, nước trà rót chậm, điếu thuốc cháy chậm, tiếng nước mương vườn chậm rãi chảy, và giọng Già nhẩn nha mà nghiêm cẩn, "Hằng năm, tôi đợi mùa thu tới, để buồn…" (*).

    Văn chương va vào Già thì sống dẳng dai. Những vẻ đẹp của trang sách vẫn tồn tại ngay khi không còn tồn tại trên những tờ giấy úa. Ngó bộ chắc phải dạy sắp nhỏ lại, nên có bữa Già khẽ khàng lôi ra một tờ báo cũ in một truyện cũng cũ của Già, biểu bạn đọc. Mà không được đọc thầm đâu, phải thành tiếng thành câu. Chữ nào bạn đọc sai Già nhắc chừng chừng trong lúc khói thuốc bảng lảng vờn trên mặt. Bạn quen đọc thầm, giờ giọng cứ vấp dúi dụi trên trang báo dày những chữ, đến truyện ngắn thứ hai đã cảm thấy mệt đứt hơi, muốn nhanh cũng không nhanh được.

    Kết quả của buổi chiều làm bài tập đọc đó là bạn nhớ dẳng dai một câu trong cái truyện ngắn xa xưa của Già, "Viết thơ cho nhau và tìm thăm nhau là việc làm của những kẻ yêu nhau quá ít còn đang sợ hãi chuyện quên nhau. Tình yêu của tôi không hời hợt thế"

    Vậy nên, thưa Già, nếu lâu lắm thưa vắng tin nhau, cũng không có nghĩa bạn nhỏ này đã quên Già rồi…

    (*) Ernest Hemingway


    http://www.viet-studies.net/NNTu/NNTu_ChamTungGiotChu.htm

  4. #164
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Hương dủ dẻ

    Tôi rời thị trấn vào một buổi sáng mưa, mưa chảy ngược phía sau lưng tôi, hiền hoà, mênh mang.“Chúc em luôn hạnh phúc, Minh à .Tạm biệt em !”. Tôi thì thầm qua khung cửa ướt nhẹp nước mưa, hy vọng em sẽ nghe thấy, dù thế nào thì chúng tôi cũng đã từng là những người bạn, như em nói là những người lạ quen thuộc.

    -Chị Hiên ơi, em mới phát hiện ra cái này hay lắm ! – Sẻ níu vạt áo tôi rồi nó chỉ vào cuối góc vườn, nơi vừa có một cây dủ dẻ mới mọc lên. Chưa gì mà tôi đã thấy con bé vui sướng cười háo hức.
    Ở miền quê này không có gì đặc biệt, chỉ có mùi hương dủ dẻ là đủ sức níu bước chân tôi quay lại. Nơi ấy, một màu vàng hoang dại luôn ngập trong ánh nắng mặt trời… nơi vùng quê nghèo ven sông.

    Dì, Dượng tôi có hai đứa con, là một cặp sinh đôi một trai một gái – Nấm và Sẻ. Tụi nó nhỏ hơn tôi bảy tuổi, tức là vừa mới học xong lớp năm. Nhớ hồi đó, lần đầu tiên gặp Nấm với Sẻ là lúc tụi nó còn chưa biết đi, vậy mà giờ đã lớn phổng phao rồi, nhưng chỉ lớn vậy thôi chứ nhìn vẫn còn con nít lắm. Tôi đang ngồi vun lại mấy gốc bụi hồng tỉ muội gió mưa làm gãy cành hôm qua, thì Nấm và Sẻ bước đến cùng kéo áo tôi.

    -Chị Hiên, ra bờ sông chơi thả diều với tụi em đi !
    -Bây giờ sao ?
    -Dạ, chứ lát nữa hết gió là diều không bay lên được. Đi, chị.

    Sẻ hối đến nỗi tôi còn chưa kịp rửa tay đã phải lẽo đẽo đi theo nó .Từ nhà dì Út ngược về phía núi rồi đi thẳng chừng mười phút đi bộ, là tới bờ sông, nơi bọn trẻ thường chơi thả diều. Ở đây ngoài con sông nước trong vắt quanh năm còn có cánh đồng cỏ lau rì rào trắng muốt, đây đúng là một điểm lý tưởng để thả diều.

    Trong số những người hàng xóm gần nhà dì Út, thật ra tôi có để ý một thằng nhóc, cỡ tuổi Nấm nhưng trông nó chững chạc hơn. Tôi gặp nó lần đầu tiên là ở ngoài bờ sông, khi thì nó ngồi một mình, khi thì nghịch nước, lúc lại nhìn bọn kia chơi thả diều .

    Tôi thấy nó nhìn vào con diều của Nấm với một ánh mắt khao khát nhưng chẳng bao giờ có cơ hội chạm vào. Nhiều lúc muốn lân la hỏi han nhưng lại không biết phải bắt đầu từ đâu.

    Nhưng từ khi quen biết nó thì hình ảnh lem luốc và mái tóc cháy xém của nó cứ không ngừng gieo vào đầu tôi những suy nghĩ lạ lùng .Tôi thấy thật thương nó, một đứa bé mà ngay cả món đồ chơi đơn giản nhất cũng không có được, nó cô đơn trong chính tuổi thơ của nó, đã vậy còn nói lắp bị bạn bè xa lánh .Tôi cũng không hiểu vì sao mình lại có nhiều tình cảm với một đứa bé xa lạ như vậy, thậm chí tôi còn chưa lần nào nói chuyện với nó, chỉ biết là tôi luôn có cảm giác đó, như cỏ lau chiều nào cũng cong mình đón những tia nắng mặt trời vàng óng mà tôi có bao giờ biết lau có màu gì đâu .Tôi nhớ có lần hỏi dượng thì dượng nhìn tôi đầy ẩn ý .“Là màu trắng nhưng cũng có thể không phải, dượng chỉ biết màu của lau rất buồn. Và rất thâm trầm. Như màu của vạt kỷ niệm đang dần phai. Như màu của một hy vọng le lói đang tắt dần. Và như màu của thời gian vô tình trôi đi miên miết”.

    Cuộc đời thật rộng, tôi đã đi nhiều nơi, gặp nhiều người, nhiều cuộc đời. Nhưng không hiểu sao lại yêu làng quê này một cách lạ lùng. Bởi hương dủ dẻ, mùi cỏ lau hay cậu bé nói lắp có nụ cười hồn nhiên ấy.

    Mãi sau này tôi mới biết em tên Minh, tôi không muốn gọi em bằng cái tên mà bao người đã từng chọc em, đơn giản vì tôi muốn em có nhiều bạn bè chơi cùng.

    Hôm nay Nấm không rủ tôi đi thả diều nữa. Buổi sáng nó ở nhà nấu cơm, quét dọn nhà cửa, tôi phụ nó mấy việc linh tinh, dì dượng lên rẫy đến chiều mới về. Buổi trưa tôi bảo Sẻ ở nhà trông nhà, còn tôi và Nấm dắt hai con bò đi ăn cỏ ngoài bãi cạnh bờ sông. Nhưng mới đi được nửa đường chúng tôi gặp Minh, thấy Minh, Nấm định quay đầu bỏ chạy thì tôi đã kéo áo nó lại.
    -Sao thế, mọi ngày em vẫn đi đường này mà.
    -Mình đi đường khác đi chị, đi đường tắt nhanh hơn.
    -Vấn đề không phải đường tắt hay đường thẳng mà em cố tình tránh mặt Minh, đúng không ?

    Thấy tôi nói đúng tim đen Nấm giả bộ ngó lơ đi chỗ khác, một lát sau nó mới quay lại phân trần.
    -Không phải đâu chị. Chỉ là em không muốn gặp nó thôi, chứ em có ghét gì nó đâu.
    -Nhưng em làm vậy sẽ khiến Minh buồn và cảm thấy tủi thân hơn đó.
    Nấm im ru, chẳng biết nó nghĩ gì, hy vọng nó sẽ hiểu những gì tôi nói.

    Hôm nay Minh cũng dắt hai con bò đi ăn cỏ, lần đầu tiên tiếp xúc nói chuyện tôi thấy em khá thân thiết. Dường như đã hiểu những gì tôi nói, giữa Nấm và Minh không còn khoảng cách nữa. Buổi chiều đó Minh rủ chúng tôi đi tìm dủ dẻ, ở cái thị trấn nhỏ này có vô số những kiểu chơi mà bọn con nít mê tít, trong đó có trò bứt lá dủ dẻ tết lại làm kèn thổi te te. Không riêng gì Nấm, Minh hay Sẻ, mà những ai đã sinh ra và lớn lên ở thị trấn này đều có rất nhiều kỷ niệm gắn liền với cây dủ dẻ.

    Những mùa dủ dẻ chín dường như đã ăn sâu vào ký ức bọn chúng, tôi nhớ có một lần chúng tôi tìm được chùm dủ dẻ vàng ươm, thế là cả đám nhào vô tranh giành đến nỗi quả dập nát bét rớt xuống đất, vậy mà tụi nó vẫn tiếc nhặt lên phủi phủi rồi cho vào miệng để cảm nhận vị ngọt thanh tao nồng nàn từ hương vị đồng quê. Hương thơm ấy giản dị mà luôn đong đầy tình cảm.

    Có lẽ chỉ những ai đã từng trải qua mới thấy hết vị ngọt quả dủ dẻ đánh thức vị giác mỗi khi nhớ về một miền quê xưa cũ.

    Kể ra từ khi về nhà dì Út chơi, tôi được nếm nhiều thứ mình chưa ăn bao giờ hay những thứ ăn rồi lại thấy lạ lẫm. Những trái sim tím chín rực Nấm hái trên triền đồi cao phảng phất một thứ mùi hoang dại, tôi gọi là mùi rừng núi, đến khi Sẻ dúi vào tay tôi chùm dủ dẻ toả hương ngào ngạt tôi cảm giác như hè đang đến, rất gần. Minh đào mấy củ khoai mầm sau vườn rồi đặt lên bếp than nổ lách tách thì y như mùa đông đã dọn dến thị trấn này. Dượng về nhà mang theo mấy con cá rô phi to tướng, ướp gia vị rồi kho trên than hồng, dì nấu một nồi canh cua rau đay nóng hổi, cả nhà vừa ăn vừa nhìn nhau trong cơn mưa lạnh lẽo một chiều tháng tám. Có lẽ đó là niềm hạnh phúc trọn vẹn thứ hai mà tôi từng cảm nhận được ngoài gia đình tôi.
    Sau một buổi chiều mưa trong veo, lâu lắm rồi mới có một cơn mưa nhẹ nhàng khiến người ta dễ chịu như vậy. Dì dượng đi từ hồi trưa, lên huyện chắc mai mới về, dì nhờ tôi chăm hai đứa nhóc, Nấm và Sẻ không biết làm gì mà cứ lui cui trong bếp cả buổi đến giờ vẫn chưa ra .Trong khi chờ tụi nó, tôi ngồi trước hiên ngắm trăng, những ngày tháng này là những ngày tháng đẹp nhất đời tôi, bây giờ chiều nào tôi và bọn nhóc cũng tha thẩn trên đồi tìm bông dủ dẻ rồi dạo chơi trong rừng sim hoa tím .Tôi và Sẻ đi cạnh nhau, Nấm và Minh lang thang hướng khác tụi nó cũng đã thân hơn xưa, chúng tôi đôi khi chỉ nhìn thấy nhau thấp thoáng sau những chùm dủ dẻ vàng ruộm. Đó cũng là lúc mùi hương dủ dẻ ngọt ngào lan theo gió, không chiều nào mà Sẻ không ngắt vài bông về bỏ trong cặp sách, treo trên khung cửa hay để ở đầu giường, Nấm và Minh thì không thích hái bông, hai đứa nó chỉ thích vặt hết trái ăn cho đã thèm. Mùi hương dủ dẻ cứ thế dịu dàng, mênh mang ngây ngất theo tôi cả vào trong từng giấc ngủ, vương vít vào tận giấc mơ êm đềm những ngày thơ ấu của bọn nhóc. Mãi nghĩ ngợi vẩn vơ tôi không biết Minh đã sang và đang ngồi cạnh tôi, em chẳng nói gì chỉ mỉm cười nhìn tôi. Nấm và Sẻ cũng vừa từ bếp đi ra, tụi nó mang theo một rổ khoai lang nướng nóng hổi rồi ngồi bệt xuống, háo hức.

    -Khoai em mới nướng đó chị. À, Minh, tối nay mày ở lại đây ngủ với tao nha, tao ngủ có một mình à thêm mày sẽ vui hơn ! – Nấm bóc một củ khoai đưa cho Minh.

    Chẳng biết hai đứa nó nói chuyện gì mà đứa nói, đứa gật, rồi cười, rồi lại tiếp tục nói. Cứ thế đến khi trăng lên, đêm nay chỉ là một mảnh trăng khuyết treo lơ lửng nhưng vẫn toả ra thứ ánh sáng mờ ảo, phủ màu ấm áp lên đám cỏ ướt mưa trước sân nhà, cộng với mấy con đom đóm đang lượn bay như soi sáng một khoảng trời thị trấn an yên .Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy Minh khẽ ngước nhìn tôi như muốn nói điều gì, nhưng em chưa kịp nói thì Nấm đã chen ngang.
    -Chị Hiên, Minh suýt phải nghỉ học đó.
    -Nghỉ học ! – Tôi ngạc nhiên. Sao lại phải nghỉ học.
    -Vì nó không có tiền mua sách giáo khoa, nhưng lúc nãy tụi em đã bàn với nhau rồi, em sẽ cho Minh bộ sách giáo khoa cũ, cũ mà vẫn còn xài được.
    -À, vậy ra chuyện hai đứa nhỏ to lúc nãy là chuyện này đó hả.
    -Dạ, đúng đó chị ! – Nấm nheo mắt cười, rồi nó nói thay Minh những lời muốn nói với tôi. Minh nói cảm ơn chị nhiều lắm, vì những cây bút và những cuốn truyện tranh chị tặng nó hôm bữa và cả số tiền chị giúp mẹ nó trả tiền viện phí nữa.

    Nấm và Minh làm tôi xúc động ghê ghớm. Những việc tôi làm có là gì đâu so với những việc bọn nhóc ở đây đã làm cho tôi. Ừ nhỉ, có những điều kỳ diệu chẳng xa xôi như tôi mải mê tìm kiếm, mà đôi khi đơn giản chỉ là một sự động viên, một lời chia sẻ, là lòng tốt và niềm tin.

    Tình yêu làm thời gian trôi đi rất nhanh, có ai đó đã nói như vậy .Trong trường hợp của tôi, câu nói đó thật đúng. Gần hai tháng bám rễ ở đây, tôi không nghĩ đến ngày mình phải nói lời tạm biệt nhưng biết phải nói gì bây giờ.

    Nấm và Sẻ chìa ra trước mặt tôi một cái túi vải, trong đó đựng một chùm bông dủ dẻ khô, một mảnh giấy và một cái kèn được tết từ bông dủ dẻ .Tụi nó nhìn tôi, mắt ươn ướt .“Chị lên thành phố thượng lộ bình an nha chị”.Tôi lắc hai bím tóc Sẻ. “Ừ, cảm ơn em, khi nào rảnh chị sẽ lại về đây chơi. À, sáng giờ hai đứa có thấy Minh đâu không ?”.“Minh nói không muốn thấy cảnh chia ly nên nó không qua đâu chị. Nó có viết thư cho chị, là mảnh giấy ở trong túi vải đó, lát nữa lên xe chị mở ra xem nha”.“Ừ, chị biết rồi”.

    Tôi rời thị trấn vào một buổi sáng mưa, mưa chảy ngược phía sau lưng tôi, hiền hoà, mênh mang.“Chúc em luôn hạnh phúc, Minh à .Tạm biệt em !”. Tôi thì thầm qua khung cửa ướt nhẹp nước mưa, hy vọng em sẽ nghe thấy, dù thế nào thì chúng tôi cũng đã từng là những người bạn, như em nói là những người lạ quen thuộc.

    Khi xe chạy được một lúc, tôi mở lá thư của Minh ra xem, hàng chữ dài thẳng tắp, nhỏ xinh .“Chị Hiên, em xin lỗi vì đã không qua chào tạm biệt chị. Em chỉ muốn nói với chị là em cảm ơn chị, lòng tốt và niềm tin của chị, của những người yêu thương em sẽ khiến em không phải cô độc trên con đường em đang đi và sắp đi. Khi nào rảnh chị lại về đây chơi nữa nha chị”.

    Những dòng chữ của Minh, thật kỳ lạ, nó khiến mắt tôi nhoè đi trong một sáng trời mưa dầm dề, rả rích. Chưa gì mà đã thấy nhớ mùi hương dủ dẻ rồi, mùi hương sâu thẳm đọng lại mãi trong chiếc túi áo ngày nào. Đơn giản, bởi đó là hạnh phúc của một tuổi thơ, của tôi, của tất cả chúng tôi…

    Phong Lin

    https://caybuttre.vn/huong-du-de/
    https://www.youtube.com/watch?v=tekN9NtGXOc

  5. #165
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Biển của mỗi người .

    Ông già nói Tết này chắc ông đi Phú Quốc, còn nếu mua vé máy bay không được, ông sẽ xuống Hà Tiên nằm chơi ít bữa. Đứa trẻ gặp ông lần thứ năm, hay thứ bảy, nó cũng không còn nhớ, chỉ nhớ gặp lần nào nó cũng có vài chuyện để ngớ ra, vì bất ngờ, vì những điều nó chưa biết. Và ngồi ở cái quán café Sài Gòn, chung quanh rựng nắng lên, lần đầu tiên đứa trẻ hay, Tết nào thì ông bạn già nó cũng đi về phía biển.

    Đứa trẻ biết ông yêu biển, có chuyến đi chung, ông làm nó ấm ức không thôi, vì nó thích đá, thích rừng ông lại sướng rơn khăng khăng đòi đi biển. Tập thơ mà ông tặng nó chỉ ba mươi bài, thì đã có mười bài ông viết về biển, những bài có chữ “biển” nó không tính. Có một bài thơ rất cảm động, ông đứng ở ngôi “tao” viết cho con chó đã chết của mình, “Tết Canh Tý tao đi tìm buồn ở biển. Mày đau nằm liệt ở góc nhà…”. Đứa trẻ thích bài thơ này, và cứ nghĩ ông bạn già đi biển chỉ vì không muốn nhìn thấy con vật gắn bó với mình đau đớn lìa đời.

    Nhưng hóa ra, năm nào ông cũng đi, lúc thì Nha Trang, Vũng Tàu, khi thì Mũi Né, Phú Quốc… Sáng mồng Một, ông đóng cửa, khép rào và làm một chuyến đi tới mênh mông. Đứa trẻ hỏi, “rồi chú làm sao?”. Ông già cười, “châm một bình trà ngồi uống ngó biển chơi”.

    Ở đó, ông cũng một mình như lâu nay sống một mình trong căn nhà rộng và sân vườn rộng. Cái sự một mình này ông không giải thích với ai. Ông yêu vẫn yêu nhưng một mình thì vẫn một mình. Và trong sáu ngày đầu tiên của một năm, quãng thời gian người ta sum họp, đoàn viên, ông lại ngồi chơi vơi trước biển, “hồi trẻ ở rừng hoài, mắc chán rồi”, cái lý do đơn giản này che giấu một điều đơn giản khác, ông sợ hãi cái không khí Tết, khi mà sự gặp gỡ, sự trở về của mỗi người đều soi chiếu, nhắc nhớ nỗi cô đơn, xa vắng con người.

    Đứa trẻ dĩ nhiên đoán được, nó tợp ngụm café, ngồi ngẫm ngợi, bỗng nhớ tới ông già khác, cũng là bạn thiết của ông bạn này. Cũng một đặc trưng cho mẫu người sợ hãi Tết, năm nào cũng đưa ổ khóa cho hàng xóm khóa cửa ngoài giùm, rồi trốn ru rú trong nhà, vật vờ như một hồn ma. Ông chỉ đặt bốn cái ghế ở phòng khách của mình, như một quy định ngầm, đoàn nào kéo tới năm bảy người, ông tái tê vì khó chịu. Càng khó chịu hơn khi mình lui cui bày biện một lúc thì khách đứng lên ra về, để lại mấy đĩa bánh mứt chưa ai chạm vào, những tách trà chưa ai ghé môi. Thôi, đóng cửa cho khỏe.

    Và trong căn nhà gỗ thanh vắng, ông già cũng làm cuộc hành trình đi tới biển cô đơn, theo kiểu của ông. Đứa trẻ không ngạc nhiên với cách ứng xử hơi lập dị đó, khi một ngày nó nhận ra càng ồn ào lễ hội người ta càng cô đơn, càng đông đúc chung quanh ta càng đơn độc, bởi có những tâm hồn không ai chạm thấu được.

    Đứa trẻ chỉ buồn cười, chơi với hai ông già, một ở Sài Gòn, một miền tây, gặp ông này nghe nhắc ông kia, và ngược lại. Như sáng nay, trong lúc nắng lên cao, ông già lại hỏi thăm bạn mình có khỏe, đứa trẻ vọt miệng nói luôn, như bắt lại một ý nghĩ bất chợt, sợ nó tan đi mất, “sao chú không xuống ông Chín chơi, ở với ông Chín, Tết này…”.

    Ý tưởng của đứa trẻ không phải sáng tạo gì cho lắm, nhưng làm ông già ngỡ ngàng, ờ, tại sao không? Bọn ông sẽ vẫn đóng cửa, trốn trong nhà, pha bình trà quạu, ngồi nói vài câu chuyện phiếm, ngồi cười người đời đang chạy rần rần ngoài kia, không hiểu sao chỉ có được mấy ngày nghỉ, họ không chịu khép cửa lại, để âu yếm yêu thương mà cứ phải tất tả ngoài đường. Hoặc vả, bọn ông chỉ uống trà, không cần nói gì hết, chỉ ngồi đó nghe tiếng sóng của biển cô đơn vỗ rất xa rồi.

    Ông già lẳng lặng đặt một vé máy bay. Ông không nhắn gì cho bạn, vì muốn tạo bất ngờ. Mồng Một ông đặt chân lên cái thềm nhà treo lủng lẳng mấy giò lan. Ông gọi cửa. Không có ai. Ông dựa vali ngồi chờ đến trưa, người hàng xóm ngang qua kêu lên, “Ông Chín về quê rồi, hết Tết mới ra”. Ông gần ngồi chèm bẹp, và bỗng dưng thấy biển xanh ngằn ngặt trước mặt mình. Chưa bao giờ ông thấy biển mênh mông, sâu thẳm như vậy, ông lần túi lấy thuốc hút, điện thoại chạm khẽ vào tay. Hy vọng lóe lên rồi lại tắt ngay, bạn chủ trương sống giản tiện hết mức, ghét cái đồ công nghệ mới này, bạn không xài. Ông bỗng nhớ đứa trẻ, cũng sống đâu đó ở thành phố này.

    Thời điểm đó, đứa trẻ hoàn toàn rảnh rỗi, thanh thản nằm nghe nhạc, xem phim. Nó hoàn toàn không hay ông bạn già đã lần theo nét vẽ bâng quơ của nó để đến… một biển khác. Nó tắt điện thoại, đó là cách nó tuyệt giao với thế giới này, như bạn bè vẫn thường làm, theo kiểu của họ, người đi núi, người tìm biển, người khóa trái ngoài… Đứa trẻ hoàn toàn không biết ở hiên nhà người, trên đất người, ông bạn già của nó bơ vơ ngồi lau đôi kính ướt. Ông không biết tìm bạn mình ở nơi nào, vì không biết quê quán, không biết bạn đến từ đâu.

    Và ở nơi nào đó mà người ta gọi là quê, cũng có một ông già khác, treo võng ngoài bìa vườn, chờ ngày qua, chờ cho hết cuộc hội hè đình đám, chờ cho qua hết cuộc nhắc nhớ sự cô đơn.

    Họ sống với biển của mình lâu tới mức, lúc cần tìm người, họ hoàn toàn mất dấu tích của nhau.

    Nguyễn Ngọc Tư

    https://isach.info/story.php?story=bien_cua_moi_nguoi__nguyen_ngoc_tu &chapter=0000

  6. #166
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    "AN" thôi là đủ .

    Trễ hẹn. Chị gọi cho bạn, giọng trong trẻo như thiếu nữ: “Thong thả, chị đang ngồi chơi một mình. Mùa dịch bệnh, ai nói lo nói buồn, nghỉ chơi nha nha!”.

    Bạn đứng giữa góc ngã tư trước công viên chiều nhạt nắng, lâu lắc chờ một chuyến taxi, nghe lòng tự nhiên nhẹ nhõm trước tiếng cười của chị.

    Dưới chân bạn, những chiếc lá khô nằm sát bên nhau mang lại một vẻ an bình thư thả lạ. Cửa hàng quán xá thưa thớt người, ngỡ như Sài Gòn của những ngày tết. Ừ, tại sao không cho phép mình nhận những phút giây bình yên, cớ chi phải căng lên như một sợi dây đàn?

    Đứng đây, gọi mãi chẳng được một chuyến xe, bạn chỉ nghe một sự phiền lòng phủ lấy mình? Một chuyến xe không gọi được, một người đối với mình không thật tốt, một cơn dịch bệnh kéo đến… suy tận cùng đâu phải lỗi ở mình.
    Hà cớ chi bản thân khiến mình trở nên nặng nề, mang toàn cảm xúc tiêu cực? Sao bạn không thấy tất cả những vẻ đẹp – vốn dĩ luôn có – đang ở quanh mình nhỉ, thậm chí gần ngay dưới chân…

    Lòng chợt biết ơn chị, tiếng cười giòn tan và câu đùa như vết dầu loang mang niềm vui từ chị tỏa sang bạn. Đời mình được gần những người lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan và yêu cuộc sống quả là điều may mắn. Bạn ngẩn ngơ nghĩ đến quyền năng vô hạn của nụ cười của niềm vui trong đời mỗi con người.

    Phải yêu thương bản thân đến như thế nào thì mới có thể vui vẻ lạc quan được như vậy. Một sự thương thân có chiều sâu hẳn hoi, tựa như hạt giống chỉ nẩy mầm và tốt tươi trên mảnh đất thật sự màu mỡ nhiều dưỡng chất.

    Nếu bản thân không nhận ra niềm vui từ tận trong sâu thẳm lòng mình, thì tất cả những thứ vay mượn khác như lớp phấn son, chỉ có thể là dối người dối mình trong giây phút phù phiếm mà thôi. Và trong suốt hành trình cuộc đời, liệu có mưu cầu nào của mình lớn hơn mưu cầu được vui?


    Chị ngồi bên ngoài bancông quán cà phê tận tầng thứ sáu của ngôi nhà với lối kiến trúc khá cổ kính. “Chị cho coi cái này hay lắm!” – chị đón bạn vẫn bằng tiếng reo trong trẻo như trẻ nít, rút trong chiếc túi nhỏ đeo chéo bên vai một túi vải bóng có hình cành mai bung nở hoa vàng rực rỡ, bên trong túi là tờ giấy màu đỏ được gấp cẩn thận.

    “Đừng nhìn chị ngỡ ngàng như vậy! Xem này!” – chị cẩn thận lần giở từng nếp gấp của miếng giấy đỏ được xếp nhiều lần theo hình tam giác. AN.

    Chữ AN được viết bằng bút lông đen với lối viết của nghệ thuật thư pháp chữ quốc ngữ hiện ra trước mắt bạn trong nét mặt bừng sáng của chị.

    “Năm nào chị cũng đến thăm thầy giáo dạy văn hồi cấp 3, cũng gần hai mươi năm rồi em! Mỗi năm thầy tặng chị một chữ. 5 năm nay chị nhận một chữ này. Cưng không?”. Bạn lại đăm đắm nhìn chị nâng niu gấp tờ giấy y như lúc mở ra…

    Không dưng bạn nghe lòng xốn xang. Bạn nghĩ đến chữ bình an cả đời biết bao nhiêu người đã và đang chông chênh chao đảo tự khấn thầm trong thinh lặng như một câu thần chú.

    Chị khấn thầm cho những xúc cảm tình yêu thôi đừng cuốn chị đi hết cuộc tình này đến cuộc tình khác, cuộc tình nào cũng vắt gần trọn năng lượng nơi chị.

    Anh khấn cho những cơn ho dài chỉ là sự cảnh cáo của cơ thể vì những đêm thức khuya rít từng hơi thuốc chứ không phải là một dấu hiệu của căn bệnh sinh tử khi con anh đang còn tuổi ăn tuổi lớn.

    Rồi bạn, rồi biết bao nhiêu người nữa… Từng ấy mặt người là từng ấy lời nguyện cầu. Có ai không từng có một lời nguyện cầu chỉ mong được an yên vui vẻ?

    “Ngày mới an vui em!”. Chị thì thầm mà bạn cứ ngỡ chị đã rút chiếc cẩm nang mình trân quý đặt vào tay bạn cũng bằng cả một sự trân quý. Không dưng bạn có ý nghĩ về một phép mầu: chiếc cẩm nang màu đỏ này sẽ được Bụt hóa phép thành hàng triệu gói và đặt vào tay từng người trong cõi nhân gian…

    Một chữ AN thôi là đủ cho một ngày mới, một năm mới, là đủ cho một cuộc đời. Phải không?

    TRIỆU VẼ

    https://vanhocsaigon.com/an-thoi-la-...%A3u-ve%CC%83/

  7. #167
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    CẤM VIÊN RỘNG MỞ .

    Vào thuở xa xưa, xưa lắm, cách đây nhiều thế kỷ, vào cái thời người ta đo lường sự phú túc của một người không bằng tiền bạc và các phẩm vật khác hay nhà phố mà bằng diện tích đất đai, bằng số vườn tược người ấy làm chủ ; có một ông già nọ, chủ nhân một khu vườn rộng mênh mông: mặt trước khu vườn giáp bờ sông, phía sau giáp bờ biển.

    Dĩ nhiên, ông ta chưa hẳn là một bậc giàu có nhất vùng vì ông ta không phải là chủ nhân của tất cả những ruộng đất tại đây, song một điều ai cũng công nhận: khu vườn của ông ta quả là một khu vườn nổi tiếng nhất mà họ được biết.

    Thật vậy! Đó là một khu vườn đẹp tuyệt vời, đẹp hơn bất cứ một Ngự Viên xinh đẹp của bất cứ một vị quốc vương sang giàu nào trên thế giới.

    Trong vườn có vô số cây cao, tỏa đầy bóng mát và sản xuất rất nhiều quả vừa ngọt vừa to ; có không biết cơ man nào mà kể những kỳ hoa dị thảo, nhìn ngắm không bao giờ chán mắt.

    Cỏ thì xanh rờn, mịn óng ả, từ xa nom tựa một tấm thảm nhung mầu lục trải rộng trên mặt đất.

    Hoa thì tỏa mùi thơm ngào ngạt, mỗi đóa mang một mầu sắc và mùi hương riêng biệt: đóa thì rực rỡ nồng nàn như một công nương trang điểm kiêu sa, đài các ; đóa thì nhu hòa mầu sắc, thoang thoảng hương thơm tựa một nàng thôn nữ hiền lành, cả thẹn. Có những cánh hoa be bé, xinh xinh nổi bật trên thảm cỏ, nhún nhẩy trong gió xuân y như một bầy trẻ tinh nghịch đáng yêu. Có những cánh khác hình dáng tựa như những ngôi sao mai, nhỏ nhắn, tươi mát, đẹp một cách đơn giản dịu dàng, dưới cơn mưa phùn nom càng huyền hoặc.

    Hoàng Mai, Bạch Cúc, Hướng Dương, Anh Đào, Ngọc Lan, Dạ Lý, Trà Mi, Mẫu Đơn, Phù Dung, hoa Hồng, hoa Quỳnh, hoa Trang, hoa Đại, hoa Sứ, hoa Ngâu, và còn vô số loài hoa khác, không sao nhớ xuể và đếm xuể. Trong hồ bên góc vườn, hương sen man mác, lá sen chiếc nào cũng to bằng cả chiếc nong…

    Vào xuân, muôn hoa đua nở, khu vườn lộng lẫy như một vườn tiên – chả ai thấy vườn tiên ra sao, nhưng chắc trên ấy cũng chỉ đẹp đến thế là cùng, không hơn được – Mùa thu, quả chĩu trên cành, lúc nào cũng như sẵn sàng chào mời chim chóc đến. Mà cũng chẳng phải mời chào: mùi thơm của hoa, của quả tỏa khắp một vùng, vượt ra khỏi chu vi rộng lớn của khu vườn, thứ mùi thơm sao mà vô cùng quyến rũ…

    Muôn chim tìm đến: chúng tụ tập trên các vòm lá, lễ phép và ồn ào mời nhau nhập tiệc! Rồi sau đó, chúng trỗi giọng véo von chào mời lũ trẻ con. Ta khó mà biết được rằng nhờ hương thơm, mật ngọt của hoa kết tinh trong trái hay do cảnh đẹp kỳ diệu của khu vườn quý mà giọng chim bỗng nhiên thánh thót, du dương hơn bất cứ khi chúng hót ở nơi nào, vào lúc nào. Tiếng hót của chúng cao và trong vắt vọng mồn một vào tận tai lũ trẻ từng chặp, từng chặp, không thôi. Bọn này bỏ dở trò vui, lắng tai nghe chim hót. Và rồi, cả lũ kéo nhau vào tận khu vườn theo tiếng gọi của muôn chim.

    Ôi chao! Tuyệt quá! Chưa có khu vườn nào làm lũ trẻ mê đến thế! Chúng chưa từng thấy khu vườn nào có nhiều hoa đẹp, quả ngon, cỏ mềm, cây lớn đến như thế! Chúng tha hồ leo trèo, đuổi bắt, chạy nhảy thỏa thuê, chẳng một ai ngăn cấm. Lối đi thì rậm, bóng mát lại dày, cỏ mượt dưới chân, trượt ngã cứ y như là lăn trên nệm ấm!

    Chúng săn bươm bướm, chúng đuổi chuồn chuồn, chuyện trò ríu rít như chim, reo cười theo gió, vui không thể tả.

    Chúng trèo lên cành, ngồi trên các nhánh cây to, nhún nhẩy đong đưa, coi chừng như còn thích thú hơn gấp bội khi chúng ngồi trên những cái đu ngày hội.

    Có chúng tô điểm cho, vườn càng thêm rực rỡ.

    Thời gian ấy, chủ nhân khu vườn vắng mặt. Số là ông ta có một người bạn chí thân ở tít tận một miền trên cao nguyên xa, xa lắm. Đến nỗi mỗi bận nhớ nhau, họ phải vượt không biết bao nhiêu dặm tìm đến thăm nhau. Bận này, đến phiên chủ nhân khu vườn khăn gói gió đưa đi thăm bạn. Thuở đó, người ta còn rộng thì giờ nên người ta không tiếc như ngày nay. Ta không thể nhớ rõ từ khởi hành đến khi gặp bạn, ông ta đã mất hết mấy ngày. Chỉ có một điều để chứng tỏ ông ta đã vượt nhiều dặm trong cuộc hành trình vì tình bằng hữu mà thôi. Thế này này: nguyên trước khi đi, ông ta đắn đo một lát rồi vơ hai cái trứng (trong số đó có một cái do con gà mái vừa sản xuất trên gác bếp) định dùng làm món quà biếu bạn. Chứ sao, không lẽ ta muốn ông phải mang theo hoa hay quả vườn nhà? Có họa là mất trí, vì đến nơi hoa sẽ héo rũ và quả chắc chín rục, nát ngứu trong bọc hành trang.

    Dọc đường, có một lần, ông giở bọc hành lý xem chừng hai cái trứng vì sợ vỡ thì, chao ơi! Hai ba tiếng “chíp chíp” vang lên và hai cái đầu tròn trĩnh, vàng óng nhô ra khỏi bọc làm ông giật mình xuýt buông rơi bọc xuống đất nếu không kịp nhận ra. Nhưng quá muộn: hai chú gà con vỗ cánh, phóc ngay xuống đất, chúi mũi chạy tràn. Ông chỉ còn biết há hốc miệng đứng nhìn theo, chưa kịp hành động gì thì hai chú gà đã a đại vào đám ruộng lúa chín, mổ lia lịa. Ông bật cười to lên thích thú.

    Thế ra ông đã đi nhiều ngày? Thời gian từ cái trứng lọt khỏi lòng mẹ (rõ ràng là khi ông nhặt hai quả trứng lên, có một cái còn nóng hổi và mẹ nó cũng vừa trên gác bếp nhảy xuống, “cục tác” vang nhà), thay hình, đổi dạng, cựa quậy, mọc lông, mọc cánh… đập vỡ cái vỏ, mở mắt, biết đói, nhâm nhi chút cám vụn, nhá được hạt tấm cho đến khi biết mổ thóc như bây giờ, đâu phải chỉ đếm bằng hai bàn tay mà đủ? Quả ông đã đi xa, xa quá là xa…

    Nhưng không sao, tình bạn trên hết, ông chờ cho hai chú gà nhóc no nê, tuốt thêm mươi gié lúa làm thực phẩm dự trữ cho chúng, nhặt chúng lên, cho vào túi áo khoác, đoạn tiếp tục cuộc hành trình.

    Đến một hôm kia, khi mặt trời lên khỏi đỉnh đầu thì ông ta cũng vừa đặt chân lên bậc thềm nhà bạn.

    Nghe tiếng chó, người bạn hiểu ngay là ai đến thăm mình.

    Đôi bên gặp nhau, tay bắt, mặt mừng, chuyện trò miên man, mê mải, quên cả nghỉ ngơi, cơm nước, ngủ nghê! Chao ơi! Cao quí thay tình bạn!

    Cho đến khi cả hai đói mẻo đói meo, họ bèn dừng lại tính chuyện ăn uống, mới hay là đôi gà bé bỏng đã chuồn mất tự bao giờ. Hai bên đều tự nhận là lỗi của mình, cho đó là chuyện không đáng kể, họ tìm thực phẩm khác cho qua bữa và tiếp tục trò chuyện nữa. Họ trò chuyện cho đến 368 bận mặt trời lên và xuống mà chuyện vẫn chưa vơi (nghĩa là, nếu tính theo niên lịch ngày nay thì hơn một năm ròng đấy). Nhưng câu chuyện không phải là nước bể, cho nên đến lần 411 khi ông mặt trời lên thì chuyện cũng hầu như càn cạn. Họ bắt đầu hết thấy thú vị để nghe và kể cho nhau nghe. Khi người này kể thì người kia che miệng ngáp dài. Khi người kia kể thì người này (vốn đã thức quá nhiều đêm) chống không nổi với cơn buồn ngủ, đôi mắt cứ như có chất dẻo, cứ chập vào nhau và chỉ trong giây lát ông ta ngáy pho pho… bỏ mặc bạn vừa kể vừa nghe một mình trong bóng tối!

    Than ơi! Thế là họ bất bình nhau. Sáng hôm sau ông Khắt Khe (tức là ông chủ khu vườn quý) bảo ông Cô Độc (tức là ông bạn ở xa) bằng giọng mát mẻ:

    - Bác đã quý giấc ngủ hơn tình bè bạn thì thôi, tôi xin cáo thoái cho xong!

    Ngỡ rằng bạn sẽ vồn vã xin lỗi một câu nào ngờ ông Cô Độc đâm cáu, trả đũa:

    - Nếu bác đã chán trò chuyện thì cứ nói toạc ra, bất tất phải dùng lời bóng gió mà gán tiếng xấu cho tôi? Nếu tôi không trọng tình bè bạn thì có mà điên tôi mới chống hai con mắt lên, thức liền 45 lần mặt trăng lên cho đến khi bà mặt trăng xuống để mà nghe chuyện bác, một câu chuyện kéo dài nhạt thếch, thua cả nước luộc rau. Tôi, con người quen thói đi nằm ngay khi ông mặt trời về núi và chỉ chỗi dậy vào lúc ông ấy từ dưới nước nhô lên. Đúng ra, bác phải đủ trí khôn mà hiểu rằng tôi hy sinh vì tình bạn nhiều lắm mới phải chứ, có đâu lại…

    Ông Khắt Khe tức thì đùng đùng nổi giận:

    - À! À! Bác lại kể công với ta chăng? Bác há không biết rằng ta khát nước biết bao nhiêu lần trong khi kể chuyện, mà nào bác có quan tâm đến điều đó đâu!

    Ta đã đường xa lặn lội đến đây kể chuyện vườn ta cho bác nghe… Chao ơi! Rõ là tệ bạc! Nếu tình bạn thắm thiết bao nhiêu năm nay giữa hai ta mà đứt thì là do lỗi bác chứ không phải tại ta đó, nghe không?

    Ông Cô Độc cũng lồng lên:

    - Thôi! Chớ nhiều lời! Tình bạn đâu phải sợi dây mà lo nó đứt? Vả, đã đến nước này thì dù nó có đứt ta cũng chẳng tiếc chi, ta vốn đã quen cô độc, kia mà!

    Thế là ông Khắt Khe lên đường, không bắt tay từ biệt bạn. Cuộc chia ly sao buồn thế: hai người đều mạnh tay giật đứt mối dây thân ái mà họ dày công nối tiếp từ bốn mươi năm ròng rã: họ rất yêu nhau, mà họ yêu nhau cũng phải, cả hai đều không vợ không con, cả hai đều khó tính ; nghĩa là nói trắng ra thì họ đều là những kẻ vừa khắt khe lại vừa cô độc, đúng như tên họ mang.

    Nỗi buồn chĩu nặng bên lòng, ông Khắt Khe lặn lội trở về vườn trong khi ông Cô Độc đi nằm, ngủ ngay khi mặt trời chưa lên núi.

    Vốn nặng ôm khối buồn, vừa về đến nơi lại trông thấy một lũ nhải con trong khu vườn quý, Khắt Khe ta gầm lên:

    - Lũ nhải ranh kia! Ai cho phép chúng bay vào đây làm gì, hử?

    Trông dáng bộ hung hãn của ông Khắt Khe, lũ trẻ sợ cuống lên, cả lũ đều há mồm mà không ra tiếng. Lão Khắt Khe cũng chả thiết nghe chúng phân trần, lão quát to, giọng oang oang như lệnh vỡ:

    - Khôn hồn thì cút xéo ngay! Vườn này là vườn của ta, thuộc quyền sở hữu của ta. Chỉ một mình ta được ra vào, lên xuống mà thôi. Chúng mày không được bén mảng vào đây, nhá! Chỗ này không phải chỗ chơi của lũ bay. Lũ bay không có họ hàng ruột thịt gì cùng ta, không có liên hệ dây mơ rễ má gì cùng ta, ta không chấp chứa lũ bay được! Cút xéo!

    Lũ trẻ vừa khóc thút thít vừa đi giật lùi ra khỏi khu vườn một cách miễn cưỡng, buồn rầu. Chúng biết rằng từ đây mà đi chúng không bao giờ được đặt chân vào khu vườn đẹp tuyệt vời kia nữa. Ngoài đường lớn thì đầy cát bụi và sỏi đá, có gì hợp với chúng đâu? Nhà chúng thì chật chội, thiếu ánh sáng và chạy nhảy sẽ vướng chân vì đồ đạc…

    Ông Khắt Khe tức thì bắt tay vào việc: ông ta cầy cục xây một bức tường rất cao vây quanh khu vườn, ngoài cửa treo một tấm bảng, kẻ một hàng chữ lớn tướng, dài ngoằng (ý chừng để tỏ cho mọi người biết rằng Khắt Khe ta đây cũng là một tay nho học hẳn hòi?) như sau:

    “Đất này là CẤM ĐỊA. Vườn này là CẤM VIÊN. Không được vào đây, ai bất tuân sẽ bị Khắt Khe chủ nhân trừng phạt đúng theo hình luật quốc gia”.

    Và lão xoa tay dáng chừng đắc ý về tài văn chương siêu bạt của mình, quên phăng cả sợi dây thân ái mà lão tưởng sẽ làm lão đau đớn xót xa dai dẳng cho đến trọn đời ; ngờ đâu có vài chục lần mặt trời lên xuống (một chặng đường về) là lão đã quên tuốt tuột, thấy nhẹ lâng lâng, nhất là sau khi tống khứ xong lũ trẻ!

    Từ bấy giờ trở đi, Khắt Khe ta tự nhủ: “Ta không thèm kết bạn với bất cứ ai nữa. Tình bạn chỉ tổ gây thêm phiền phức, tốn kém mà thôi. Sống một mình với khu vườn quý là hoàn toàn hạnh phúc rồi.”
    Nhưng Khắt Khe quả đã lầm to: mùa Xuân như ngắn quá sau khi lũ trẻ bị xua ra khỏi cổng vườn. Mùa Xuân không có chân, không di động được mà chừng như đi theo lũ trẻ? Lão chịu đựng một mùa Hè nóng bức chưa từng thấy trong đời, tiếp đó Thu về nhưng khung cảnh vô cùng ảm đạm và mùa Đông vội vàng ào tới, gấp gáp và dữ dội, xô tạt Thu đi. Vườn cây không kết quả.

    Công bình mà nói: từ ấy chỉ có mùa Đông là tồn tại, ở lỳ trong CẤM VIÊN, không muốn dịch chân. Còn đất nào tốt hơn đất này nữa chứ? Xuân, Hạ, Thu thập thò ngoài cổng rồi quay ngoắc đi.

    Bên ngoài CẤM VIÊN, Xuân đã trở lại, cây cỏ đua tươi trong tấm áo xanh biếc dịu dàng. Muôn chim đua hót, ngàn hoa đua nở, quả chĩu trên các cành cây.

    Trong CẤM VIÊN trái lại: không một bóng chim, không một cánh bướm. Hoa ngừng nở. Hạt không nẩy mầm. Cành cây trơ trụi, khẳng khiu, như những bàn tay gầy giơ lên cao kêu cứu. Lá úa ngập lối đi, che khuất cỏ xanh. Toàn thể khu vườn như được ướp lạnh trong một mầu vàng héo úa, buồn thảm!

    Vài mầm cây, vài cánh hoa ngứa ngáy, ngọ nguậy muốn trồi lên, muốn nhô ra hứng sương và sưởi nắng, nhưng vừa lấp ló, trông thấy khung cảnh lặng lẽ, ảm đạm chúng đâm nản vội vã lùi lại, nép vào lòng đất và nhắm mắt ngủ luôn không thèm dậy.

    Chúa Xuân mặc áo mây trời, thơ thẩn trên cao, không hề ghé mắt nhìn qua CẤM VIÊN lấy một lần.

    Lũ trẻ chẳng hiểu mô tê chi, cứ ngấp nghé, kiễng chân bên ngoài CẤM VIÊN một cách say sưa, thèm muốn. Chúng xuýt xoa:

    - Chắc bên trong giờ này tuyệt lắm? Ước chi…

    Một cô vành khuyên thóc mách:

    - Ấy chớ! Các bạn đừng vào đó làm chi. Mùa Đông ngủ luôn trong ấy. Vườn quý chết rồi. Các bạn xem đây: Chúng tôi có thèm vào đó nữa đâu!

    Lũ trẻ còn đang ngơ ngác, chưa hiểu hết lời chim thì con vành khuyên đã vỗ cánh lao đi như một mũi tên trong nắng sớm. Lũ trẻ dõi mắt theo: quả nhiên nó tránh xa khu vườn quý! Lạ chưa?

    Lũ trẻ buồn, kéo nhau ra cánh đồng. Dĩ nhiên, cánh đồng rộng, thoáng, chúng tha hồ chạy nhảy, tuy có kém vui không bằng chạy trong vườn thuở trước.

    Dần dần, các sinh vật đều xa lánh khu vườn. Lạnh quá, chúng không kham nổi. Chỉ có Băng và Tuyết có vẻ ưa chuộng vườn cấm. Chúng kháo nhau:

    - Nàng Xuân biết sợ chúng ta, bạn thấy không?

    - Phải! Chúng ta sẽ ngự trị nơi này, tổ chức quân đội, thành lập chính phủ…

    - Phải! Phải! Chúng ta ngự trị!

    Và chúng hoan hô, cổ võ lẫn nhau. Tuyết phủ cả mảng dày lên cỏ, lên cây cối như một lượt sơn trắng xóa, giá buốt. Chúng cao giọng mời gió Bắc đến chia vui. Bắc nhận lời không do dự.

    Suốt ngày, trong lúc Tuyết gieo rắc cái lạnh, phủ thêm sơn trắng lên cây cối thì gió Bắc chạy nhông nhông quanh vườn, rít lên như tiếng kêu rú của loài ma quái. Bắc rít thế này:

    - Chỗ này thật thích! Nhưng nó sẽ hoàn hảo biết bao nếu có nàng Sương ở chung với chúng ta.

    Và chúng đạt giấy mời, giao cho gió Bắc thân đi đón quí khách. Thế là cô Sương đến ngay, nhập bọn.

    Nom bề ngoài cô Sương ẻo lả là thế, nhưng cô có một sức dẻo dai phi thường. Mỗi ngày Sương nhỏ lộp bộp, lộp bộp lên mái nhà không ngừng nghỉ, gõ liên tục, cho đến nỗi mái nhà thủng đi, Mưa và Tuyết tức thì du hành vào đó. Sương thích thú đuổi theo gió Bắc, nhong nhong cút bắt khắp vườn cây!

    Tuyết thì réo lên:

    - Chúng ta ngự trị! Chúng ta ngự trị!

    Ông Khắt Khe rét quá. Ông run bây bẩy trong tấm áo bông dày cộp, nhìn ra cửa sổ, cất giọng buồn rầu (vì nhớ tiếc chim, hoa và lũ trẻ đáng yêu) mà rằng:

    - Chao ơi! Sao mùa Xuân đến chậm thế, hả Trời?

    Mùa Xuân không đến chậm như Khắt Khe tưởng: Mùa Xuân không đến, Hè cũng vậy và Thu cũng vậy. Cây trơ trụi, không một nhách quả nào. Khắt Khe đâm hoảng.

    Khu vườn bấy giờ mặc sức cho Băng, Tuyết, Sương và gió Bắc tung hoành!

    Khắt Khe đau nhói tận tim. Ông ta khóc. Than ơi! Những giọt nước mắt vừa trào ra khỏi khóe tức thì đông đặc lại, cứng nhắc và rơi bộp xuống nền nhà! Thì ra Tuyết đã thề rằng sẽ đồng hóa tất cả để dễ bề ngự trị!

    *
    Một sáng kia, Khắt Khe thức giấc, tuy vẫn còn nằm trên giường ; chợt ông ta nghe đâu đây vẳng lên một điệu nhạc du dương. Tiếng nhạc trầm bổng như ru hồn lão già khắt khe, ích kỷ, tiếng nhạc làm mềm lòng lão già độc ác và cô đơn.

    Ngần ấy tuổi trời, quả là lão đã nghe nhiều lần thứ tiếng êm ái du dương kia, song bởi đã quá lâu, chim chóc không thèm vào vườn lão nữa, cho nên lão không được nghe chim hót, đến nỗi bây giờ nghe chim tước hót lão cho ngay đó là tiếng nhạc tuyệt vời. Trầm ngâm một giây, lão cất giọng thành thạo (Lúc nào lão cũng không bỏ thói ưa tỏ ra mình là tay thành thạo đủ mọi vấn đề) mà nói với chính mình:

    - Mình đã hóa lẩm cẩm rồi ư? Rõ ràng là ban nhạc của Đức Vua đi ngang mà từ nãy giờ không nhận ra được. Làm gì có ban nhạc thứ hai tấu lên được những đoản khúc tuyệt vời như vậy chứ?

    Ấy thế là, lão phóng ba bước ra khỏi giường, không kịp nghĩ đến thay quần áo, sụp ngay xuống để cảm tạ Đức Vua đã quá rộng lượng với lão, gia ơn mưa móc, truyền cho Ban Vương Nhạc đi ngang để lão được thưởng thức thứ âm thanh huyền diệu từ lâu lắm lão hết sức chú ý, lắng tai mà vẫn mãi hoài thất vọng! Lão quyết định sẽ chỉ ngẩng đầu khi ban nhạc qua khỏi cửa.

    Nhưng lạ thay: ban nhạc không đi, có huyền diệu chưa?

    Khắt Khe ta sinh nghi, ngẩng phắt đầu lên, dõi mắt ra cửa sổ, thì trời ơi! Kinh ngạc xiết bao: trên cái cành thấp khẳng khiu mà từ lâu tuyết bám dầy cho đến nỗi lão đâm nản không thèm ghé mắt, một con chim tước đang so giọng với bạn nó, làm lão tưởng mình nằm mơ. Lão dụi mắt nhìn kỹ lại lần nữa, rõ ràng là cô Sương dai dẳng, gió Bắc độc ác, nàng Tuyết lạnh lùng… tất cả đều rút lui khỏi khu vườn một loạt. Một mùi thơm ngào ngạt tràn qua cửa sổ, ập vào nhà, chui vào hai mũi lão. Khắt Khe choáng váng, tưởng mình sắp ngất đi vì xúc động!

    Lão già nhắm chặt hai mắt lại, hai giọt nước mắt lăn dài xuống đôi má nhăn nheo, giọng lão lạc đi vì sung sướng:

    - Mùa Xuân! Mùa Xuân! Ta biết, ta vẫn đợi mà, mùa Xuân không nỡ bỏ ta mà!

    Và lão chạy ra vườn, không cần đóng cửa theo thói quen từ trước. Một quang cảnh thần tiên hiện ra dưới mắt lão: do một kẽ hở (bởi Tuyết, Sương và gió Bắc nghịch ngợm) ở chân tường, lũ trẻ đã lọt vào trong. Chúng đang ngồi vắt vẻo trên các cành cây, đều đều trên mỗi nhánh cây một đứa. Cây sung sướng vì gặp lại cố nhân, cựa mình vùng dậy, rũ sạch mớ tuyết bám dai dẳng suốt một năm qua. Từ lòng đất, đánh hơi người, các mầm non nhô lên và vô số nàng hoa cùng thức tỉnh, nhoài ra ánh sáng, vươn lên trong nháy mắt!

    Gặp sức đối kháng mãnh liệt bất ngờ, toàn thể đạo đại binh của bộ ba Tuyết, Sương và gió Bắc quá xấu hổ, mất hết tinh thần, vội vã rút lui. Và muôn chim cùng tung cánh tìm về vườn cũ. Chao ôi! Chim, hoa và trẻ con! Cảnh đó mới thần tiên, diễm ảo làm sao! Tiếng hót của chim, tiếng cười của lũ trẻ, tiếng lao xao của ngàn hoa lá tạo thành một khúc hòa tấu đặc biệt làm cho Khắt Khe tưởng như mình trẻ lại phần nào!

    Khắt Khe đưa mắt nhìn xa hơn. Thì ra mùa Đông chưa đi hẳn, còn nấn ná ở một góc vườn. Đó là cái góc xa nhất, tại đó có một cậu bé, bé thật là bé, đến nỗi cậu đã cố sức mà không thể nào vói tới cành cây. Cậu bé đáng thương vất vả dưới gốc cây và sau cùng tuyệt vọng, để mặc cho những giòng nước mắt tuôn trào. Trông cậu sùi sụt khóc, những giọt nước mắt long lanh, trong suốt như những hạt ngọc, lấp lánh dưới ánh nắng xuân ấm áp làm cho lòng Khắt Khe se lại.

    Và bởi, bé chưa trèo được lên cây nên cây không thể rũ bỏ Tuyết bám quanh mình, và bộ ba Tuyết, Bắc, Sương vẫn còn tung hoành dữ dội.

    Tuy thế, với tất cả hy vọng, cây se sẽ nghiêng mình xuống thật thấp, khe khẽ khuyến khích cậu bé:

    - Hãy gắng trèo lên mình tôi đi, cậu Bé!

    Than ơi! Bé đã kiệt sức rồi mà không thể lên được trên cây. Khắt Khe không chịu nổi nữa, ông ta xông đến. Trông dáng bộ vội vã của ông ta, lũ trẻ bỏ chạy tán loạn, chỉ trừ cậu Bé ở góc vườn. Không phải cậu không sợ ông Khắt Khe nhưng bởi màn lệ đã che nhòa cả mắt, cậu còn trông thấy gì nữa đâu, kia chứ? Khắt Khe dịu dàng lại bên cậu Bé, se sẽ ôm cậu vào lòng rồi nhẹ nhàng đặt cậu lên một cành cây vững và thấp nhất. Cậu bé nhoẻn cười trong khi nước mắt vẫn chưa khô và cậu quàng tay ôm Khắt Khe, hôn lên má lão. Khắt Khe nhắm mắt lại, nghe tim mình đập thình thình trong lồng ngực vì quá xúc động – đó là lần đầu lão được hiểu, lão vói tới TÌNH YÊU.

    Khi lão mở mắt ra, toàn thể khu vườn đều đã vào Xuân, và lũ trẻ, tuy chạy trốn nhưng vẫn tò mò quan sát, thấy lão không còn hung tợn thì lại kéo vào.

    Trên cây cậu bé ngồi, hàng trăm cái hoa nở tung ra một loạt.

    Nhìn cảnh ấy, Khắt Khe thật lòng hối hận về hành động của mình trong những ngày qua. Ông ta hiểu rằng vì hành động ngu xuẩn của mình mà mùa Xuân đã xa lánh khu vườn. Và ông ta cất tiếng, ôn tồn bảo lũ trẻ:

    - Các con yêu quý! Từ nay vườn này là của các con!

    Tức khắc, ông lấy cuốc, xuổng phá bỏ bức tường, hạ luôn tấm bảng cấm viên cấm địa không luyến tiếc.

    Từ ấy, lũ trẻ trở thành bạn thân của ông Khắt Khe. Chúng đến chơi mỗi ngày hai bận sau giờ học. Khắt Khe cảm thấy mình là người có diễm phúc nhất trần đời, ông cười luôn miệng. Ông hãnh diện nhìn vườn cây, nhìn muôn hoa, muôn chim, nhìn đám trẻ và tự nhủ:

    - Ta có nhiều hoa đẹp quá! Nhưng trẻ con mới thật là những bông hoa đẹp tuyệt trần, đẹp nhất trong các thứ hoa! Cảm ơn Thượng Đế! Cảm ơn Ngài!

    Lòng thanh thản, trí óc lâng lâng, ông ngắm nhìn lũ trẻ nô đùa, và thỉnh thoảng khi nào chúng mệt, chúng lại vây quanh, bắt ông kể chuyện cho nghe. Khắt Khe bắt đầu câu chuyện bằng hai tiếng:

    - Ngày xưa…

    Rồi một hôm, Khắt Khe chợt nhớ, hỏi lũ trẻ con:

    - Này các cháu! Thằng bạn bé nhất của các cháu đâu? Lâu nay sao không thấy?

    - Thưa ông VUI TÍNH (từ lâu chúng đặt cho ông tên ấy để thay vào hai tiếng Khắt Khe) thằng bạn nào cơ? Chúng cháu tụ họp đủ hết, có thiếu mặt nào đâu?

    - Các cháu chóng quên thế? Thằng bé, bé nhất mà ông đã nâng nó lên, cho nó ngồi ở trên cây ấy mà!

    - À, à, chúng cháu không quen, nó không phải là bạn chúng cháu, chắc nó ở làng bên, chắc nó về rồi, ông ạ!

    Thở dài một cái, Vui Tính căn dặn lũ trẻ đến ba lần:

    - Hễ các cháu gặp nó đâu, bảo nó đến vườn ngay, bảo ông nhớ nó, nhớ không?

    Lũ trẻ hứa sẽ làm theo lời ông dặn, nhưng ngày tháng dần qua mà thằng bé vẫn bặt tăm. Vui Tính hao gầy vì nhớ nó, ông nhuốm bệnh. Ông cứ nói:

    - Ta sắp chết, ta muốn gặp cậu bé ấy quá đi thôi! Không gặp nó, làm sao ta chết được?

    Lũ trẻ rất yêu ông, muốn làm vừa lòng ông nhưng chúng tìm đến mòn giày mà không gặp cậu bé ngày trước. Chúng an ủi ông:

    - Thế nào rồi ông cũng được gặp nó mà, một người tốt như ông, có lẽ nào…

    Vui Tính gượng gạo làm vui, kể chuyện ngày xưa cho lũ trẻ nghe để chúng bằng lòng và an ủi chính mình.

    Cho đến một hôm, mùa Đông trở lại. Vui Tính không ghét mùa Đông nữa, vì ông biết đó là mùa Đông của thiên nhiên, rồi không bao lâu, Đông sẽ qua và Xuân lại đến. Chao! Mùa Xuân! Lòng ông náo nức khi nghĩ đến mùa Xuân ông sẽ gặp cậu bé ngày trước, cậu bé đã hôn ông.

    Ông đưa mắt ra cửa sổ, bỗng ông dụi mắt bàng hoàng lùi lại: lạ quá thôi, chỗ góc vườn ngày cũ, góc vườn mà mùa Đông nấn ná không đi, trên một cành cây phủ đầy tuyết trắng, có cơ man là những quả vàng chói rực rỡ, hoa thì lấp lánh như bạc và thằng bé… trời ơi! Thằng bé ông mỏi mòn vì chờ đợi đang đứng tựa bên thân cây!

    Ông quên cả rét, quên cả mang giày, chạy bổ về phía ấy. Ông ngỡ là cậu bé sẽ mừng rỡ như ông, hóa ra không: cậu đứng yên, như không thấy ông đến gần, đang cúi nhìn vào đôi bàn tay nhỏ bé của mình, đôi bàn tay ròng ròng máu chảy. Vui Tính vừa đau đớn vừa giận dữ, ông hỏi to:

    - Cháu nói ngay: ai đã làm cho cháu đau thế? Nói mau! Ta sẽ… không tha, ta sẽ…

    Bé đưa đôi bàn tay có dấu đinh đóng cho Vui Tính nắm và trỏ cả đôi chân cũng có dấu đinh như thế, không nói gì, chỉ nhìn ông bằng đôi mắt chan chứa yêu mến và bao dung. Vui Tính nghẹn ngào, hỏi lại, giọng trầm hơn:

    - Ai đã làm cho bé đau? Ai ác thế? Ta sẽ không tha hắn. Bé nói đi!

    - Không! (Giọng bé trìu mến, nồng nàn) ông chớ quan tâm tìm kẻ ác! Đây là những VẾT THƯƠNG CỦA TÌNH YÊU…

    Vui Tính sửng sốt, bàng hoàng lùi lại. Ông lắp bắp hỏi:

    - Bé là ai?

    Nhưng không đợi câu trả lời của đứa trẻ, một mối kinh hãi dị thường đột ngột xâm chiếm lấy ông. Ông quỳ xuống, không đủ can đảm nhìn vào đứa trẻ. Đứa trẻ ôn tồn bảo:

    - Ông còn nhớ không? Đã có một lần ông cho tôi vào chơi ở vườn quí của ông? Ông đã mở rộng cấm viên đón các trẻ vào đó… ông tốt lắm! Ông quả có lầm lạc, ích kỷ lúc đầu… nhưng ai chả thế? Phải không? Bây giờ, ông sắp được đi với tôi đây! Tôi mời ông vào vườn tôi, ở một nơi cao. Đừng sợ hãi! Hãy nắm lấy tay tôi, không! Đừng sợ tôi đau, vì các Vết Thương đã lành rồi!

    *

    Trưa hôm ấy, đám trẻ con kéo vào vườn chơi và thăm VUI TÍNH. Chúng tìm thấy ông nằm dài dưới gốc cây, nét mặt thản nhiên, tươi tỉnh như đang ngủ, môi tựa sắp cười. Quanh thi thể ông, ngàn hoa phủ kín. Quả vậy, ông vui vẻ đi vào cõi khác cùng với một Đấng Quyền Năng trong dáng dấp trẻ con.

    Minh Quân

    (Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 110, ra ngày 15-7-1969)

    https://tuoihoandmore.blogspot.com/

  8. #168
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Đứa Con Dị Chủng
    Tác giả:
    Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn
    Bài số 3314-12-28544vb6072911

    Tác giả đã góp một số bài viết đặc biệt về chuyện đời tị nạn, và được đề cử vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Bút hiệu gồm 2 người: Minh-Đạo là một vị cao niên 86 tuối, viết lách cho... vui, trong khi Nguyễn Thạch Hãn, cư dân Houston, Texas sinh năm 1945, là một cựu sĩ quan Pháo Binh VNCH, hiện làm việc trong một công ty Energy tại thành phố Houston. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.

    ***
    Lúc gần đây báo chí và các đài TV Việt ngữ bán tán xôn xao về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, chắc hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.

    Bạn tôi muốn kể cho quý vị nghe về một đứa trẻ bụi đời, lang thang đầu đường xó chợ trên đất Hoa Kỳ, nhờ mẹ nuôi Việt Nam mang về chăm sóc, dậy dỗ đã trở nên người hữu dụng.
    Tôi lượm được thằng Michael ở bên xa lộ 45 South Trên đường từ Houston đi Clear Lake. Dạo đó vào khoảng năm 1982, tôi mới ra trường và bắt được một job thơm phức làm cho cơ quan NASA ở Houston trong Mision Control Center, do một ông bạn học cùng lớp giới thiệu. Cuộc đời tôi gặp bao nhiêu là may mắn bất ngờ, đúng là trời cho. Cho nên tôi vẫn nhớ ơn ông Trời, cố gắng học làm người tử tế, dù có chịu thiệt thòi một chút cũng cam lòng.

    Số là hôm đó tôi đi làm trễ, vừa từ xa lộ rẽ vô NASA road 1, thấy một thằng nhóc đi bộ lang thang bên lề đường, vai mang túi sắc to tướng, kiểu túi sắc quân đội, như ngày xưa tôi nhận được khi mới vào trường Võ Bị. Nhóc đưa ngón tay cái lên ngoắc ngoắc xin quá giang. Tôi vội dừng xe lại hỏi:
    -Mầy muốn quá giang hả?
    -Yes, Sir!
    Hắn vội vã quăng cái “sắc” quần áo ra sau xe truck, với tay mở cửa và nhảy phóc lên ngồi cạnh tôi. Mùi mồ hôi bốc lên nồng nặc. Không chịu nổi, tôi phải quay vội cửa kiếng xe xuống. Tôi hỏi chàng “Trẻ Tuổi Bụi Đời”:
    -Mày muốn đi đâu?
    -Đi đâu cũng được!
    -Nhà mày ở đâu?
    -Tôi không có nhà, mới từ OMAHA quá giang xe xuống đây.
    Tôi nghĩ trong bụng:’Gặp thứ thiệt rồi”.
    -Tao phải đi làm bây giờ, thôi tao thả mày xuống Clear Lake Park, ở đó có đủ cả phòng vệ sinh và chỗ che mưa nắng đến trưa tao kiếm cái gì cho mày ăn.

    Bà xã tôi hay cằn nhằn về vụ cho mấy tay “bụi đời” quá giang xe. Kể ra thì cũng nguy hiểm, chẳng may gặp anh chàng khùng nào đó coi mạng người như cỏ rác, vậy là giống như trứng giao cho ác! Nhưng tôi quan niệm khác, sống chết có số, ngày xưa lúc còn xông pha trận mạc, mình đâu có tránh đạn được, toàn là đạn tránh mình thôi. Cho nên mỗi khi lái xe một mình, gặp người xin quá giang, nếu thuận tiện tôi vẫn “dzớt” như thường. Kể như đền ơn những người từng cho tôi quá giang hồi mới chân ướt chân ráo bước chân đến đất Mỹ này. Hồi đó, mỗi ngày đi làm phải lội bộ hàng mấy cây số trên đường đầy tuyết. Nếu gặp xe nào cho quá giang thôi mừng hết lớn.

    Từ sở làm đến hồ Clear Lake chỉ mất vài phút lái xe, tôi vẫn hay ra đó ăn trưa, dỡn với mấy con chim hải âu bằng cách liệng lên cao một miếng bánh mì sandwitch thế là cả đám nhào xuống kiếm mồi, bu lại chung quanh, tôi chỉ vung tay ra cũng túm được một chú. Đôi khi buồn ngủ quá bèn đánh một giấc như “Những Ngày Xưa Thân Ái”.

    Buổi trưa tôi mua 2 phần ăn rồi lái xe đi kiếm “Chàng Bụi Đời”. Đậu xe vào parking, nhìn ra mấy bàn picnic sát bờ hồ, thằng nhóc ngồi đó đang chăm chú xem cuốn album cũ nát. Thấy tôi đến, nhóc vội đứng lên chào và rất mừng rỡ, có lẽ vì túi đồ ăn khá lớn tôi mang đến. Hắn đưa cho tôi cuốn album và giải thích:
    -Tôi thấy sau kiếng xe của ông có gián cái huy hiệu nhảy dù, chắc ông là người Việt Nam?
    -Sao mày biết?
    -Ba tôi cũng từng chiến đấu ở ViệtNam, trên mũ cũng có cái huy hiệu giống như cái ông gián sau xe. Đây ông xem có đúng không?

    Hắn vừa nói vừa chỉ vào tấm hình chụp một chàng lính Mỹ mặt non choẹt, trên dưới 25 tuổi, đầu đội mũ đỏ của lính nhảy dù ViêtNam thời xưa, cổ áo mang hai bông mai vàng đàng hoàng. Nếu không có cái mặt Mỹ ai dám bảo không phải là lính nhảy dù VN?

    Tôi nhìn tấm hình thấy quen quen, đúng là thằng Doug Salvatore, Trung Úy trong ban Cố Vấn của tiểu đoàn tôi. Sở dĩ tôi nhớ tên anh ta vì hắn hiền khô ít nói, rất thích đội chiếc mũ đỏ nhẩy dù lệch hẳn qua một bên, gặp ai trong tiểu đoàn bất kể cấp bậc, cũng dơ tay chào miệng lẩm nhẩm “hảy đù kú gắn” . Ai cũng cười hiểu rằng hắn muốn nói “Nhảy Dù cố gắng”, Doug cũng cười theo. Hắn hiền khô ít nói, nhưng mỗi khi nhờ gì hắn đều giúp đỡ tận tình, từ việc gọi hải pháo, phi vụ oanh kích, máy bay tải thương đến xin vật liệu xây cất doanh trại. Mấy chiếc xe của tiểu đoàn hết bình điện muốn nổ máy, kêu hắn đến là xong ngay, đẩy xe chạy băng băng một chút xíu, thả chân số là nổ máy liền. Hắn có thêm một biệt danh khác là “cargo 5 tấn”, ý nói mạnh như xe vận tải 5 tấn. Thỉnh thoảng hắn còn mua tặng tôi cả đồ trong PX nữa. Lính trong tiểu đoàn gọi hắn là “Đất”. Biệt danh đó cũng gần giống với tên thiệt. Mỗi lần gọi “Đất” hắn chỉ nhe răng ra cười. Sau này biết được ý nghĩa của chữ “Đất” hắn càng thích thú hơn, Một lần tôi hỏi hắn, sao tên của bạn là Salvatore, hơi giống như Salvadore vậy, thế bạn có phải gốc Nam Mỹ không? Hắn nói chẳng có liên quan gì cả, tổ tiên hắn đến từ Tây Ban Nha.
    Hắn đã cứu tiểu đoàn tôi nhiều lần trong các cuộc hành quân thời “Mùa Hè Đỏ Lửa” nhờ xin được kịp thời những phi vụ yểm trợ vũ bão từ đệ thất hạm đội hay từ căn cứ Utapao bên Thái Lan.
    Trong trận giải cứu An-Lộc, tuyến phòng thủ của đại đội bị chọc thủng. Tôi bị một mảnh cối vào bụng, cắt hết nửa lá gan, máu ra lênh láng. Thằng Đất một tay bắn M16, một tay kéo tôi vào gốc cây cao xu. Hắn xin trực thăng tải thương vào bênh viện dã chiến Mỹ, nếu không tôi chắc đã đi luôn rồi. Tôi mang ơn cứu tử của Đất từ ngày ấy. Sau trận An Lộc, hắn về Mỹ. Tôi mất liên lạc với hắn từ ngày tan hàng. Bây giờ lại gặp con hắn ở đây, đúng là số Trời. Tôi mừng rỡ ôm lấy thằng bé, hỏi cuống quýt:
    Tao là bạn của Doug, ba mày bây giờ ở đâu?
    Hắn rớm nước mắt:
    -Ba tôi chết cách nay 5, 6 năm rồi.
    -Kể tao nghe đi, sao vậy?
    -Ổng bị đụng xe trên xa lộ bởi một người say rượu, chết ngay tại chỗ.
    -Má mày đâu mà để mày đi lang thang như vầy?
    -Má tôi có chồng khác, tôi không thể sống với cha ghẻ nên bỏ nhà ra đi.
    -Mầy đi má mầy có biết không?
    -Cả nhà còn ngủ, nào ai biết.
    -Mầy còn nhớ số phone nhà không.
    -Tôi có đây, nhưng giá nào tôi cũng không về đâu.
    -Tao đâu có nói là bắt mầy về nhà, chỉ là gọi cho má mày yên tâm thôi, để bả khỏi báo cảnh sát, mầy hiểu không?
    -Dạ hiểu.
    -Thôi được rồi, quăng đồ đạc lên xe rồi đi theo tao.

    Tôi dẫn thằng bé lại Motel 6 và book cho nó một đêm, thủng thẳng tính kế giúp đỡ. Dù sao nó cũng là con của người bạn đã có ơn cứu mạng với tôi, tôi quyết tâm cứu lại con bạn.
    Có câu của Phật dạy “xây 7 cái gì gì đó, cũng không bằng cứu cho một người” * Biết đâu cha nó đã dẫn nó lại cho tôi? Tôi dặn thằng bé, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đàng hoàng, chờ tôi sẽ tới đón nó trong vòng 2 tiếng đồng hồ nữa.Tôi lái xe về sở, nói chuyện hoàn cảnh của thằng nhóc với xếp và mấy người bạn làm cùng nhóm, xin xếp cho nghỉ vài ngày để giúp đỡ nó. Mỗi người khuyên một câu, đại khái nói tôi phải cẩn thận với mấy đứa trẻ bụi đời. Chúng nó có cả ngàn chuyện rắc rối, hút sách, đánh lộn, cướp giựt, có khi nó còn thưa ngược lại là mình lới dụng làm chuyện bậy bạ v…v…Tôi đã quyết tâm cứu nó nên bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên chân thành đó. Tôi chở thằng nhóc vào sở và giới thiệu với mọi người, đồng thời gọi điên thoại cho mẹ nó, cho biết nó đang đứng cạnh tôi và muốn nói chuyện với bà.

    Tôi tránh ra một nơi để hai mẹ con nói chuyện được tự nhiên. Một lúc sau trở lại, nhóc nói mẹ nó muốn đươc tiếp chuyện tôi. Bả ngỏ ý trao toàn quyền cho tôi và cầu xin tôi giúp cháu, bởi vì đời sống trong nhà bà như ở địa ngục, cha ghẻ con ghẻ không ngày nào là không gây gỗ nhau. Tôi chấp nhận lời khẩn cầu của bà, yêu cầu bà viết cho tôi tờ giấy, giao thằng Mike cho tôi, hứa không kiện tung gì cả và phải có thị thực chữ ký đàng hoàng. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi, số điện thoại sở và phone nhà, cần gì cứ gọi cho tôi biết. Tôi nghĩ, có thể sẽ gặp rất nhiều rắc rối sau này, nhưng chấp nhận vậy. Xưa kia tôi đã từng chấp nhận biết bao rủi ro nguy hiểm khi ra trận, bây giờ có chút đỉnh nhằm nhò gì?
    Tôi phân vân không biết có nên nói thiệt với bà xã không? Chắc phải nói rồi, nhưng dẫn nó về nhà chắc là bả không thể nào chấp nhận được.Đành phải gởi thằng nhỏ lại bà chị. Chị có một quán ăn VN. Khi còn ở quê nhà, chị cũng mở nhà hàng nho nhỏ, từng nuôi nhiều tay anh chị trong quán cho nên du đãng không đứa nào dám phá phách hay đòi đóng hụi chết!. Tính tình chị phóng khoáng cởi mở, mấy đứa du thủ du thực đều nể mặt.
    Buổi chiều, tôi dẫn thằng nhóc lại nhà hàng, kêu cho nó một dĩa cơm đồ biển thật to, thằng nhóc chỉ ăn một loáng là hết sạch, như thể đã nhịn ăn cả tháng rồi. Dặn nó ăn xong cứ ngồi đó. Đợi vãn khách, tôi gặp chị, nói rõ hoàn cảnh của nó xin chị mở rộng tay cứu giúp nó, chỉ có chị mới giúp được nó thôi. Xin chị cho nó một chỗ ở tạm, còn mọi thứ khác tôi sẽ lo. Chị hơi lưỡng lự một chút, thở dài:
    -Thôi được, sau khi đóng cửa tiệm, cậu chở nó về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện với nó.

    Tôi mừng rỡ quá xá, cám ơn chị rối rít, tôi quay đi để che giòng lệ tuôn trào, chị lúc nào cũng quan tâm và che chở bao bọc tôi. Cha mẹ mất sớm, chị săn sóc và nuôi nấng tôi như mẹ, lúc nhỏ tôi vẫn sống với chị cho đến khi nhập quân ngũ. Những lần bị thương thập tử nhất sinh chị vẫn là người bên cạnh tôi. Lớn lên mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc đời, tôi đều chạy đến chị. Thật là Ông Trời đã cho tôi một bà chị để thay thế mẹ. Chị góa chồng từ năm 1970, ở vậy nuôi ba đứa con trai. Tôi và gia đình chị đã may mắn thoát được trong những giờ phút cuối cùng của miền nam, nhưng đứa con thứ nhì của chị đã ra đi vĩnh viễn trên đường vượt biên, trong lúc con tàu còn lênh đênh trên đại dương. Qua Mỹ, hai chị em xin được việc làm trong một nhà hàng tàu. Chị phụ nấu bếp, còn tôi làm chân “chạy bàn”. Chị bắt tôi phải đi học, chỉ cho làm cuối tuần thôi. Nhiều khi thấy chị vất vả quá, tôi xin chị cho tôi nghỉ học để phụ giúp gia đình nhưng chị cương quyết từ chối. Chị nhắc nhở tôi đó là bổn phận của chị đã được cha mẹ giao phó trước khi nhắm mắt, phải lo cho tôi ăn học đến nơi đến chốn, thành gia thất đàng hoàng, nếu không sau này làm sao nhìn mặt các người nơi suối vàng. Mỗi năm, vào ngày giỗ cha mẹ, chị bắt tôi phải thề trước vong linh các Người là không được bỏ học dù bất cứ hòan cảnh nào, cho nên tôi cố gắng học, vật lộn với tiếng anh tiếng u, những phương trình đại số và toán giải tích. Những thứ đó chỉ còn lờ mờ trong trí óc cằn cỗi của tôi sau bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Nhiều khi làm bài không kịp phải ngủ đêm ngay tại trường trong các phòng học. Có lần mệt mỏi quá, tôi đã ngủ gục khi lái xe về nhà, rõ ràng tôi đã thắng xe lại khi đến đèn đỏ, thế mà vẫn tông vào đít xe trước mặt. Báo hại phải năn nỉ chủ xe rồi bỏ tiền túi ra thường. Đã bao lần tôi muốn bỏ cuộc nhưng tôi tự nhủ “Nhảy dù cố gắng!” nhưng phần lớn vẫn là không muốn phụ lòng mong ước của chị. Ngày tôi ra trường, khi nhìn thấy tôi được gọi tên lên lãnh bằng, chị là người la to nhất hơn cả mấy đứa nhóc. Chị sung sướng hơn cả tôi, tôi ra trường, nhưng mảnh bằng là của chị, công lao là của chị. Hai chị em ôm nhau chụp hình kỷ niệm mà nước mắt chị ướt trên ngực áo tôi. “Thế là tâm nguyện của chị đã thành, chỉ còn việc cưới vợ cho cậu nữa là xong” chị nói với tôi như thế trong buổi tiệc ăn mừng. Tôi đã già đầu rồi, bao nhiêu năm chiến trận, đã từng chỉ huy hơn một đại đội nhảy dù, thế mà chị vẫn nghĩ tôi còn con nít.

    Trở lại chuyện thằng nhóc, 10 giờ tối, tiệm bắt đầu dọn dẹp đóng cửa. Tôi dẫn nhóc lại giới thiệu với chị và xin phép chị chở thằng nhóc về nhà trước.
    Tôi cắt nghĩa qua loa về phong tục tập quán của người Việt, kính trọng người lớn tuổi hơn mình, nhất là người già cả, thế nào là tiên học lễ hậu học văn, kính trên nhường dưới.

    Những điều căn bản đạo đức của người Việt không tìm thấy trong sách giáo khoa ở trên đất Mỹ này. Nhóc hứa với tôi từ nay sẽ chăm chỉ học hành không la cà hút sách nữa. Nghe vậy tôi cũng yên lòng. Tôi thấy thương nó như chính con tôi vậy.

    Buổi tối, cả nhà quây quần trong phòng family room. Thằng nhỏ được mang ra trình diện:
    -Đây là Mike, còn đây là bà Ánh, hai người con của Bà là Dũng và Trí.
    Cả nhà bắt tay nhau và nói lời chúc tụng xã giao. Bà chị tôi dặn thằng Mike:
    -Từ nay con gọi ta là Má Ba, mặc dù tên của ta là Ánh, ta đã nhận con là con, ta sẽ đối sử với con như hai đứa con của ta, con có chịu không?
    Thằng nhóc nói lý nhí:
    - Yes Má Ba.
    -Con bao nhiêu tuổi?
    -Dạ 13.
    -Thằng Trí 16 là anh Hai, Thằng Mike ta đặt tên VN là Mai là anh Ba, thằng Dũng trẻ nhất 12 tuổi là Út cũng gọi là thằng Tư nghe chưa. Tất cả đều dạ ran, Thằng Mike chẳng hiểu đầu đuôi ra sao tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu.

    - Con lớn nhất của Má Ba nick name goi là Number two, nó được gọi là number three, trên thằng Tư một bực. Nó thắc mắc sao không có number one. Má Ba trả lời đó là luật lệ. Còn luật nữa là ở nhà chỉ nói tiêng Việt thôi. Bắt Đầu từ ngày mai, thằng Mai cũng phải nói tiếng Việt. Má Ba cho một đặc ân, trong mấy tháng đầu, nếu thằng Mai không biết tiếng Việt cho phép thằng Hai và thằng út nhắc nhở.

    Chị tôi nói tiếp:
    -Ngày mai cậu Út dẫn thằng Mai đi xin học, về nhà phải học và làm bài tới 9 giờ tối, sau đó muốn coi TV hay làm gì khác tùy ý, 10 giờ tối phải đi ngủ. Chủ nhật phải đi lễ sớm, thằng Mai phải ghi danh học Việt Ngữ ở trường Nhà Thờ như hai đứa kia. Thằng Út lên dọn phòng cho thằng Mai ngủ.
    Tôi cười nói với chị:
    - Toàn là “phải” này “phải” kia y như bà “xếp” của em vậy. Thằng Mai “phải” nghe lời Má Ba nghe chưa!
    Nhóc vội vàng trả lời: “Yes, Sir!”
    Chị lườm tôi:
    -Mấy đứa này phải dặn kỹ càng như vậy mới được, còn không vào lỗ tai này ra lỗ tai kia mất cậu ơi!

    Hướng về thằng Mai chị tôi hỏi:
    -Sao mày bụi đời.
    Thằng Mai rớm nước mắt, ngập ngừng một lúc mới thốt nên lời:
    -Má Ba ơi, con rất cô đơn và buồn khổ, lớn lên không cha. Cha ghẻ của con là một người cọc cằn, khó tánh và nghiện rượu, trong nhà cãi lộn xảy ra hàng ngày. Tất cả giận dữ của mẹ và cha ghẻ đều đổ lên đầu con. Cuối cùng con phải bỏ nhà ra đi.
    -Rồi mày ở đâu, làm sao mà sống?
    -Con phải ngủ dưới gầm cầu hay trốn vào mấy căn nhà bỏ trống. Ăn cắp đồ, lục thùng rác hay bán cần xa ma túy để kiếm sống.

    Chị xoa đầu thằng nhóc và khuyến khích nó rồi dẫn tôi đến thắp nhang bàn thờ cha mẹ, hứa sẽ chăm nuôi thằng Mai như con chị. Chị nói với tôi có lẽ Chúa mang thằng Mai cho chị, để an ủi chị những lúc thương nhớ thằng con đã bỏ chị ra đi. Thế là chị lại có ba đứa con như xưa. Tôi thấy chị lau vội hai giọt nước mắt vừa lăn trên má.
    *
    Bà chị tôi áp dụng luật lệ giang hồ và rất nghiêm khắc với mấy đứa con. Anh rể tôi qua đời từ khi mấy đứa còn rất nhỏ. Anh là một Phật tử thuần thành, vẫn hay đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Chị là con chiên của Chúa, hai người khác đạo nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận, đạo ai nấy giữ, mấy đứa con thì vừa cho đi nhà thờ vừa cho đi chùa. Sau khi anh mất chị ở vậy, làm ăn vất vả để nuôi con ăn học. Qua Mỹ, Tôi và chị đi làm công một thời gian, hai chị em để giành được một số vốn nhỏ rồi mở tiệm ăn VietNam. Bạn bè Mỹ của mấy đứa cháu đến nhà chơi phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn ViêtNam. Có lần chị giải thích với mấy đứa con:
    -Chúng mày tới nhà bạn phải nói tiếng Mỹ, tiếng của cha mẹ chúng nó phải không? Ăn đồ ăn của cha mẹ chúng nó phải không? Vậy thì chúng nó cũng phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn của tao, thế mới công bình chứ.
    Mấy đứa con hết ý luôn.

    Mấy đứa nhóc Mỹ ăn đồ ăn VN riết rồi đâm ghiền, món gì cũng không từ, nước mắm, mắm tôm cũng mê luôn. Chúng gọi mắm tôm là mắm “con chuột”.
    Chỉ một thời gian ngắn, thằng Mai đã có thể nói chuyện thông thường hằng ngày bằng tiếng Việt. Nó lớn lên trong tình thương gia đình của chị tôi, nó rất hãnh diện có một mái nhà ấm cúng và một người mẹ thương yêu chăm sóc cho nó . Ngày thường cả ba đứa nhỏ đều đi học. Ngày Chủ Nhật, sáng đi lễ nhà thờ rồi theo học lớp Việt ngữ tại đó, chiều đi lên chùa học võ VOVINAM và họp Hướng Đạo. Ngày này qua tháng nọ, thằng Mai đã thành một đứa nhỏ Việt Nam từ cách ăn nói lễ phép, đi thưa về trình hẳn hoi, biết khoanh tay chào người lớn tuổi, biết cầm hai tay dâng đồ ăn cho Má Ba, biết quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ tôi. Ngày Tết cũng biết mừng tuổi chị tôi, biết cầm cờ vàng đi biểu tình ngày quốc hận. Nó hòa đồng với tụi nhóc VN chẳng khó khăn gì. Gặp người Việt họ vẫn tưởng Mai là đứa con lai, ai cũng khen ngoan và lễ phép, có đâu ngờ rằng nó là thằng Mỹ con chính hiệu con nai vàng! Nếu mấy đứa con nít Việt Nam lớn lên trên đất Hoa Kỳ bị gọi là “Chuối” , ngoài da vàng, nhưng trong đầu óc đã Mỹ hóa hoàn toàn! Thì phải gọi thằng Mai là bánh bao, ngoài thì trắng trong thì hầm bà lằng đủ thứ.

    Mai và thằng út học chung một lớp, đi đâu cũng có nhau, anh em rất thân thiết. Nó hay săn sóc hỏi thăm sức khỏe chị tôi, bắt chước thằng Út rót nước mời chị mỗi khi chị đi làm về, đôi khi còn nấu những món ăn nhà quê của người bản xứ mời chị ăn. Má con càng ngày càng thắm thiết. Chị cũng rất thương nó, có khi còn hơn cả mấy đứa con ruột của chị. Chị vẫn hay than thở với tôi “Tội nghiệp thằng Mai, có mẹ cũng như không.”

    *
    Một hôm chị nhờ tôi vô trường xem có chuyện gì sảy ra cho thằng Mai và thằng Út, vì nhà trường yêu cầu chị đón chúng nó về nhà. Hai đứa đã đánh lộn với một đám học sinh khác trên xe bus và bị bị đuổi học hai ngày. Chị tôi chửi cho một trận nên thân và phạt đứng úp mặt vào tường 2 giờ và dặn lần sau không được đánh lộn nữa.
    -Tại sao hai đứa mày đánh lộn, chị hỏi.
    Thằng Mai giành phần:
    -Tại mấy đứa học sinh trên xe bus chọc ghẹo thằng Út ăn hiếp nó, gọi nó là “chink choong” hay “Ê Chinese go home”. Con đã nói thằng Út với con là anh em, chúng nó không chịu để yên thằng Út. Thế là đánh nhau.
    -Lần sau phải thưa nhà trường, không được đánh lộn nghe không?, tao bảo không nghe, tao không chửi bằng tiếng Việt nữa đâu. Tao sẽ ra trước cửa nhà chửi chúng mày bằng tiếng Mỹ cho tất cả hàng xóm nghe cho xấu hổ cả lũ.
    Từ đó thằng Mai không giám đánh lộn nữa.

    *
    Mai và Út ra High School cùng một lượt, rồi ghi danh vào UT (University of Teaxas at Austin) cùng với anh Hai của chúng. Tôi mua cho hai đứa một chiếc xe Toyota nhỏ để thỉnh thoảng về thăm nhà. Tôi nhận phần trợ cấp tài chánh cho ba đứa nhỏ thêm vào số tiền trợ cấp của chính phủ, để tiếp tục chương trình đại học. Chị tôi cuối tuần nào cũng lái xe lên Austin để tiếp tế đồ ăn cho mấy nhóc. Chị một đời làm thân cò lặn lội bờ ao, nay tóc đã bạc quá nửa, con cái đã đi hết, nhà cửa thật trống vắng. Tôi mời chị qua ở chung với tôi, nhưng chị một mực từ chối, tôi phải biểu mấy đứa nhỏ nhà tôi qua thăm hỏi chị luôn. Đôi khi chúng ngủ luôn lại nhà chị và coi chị như mẹ chúng.

    Một hôm tôi nhận được cú điện thoại của thằng Mai gọi về:
    -Cậu Út ơi, cứu con với.
    -Mày làm sao vậy?
    -Con đang ở City Jail! Cậu đừng cho Má Ba hay nghe, bả biết được, chửi con thì cả hàng xóm đều biết, con xấu hổ lắm không dám về nhà đâu.
    -Mày biết xấu hổ sao còn làm bậy.
    -Con bị oan Cậu ơi.
    -Mấy thằng trong tù, đứa nào mà chẳng kêu oan.
    -Cậu không tin con, chứ ai tin con bây giờ?
    -Nói tao nghe thử oan nỗi gì.
    -Con gọi điên thoại trong nhà tù, chỉ được gọi giới hạn thôi. Cậu lên đây bail con ra rồi con sẽ giải thích cho Cậu nghe, Cậu phải tin con mới được.
    Tôi sợ thằng Mai dính vào cần xa ma túy thì tiêu đời, tôi vội hỏi nó:
    -Mày buôn bán ma túy phải không?
    -Đâu có nào, con bị cánh sát gài bẫy, nói là con solicit prostitutes.
    Tôi thở ra nhẹ nhõm, chỉ là tội thường phạm thôi, chắc chỉ bị cảnh cáo hay làm public service vài giờ là cùng.
    -Thôi được, mai tao sẽ lên đó lãnh mày về.

    Sáng hôm sau lên đến nơi, Mai đã được chuyển về nhà tù của County rồi. Tôi phải nhờ văn phòng “Bail Bond” để lãnh nó ra, trả hết 500 Đô tiền bail và $250 tiền lệ phí cho văn phòng. Sau khi nạp tiền bail, thằng Mai được thả ra chờ ngày ra tòa. Tôi hỏi Mai:
    -Mày nói cho Cậu nghe, làm sao mà cảnh sát bắt mày?
    -Cậu ơi, oan con thiệt mà. Sáng hôm qua con đi đổ xăng, thấy có con nhỏ bị hư xe, con tới coi giúp nó, cuối cùng là chẳng có hư gì cả chỉ là hết xăng thôi.
    -Nó ăn mặc sexy lắm phải không?
    -Sao Cậu biết?
    -Thì nó muốn làm mờ mắt mày để nó nói gì thì mày cũng OK, tao còn lạ gì chuyện đó.
    -Cậu còn chọc quê con nữa! Con nhỏ nói nó đi bụi đời vì không ở nhà được với cha ghẻ, mấy hôm nay sài hết tiền rồi, chẳng còn xu teng nào trong túi. Con nghĩ tới hoàn cảnh của con ngày xưa nên muốn giúp nó, giống như Cậu đã giúp con vậy.
    -Thế tao giúp mày tao có bị cảnh sát bắt không?
    -Cậu đừng la con nữa mà. Nó nói cái gì nhỏ lắm con nghe không rõ con nghĩ là nó muốn xin tiền để đổ xăng. Dù nó không xin thì con cũng cho mà, thế là con đưa cho nó 20 Đô. Con nhỏ vừa cầm tiền là đám cảnh sát chìm nhào tới còng tay con liền. Con hỏi tại sao họ bắt con, họ nói là con mắc tội mua dâm. Con nói chỉ là cho tiền con nhỏ đổ xăng thôi, không tin cứ hỏi con nhỏ kia thì rõ, đám cảnh sát nói mai mốt ra Tòa mà cãi.
    -Con nhỏ đó cũng là cảnh sát chìm để gài bẫy mày thôi, mầy xập bẫy rồi làm sao ra được.
    -Con xin con nhỏ nói vài lời công bằng cho con, nó chỉ cười cười thôi. Con muốn đục cho nó mấy cái quá đi.
    -May mà mày không đục nó, chỉ nặng tội thêm, thôi được đi kiếm cái gì ăn đã, tội mày cũng nhẹ, để tao nhờ luật sư lo cho. Lần sau muốn giúp ai phải cẩn thận. Mày phải lựa lời nói cho Má Ba biết, kẻo mai mốt bả biết được thì liệu hồn đó.
    -Vậy tối nay con sẽ gọi cho Má Ba, Cậu nhớ nói giúp con một tiếng nghe, không thôi bả chửi con sặc máu đó.
    -Người ta nói “oánh sặc máu” chứ chửi sặc máu sao được mày!
    -Thì con nói vậy Cậu hiểu rồi, Má con chửi cũng sặc máu đó Cậu ơi!
    -Biết dzậy sao còn làm bậy.
    -Con oan mà Cậu.
    Tôi nhờ văn phòng bail bond giới thiệu một luật sư, giá 300 Đô lệ phí.
    Vì chưa có tiền án, thằng Mai chỉ bị phạt 2 ngày làm công tác công đồng thôi.
    *
    Mai và Út ra trường cùng một lượt. Chị Ba và tôi cùng đi dự lễ mãn khóa, Chị rất mừng, ôm hai đứa con mà mắt đỏ hoe nói với chúng:
    -Các con ơi, đây là sự thành công lớn nhất trong đời Má, tất cả các con đã thành tài và nên người.
    Mẹ ruột của Mai vì bịnh nặng không thể đến được, ba ghẻ của nó cũng không muốn đến. Thằng Út được hãng Boeing ở Seattle nhận vào làm, Út ở chơi với Mẹ hai tuần rồi đi nhận việc. Thằng Mai đã có ý ở nhà với chị tôi, nên ngỏ ý:
    -Má à, đã từ lâu con nghĩ, anh hai và thằng Út đều đi làm ở xa, con muốn ở lại nhà để săn sóc Má, cho nên con đã nạp đơn vào trường Baylor College of Medecine ở Houston. Khóa Fall sắp tới sẽ nhập học. Con xin Má cho con về thăm Mẹ con ở OMAHA rồi trở lại ngay. Từ nay con sẽ mãi mãi ở nhà với Má và chăm sóc cho Má suốt đời.
    Chị tôi rất cảm động khi nghe những lời chân tình đó, không cầm nổi nước mắt, ôm thằng Mai khóc vùi:
    -Má rất cám ơn con đã lo cho Má, con không cần phải làm vậy, Má tự lo được mà.
    -Má không sinh ra con nhưng đã cứu vớt con từ bãi xình lầy và ban cho con đời sống mới đầy ắp tình thương, chăm chút cho con từng miếng cơm manh áo. Không kể những ngày đau ốm bênh hoạn, Má luôn luôn ở bên con, cầu nguyện cho con chóng khỏi. Tha thứ cho con bao lỗi lầm.
    -Thiên Chúa đã mang con giao cho Má, Má chỉ làm bổn phận của một người mẹ như bao nhiêu người mẹ khác trên thế gian này.

    Mẹ ruột thằng Mai bị ung thư phổi, qua đời chẳng bao lâu sau đó. Tôi và thằng nhóc bay về Omaha đưa đám, đó là lần cuối cùng nó gặp lại mẹ và cha ghẻ. Ông nay cũng đã già lắm rồi, những chuyện cũ hầu như không nhắc lại nữa, nhưng khoảng cách thì vẫn còn đó. Khó cho ai mở đầu một cuộc hòa giải, mặc dầu cả hai đều muốn. Tôi phải làm một nhịp cầu để hai người bắt đầu đối thoại và tha thứ cho nhau. Chỉ là những hiểu lầm thôi. Ngày chia tay, Ông Già và thằng Mai ôm nhau khóc vùi, những giận hờn đều trôi theo giòng nước mắt.
    *
    Mấy năm qua thật mau, Thằng Mai ra trường và nội trú tại Texas Children Hospital trong khu vực Medical Center ở Houston.

    Nó muốn trở thành một Bác sĩ con nít để săn sóc cho trẻ em, nhất là những trẻ em bụi đời. Thằng Mai bây giờ đã là một Bác Sĩ, nhưng với tôi nó vẫn chỉ là thằng nhóc bụi đời. Nhóc được rất nhiều trường hoc và Juvenile Probation Center mời đi nói chuyện về đè tài “Run Away From Home”. Trẻ Em Bụi Đời.. Nó trở thành một thần tượng của đám con nít vô gia đình. Nhưng không phải đứa nào cũng may mắn như nó, phải có một cơ duyên và một quyết tâm sắt đá mới vượt qua bao thử thách. Đường đời có bao nhiêu ngã rẽ, được mấy khúc phẳng phiu?


    * chú thích: Dù xây chín vạn phù đồ,
    Không bằng làm phước cứu cho một người (cadao)

    https://quangduc.com/a59540/dua-con-di-chung

  9. #169
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Tháng 3

    1. Tháng 3.
    Con suối nhỏ trước chùa đã khô. Lũ cò phải đi kiếm ăn xa. 4 giờ sáng, dậy chuẩn bị chời thờ kinh sớm, thấy lũ cò đã đánh thức nhau dậy đi kiếm ăn; mãi đến chiều tối, khi trăng lên, lũ cò mới về lại núi. Lặng lẽ đi về.

    Mấy hôm nay, có bé cò loanh quan trong vườn chùa kiếm ăn, không theo đàn đi xa, nhìn kỹ, thấy bé cò bị thương ở chân, bước thấp bước cao. Muốn giúp bé cò một bữa ăn, nhưng không được, cò không biết ăn lúa gạo, cò không biết ăn chay…

    Có những chuyện, có những người, biết là thương lắm nhưng vẫn phải dửng dưng.

    2. Tháng 3.

    Những trái gòn ngoài suối bắt đầu khô, trưa nắng, gió nhiều, từng chùm bông nhỏ bung ra trắng tinh, mang theo một hạt gòn đen bé tí bay đi. Hạt gòn bé tí như hạt tiêu mà can đảm, không muốn loanh quanh bên chân mẹ mà theo gió đi, tìm một nơi xa để nảy mầm, để lớn lên.

    Mới biết, thế giới ngoài kia rộng lớn bằng chính lòng can đảm của mình.

    3. Tháng 3.

    Mùa tu hú kêu, tiếng tu hú nghe thiết tha lắm, buồn xa xăm.

    Ngày mới vào chùa, làm chú tiểu, bị người đến chùa dọa, “tu mà không trọn sau này làm chim tu hú, lâu lâu bay về vườn chùa ngẩn ngơ”. Ngày đó tin, nên mỗi khi nghe tiếng tu hú trong vườn chùa là như nghe tiếng vị tu sĩ nào đó trong tiền kiếp tiếc nuối cho một kiếp tu dở dang của mình.

    Không biết đúng không, chỉ thấy tiếng tu hú tháng 3 trong vườn chùa nghe buồn lắm.

    4. Tháng 3.

    Mùa hoa gạo. Hoa gạo nhỏ như ngón tay bé con, nhưng trái gạo lại to như nắm tay người lớn. Cuối năm, trái gạo khô, đen bóng, nứt ra, lúc này trái gạo có hình trái tim.

    Mới biết, có những thứ, phải một lần rạn nứt, mới có hình trái tim.

    Người ngủ ngon, mai thức dậy, thấy lòng như lá non.

    Vô Thường.
    Chùa Bé Bé. Phan Thiết. 27.3.2018.




    Cố Chấp

    Lời Kinh trong lòng bàn tay:
    “Chỉ khi nào không còn cố chấp vào cả hạnh phúc và khổ đau, khi đó lòng mới hết âu lo…”(1)

    Tháng 3, cây gạo ngoài triền suối trút sạch lá để ra hoa, buông hết những chiếc lá mang trên mình đầy vết thương từ những ngày mưa gió đã qua, rồi bình thản mỉm cười, nở hoa.

    Hoa gạo đỏ, nhỏ như đầu ngón tay út của một bé con. Trong sắc gạo đỏ của tháng 3 năm nay, có chiếc lá mang đầy vết thương đã hoai mục từ mùa cũ.

    Những vết thương cũ một lần được tái sinh trong một hình dạng khác, tươi hơn, vui hơn.

    Khi cố chấp vào khổ đau, là chúng ta đang muốn nỗi đau đó là có thật, và chỉ dùng nó để làm ra những bất an trong lòng, mà không dùng nó để làm một hạt nhân cho sự vững chãi sau này. Cố chấp vào nỗi đau, là đang biến tất cả nỗi đau đã qua là có thật.

    Khi cố chấp vào niềm vui, là chúng ta đang mong muốn niềm vui đó còn mãi, không được mất, không được phai. Có điều gì sinh mà không diệt? Nên ngay trong lúc cố chấp vào niềm vui là đã gieo vào lòng một hạt nhân nỗi buồn còn-mất cho ngày mai.

    Tháng 3, người về, nhìn cây gạo ngoài triền suối gom hết những vết thương ngày cũ của mình làm thành một mùa hoa, nghe nắng gió tháng 3 thuyết câu kinh “bất cấu bất tịnh”, không cố chấp vui buồn, rồi bình thản.

    Đừng để mãi khổ đau trong lòng, đừng cất mãi hạnh phúc đã qua trong tâm. Lòng người đôi khi hẹp lắm, như đôi tay của chính họ, khi cố nắm giữ điều gì, thì không thể cầm nắm thêm được điều gì khác nữa.

    Vô Thường.
    Chùa Bé Bé. Phan Thiết. 8.3.2018

    [1] Nguyên Hán văn: 於苦樂二種,亦不生執著,得離諸怖 。Dòng 26, 27, khung thứ nhất, trang 504, bộ kinh mang mã số 0728, 諸法集要經, tập 17 大正新脩大藏經。



    https://loikinhtronglongbantay.blogspot.com/2018/03/
    Last edited by sôngthương; 03-14-2021 at 03:08 AM.

  10. #170
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350



 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 01:32 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh