Register
Page 13 of 19 FirstFirst ... 31112131415 ... LastLast
Results 121 to 130 of 186

Thread: Kiếm Đạo

  1. #121
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Ma và người


    tạp văn
    Nguyễn Ngọc Tư

    (Gởi những ai sợ hãi bóng đêm)

    Hồi tôi sống với ngoại, lúc sáu, bảy tuổi gì đó, tôi bắt đầu biết sợ... ma. Sợ vì tin rằng có ma trên đời. Để ý thì thấy, lần nào ngoại tôi vấp chân, bà cũng từ tốn nhìn quanh, giọng nửa trách móc, nửa tôn kính: “Mô Phật, ai mà giỡn kỳ, đẩy bà già này làm chi?”. Không ai trả lời, chỉ có gió rợn sau nhà. Đám giỗ, ngoại bày năm mâm cúng, lúc nâng ba cây nhang nghi ngút khói ngang trán, ngoại lâm râm vái có kinh có kệ có dò có dọc như thể người nào đó đang ngồi chình ình trước mặt. Tàn nhang cong queo, ngoại mừng húm nói bữa nay có ông bà về. Nhưng ngoài tôi ra, trước sân chỉ rụng xuống một vài lá vú sữa rập rờn. Tôi tin có những người nào đó tồn tại quanh mình, trong một thế giới vô hình, dù ngoại không hề dọa ma. Vì vậy, suốt những năm sống với ngoại trong khu vườn gần đồn Chẹt, tôi chẳng bao giờ lẻn ra vườn bởi ghê cái ao trước đây có ông lính cộng hòa say rượu té chết, một mình không dám ra sông vì ngoại kể hồi chiến tranh, sông trôi xơ xác những xác người. Cũng không leo trèo hái trái trên những cây me cổ thụ, loại cây mà ma khoái ở (thì nghe nói vậy). Nửa đêm thoi thóp nghe chim cú kêu bên hè (khốn khổ, vì vườn xưa, nhiều cây cao nên chim cú thích ở, đêm nào cũng kêu xa kêu gần). Quãng đó tôi sống tốt dễ sợ, đến nỗi không dám... ăn vụng vì nghĩ mình làm bất cứ chuyện xấu xa nào cũng có kẻ nhìn thấy, ớn muốn chết.

    Ma đem lại cho tôi rất nhiều cảm xúc mãnh liệt (điều này hơi giống... tình yêu). Trong sợ hãi có một chút thích thú. Muốn quay đi nhưng cũng rất tò mò, hiếu kỳ. Sợ, nhưng thích xem phim kinh dị, tới đoạn rùng rợn lại che mặt. Người sợ ma nhất luôn có bộ sưu tập nhiều chuyện ma nhất. Và trí tưởng tượng được sử dụng hết cỡ. Những cây tre cọ vào nhau trong đêm giông, tiếng cú kêu, tay chuối khô vật vờ bay trong đêm, vài con bướm lớn màu xám lặng lẽ đậu im lìm trên vách, một góc nhà hơi tối và lạnh lẽo... đều là mối dây liên hệ với... ma. Ngay cả chạy trên đường, tiếng bước chân mình mà tưởng chân ma rượt, báo hại càng chạy càng thấy nó đuổi sát bên mình. Buộc phải sợ, thế giới đó quá bí hiểm, chưa ai được mon men ra biên giới giữa hai cõi hỏi thăm, người đi về cõi đó cũng không trở lại để... kể

    Phải sợ, vì người ngoài sáng, ma trong tối. Ma lượn lờ quanh mà mình chẳng thấy, đến lúc chợp mắt, ma lại hiện ra trong những giấc chiêm bao. Tôi, cũng như nhiều người chưa thấy ma bao giờ, nhưng nghe kể chuyện đã thấy ám ảnh, hãi hùng. Người đời thêu dệt hàng ngàn câu chuyện ma khác nhau, nhưng đối tượng chính thì giống hệt, thường là những người phụ nữ xinh đẹp mặc toàn đồ đen hay trắng (có lẽ thế giới đó không chuộng mốt, chưa nghe ma mặc áo chim cò, áo yếm hoặc váy ngắn), tóc đen dài, và khi muốn làm con người sợ hãi, ma khoe cái lưỡi dài, đỏ lòm. Ma hay vật vờ than khóc trên những cây cổ thụ, hay mời người ăn bánh (nhưng khi tỉnh ra thì thấy bánh là bùn). Rất nhiều truyện kể ma đứng bên đường quá giang xe những người đàn ông, rồi biến mất bằng nhiều cách, hoặc đi vào ngôi cổ miếu nào đó, hoặc lặng lẽ tan đi mặc cho anh nọ vẫn nói huyên thuyên đằng trước.

    Những câu chuyện ma bắt đầu làm cho tôi thích thú, đơn giản vì tôi hết sợ. Tôi không tin tuyệt đối vào sự huyền bí, nếu có thì ma đâu sao không vặn cổ bọn người xấu đang nhởn nhơ giữa đời kia. Hiểu ra điều đó, tôi tiếc vì mất đi một lý do để mình sống... tử tế. Nghịch lý, là khi tôi tỉnh táo, thấu đáo được một điều gì đó thì đời bỗng buồn hơn.

    Bỗng ngỡ ngàng thấy người đáng sợ hơn ma. Chẳng biết được ai là bạn, là thù, ai yêu mình, ai ghét mình, trong khi ma đã tách bạch ở một giới tuyến tối tăm khác. Nói tới ma, biết ngay là giặc. Còn người thì lẫn lộn trắng đen, khó nắm bắt. Ma muôn đời đơn điệu vài chiêu dọa người, người lại nghĩ trăm phương nghìn cách hại nhau. Vậy mới sợ.

    Phát hiện ra điều này, tôi buồn suốt một khúc thời gian, ganh tị với kẻ sợ ma rón rén trông buồn cười mà hạnh phúc. Tháng Giêng rồi, tôi đi H. chơi. Nghe nói nhà trọ xây trên nền nghĩa địa cũ, cả đêm hai đứa con gái cùng phòng mở đèn sáng rực, nghe gió rít qua khe cửa sổ, trằn trọc chờ... ma. Báo hại tôi ngủ không được. Trăn trở nghe bụng cồn cào, tôi mò ra quầy bar, mua ly sữa nóng. Anh chàng trực quầy cao lớn đang ép nước trái cây. Lúc anh ngẩng lên, tôi giật mình trước nét mặt đẹp, rất nam tính nhưng lạnh tanh, thật ngầu. Lúc ấy tôi bị bội thực những nụ cười giao đãi nên thấy thích anh chàng này, đứng nấn ná nói một vài câu chuyện bâng quơ. Tôi kể mình vừa thấy ma. Anh cười. Tôi nói em thấy ma thiệt. Anh lại cười. Tôi nói bạn em cũng thấy ma, nó đang sợ phát khóc trong phòng. Mắt anh ta nhìn tôi có vẻ tần ngần, cuối cùng anh hỏi, con ma ra làm sao. Tôi ngập ngừng, ra bộ vẫn còn hãi hùng lắm, nói chị đó mặc đồ nâu đen, tóc dài, cài nơ đen. Anh ta im lặng, nhìn chăm chăm vào cái máy xay đang kêu tè tè. Anh bỗng ngẩng lên: “Em à, con nhỏ đó hiền lắm”.

    Tôi đứng day ly sữa trong tay, cảm động muốn chết. Chẳng ai nói về ma, về nỗi sợ hãi thường trực trong lòng bằng cái giọng ấm áp, bao dung, bình thản, chân thành như vậy. Như thể anh đang nói về một đứa em nhỏ, một người bạn thân, một đồng loại...

    Thật đơn giản, lâu nay người ta cứ nghĩ ai đó là kẻ thù trong khi họ cũng có thể làm bạn. Tôi lại tin có ma ở trên đời, nhưng không phải để sợ hãi..

  2. #122
    nghìn dặm Mang Mộc's Avatar
    Join Date
    Mar 2017
    Location
    Freeway 5
    Posts
    3,843
    "Đám giỗ, ngoại bày năm mâm cúng, lúc nâng ba cây nhang nghi ngút khói ngang trán, ngoại lâm râm vái có kinh có kệ có dò có dọc như thể người nào đó đang ngồi chình ình trước mặt.".
    ST hoặc có ông đi qua bà đi lại nào hiểu rõ cái đoạn tô đen thì giải thích hộ với. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới đọc thấy đám chữ ngồ ngộ này. Đọc nguyên câu thì hiểu nghĩa chung chung, nhưng mà lạ quá chừng, mới quá chừng.....
    Giờ ta láo khoét hơn thằng cuội
    Cắc ké mà ưa dọa nhát người!


  3. #123
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Quote Originally Posted by Mang Mộc View Post
    "Đám giỗ, ngoại bày năm mâm cúng, lúc nâng ba cây nhang nghi ngút khói ngang trán, ngoại lâm râm vái có kinh có kệ có dò có dọc như thể người nào đó đang ngồi chình ình trước mặt.".
    ST hoặc có ông đi qua bà đi lại nào hiểu rõ cái đoạn tô đen thì giải thích hộ với. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới đọc thấy đám chữ ngồ ngộ này. Đọc nguyên câu thì hiểu nghĩa chung chung, nhưng mà lạ quá chừng, mới quá chừng.....




    Dạ, anh MM, thấy cách anh nhặt chữ là St biết anh đỡ cảm rồi . Uống thêm một tách trà gừng mật ong nho nhỏ nha

    có kinh có kệ có dò có dọc , St nghĩ là cách viết theo lối nói đối xứng cho văn vẻ ,theo cảm hứng , cũng như ông đi qua bà đi lại vậy .
    Nếu không đúng thì St lại giải thích mò bằng …hình dung vậy , ở chùa, khi các cụ đọc kinh hay dò tay trên từng trang và dò theo chiều dọc (có thể do kinh viết bằng chữ Hán hay chữ Phạn)

    Cô Tư có lối viết rất ngộ, thường dùng những chữ/ cụm chữ rất …dân gian . Giống như cô bé hát bài “xin tiếng ca đây không ngừng bụi sương cũng vui” (bên trang cười) , cô nói một chữ cũng ngộ lắm . “Em thấy viết vậy nó dài, nó thừa bừa quá”
    Chắc St cũng mắc bệnh …thừa bừa rồi

  4. #124
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Lục bình

    Nguyễn Ngọc Tư

    Quán đẹp, tên quán đẹp, ngó ra dòng sông đẹp. Đằng trước người ta quây rào tre giữ lại một đám lục bình đang trổ bông, cũng đẹp. Tôi đứng nhìn mãi những bông hoa tím co ro trong gió, trong chiều nắng tắt, quặn lòng, như gặp lại người bạn cũ.

    Từ dạo con tôm lên ngôi, dài theo những dòng sông quê xứ đã xa vắng lục bình, mỗi khi có dịp đi đâu đó, gặp loại cỏ thuỷ sinh ấy, tôi mừng húm. Có điều, lần này, gặp bạn trong hoàn cảnh trái thường bởi lục bình trong nỗi nhớ, trong giấc mơ tôi lúc nào cũng trôi mênh mang trên một dòng sông nào, xa vắng. Lục bình mà bị cầm tù thì còn gì là lục bình nữa.

    Con người ta có tật kỳ cục, chuộng cái đẹp nhưng không biết cách nuôi dưỡng cái đẹp. Hay tại tham lam nên cái gì cũng vơ vào mình.

    Lục bình, phần nào đó như ngựa ở thảo nguyên, chim trên trời, gió ngoài đồng, hợp với sự hoang dã và tự do. Chỉ long đong cùng sông nước, lục bình mới thể hiện hết bản chất, vẻ đẹp và sức sống của nó. Nên lục bình ở quán bờ sông ấy có lạ, có biếc đến đâu thì cũng không bằng lục bình của những buổi chiều nắng phai, gió cũng phai như nắng. Kẻ ngồi bên sông chờ đò muốn ứa nước mắt. Một ao lục bình không buồn như vậy, một đám lục bình vướng vào đám chà trên sông cũng chưa gọi là buồn, một về lục bình chậm rãi trôi gợi buồn ít thôi, nhưng bụi lục bình duy nhất, với một nhánh bông duy nhất, liu riu thiu thỉu trên mặt sông đầy, thì buồn chết giấc.

    Đó là lần đầu tiên tôi phát hiện ra vẻ đẹp của nỗi cô đơn, sưu tập thêm một biểu tượng của cái buồn xứ sở, cùng với khói đốt đồng phơ phất dưới hoàng hôn, cùng với tiếng bìm bịp thăm thẳm theo con nước, bầy đom đóm leo lét trên rặng bần. Một vẻ buồn rất lạ, đằm sâu, nhưng không giam hãm con người, không tù đọng, không cùng quẫn. Cái buồn trãi dài, thông thống, mênh mông, cởi mở…

    Có lần đi Kiên Giang, qua phà Tắc Cậu, tôi lại thấy ở lục bình một hình ảnh khác, rất “đời”. Nơi này gần cửa biển, lục bình từ các sông trôi đến dìu dập. Nhưng lạ, bầy đàn đông đúc, mà có vẻ tan tác cô đơn. Hăm hở trước biển khơi mà như dùng dằng nuối tiếc dòng nước cũ. Lựa chọn nhưng vẫn hoài nghi, hoang mang. Hay lục bình chỉ là lục bình thôi, chỉ tôi gởi tâm trạng của mình vào rồi thấy mình là lục
    bình trôi trôi ngơ ngác.

    Tình cờ tìm tư liệu cũ, nghe bảo lục bình được nhập từ Braxin từ những năm 1905, tôi vẫn không nguôi được ý nghĩ trời sinh lục bình từ
    khi vùng đất này có sông. Lục bình làm sông trở nên dịu dàng, sâu sắc. Dù vậy, nhiều người, trong đó có anh bạn tôi, chê lục bình dở òm, tiêu cực, cam chịu sống đời lênh đênh vô định, không phương hướng. Anh bạn có tật mắc cười, là hay gán lý tưởng, tính chiến đấu cho bất cứ gì, bất cứ ai, lục bình cũng không ngoại lệ. Buồn miệng, tôi cãi chơi, lục bình đang sống theo lẽ tự nhiên, tụi mình dấn thân vào đời, bươn tới những đích nào đó cũng theo lẽ tự nhiên, của con người. Nói đến đó bỗng cồn cào nỗi hoài nghi, người ta sống với tham vọng chồng chất ngút ngất là thuận theo lẽ trời ư?

    Và chiều nay, trong cái quán lạ bên dòng sông xa lạ, tôi hơi đắng đót bởi ý nghĩ, con người ta còn tự cầm tù mình bằng những ảo vọng ngông cuồng được thì sá gì đám lục bình hèn mọn này, sá chi con chim trong lồng kia… Thôi, trở vô bàn ăn sướng hơn. Mình cũng bị nhốt như đám lục bình đó, mắc gì tiếc thương cho chúng.

  5. #125
    nghìn dặm Mang Mộc's Avatar
    Join Date
    Mar 2017
    Location
    Freeway 5
    Posts
    3,843
    Đọc nguyên câu thì hiểu như “có lối có lề có hè có hẻm”, nhưng con nhỏ Tư này nó ở miệt dưới, nên khg hiểu là chữ nó chế, hay bà con miệt đó vẫn hay dùng? Bả chế ngồ ngộ rất nhiều mà công nhận có phần hay, cũng như dí dỏm.
    Giờ ta láo khoét hơn thằng cuội
    Cắc ké mà ưa dọa nhát người!


  6. #126
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Dạ, cô Tư là nhà văn, chắc đã biết làm các con chữ sinh động hẳn lên anh nhỉ , dù đang ở miệt nào

  7. #127
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Khi người ta trẻ .

    1. Giỗ cô tôi vào khoảng tháng sáu âm lịch. Tôi không nhớ rõ ngày, chỉ biết trong cái tháng âm ấy, vào gần những ngày tang tóc ấy, bà tôi như một người khác, lờ đờ, uất ức, lẫn lộn...

    Cô tự tử bằng thuốc ngủ. Không ai cứu được vì cô là sinh viên y và lại hay đọc tiểu thuyết, nên cô dùng thuốc với liều chết thật chắc chắn, ở một nơi không ai có thể can thiệp được. Còn lại mình bà sống trong căn nhà rộng, hằng ngày đốt nhang cho hai bàn thờ của ông và của cô.

    Bà tôi nói với mẹ: "Để con Hoàn về với bà". Mẹ tôi không vui nhưng biết sao! Công việc của tôi là đi học, đi chợ, làm vài việc vặt. Bà tôi nấu ăn, nuôi gà, tưới phong lan và gắng giữ sao cho cả một ngày dài lúc nào hương cũng lập lòe trên hai bàn thờ.

    2.
    Cô là một người đầy mâu thuẫn, ngông nghênh mà lại sợ dư luận; ăn nói ác độc, kiêu căng mà rất tự ti, chơi rất nhiều mà học cũng rất nhiều. Cô nhiều bạn nhưng chỉ thích tiếp bạn ngoài quán cà phê; là một người không bao giờ làm được việc gì đến nơi đến chốn, trong ngăn kéo còn lại vô số những bản tự cam kết. Sẽ không... Nếu không...Trong tủ đầy những mảnh vải thêu cắt dở dang, những cuốn tiểu thuyết gập góc ở những trang gần cuối. Thích đấy rồi chán đấy, cô làm khối kẻ điên tiết...

    3. Rồi cô cũng dừng chân lại. Người cô yêu (hơn là người yêu cô) cả tính tình lẫn dáng vẻ đều còn rất trẻ con. Tôi gọi Vỹ bằng thằng vì nó bằng tuổi tôi, nghĩa là thua cô hai tuổi. Sau lưng, cô cũng gọi nó là thằng - thằng Vỹ. Hẹn, nó không đến, cô chửi: "Đồ khốn nạn!". Nó đến, cô lại ngỏn ngoẻn đi chơi, không hề dám giận. Mười một giờ đêm cô về, có bữa vui vẻ kể đủ chuyện, có bữa lặng lẽ lên giường ngủ thẳng. Bố tôi bảo: "Coi chừng!". Bà tôi chỉ cười. "Nói thì nó làm ngược lại. Thôi kệ!".

    4.
    Kệ! Cô tôi vẫn đi đi về về cùng Vỹ dù rằng anh "công tử Bạc Liêu" này đã có một già nhân ngãi, non vợ chồng dưới Long Xuyên. Hằng ngày, từ Sài Gòn, anh chàng phóng như bay trên cái xe đẹp nhất trường về tỉnh, mặc kệ điểm danh thực tập, mặc kệ những buổi học giảng đường, mặc kệ cô tôi ở lại trơ vơ tráo váo. Dăm bữa sau anh chàng lên lại với tiền đầy túi không rõ từ đâu, với những bộ quần áo thật model. Cô hỏi "Về làm gì?" "Hết tiền!". "Có gặp Ngân không? Vui không?". "Không, chán rồi! Nó cà chớn lắm!". Cô tôi tự lừa mình mà vui được ít ngày, để rồi sau đó tự an ủi: "Nó còn nói thật là còn yêu!". Khi Vỹ nhịn không được, liền kể cho cô nghe về một căn nhà ở dưới đó, trong một đường hẻm có bán cơm tấm thật ngon, Ngân và Vỹ nằm dài tán dóc. "Mệt lắm, chẳng muốn tí nào!". Cái câu than thở này thật chẳng thích hợp tí nào với khuôn mặt rạng rỡ của Vỹ.

    Mẹ tôi hỏi: "Sao em có thể chịu đựng được cảnh một gà hai mề thế hả Xuyên?". Cô ngồi băm thịt như chém vào mặt thớt, cười nhạt: "Nó có phải chồng em đâu, chơi cho vui vậy thôi. Đi với ai cũng được, ngủ với ai cũng được, em không quan tâm!". Mẹ tôi lí nhí: "Đừng có đùa, em! Rồi khó dứt ra lắm!".

    Khó dứt thật, cô tôi ngày ấy thật khó trở lại với những quán cà phê khiêm tốn, với những buổi đi chơi "chay" ít xu. Thế giới sách vở của cô thu lại bé tí, cô làm những bài thơ tình quanh quẩn chẳng ai thèm đăng, cô viết những trang nhật ký u uẩn chỉ ba nhân vật: cô, Vỹ, Nhân. Cô không dám đề nghị một sự chọn lựa thẳng thừng ở Vỹ, sợ rồi Vỹ sẽ thẳng thừng chọn Ngân khi bị dồn vào chân tường.

    5.
    Hồi ấy, tôi hay sang chơi với bà, phụ bà hái xoài, vú sữa, thông ống máng hay xách nước khi cúp điện... là những công việc không bao giờ cô làm. Cô ngồi ở cái bàn gần cửa sổ có cây hồng xiêm thò cành lá vào, vui thì chơi với hai bà cháu, buồn thì mở nhạc, ngồi viết nhật ký, thư từ, ai đụng đến cũng quạu quọ. Bà bảo tính cô thất thường như ông. Có điều ông không mê chơi, phù phiếm như cô. Bà bảo cô dễ tủi thân, buồn bã nhưng uất quá đến nỗi không khóc được, mặt chỉ lì ra, u ám. Tôi đã từng chứng kiến và hoảng hồn trước bộ mặt này khi cô đợi Vỹ trễ hẹn. Nó dữ tợn và tang tóc. Tôi kể lại, mẹ tôi bảo: "Mày chỉ khéo tưởng tượng!".

    6.
    Bạn bè cô xa dần. Những anh học trò nghèo hiền lành. Những anh văn nghệ sĩ nửa mùa đang say sưa với cái nghèo tài tử chợt giật mình khi thấy cô đánh đổi tất cả để đến với Vỹ. Họ phân tích bằng cách này hay cách khác, xa hay gần, cho cô thấy rằng Vỹ chỉ là "thằng Vỹ" mà thôi. Một thằng Vỹ ít nói vì không biết gì để nói, một thằng nhà giàu ích kỷ, chơi bời và tàn bạo. Mặc kệ, cô gọi những cái ấy là đàn ông, là amateur. Cứ như vậy, giảng đường trở nên xa lạ với cô và Vỹ. Cúp học liên miên. Thi lại cũng liên miên. Trong ngăn tủ lại thêm rất nhiều những mẩu giấy kể từ mai phải học, phải... nếu không...

    7.
    ... Rồi những tháng hè đến. Cậu Vỹ thì biến đâu mất. Cô tôi càng lầm lì, bỏ cà phê, ca nhạc... Hằng ngày cô vẫn ngồi bên cái bàn cạnh cây hồng xiêm, học bài và viết những trang giấy bé như bàn tay. Bà hỏi: "Con chưa nghỉ hè à?" "Thi lại!". Đây là chuyện cơm bữa, bà tôi cũng chẳng nói gì, lại nhờ tôi làm giúp các việc vặt để cho cô nấu sử sôi kinh.

    Sinh nhật cô, không mưa sụt sùi, không nắng chói chang nhưng cũng chẳng ma nào đến ngoài hai bạn gái cùng lớp khệ nệ mang đến một bó hoa với vài cục xà bông. Cô tôi cắm hoa vào cái ly cũ không cần sửa sang, rồi đặt vào một góc bàn. Ngày ấy, tôi mang quà của bố mẹ tôi sang và nấu cho cô nồi chè. Cô nằm trong màn không thức, không ngủ. Tôi hỏi: "Cô đi uống cà phê với cháu không?". Cô bật dậy ngay: "Đi, ở nhà mệt quá!". Tôi dẫn cô ra quán cà phê Phi Vân là nơi tôi hay uống. Cô ngơ ngáo nhìn đường mới, nhìn xe qua lại, không nói năng gì. Rồi cô hỏi: "Hoàn, cháu có bồ chưa?" "Bạn thôi cô!". Tôi hạnh phúc và ngượng ngùng khi cô hỏi đến "người" của tôi. Cô hỏi: "Làm gì? Có tốt không?" "Học cùng với cháu. Hiền lắm, nông dân lắm, tốt lắm!". Cô cau mày: "Nông dân lắm là sao?" "Là thật lắm, cháu đùa sao cũng tin là thật!". Cô cười một cái cười xanh xao, đôi mắt u ám chợt trở nên buồn và trong veo kỳ lạ. Tôi "lịch sự" hỏi lại: "Tối chú Vỹ mới đến hả cô?" Cô sa sầm: "Không, chẳng ai đến cả. Cô bây giờ ít bạn lắm rồi!". Ít bạn lắm rồi, có thế, vào cái ngày này tôi mới được ngồi với cô ở đây chứ!

    8.
    Bà tôi nhớ lại, trước khi chết vài ngày, cô vui vẻ lại, đi uống cà phê, mua quà bánh, chở bà đi chơi lung tung: "Con thi xong hết rồi!". Rồi như các tiểu thuyết vẫn có mà chẳng ai ngờ, cô xin đi Long Hải hai ngày. Để ít ngày sau, bà tôi nhận xác cô từ một khách sạn ở Vũng Tàu. Không một cái thư tạ lỗi như người ta hay làm, không trách móc ai, bên cạnh cũng không có ảnh của ai, chữ của ai. Chỉ có cô và vỉ thuốc trống rỗng.

    Bà tôi mặc cho cô cái áo màu rêu cô hay mặc, cái quần thùng thình cô hay diện đi chơi, chải cho cô cái đầu bụi đời. Cô út đã cho bà một đòn nặng. Cô đi không để lại lý do làm cho mọi người đâm áy náy, mọi người đều kiểm tra lại xem đã có chuyện gì để cô tôi - cái người hay hờn dỗi ấy - tủi thân không?

    Đám tang cô không có "chú Vỹ". Nghe đâu "chú" đi Quy Nhơn chưa về. Ở ngoài ấy, tôi chỉ mong sao sóng cuốn phăng nó đi!

    9.
    ... Hai năm rồi, chẳng còn ai nhớ về cô rõ ràng nữa, ngoài bà. Nếu biết ra điều này hẳn cô đã chẳng tự tử làm gì cho mất công! Bố tôi kết luận: "Con điên! Điên như nó không chết trước cũng chết sau!". Mẹ tôi bảo: "Chắc có gì với thằng Vỹ rồi!". Có hay không, chẳng ai biết được. Nhật ký cô để lại không ghi cái gì cụ thể, chỉ thấy u ám. Mưa hay nắng cũng u ám, đi chơi cũng u ám, đi học cũng u ám. Cái gì cũng có vẻ như không lối thoát. Đến nỗi đọc xong, tôi có cảm giác: "Chết đi là vừa!". Với cái đầu tò mò mà ấm ớ, tôi thử làm một bản tổng kết và qui ra rằng cô đã đổi tất cả đề rồi Vỹ ta cao chạy xa bay; rằng cô đã không chịu nổi cảm giác ở lại thêm một năm học để bị bạn cười thương hại. Mẹ tôi lại bảo: "Vớ vẩn, có đáng gì đâu". Có đáng gì đâu?

    Đáng lắm chứ. Tôi bám vào cánh cửa, ngoài vườn mưa như giông. Nếu mẹ tôi hiểu, ở cái tuổi này người ta điên đến mức nào, ngông cuồng đến mức nào và cần có bạn bè để an ủi biết bao nhiêu, người ta lại thích trả thù nữa chứ! Khi chết, hẳn cô đã tưởng tượng ra mọi người khóc lóc, Vỹ hoảng sợ, hối hận, ôm lấy quan tài như muốn xuống mồ theo...

    Than ôi, ngày đám tang cô, Vỹ ta tắm biển. Vui lắm và nắng lắm!

    Phan Thị Vàng Anh

    https://vietmessenger.com/books/?tit...a%20tre&page=8

  8. #128
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Dòng nhớ .

    Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:

    - Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.

    Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao. Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Ðàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.


    - Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hễ mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh", chị hỏng nghe sao?

    Má tôi chẩng hẩng:
    - Vậy a?
    - Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ?
    - Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôi.

    Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.

    Má tôi cũng khóc nhiều rồi.

    Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt: "Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó - bà chỉ tay ra bến - gần hết đời rồi tao có được vui đâu".


    Ðó là lúc "ổng", tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.


    Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.


    Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng.


    Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, "làm gì má cũng phải giữ ba", tôi đùa. Má tôi xua tay:

    - Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa -giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.

    Nói rồi má tôi trùm cái khăn lên đầu bước xuống xuồng, đưa tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến, đôi mắt như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Má biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói với theo:

    - Sao má lo quá, má sợ ba mầy, ổng mà chết ổng cũng xuống sông để chết.

    Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.


    Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu tiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước, đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng lộng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội làu bàu: "Vậy ra má đã làm sai cái gì?" và má tôi tuyệt vọng: "Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?".


    Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỷ tỷ lý do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ... mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.


    Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt.


    Ở cái xóm quê, mười người đàn ông thì nhậu nhẹt hết chín, trong chín người hết năm nhậu về chửi vợ, đánh vợ như đánh bịch muối, ba tôi là người duy nhất còn lại. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.


    Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti-vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi: "Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao?".


    Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.


    Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.

    Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than:
    - Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.
    Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì cười:
    - Dà, đêm nay nhiều gió thiệt - Dì vẹt mớ quần áo, kim chỉ trên cái sạp tre - Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.

    Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đối mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay mầu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng: "Xấu hơn mình nhiều". Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Ðồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng.

    Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở, với lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng: "Cha có trà uống thì còn gì bằng, mà chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm". Dì ngước lên cười: "Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó...".

    Má tôi hỏi:

    - Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao?
    - Dà, cũng được, chị.
    - Ủa, chồng chị đâu?
    - Dà, dì bối rối, ảnh... đi xa lắm.
    - Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.

    Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:

    - Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.

    Tốt sao? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xấp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc mầu. Má tôi vọt miệng:

    - Ủa, chị có cháu nhỏ à?

    Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau nặng. "Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi... tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cười...". Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại: "Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi...".


    Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào:

    - Ðàn bà mình sao khổ vậy?

    Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đấu mặt lại ngủ... Còn người ta, nhớ thương đứt ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống. Ðau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:

    - Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.
    - Sớm vậy sao?
    - Dạ, tôi thường đi... trước lúc người ta thức...
    - Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong...
    - Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.

    Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại: "Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi". Má tôi không nói, quay đi và khóc.


    Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má tôi cũng không kể với ba cái đêm gặp "tình địch" ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn mầu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.


    ... Bây giờ má tôi muốn gặp dì, nhưng lâu quá, chờ hoài không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi, không biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội tôi, bình yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi.


    Ðó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.

    Nguyễn Ngọc Tư
    https://isach.info/story.php?story=d...nguyen_ngoc_tu
    Last edited by sôngthương; 12-26-2018 at 12:19 AM.

  9. #129
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Nhặt hòn sỏi ở sân chùa

    Điệu Sanh và điệu Năng cùng tu ở một chùa. Cuộc sống ở chốn đạo dường như giống nhau cả, nhưng hoàn cảnh mỗi người một khác.

    Sanh bảy tuổi, Năng mười tuổi. Điệu Sanh vốn bướng bỉnh nên gia đình cho vào chùa để cải nghiệp. Còn điệu Năng là đứa trẻ bị bỏ rơi trước cổng chùa, được sư thầy đem vào nuôi nấng chăm sóc.

    Điệu Sanh còn quá nhỏ, lại không quen ăn chay nên mỗi tuần, vào thứ bảy, sư thầy cho điệu Sanh ra quán gần chùa ăn một bữa mặn. Các đệ tử thắc mắc sao đã vào cửa Phật mà còn cho ăn mặn? Sư thầy bảo điệu Sanh chỉ tu để cải nghiệp chứ không phải để thành người nhà
    Phật, vả lại điệu ấy còn nhỏ, cần có cá thịt mới lớn được.

    Thứ bảy hằng tuần, điệu Sanh đến quán ăn cách chùa nửa cây số để chén một bữa mặn. Điệu Sanh không thích ăn mặn, nhưng vì sư thầy cho phép (mà như một cách bắt buộc) nên điệu ấy mới làm theo. Vốn tính bướng bỉnh, nhưng từ khi vào chùa thì điệu Sanh biết nghe lời thầy.

    Điệu Năng thương điệu Sanh và coi như em ruột. Giản đơn một nhẽ, bởi điệu Năng không biết cha mẹ, không biết họ hàng thân thích nên muốn tìm một người để tự an ủi. Con người ta luôn tìm kiếm cái mình thiếu và cần. Mỗi thứ bảy, điệu Năng đi theo điệu Sanh đến quán ăn mặn. Sanh nói em đi một mình được, huynh không cần phải đi theo nữa. Nhưng điệu Năng thương điệu Sanh, sợ sư đệ đi một mình không an toàn. Đến quán ăn, điệu Năng đứng ngoài chờ, điệu Sanh vào quán gọi một tô cháo. Điệu Sanh thích ăn cháo bò hơn, nhưng lại gọi chủ quán cho một tô cháo gà và thêm một cái túi ni lông. Chủ quán bưng tô cháo ra. Chúc ngon miệng, chú tiểu! Điệu Sanh nhòm theo chủ quán rồi nghĩ bụng, chắc người ta cà khịa mình. Trước khi ăn, điệu Sanh lóm lém nhìn quanh rồi vớt cái đùi gà cho vào túi ni lông. Đánh chén một cách ngon lành xong, điệu Sanh mặc nhiên bước ra khỏi quán, tiền thì sư thầy sẽ trả sau. Ra ngoài cổng quán ăn, điệu Sanh đưa cái đùi gà lúc nãy cho điệu Năng. Nhưng điệu Năng một mực không ăn. Tui là người nhà Chùa, từ đỏ hỏn đến nay đã thế, giờ không quen ăn mặn. Nói thì nói vậy, chứ thật lòng điệu Năng rất thèm, dọc đường về Năng cứ nuốt nước bọt ực ực. Điệu Sanh ngó qua, hỏi huynh sao vậy? À, chỉ là tui bị nấc cụt thôi.

    Đêm đó điệu Năng nằm nghĩ, hay là mình xin sư thầy cho ăn mặn giống điệu Sanh, hoặc trốn khỏi chùa để sống cuộc đời trần tục. Chao ôi, cứ mỗi lần xem ti vi, Năng lại thèm thuồng cuộc sống ngoài kia, được ăn nhậu thỏa thích. Bàn tiệc ăn xong còn thừa mứa những sơn hào hải vị. Ngoài kia cuộc sống hấp dẫn thế mà sao mình lại tự trói buộc bản thân thế này? Nghĩ. Rồi nghĩ lại. Điệu Năng thấy mình thật chả ra làm sao, đội ơn sư thầy nuôi nấng từ đỏ hỏn đến nay mà giờ bỏ đi thì chẳng khác nào kẻ bội công.

    Điệu Năng và điệu Sanh ở chung một phòng, hai chiếc giường riêng, một bàn học chung để tiện chỉ bảo nhau. Chữ Hán là một môn bắt buộc đối với các chú tiểu. Hôm học đến chữ “Tử” và chữ “Kiết”, điệu Năng giải thích cho điệu Sanh hiểu rằng hai chữ này mẫu tự gần giống nhau, chỉ có khác ở nét gạch. Chữ “Tử” ( ) phải gạch nét ngang bằng phẳng, còn chữ “Kiết” ( ) thì nét ngang bị bẻ xiên. Điệu Sanh thắc mắc sao lại như thế? À, vì “Tử” là biểu hiện cho con người tử tế, nên chi cuộc sống luôn ổn định cân bằng. Còn “Kiết” là cô đơn, không người thân thích thành ra cuộc sống bấp bênh, thế nên nét ngang phải vạch xiên. Điệu Sanh cười, vậy huynh là chữ “Kiết”, em là chữ “Tử” nghe! Điệu Năng gật đầu, rồi buồn vì chạm phải thân phận mình. Ừ, mình là cô đơn chứ gì nữa, cô đơn ngay từ lúc mới sinh ra. Những người cô đơn thường tìm đến chùa nương náu là vậy chăng?

    Thứ bảy khác, điệu Năng vẫn đi theo điệu Sanh để canh phòng điều bất trắc. Trong lúc đứng chờ, điệu Năng quyết định hôm nay mình sẽ ăn đùi gà, chắc sư thầy cũng không biết đâu, hôm trước thấy Sanh quẳng cái đùi đi tiếc hùi hụi à. Nghĩ đến đấy thôi điệu Năng đã nuốt nước bọt thèm thuồng. Chao ôi cái đùi gà béo ú tròn lăn quay, chút màu ớt đỏ vàng, vài lá hành bám quanh hấp dẫn. Nước bọt theo nhau trôi. Ực. Nhất định. Ực. Nhất định. Ực. Nhất định hôm nay mình sẽ cạp đùi gà. Thèm quá không chịu nổi. Điệu Sanh bước ra khỏi quán, điệu Năng đã vội chạy tới. Nhưng trên tay điệu Sanh không có gì cả. Cái đùi gà đâu rồi? Điệu Năng định hỏi nhưng thôi. Điệu Sanh cười hì hì khen hôm nay tô cháo ngon hơn mọi bữa. Năng cúi mặt giục về thôi.

    Một hôm, đột nhiên điệu Năng hỏi điệu Sanh bao giờ thì về nhà. Về làm gì? – Sanh thắc mắc. Điệu Năng không hỏi nữa. Người có thì không muốn, người muốn lại không có. Cuộc đời như chơi khăm người ta. Điệu Năng ước mơ một gia đình, có mẹ và có cha. Cha ơi cha là ai? Mẹ ơi mẹ là ai? Cha ơi cha ở đâu? Mẹ ơi mẹ ở đâu? Những câu hát trong bài “Dấu chấm hỏi” của nhạc sĩ Thế Hiển cứ vang vang trong đầu. Hôm bữa lễ Vu Lan, điệu Năng đã hát bài này khiến rất nhiều khán giả nước mắt đầm đìa. Nhất là cái đoạn Năng cầm túi vải đi thẳng xuống dưới sân khấu, các cô các bà đã ôm chầm lấy điệu Năng mà khóc. Riêng điệu Năng vẫn ráo hoảnh, đôi mắt ấy chưa bao giờ có nước mắt để khóc.

    Hồi lên năm tuổi, có mấy lần điệu Năng được người ta đến nhận làm con nuôi. Nhưng lúc ấy nhỏ quá, điệu Năng chưa muốn; sợ người lạ, sợ xa sư thầy. Bây giờ mười tuổi rồi, ai người ta nhận nữa. Nhận con nuôi, người ta cũng chọn những đứa trẻ còn rất nhỏ, chưa ý thức được về máu mủ ruột rà. Như kiểu chơi chim ấy, phải bắt những con mới nhú lông cánh, đem về mớm thức ăn kèm nước bọt thì sau này nó mới mến người nuôi. Tiếc quá đi! Ngày ấy giá mà Năng gật đầu một cái thì bây giờ đã có một gia đình, cha mẹ dù không ruột rà thân thích nhưng có còn hơn không. Một cái gật đầu nhẹ để đổi lại rất nhiều đùi gà cầm tay nằng nặng. Đã có nhiều lần điệu Năng định trốn khỏi chùa, kiếm một lối thoát khỏi sự gò bó, thoát khỏi những câu kinh. Kinh kệ, phiên âm từ tiếng Phạn l�sutta (hay sutra). V�sutta còn có nghĩa là dây buộc. Sợi dây ấy buộc con người ta vào một phép tắc, trói là trói để được giải thoát sau một quá trình đằng đẵng. Thế mà điệu Năng lại muốn thoát ngay. Thoát ra, cũng được, nhưng thoát ra rồi về đâu bây chừ? Năng chỉ biết một chốn yên bình nhất là ngôi chùa này. Thoát ra rồi biết đâu lại làm một đứa trẻ lang thang. Đêm khuya bên hè vắng, đứa bé mồ côi, đang nằm co ro, như dấu chấm hỏi.

    Cũng đã có một lần vào năm ngoái, khi sư thầy nhủ điệu Năng đi lấy rau ở chợ về nấu cơm chiều, điệu đã lẻn đi xuống phố. Nhưng trời mới tối thì mưa rơi lạnh quá. Thế là điệu Năng mò về chùa. Cúi đầu nhận tội trước sư thầy. Sư thầy không nói gì, xoa đầu điệu Năng rồi vào lấy áo lam thay cho điệu. Từ hôm ấy điệu Năng tự hứa không bao giờ bỏ đi nữa. Thế mà bữa nay thấy điệu Sanh ăn cháo, cái đùi gà hấp dẫn quá, điệu Năng lại nảy ra ý định trốn đi.

    Năng rủ Sanh cùng đi. Buôn có bạn, bán có phường, bụi đời cũng có hội chớ. Điệu Sanh ngúc ngắc từ chối. Ở đây sướng thế này sao lại phải bỏ đi? Điệu Sanh nói. Thích gì cũng có, ăn còn ngon hơn ở nhà. Ngày ở với cha mẹ đâu có cháo đùi gà. Họa hoằn đến tết làm ra con gà thì mới được một cái. Nhà em nghèo lắm, được ở chùa thế này thì dại gì về hả huynh? Nghe đến đấy điệu Năng lại tủi thân. Ừ, nhà điệu Sanh nghèo, nhưng gia tài quý báu của Sanh là cha mẹ. Ở đời có tiền mua tiên cũng được, nhưng làm sao mà mua cha mẹ hả trời? Nghĩ thì nghĩ thế, rồi điệu Năng lại an ủi mình bằng cách lấy tấm gương của thái tử Tất Đạt Đa mà noi theo. Tất Đạt Đa dòng dõi hoàng tộc quý phái, song thân đầy đủ cuộc sống dư thừa, nhưng rồi chàng cũng bỏ cung điện và chấp nhận sự khổ ải, thế thì ta đáng gì mà phải day dứt?
    Mùa an cư kiết hạ, chư tăng đạo hữu hội tụ về chùa. Trong số ấy có một đôi vợ chồng đạo hữu không con cái ngỏ ý muốn xin điệu Sanh đem về nuôi. Sư thầy trả lời là điệu Sanh còn cha mẹ, vào chùa chỉ để cải nghiệp thôi. Lúc ấy điệu Năng đứng bên cạnh, nhưng chẳng ai đoái hoài. Mặt điệu Năng vốn không dễ mến. Da thì đen đủi. Môi dưới có một vết thẹo bẩm sinh khiến cái miệng méo trông thấy. Có lẽ ông trời đã làm dấu để sau này cha mẹ dễ bề tìm kiếm lại Năng. Mười năm rồi, cha mẹ không thèm nhớ đến mình – điệu Năng nghĩ. Nếu “họ” còn nhớ thì đã đi tìm rồi. Có khó gì chứ, vứt ở đâu thì đến đấy mà hỏi. Vứt trước cửa chùa là còn biết thương con chút chút. Điệu Năng nghĩ thế là để tự an ủi thôi.

    Bốn năm ở chùa, điệu Sanh đã chán tất cả. Quang cảnh đã nhàm, lui tới vẫn chùa, vẫn cây si ở sân, vẫn cái đại hồng chung mát đến lạnh lùng. Những câu kinh bài kệ thì lặp đi lặp lại như một điệp khúc. Quán ăn mặn thực đơn chẳng thay đổi, nước cháo, thịt ướp vẫn công thức gia vị cũ. Ở đây khách chủ yếu vãng lai, ăn một lần rồi thôi. Riêng điệu Sanh ăn thường xuyên nên mới thấy chán.
    Ngày điệu Sanh rời chùa, điệu Năng vừa mừng vừa thương vừa tủi thân. Điệu Năng ôm chặt Sanh. Em về rồi phải ngoan nhé, nhớ vâng lời cha mẹ. Sanh gật đầu, chỏm tóc dính vào ngực điệu Năng. Tiễn Sanh ra cửa, điệu Năng cứ ước giá mình cũng có cha mẹ đến đón về. Chào tạm biệt, bàn tay điệu Năng phát qua phát lại nhẹ nhàng mà sao lòng lại nặng trịch.

    Lối thoát. Điệu Sanh đã được thoát khỏi cửa chùa, về lại nơi đã sinh ra. Điệu Năng vẫn chưa tìm ra lối thoát, chưa có ai cho điệu ấy biết ruột rà quê quán. Chọn lựa: giữa việc tự đi tìm cha mẹ để thoát khỏi kinh kệ và việc an phận tu để được thoát kiếp. Ừ, thì cũng là kiếp người cả, nghiệp chướng đằng đẵng.

    ***

    Về nhà nhưng thi thoảng vài tháng cha mẹ lại đưa Sanh vào chùa để thăm sư thầy và điệu Năng. Những lần gặp nhau huynh đệ quấn quýt, hỏi han như người lớn. Quà của Sanh mang theo là một túi trái cây, một đùm xôi đậu mè. Nhận quà, điệu Năng lại nhớ cái đùi gà ngày nào mà điệu Sanh đã vứt. Bây giờ thì mãi mãi Sanh không thể đưa đùi gà cho điệu Năng nữa rồi.

    Những cuộc thăm viếng thưa dần. Nghĩa tình ở đời sâu nặng đến mấy rồi cũng phải mòn thôi, làm sao giữ mãi như thuở ban đầu. Cha mẹ Sanh bận bịu công việc, Sanh cũng bận học hành. Thoát khỏi chùa mà Sanh vẫn phải bị trói buộc trong những mối lo lắng khác. Lối thoát chỉ là sự tượng trưng, một khái niệm cục bộ, như người ta đọc xong trang này lại phải sang trang kia trong một cuốn tiểu thuyết cuộc đời dài dằng dặc.

    Năng vẫn ở chùa. Vẫn là điệu Năng khuôn mặt không mấy dễ mến dù cho tính tình rất hiền hậu. Người ta bảo xem mặt đoán tướng, xem cái mặt điệu Năng thì lấy đâu ra tướng tốt. Chao ôi, cái mớ lý thuyết suông mà loài người nắm lòng đâu phải lúc nào cũng đúng. Đấy là lỗi lầm của Tạo hóa, một lỗi lầm khiến con người ta không lần ra lối thoát khỏi mặc cảm tự ti, không lần ra lối thoát khỏi sự đánh giá phiến diện. Theo dõi tin tức, điệu Năng biết có thể chỉnh hình những dị tật bẩm sinh. Ví như cái vết thẹo của điệu đơn giản lắm. Chỉ cần cha mẹ bỏ tiền ra, rồi cha mẹ ký vào giấy cam kết là được. Cha mẹ ngọt ngào nhưng đâu phải là cái kẹo móc từ trong túi ra.

    **

    Hai mươi năm sau. Điệu Sanh ngày nào nay đã trở thành một giám đốc chưa đầy ba mươi tuổi, năng động tự tin. Tam thập nhi lập. Ba mươi tuổi mới có thể tự lập. Thế mà Sanh đã đạt được sớm hơn, một phần cuộc sống ấu thơ ở trong chùa đã góp phần cho thành công hôm nay. Dẫu vậy, Sanh vẫn cảm thấy một nỗi chênh vênh. Ngày ở chùa Sanh được dạy rằng giao tiếp đừng cầu lợi mình, thế nhưng khi đi giao dịch với đối tác thì giám đốc Sanh luôn kỳ kèo từng chút. Kinh doanh mà, mình không ăn của người thì người ta ăn của mình. Đến khi về nhà, đặt mình xuống giường rồi mà Sanh vẫn gác tay lên trán suy nghĩ cho kế hoạch ngày mai. Chiếc giường bằng phẳng mà sao cứ bấp bênh nghiêng nghiêng. Nhớ lại bài học ngày nào về chữ “Tử” và chữ “Kiết”. Một nét vạch ngang sơ suất chút xíu là thành ra chữ khác rồi. Đời nghiêng. Nhạc sĩ bảo thế. Đời cứ như đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ. Thời ở chùa, Sanh tự nhận mình là chữ “Tử” với nét vạch ngang. Nhưng rồi đời bẻ nghiêng vạch ấy thành chữ “Kiết”.

    Tưởng như về trần tục là được hòa đồng, nhưng không phải, hiện tại Sanh vẫn cô đơn. Chuyện yêu đương lập gia đình của Sanh vẫn lận đận, phú quý sinh lễ nghĩa, cứ phải chọn người môn đăng hộ đối, người đẹp. Càng lớn đàn ông càng khó tính và kén chọn. Đấy là nét khác biệt với phụ nữ. Đàn ông lúc đầu dễ xiêu lòng chấp nhận, rồi lớn lên họ cảm thấy quyền năng của mình nên tự ý chọn lựa. Nấu nồi khoai chín, củ ngon nằm trên, lại cứ nghĩ củ dưới ngon hơn nên lục tung, rồi tới đáy nồi thì vấp phải củ hà củ sâu củ mẻ. Lên rừng đốn củi, núi cao xiên, trông lên cứ thấy cây trên kia cao hơn, thế là mò lên cho tới đỉnh. Cuối cùng chặt trúng củi dở, ở đỉnh núi nước không nhiều, cây còm cõi. Chặt xong lại phải mang về xa.

    Đêm nay giám đốc Sanh gác tay trên trán mà chẳng tìm ra được mẹo mực nào cho cuộc đàm phán ngày mai. Sanh chỉ nghĩ được về sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ, thì cũng là một cõi người bí ẩn và bí bức. Lối thoát ở đâu? Cứ y như nhà đang bốc lửa cháy, khói mịt mù vây kín. Mọi người hoảng loạn kiếm lối thoát thân. Chẳng còn ai nhớ đến cái bình cứu hỏa.

    Một đêm qua đi, Sanh gần như thức trắng. Chiều đến phòng hiệp thương mà Sanh vẫn đeo đẳng chuyện tối qua. Buổi thỏa thuận giữa bên A bên B đã xong. Ổn cả. Hai bên đều có lợi. Giám đốc Sanh dường như không quan tâm đến chuyện ấy. Sau buổi họp, như thường lệ của các cơ quan ban ngành là phải đánh chén một trận tơi bời. Cơ quan tư nhân hay cơ quan nhà nước đều vậy. Từng ly bia giải khát cơn nóng nực gần bốn chục độ xê. Dzô! Thì dzô này! Ly này chúc sức khỏe. Ly này mừng thành công giữa chúng ta. Ly này là mong còn được hợp tác. Bia sẵn, chỉ còn bày ra lý do để uống cho xứng. Giám đốc Sanh chạm ly ken két. Cũng phải vui với người ta chứ không nhẽ đeo mãi cái tâm trạng u sầu.

    Giám đốc bên kia mời Sanh một cái đùi gà. Cái này tôi mời anh khen anh còn trẻ mà năng động. Chúc anh càng vững vàng đôi chân để còn đá tốt như gà. Cả bàn nhậu rôm rả khen vị giám đốc văn thơ lai láng ý tứ dồi dào. Sanh nhận lấy đùi gà, cố cười thì cái miệng càng méo đi. Sao giống cái miệng điệu Năng ngày nào quá. Bây chừ Năng đã thành đại đức, chỏm tóc cạo sạch, trông nho nhã thư thái lắm chứ không to béo nặng nề như Sanh đâu. Chấm nước mắm đi! Sanh chấm đùi gà vào chén nước mắm ớt tỏi, miếng da gà gặp nước mắm Phan Thiết quăn trớt cả lên. Sanh khẽ khẽ đùi gà vào mép bát nước chấm để gạt bớt nước lòng thòng. Tự dưng Sanh nhớ Năng quá. Động tác này giống với cách gõ chuông của Năng. Giờ này, Sanh đang gõ đùi gà tại bàn tiệc thì Năng lại gõ dùi gỗ vào chuông. Sanh xin phép. Đi tìm lối thoát. Nhưng thoát ở đâu cũng phải có lý một chút, cả bàn tiệc đang theo dõi từng bước chân của giám đốc Sanh. Có lẽ thoát vào… toa lét là chắc nhất. Lý do thích hợp. Dập cánh cửa phòng vệ sinh, mùi xú uế đâu thế này. Nhà hàng hạng sang mà sao nhà vệ sinh lại hôi thế không biết. Hóa ra là vừa mới có gã say vào đây nôn mửa. Kiếm một chút thư thả cũng khó, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Sanh bước ra khỏi toa lét, chân loạng quạng, phần vì say, phần vì tâm trạng bấp bênh. Cô thư ký quê đâu không biết, ngồi ở bàn nhậu quay mặt về phía Sanh và nhắc to.
    - Đây lày anh ơi, đi qua nối lày cơ mà!

    Sanh ngờ ngợ hình như có tiếng chỉ dẫn, một câu chỉ dẫn không chính xác. Vậy là cứ mãi luẩn quẩn không tìm được lối.

    ***

    Hôm sau Sanh quyết định quay lại ngôi chùa cũ, dù công việc dạo này khá nhiều. Quay lại chùa. Tu hay chỉ ghé thăm, Sanh cũng chẳng biết nữa, chỉ muốn gặp lại sư huynh Năng bây giờ đã lên hàng đại đức. Sanh thèm nghe tiếng tụng kinh của sư Năng. Ngày trước điệu Năng miệng méo nhưng nhả kinh nghe rất hay. Có tật có tài. Tật này được trời an bài cho Năng để vào cửa chùa đây mà.

    Suốt quãng đường dài ngồi trên xe ghế đệm, Sanh nhớ lại ngày còn nhỏ. Những kỷ niệm giữa huynh đệ. Bữa chay bữa mặn, khuôn đậu vuông cái đùi gà tròn. Chữ “Tử” chữ “Kiết”, nét vạch ngang nét vạch xiên. Bữa đó điệu Sanh tự nhận chữ “Tử” về phần mình. Chữ “Kiết” cô đơn thì ám cho điệu Năng. Nhưng bây giờ Sanh lại thấy cô đơn, nét ngang chữ “Tử” bẻ xiên thành chữ “Kiết”.

    Chùa xưa không thay đổi gì nhiều, như cửa thiền vốn định tâm sẵn vậy. Cây si trước sân vẫn rậm lá, gió nhập gió, lá lao xao lòng lao xao.

    Hai chú tiểu nhỏ đang chơi trò bắn bi vòng tròn ở sân. Cái vòng tròn vạch lên nền đất như sợi dây sutta trói buộc, hai hòn bi tròn lăn, mỗi hòn đều cố gắng giữ mình ở trong. Ai để bi tuột ra ngoài là thua. Bữa xưa điệu Sanh cũng từng chơi trò này với điệu Năng. Cuối cùng Sanh đã ra khỏi vòng ấy. Sanh thoát trước nhưng lại rơi vào một vòng tròn khác. Vậy là lại phải tiếp tục chơi. Ở vòng chơi này Sanh giữ được mình giữa rất nhiều đối thủ, Sanh phất lên như diều gặp gió. Thắng hay thua? Ai còn trụ lại ai đã tuột ra?

    Vào chùa hỏi thăm mới biết vị đại đức – Năng sư huynh của Sanh – đã bỏ chùa mà đi cách đây một tháng. Đi đâu? Chẳng ai biết. Nhà chùa vốn bình tâm, không muốn rộn ràng rao hỏi. Có thể vị đại đức đã đi lên núi tìm chốn tĩnh mịch hơn nữa để thiền. Lên cao cho dễ giải thoát. Cũng có thể đại đức đã hoàn tục, cởi bỏ tăng y khoác áo đời làm chàng trai Năng. Thoát tăng y thoát cõi đạo. Nhưng dù có đi đâu thì cũng để kiếm chân lý mà thôi.

    Sanh nhặt lấy một hòn sỏi tròn ở sân chùa nhét vào túi quần, đem về dưới phường phố kia mà chơi.

    (Truyện ngắn của Hoàng Công Danh)

  10. #130
    Biệt Thự
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    1,350
    Tin vào mùa xuân .

    Nghe tin ông già mới được một tờ báo nào đó đặt bài, mà lại là bài tết khiến cả xóm nháo nhào.

    Cái tin ấy từ miệng thằng nhỏ đánh giày được truyền nhanh khủng khiếp. Nhanh đến mức mới xế chiều mà cả xóm dạo đã từ khắp mọi nẻo đường trở về đông đủ. Chỉ chờ nhân vật chính xuất hiện là nhao nhao hỏi. Nhuận bút báo tết chắc là cao lắm hả? Đủ tiền mua vé vào nam thăm cháu ngoại không ông? Ủa mà báo nào vậy nhỉ? Mày không biết chữ thì hỏi để làm chi? Thì để hôm đó đi bán báo tui còn rao: “Cô chú mua báo đi. Báo có bài của ông bạn già xóm dạo viết chơi. Mua đi! Mua đi! Bảy mươi năm mới có một lần”. Rao gì mà kỳ vậy mày, sao lại bảy mươi năm? Thì không phải năm nay ông già vừa tròn bảy mươi cái xuân xanh hay sao? Ông cứ nói khơi khơi là ông viết báo mà tụi mình đâu có thấy bài đăng. Hy vọng lần này tụi mình không mừng hụt. Hay là cược cái gì đó cho vui? Một chầu bia đã đời có kèm thêm mực nướng, chơi không? Ủa mà bài báo tên gì? Ai là nhân vật chính vậy ông ơi? Sau câu hỏi đó thì đám người lại nhao nhao: “Tui này! Tui này! Viết về tui đi này”. Ông già nãy giờ vẫn ngồi cười, gió lùa vào hàm răng đã có nhiều chỗ trống. Hỏi chỉ để vui vậy thôi chứ cả xóm này ai cũng biết nhân vật chính đâu có đến lượt mình.

    Nhân vật chính là bà già từng bán xôi dạo nhưng giờ có khi không còn bán nữa. Chú Bảy xe ôm nói: “Hôm nọ đứng bắt khách ở bến xe tình cờ chở một người cùng quê với bà già. Nghe đâu bà già đã tìm thấy con trai ở mãi tận Sài Gòn nên bà gồng gánh vào đó cho gần con cháu”. Ông già nghe thấy thì vui lắm nhưng đêm vắt tay lên trán lại nghĩ ngợi hoài nghi. Giữa biển người mênh mông này muốn tìm lại người thân đâu có dễ. Nhất là khi bà thất lạc con từ lúc nó còn đỏ hỏn. Mà manh mối kiếm tìm chỉ dựa vào một nốt ruồi son ở đằng sau gáy. Có khi theo thời gian nốt ruồi đã mất đi, vài cái sẹo nào đó lại chen ngang trên mặt. Nhiều đêm ông mường tượng ra cảnh người đàn bà mình thương đang rong ruổi ở ngõ chợ, bờ sông hay đoạn đường vắng ngắt. Trên chiếc quang gánh là thúng xôi nóng hổi chỉ chờ cất tiếng rao là dậy lên hương vị. Bà già ấy lúc xới xôi cho khách luôn tìm cách nhìn vào gáy người ta. Đến cả lúc khách quay gót đi xa bà vẫn dán ánh nhìn vào gáy họ trút một tiếng thở dài khe khẽ. Thỉnh thoảng bà cũng kể câu chuyện về đứa con mất tích như một cách hỏi dò. Trong đó có đoạn “nó quấn chiếc tã được cắt từ chân quần cứng còng queo. Mắt nó đen láy tròn xoe. Hai bàn tay bụ mẫm như hai nải chuối mắn. Lúc nào cũng chỉ thích rúc vào ti mẹ. Ngày đó tôi ăn toàn sắn, sữa vừa ít vừa nghèo chất. Tội nghiệp thằng nhỏ…”. Người ta nghe cũng chỉ biết tặc lưỡi xót xa chứ kể như bà làm sao biết thằng nhỏ là đứa nào trong hàng trăm, hàng ngàn đứa trẻ thất lạc gia đình.

    Hồi xưa ông hay chở xe ôm thuê trong nhà ga thành phố. Hành nghề lâu đến mức cái gốc bàng già được dân xe ôm mặc định đó là “nhà” của ông. Ngoài giờ đón khách mỗi khi tàu về ga, còn lại thời gian ông dựng chiếc xe cà tàng rồi nằm vắt vẻo trên đó đọc báo, ngắm người qua lại chờ một cái vẫy tay của khách. Ông ở đó suốt bốn mùa. Từ khi cây bàng khoác lên mình bộ áo già nua với những chiếc lá bám đầy bụi bặm. Cho đến khi cây bàng thay lá trụi trơ ông vẫn ngồi đó ngửa mặt nhìn trời qua cành nhánh khẳng khiu. Ngủ một giấc mùa đông, mở mắt ra đã thấy những chồi non bừng nở. Ngồi cho đến khi bà già xuất hiện thì ông bỏ nghề xe ôm đi bán nước trà. Thiên hạ hỏi đang làm xe ôm kiếm cũng được mà sao lại bỏ nghề? Ông cười bảo “già rồi, xương khớp yếu đi. Đâu có thể luồn lách ngoài đường mãi”. Vẫn gốc bàng xưa, vẫn chiếc xe máy cũ dọn thêm vài cái ghế cho khách ngồi thế là thành quán nước. Người đi tàu thường ghé qua quán của ông bắn điếu thuốc lào, làm cốc trà nóng. Ai cũng mê ông chủ quán hóm hỉnh, chuyện trên trời dưới đất đều thấy tỏ tường. Đâu ai biết ông thường nhòm vô gáy người ta đăm đăm kiếm tìm một cái nốt ruồi màu đỏ. Nhưng dễ gì mà thấy. Bà già nói nốt ruồi chỉ bằng cái đầu tăm. Mắt ông thì mờ. Đôi lúc muốn chạy lại vạch gáy từng người nhìn cho thật kỹ. Người trong xóm dạo bảo nhau “hèn gì ông bỏ nghề xe ôm. Nghề xe ôm thì suốt ngày ngồi phía trước cho người ta nhìn gáy của mình. Chứ có mấy khi ngó được gáy người ta”. Ừ nhỉ…

    Ông già tính làm cái bảng ghi dòng chữ “tìm nốt ruồi son sau gáy” rồi treo dưới gốc bàng. Nhưng làm vậy kỳ lắm. Người có nốt ruồi son đã chắc gì người ta muốn nói. Nhiều khi chính họ cũng không biết gáy mình có nốt ruồi nhỏ xíu ấy hay không. Mà giờ giả dụ tìm được người có nốt ruồi son sau gáy cũng chẳng biết bà già ở đâu mà báo tin. Ông để thất lạc bà từ mùa đông ba năm về trước. Một sáng trước khi gánh thúng xôi đi bán bà có dặn “tối cứ ăn cơm trước, đừng chờ”. Thế rồi bặt tin nhau đằng đẵng. Manh mối tìm lại người thương không có gì nhiều ngoài “bà già bán xôi đi tìm nốt ruồi son”. Xóm dạo nghĩ thể nào ông già cũng bỏ việc cất công đi tìm bà khắp nơi. Nhưng không, ông vẫn ngồi đó dưới gốc cây bàng già ngóng về phía nhà ga thành phố. Bởi ông biết có tìm thấy cũng không giữ nổi bà. Một người mẹ chừng nào chưa tìm thấy con mình thì làm sao còn tâm trí sống những ngày thanh thản. Thỉnh thoảng ông có kể về bà với những người xuôi ngược bắc - nam. Ông tin rằng rồi sẽ có ngày một ai đó gặp bà, họ kể về ông già ngồi dưới gốc bàng già để đợi một bà già quay lại. Bọn nhỏ trong xóm dạo bảo nhau “chuyện tình già còn mùi mẫn hơn chán vạn tụi trẻ bây giờ. Cần gì phải yêu đương thề thốt mà vẫn giữ chặt được tim nhau”. Ừ thì…

    * * *
    Xóm dạo nằm lọt thỏm trong lòng thành phố. Từ đường lớn ồn ã rẽ vào một con ngõ nhỏ, đi quanh co chừng hút xong điếu thuốc là đến xóm dạo thôi mà. Gọi là xóm dạo vì cả xóm làm nghề bán dạo. Vé số dạo, báo dạo, cà phê dạo, đánh giày dạo đến thúng bánh đúc, bánh khoai, hàng hoa, mẹt quả cũng đều đi bán dạo khắp đường cùng ngõ hẻm. Yên tĩnh như một ốc đảo giữa thành phố, chui qua chiếc cổng vòm là hiện ra những mái nhà cấp bốn nối nhau. Gọn gàng, sạch sẽ chứ không giống như mường tượng về một khu ổ chuột dành cho những người lao động nghèo. Ngay cả những chiếc áo cũ sờn cũng thơm tho mùi nắng. Phòng nào cũng đơn sơ, đồ đạc chẳng có gì ngoài những vật dụng thiết yếu. Tủ đồ đã cũ, vài chiếc bát ăn cơm, những đôi giày được xếp ngay ngắn trong góc nhà. Chiếc đài cát sét thỉnh thoảng lại lẹt xẹt dò sóng. Cũng có phòng tậu được chiếc ti vi cũ sóng nhiễu nhập nhằng, mặt cô diễn viên bị kéo dài méo xệch từ góc này đến góc kia màn hình. Ngoài giếng những người về sớm ngồi quây lại nhặt rau, thái thịt. Họ hỏi nhau hôm nay kiếm được nhiều không? Khách có đông không? Thằng nhỏ đánh giày nói mai nó phải ra bưu điện gửi ít tiền về nhà đóng tiền học cho em. Chị bán vé số tính đi mua ít quần áo ấm cho chồng con, shop hàng thùng đầu ngõ mới mở kiện đẹp mà cũng hợp với túi tiền. Ông già ngồi nhìn cây đào bích đang khẳng khiu thay lá, đặt bút viết những dòng truyện tết đầu tiên.

    Thực ra ông già đâu phải dân viết chuyên nghiệp. Ngày trẻ cũng thơ phú ra trò nhưng chỉ để bạn bè đọc cho vui. Hồi còn chở xe ôm, những lúc rảnh chẳng biết làm gì ông hay mua báo đọc chơi. Hôm bà già xuất hiện đến ngồi nhờ dưới gốc bàng bán xôi ông cũng đang đọc đi đọc lại tờ báo chi chít chữ trên tay. Bà già ngồi tỉ mẩn cắt những tờ báo cũ thành từng mảnh nhỏ bọc xôi cho khách. Ông để ý thấy bà cắt lạ lắm, chẳng theo hình khối gì. Như thể bà không nỡ cắt đôi một bài thơ hay chia năm xẻ bảy một trang truyện ngắn. Mỗi mảnh báo gói xôi là trọn vẹn một tác phẩm, một chân dung nào đó. Ông cười: “Cắt báo gói xôi thôi mà bà. Cần phải cắt có tâm đến vậy không? Bà cắt vậy để người ta vừa ăn xôi vừa đọc thơ tình yêu chắc? Trời ơi, sáng ra người ta bận trăm công ngàn việc. Nhiều khi cố nhét ít xôi vào bụng để có sức chiến đấu. Chứ còn thời gian, tâm trí đâu mà thưởng thức thơ văn”. Bà chép miệng “Ừ thì…”. Bà cứ hay “ừ thì” như thế, ông nghe cứ thấy xót lòng. Có bữa ngồi đọc Coi tay vào sáng mưa của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, bà già lấy tay áo lau nước mắt. Như thể từng câu chữ là muối trắng xát vào lòng người mẹ mất con. Tư kể về câu chuyện người đàn bà rất giỏi coi tay đoán vận mệnh cuộc đời. Do từ bé đã được đọc mười ba cuốn Thuật pháp nhân tướng học của ông nội. Sau này vì mải coi tay cho người ta mà bà để lạc mất con ở một cái chợ Sương nào đó. Người đàn bà ấy sau này đã bỏ nghề coi tay vì không chịu đựng được ý nghĩ “mình níu người dưng đây mà buông bỏ máu thịt của mình”. Đến một ngày có người mang đến một bàn tay đã bị chém đứt lìa đặt trước mặt bà nhờ coi thử. Bàn tay xanh và lạnh ngắt ấy có một chiếc bớt đỏ trên cổ tay và lóng cuối cùng của ngón út bị gù do một lần đứt sâu băng bó cong queo. Đó là bàn tay đứa con mà bao năm nay bà chờ đợi, kiếm tìm. Cũng là bàn tay của tên tội phạm bị mã tấu chặt đứt trong một cuộc thanh trừng băng nhóm. Bà thầy bói già trong câu chuyện sau bao năm thất lạc con cuối cùng cũng chỉ tìm lại và níu giữ được một bàn tay đã chết. Ông già nhớ khoảnh khắc bà già bán xôi bo chặt lấy ngực mình. Như thể một cơn đau tim vừa mới chạy qua, nó mang theo hình ảnh nốt ruồi son sau chiếc gáy của một đứa trẻ còn thơm tho mùi sữa. Bà già lạc nó ở sân ga quê nhà. Lúc đặt nó nằm ngủ trong chiếc thúng, còn bà thì đội mẹt bánh gai, ngô luộc trên đầu chạy khắp các toa tàu mời khách. Tàu chạy, bà quay lại đã không thấy con đâu. Mấy chục năm qua bà chỉ biết lần theo nốt ruồi son bé xíu mong tìm thấy máu mủ của mình. Bà già từng ước ao: “Giá mà tôi cũng biết viết truyện như cô Tư thì có lẽ tôi sẽ viết về nốt ruồi son đằng sau gáy. Như một ngôi sao luôn lấp lánh ở phía trước, giúp tôi đi qua bao chặng đường tăm tối mịt mù”. Ông già nhủ thầm “có khó gì đâu...”. Kể từ đấy người xóm dạo thấy đêm nào ông già cũng chong đèn ngồi bên trang giấy. Họ không biết ông viết những gì? Viết gửi cho ai? Thằng nhỏ đánh giày từng ghé tai nói nhỏ với chị bán vé số: “Chiều nay thấy ông già đứng tần ngần trước cửa một tòa soạn báo. Tay ông cầm mấy trang giấy chi chít những dòng chữ ngoằn ngoèo”.


    Biên tập viên cầm bản thảo của ông khẽ rụt cổ, lắc đầu. Thời đại công nghệ mấy ai còn viết văn bằng bút mực trên giấy trắng như ông. Bản thảo gửi đến tòa soạn chủ yếu qua hòm thư điện tử, được đánh máy sạch sẽ, trình bày đâu ra đấy. Ấy thế mà có khi còn bị bỏ xó vì lượng bài cộng tác gửi về nhiều quá, sức nào đọc nổi. Nhưng tác phẩm nào của ông già ban biên tập cũng phải phân công nhau đọc, không bỏ sót một chữ nào. Vừa đọc vừa dịch những nét chữ xô đẩy lẫn nhau. Vừa mường tượng ra một ông già run tay đêm nào cũng dồn hết tâm trí và sức lực vào cây bút. Có chỗ nét bút ghì xuống giấy hằn sâu như vết sẹo. Lại có chỗ nét bút bỗng dưng nguệch ngoạc như thể ông già vừa viết vừa chống chọi lại một cơn ho rạc cổ. Trong phòng khách của tòa soạn luôn có một ấm chè được pha sẵn chờ ông già ghé đến chơi. Người ta nói “văn mình, vợ người”. Nhưng chẳng ai như ông già, văn bị chê tả tơi mà vẫn cười hào sảng. Chê đâu sửa đó, ông già cần mẫn nhặt chữ dành dụm vốn liếng cho mình. Chắc vì đồng cảm với một ông già yêu chữ nghĩa. Nên ban biên tập bảo nhau “hay là tìm một truyện được nhất rồi biên tập lại để đăng cho ông già vui?”. Nhưng ông già phẩy tay chối từ: “Thôi khỏi. Đời cầm bút của tôi chỉ cần được đăng một lần duy nhất. Kể một câu chuyện duy nhất mà thôi”. Họ tò mò hỏi đó là câu chuyện gì? Ông chậm rãi rót trà, chậm rãi uống, chậm rãi kể về bà già bán xôi và cuộc kiếm tìm một nốt ruồi son mọc đằng sau gáy.

    Nghe xong hình như mũi họ cay, hình như ai đó vừa buông tiếng thở dài hoặc cũng có khi chỉ là tiếng gió. Họ ngậm ngùi bảo báo xuân năm nay sẽ dành hẳn một trang khổ lớn để ông già đăng tin tìm dấu vết thương yêu qua truyện ngắn của mình.

    Truyện của ông được mở đầu dung dị như một lời thủ thỉ thế này: “Thằng nhỏ đánh giày kiếm đâu được một đôi giày vải tuy đã cũ nhưng chất thì “ngon lành lắm”. Nó nói để phần bà già đi bán xôi mùa đông vừa ấm lại vừa mềm. Không lo tấy đỏ gót chân sau mỗi ngày gánh rong ngoài phố như đi đôi giày nhựa cũ. Chú Bảy xe ôm vừa cầm áo rách mà than “giá mà bà già còn ở đây thì đã có người khâu áo giúp mình”. Thực ra đâu phải không có người để nhờ khâu áo. Nhưng khâu mà từng đường kim mũi chỉ thẳng thớm trên thớ vải thì chỉ có bà già mà thôi. Tụi trẻ bây giờ khâu qua quýt cho xong. Đâu có để hồn mình trong vết sờn vết rách. Nên cũng không có cảnh vừa khâu áo vừa than “chú em mặc áo rách chắc là muốn để ai ngó mà thương. Nhưng trước khi người thiên hạ xót lòng thì mình đã xót da xót thịt. Mình không thương mình thì còn mong ai thương hả chú em”. Có nhiêu đó thôi mà vẫn thường nhắc nhau. Như hôm gió mùa về, trong bữa cơm “chú em” bỗng dừng đũa chống cằm bảo: “Chẳng biết bà già đang ở đâu? Nơi ấy hôm nay liệu gió mùa về? Nếu chỉ một thân một mình không biết bà già có ăn uống điều độ hay không? Nói vậy thôi chứ bà già chắc biết tự thương mình”. Cây bàng già chỗ tôi với bà từng ngồi hình như nó vừa mới cựa mình. Những chồi non ẩn sâu trong lớp vỏ xù xì thức giấc vươn vai gọi mùa xuân đến. Bà từng ví chúng giống như những mầm yêu thương chồi lên trong tâm hồn già nua, cằn cỗi của mình.

    Mùa xuân về thật rồi bà ơi. Mùa này người ta hay quàng khăn ấm cho nhau nên tôi ít nhìn thấy gáy...”.

    Ông viết đến đó thì dừng bút vì vừa ngửi thấy trong gió xuân có mùi của hoa đào, hoa cúc. Xóm dạo có thêm người bán dạo vừa mới chuyển đến mấy hôm. Cũng một đôi quang gánh, mấy bộ quần áo rét và ít nồi niêu xoong chảo. Y như ngày bà già theo ông đến đây, đồ đạc không có gì ngoài một đôi quang gánh. Người mới đến đang đảo những mẻ mứt nóng hổi để sáng sớm còn kịp mang đi bán. Chị ta nói mình là người đàn bà bán mùa. Mùa thu bán cốm, mùa hè gánh bán hoa sen, mùa đông cần mang hơi ấm chuyền tay nhau trong mùi hạt dẻ. Đến mùa xuân thì để từng vị mứt kể câu chuyện vùng miền. Nhìn cái dáng lom khom nhóm bếp than của người hàng xóm mới khiến ông già nhớ tới bà. Dù ngày hè nóng bức hay mùa đông lạnh cắt da cắt thịt thì cứ bốn giờ sáng là bà đã thức dậy lụi cụi thổi xôi. Chiếc bếp ngoài trời được ông mua mấy tấm fibro xi măng lợp lên để che chắn mưa dầm sương lạnh. Mấy năm trước cũng vào những ngày này, cũng lất phất mưa bay. Ông dậy cùng bà nhóm bếp, hơ hai bàn tay lạnh cóng trên lửa ấm rồi chờ nồi xôi của bà vừa kịp chín. Giữa lúc ông mải đắm chìm trong ngọn lửa đầy ma mị thì bất chợt thấy gáy mình nóng ran. Bà từng bảo gáy ông cũng có nốt ruồi son nên mắt bà có đôi lần vướng víu. Trong ánh lửa bập bùng nốt son như một hòn than ấm. Âm ỉ và nung nấu tâm can…
    Ông già viết xong truyện lúc người ta chở hoa về khắp phố. Những chợ hoa tự phát mọc lên, đào từ rừng xuống phố vẫn còn e ấp nụ.

    Trên sạp báo đã thấy có vài ấn phẩm báo xuân bày bán sớm. Thư ký tòa soạn nheo mắt qua cặp kính, khẽ thở dài:
    - Viết buồn vậy làm sao đăng báo tết chú ơi?

    - Không lẽ cứ cười nói khơi khơi mới là vui? Tôi đâu có viết buồn. Chẳng qua là tôi giấu cái vui trong từng con chữ đấy thôi. Mà vui hay buồn còn là do cảm nhận của từng người anh bạn à. Giả dụ nếu bà già bán xôi đọc được thì thể nào bà cũng sẽ thấy vui.
    - Ông có chắc bà già ấy sẽ đọc được không?

    - Thì như tôi đã viết ở cuối truyện đấy thôi. Bà già hay mua báo cũ để gói xôi. Nhưng trước khi mang gói xôi bà đều đọc rất kỹ. Thể nào cũng có ngày truyện của tôi được ủ ấm trong thúng xôi rong ruổi.

    Anh thư ký tòa soạn khẽ tủm tỉm cười. Giờ thì anh thấy ông già nói đúng, trong những câu chữ buồn vẫn lấp lánh thứ niềm vui bình dị. Một bà già bán xôi, một nốt ruồi son nào đó bỗng nhiên khiến buổi sáng của anh dường như chậm lại. Anh pha trà mời ông già ngồi chơi, tần ngần hỏi:
    - Liệu bà già trong truyện có tìm thấy con không?

    - Tôi không dám chắc đâu. Vì anh bạn biết đấy, đâu phải mọi cái kết đều có hậu. Nhưng mà tôi hy vọng…
    Họ lại ngồi im lặng bên nhau. Ngồi rất lâu, nghĩ gì đó rất sâu. Anh đủng đỉnh rót trà, đủng đỉnh trêu ông già đang ngồi vân vê những sợi râu mường tượng:

    - Nhuận bút báo xuân của chúng tôi thấp lắm chú ơi.

    - Thì tôi cũng chỉ cần được trả nhuận bút bằng một gói xôi thôi là đủ. Mà phải là xôi của bà già trong câu chuyện mới ngon.


    Vũ Thị Huyền Trang

    https://thanhnien.vn/van-hoa/tin-vao-mua-xuan-truyen-ngan-cua-vu-thi-huyen-trang-786421.html

 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 12:12 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh