Register
Page 1 of 5 123 ... LastLast
Results 1 to 10 of 44
  1. #1

    Truyện Ngắn Sưu Tầm_

    VHN xin phép mở ra chủ đề này để đăng lên những truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau do VHN sưu tầm được. Nếu có bài nào không thích hợp với nội quy diễn đàn, xin BĐH lấy xuống giùm.

    Kính,
    VHN___
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  2. #2

    Mùa xuân trên đỉnh torkham


    Vài năm trước, trong một lần ghé vào trang nhà của những Chú, Bác Cựu Quân Nhân thuộc binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến QL/VNCH, tôi đã tình cờ đọc được truyện ngắn này; nhân dịp Xuân về, tôi xin phép được đăng lại, như một món quà nhỏ thân tặng hai người em trai Kiệt & Luân... Being a Marine is a lifestyle - a mindset. And, for that reason "Once a Marine - Always a Marine."

    __ "Semper Fi" (Semper fidelis) to my 2 homies!!!



    MÙA XUÂN TRÊN ĐỈNH TORKHAM
    (Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn)


    Tôi ngồi trong vọng gác của đài quan sát trên đỉnh Torkham, đưa viễn vọng kính từ trái qua phải nhìn xuống vùng đồi núi thấp phía trước. Trong tầm mắt, dưới chân những rặng núi trùng điệp là vùng thung lũng Jalalabad, con sông Kameh chảy ngang qua êm đềm. Mùa xuân trời còn hơi lạnh, nắng vàng trải đều trên toàn vùng thung lũng. Thấp thoáng những mái nhà ẩn hiện hai bên bờ sông; vài đàn thú gặm cỏ thong thả trên cánh đồng xanh mướt. Thật là một khung cảnh bình yên và đẹp mắt. Xa xa, phía bên kia dãy núi trùng điệp là biên giới Pakistan. Từ đài quan sát, ta có thể nhìn rõ và kiểm soát được quốc lộ số 1, con đường nối liền hai quốc gia đã có từ hàng ngàn năm trước, với bao nhiêu diễn biến lịch sử tranh chấp. Từ con đường đó, hướng về phía Tây sẽ đến Kabul thủ đô của Afghanistan; về phía Đông, sẽ đến cửa ải Khyber Pass biên giới Pakistan; nối liền với quốc lộ số 5 sẽ dẫn đến Peshawar rồi thẳng mãi đến Islamabad thủ đô của Pakistan. Peshawar là một tỉnh phía tây của Pakistan. Nơi, đã một thời bị quân Taliban chiếm giữ. Vùng núi này phiến quân hoạt động rất mạnh, chúng thường tấn công chớp nhoáng rồi rút về phía bên kia biên giới hoặc ẩn nấp trong các hang động chằng chịt của dãy núi đá trước mặt. Những bộ lạc người Pakistan hầu hết đều ủng hộ đám phiến quân, cho nên chính phủ Pakistan cũng khó mà tiêu diệt được chúng.


    Lữ Đoàn 5 TQLC Hoa Kỳ có nhiệm vụ làm nút chặn để bảo vệ quốc lộ 1, tìm kiếm và tiêu diệt đám phiến quân Taliban xâm nhập từ bên kia biên giới. Đài quan sát này là một trong nhiều đài quan sát mà Lữ Đoàn thiết lập, do bộ chỉ huy tiểu đoàn 3 trấn giữ, được vây quanh bởi một bức tường bao cát với mấy lớp kẽm gai, hầm hố tương đối chắc chắn. Ngoài ra, còn có một pháo đội yểm trợ cho tiểu đoàn. Tuy vùng đồi núi bề ngoài rất yên bình nhưng có thể nổi lên những cơn bão táp vào bất cứ lúc nào.



    Căn cứ được tiếp tế thực phẩm và đạn dược bằng trực thăng kể cả nước uống. Đám TQLC ở đây cũng chẳng khác những đội kỵ binh theo bảo vệ tuyến đường rầy xe lửa miền Viễn Tây trong những năm 1800’s của Mỹ thời lập quốc, khi mà chiến quân Da Đỏ luôn lẩn quẩn chung quanh, chờ cơ hội để tấn công với một quân số đông gấp bội.

    Giữa hai ngọn núi bên kia là vùng đất của lãnh chúa Haqqani, ông ấy đã từng nhận vũ khí của CIA để đánh đuổi người Nga trước kia. Các con của Haqqani bây giờ ngã về phía phiến quân để chống lại quân đội Mỹ. Họ có những bộ lạc vùng biên giới theo ủng hộ và làm đủ thứ tội ác, từ trồng & buôn bán á phiện đến bắt cóc tống tiền, đặt bom khủng bố, hủy hoại đường xá, bắn giết người tùy tiện. Ngoài phiến quân Taliban ra, họ còn mướn thêm các tay súng đánh thuê từ Phi Châu, Pakistan và các nước Ả Rập, trả lương rất hậu hĩ. Đã nhiều lần đám phiến quân kéo về, pháo kích và tấn công vào căn cứ đài quan sát nhưng kế hoạch của chúng đều thất bại và bị thiệt hại nặng nề. Vũ khí và kỹ thuật chiến đấu đã khác rất xa thời chiến tranh VN, du kích chiến đã không còn hiệu nghiệm nữa. Ngược lại, tuy rằng TQLC Mỹ biết Haqqani và các con của ông đang làm gì và ở đâu, phía bên kia biên giới nhưng vì luật pháp quốc tế, TQLC không thể trực diện tấn công ông ta. Họ có căn cứ huấn luyện tân binh, làm bom và tàng trữ vũ khí, có cả những nông trại trồng trọt và nuôi gia súc, hệt như đám Cộng Sản bên kia biên giới Lào Việt hay Miên Việt trong thời chiến tranh Việt Nam.


    Nhiệm vụ của TQLC là bằng mọi giá phải ngăn chặn đám phiến quân, không để chúng xâm nhập vào vùng thung lũng và tìm cách tiêu diệt chúng cho đến khi nào chúng chịu từ bỏ võ khí để sống hòa bình dưới sự kiểm soát của chính phủ hợp pháp Afghanistan. Nhiệm vụ thật khó khăn, trừ khi Pakistan chịu hợp tác càn quét đám phiến quân bên kia biên giới. Đôi khi máy bay không người lái "Predator Drone" cũng lén vượt không phận, tấn công căn cứ của chúng, và chính phủ Pakistan cũng chỉ phản đối lấy lệ để tiếp tục nhận viện trợ của Mỹ.

    Mỗi ngày, hai đại đội của tiểu đoàn 3 chia nhau đi hành quân lục soát và phục kích, còn hai đại đội và trung đội súng cối ở lại bảo vệ bộ chỉ huy tiểu đoàn. Đôi khi, cả tiểu đoàn được trực thăng vận hành quân lục soát sát vùng biên giới.

    Hôm nay đại đôi “Kilo” được lệnh di hành về bên trái của căn cứ, lục soát hai bên con đường mòn dẫn lên ngọn đồi trọc, vì từ con đường đó, phiến quân có thể leo lên tấn công đài quan sát. Đại đội tập họp chuẩn bị di hành. Tôi đến bên Tom, thằng bạn nối khố từ thời trung học, vỗ vai dặn dò bạn:

    - Mày nhớ giữ liên lạc đều với tao nhé, tao sẽ trực trong phòng hành quân đêm nay để theo dõi đại đội của mày. “Big Boy” cũng có vẻ quan tâm buổi di hành hôm nay lắm đó.

    “Big Boy” là biệt danh của vị Tiểu Đoàn Trưởng do các anh em TQLC đặt cho ông. Tôi là hiệu thính viên của Tiểu Đoàn, thằng Tom là hiệu thính viên của đại đội. Hai đứa chúng tôi có nhiệm vụ giữ hệ thống liên lạc giữa Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Đại Đội “Kilo”. Hắn nhăn mặt:

    - Mày làm gì mà rối lên thế, đêm nay thì cũng như bao đêm khác thôi, mất một đêm không ngủ, mai ngủ bù chứ có gì phải lo.

    Tôi nghiêm mặt:

    - Tao thấy “Big Boy” có vẻ đăm chiêu từ sáng tới giờ, chắc ông ấy nhận được tin tình báo gì đó mà chúng ta không biết.

    Đại Úy Lê , Đại Đội Trưởng đại đội “Kilo” nhìn vào bản đồ hành quân, rồi chỉ về phía con đường đất dốc bên trái dẫn ra khu rừng thưa, nói với đám sĩ quan đại đội:

    - Robert, anh dẫn "gia đình" anh xuống làm ăn ở con đường mòn “Goat Trail”, con đường nhỏ xíu đâm nghiêng về bên trái khu đồi trọc đó, anh thấy không?

    Robert trả lời khẳng định:
    - Tôi thấy rõ, Đại Úy.

    - Reggy, anh dẫn mấy thằng nhỏ phục kích xa về phía phải sườn đồi. Paul, anh và mấy đứa em của anh nằm sát hai bên con đường mòn dẫn lên đồi. Robert và Reggy sẽ bảo vệ cạnh sườn trái và phải cho anh. Tony, anh và mấy thằng em của anh theo tôi canh chừng mặt sau và làm trừ bị cho đại đội. Lữ Đoàn được mật báo rằng một nhóm đông phiến quân đã vượt qua biên giới, đang lẩn quất đâu đây. Nội ngày mai sẽ có cuộc lục soát lớn của Lữ Đoàn. Tôi có linh tính là tối nay chúng sẽ về khu rừng thưa và theo con đường mòn leo lên đây. Nếu 1 trong 3 toán có đụng độ nặng, tùy theo tình hình, tôi sẽ ra lệnh tăng cường hoặc thu gọn lại tuyến phòng thủ để có hỏa lực hùng hậu hơn. Các cậu hiểu rõ chưa? Nhớ dặn mấy mấy đứa nhỏ chỉ khi nào thấy rõ mới nổ súng, đừng bắn bậy bạ khi không cần thiết. Phải tuyệt đối giữ yên lặng.

    Tất cả đều đồng ý, Đại Úy Lê nói tiếp:
    - Tiểu đoàn sẽ yểm trợ chúng ta nếu cần. Toạ độ tác xạ tiên liệu cũng như vị trí đóng quân, tôi sẽ chuyển về tiểu đoàn để thông báo cho căn cứ hỏa lực và Lữ Đoàn. Như thường lệ chúng ta sẽ có 3 phi vụ "Apache helicopters" sẵn sàng can thiệp, nếu được yêu cầu. Nhớ dặn con cái mặc áo giáp và mang kính hồng ngoại tuyến đàng hoàng, đó là lợi điểm duy nhất của chúng ta khi chiến đấu trong đêm tối. Các cậu có điều gì thắc mắc không?

    Đại Úy Lê ngừng lại một chút, nhìn một vòng đám sĩ quan dưới quyền, không thấy ai lên tiếng, anh ra lệnh:
    - Thôi, chúng ta chuẩn bị đi cho sớm để đến kịp điểm hẹn tối nay, lục soát kỹ càng và cho anh em đào hầm hố cẩn thận.

    Đại Úy Lê là một vị chỉ huy can đảm, thông minh và giàu kinh nghiệm, cho nên rất được lòng vị Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT). Mỗi khi có nhiệm vụ khó khăn, "Big Boy" đều giao cho ông ta, và hôm nay cũng không ngoại lệ. Từ sáng sớm, TĐT nhận được tin tình báo của Lữ Đoàn đưa xuống, nên vội vã họp các Đại Đội Trưởng dưới quyền để tìm phương pháp đối phó.


    Căn cứ nằm trên một đỉnh cao, phía sau là sườn núi dốc thẳng đứng cũng đỡ một mặt phòng thủ. Hai đại đội ra phục kích bên trái và phải vừa làm tiền đồn cho căn cứ, phần còn lại sẽ tập trung hỏa lực phía chính diện. Nếu phiến quân lọt vào một trong hai ổ phục kích, căn cứ sẽ không bị áp lực và có thể yểm trợ tối đa để tiêu diệt địch quân. Pháo đội chia làm hai, hướng súng về phía điểm phục kích để sẵn sàng yểm trợ khi được yêu cầu trong vòng 2 hay 3 phút. Những viên đạn đại bác đầu tiên sẽ là yếu tố quyết định cho trận đánh đêm nay, nếu xảy ra. Đoàn quân ra đi trong im lặng. Tôi nhìn theo cho đến khi tất cả đều khuất hẳn sau những lùm cây rậm rạp.

    ***

    Bỗng nhiên, tôi chợt thấy buồn buồn và hoang mang trong lòng, điềm gì đây? Thêm một mùa xuân nữa xa gia đình, bây giờ tôi mới hiểu được vì sao Ba đã khóc mỗi khi nghe bản nhạc “Xuân Này Con Không Về."

    Những năm tháng của thời thơ ấu trên đất Mỹ trôi qua êm đềm. Năm nào, cả gia đình tôi cũng đi lễ Phật ở hầu hết các chùa trong thành phố Houston vào dịp đầu năm, kể cả những Chùa của người Hoa như chùa Ông Bổn, Chùa Bà, Chùa Quan Thánh, Chùa Ngọc Thạch vv…."Phải đi đủ 10 chùa" Mẹ tôi nói thế. Đó là thông lệ hằng năm truyền lại từ Bà Ngoại. Tôi và thằng Tom luôn nôn nao chờ đến dịp Tết để dẫn Linda, bạn học cùng lớp của hai đứa, đi hội chợ Tết ở các chùa và nhà thờ Việt Nam cho đến tận khuya, trong mấy ngày cuối tuần (hai tuần lễ liên tiếp). Đó là những ngày vui chơi hồn nhiên và thoải mái của tuổi trẻ chúng tôi.

    Thằng Tom và con Linda có đầy nhóc tiền lì xì từ Ba Mẹ, Cậu Mợ, Chú Thím, cho nên mỗi khi gặp người lớn, chúng đều cố gắng nói “Cúc mùn nam mái” nghĩa là "Happy New Year." Chúng chả cần biết là mình phát âm có đúng tiếng Việt không, miễn có tiền lì xì nhiều là tụi nó thích chí tử thôi. Hai đứa Mỹ Con này mê Tết Nguyên Đán của Việt Nam hơn New Year Mỹ nhiều, vì vừa được đi chơi mà lại có tiền lì xì. “Mỹ chẳng có tập tục hay như thế!” hai đứa nó thủ thỉ với tôi và cười khúc khích, tôi cũng đồng ý. Chúng rất thích đi coi đốt pháo và múa Lân ở mấy "shopping malls" của người Việt và người Hoa trong thành phố Houston. Đêm giao thừa, thằng Tom và tôi theo Ba cúng bàn thờ Tổ Tiên. Sau nửa đêm, tụi tôi mở cửa trước đi về hướng Nam một đỗi rồi mới trở về "xông đất" vì Mẹ tin là mạng của tôi "xông đất" rất hên. Hai đứa mừng tuổi Ba Mẹ, rồi cả nhà lên xe đi lễ Giao Thừa ở Chùa Việt Nam, ngôi chùa lớn nhất Houston.

    Thằng Tom mê ngôi chùa này lắm. Nó cũng bắt chước tôi thắp nhang lạy Phật và cầu nguyện như một Phật Tử thuần hành. Nó thích nhất là tượng Đức Phật Di Lặc được tạc theo hình ảnh của Bố Đại Hòa Thượng với nụ cười tươi và cái bụng phệ nhìn vô chỉ muốn xoa một phát. "Nụ cười cởi mở xuề xòa đó mang lại hạnh phúc và may mắn cho chúng sanh. Cái bụng phệ bao dung của Ngài biểu hiện cho lòng nhân ái từ bi vô lượng" thầy Trụ Trì bảo thế. Ba tôi nói ngày đầu năm Âm Lịch cũng là ngày vía của Ngài, cho nên, khi ta cầu xin Ngài những điều tốt lành, Ngài sẽ ban cho. Thằng Tom tin lắm, nên nó đảnh lễ và cầu nguyện rất trang nghiêm, thành khẩn.

    Theo tôi biết, thì tên của Đức Phật Di Lặc (Maitreya) xuất xứ từ Phạn ngữ “Maitri” có nghĩa là “Từ Bi." Khi Đức Thích Ca đã thành đạo không còn ở dương gian nữa, Chúng Sinh bơ vơ khổ ải, nên Ngài Di Lặc động lòng từ bi, hóa thân thành Bố Đại Hòa Thượng để dạy Chúng Sinh thực hành hạnh nhân ái, cứu nạn cứu khổ, mang hạnh phúc hoan lạc đến nhân gian.

    ***

    Mặt trời chiều vừa khuất sau rặng núi, đại đội "Kilo" cũng tới điểm hẹn. Các trung đội lục soát vùng trách nhiệm của mình, đào hầm hố xong xuôi, họ mang lương khô ra ăn. Màn đêm phủ xuống, che hẳn đám lính cọp TQLC đang núp trong các lùm cây rậm rạp, dưới hố cá nhân, rình mồi. Cảnh vật thật yên tĩnh, cả tiếng kêu của côn trùng cũng không có.

    Gần nửa khuya, giữa lúc đàn cọp biển ăn đêm tưởng rằng sẽ chẳng có gì xảy ra; bỗng đâu, cuối đường mòn hiện ra đám tiền thám của phiến quân đang chậm chạp đi vào ổ phục kích, cả thảy có 7 tên. Mọi người đều nhìn thấy qua kính hồng ngoại tuyến. Tay họ đặt trên cò súng, nín thở và chờ tiếng súng lệnh của Paul. Những giây phút chờ đợi căng thẳng như sợi dây cung kéo hết mức. Chỉ trong vài giây, cả 7 tên phiến quân đã bị hạ bởi những khẩu súng có gắn ống hãm thanh. Paul báo cho Đại Úy Lê mọi diễn tiến và chờ đợi. Khoảng 20 phút sau, một hàng dài địch quân tiến vào điểm phục kích. Những tên đi đầu bị hạ tại chỗ, phần còn lại phân tán mỏng thành hàng ngang và bắt đầu phản công. Chúng kéo đến càng lúc càng đông; đồng loạt xung phong tới. Chúng muốn dùng chiến thuật "biển người" nhất định tràn lên phòng tuyến của Paul, hết đợt này đến đợt khác, hàng hàng lớp lớp ngã xuống chúng vẫn la hét tiến lên, mặc cho tiếng đại bác yểm trợ từ căn cứ vẫn nổ đều trên trận tuyến địch quân. Để tránh bị tiêu diệt bởi pháo binh, chúng liều mạng bám sát vào phòng tuyến TQLC. Xác địch quân nằm la liệt trên chiến trường, có những xác chỉ cách hố cá nhân của TQLC vài bước. Mìn chống "biển người", súng cối, đại bác, phóng lựu, đại liên, M4, "Rapid-Fire SAW" nổ vang rền bên sườn đồi. Đại Úy Lê ra lệnh hai cánh quân của Robert và Reggy rút lại gần về phía Paul. Những cây đại liên và súng phóng lựu từ 2 bên cánh trái và phải bắn đan xéo vào nhau về phía địch quân. Bộ chỉ huy đại đội và Trung đội của Tony bò lên tiếp ứng.

    Tôi ngồi theo dõi trận chiến trong Trung Tâm Hành Quân của tiểu đoàn cùng với “Big Boy” và toàn ban tham mưu tiểu đoàn, trong lòng hồi hộp vô cùng. Tôi liên lạc thường xuyên với Tom để nhận báo cáo tình hình chiến trường cho Tiểu Đoàn Trưởng. Những tiếng súng nổ xen lẫn tiếng la hét của địch quân nghe rõ mồn một.

    Tom nói như hét trong máy:
    - “Tụi nó tràn lên đông quá mày ơi!”

    Bỗng tôi nghe một tiếng nổ chát chúa vang lên trong máy. Tôi cố gọi cho Tom nhưng không nghe tiếng trả lời .... Được khoảng vài phút sau, một giọng lạ báo cáo rằng Tom đã bị thương nặng, đang được băng bó và chuyển lui về phía sau chờ trực thăng tải thương.

    Tiếng súng của địch quân bớt dần rồi im hẳn khi 3 phi tuần "Apache" xung trận, bắn những tràng "rocket" liên tục vào đầu địch. Phiến quân đã rút lui, mấy chiếc "Apache helicopters" tiếp tục săn đuổi hơn một tiếng đồng hồ sau mới trở về căn cứ. Tiếp đó là những phi tuần phản lực thả bom liên tục, nhất định tiêu diệt cho bằng hết đám phiến quân. Chiếc "Predator Drone" cũng được đưa lên vùng, tìm kiếm tàn quân địch để tiêu diệt. Những TQLC bị thương đều được trực thăng chở về bệnh viện dã chiến ở thủ đô Kabul. Riêng Tom, vì bị thương nặng nên được bốc về Quân Y Viện bên Germany.

    ***

    Gia đình Tom và tôi ở Huntsville, một thành phố nhỏ nằm về phía Bắc của Houston với những rừng thông ngút ngàn. Đa số dân chúng sống trong các nông trại bao quanh thành phố. Ở đây, chẳng có một cơ sở kỹ nghệ gì quan trọng ngoại trừ một nhà tù vĩ đại và một trường Đại Học của Tiểu Bang (Trường Sam Houston University). Dân sống ở đó thường nói đùa với đám con nít rằng: "Chỉ có hai con đường đi, một là trường Đại Học, hai là nhà tù, tùy bạn lựa chọn!”

    Tom là một thằng bé nhà quê, mạnh khỏe, to lớn, chất phác. Nó chưa hề biết Mẹ nó là ai. Mỗi khi có ai hỏi về Mẹ, nó tìm cách nói vòng quanh. Nó nghi ngờ là Mẹ nó chán cảnh nhà quê nên đã bỏ ra đi từ khi nó còn rất nhỏ. Ngoài giờ học, thằng nhóc giúp Cha săn sóc đàn bò và mấy con ngựa. Hắn cỡi ngựa thật tài tình chẳng khác gì mấy tay chăn bò trong các phim "Cowboy" miền Viễn Tây. Hai cha con sống cũng tạm đủ. Ông già chỉ có thằng Tom và con chó đen, loại chó săn "retriever" tên là Honey Bear, lúc nào cũng quanh quẩn bên ông. Nhóc không muốn đi xe đưa đón của trường, nên được cha mua cho một chiếc "truck" cũ. Tuy vậy, nhóc vẫn thích cưỡi ngựa hơn cưỡi xe hơi! Hắn mặc cảm mình là dân nhà quê, cho nên hay bị lũ học trò nghịch ngợm chọc phá chế diễu là “Thằng-nhỏ-hôi-mùi-cứt-bò”.

    Mùa hè nghỉ học, tôi và thằng Tom thường đi vào rừng thông, cưa những cây thông chết nằm la liệt trên đất thành từng khúc nhỏ, rồi bổ ra làm củi, chất lên xe "truck" mang về nông trại. Khi mùa Đông đến, chúng tôi chở đầy xe "truck" mang đi bán. Dân nhà quê thích đốt củi trong lò sưởi, vừa thơm mùi gỗ lại vừa rẻ hơn là đốt lò "gas." Mỗi mùa như vậy, chúng tôi kiếm đủ tiền mua quà Giáng Sinh cho Ba Mẹ; còn dư thì bao Linda đi ăn nhà hàng. Mặc dầu là hai đứa con nhà nghèo, nhưng chúng tôi luôn có tiền bạc rủng rỉnh trong túi. Sau này khi ra đời, cảm giác ngồi bên đống lửa sưởi ấm, co ro trong gió lạnh mùa đông, ăn bắp nướng, ngửi mùi thơm của gỗ trong lúc bán củi vẫn còn đọng mãi trong tôi. Đó là những ngày vui vẻ nhất trong đời hai đứa chúng tôi.

    Ba tôi là cựu TQLC Việt Nam. Ông làm thợ sửa xe cho một "dealer" xe gần nhà. Tôi lớn lên bên Mỹ, nên vóc dáng chẳng thua gì mấy thằng Mỹ con. Đánh lộn thì hơn hẳn chúng nó vì tôi có học võ VOVINAM ở Chùa Linh Sơn mỗi cuối tuần. Mẹ nói tính tình tôi ngang tàng chẳng biết sợ ai, giống tính Ba, cho nên mặc dù học cùng lớp với Tom (một thằng nhóc luôn bị học sinh khác phá phách) nhưng lại không có đứa nào dám trêu chọc tôi. Vì trường ở gần nhà nên tôi hay thả bộ đến trường thay vì đi theo xe đưa đón. Một hôm, trên đường về, tôi chợt thấy thằng Tom đang loay hoay với chiếc xe cũ, không cách nào làm cho con ngựa sắt già tiếp tục chạy nữa. Tôi đến giúp hắn một tay nhưng cũng không khá gì hơn, bèn về nhà nhờ Ba đến coi giúp; hóa ra xe chỉ bị nghẹt ống dẫn xăng thôi. Từ đó, ngày nào Tom cũng ghé nhà đón tôi đi học. Cuối tuần, tôi đến nông trại của ba thằng Tom chơi và tập cưỡi ngựa, rồi tôi cũng bắt đầu mê cưỡi ngựa giống nó. Ông già của Tom là dân "country" hiếu khách, hiền lành, ít nói, đối đãi tôi như một đứa con của ông vậy. Thỉnh thoảng, ông lại dẫn hai chúng tôi và con Honey Bear đi săn bắn cuối tuần hay đi cắm trại qua đêm bên bờ hồ Conroe để câu cá. Ông thường đốt củi, nấu ăn ngay trên bờ hồ. Nào là thịt, cá nướng, xúc xích, "hamburger"... Nhưng tôi mê nhất là món “Ham Hock” của ông: đó là món "soup" nhà quê, gồm cẳng heo thui nấu thật nhừ với "bean." Con Honey Bear bao giờ cũng được một bụng no kềnh và chạy nhảy lung tung. Nó thích nhất là được ném cho trái banh "tennis" để chạy đuổi theo, cắn vào miệng và trả lại dưới chân chúng tôi.

    Hai đứa tôi thân thiết nhau không khác gì anh em ruột. Thằng Tom đến chơi nhà tôi cuối tuần cũng được Mẹ đãi những món ăn Việt Nam. Nó mê nhất là món PHỞ và bún thịt nướng, chả giò. Hắn ăn ngấu nghiến chẳng chừa lại chút gì. Mẹ nhìn hai đứa tôi mỗi ngày mỗi lớn bên nhau với ánh mắt tràn đầy hạnh phúc, cứ như là cả hai đứa tôi đều là con của Bà.

    Lên lớp 11, chúng tôi cùng chơi cho đội "Football" của trường, Tom làm "Quarterback" còn tôi được chỉ định làm "Wide Receiver." Chúng tôi chơi rất ăn ý nhau. Dừng như tôi có thể đọc được ý nghĩ của thằng Tom; nhiều lúc, chỉ cần nhìn ánh mắt của hắn tôi cũng biết là Tom muốn tôi chạy hướng nào để bắt banh; đúng như câu nói “Friendship is one mind in two bodies” (tình bạn như một tâm hồn trong hai thể xác?).

    Tụi tôi rất nổi tiếng trong trường. Được nhiều nữ sinh ngưỡng mộ, trong đó có Linda, người bạn gái học cùng lớp. Linda là "Homecoming Queen" cuả đám diễn hành năm chúng tôi học lớp 12. Trong các cuộc diễn hành, thằng Tom và tôi bao giờ cũng dẫn hàng đầu đội banh, chỉ sau ban nhạc. Nó luôn cười toe toét, rất hãnh diện, và tôi cũng thế.

    Giữa năm lớp 12, đội banh được vào vòng chung kết vùng Đông Nam Texas. Mấy tuần lễ liên tục, toàn đội phải tập tành rất vất vả. Cả thành phố hầu như lên cơn sốt, đi đâu cũng nghe người ta bàn tán và ủng cho hộ đội banh của trường trong giải vô địch sắp tới. Mọi người đều háo hức. Tờ báo “The Hunsville Item” luôn đăng hình hai chúng tôi trên trang nhất với bao hy vọng là sẽ mang danh dự về cho tỉnh nhà. Nếu thắng trận này, chúng tôi có thể được "lọt vào mắt xanh" của một huấn luyện viên "Football" từ một trường Đại Học nào đó, và món học bổng toàn phần sẽ chắc ăn như bắp!

    Trận đấu "football" sôi nổi ngay từ những phút mở màn. Hai bên thay nhau dẫn đầu, chỉ cách nhau 3 hoặc 4 điểm. Linda ngồi ngay hàng ghế sát sân chơi, đang la ó và dơ hai nắm tay lên trời cổ võ cho đội nhà. Tôi nhìn nàng và nhủ thầm là sẽ cố làm cái "touch down" cuối cùng để có cơ hội tặng trái banh cho nàng. Cuối hiệp thứ tư, chúng tôi có banh trong tay ở "yard" thứ 8 cuối sân đối thủ, và đang bị dẫn trước 4 điểm, còn hơn 1 phút với hai "downs", dư sức để "touch down" và thắng trận đấu. Cả hội trường như lên cơn sốt, những tiếng la cổ võ vang dội. Tôi vừa nghe thằng Tom dứt tiếng la: “hut, hut, hike” là đã chạy thục mạng ngay về cánh trái rồi phóng thẳng xuống cuối sân như tên bắn, một mình một ngựa (wide open). Lúc đó, thằng Tom chỉ việc ném nhẹ banh cho tôi là xong. Vinh quang tột đỉnh đang trong tầm tay. Tôi vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn lại để chờ chụp banh. Tim đập mạnh như trống trận đang xua đoàn kỵ binh lao vào trận địa, rung chuyển mặt đất. Chờ, chờ, ... chờ mãi mà chả thấy banh đâu. Chỉ mấy giây chờ đợi nhưng xem chừng như dài hơn một thế kỷ. Bỗng nhiên, tôi nghe những tiếng gào rung động hội trường của mấy chục ngàn khán giả; quay nhìn lại, tôi thấy thằng Tom trợt chân té xuống đất, trái banh còn lơ lửng trên không đã bị đối thủ bắt được đang chạy ngược về sân nhà.

    ....Thôi, thế là hết! Tiêu tan bao nhiêu hy vọng. Người tính không qua Trời tính, tôi nhủ thầm như vậy....

    Tôi cởi nón an toàn, chạy lại với thằng Tom; hai đứa khóc mùi mẫn, cả đội banh cũng thế. Linda bước tới, dụi mặt vào ngực tôi, vai rung lên từng hồi. Nàng ngước nhìn tôi, mắt đỏ hoe. Đôi môi nàng hé mở và chúng tôi hôn nhau lúc nào không biết, mà cũng chẳng ai quan tâm. Trên đường về, cả đội banh lúc ra đi thì vui như tết, bây giờ lại hoàn toàn im lặng.

    Những ngày sau đó là một chuỗi ngày buồn, dài lê thê. Thằng Tom luôn tự trách mình, rằng nó đã làm mọi người thất vọng vì nó bất tài. Tôi khuyên nhủ hết lời, viện cớ là đâu phải lỗi tại nó, chỉ vì sân cỏ trơn trợt thôi. Đám học trò ngày thường ca tụng chúng tôi hết lời, giờ đây đều xa lánh nó, chỉ còn có hai đứa tôi. Tôi tự nhủ lòng là phải làm một điều gì đó để giúp nó vượt qua cơn mưa lũ. Nó đã mất đi lòng tự tin khi trước và rút dần vào chiếc vỏ sò cô đơn. Tôi cố tìm cách giúp nó đập bể chiếc vỏ sò đó và lấy lại niềm tin. Cuối tuần ấy, Linda rủ hai đứa tôi đi câu bên Lake Livingston. Tôi hy vọng rằng với sự nhí nhảnh và nghịch ngợm của nàng, may ra sẽ giúp được Tom quên đi những muộn phiền trong lòng nó. Và mặc dầu tôi đã cố tránh những cái nhìn tha thiết của người con gái mới lớn nhưng lạ thay, nàng như thỏi sắt nam châm, càng muốn dang xa thì càng bị hút gần lại.

    ***

    Một hôm đi học về, thấy Ba đang cặm cụi sửa xe, chiếc đầu bù xù vất vả của ông đã làm tôi suy nghĩ không ít. Cả đời người cực khổ, một thời vào sinh ra tử ở chiến trường VN. Qua Mỹ, bắt tay vào làm việc nặng nhọc từ những ngày đầu tiên nhưng ông không bao giờ than thở, cũng chưa hề to tiếng với Mẹ hoặc la mắng tôi một lần nào.
    Luôn luôn tặng quà sinh nhật cho tôi và Mẹ; ông là một mẫu người cha lý tưởng trong trái tim bé nhỏ của tôi. Đôi khi, tôi bắt gặp Ba ngồi một mình hút thuốc bên ly cà phê; đôi mắt mơ màng xa xăm như không hề thấy ai đi ngang. Mẹ bảo, đó là lúc ông đang nghĩ về các chiến hữu đã bỏ ông ra đi vĩnh viễn.

    Tôi đã lớn rồi, muốn ghé vai chia bớt gánh nặng với Ba nhưng chẳng biết làm sao. Đồng lương eo hẹp của Ba chỉ tạm đủ để trang trải chi tiêu trong nhà vì Mẹ không đi làm. Nhiều lúc, tôi tự hỏi "Tiền đâu để tôi trả chi phí cho 4 năm Đại Học trước mặt đây?"

    Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi và Tom quyết định đầu quân vào TQLC Hoa Kỳ. Hắn muốn thỏa mộng giang hồ, còn tôi thì chỉ muốn có học bổng để tiếp tục vào Đại Học sau khi giải ngũ.

    Dĩ nhiên là Ba Mẹ tôi phản đối dữ lắm. Tôi thuyết phục Ba Mẹ bằng câu: "Sống chết có số" như Ba tôi vẫn thường nói. Nếu số tôi phải chết sớm thì lái xe trên xa lộ đụng nhau cũng chết vậy. Ngày xưa, Ba đi đánh giặc liên miên nhưng có chết đâu? Còn bây giờ, khi tôi ra trận được mọi người hổ trợ với kỹ thuật và vũ khí tối tân, thì còn lo gì sẽ đánh không thắng. Cuối cùng rồi Ba Mẹ tôi cũng đồng ý. Mẹ cầu nguyện rằng sẽ ăn chay trường cho tới khi tôi giải ngũ về với Mẹ. Tôi thật sự cảm động và hứa với Mẹ là sẽ trở về nguyên vẹn.

    Ngày ra đi, gia đình tôi và Ông Già thằng Tom tiễn chúng tôi ra đến tận phi trường. Mẹ đứng nhìn theo cho tới khi tôi khuất bóng. Chợt nghĩ, rồi đây, sẽ có những đêm Mẹ mất ngủ, tôi bỗng thấy có chút gì hối hận trong lòng.

    Vào đến quân trường, tôi chẳng còn thời gian đâu để suy nghĩ vớ vẩn nữa. Quá trình huấn luyện vất vả hơn tôi tưởng rất nhiều. Ngày ra trường, tôi và thằng Tom được đưa về cùng đơn vị. Thế là chúng tôi lại được ở bên nhau. Ban đầu, lữ đoàn đóng quân bên Đức, thỉnh thoảng tập trận hay theo học các khóa chuyên môn. Thời gian 2 năm tòng quân của tôi sắp sửa trôi qua, chỉ còn vài tháng nữa là xong nhiệm kỳ.... Thế rồi "Biến Cố
    9/11" xảy đến. Chúng tôi phải theo Lữ Đoàn nhảy vào tham chiến ở mặt trận Afghanistan từ đó.

    ***

    Mãn nhiệm kỳ 2 năm, được nghỉ phép, tôi về nhà thăm Ba Mẹ. Hôm đó, tôi rủ Linda và Mẹ đi thăm Tom. Hắn đã được chuyển về bệnh viện quân đội Brook Army Medical Center ở San Antonio.

    Tôi không ngờ thằng Tom to lớn trước kia bây giờ lại ốm yếu đến nỗi phải nằm bẹp một chỗ như vầy. Nước da nó trắng xanh, nhợt nhạt như một xác chết đang chờ Tử Thần đến rướt đi. Tôi đứng nhìn nó chìm trong giấc ngủ, hơi thở phều phào mà không cầm nổi nước mắt; như chính một phần thân thể của tôi đang chết. Chúng tôi đứng nhìn nó một lúc trong im lặng .... Như có linh tính, nó lim dim mở mắt ra, con ngươi di động nhìn từng người một. Khi đưa mắt tới Linda, nó mỉm cười, tôi đọc được niềm hân hoan trong đó.

    Bất chợt, Tom tìm tay Mẹ tôi, nắm lấy, rồi thốt lên:
    - Mommy, I love you!

    Có lẽ đó là điều đã muốn nói từ lâu nhưng nó vẫn cất kỹ trong lòng cho đến hôm nay mới nói ra, vì sợ rằng mình sẽ không còn cơ hội nữa. Mẹ như bị sét đánh đúng tim, người bà rũ ra, không đứng nổi, tôi phải đưa tay cho Mẹ vịn. Mẹ cúi xuống, hôn lên trán Tom, nghẹn ngào nói qua ngấn lệ:

    - "I love you too, my son."

    Nó thều thào:
    - Mai mốt con về nhà, Mẹ nhớ nấu “Pho" cho con ăn nha, con thích món đó lắm.

    - Con muốn ăn gì Mẹ cũng nấu cho con.

    Tôi thấy đôi mắt nó nhấp nháy và đục hẳn đi. Mẹ lấy khăn giấy lau mắt cho nó rồi bước ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng Mẹ nấc lên theo từng nhịp chân. Tội nghiệp Mẹ, ngày xưa chắc cũng đã bao lần Mẹ đã khóc như vậy khi Ba bị thương rồi. Con Linda chẳng nói được lời nào nhưng mắt đỏ hoe, đuổi theo Mẹ ra ngoài.

    Có lẽ đây là lần đầu thằng Tom được gọi một người đàn bà là "MẸ." Tiếng Mẹ trìu mến, thiêng liêng mà nó luôn ấp ủ trong tim nhưng chưa bao giờ được thốt lên ngọt ngào như vậy với ai.

    Tôi siết tay thằng Tom như những lần thắng "football", như cố chuyền cho nó một chút sinh khí và nỗi cảm thông. Nó ra dấu muốn nói chuyện riêng với tôi. Tôi bước đến ngồi vào chiếc ghế cạnh giường và ghé sát tai, nghe hắn thì thào:

    - Mày nhớ giữ mạng, trở về đầy đủ nhé.

    Tôi mỉm cười, cố nói một câu đùa cho không khí bớt căng thẳng:

    - Yến chí đi, tao cao số lắm!

    - Mày đừng ỷ y, phải cẩn thận. Mai này giải ngũ, nhớ chăm sóc Linda cho đàng hoàng, nó thương mày lắm...

    - Không được đâu, Mẹ chỉ muốn có con dâu Việt Nam thôi.

    - Tao thấy Mẹ và con Linda thân thiện lắm mà.

    - Nói vậy chứ Ba tao khó tính lắm. Hai người đã hy sinh cho tao nhiều rồi, tao không muốn làm Ba Mẹ buồn, mày hiểu không?

    - Tao hiểu...

    Nó chỉ chịu đựng được đến đó là mệt lắm rồi, chẳng bao lâu lại chìm vào giấc ngủ.

    Trên đường về, mỗi người chúng tôi đều theo đuổi một ý nghĩ riêng, chẳng ai nói ra một lời. Tôi biết từ lâu Tom cũng thương con Linda như tôi. Có điều, hai đứa tôi cùng hiểu nhưng chẳng ai nói ra. Đúng như Elbert Hubard đã từng nói:"Your friend is the man who knows all about you, and still likes you.”

    ***

    Tôi xin tái ngũ thêm một nhiệm kỳ hai năm nữa; lần này xin được thuyên chuyển về Marine Heavy Helicopter Squadron (thuộc Phi Đoàn Tìm Kiếm Và Giải Cứu). Sau thời gian huấn luyện, tôi trở lại chiến trường Afghanistan trong toán "CH-53D Sea Stallion Helicopter" và được thăng cấp Trung Sĩ. Ngoài đám Sĩ Quan ra, tôi là người thâm niên và nhiều kinh nghiệm chiến trường nhất. Nhìn mấy tân binh dưới quyền mình lớ ngớ, tôi thấy thương họ, và cảm nhận được trách nhiệm đang đè nặng trên vai mình. Tôi nhủ lòng, là sẽ cố làm sao cho tất cả đều trở về đầy đủ sau mỗi phi vụ.

    Tôi cũng chẳng còn bạn bè thân nào nữa để vui chơi và tâm sự. Những tuần đầu tái ngũ, tôi nhận được thư của Linda rất thường xuyên, nhưng thỉnh thoảng, tôi mới trả lời một cách nhạt nhẽo, viện cớ là bận hành quân. Tôi cất những lá thơ của nàng chung với thư của Ba Mẹ, thỉnh thoảng mới lấy ra đọc từng chữ một, lòng nao nao đầy ắp yêu thương. Tôi muốn nói thật với nàng bằng trái tim tan vỡ của tôi là một nửa lòng tôi đang chết, một nửa đang quằn quại vì thương nhớ nàng. Nhưng tôi biết Tom đang cần nàng hơn tôi.

    Thư Linda viết cho tôi thưa thớt dần cho đến cuối năm đầu của nhiệm kỳ tái ngũ thì ngưng hẳn.

    Tom đã được xuất viện và giải ngũ với “Chiến Thương Bội Tinh”. Hắn trở về sống với cha. Mỗi lần về phép, tôi đều ở lại nông trại chơi với Tom, cỡi ngựa và tập chăn bò. Hắn có thể đi lại chút đỉnh với đôi nạng gỗ rồi. Và mỗi tuần đều phải đến "clinic" để tập đi như trẻ con mới lớn. Mặc dầu còn yếu ớt lắm, nhưng ít ra thì Tom đã thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần. Linda đang học ở xa, theo đuổi văn bằng Bác Sĩ Thú Y. Nàng có về thăm Tom thường xuyên, thỉnh thoảng cũng ghé thăm Mẹ và hỏi về tôi.

    ***

    Cuối cùng, thì tôi cũng được giải ngũ, lành lặn trở về với Ba Mẹ và ghi danh học tại UT (University of Texas at Austin) rồi UTMB (University of Texas Medical Branch at Galveston). Tôi muốn trở thành một Physical Therapist để mai sau làm trong các bệnh viện quân đội hay mở phòng mạch tư giúp đỡ cho các thương phế binh. Tôi biếu Mẹ tất cả số tiền dành dụm được trong 4 năm quân ngũ để Mẹ làm tiền đặt cọc mua căn nhà đầu tiên của gia đình.

    ***

    Kể từ ngày Tom bị thương trên đỉnh Torkham đến nay đã qua hơn 10 mùa xuân. Thằng Tom ốm yếu, nay đã khỏe mạnh lại nhiều rồi. Hắn giúp cha mở mang thêm nông trại. Đất đai và đàn bò của gia đình nó cũng to lớn ra gấp bội. Con Honey Bear quá già nên đã ra đi vĩnh viễn. Lần đó, tôi giúp thằng Tom bọc nó trong một tấm vải mới và chôn gần chiếc hồ trong nông trại. Thằng Tom khóc hết mấy ngày, còn tôi thì đọc kinh, niệm Phật cầu xin cho nó mau siêu thoát; cho kiếp sau nó sẽ được đầu thai vào chốn an nhàn.

    Lúc này, tôi đã ra trường với mảnh bằng Doctor Of Physical Therapy và mở phòng mạch ngay trong thành phố mà tôi đã trải qua thời niên thiếu với Tom. Nó tới thăm tôi mỗi ngày để được tôi hướng dẫn, tập tành.

    Một lần nữa, mùa xuân ấm áp lại trở về trên thành phố nhỏ bé thân yêu của chúng tôi. Mấy cây đào nở rộn ràng sau vườn. Có đủ cả bích đào, hồng đào, bạch đào, anh đào. Mấy cây tuyết lê, mận, cũng không chịu kém, khoe hoa trắng tinh giỡn cợt với gió xuân. Ba tôi không còn đi làm nữa, mỗi ngày ông thơ thẩn ngoài vườn với mấy chậu lan và hàng chục cây sơn trà đủ màu sắc. Năm nay thời tiết không lạnh nên sơn trà nở đúng vào dịp xuân sang.

    ***

    Sáng mùng một Tết, như thường lệ mỗi năm, tôi đang lui cui sửa sang lại mấy chậu cúc Mẹ mới mua hôm qua và sắp lại hoa quả, bánh chưng trên bàn thờ để chuẩn bị đưa Ba Mẹ đi lễ Chùa thì có tiếng chuông cửa reo lên inh ỏi. Thằng Tom với khuôn mặt rạng rỡ như ngày nào đang đứng bên cạnh Linda. Cô ta hôm nay mặc một chiếc áo dài VN màu mỡ gà vàng tươi. Thấy tôi có vẻ ngỡ ngàng, hắn trịnh trọng trao cho tôi một tấm thiệp.

    Tôi la lên:
    - Ba Mẹ ơi, ra đây mà xem ai đến nhà mình nè!

    Tôi mở tấm thiệp ra đọc và reo lên cùng với Mẹ:
    - Bác Sĩ Thú Y kết duyên với ông chủ trại. Thật là trên cả tuyệt vời!

    Tôi quay qua, chọc Mẹ:
    - Mẹ nhìn kỹ xem, có phải con dâu ViệtNam của Mẹ không?
    .......

    o0o
    _(Nguyễn Thạch-Hãn)

    Lời cảm ơn của tác giả: Cám ơn anh "Mũ Xanh Nguyễn Viết Bích", đã chuyển cho tôi câu nói cuối cùng của em tôi: “Tụi nó tràn lên đông quá mày ơi!” lời nói đó vang mãi trong tim tôi. Truyện ngắn này tôi xin tặng anh. __(Nguyễn Thạch-Hãn)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  3. #3
    Lời giới thiệu của toà soạn Việt Báo:

    Bài số 2871 -1628971- vb3024110
    Đây là một chuyện tình cuối đời, vui vẻ và tỉnh thức trước cửa tử sinh. Tác giả là một họa sĩ viết văn định cư tai Pháp. Năm 2005, cô nhận giải hội họa Pháp lần thứ hai và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ.

    Bài viết đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Canh Dần 2010 và đã khiến nhiều độc giả bầy tỏ sự xúc động. Ông Nguyễn Đăng, viết trong email ngày 9-2-2010, “Sáng nay nhận Việt Báo có bài "49 ngày với em", tôi đọc một mạch. Rất xúc động về mối tình thật đẹp... Tôi đã học được một vài điều về tình yêu, khổ đau, cuộc đời, sự sống, cái chết qua bài viết này của chị.”

    Trong email ngày 16 tháng Hai, cô Diệu Hoa viết, “Em là độc giả của Việt Báo. Em đã nín thở đọc “49 Ngày Với Em”. Bây giờ em đã hiểu sự mầu nhiệm của 49 ngày rồi. Tiếc quá, phải chi em biết điều này sớm hơn. Mẹ em mất hồi hai năm trước.”



    ____49 Ngày Với Em___
    (Tác giả: Lê Khánh Thọ)

    1. Carrol
    Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó, mặc dù phụ nữ Việt nam "cao giá" nhưng mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi mang phận khù khờ nên vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. "Xuất giá tòng ...thê", mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái vừa được 5 tuổi, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.

    2 - Minie
    Đọc địa chỉ "minie5....@" qua người bạn thân giới thiệu, tôi tính ra năm nay nàng 53 cái xuân vàng. Tuổi này hồi đó má tôi nhai trầu nhổ nước miếng đỏ lòm.

    Tôi ngắm hai tấm ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Hình đầu tiên nàng mặc áo thun xanh thẫm bó sát, vùng ngực khoét sâu lồ lộ hai trái cam trông ngồ ngộ. Tai đeo bông lủng lẳng bự tổ chảng. Đôi môi dày tô son đỏ láng lườm. Nàng ngồi bên cạnh đám bạn cả nam lẫn nữ, trước mặt đống vỏ chai bia ngổn ngang trên bàn trong bối cảnh “tuổi chiều thác loạn”. Tấm hình gởi sau, nàng mặc quần đen, chemise dài tay cổ bẻ. Mặt mũi nàng nhợt nhạt thiếu phấn son đứng bên cạnh các trẻ mồ côi Việt nam, bối cảnh “hoa úa rụng sân chùa”.

    Mail qua - mail về tương đắc, bỗng nhiên mất liên lạc nhau hai tuần lễ, tôi bị chứng hồi hộp mỗi khi mở mail.
    Houston: Hello Minie,
    Mình tôi ngồi với đìu hiu
    Mù tăm, biệt tích…mất tiêu em rồi !
    Tơ vương!?

    A ha ha, sáng nay có mail Minie. Tôi cứ lo nàng trốn luôn. Ngậm điếu thuốc chưa vội châm lửa, tôi hí hửng lướt qua những dòng chữ:

    France: Salut anh Tốt !
    Em mới đi Việt nam về.
    Xin lỗi anh, em gián đoạn mail vì em đang bận rộn giải quyết một vấn đề mà em đã hùn vốn tình cảm. Em đã không sáng suốt nghĩ ra được rằng người đàn ông cùng lối xóm hồi thơ ấu, sau nhiều năm sống dưới chế độ Cộng sản, đã có cách tính toán cư xử làm em vô cùng thất vọng. Lâu nay em đi tìm mà vẫn chưa được gặp người trong mộng.
    . . .
    Houston: Hi Minie,
    Ở đời, chẳng dễ gì gặp được người trong mộng đâu em! Trong tình cảm, người ta lại thường dè xẻn, mặc dù tình cảm là thứ càng tiêu hoang lại càng giàu. Dĩ nhiên, không ai muốn trao duyên lầm tên tướng cướp. Không đi thì khó mà đến, không hôn con cóc làm sao biến nó thành hoàng tử. Trong con cóc nào cũng có hoàng tử, chỉ chờ có nụ hôn thôi. Không lẽ, em duỗi chân nằm đợi tuổi già rêu phong cho đến ngày trở về cát bụi!?
    . . .
    France: Salut anh Tốt,
    Em thử hôn con cóc ở Việt nam từ 4 năm nay, hy vọng nó sẽ biến thành hoàng tử. Ai ngờ cóc vẫn là cóc. Hè năm nay em còn bị cóc cắn te tua nữa đó. Em sẽ không vì sợ mà trốn cóc. Em sẽ lạc quan như lời anh khuyên nhủ, sẵn sàng hôn thử con cóc khác...
    . . .
    Houston : Hi Minie,
    Hạnh phúc không hề là món quà tặng đương không, tựa như người bên cạnh dọn cỗ sẵn cho mình ăn, không vừa miệng thì la làng thay vì bỏ một bàn tay vào xào nấu phụ.
    Minie ơi, em có biết mỗi ngày anh ngắm hình của em. Còn ăn tiền lắm đó. Together, we can make it! Mi em

    Sau 6 tháng với gần 200 mails tán tỉnh, tốn mấy chục thẻ điện thoại, nghe nàng nói nhiều hơn tôi nói, Minie đồng ý gặp mặt tôi. Tôi hẹn bác sĩ khám răng, khám tổng quát. Đến chợ mua vớ và đồ lót trắng tinh, chờ giờ lên máy bay...

    3- Gặp gỡ - France
    Minie bằng xương bằng thịt trước mặt tôi. Điểm đầu tiên "coi được" là nhờ đầu tóc nhuộm nâu hợp với khuôn mặt và bộ đồ đúng mode bó sát thân hình tròn trịa, chưa đến nổi phát phì như Carrol. Hai vết dài hằn sâu hai bên miệng nàng in dấu thời gian tàn ác. Tôi không thất vọng, trái lại cảm giác thân quen tự bao giờ tràn ngập trong tôi niềm bình an kỳ lạ. Không biết diễn tả bằng lời, tôi âu yếm nói với nàng qua ánh mắt. Mấy mươi giây trôi qua, nàng bẽn lẽn lãng tránh, gương mặt đỏ rần kiểu nữ sinh biết yêu lần đầu. Nếu bắt chước tiểu thuyết lãng mạn, thì chàng thanh niên hào hoa tuấn tú sẽ nâng cằm người đẹp lên, trong khi mắt nàng từ từ khép lại, đôi môi hé mở chờ đợi một nụ hôn nồng cháy. Khổ nỗi, niềm xao xuyến dâng trào mãnh liệt quá khiến tôi bối rối, tôi bật tiếng cười khan và xổ đại một câu:

    - Chời ơi, già rồi còn bày đặt đỏ mặt!

    Nàng cười khúc khích, ngúng nguẩy:

    - Hihi, anh đừng nhìn em!

    Tôi ôm nàng vào lòng, nàng không chống cự, đồng lõa ép sát vào người tôi. Nhịp tim tôi đập loạn xà ngầu.

    Tôi yêu tiếng cười của nàng. Tiếng cười hồn nhiên tắm mát tâm hồn tôi vốn lâu nay cằn cỗi. Người vợ Mỹ không có được tiếng cười tràn đầy sức sống đó, kể cả những năm đầu tiên bả còn mạnh khỏe. Nàng khen giọng nói Sài Gòn của tôi quyến rũ và tôi có lối kể chuyện tiếu lâm hấp dẫn khiến tôi vô cùng ngạc nhiên về tài năng chưa từng được ai khám phá. Sau mỗi câu chuyện, nghe giọng cười dòn dã của nàng thay cho lời khen thưởng, tâm hồn tôi phơi phới. Để chứng tỏ tài nghệ, tôi mất nhiều thì giờ lên Net sưu tầm truyện ... cấm đàn bà.

    Trước hôm tôi về lại Mỹ, nàng ngắm nghía xấp hình tôi và nàng đi chơi Paris, đang cười nói vui vẻ nàng bỗng ngậm ngùi:

    - Em già hơn trong hình anh hé!?

    - Ờ.

    - Phải chi em đẹp giống trong hình cũng đỡ. Thật sự em xấu anh há!?

    - Chớ còn gì nữa!

    Im lặng mấy giây và hai vai nàng run nhẹ. Lần đầu tiên tôi thấy nước mắt đàn bà rơi, tim tôi bỗng nhiên thắt lại.

    - Xấu đâu có sao đâu em!

    Lời an ủi vụng về khiến nàng nổi giận:

    - Người ta nói: “Bất cứ người đàn bà nào cũng đẹp trong đôi mắt của người yêu”. Rõ ràng là anh không yêu em.

    - Chời ơi, em nghe gì mấy thằng cha ba xạo bày đặt xổ ranh ngôn. Tại em xấu thì anh nói em xấu.

    Nàng hất tay tôi khỏi vai, giọng lạnh lùng:

    - Từ nay về sau, em chỉ xem anh là bạn.

    Về lại Mỹ, sau nửa tháng cầu hoà vẫn không ăn thua gì, tôi vào thư viện Hoa Sen, miệt mài nghiên cứu Phật pháp và forward tới tấp, cốt ý mượn lời vị tha của các bậc đạo sư thay lời giúp tôi, đồng thời tôi gọi phôn tán thêm:

    - Em hổng hiểu gì hết, đừng giận anh nữa cưng à! Em có biết "Thập trọc nhất thanh" là quý tướng, còn "thập thanh nhất trọc" là phá tướng? “Thập trọc nhất thanh” nghĩa là 10 phần tướng xấu mà ở trong lại ẩn 1 quý tướng thì như đá ẩn ngọc quý. Đấy là trường hợp của em. Còn tụi tài tử đẹp dàn trời nhưng thuộc về “thập thanh nhất trọc”, nghĩa là 10 phần tướng tốt đẹp, lại ẩn bên trong một tướng rất xấu, cho nên gọi là phá tướng.

    Nàng phì cười:

    - Bộ uống rượu đế sao mà hôm nay xổ Nho dữ vậy anh?

    Tôi nghỉ việc một tuần bay qua Pháp. Đúng như tôi hy vọng, nàng hiểu sự trở lại Pháp cấp tốc chỉ sau ba tuần lễ xa nhau là bằng chứng hùng hồn cho tình yêu “nặng ký” của tôi.

    Một tuần lễ hạnh phúc trôi qua thật nhanh, tôi bịn rịn giã từ nàng, trở về Houston với công việc. Cạnh computer, tấm hình tôi ôm vai nàng đứng trước tour Eiffel lồng lộng gió đã xác nhận tôi đang yêu và được yêu. Từ nay tôi được nói và được nghe tiếng Việt Nam. Tôi sẽ cùng nàng du lịch khắp Âu Châu và về Hội An, thăm nơi nàng chôn nhau cắt rún. Mấy thằng cha thi sĩ “vì em tôi làm thơ”, nhưng vì em tôi sẽ làm overtime chết bỏ!

    Mỗi lần nghe tôi làm overtime, nàng phản đối:

    - Overtime một vần với die. Anh đừng cố quá mà quá cố.

    4. Houston
    Tôi báo tin nàng sẽ qua ở với tôi 3 tháng, con gái tôi, Jenny phụ tôi dọn dẹp đồ đạc của mẹ nó, mấy tấm hình tạm cất vào nhà kho. Ngày đầu tiên, nàng thắc mắc:

    - Ủa, anh theo Phật giáo nhưng tại sao em không thấy bàn thờ Phật?

    - Mình ở với người ta thấy cũng kỳ.

    Nàng trợn mắt:

    - Vợ con anh chớ ai mà anh nói “người ta” !?

    Tôi không trả lời, bàng hoàng vì câu hỏi của nàng. Câu hỏi như nhát búa tỉnh thức nỗi đau âm ỉ từ mấy chục năm qua. Tôi làm việc nuôi vợ con; căn nhà của tôi trả góp nhưng tôi không hoàn toàn nghĩ là của tôi. Mặc cảm ăn nhờ ở đậu như một vết xâm khó gột rửa. Có phải vì đây không phải là quê hương tôi!? Có phải vì Carrol và con gái tôi không cùng chung ngôn ngữ!?

    Từ ngày có nàng, tôi vặn đồng hồ báo thức sớm hơn 15 phút, để được ôm ấp nàng trước khi đi làm và nói những câu thuộc loại không giống ai:

    - Tội nghiệp hông! Tự nhiên ở đâu bên Pháp qua đây cho người ta dzày dzò!

    Mỗi sáng tôi được nàng trao ly cam tươi tự tay nàng vắt. Tôi nao nao xúc động nhìn bóng dáng nhỏ nhắn qua kính chiếu hậu, bàn tay vẫy tiễn đưa tôi đến sở làm. Đến từng tuổi này, chưa bao giờ tôi được hưởng loại cảm giác tình cảm đậm đà đó.

    Tôi xin nghỉ hai tuần lễ cùng nàng du hí Cali. Từ Houston tôi lái xe xuyên bang, ngày đi đêm nghỉ motel. Tại Las Vegas, chúng tôi làm lễ cưới đơn giản. Nhìn ngón tay nàng mang nhẫn mới, tôi bồi hồi cảm động tấm lòng nhân đạo đã chọn nhẫn cưới chỉ hơn 100 đô la. Đêm động phòng hoa chúc… lần thứ mấy mươi, nàng âu yếm hôn tôi:

    - Con cóc đã biến thành hoàng tử rồi thì cứ hoàng tử luôn nha. Xớn xác là em lột da cóc đó!

    Về đến Houston, nàng hối tôi ra phố lựa tượng Phật Quan Âm và ghé chợ Mỹ mua bó hoa cúng Phật. Nàng yêu cầu tôi chọn thêm cho Carrol bó hoa bả thích hồi còn sống. Sau khi lập bàn thờ Phật trên bệ lò sưởi, nàng kéo bàn salon ra giữa nhà, sắp trái cây và chưng bó hoa hồng tươi. Nàng nói:

    - Em là kẻ đến sau, vô nhà người ta mình phải xin phép đàng hoàng. Anh vái bả bằng tiếng Mỹ, nói rõ cho bả biết là bả đã quá cố rồi, có thương yêu anh thì còn nhiều kiếp khác. Anh xin phép bả cho anh lấy vợ. Em sợ bả lưu luyến anh nên vẫn còn ở nhà này, nhất là bả chết trong giấc ngủ ngay trên giường của bả. Anh vái xong đến phiên em. Em nói tiếng Mỹ bồi chắc bả cũng hiểu. Ăn thua anh dỗ bả trước cho thật hay.

    Khói hương nghi ngút, tôi cầm ba cây nhang rưng rưng nước mắt. Tình nghĩa hơn 25 năm với người vợ Mỹ hiền lành xấu số làm sao tôi quên được! Tôi nao nao xúc động vì nàng giúp tôi cởi mở một gút mắc tâm tình.

    Ngày nọ ra chợ Việt, tình cờ tôi gặp lại Đản, người bạn cũ báo tin cho tôi biết là tối hôm đó tụi nó tổ chức họp mặt bạn bè. Tôi nôn nao khi có dịp được gặp lại nhóm bạn không quân. Tòng từ Dallas, mặc dù sức khỏe bấp bênh cũng chịu khó lái xe mất nhiều tiếng đồng hồ đến. Cặp mắt sáng rỡ khi nhận ra tôi, giọng miền Nam oang oang chọc phá:

    - Tưởng ai, khỏe không Tốt lèn? Thằng Đản phôn nói có người muốn gặp tao, không ngờ là mầy..

    Đọc trong ánh mắt bốn thằng bạn cũ tràn ngập nổi vui mừng tôi có vợ, nhất là vợ Việt Nam, điều này cũng như 1 lời hứa hẹn rằng tôi sẽ không biệt tích giang hồ như trường hợp với người vợ Mỹ. Bốn bà xã của họ cũng vui vẻ chấp nhận nàng. Tôi thầm nghĩ…nếu tôi dại dột rinh con vợ nhí Việt Nam nào qua đây thì một sự xung đột về nhan sắc và tuổi tác với bốn nữ tướng kia dễ bề bùng nổ, tôi sẽ khó lòng trở về vòng tay ấm áp với tụi bạn cũ.

    Vừa trở lại nhà, Đản vui vẻ phôn:

    - Ê Tốt lèn, "Má" mầy để quên cái bóp, khi nào rảnh ghé tao lấy.

    5. Tai họa
    Ngày nàng sắp sửa trở lại Pháp, tôi phải vào bệnh viện. Bác sĩ quyết định khẩn cấp mổ, cạo chất vôi bám trên cột xương sống, là nguyên nhân chận dây thần kinh khiến chân tôi bị tê liệt. Vết mổ của tôi bị nhiễm trùng làm mủ phải mổ đi mổ lại bốn lần. Ngày tái khám, bác sĩ Mỹ báo tin tôi bị Hépatitis B. Chết điếng cả người, tôi phôn hối nàng đi thử máu. May mắn là mười năm trước nàng đã chích ngừa miễn nhiễm.

    Vợ chồng con gái tôi đi làm cả ngày. Đến giờ ăn, tôi mệt nhọc ăn đại món gì trước mắt, hoặc lái xe ra ngoài ăn tiệm. Bụng tôi trương phình lên và ngẹt thở, phải vào nhà thương hút nước khẩn cấp. Bác sĩ báo tin tôi cần thay lá gan mới (hậu quả lạm dụng trụ sinh trong bốn lần mổ). Bầu trời quay cuồng sụp đổ. Không, thà chết chớ tôi không muốn kéo dài cuộc sống èo uột như người vợ Mỹ - mỗi tuần phải vào nhà thương vài lần và rốt cuộc cũng không thoát khỏi tử thần. Ngày đó, Carrol còn có con gái, còn có tôi bao bọc, phần tôi chẳng có gì ngoài gánh nặng bệnh tật. Tôi quyết định về Việt nam ở với chị tôi để chữa trị bằng thuốc Nam.

    6. Việt Nam
    Tôi trở về căn nhà thời thơ ấu của ông bà ngoại tôi vùng Phú Nhuận. Ba bà dì không chồng ở chung trên căn nhà chính, gia đình chị tôi ở căn nhà ngang. Tôi được ở trong một phòng nhỏ bằng nửa căn nhà bếp của tôi bên Mỹ. Đây là căn phòng chị tôi xây thêm ở góc sân để má tôi dưỡng bịnh lúc cuối đời. Mỗi bề 3m, giường chỉ cách toilet hai bước chân, rất tiện lợi cho người bệnh khó kềm hãm vấn đề vệ sinh như tôi. Cũng may là phòng có máy điều hòa không khí.

    Một hôm, nàng điện thoại trấn an tôi:

    - Mấy đứa em của em nói anh đừng lo. Báo Cali đăng rần rần có ông nghệ sĩ tên T. bị ung thư, bác sĩ Mỹ chạy, ổng về Việt nam chờ chết, không ngờ số ổng hên gặp thầy chữa thuốc Nam nào đó giỏi dàn trời. Nghe nói ổng lành bệnh xong cưới một con bồ nhí, mới đẻ đứa con trai.

    Những loại tin tức này gây phấn chấn cho nàng và cả cho tôi. Tôi không cần con bồ nhí, tôi chỉ cần nàng, người đàn bà tuổi nhai trầu thích nghe tôi kể chuyện tiếu lâm, người mang đến cho tôi niềm hạnh phúc.

    Hai giờ trưa, tôi ngồi trên băng ghế đá trong sân, đọc báo, uống càfé, thình lình nghe tiếng xe hai bánh ngừng trước cổng nhà. Một bà dáng thấp bé, mặt bịt khăn, đầu đội mũ an toàn tròn vo, áo khoác rộng dài tay, kiểu thời trang Sài Gòn làm xấu thành phố. Tôi liên tưởng ngay đến con vịt đẹt. Con vịt đẹt tiến lại gần tôi, lột mũ và khăn che mặt:

    - Anh biết ai đây không?

    Minie của tôi đang nở nụ cười Mona Lisa. Nàng hôn nhẹ lên má tôi. Tim tôi thót lại:

    - Ủa, sao em nói còn hai tuần nữa mới dzề!?

    - Em đổi vé, nói trước làm chi, để anh ngạc nhiên chơi!

    Chị Hai mời nàng vào phòng khách...

    Giọng nàng dõng dạc với tôi:

    - Em nghe anh bị hút nước trong bụng, em nghĩ là bịnh tình trầm trọng nên em đổi vé về sớm hơn. Em gái em ở Cali nói người ta đồn có ông thầy Châu Đốc chữa ung thư gan giỏi lắm. Em dẫn anh đi nghen anh!

    Tôi không thích bị ai dẫn dắt; trả lời với một giọng cương quyết, tôi bảo:

    - Không.

    Nàng lục lọi trong bao nhựa đem theo, rút tờ báo Phụ Nữ ra, đọc lớn tiếng:

    - “Bác sĩ cho biết bịnh ung thư vẫn có người sống thêm 10 năm 14 năm, vẫn sinh con nhờ thuốc men và "chế độ" ăn uống cẩn thận”. Trên internet bác sĩ Pháp cũng viết y chang, em có ghi rõ nhân chứng, vậy buổi trưa em nấu và em cùng ăn với anh. Anh đọc nè.

    - Khỏi cần đọc. Anh hổng phải ung thư.

    - Thì anh bị gan nặng cũng phải chữa chớ. Anh thương em thì chìu em chút đi mà.

    Giọng nàng mềm như bún kèm theo gương mặt thiểu não. Tôi mềm lòng nói nhỏ:

    - O.K, đi thì đi.

    Tôi mệt mỏi vào phòng nằm nghỉ. Tôi ôm nàng vào lòng, rưng rưng cảm động. Giường chật hẹp chỉ đủ chỗ cho một người ... rưỡi. Muốn nằm thẳng người, nàng bắt buộc trồi lên đầu tôi, cánh tay phải sát vách tường duỗi thẳng dọc theo thân hình và cánh tay trái duỗi ngang. Tôi thầm thì:

    - Cái mặt thấy ghét! Cho anh dzớt cái nha em!

    Lập tức nàng hốt hoảng:

    - Thượng mã phong đó!

    Tôi thở dài. Quả thật tôi không tin tưởng "chú A37" của tôi cho lắm! Sợ chú bay không ra bay, chỉ làm mất mặt đàn anh... Tưởng tôi buồn, nàng xoa đầu trọc an ủi:

    - Để khi nào anh lành bệnh rồi muốn dzớt bao nhiêu thì dzớt!

    Buổi tối nàng về nhà em gái. Sáng hôm sau nàng đem tới đồ ăn nấu sẵn. Sau hai lần bị hút dịch tràng, chị dọn cho tôi ăn một mình, chén bát để vào một mâm riêng. Tôi có cảm tưởng mọi người e dè tôi vì sợ căn bịnh truyền nhiễm nhưng cố gắng giữ lịch sự tối thiểu. Các cháu lễ phép chào cậu rồi lẩn tránh thật nhanh. Ông anh rể lạnh nhạt, chỉ trừ chị Hai gần gũi tôi nhiều nhất, nhưng chị em hỏi han vài câu là hết chuyện nói, nhất là chị cũng đang khổ sở về bịnh đau khớp chân của chị.

    Đi Châu Đốc về, cả nàng và tôi đặt nhiều hy vọng. Ba chén thuốc Nam uống mỗi ngày đưa tôi đến tình trạng đi tiêu, đi tiểu liên miên. Theo lời thầy thuốc, nàng cho tôi ăn cá sông - không được ăn cá biển. Cử dầu, gia vị, nước mắm, chỉ trừ được thêm nghệ và gừng. Rau luộc cũng lạt nhách. Tôi quạu quọ:

    - Em đừng nấu nữa, để chị anh nấu.

    - Vậy buổi trưa, chị anh nấu cho em ăn luôn à!?

    - Thì em ăn xong hãy tới.

    - Không.

    - Tại sao em ăn chung với anh?

    - Cho vui. Anh thấy chưa, em ăn giống như anh dễ dàng mặc dù em không bịnh.

    - Em khác, anh khác!

    - Khác ý chí. Cho dù anh không muốn, em cũng cứ nấu đem tới, ăn hay không ăn là quyền của anh.

    Tôi cau mặt lạnh lùng:

    - Em đừng tới nữa, em về đây làm anh mất tự do.

    Ba bà dì và chị tôi nói tôi tên Tốt nên số tôi tốt, bịnh gần chết còn có "hồng nhan tri kỷ" cận kề săn sóc. Bụng tôi xẹp xuống, da mặt hồng hào hơn trước. Mỗi 4 giờ rưỡi sáng, tôi chống walker bước chầm chậm quanh những con đường gần nhà. Mặt trời chưa lên, thành phố còn ngái ngủ thoang thoảng mùi cống rãnh. Thỉnh thoảng, một con chuột ló đầu dáo dác. Vài quán hàng chuẩn bị mở cửa, xe chạy thưa thớt. Cho dù Sài gòn thay đổi, nhưng những con đường hồi nhỏ tôi thường đi qua tuần tự trở về sống động trong trí nhớ.

    Những buổi sáng cảm thấy khỏe, tôi ra trước sân ngồi đọc báo. Nghe tiếng xe ôm ngừng trước cửa, xuất hiện dáng dấp người đàn bà thấp bé tay xách túi đồ ăn, bịt mặt như dân khủng bố, tôi vui vẻ chọc:

    - Con dzịt đẹt hôm nay sao tới trễ dzậy!

    Nàng trả đũa:

    - A ha, ngày nào cũng xô đuổi người ta, rứa mà tới trễ chút xíu anh "sáng chói" (sói trán) cũng để ý. Con dịch đẹt tới trễ vì nghe điện thoại bên Mỹ gọi. Ba hỏi thăm anh đó.

    Ngồi bên nhau không lâu, cứ khoảng 15 phút tôi phải lết vào toilet. Mỗi lần trở lại sân với nàng, nhìn khoảng trời xanh, nổi bực bội tù túng khiến tôi mất tự chủ. Vào phòng ăn, nàng xin phép cháu tôi mượn bếp. Vừa luộc rau vừa kể:

    - Hồi sáng em bị trợt té trong phòng tắm, tay bầm đen nè!

    Mặt tôi đanh lại:

    - Sao không chết phứt cho rồi!

    Hai đứa cháu lớn nhìn nhau nhướng mắt ngạc nhiên về lời độc ác. Tôi chờ nàng nổi cơn thịnh nộ nhưng sắc mặt nàng vẫn không thay đổi. Tôi chê nàng không biết xới cơm, tôi chê cá tanh, tôi đòi thêm nước mắm. Nàng điềm đạm:

    - Em biết anh rất bực bội và anh không thể trút giận vào ai ngoài em cả. Nếu điều đó giúp anh khỏe hơn thì anh cứ việc tiếp tục, còn như anh muốn chọc tức để em không tới nữa thì vô ích thôi.

    Vẻ bình thản của nàng khiến tôi càng khổ tâm. Ăn xong, tôi vào phòng trước, một lát sau nàng vào nằm kế bên tôi, tay trái nhè nhẹ xoa đầu trọc. Tôi hất tay nàng:

    - Đừng đụng, anh. Anh quăng em ra cửa bi giờ.

    Như trò chơi con nít, tôi hất tay nàng, nửa phút sau nàng vẫn tiếp tục vuốt ve cái đầu trọc. Sừng sộ vẫn không ăn thua gì, tôi mệt mỏi chịu thua. Một lúc sau tôi quay người, đầu nép sát vào ngực nàng, tôi nghe rõ tiếng tim nàng đập và giọng nàng nghèn nghẹn:

    - Gan anh nát bấy rồi!

    Tôi nổi tức:

    - Em nói gì kỳ dzậy!?

    - Anh cứng đầu thì em nói sự thật luôn. Anh bị ung thư thời kỳ chót. Hôm anh mới về, chị Hai dẫn anh đi bịnh viện hút nước bụng hay dịch tràng gì đó, bác sĩ Việt Nam đưa kết quả ghi chữ K có nghĩa là giai đoạn cuối cùng, có nghĩa là cancer. Bây giờ tâm hồn anh đang giao động, hãy suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định. Anh muốn ăn ngon để rồi chết sớm thì cứ yêu cầu chị Hai nấu. Em yêu anh, em muốn anh sống cho dù anh tật nguyền. Theo kinh nghiệm, những người bị cancer mà ăn thả dàn đến khi hấp hối sẽ rất đau đớn.

    Nàng nghẹn ngào, vội vã rời khỏi phòng. Tôi ngồi ôm đầu như nghe đất trời sụp đổ. Cancer, ung thư. Trời hỡi! Hạnh phúc mới lóe sáng đã vội vã tắt ngúm. Bụng tôi quặn đau, mới đứng lên, chưa kịp vào toilet, chất lỏng tanh tưởi đã tuôn ào xuống hai ống chân teo tóp.

    Rửa ráy và thay đồ xong, tôi chống walker ra sân. Nàng đang ngồi trên băng ghế, buồn bã nhìn vào khoảng không. Tôi hút xong cả gói thuốc vẫn chưa trấn tĩnh. Nàng dịu dàng để bàn tay lên đùi tôi, một bắp đùi nhăn nheo chỉ còn da bọc xương. Tôi bùi ngùi nói nhỏ:

    - Coi chừng cancer lây bịnh đó em!

    - Em nghi anh bị cancer khi còn ở Pháp, chính vì vậy em đổi vé về sớm hơn....

    - Số mệnh đã như dzậy thì cũng đành chịu thôi!

    - Em không đồng ý. Anh và chị anh bị Nho giáo chi phối. Khổng Tử cho rằng "Tử sanh hữu mạng, phú quí tại thiên", rằng con người không thể cãi lại mệnh Trời, con người cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Khổng Tử cũng nói: "bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã", không hiểu mệnh Trời, không xứng đáng là người quân tử (Luận ngữ - Thiên Nghiêu viết). Anh có nhận thấy Nho giáo triệt tiêu mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định không!? Hồi còn đi học, có một số điểm em không phục Khổng Tử, nhất là ổng đưa ra những nguyên tắc bất công đối với phụ nữ.

    - Còn theo Phật giáo, thì con người tạo ra nghiệp sẽ không thể và không bao giờ trốn thoát được những nghiệp do mình gây tạo ra.

    - Anh nói đúng, nhưng điểm khác nhau giữa nghiệp (Phật giáo) và số mệnh (Nho giáo) ở chỗ là "nghiệp" do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi, được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người thông minh và khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp, nhưng nếu sống buông thả, đồi trụy thì trở nên ngu đần, ốm yếu. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy nghiệp tốt của người này. Ngược lại, một người với quả báo Mãn nghiệp bị bịnh tật nhưng nhờ biết cách bảo vệ sức khỏe vẫn chiến thắng bịnh tật, như Stephen William Hawking – nhà Vật lý người Anh của thế kỷ hôm nay, tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn không phải tiêu cực, yếm thế như Nho giáo.

    Nàng bóp nhẹ tay tôi và nói tiếp:

    - Một tháng rưỡi trước, bác sĩ nói với chị Hai rằng anh chỉ còn sống được ba tháng, khuyên chị cứ cho anh ăn những gì anh muốn. Vậy tính ra anh chỉ còn một tháng rưỡi nữa thôi. Em nghĩ nếu anh ăn uống cẩn thận, sự sống sẽ được kéo dài. Chị anh muốn dấu anh vì không muốn anh đau khổ. Chị Hai thương anh theo lối của chị, em thương anh theo lối của em. Em muốn anh biết rõ sự thật. Em muốn anh can đảm, không bi thảm hóa và lẩn tránh nó, vì như vậy giai đoạn hấp hối sẽ thê thảm hơn. Theo quan điểm Phật giáo, suy ngẫm để chuẩn bị cái chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết ảnh hưởng không nhỏ tới tính chất của tái sinh kế tiếp.

    Tôi bỏ bữa ăn tối, nằm gậm nhấm nỗi buồn trong bóng đêm. Ba chữ “tôi bị cancer” ngân nga mãi trong đầu từ trưa nay đã từ từ dịu xuống và tôi thiếp vào giấc ngủ.

    Cây mai trước ngõ trổ bông vàng rực rỡ. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên cành cây, ngước mắt thấy hai con chim nhỏ đứng cạnh nhau, tim tôi se thắt. 33 năm xa xứ, cái Tết đầu tiên trên quê hương chỉ đầy hương vị chua chát. Nàng ngồi bên tôi, nói:

    - May là mồng một Tết mà em có anh bên cạnh.

    - May cái gì! Anh bị cancer mà may cái gì!

    - May là hiện tại mình được gần nhau. May là số anh quá cha thiên hạ! Ngay tại thành phố Sài gòn mà nhà anh ở có vườn cây như vườn Thượng Uyển; hòn non bộ cá lội thảnh thơi, cây cối xum xuê mát rượi, chim hót và có cả đàn piano nữa.

    Bỗng dưng tiếng đàn im bặt, nàng ngoái cổ vào phòng khách la lớn :

    - Hay quá! Đàn nữa đi con.

    Thằng cháu nhỏ tập tễnh vào nghề, hứng chí dạo thêm vài bản. Tôi cười:

    - Đàn trật lất. Em đừng khen nữa để nó đi chơi chớ!

    Nàng nói tiếp:

    - Số anh y chang số Hoàng tử. Dưỡng bịnh có ba người đàn bà hầu hạ: em nấu ăn, chị anh sắc thuốc, em gái anh giặt quần áo. Còn muốn gì nữa! Mấy năm trước, em tới viện ung bướu Sài gòn thăm người bạn bị ung thư vú, em thấy hai người bệnh nằm chung một giường, có người nằm dưới đất, nóng nực hôi thúi như địa ngục. Thân nhân ngồi chò hỏ trong sân viện, mặt lo âu vì thiếu tiền hơn là vì lo cho người bệnh. Anh đẻ bọc điều chắc! Em thích câu nói “Con người đánh mất hạnh phúc thường là do mong muốn một hạnh phúc cao hơn hạnh phúc mà mình đang có”.

    Những lời nàng nói hình như có tác dụng mạnh với tôi, nổi bất hạnh uất ức trong tôi từ từ dịu xuống. Mồng hai Tết, tôi bồn chồn nhìn đồng hồ, gặp dì trước sân tôi buột miệng hỏi:

    - Dì thấy dzợ con tới chưa?

    - Chưa. Mày đuổi nó quoài sao giờ còn hỏi!?

    Tôi đuổi nàng vì tôi không muốn nàng khổ, nhưng nàng không tới thì tôi khổ.

    Hôm nay nàng tới trễ. Dọn đồ ăn ra bàn xong, nàng buồn bã báo tin:

    - Ba em mất rồi. Ba bị đứng tim bất ngờ.

    Tôi bàng hoàng sửng sốt. Ba nàng không bịnh hoạn gì mà! Đáng lý tôi phải là người đi trước ông.

    - Kể từ hôm nay em không ăn giống anh. Em sẽ ăn chay 49 ngày.

    Tôi theo nàng vào phòng. Nàng thổn thức, hai vai run nhè nhẹ. Tim tôi se lại. Ôm nàng vào lòng, tôi vỗ về:

    - Anh xin chia buồn với em...

    Bây giờ dưới mắt tôi, nàng chỉ là đứa con gái bất hạnh mang nỗi đau khổ của người con mất cha. Trong tôi bỗng lai láng niềm thương xót. Nếu không vì tôi, giờ này nàng đang trên đường qua Cali dự đám tang thân phụ. Tôi quên bệnh tật, cảm thấy có bổn phận phải an ủi nàng. Bàn tay gầy guộc của tôi vận dụng hết sức lực xoa nhè nhẹ tấm lưng mầu mỡ, tai tôi lắng nghe tiếng giảng kinh phát ra từ CD, điều mà trước đây tôi vẫn nghe nhưng không chú ý:

    “Đức Phật dạy: Thân bệnh nhưng đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể không thể làm được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta có thể làm được gì đó cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng giảm của đau đớn, nó đến và đi từng đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ đau. Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi từ nó. Chính nó là một cuộc thử nghiệm – Làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ ràng không có cái ngã thường còn nơi đây mà chỉ có sự thay đổi liên miên của sinh và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận..."

    Vai trò của 2 đứa tôi bỗng dưng đảo ngược… Một người bịnh cancer gần chết phải săn sóc người mạnh khỏe. Dường như Trời sinh ra tôi để phục vụ đàn bà, dù thân xác rã rời nhưng tôi cảm thấy vui vui nghe tiếng nàng ngáy đều. Vừa ôm nàng trong tay, vừa có dịp chú tâm những lời giảng kinh phát ra từ góc phòng...

    Tôi thuộc diện khổ đau do luyến ái. Cũng may, đây là người đàn bà tuổi xế chiều nhan sắc tàn phai, nếu luyến ái loại nhí xinh đẹp thì không biết tôi còn khổ đến cỡ nào!?
    ...

    Tâm trí tôi từ từ lấy lại thăng bằng. Sáng nay hiện rõ trên nét mặt khiến nàng chú ý:

    - Lâu ngày em mới thấy anh cười tươi hết xẩy!

    - Thở vào tâm tĩnh lặng
    Thở ra miệng mỉm cười
    An trú trong hiện tại
    Giờ phút đẹp tuyệt vời

    - Hôm nay Sainte Valentine, tụi mình qua càfé Du Miên nghen em.

    Nàng há hốc mồm ngạc nhiên.

    - Ơ hơ, em không nhớ. Sao lâu nay em rủ hoài anh không chịu đi!?. Đi, đi anh.

    Từ quán càfé, tôi chỉ cho nàng thấy mái ngói căn phòng của tôi khuất sau bụi chuối cuối sân. Nàng nhìn quanh và có vẻ thú vị với lối décor thiên nhiên. Cảm giác đem niềm vui đến cho nàng khiến tôi tạm quên bịnh hoạn. Tôi thèm càfé nhưng bị cấm nên phải gọi trà đá. Nàng hớp một ngụm sinh tố thơm, kể lể:

    - Em có người bạn ác ôn ở bên Đức, nghĩ rằng em có số sát phu.

    Tôi cười ha hả:

    - Chớ còn gì nữa! Ai đụng tới em là từ chết đến bị thương.

    - Bà vợ Mỹ của anh cũng chết nghe chưa, vậy là anh cũng có số sát thê đó. Vì mạng em lớn mới đè được mạng anh.

    Tôi vui vẻ lập lại:

    - Đụng tới em là từ chết đến bị thương! Anh cũng vì em mà thân tàn ma dại nè. He,he...

    - Anh nói kiểu mê tín dị đoan. Nghiệp anh cũng nặng lắm nên gặp người "hết xẩy" như em mà không được hưởng! Hihi, Anh không hiểu chi cả. Nghiệp xấu của anh đến lúc phải trả, nhưng nhờ có hiếu nuôi vợ bịnh hơn hai chục năm, do đó Ơn Trên ban thưởng em cho anh. Anh có thấy sự huyền bí là khi mổ xong anh lại tỉnh dậy cùng ngày em trở về Pháp, vé anh mua cho em từ bốn tháng trước tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy!? Anh thấy chưa? Vì sứ mạng em đã xong, em ở lại Mỹ vô ích nên em bay về Pháp ngay. Sự sắp đặt vô hình hay hết chỗ chê. Rồi bây giờ anh bịnh, em về Sài gòn với anh không phải vì em trả nợ kiếp trước mà em là món quà tặng quí giá của Ơn Trên cadeau cho người chồng nhân đức. Có thể hiểu đây là khởi nghiệp, anh đang mắc nợ em đó, hihi!

    Tôi phì cười:

    - Con dzịt đẹt môi dày chu chu, xạo thấy mẹ!

    Nàng lém lỉnh chu thêm miệng hô ra chọc ghẹo tôi.

    Mỗi khi nghỉ trưa, nàng mở CD "Tạng thư sống chết" của xứ Tây Tạng. Tôi nói:

    - Em mở quoài băng này dzậy em! Có phải vì thầy của em là dịch giả!?

    - Em không có máu phe đảng. Tại vì sách có giá trị, càng nghe càng thấm thía. Giọng thầy Tâm Kiến Chánh hay hết xẩy, giống y chang giọng của anh.

    Tôi không nói gì, lắng nghe giọng đọc của người đàn ông mà nàng xác nhận giống giọng mình. Nàng ôm tôi vào lòng, tay xoa đầu tôi nhè nhẹ. Mặt ép sát vào ngực nàng nhưng tâm tôi không gợn chút ái dục, cảm giác tin cậy một đồng đội không bỏ rơi tôi, sát cánh cùng tôi chiến đấu bên cạnh giờ phút vô cùng cam go. Chúng tôi im lặng suy ngẫm:

    "Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết. Điều đó có lợi cho sự tái sanh. Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sinh của họ vẫn hiện hữu. Thời gian kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là 7 tuần lễ. Tuy nhiên có người sau khi chết chỉ mất 2 giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác, đặc biệt những bậc thánh thiện hoặc những kẻ đại gian đại ác. Nhưng một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến 7 năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Đặc biệt vong linh trong cõi trung ấm 49 ngày có khả năng nghe, cảm nhận tư tưởng..."

    - Nếu em chết trước anh, em sẽ ở bên anh 49 ngày.

    Tôi hiểu nàng thầm nhắn nhủ tôi hãy thực hiện điều đó với nàng.
    Tinh thần tôi càng ngày càng thanh thản. Mỗi chiều tôi thường rủ nàng đi ăn chè đậu đen, đậu ván ở những quán cóc bên đường. Mỗi lần nàng lăng xăng chận xe sợ tôi bị tai nạn, tôi tức uất người. Tôi bắt nàng đi vào trong lề, bổn phận đàn ông là che chở đàn bà, tôi không thích nàng làm điều trái ngược. Sau vài lần nổi xung, nàng hiểu và để yên cho tôi giữ vị trí bảo bọc nàng. Một hôm nàng hỏi tôi:

    - Hồi trước anh có bồ với bà nào không? Đưa em địa chỉ, em dẫn bả tới thăm anh.

    - Anh không có bồ nào cả.

    Nàng ngạc nhiên:

    - Em xem hình hồi trẻ, thấy anh coi được lắm! Ít nhất anh cũng có dẫn một cô đi chơi chớ!

    - Hồi học lớp đệ nhất, anh có rủ một cô cùng lớp đi ciné.
    Mắt nàng thích thú sáng lên:

    - A, anh kiss cổ trong rạp ciné.

    - Hổng dám đâu! Anh chỉ khều mấy ngón tay thôi. Sau đó cổ giận anh.

    - Anh hiền queo, chỉ dám khều mấy ngón tay thôi à. Vậy mà giận à, vô lý!

    - Hổng phải. Hôm đó đông đảo chen lấn mệt hộc xì dầu. Gần hết phim cổ hối anh: “Đông người quá mình ra trước, hông thì chút nữa chen lấn hôi lắm!”. Anh nói :“Thì cũng đã hôi rồi !”.

    Nàng cười ngặt ngoẽo và láu lỉnh hỏi tiếp:

    - Vậy anh còn trinh với bà vợ Mỹ à!?

    Tôi phì cười:

    - Trinh cái lỗ rún. Hồi còn đi học, có thằng bạn dưới quê lên Sài gòn thuê nhà trọ, tụi anh hùn tiền bao một em nhím. Thời đó dzui thật là dzui!

    - Thanh niên mới lớn lên hầu như ai cũng vậy!

    Được nàng khuyến khích, tôi hứng thú kể tiếp:

    - Sau đó tụi anh thằng nào buổi sáng đi học bụng cũng đói meo, tại tiền dành để chích pénicilline. Hehe, thằng nào cũng đi cà náng. Ba anh hỏi, anh nói anh bị té xe đạp. Cả bọn té xe đạp. Xạo thiệt tình! Tụi anh còn phải năn nỉ bà y tá cùng xóm giữ bí mật dùm.

    Nàng cười nắc nẻ.

    - Hihi, đám anh em trai nhà em y chang đám bạn của anh.

    Tôi đổi đề tài:

    - Anh tính lành bịnh sẽ mua miếng đất vùng quê làm nhà ở. Anh sẽ nuôi vài con gà chạy lanh quanh cho dzui. Em chịu dzề ở với anh hông?

    - Không được đâu anh ơi, em ớn lắm! Anh là "Việt kiều", tụi công an sẽ tối ngày kiếm chuyện đòi “quà thông cảm”, hoặc dân xì ke đêm khuya tăm tối sẽ giết anh chỉ vì mấy chục dollars. Lành bịnh anh qua Pháp với em là tiện nhất.

    Có những ngày chán ngán bịnh hoạn, tôi lại nghĩ khác:

    - Anh biết đời anh tiêu rồi, em lo kiếm người khác đi.

    - Em già và xấu nữa ai mà lấy em! Chính anh cũng công nhận em xấu. Họa may nhờ anh phò hộ em...

    Nàng trả lời diễu cợt với ánh mắt láu lỉnh.

    - Cho dù anh không linh thiêng, em cũng đừng lo. Hoàng tử Charles mê bà già Camilla trong khi Diana đẹp tản thần. Em nên nhớ rằng trên đời này vẫn có những cha yêu đàn bà không phải vì nhan sắc.

    - Hơi hiếm! Nếu gặp một người nào đó giống như anh, em mới chịu.

    - Làm sao có người nào mặt mũi giống anh được!

    - Xí, ý em nói giống tính tình của anh kìa. Làm như anh đẹp trai lắm!

    Cả tôi và nàng cùng cười, quên hẳn mình đang ở trong hoàn cảnh mếu máo.

    Thấm thoát ba tháng trôi qua, chỉ còn vài tiếng nữa nàng lên máy bay trở về Pháp. Tôi ngồi trên giường, hai chân dạng ra ôm lấy nàng đứng giữa. Hai tay nàng không ngừng ve vuốt đầu tôi.

    - Sao em dzày dzò đầu anh quoài dzậy?

    Nàng áp sát đầu tôi vào ngực nàng.

    - Tại em không biết để tay ở đâu!

    Nàng cười khẽ nhưng tôi cảm giác những giọt nước mắt rơi trên da đầu trọc.

    - Anh đừng ăn bậy bạ nghen anh.

    - Ờ.

    - Lành bệnh qua Pháp ở với em, nhớ mua bảo hiểm sức khỏe loại du lịch.

    - Ờ.

    - Nếu, nếu…anh có mệnh hệ nào, chắc em không về được, anh đừng buồn em nghen.

    - Bộ em nghĩ anh chết sao!?

    - Biết đâu được! Tốt nhất anh cứ chuẩn bị tinh thần, nhớ nghe băng giảng mỗi ngày, nghe đi nghe lại mới thấm anh à.

    - Ờ.

    - Và nhớ rằng em yêu anh.

    Tôi nuốt nước mắt nói:

    - Anh đi được là anh qua với em ngay.

    Nàng hôn môi tôi và vội vã lấy khăn bịt kín khuôn mặt đẫm lệ. Tội nghiệp từ ngày yêu tôi, nàng khóc nhiều lần. Tôi chợt nhớ chưa bao giờ thấy người vợ Mỹ nhỏ một giọt nước mắt. Chậm chạp chống Walker, tôi tiễn nàng ra ngõ. Đứng lặng người một lúc thật lâu, tôi nhìn theo chiếc xe ôm chở nàng khuất xa cuối con đường hẻm.

    Qua phôn, tôi nói chuyện với nàng một lần chót, để an tâm nàng bình an về tới Pháp. Và rồi tôi trốn tránh, vì giọng nói quen thuộc đó chỉ khiến tâm hồn tạm thời an bình của tôi trở nên xao động. Tôi biết rõ mình đang may mắn không vướng bận gì khác, ngoài việc quán sát cái đau để buông cái đau, đừng dại dột rơi vào luyến ái. Tôi sẵn sàng rời cõi trần gian với tâm an lành, đó cũng chính là điều nàng ao ước tôi đạt được.

    11 giờ khuya. Tôi rung chuông gọi chị Hai. Tôi điềm tĩnh nói:

    - Em thấy trên trời đầy sao chiếu sáng ngời. Hình em hiện lên quanh bốn bức tường. Em nghe rõ tiếng ai gọi tên em. Em biết tới giờ em đi rồi đó chị.

    Chị tôi an ủi:

    - Giữ lòng thanh thản nha em.

    - Em sẵn sàng rồi. Chị à, em có lỗi nhiều với ba má phải hông chị?

    - Hông, em hổng có lỗi gì cả. Ba má thông cảm hoàn cảnh của em. Những ngày mới mất nước, tụi nó vào nhà mình làm khó dễ quoài, điều tra cho được về chuyện "thằng giặc lái cút theo Mỹ."

    - Dzợ em sao rồi chị?

    - Nó ở Pháp làm sao chị biết. Lần nào nó gọi, em cũng hổng chịu tiếp chuyện.

    - Chân chị còn đau hông?

    - Đau lắm em!

    Tôi cười thân mật nói:

    - Mặt bà mệt quá chời, thôi đi ngủ đi bà ơi!


    __7. Ra đi:

    2 giờ sáng thứ năm 9/10/2008. Theo thường lệ, người đàn ông làm vệ sinh vào phòng chào hỏi:

    - Ngủ ngon hông anh Tốt ?

    Tôi không trả lời .... vì tôi đã chết.

    ********

    France, khuya hôm sau...

    Tôi trở lại mạnh khỏe và cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, đi đứng bình thường không cần walker. Tôi không gặp ba má tôi, không gặp Carrol, cũng không gặp ba của nàng. Chung quanh tôi là một số người tôi không quen biết, họ đi lại với dáng vẻ thanh thản. Điều kỳ diệu là khi tôi mong muốn được gặp nàng thì tức khắc tôi đã có mặt bên nàng. Tính thời gian, tôi quen nàng được 3 năm 2 tháng; gần gũi nhau tổng cộng khoảng 7 tháng. Tương tự cuộc tình ngắn ngủi của vua Chế Mân và Huyền Trân công chúa, cũng như chuyện phim Love Story.

    Tôi bồi hồi ngắm tấm hình đặt trên bàn ngủ. Tấm hình tôi và nàng chụp hôm picnic vùng Nam Cali, tươi cười dựa vai nhau ngồi bệt trên bãi cỏ xanh mướt. Nàng đang say ngủ, chiếc cổ ngấn nọng làm nàng già hơn sáu tháng trước. Tôi nằm cạnh nàng với tâm hồn bình thản.

    Chợt biết có tôi bên cạnh, nàng hấp háy mắt nhìn tôi. Giọng nàng vui mừng ngái ngủ:

    - Anh qua với em đó à!

    Tôi cười nhẹ và lập lại câu nói hôm chia tay:

    - Anh đi được là anh qua với em ngay.

    Nàng dường như không mảy may ngạc nhiên, cánh tay nàng ôm choàng qua bụng tôi làm vòng khóa êm ái, mỉm cười và tiếp tục ngáy đều. Mân mê những ngón tay nàng theo thói quen những ngày chưa bịnh hoạn, mắt tôi nhìn lên trần nhà màu trắng. Một màu trắng tinh khiết và tang tóc.

    Nàng tỉnh giấc, ngơ ngác tiếc nuối giấc mơ vô cùng sống động. Nàng không ngờ rằng thế giới nàng đang sống chỉ là mộng, thế giới nàng nằm bên tôi trong giấc ngủ mới chính là thật. Nàng điện thoại về Việt nam nói chuyện với chị tôi, biết tôi ra đi trong một trạng thái tốt lành, và linh tính tôi đang ở bên cạnh nàng, tư tưởng nàng truyền đạt đến tôi lời khen ngợi:

    - Em rất hãnh diện vì anh.

    Bây giờ nàng đang mang nỗi buồn ủ rủ của loài chim lẻ bạn, não nề của loài người khóc cô đơn. Tôi có nhiệm vụ an ủi nàng, nhắc nhở nàng phấn đấu, tiếp tục đời sống bình thường. Mỗi ngày nàng nhận nhiều mails bạn bè khuyên đừng buồn nhưng vô hiệu quả. Khi màn đêm buông xuống, nàng thổn thức nghe tôi vỗ về:

    - Em còn nhớ những điều chúng mình đã từng nghe qua: "Ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau." Em nên lấy làm an ủi: “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương."

    Nước mắt nàng ràn rụa. Tôi tiếp tục thầm thì:

    - Em hãy suy nghĩ lời giảng hữu ích: “Đừng dập tắt nỗi đau khổ của bạn, hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nỗi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn dấu sau nỗi đau buồn. Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bi và trí tuệ.”

    Tôi nói thêm:

    - Em nên ghi nhớ điều quan trọng mà anh đang trải qua kinh nghiệm: “Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo không có giá trị gì cả. Tôn giáo là một điều phải tự kiểm chứng lấy, qua sự thực hành”.

    Trước khi vĩnh viễn ra đi, tôi muốn tiếp xúc với chị tôi, với con gái tôi và một số bạn thân nhưng thất bại. Tôi chỉ liên lạc được ba người. Đứa cháu dâu trong giấc mơ thấy một đám mây trắng nhẹ nhàng bốc lên từ thân thể tôi, chầm chậm bay lên cao và tan loãng vào không gian như làn khói. Cháu thức dậy nhìn đồng hồ đúng 2 giờ sáng, như vậy chị tôi sẽ hết thắc mắc về giờ giấc chính xác tôi trút hơi thở cuối cùng.

    Hôm sau, thằng bạn thân ở Chicago mừng rỡ ngạc nhiên gặp tôi trong giấc ngủ: «Tao nghe nói mầy chết rồi mà !». Tôi tươi cười trả lời: « Ờ, tao về thăm mầy đây». Vậy càng hay, người bạn Công Giáo này là nhân chứng hùng hồn về thuyết siêu hình. Có lẽ linh hồn là dòng điện tinh tế, muốn phát ra phải chạm đúng tần số tương tự như những làn sóng của đài phát thanh. Tôi liên lạc với nàng dễ dàng, có lẽ vì nàng mãnh liệt tập trung tư tưởng vào tôi cùng với thiện chí ăn chay 49 ngày; chắc hẳn sức mạnh tình yêu đã giúp chúng tôi.

    Tôi bảo nàng vào trang nhà “Cánh Thép”. Những đồng đội vẫn chưa quên tôi, có đứa thương tôi làm thơ khóc bạn. Có đứa nhắn nhủ: “Mầy linh thiêng phù hộ tụi tao nghen Tốt”. Tụi nó không biết rằng tôi có khả năng nghe và đọc được tư tưởng của người khác nhưng tôi không có quyền phép gì để phù hộ ai cả. Tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ lìa bỏ cái xác phàm bệnh hoạn. Linh hồn của tôi trong cuộc đời hiện tại này đến từ linh hồn của đời trước và là nguyên nhân của linh hồn trong đời sau. Nàng đọc đi đọc lại mấy lần lời phân ưu của Phong, tôi thầm cám ơn đây cũng là điều tôi muốn nói:

    “Từ khi gặp Tốt và chị, tôi đã vui mừng vì Tốt đã có cả một khung trời hoa mộng, dẫu là ngắn nhưng tôi đoan chắc một điều là Tốt cất cánh trong phi vụ cuối cùng để đi vào miền miên viễn với nụ cười hạnh phúc”.

    ***

    Mùi hương thơm ba cây nhang phảng phất trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi và nàng ngồi trước màn ảnh computeur, nhưng duy nhất bóng đen của nàng cô đơn phản chiếu lên bờ tường lạnh lẽo. Tôi không hôn nàng vì tôi không muốn cả hai thêm bịn rịn. Tôi mân mê những ngón tay nàng... những ngón tay mà một ngày không xa đây, cũng sẽ trở thành cát bụi. Chúng chỉ tạm thời là dụng cụ của con người trên dương thế, chỉ là phương tiện cho tôi nhắn gởi dòng tâm thức.

    Tôi nói câu cuối cùng:

    - Hôm nay đúng 49 ngày, anh phải bye nha cưng. Bài viết này anh muốn lấy tựa đề "49 ngày với em". Cưng nghĩ sao?

    (Nguyễn văn Tốt, từ trần lúc 2g sáng ngày 9/10/2008)
    ______o0o______
    (Tác Giả: Lê Khánh Thọ)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  4. #4


    NHỮNG ĐOẢN VĂN RỜI


    _ "TÔI LÀ VÔ SẢN"

    Khi về đây, tôi dự định sẽ tìm một việc gì kiếm sống qua ngày. Nhưng mọi chuyện không dễ. Cái xã nghèo đến thê lương, thế mà lại mang tên Phú Thạnh. Nghèo đến mức con chó đói nằm dài mõm ngoài hiên cũng biếng sủa khi có người đi quạ Đàn ông trai tráng không có việc, lêu bêu đầu thôn cuối xóm. Thì giờ thừa mứa, tụ năm tụ ba tán gẫu. Cuối cùng vét túi chung tiền mua vài xị rượu, nhâm nhi cho quên đời là bể khổ.

    Tôi lận lưng một số tiền nhỏ làm kế sinh nhai. Số tiền sứt mẻ dần qua những cuộc rượu, mà việc làm chẳng thấy đâu. Bù lại, tôi có thêm nhiều người bạn mới.

    Nhà Tám Nưa có giỗ. Trước mấy ngày, ông đã mời những người có mặt trên chiếu rượu. Tôi cũng được mời. Anh em bảo, Tám Nưa khỏi lo phần rượu. Mọi người sẽ đóng góp, bảo đảm uống mệt nghỉ. Về phần thức ăn, Tám Nưa cho vật con heo còi làm thịt, cắt cổ thêm vài con vịt đẹt. Xã nghèo, có người dám chơi thế là chơi ngon. Bữa giỗ xem ra rất linh đình. Khách được mời ăn giỗ cũng rất phấn khởi. Thời buổi khó khăn, người ta thường trông vào miếng ăn. Có rượu thịt là có ruồi nhặng vo vẹ Tôi là một trong những con ruồi bay lượn trên những dĩa thức ăn.
    Nhà chật, Tám Nưa che cái chái ngoài sân, đặt thêm bàn. Cánh đàn bà ngồi trong nhà. Cánh đàn ông ngồi ngoài sân. Mọi người hỉ hả ăn uống. Hai bàn ngoài cùng, dành đãi công an, và nhân viên chính quyền xã. Tám Nưa nói, đó là thủ tục không thể thiếu. Chỗ nào tụ tập đông người, phải có "thần" chứng giám mới yên. Tôi nghĩ, thời đốn mạt, người ta sống bằng mặt, không bằng lòng. Kẻ có quyền thì tập thói lưu manh, bóc lột. Người yếu thế thì học chước dối trá. Con người sống với nhau mà như chơi trò cút bắt. Ở đâu cũng có tiếng reo hò mừng rỡ, lẫn tiếng kêu la thảng thốt. Xã hội vừa là phường tuồng, vừa là địa ngục.

    Đang ăn, bí thư xã nói: "Nghe báo cáo có người lạ mới vào xã ta, tôi chưa biết mặt."

    Mọi người ngó vào tôi...

    Tám Nưa kéo tôi qua bàn bí thư, giới thiệu: "Chú em đây tên là Lâm, đã trình diện bên phòng công an khi mới về xã."

    Bí thư nói: "Mời ngồi."

    Tôi nói: "Tôi đang ngồi bàn bên kia."

    "Thì ngồi xuống đây nói chuyện đã. Anh vẫn khỏe chứ?"

    "Vâng, tôi vẫn khỏe."

    "Nhiều người cải tạo về gầy rộc đi. Anh thế là còn khá."

    "Vâng, tôi còn khá."

    "Anh đang làm gì?"

    "Tôi chưa kiếm được việc."

    "Nghề nghiệp chuyên môn là gì?"
    "Thợ đụng."

    "Thợ đụng là thợ gì?"

    "Đụng đâu làm đó. Việc gì cũng làm được."

    "Tốt!" Bí thư bưng cốc rượu cười khà khà dễ dãi.

    Công an bàn kế bên, nói vói qua: "Ngụy các ông nhiều ma mãnh. Gớm bỏ mẹ. Sang không ra sang, hèn không ra hèn."

    Tôi nói: "Vô sản dứt khoát là hèn."

    "Anh nói gì thế?"

    "Tôi nói tôi hèn."

    "Vô sản ám chỉ vào ai?"

    "Vào tôi. Tôi trắng taỵ Tôi là vô sản."

    "Lý luận quàng xiên hay nhỉ? Khi có đủ vây cánh thì làm con ngáo ộp. Bị chặt hết tay chân thì biến thành con lươn."

    Lời công an như một dằn mặt cảnh cáo. Tôi ngồi im.

    Tám Nưa cứu nguy: "Thôi, chào hỏi thế đủ rồi. Vị trí của chú ở đâu thì về đó."


    ***


    _ TƯ BẢN BÓC LỘT

    Bữa giỗ nhà Tám Nưa cũng có cái hay cho tôi. Có người lầm tưởng tôi là kẻ sĩ. Mới đầu, người ấy nói kẻ sĩ thời nay lắm nhục nhằn hơn người xưa. Tôi quay nhìn người vừa nói câu đó, và uống cốc rượu làm quen. Người ấy nói tiếp, lấy cái thước vô hình mà đo cái nhẫn. Nhẫn càng giỏi, giá trị càng cao. Một người nhừa nhựa hơi men, hỏi sao thế? Người ấy nói, gặp sài lang hổ báo, chạy là thượng sách. Đem cái lý của con người mà tranh biện với thú dữ là rước họa vào thân. Thực khách ồn ào như giữa chợ. Những người ngồi nơi hai cái bàn ngoài cùng, không nghe những gì người ấy nói. Thế là trước khi ra về, tôi quen với người ấy.

    Người ấy tên Trần Xuân Hạnh. Trước đây, ông làm thầy giáo. Sau cuộc đổi đời, ông xoay qua nghề đào giếng. Những đứa học trò dốt nát của ông thời cũ, nhiều thằng bỏ học vô bưng làm cách mạng. Bây giờ, chúng trở về, ngồi trên đầu thiên hạ mà chăn dân. Cũng may, chúng còn nhớ bài đức dục mà ông đă dạy, nên đối với ông, chúng còn chút e dè lễ độ. Chúng cho ông làm công tác dạy văn hóa bổ túc cho cán bộ, để có tiêu chuẩn gạo. Đời sống ông, vì thế, cũng dễ thở hơn nhiều người khác.

    Tôi phụ việc với ông Hạnh, năm ngày thì thạo việc. Qúa nửa trưa, ông Hạnh bảo tôi xuống giếng thay ông. Đáy giếng sâu tối u ụ Tôi nghe tiếng rền trong lòng đất như tiếng gầm núi lửa. Ngó lên thấy một khoảng trời tròn lồng khuôn mặt ông Hạnh ngó xuống.

    Tôi sợ hãi: "Cho tôi lên."

    "Chưa làm được gì, sao đi lên?" Tiếng ông Hạnh như từ trời cao vọng xuống hang sâu.

    "Tôi ngộp thở."

    Ông Hạnh nhằn: "Thế mà bảo việc gì cũng làm được."

    Tôi choàng dây buộc ngang nách, hai chân chỏi vào thành giếng theo thế bích hổ du tường. Ông Hạnh nắm đầu dây kéo lên. Khi lên mặt đất, mới biết trời vần vũ chuyển mưa, rền vang sấm sét.

    Tôi nói: "Tim tôi yếu - Xuống sâu sợ gần địa ngục. Lên cao sợ đụng trời."

    Ông Hạnh hỏi: "Chỗ nào thích hợp với mày?"

    "Lưng chừng ở cõi người."

    "Cõi người là địa ngục trần gian đấy."

    Nói xong, ông Hạnh chuẩn bị xuống giếng.

    Tôi nói: "Thôi đi ông ơi, trời sắp mưa. Về nghỉ."

    Ông Hạnh nói: "Làm như mày, cám heo cũng không có mà ăn."

    Nói thế, nhưng ông Hạnh cũng thu dọn đồ nghề. Trên đường về ngang qua những rẫy mía. Mía mới đặt hom, chưa kịp lên mầm. Đất cày chưa ải mặt, cỏ đã lún phún ngoi lên. Ông Hạnh chỉ những cái giếng ông đã đào lúc trước.

    Ông nói: "Vùng đất thấp, đào năm bảy thước là có nước. Vùng cao, phải đào đến mươi thước. Giếng sâu hun hút thấy mà ghê. Người chết dưới giếng, linh hồn không thoát lên được."

    Tôi nói: "Tôi nhạy cảm lắm. Xuống giếng cứ rờn rợn sợ mình bị chết luôn ở dưới."

    "Nếu chết, tao mời thầy pháp trục vớt linh hồn mày lên."

    "Ông tin thế à?"

    "Tao không tin, nhưng nhiều người tin. Cũng như người ta tin rằng kẻ chết trong tù, linh hồn không ra khỏi cổng. Vì thế phải làm giấy phóng thích để giải thoát linh hồn. Tao còn nghe một chuyện động trời. Có người đi tham quan nước ngoài về kể, tư bản nó bóc lột đến cả người đã chết."

    "Chết rồi, còn bị bóc lột gì nữa?"

    "Ấy vậy mà họ vẫn nói được. Người ấy bảo, tư bản Mỹ bóc lột khiếp hơn hết. Nó bắt linh hồn người chết đứng giữ cửa. Linh hồn thì vô hình nên không ai nhìn thấy, cứ thấy cánh cửa tự động mở khép khi có người ra vô."

    "Chuyện khôi hài. Ai ngu muội gì mà tin là chuyện thật."

    "Nói mãi, cũng có người tin. Như chuyện Tăng Sâm đời xưa ở bên Tàu đấy. Lần đầu có người đến nói với mẹ Tăng Sâm rằng, Tăng Sâm giết người. Bà không tin. Lần thứ hai, cũng có người nói Tăng Sâm giết người. Bà hồ nghị Lần thứ ba, lại cũng có người nói, Tăng Sâm giết người. Bà sợ hãi, và bỏ chạy."

    Tôi chép miệng: "Khổ thật! không biết bao giờ mới thoát được cái họa tuyên truyền ngu dân!"

    Ông Hạnh hỏi: "Mày nói cái gì?"

    Tôi lắc đầu: "Không. Chẳng nói gì."

    Ông Hạnh nói: "Từ này về sau, mày ở trên kéo đất. Tao xuống giếng. Hồi mới gặp mày, tao tưởng mày là kẻ sĩ. Gần gũi nhau, thấy mày là thằng lừng khừng."

    ***


    __ "CẢI TẠO XONG RỒI..."

    Ngày nào cũng phải ăn, nhưng đào giếng không phải lúc nào cũng có việc. Đời sống đi dần vào thế bí. Ông Hạnh dẫn tôi đến ban giám hiệu phụ trách chương trình lớp đêm, nơi ông dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ. Ông giới thiệu tôi là thi sĩ, và xin dạy học để có tiêu chuẩn gạo.

    Những khi rỗi việc, tôi hay nói chuyện thơ văn với ông Hạnh. Ông cho tôi là người có kiến thức văn chương. Nhưng, thật bất ngờ khi tôi được giới thiệu là thi sĩ. Tâng bốc lắm, chỉ tổ làm hư việc.

    Người đàn ông ngồi sau chiếc bàn, môi thâm, mặt sắt, tóc hớt cua, trông không có vẻ ggì là mô phạm. Ông Hạnh cho biết trước, đây là cán bộ chỉ đạo. Ông ta kéo trễ gọng kính, giương mắt nhìn tôi như quan sát một hiện tượng lạ.

    "Thi sĩ à?"

    Tôi nói: "Ông Hạnh nói quá lời. Tôi chỉ có chút chữ nghĩa đọc sách thánh hiền."

    Ông Hạnh nói: "Không nên khiêm tốn quá. Thành thật với nhau là hơn."

    Cán bộ nói chậm rãi rõ ràng, nhấn mạnh từng tiếng: "Cán bộ học bổ túc văn hóa, không cần học làm thơ. Chỉ cần biết bốn phép tính cộng trừ nhân chia, đọc thông công văn chỉ thị, và biết ký tên là đủ làm việc. Trong quá trình làm việc sẽ bật ra thơ.
    Anh đồng ý không nào?"

    "Vâng, tôi đồng ý. Nhưng tôi không xin dạy làm thơ."

    "Chứ dạy về gì?"

    "Về gì cũng được, ngoài chuyện dạy làm thơ."

    Cán bộ chìa bao thuốc mời ông Hạnh và tôi. Trầm ngâm một lúc, ông nói: "Chúng tôi đang cần giáo viên, nhưng muốn nhận anh vào phải xét qua lý lịch. Anh về làm bản tự khai kèm theo hai người chứng, rồi mang tới đây. Chúng tôi sẽ họp ủy ban cứu xét. Một mình tôi không quyết định được."

    "Vâng, tôi sẽ viết bản tự khai."

    Tiêu chuẩn mười ba ký gạo hàng tháng, lấp ló ở một tương lai gần. Tình hình có vẻ lạc quan. Tôi mỉm cười ngó ông Hạnh, lòng đầy phấn khởi.

    Cán bộ hỏi, sau khi phà một hơi thuốc: "Trước kia, anh làm gì nhỉ?"

    Tôi nói: "Làm lính."

    "Bộ đội hả? Đơn vị nào? Tôi cũng là bộ đội phục viên đây"

    "Tôi lính Việt Nam Cộng Hòa."

    Cán bộ chồm tới, sửng sốt: "Thế à? Sao không đi cải tạo?"

    "Tôi cải tạo xong rồi."

    Cán bộ thất vọng, ngữa người ra lưng ghế: "Anh khỏi cần đến đây nạp bản tự khai. Chúng tôi không nhận đâu."

    Tôi cố vớt vát: "Tôi nghĩ cải tạo xong là tẩy não xong, có thể góp phần xây dựng xã hội mới."

    Cán bộ lắc đầu: "Cải tạo là hình thức trừng phạt thôi. Đầu các anh đóng băng, tẩy não thế nào được!"

    ***

    __ QUỐC TẶC

    Thấy tôi cũng là thằng ăn tục nói phét, ông Hạnh không còn cho tôi là kẻ sĩ nữa. Ông nói tôi là người có tài, nhưng tài năng lớn quá, không có chỗ dùng. Ông nói với mọi người như thế. Nói tới nói lui mãi, tôi cũng tin mình có tài thật, dù lúc nhỏ thầy giáo xếp tôi vào loại học trò đần.

    Một lần trên chiếu rượu, ông Hạnh thắc mắc: "Chưa bao giờ xã hội ta có nhiều người uống rượu như bây giờ. Không biết tại sao?" Anh em đều ngó vào "người có tài năng lớn không có chỗ dùng."

    Tôi lên gân giải thích: "Xã hội rối rắm lung tung xèng. Tương lai mờ mịt. Con người hoang mang mất hướng đi tới, nên lấy rượu trấn an tinh thần. Các ông ngày ngày cuốc đất, ngó tới ngó lui cũng không ra khỏi mấy cái bờ ruộng. Đời như thế thì bao giờ ngóc đầu lên được? Đó là nói người có ruộng, còn những người không ruộng thì lấy đất đâu mà cuốc? Như ông Hạnh với tôi chuyên nghề đào giếng, năm khi mười họa mới có việc. Xuống đáy giếng mà tìm tương lai, có ngày cũng gặp Hà Bá. Mặt đất đã đầy những giếng sâu hố thẳm, đi loạng quạng dễ bị sa chân xuống âm phủ. Chi bằng cứ ẩn nhẫn chờ thời. Thời cơ chưa tới, lấy rượu giải khuây."

    Một người nói: "Tôi chịu lối giải thích này. Nhưng, bao giờ thời cơ tới??"

    Tôi lại lên gân: "Khương Thượng ngồi câu sông Vị, là chờ thời. Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, cũng là chờ thời. Còn chúng ta ư? Có khi phải chờ hết đời. Con cháu lại tiếp tục chờ nữa. Lịch sử biến thiên lúc nhanh lúc chậm. Nhanh thì năm trước năm sau đã thấy khác. Chậm thì đời này qua đời kia vẫn còn khốn khổ."

    "Thời này cũng có nhiều người phất cờ giàu to đấy chứ?"

    "Vâng. Phất cờ giàu to thời này là tư bản đỏ. Nhưng cách dùng từ sai. Tư bản là bỏ vốn kinh doanh, để từ đó sinh ra lợi nhuận. Mấy ông kẹ nhà mình có kinh doanh gì đâu? Họ ăn tiền đút lót hối lộ, và dùng quyền lực chiếm đoạt tài sản thiên hạ thì không thể gọi là tư bản, dù xanh hay đỏ."

    "Như thế phải gọi là gì cho đúng nghĩa?"

    "Gọi nôm na là ăn cướp. Cướp giựt lẻ tẻ đầu đường xó chợ, là cướp vặt. Cướp có hệ thống đường lối chính sách thì gọi là quốc tặc. Người dân biết mình bị cướp, mà không cưỡng vào đâu được. Thế mới kinh!"

    Cuộc rượu đêm đó, xoay quanh đề tài quốc tặc. Tôi hừng chí nói năng tự do, mất sự đề cao cảnh giác. Tàn cuộc, tôi say bí tỉ...


    ***

    __ ĐÈN NHÀ AI NẤY RẠNG

    Cưới vợ ba năm. Vợ chồng không rõ lòng nhau. Tôi đến tuổi cần có vợ, vợ cũng đến tuổi cần có chồng. Thế là lấy nhau. Chẳng tình yêu quái gì.

    Tôi là lính hành quân. Ba năm, những lần về phép đếm trên đầu ngón taỵ Gặp nhau là quấn lấy nhau. Vội vã vài ngày, để rồi còn chia tay. Thì giờ đâu mà để ý những điều vớ vẩn?

    Năm đầu, vợ gọi tôi bằng anh, xưng em. Tôi gọi vợ bằng em, xưng anh. Qua năm sau, vợ gọi tôi bằng anh, xưng tôi. Tôi gọi vợ bằng em, xưng tôi. Năm sau nữa, vợ gọi tôi bằng ông, xưng tôi. Tôi gọi vợ bằng bà, xưng tôi. Theo thời gian, cách gọi vợ chồng cứ thay đổi dần như thế. Và giữ nguyên hai tiếng xưng hô "ông bà" cho đến bây giờ.

    Một hôm, tình cờ vợ khám phá ra tôi làm thơ. Vợ nói: "Có tờ báo đăng bài thơ của thằng cha nào trùng tên với ông."

    Vợ mở trang báo, chỉ vào bài Tình Cho Em. Lời thơ sướt mướt nhớ thương. Đó là bài thơ tôi làm cho một con nhỏ người yêu, nhưng không chịu lấy tôi làm chồng.

    Tôi nói: "Bài thơ này của tôi làm cho bà, nói lên nỗi nhớ thương trong những ngày đi xạ"

    Mới đầu, vợ sung sướng ra mặt. Nhưng sau đó, vợ phá ra cười.

    "Mạo nhận. Tôi không tin!"

    "Không tin hả?"

    Tôi không nhìn trang báo, đọc thuộc lòng vanh vách bài thơ, "Bà tin tôi là tác giả chưa?"


    Vợ ngẩn ra một lúc: "Người lỗ mãng như ông cũng làm được thơ.... Lạ thật!"

    "Có gì lạ đâu. Tài làm thơ của tôi giống như chiếc mũi nhọn giấu trong túi áo. Lâu ngày, nó ló ra cho bà thấy."

    "Chẳng bao giờ nghe ông nói tiếng yêu tôi. Vậy mà làm thơ thì nước mắt chứa chan tình cảm. Thơ là giả dối!"

    Vợ không hãnh diện về người chồng biết làm thơ, dù đã có lúc gần đạt được danh hiệu thi sĩ.

    Cuộc thế bể dâu. Đời tôi cũng bầm giập đau thương khốn nạn. Mũi nhọn thụt vào trong túi áo..... Thơ tịt ngòi!

    Ra hải ngoại, muốn học hành cho đỡ nhọc tấm thân, nhưng cái đầu không chịu. Nhồi nhét thứ gì vô, vài ngày sau nó đẩy ra khỏi trí nhớ. Thế là đi làm cu li, cực tay chân, khỏe đầu óc.

    Việc làm bấp bênh. Nay có, mai không. Thất nghiệp ở nhà. Còng lưng viết chuyện cà kê dê ngỗng, viết chuyện đời mình. Vợ đi chợ, đem về tờ báo quảng cáo địa phương, có đăng bài văn của tôi.

    Vợ nói: "Ông bỏ làm thơ, tôi đang mừng. Bây giờ, lại thấy hí hoáy cả ngày. Không ngờ ông viết văn. Làm thơ, chắp tay sau đít, đi qua đi lại; còn đỡ. Viết văn, bò càng ra mà viết. Khổ ôi là khổ."

    Tôi nói: "Trong cái khổ, có cái sướng."

    "Thất nghiệp. Đói tới nơi, không biết. Ở đó mà viết chuyện bá láp. Kiếp nào mới được thành danh?"

    "Từ từ, sẽ có tiếng vang."

    "Người ta viết chuyện ma quỷ. Rùng rợn, hấp dẫn. Viết về hoàn cảnh xã hội gay cấn, tâm lý tình cảm éo le. Đọc mê luôn. Sách in ra, bán chạy ào ào. Lại còn thu băng đọc truyện, tiền vô như nước. Truyện của ông, tôi vừa đọc vừa ngáp. Cố gắng lắm, cũng chỉ theo dõi được vài trang thì ngủ. Bữa trước, nghe ông nói điện thoại với người bạn nào đó, rằng ông đang gom tiền in sách. Đừng làm chuyện phá sản nghen. Sách ông bán cho ma!"

    Tôi rên: "Bà ơi, tôi bất hạnh đớn đau nhiều rồi. Hãy để tôi làm theo ý thích."

    Vợ nói: "Ý thích trong trách nhiệm gia đình. Tự do trong khuôn khổ luật pháp."

    Tôi giơ hai tay lên trời: "Than ôi! Trên mặt đất, ai là người tri kỷ?"

    (Đoản văn này, dành trả lời câu hỏi của một bạn đọc: "Theo kinh nghiệm bản thân anh, đời có tí văn nghệ văn gừng làm cho gia đình dễ lục đục, hay hưng phấn hơn?")

    Hết
    ___***___
    (Lâm Chương])
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  5. #5


    CHIM BAY VỀ BIỂN
    (Tác Giả: Phạm Tín An Ninh)


    "Một mai chim bỏ bay về biển

    Ta đứng một mình ngó nhánh sông

    Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy

    Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng"

    (Sương Mai)

    Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của nhưng người Nha Trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi.

    Nha Trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha Trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nha Trang, sống với Nha Trang gần trọn một đời.

    Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đàn anh văn nghệ, cũng là đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết:

    __ “Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bi xóa khỏi bản đồ trái tim.
    … tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đắp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về” (Trích trong ”Nhà Từ Đường” tháng 5.2013- trên VOA).


    Một chị bạn, hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ, năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà Nội vào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nha Trang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ở Nha trang lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang. Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha Trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha Trang mà cảm giác như mình là kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha Trang của mình ngày trước”.

    Hai người bạn học cùng lớp với tôi. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nha Trang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với Nha trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha Trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Và họ chỉ còn gặp lại Nha Trang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa như trong tiền kiếp:

    chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc

    mảnh trăng khuya vòi või chờ ai

    trong cỏ ướt dế buồn thao thức

    giữa quê nhà sao mãi hoài hương.

    ...
Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc

    nghe âm u gió tạt mùa xa

    người đứng giữa trời không – luyến tiếc

    nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha.

    ….
Bao năm tìm lại con đường

    nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa

    chiều thu xứ ấy mù sa

    tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao.

    (đ.ư.v)


    Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều khi tưởng mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn chưa lành.

    Lần trở lại Nha Trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ.

    Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong.

    Một thằng bạn rất thân, cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nha Trang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố xưa của nó.

    Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông… về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa.

    Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha Trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh.

    Cũng chính vì Nha Trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ.

    Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.
    Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh!

    Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, ”Bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.”

    Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ.

    Tôi quay sang bảo thằng bạn:


    – Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.

    Nó xua tay:

    – Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.

    Tôi đùa:

    – Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục trong nhà thờ.

    Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã:

    – Mày thấy không, đến thành phố Nha Trang nơi mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nha Trang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên?

    Tôi thực sự chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một điều gì đó không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.

    Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh và Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi.

    Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên chiến trường. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nha Trang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá. Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nha Trang xưa. Nha Trang của nàng và của đám bọn tôi. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ của nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen.

    Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán chường cuộc sống, lội xuống biển Nha Trang tự vẫn, để lại một thằng con trai năm tuồi. Nơi người ta tìm ra thi thể của chị, chính là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau.

    Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày phải ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “Chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng.” Nó chưa bao giở về lại Nha Trang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý ( Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình:

    _ "Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức."

    Đọc xong thấy lòng đau đớn như có nhiều vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được...

    Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh, Nha Trang.

    Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, cùng học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có tấm lòng và rất khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và quê hương đất nước. Quyết liệt, kiên cường trước những bất công, bạo lực. Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi mất, chị vẫn liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị ở quê nhà với thật nhiều hy vọng, và tiếc là không thể chứng kiến ngày chế độ Cộng Sản man rợ độc tài cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình, người thân và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò, sau khi chị mất xin gia đình hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà, bên kia bờ đại dương, ở đó có bãi biển Nha Trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục. Tôi hình dung đây không phải là cánh hải âu mà là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ vừa bay về với biển.

    Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào hoa vui tính. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha Trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ.

    Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh và Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt.

    Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.

    Tôi nghĩ rồi sẽ có một ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng là những cánh chim bay về với biển...

    Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Tất cả những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, giờ đã là cổ tích....

    __o0o__
    (Phạm Tín An Ninh)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  6. #6
    Lúc còn rất nhỏ bên VN, tôi nhớ là có lần đã được xem qua một cuốn phim ngắn của Đại Hàn trên TV (băng tần số 9 Sài Gòn). Trong phim, người vợ là một cô gái trẻ, ngày ngày cõng đứa bé trai cũng là chồng của mình trên lưng... Vì đã quá lâu rồi, tôi không còn nhớ đoạn kết của cuốn phim đó như thế nào. Và, cũng vì còn quá nhỏ nên tôi không biết đến tập tục tảo hôn ở các nước Đông Nam Á thời xưa... Vài năm trước, vô tình đọc thấy truyện ngắn dưới đây trên Net khiến tôi nhớ lại cuốn phim mình đã xem qua. Hôm nay, xin được đăng lại để chia sẻ cùng ACE.

    __ Truyện ngắn này không thấy để tên tác giả, cũng không biết trang nhà nào đã đăng lên đầu tiên nhưng hình như câu chuyện được kể lại trong bối cảnh xã hội của thời tiền chiến ở Miền Bắc - cũng là thời mà tập tục tảo hôn vẫn còn thịnh hành trên quê hương mình...




    "ANH XIN ĐƯA EM ĐẾN CUỐI CUỘC ĐỜI..."


    Khi được gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi.

    Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.


    1. Sung túc.

    Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu đầy khói hương, xăm nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

    Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương bên tiếng chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.


    2. Cảnh nghèo.

    Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo. Một ngày mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực mà bệnh vẫn không khỏi.

    Hằng ngày cha chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

    Thấy thế, bà mối đến, réo rắt: "Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà".

    Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: "Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!"

    Tiếng kèn đón dâu thổi vang đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị ...

    Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình: "Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!"

    Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài.

    Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mẹ, tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng. Từ ngày ấy, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.
    .....

    3. Cười xót xa.

    Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng.

    Anh vâng lời mẹ, gọi chị là "chị gái."

    Hằng ngày, ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì chị còn phải cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

    Trong tim, chị coi anh như một đứa em trai.

    Hàng xóm láng giềng gặp mặt, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh lại vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi căn bệnh lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v...

    Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị lại vượt quá tình cảm anh dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc với những giọt nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi:

    "Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?"

    Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to:

    "Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường..."

    Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

    - "Chị ơi, em yêu chị!"

    Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ...


    4. An ủi nhỏ nhoi.

    Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

    Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi. Từ đó, không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc ấy, trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

    Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua.

    Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ. Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi.

    Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van xin, nói:

    - "Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành."

    Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

    Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

    Chị quần quật ban ngày ban đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học.

    Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, lẫn trong một tình yêu bao la như tình mẫu tử, bền chặt.

    Khi anh tốt nghiệp trung học, rồi thi đỗ vào một trường Đại Học Sư Phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

    Nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố gắng mà học hành, ngoài ra, chị không nói thêm điều gì nữa.

    Nhưng anh lại nói: "Chị, chờ tôi quay về nhé!"

    Tim chị hẫng đi một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đền đáp lần đầu.


    5. Kiếp này.

    Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành từng đồng gửi đi.

    Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ này tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

    Lúc đó chị đã 29 tuổi.

    Ở quê, những người như tuổi chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn lại còn cho anh thoát ly đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi; thôi đừng chờ chồng nữa.

    Bây giờ anh đã đi xa, ở thế giới ngoài kia bao nhiêu là xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay không...

    Chị cũng không biết có phải là trong lòng mình đang thủ tiết, giữ đạo phu thê vì dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: "Chị, chờ tôi quay về nhé!" Cũng có thể là chị đang lo âu như người mẹ, không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa? Cứ thế, chị cứ chờ và chờ... Chị vẫn giữ sự im lặng và ít lời với hàng xóm như mấy chục năm nay đã từng.

    Cuối cùng rồi cũng đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về.

    Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, mang dáng dấp của một người đàn ông nho nhã hiểu biết. Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ. Giờ đây, chị đã là một người đàn bà nhà quê đích thực.

    Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu.

    Chị không dám ngờ anh đã nói với chị:

    - "Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!"

    Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị sao? Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng một nụ cười rạng rỡ, và cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.


    5. Xin lỗi.

    Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ đã có với nhau một con trai và một gái. Sau này, anh đến khu mỏ dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì giấy tờ, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng.

    Sau khi lo được giấy tờ di chuyển, anh về quê đưa vợ con lên trường. Các giáo viên trong trường đến giúp ông hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

    - "Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?".

    Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chỉ biết cười méo mó, nhìn anh như xin lỗi.

    Anh ngoái đầu nhìn chị, rồi nói với tất cả mọi người với một giọng chắc nịch:


    - "Chị của các chú đây! Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay. Thậm chí, cả tính mạng của tôi cũng nhờ vào tay cô."

    Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.
    ......

    6. "Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa.."

    Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu.

    Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió hoặc quá lạnh, mọi người đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước như đang dìu một đứa trẻ tập đi. Chăm sóc như thế, ân cần như thế.

    Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang "nghĩa đủ tình đầy" đi dọc một kiếp người. Anh thường nói với họ:

    - "Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành cuối đời của tôi để chăm sóc cô ấy."

    Anh dắt tay chị, như ngày đó chị đã từng dắt tay một đứa bé trai năm tuổi. Họ cùng mỉm cười, nụ cười đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ....
    ___o0o__
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  7. #7
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    866
    Quote Originally Posted by Việt Hạo Nhiên__ View Post
    ...
    __ Truyện ngắn này không thấy để tên tác giả, cũng không biết trang nhà nào đã đăng lên đầu tiên nhưng hình như câu chuyện được kể lại trong bối cảnh xã hội của thời tiền chiến ở Miền Bắc - cũng là thời mà tập tục tảo hôn vẫn còn thịnh hành trên quê hương mình...
    Tôi đọc qua thấy truyện ngắn này có hay nhưng tôi không nghĩ đây là truyện viết bằng tiếng Việt thời tiền chiến ở Miền Bắc vì trong truyện có những chỗ làm tôi nghi rằng đây là truyện dịch. Do đó tôi thử dọ dẫm trên web xem có tìm được manh mối gì không thì thấy có thấy vài chỗ trên web ghi truyện này có tên là “Đầu Gối Tay Ấp” của một tác giả người Đài Loan tên là Trịnh Tiến Nhất và dịch giả là Trang Hạ. Tôi nghĩ cái xuất xứ đó là đúng vì có những chỗ trong truyện tôi cho là để lộ ra cái nét Tàu. Tuy nhiên, phải nhìn nhận là dịch giả dịch truyện này hay, văn chương chữ nghĩa lưu loát thích hợp với cốt truyện và nhân vật. Rất ít khi thấy truyện dịch mà có cách dùng chữ và cách hành văn ít lộ lai lịch văn dịch như truyện này. Tôi sẽ liệt kê một vài chỗ mà trong truyện mà tôi cho là lộ nét Tàu nhưng đăng trong phòng ngôn ngữ vì những chỗ đó liên quan nhiều đến ngôn ngữ.

  8. #8
    Chào Huynh 008,

    VHN nghĩ là anh nói đúng. Khi đăng bài trên, VHN cũng không biết rõ ràng đây là truyện dịch hay có phải tác giả đã viết ra câu chuyện này dựa vào bối cảnh thời xưa hay không, cho nên VHN mới dùng chữ "hình như" khi giới thiệu.

    Mấy năm trước, lần đầu đọc thấy truyện này, VHN cũng hơi ngờ ngợ là truyện Tàu được dịch lại khi đọc đến đoạn cô dâu mang khăn đỏ che mặt và "....Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái.." (rất giống với phong tục của Người Hoa) nhưng vì bài viết không thấy để tên tác giả, mà VHN cũng không rành về phong tục cưới hỏi của Người Việt mình thời xưa nên cứ phân vân.

    Cảm ơn huynh 008 đã giúp điều tra ra nguồn gốc và tác giả của truyện ngắn trên.

    Thân mến,
    VHN__
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  9. #9
    .

    MẠNH THƯỜNG QUÂN VÀ CHỮ "NGHĨA"
    (__Tác Giả: Minh Đức Hoài Trinh__)


    Đọc sử xưa, vào thời Chiến Quốc, có đoạn thấy Phùng Hoan (một thực khách của Mạnh Thường Quân) hỏi rằng: "Đòi nợ xong rồi, ngài muốn tôi mua gì ở chợ mang về?" Mạnh Thường Quân trả lời: "Xem trong nhà tôi có thiếu thứ gì thì mua về." nguyên văn là "Thị ngô gia sở quả hữu giả."

    Hôm nay, xin nói qua về 2 nhân vật nầy - những nhân vật chỉ có thể sinh ra ở thời Chiến Quốc: Mạnh Thường Quân và Phùng Hoan.

    Mạnh Thường Quân họ Điền, tên Văn con trai của Tịch Quách Quân, tức là Điền Anh và là cháu của Tề Uy Vương. Vì là con cháu của vua nên cả bố lẫn con đều được phong tước. Điền Anh được phong ở đất Tiết, và Điền Văn được phong ở đất Mạnh Thường, do đó mới lấy tên "Mạnh Thường Quân." Cả bố lẫn con đều làm đến chức Tể Tướng.

    Thời Chiến Quốc (403-352 trước công nguyên) là một thời nhiễu nhương nhất của nước Trung Hoa, tiếp nối sau thời Xuân Thu. Tại sao lại gọi là Chiến Quốc? Vì thời nầy nước Trung Hoa chia ra 7 nước nhỏ là Tấn, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ. Nhà Chu suy bại nên nước nào cũng chỉ chực muốn giành làm Vương làm Bá, vì đó mà đánh nhau không ngừng nên mới được gọi là Chiến Quốc.

    Gia đình của Mạnh Thường Quân là người nước Tề. Nhà lúc nào cũng có hàng nghìn thực khách với mục đích chiêu hiền đãi sĩ để khi cần, thì những người mắc "món nợ miệng" đó phải trả bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Có sách còn ghi rằng Mạnh Thường Quân rất khôn ngoan đã biết cách lấy tin tức từ người nước nầy mang bán cho nước khác. Vì thực khách đến từ tất cả các nước chứ không riêng nước Tề - chỉ cần hỏi những mâu thuẫn nội bộ, những nhu cầu, địa điểm, tình hình quân sự, chính trị của mỗi nước là có thể trao đổi nhau rồi.

    Người đời sau còn thấy những cái vạc, nồi rất to, có thể dùng để nấu được cho cả 100 người ăn ở chùa Thành Châu (Nam Thành). Được gọi là Mạnh Thường Hoạch, tức là những cái hoạch của nhà Mạnh Thường Quân.

    Đa số thực khách của Mạnh là những người bị thất sủng, cũng có khi là can phạm ở các nước chư hầu khác phải bỏ xứ trốn đi. Họ đến đó để có chỗ dung thân, chờ một ngày mai khi đã hội đủ điều kiện mà trở về cố quốc trả thù hoặc chuộc tội...

    Trong nhà Mạnh Thường Quân vì lúc nào cũng quá đông người nên ông đã tùy theo tài cán để chia ra làm mấy hạng khách. Hạng nhất: được trọng đãi đủ mọi điều kiện, kể cả sự đi hài cũng phải là thứ hài thêu ngọc. Hạng nhì: có cá thịt trong bữa ăn, mỗi khi ra ngoài đều có xe đưa đón. Hạng ba: có cơm ăn với cá thịt mà không có xe. Đến hạng tư thì cơm không có cá thịt mà chỉ có rau cỏ và khi đi đâu, tất nhiên, cũng chẳng có xe. Chỉ về thức ăn mới chia ra mấy hạng, còn cơm thì tất cả đều ăn một nồi giống nhau. Sách xưa có chép một mẩu chuyện để nói về sự kiện nầy. Chuyện rằng, một hôm có người đến xin làm thực khách tá túc nhà Mạnh, gặp lúc trời tối nhá nhem, chẳng nhìn rõ, nên khi được mời ăn đã cho là có sự cách biệt về bát cơm (không cùng một thứ gạo) khiến Mạnh Thường Quân phải mang bát cơm mình đang ăn đưa ra so sánh với bát cơm của khách. Khách xấu hổ bỏ trốn ngay trong đêm. Và cũng chính vì tiếng đồn về chuyện bát cơm ấy mà ngày qua ngày, thực khách càng kéo đến nhà ông đông đảo hơn.

    Thế rồi, một hôm, có người khách đặc biệt đến. Một người đã ảnh hưởng đến vận mệnh của họ Điền mà không ai biết.... Đời chỉ cần có thế, mà chỉ những nhà giỏi khoa lý số mới biết trước được. Cũng hệt như hôm Văn Vương đi săn: trước khi đi, ông xem một quẻ; quẻ rằng hôm nay ra đường sẽ gặp một nhân vật "Phi hùng, phi bi, phi lân, phi ly nhi khả dĩ trợ nhữ vương thiên hạ", và nhân vật đó chính là Lã Vọng. Để từ đó hai người đã chở thuyền đưa nhau về nói chuyện Lục Thao.

    Trở lại với hôm đặc biệt ấy tại nhà họ Điền, có một người nghèo nàn xin vào làm thực khách. Được hỏi biết làm gì không? Có tài cán gì không? Thưa, không tài cán gì? Thế là người khách được xếp vào hạng tư. Không có hài thêu để mang; cơm ăn không cá thịt và đi đâu cũng chẳng có xe đưa đón.

    Mấy hôm sau, mọi người đều nghe tiếng ca của vị thực khách mới vào (mang tên Phùng Hoan), rằng:

    - "Trường kiếm quy lai hề, thực vô ngư (Kiếm dài ơi, ta về đi thôi; cơm ăn không có cá)"

    Mạnh Thường Quân nghe tiếng ca, hỏi của ai, người nhà bảo của tên thực khách mới, được xếp hạng tư nên y coi bộ không hài lòng. Mạnh Thường Quân bảo hãy xếp hắn vào hạng ba. Qua hôm sau, tưởng Phùng Hoan đã chịu, không ngờ ăn xong lại nghe ông vỗ kiếm ca tiếp:

    - "Trường kiếm quy lai hề, xuất vô xa (Kiếm dài ơi ta về đi thôi, đi đâu cũng không có xe)"

    Mạnh Thường Quân lại cho lên một bậc nữa, vào hạng nhì. Người nhà tức lắm, cho rằng tên nầy không biết thân phận mình. Tuy vậy, mọi người đều cũng tưởng thế là yên rồi. Nhưng ngày mai tới, vẫn nghe ông ăn xong lại vỗ kiếm:

    - "Trường kiếm quy lai hề, vô dỉ vi gia (Kiếm dài ơi ta về đi thôi; chẳng có gì mang về).

    Lần này thì mọi người đều bực mình nhưng Mạnh Thường Quân lại gọi hắn lên, hỏi thăm. Sau khi nghe Phùng Hoan bảo còn mẹ già ở nhà đang đói, Mạnh lại cho Hoan mang thức ăn về mỗi ngày. Cho đến một hôm, Mạnh Thường Quân cần người đi đòi nợ, hỏi các thực khách có ai chịu đi, mọi người đều không ai nhận lời chỉ có Phùng Hoan là xin được đi để trả ân...

    Mạnh Thường Quân cho ông đủ các thứ xe cộ, cơm ăn đường, đưa danh sách con nợ và văn tự ra trao cho Phùng Hoan. Trước khi đi, Phùng Hoan có hỏi Mạnh Thường Quân rằng muốn mua gì mang về, và như ta đã biết Mạnh Thường Quân trả lời là "Xét xem trong nhà thiếu gì thì mua về."

    Khi Phùng Hoan đến một vùng có nhiều người thiếu nợ Mạnh. Ông cho người đi đánh mõ khua chiêng rao ầm lên rằng ai có nợ với Điền Văn (Mạnh Thường Quân) thì cứ mang giấy tờ đến, sẽ được tha nợ. Mọi người mừng rỡ mang giấy nợ đến. Phùng Hoan cho chất lên một xe, rồi châm lửa đốt sạch. Chỉ trong thoáng chốc, tất cả giấy nợ hóa ra tro. Mọi người reo hò ca ngợi Mạnh Thường Quân không tiếc lời. Đốt xong giấy nợ, Phùng Hoan trở về nhà Mạnh.

    Thấy chỉ có mấy hôm mà người thực khách họ Phùng đã trở về; lệ thường, mỗi khi đi đòi nợ là phải cần đến hằng tháng mới có thể đòi được ít nhiều. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên, hỏi Phùng Hoan đã đòi được bao nhiêu nợ? Đã mua gì ở chợ mang về? Thực khách họ Phùng trả lời:

    - "Ngài bảo tôi xem trong nhà thiếu thứ gì thì mua. Tôi xét thấy trong nhà đã quá đầy đủ, duy chỉ thiếu mỗi một thứ, đó là NGHĨA, nên tôi đã mang về cho ngài rất nhiều."

    Mạnh Thường Quân mới nghe chưa kịp hiểu, nhưng khi vỡ lẽ ra rồi thì ông yên lặng không nói năng gì tuy là trong lòng rất tức giận. Thứ nhất là bị mất hết một số tiền quá lớn; thứ hai là bị một tên thực khách nghèo nàn dám chê rằng nhà mình thiếu Nghĩa; thứ ba là giận tím gan mà chẳng biết phải làm sao vì sợ tiếng lành đồn xa...

    Tuy rằng mục đích bài này không phải để nói đến con người họ Điền (MTQ) mà ai cũng biết - như ta vẫn thường dùng chữ Mạnh Thường Quân để ca ngợi một người nào có lòng tốt, hay giúp đỡ anh em vì ba chữ này đã trở thành một tính từ dành để ca ngợi kẻ có lòng rồi. Chúng ta chỉ nói đến chữ NGHĨA ở đây. Nhưng trước khi nói đến chữ "Nghĩa", xin được nói qua về chữ "Quả", chữ quả tức là ít, không nhiều. Sách Luận Ngữ còn định nghĩa chữ Quả là "lão vô nhi vô phu" tức là người đàn bà già mà không có ông chồng bên cạnh, để đối với chữ "Quan" là "lão nhi vô thê" ông già mà không có vợ. Ở đây chúng ta thấy Phùng Hoan đã dạy cho Mạnh Thường Quân một bài học: khi được hỏi gì thì phải trả lời rõ ràng, không bao giờ nên nói giọng lơ lững. Hẳn Phùng Hoan cũng để ý thấy Mạnh Thường Quân hay trả lời như thế ("thấy nhà thiếu gì thì mua..") cho nên mới có cơ hội để mua Nghĩa cho nhà họ Điền. Dĩ nhiên, không phải là Phùng Hoan không biết rõ về cái độ tốt của họ Điền đến đâu, và khi đã xin vào làm thực khách, tức là cũng có ý nghĩ rằng có thể cứu vãn được nên ông mới vào.

    NGHĨA là gì? Có nhiều lối giải thích dành cho chữ Nghĩa, thứ nhất là chữ Nghĩa đã được đặt trong Ngũ Thường tức là năm phép tắc để quy định nếp sống của con người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.

    Nhân là lòng nhân, tức là cách đối xử với người, mà Nghĩa là Ta, chính là cái uy tín của ta, tự trong lòng ta trong cách ăn ở, suy tư của ta mà phát ra. Sách Hiếu Kinh ghi rằng Hiếu là Kinh của trời và là Nghĩa của Đất.

    Theo Thái Huyền Kinh, "Thi Ân là NGHĨA", thi ân tức là cho, khi ta cho tức là ta làm Nghĩa. Chữ Nghĩa được viết ra theo lối Hội Ý, mang một giòng tư tưởng với chữ Thiện và Mỹ.

    Một thí dụ khác để nói rõ hơn: thời xưa khi Vũ Vương hưng binh phạt Trụ, Bá Di đã cúi đầu xuống ngựa mà can rằng: "cha chết chưa chôn mà lo đánh nhau là bất hiếu, Thần giết Quân sao gọi là Nhân." Trong lúc ấy thì từ dân gian đến binh lính đều một lòng đòi tiến lên. Thái Công Vọng nói rằng: "Vũ Vương là người đã làm theo chữ NGHĨA".

    Về sau, có thời, người ta đổi chữ Nghĩa ra chữ Tín, và nghĩa sĩ gọi là Tín Sĩ.

    Âm nhạc đặt NGHĨA vào cung Thương, cung của mùa thu.

    Có người hỏi tại sao Phùng Hoan không bảo rằng thiếu Đức mà lại bảo thiếu Nghĩa? Vì chữ Đức chỉ mới được phổ biến về sau nầy từ khi đạo Phật truyền vào Á Châu. Ngày trước, chữ Đức ít được dùng, vì thuở ấy người ta đặt chữ Đức ở một tầm quan trọng hơn, to tát hơn, gồm cả Nhân, Nghĩa và cả Đạo. Người ta còn chia ra Thiên Đức, Địa Đức và Nhân Đức. Thiên Đức là cái Đức hóa dục vạn vật của Trời. Địa Đức là cái Đức sinh sản bách vật, dưỡng dục nhân dân của Đất. Nhân Đức là cúi nhìn địa lý, mà chế định độ lượng; nhìn mực nước sông cao thấp để lập sự phòng ngừa tai ương, đói lạnh, khảo cái đức của người để chế lễ nhạc, thực hành đạo Nhân Nghĩa để trị cái luân thường cho con người, tránh cái họa của sự bộc loạn. Xem thế thì đủ biết chữ Đức không thể dùng cho cá nhân, dầu là một bậc Đế Vương đi nữa. Mãi về sau, mới có thuyết nói hẹp lại về chữ Đức, cho rằng thi ân là Đức.

    Trở về với hai nhân vật nước Tề, khi bảo Mạnh Thường Quân không vui lòng vì hành động "mua Nghĩa" của Phùng Hoan, đó là đã chứng tỏ sự thiếu Nghĩa nơi con người ấy rồi! Mạnh nuôi thực khách với một mục đích rõ rệt như người nuôi binh lính chứ không phải vì lòng tốt. Mãi đến sau này, khi ông bị Tần Chiêu Vương đuổi giết, trong lúc chạy trốn ngang qua đất Tiết - nơi mà Phùng Hoan đã đốt giấy nợ - được dân chúng bồng bế; trẻ cõng già, lớn bế nhỏ ra tận nơi địa đầu mà chào mừng hò reo. Lúc ấy, ông mới quay lại bảo với Phùng Hoan rằng: "Bây giờ tôi mới thấu rõ ý của Tướng Quân." Sự đổi giọng gọi Phùng Hoan bằng Tướng Quân cũng đủ để chứng tỏ một điểm thiếu Nghĩa nơi con người ông.

    Có người ca ngợi Mạnh Thường Quân, nhưng cũng có một số khác bảo rằng con người ấy chẳng có gì đáng đề cao, chỉ có thể bầu bạn với thứ giả tiếng chó, tiếng gà. Vì lúc trốn ra khỏi nước Tần, người nhà phải giả tiếng gà để lũ gà trong vùng bắt chước gáy theo, lính gác quan ải ngỡ trời sắp sáng nên cho mở cửa quan sớm hơn, nhờ vậy Mạnh Thường Quân mới thoát. Một lần khác, khi cần đánh cắp chiếc áo Hồ Cừu trong kho nhà vua để làm món quà tặng, có người phải giả tiếng chó để lũ chó canh kho lầm tưởng có con chó lạ lạc vào mãi lo đi tìm, để kẻ mang bổn phận vào kho đánh cắp áo có thể hoàn thành nhiệm vụ cho Mạnh.

    Mạnh Thường Quân đã được cái may mắn gặp Phùng Hoan, tuy không có mắt để nhìn người ngay từ lúc ban đầu nhưng đã chịu nhượng bộ cất ông lên đến cấp Nhì của hạng thực khách, lại chịu đựng bài học của Phùng Hoan tặng; tức giận mà không đuổi đi, đó là một điểm đáng khen. Sau này, khi tiền bạc, danh vị đã mất, thì bao nhiêu thực khách đều bỏ ra đi, họ chờ đợi khi nào ông có lại danh vọng thì sẽ xin trở về. Bấy giờ, Mạnh mới thấy ai là "Tửu nhục bằng hữu" (bạn rượu thịt) và ai là người có thể trông cậy được. Hẳn lúc này Mạnh Thường Quân đã thấy sự nhận định của Phùng Hoan là đúng: nhà ông có đủ tất cả mà chỉ thiếu Nghĩa.

    Mạnh Thường Quân cũng như nước Tề đã không thể làm nên cơ nghiệp trong thời đó. Mà chính là nước Tần với sự đánh dẹp tàn khốc của Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa.

    Một phần lớn của tất cả mọi sự thất bại đều do cái tệ là không biết nhìn người của những kẻ nắm quyền hành trong tay. Điểm quan trọng nhất ở những ai muốn dựng nghiệp là phải biết đánh giá con người đúng mức, và đừng nghe những lời tâng bốc của kẻ đang được "đi hài thêu."
    _______o0o_______

    (Minh Đức Hoài Trinh)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  10. #10


    ___CUỐI ĐƯỜNG___
    (Tác Giả: Vương Mộng Long)

    "Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ. 
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!"
    (Vương mộng Long)



    Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, (29 tháng Tư) khi chúng tôi rút về tới Long Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:

    - "Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!"

    Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.

    Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

    Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em". Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:

    - "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"

    -"Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"

    Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:

    - "Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu ...hu..."

    Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...


    Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.

    Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang:

    - "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"
    - "Hoan hô!...Hoan hô!"

    Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

    - "Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?" Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

    - "Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

    - "Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?" Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.

    - "Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ." Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

    - "Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô". Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

    - "Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.

    - "Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:

    - "Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"

    Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:

    - "Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"

    Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

    Nghe ba tiếng "Đường Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi:

    - "Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"

    - "Phải rồi! 82 đây!"

    - "Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"

    - "Có ai ở đó không?"

    - "Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"

    Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi:

    - "Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"

    Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

    Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la:

    - "Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"

    Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt Nam Cộng Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

    - "Choác! Choác! ....Choác!"

    Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh:

    - "Đưa tao!"

    Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

    Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." - "Choác! Choác! ... " - "Xoẹt! Xoẹt!..." - "Oành! Oành!.." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

    - "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

    - "Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"

    Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

    Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

    - "Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !"

    - "Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!"

    Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

    Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

    "Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!..."

    Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

    - "Anh em chết hết rồi . Chạy đi, thày ơi!" Đó là tiếng Trung úy Trâm.

    "Toác! Toác!" - "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

    - "Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi! ...ơi. ..ơi..."

    Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

    - "Trâm ơi! Làm ơn! ... Cho anh chết! Trâm ơi!..." Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó, tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,

    - "Ông thiếu tá bị thương hả?"

    Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

    - "Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"

    -"Cám ơn cụ!" Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

    Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

    - "Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"

    Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!" Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,

    - "Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi! "

    Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...." Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

    Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ:

    - "Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn."

    Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

    - "Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt."

    Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

    - "Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!"

    Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di Cư:

    - "Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"

    - "Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!"

    Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

    - "Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!" Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.

    Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,

    - "Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.

    - "Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."

    Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

    - "Chứ hai anh kia làm chi rứa?"

    - "Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng.

    - "Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần.

    Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

    - "Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"

    Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

    - "Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."

    - "Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.

    - "Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

    - "Thưa Mẹ! Con đi!"
    - "Thưa Mẹ! Con đi!"
    - "Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!"

    Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

    Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!" Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường Sơn Quán (?)

    Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

    Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...

    Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...

    Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!" Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.

    Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.

    Thời gian trôi . . . mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời:

    - "Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"

    - "Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà . . . nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

    Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.

    Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

    - "Các chú tha lỗi cho anh..."

    Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:

    -"Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!..."

    Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt "Đường Sơn Đại Huynh" đẫm lệ...

    (__Vương Mộng Long__)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

 

 

Similar Threads

  1. Truyện Thật Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 3
    Last Post: 06-23-2015, 06:14 PM
  2. Audio Truyện Ngắn
    By V.I.Lãng in forum Truyện
    Replies: 11
    Last Post: 08-07-2013, 05:05 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 04-26-2013, 02:03 AM
  4. Hẹn Hò - Truyện Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 5
    Last Post: 02-09-2013, 06:04 PM
  5. Truyện Thật Ngắn
    By cao nguyên in forum Truyện
    Replies: 92
    Last Post: 01-28-2012, 07:00 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 11:41 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh