Register
Page 4 of 5 FirstFirst ... 2345 LastLast
Results 31 to 40 of 44
  1. #31

    ___Chuyện của Ngâu
    (Tác Giả: Lâm Chương)


    Mười chín tuổi, Huỳnh Thị Ngâu có tình. Ông Huỳnh Hừng, cha cô, biết chuyện nhưng giữ thái độ im lặng đến lạnh lùng.

    Trong bữa cơm chiều, Ngâu e dè ăn từng miếng nhỏ. Cha cô ngó chăm vào con gái, vài lần nhắp cốc rượu, hắng giọng như muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng chẳng nói.

    Buổi tối. Ngâu vào buồng, buông mùng, nằm nghĩ đến người tình.

    Mẹ cô theo vào, vén mùng, ngồi kế bên, hỏi: "Thằng ấy thế nào?"

    Cô vờ hỏi lại: "Thằng nào?"

    "Thằng vẫn theo con vào đồn điền cao su đó."

    "Làm gì có."

    "Mày láo. Tao biết hết rồi."

    "Mẹ biết, sao còn hỏi con?"

    "Đồ chết bầm! Ba mày đang theo dõi đấy."

    Ngâu nằm im lặng.

    Mẹ dỗ: "Nói đi. Nó thế nào?"

    Ngâu thủ thỉ: "Ảnh nói thương con."

    "Không. Gia thế kìa?"

    "Đi lính, cấp bậc trung sĩ."

    Mẹ gắt: "Biết rồi. Cha mẹ nó?"

    "Bắc di cư, năm năm tư."

    "Tên nó là gì?"

    "Koan Trâu Phiên."

    "Hả?"

    Ngâu lặp lại: "Koan Trâu Phiên."

    "Tên nghe lạ."

    "Ảnh kể, bố mẹ thuộc sắc tộc Nùng, Lai Châu. Khi mới vào Nam, bố dắt đi làm thế vì khai sinh, khai tên Quang Châu Phiên. Ông hộ tịch người Nam, viết thành Koan Trâu Phiên."

    "Nó nói gì nữa không?"

    "Chỉ nói thương con."

    Mẹ dặn: "Chưa thương được đâu. Coi chừng ba mày cắt gân đấy."

    Mẹ bỏ ra ngoài. Ngâu nghĩ, tình yêu thật tuyệt vời, nhưng chung quanh lắm điều rắc rối.

    ..............

    Ngâu đứng nép vào vùng cây lá rậm, bên ngoài đồn điền.

    Phiên hỏi: "Sợ anh đến thế à?"

    Ngâu ấp úng: "Không. Chỉ sợ có người trông thấy."

    "Chả có ai đâu."

    "Phu đồn điền vẫn thường ngang qua đây."

    "Họ không phải bố em. Sợ gì?"

    "Họ sẽ mách lại. Em sợ tất cả mọi người."

    Phiên nhích gần hơn, cầm tay Ngâu. Cô rụt tay về.

    Phiên tha thiết: "Anh thương em."

    Ngâu lí nhí: "Biết rồi."

    "Có thương anh không?"

    "Hỏi câu đó hoài."

    "Anh muốn nghe em nói."

    "Không thương, sao đứng đây với anh?"

    "Vậy là thương hả?"

    "Ư... ư... "

    Phiên đặt tay lên vai Ngâu, kéo vào mình. Ngâu vùng nhẹ, cầm tay Phiên bỏ ra.

    "Hãy nói thương anh đi."

    Ngâu quay mặt, cười khúc khích: "Nói thế, ngượng chết đi."

    Bất ngờ, Phiên ôm chầm lấy Ngâu. Hôn tới tấp lên mặt, lên cổ.

    Ngâu ú ớ: "Anh..., buông em ra."

    "Anh thương em."

    "Lại nói câu ấy nữa."

    Ngâu yếu đuối trong tay Phiên. Cô ngữa mặt nhìn lên vòm cây. Có những bông hoa dại màu trắng điểm lấm tấm giữa màu lá xanh, và những con chim nhỏ chíu chít trên cành. Thiên nhiên bao giờ cũng thế. Nhưng Ngâu bỗng thấy như tất cả đều rộn lên, hoà cùng xúc cảm mới lạ ùa chụp xuống làm cô choáng ngợp, đồng thời với nỗi lo sợ vu vơ.

    Ngâu lại nói như van: "Buông em ra đi anh."

    Phiên âu yếm vùi mặt vào tóc Ngâu, nói trong hơi thở: "Mình sẽ là vợ chồng."

    "Anh ơi, đừng ôm nữa. Em sợ...."

    "Bằng lòng làm vợ anh không?"

    Ngâu gật đầu: "Bằng lòng, nhưng... hãy buông em ra."

    Phiên tháo vòng tay, tiếc nuối.

    Ngâu vuốt lại mái tóc, mặt đỏ bừng: "Anh kỳ quá à."

    Phiên cười: "Anh thích kỳ như thế."

    Ngâu dí ngón tay vào trán Phiên: "Cái mặt không biết mắc cỡ."

    Phiên cầm tay Ngâu. Lần này, cô không rụt tay về. Cả hai im lặng, nhìn về những hàng cao su thẳng tắp. Ngâu vẫn còn nguyên cái cảm giác trong giây phút Phiên ôm ghì lấy thân thể nóng bỏng của cô. Cái cảm giác đầu đời chạm với tình yêu.

    Lúc lâu sau, Phiên nói: "Anh sẽ nhờ mai mối đến nhà em."

    "Chỉ ngại ba em... " Ngâu phân vân.

    "Chê anh không xứng hả?"

    "Không. Có điều khó nói."

    "Điều gì?"

    Ngâu cúi đầu: "Ba em không ưa lính."

    "Ngâu ơi, thanh niên thời buổi này, ai mà chả phải đi lính?"

    "Biết thế. Nhưng ba em thì khác."

    "Phải làm sao cho ba em thương anh?"

    "Em không biết."

    "Điều gì, em cũng không biết." Rồi Phiên cười, nhái theo câu thợ "Em còn bé lắm, chỉ biết yêu thôi. Chả biết gì."

    Ngâu cũng cười: "Em còn bé lắm, chả biết yêu. Cũng chả biết gì."

    "Thế thì anh dạy cho em biết gì." Phiên ôm Ngâu, vùi mặt vào ngực cô.

    Ngâu đẩy ra: "Khiếp quá."

    Phiên nói: "Thương nhau là phải thế."

    "Không thế, không phải là thương sao?"

    "Không. Chỉ là thương mây khóc gió của mấy ông thi sĩ thất tình. Em mười chín tuổi, phải thực tập bài học yêu thương để chuẩn bị làm vợ."

    "Chuyện ấy tính sau. Bây giờ, cho em về. Ba em biết hẹn hò với anh, thì chết."

    "Mới gặp đã đòi về?"

    "Em sợ."

    Phiên nài nĩ: "Không ai thấy đâu. Nán lại chút nữa, em?

    "Thôi mà, cho em về."

    Phiên tiếc: "Ừ, thì về. Mai gặp lại chỗ này, nhớ nhé?"

    "Nhớ rồi. Anh đứng đây, chờ em đi khuất. Em sợ có người trông thấy mình đi chung."

    "Trước khi về, anh hôn em lần nữa."

    Ngâu chưa kịp trả lời. Phiên đã nâng mặt cô, và đặt lên đôi mắt những nụ hôn nồng nàn thắm thiết.

    Ngâu trách yêu: "Râu cà gần rách mặt người ta. Mai cạo râu đi nhé."

    Ngâu đi dưới bóng mát những hàng cao su. Phiên đứng nhìn theo cái lưng nhỏ bé của người yêu đến khi khuất sau một khúc quanh trên con đường đất đỏ.

    Buổi sáng. Như thường lệ, Ngâu mang gùi vào vào đồn điền cao su cạo mủ. Cổ cô choàng chiếc khăn rằn của Phiên. Chiếc khăn của cô, Phiên xin, và thay thế bằng chiếc khăn này. Phiên nói, để giữ lấy hơi hướm người tình. Ngâu cảm động. Không ngờ trong tình yêu có những chi tiết vụn vặt, lại làm cho người ta xúc động đến chảy nước mắt. Cô ngó ra con đường đất đỏ về phía bìa rừng, nơi Phiên vẫn thường từ đó đi tới. Cô hình dung ra cái dáng đi lừng lững, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai màu xanh cứt ngựa, vành mũ sụp xuống che ngang vầng trán. Đôi mắt xếch dưới cặp chân mày rậm, hiện rõ cái nét dữ dội của kẻ gan lì. Biết nhau lâu, nhìn hoài đôi mắt ấy, cô lại thấy dễ thương chi lạ. Và những câu ân tình của Phiên, còn đọng lại trong cô thành nỗi nhớ nhung.

    Qúa ngọ, vẫn chưa thấy Phiên. Ngâu bứt rứt mong chờ. Tiếng con chim gáy từ rừng xa khắc khoải vọng về, cô nghe tiếng như tiếng gọi buồn khi xa vắng. Trước kia, có bao giờ cô để ý tiếng chim, và cảnh sắc chung quanh mình đâu. Tất cả những thứ đó, cô đã nghe thấy từ ngày còn bé, quen thuộc như một phần đời dính liền với cô, chìm trong ký ức. Từ khi có Phiên, cô cảm thấy mọi thứ đều hiện diện và đổi khác, mới lạ và đáng yêu. Mọi thứ đều biết vui buồn theo tâm cảm của cô, chứa chan đầy ắp kỷ niệm. Cô đang mong nhớ đợi chờ. Bỗng có vài ba tiếng súng nổ tắc cù bên ngoài đồn điền, phía giáp ranh với bìa rừng. Cái âm thanh khô khốc lẻ loi, làm cô khó chịu. Thời chiến tranh, thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng súng như thế. Cô tự hỏi, cuộc đời tươi đẹp biết bao, sao người ta gây chi những đau buồn chết chóc?

    Chiều sắp tàn. Phiên không đến. Ngâu buồn bã trở về, thầm trách người yêu lỗi hẹn. Từ đó trở đi, ngày nào mang gùi vào đồn điền cao su, cô cũng đợi. Chờ đợi lâu ngày thành tuyệt vọng. Phiên không bao giờ đến nữa. Nỗi buồn cô giấu trong tim, mà nước mắt cứ ứa ra từng đêm trên gối. Chẳng ai nói cho Ngâu biết, tại sao mình bị bỏ rơi?

    ................

    Sau ngày Miền Nam sụp đổ. Ngâu lập gia đình với viên huyện đội trưởng, tên Dư, sinh được hai con. Chồng cô rất mực chìu vợ, thương con. Ai cũng cho rằng, Ngâu may mắn được người chồng tốt, một gia đình ấm êm hạnh phúc. Biết bao cô gái đến tuổi trưởng thành, cũng chỉ mơ ước có một mái ấm như thế mà thôi. Bốn năm lấy chồng, Ngâu giữ tròn bổn phận làm vợ, làm mẹ. Dù thế, cô vẫn thường xa vắng mông lung, nhớ người tình cũ. Nhớ cái dáng đi lừng lững, và đôi mắt xếch. Nhớ những lần Phiên siết lấy cô, hôn tới tấp. Những nụ hôn cháy bỏng làm cô bừng bừng nóng ran da thịt. Từ ngày lấy chồng, chưa bao giờ cô có được cảm giác ấy. Không phải chồng cô thiếu nhiệt tình. Chính cô thờ ơ với những ái ân trong tình chồng vợ. Nhiều khi đầu ấp tay gối với Dư, cô tự đánh lừa mình bằng cách tưởng tượng đang nằm trong vòng tay âu yếm của Phiên, để tìm lại những rung động mãnh liệt ngày nào. Nhưng cô thất vọng. Tự đánh lừa mình là điều không dễ. Trên đường đời, một lần cô bước hụt chân. Tình yêu vuột mất, để lại trong cô một khoảng trời trống lốc. Khoảng trống ấy cứ lớn dần lên mãi. Cái khoảng trống mênh mông không thể lấp đầy bởi người người đàn ông cô gọi là chồng.

    Những buổi trưa, nhìn về phía đồn điền cao su, nghe tiếng con chim gáy từ rừng xa, cô buồn như chết lặng. Dù bây giờ, đồn điền không còn nữa. Cao su già cỗi bị đốn bỏ lâu rồi. Người ta thay vào đấy là là nông trường trồng mía. Con đường đất đỏ cũng biến mất, để nới rộng thêm cho diện tích trồng trọt. Nhưng với cô, tất cả vẫn bềnh bồng trong trí nhớ. Và tiếng chim gáy cũng gợi lại cho cô một mùa hè năm cũ, với vài ba tiếng súng nổ. Trong thời điểm ấy, cô vĩnh viễn mất người yêu. Từ đó trở đi, cây lá vẫn trổ màu xanh, nhưng cô buồn rầu héo hắt. Nhất là khi vô tình cô biết được một sự thực phũ phàng, thì khoảng trống trong lòng cô nhuộm trắng một màu tang.

    Khi "cách mạng" giành được quyền kiểm soát Miền Nam. Ông Huỳnh Hừng tự bộc lộ thân phận là một cán bộ nằm vùng. Với quá trình hai mươi tuổi đảng, đương nhiên ông là nhân vật có thế lực của chế độ mới. Chồng của Ngâu, trước kia là du kích, hoạt động dưới sự bí mật điều khiển của ông Huỳnh Hừng. Sau này, Dư được ông nâng đỡ, đưa lên làm huyện đội trưởng, và gả con gái. Trong một lần chè chén, các đồng chí của chồng vui say nhắc lại những thành tích chống Mỹ cứu nước. Thành tích của Dư là đã phục kích bắn chết một trung sĩ ngụy tên Phiên. Công lao đó, có ông Huỳnh Hừng dự phần. Ông theo dõi nhiều ngày để biết chắc thời gian, và lối đi về của Phiên thường hẹn đến với tình nhân, rồi đề ra kế hoạch cho Dư thi hành. Bây giờ, Ngâu mới hiểu rõ câu nói mập mờ của mẹ: "Ba mày đang thoe dõi. Coi chừng ba mày cắt gân đấy."

    Khi Ngâu biết được điều đó thì mọi chuyện không còn có thể thay đổi nữa. Cô đã có con với Dư rồi. Cô mang một mặc cảm như chính mình là nguyên nhân gây ra cái chết của Phiên. Biết trách ai? Thời thế đã du cha cô và Dư về phía đối lập với Phiên. Không từng quen biết, mà thù hằn rình rập sát hại lẫn nhau. Phiên sa vào cái bẫy của cha cô. Trong đó, cô được dùng như một miếng mồi nhử. Dư chỉ là tên thừa hành, nhưng lại là người trực tiếp nhúng tay vào máu. Làm sao cô tìm được hạnh phúc với kẻ đã giết chết đối tượng tình yêu của mình? Nhưng cô lại không đủ cái liều để dứt khoát ra đi. Còn con của cô nữa, nó cũng là nguyên nhân buộc cô ở lại. Cô thấy mình bất lực, và buông xuôi theo ngày tháng trắng mênh mông.

    Khoảng trống trong lòng cô, chỉ mình cô biết. Con chim rừng thay đổi mấy đời chim rồi, nhưng tiếng gáy nghe không khác năm nào. Còn cô thì đã đi quá xa. Ngoái nhìn về dĩ vãng, tất cả đều trôi ngược chiều thời gian làm thành kỷ niệm. Kỷ niệm nào, khi nhớ lại cũng làm cô rơi nước mắt.
    __o0o__
    (Lâm Chương)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  2. #32

    ___DÒNG SÔNG ĐỨNG LẠI
    (Tác Giả: Trần Mộng Tú)


    Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người làm chung sở. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.

    Cả hai người bước vào phòng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:

    - Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.

    Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:

    - Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.

    Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.

    Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi trong quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.
    Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.

    Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.

    Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài:

    - Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn.

    Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:

    - Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.

    - Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ. Mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó.

    Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, nhầu nát. Tóc tai bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh. Sân bay trông sao mênh mông thế mà chiếc áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

    Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước.

    Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.

    - Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.

    Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục xác chết xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng túi có bọc thây người ở trong, có cái lòi cả hai bàn chân còn nguyên đôi giầy ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất. Cái thì thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo "Đúng là Cung rồi!"

    Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.

    Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con, đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với đôi mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.

    Tôi đứng đó lơ mơ nghe những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau "Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”

    Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo.

    Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.

    Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, mà chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.

    Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.

    Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.

    Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

    Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.

    Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.

    Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

    Tôi trôi mãi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.

    Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó đã hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.

    Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến

    o0o

    Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định.

    Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, Tên, Ngày Sinh, Ngày Mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra. Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại, bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối, bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

    Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.
    ____o0o____
    (Trần Mộng Tú)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  3. #33

    __NƠI CÓ NGÔI ĐÌNH CŨ
    (Tác Giả: Lâm Chương)


    Chương 1

    Tôi theo bọn thợ rừng, giạt về Tầm Lanh. Đi kiếm sống mà chui vào xó xỉnh nơi góc rừng này, không mong gì ngóc đầu lên nổi. Cái xóm đìu hiu hẻo lánh đến não lòng. Thế nhưng tôi ở lại đã ba năm. Đời yên mà quạnh lắm. Nơi đây có chừng vài mươi mái nhà nằm đơn độc xa nhau, im lìm vắng vẻ. Nghe nói, ngày trước Tầm Lanh cũng không đến nỗi tiêu điều đến thế, nhưng chiến tranh cứ đẩy con người bỏ xóm đi xa dần. Sau chiến tranh, chẳng ai còn nghĩ đến chuyện quay về chốn cũ, để chiều chiều ngồi bó gối, ngó lên ngọn rừng, nghe vượn hú.

    Hồi tôi mới tới đây, Ba Canh nói: "Chú em đừng ngại, chuyện gì rồi cũng sẽ quen đi. Việc đo đạc, tính giá cả, chỉ cần biết bốn phép toán cộng trừ nhân chia là đủ. Còn công việc sau đó, hơi vất vả một chút. Tôi sẽ chỉ cách cho chú em làm. Đóng cọc, vác củi sắp vào từng thước khối... Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày."

    Thế đấy. Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày. Tôi phụ việc với Ba Canh, làm nơi bãi đất ở cuối xóm, giáp với bìa rừng. Gỗ súc và củi từ trong rừng đem ra chất đống nơi đây, chờ chuyển đi các nơi xạ Dân xe be, và bọn thợ rừng gọi bãi này là Bến Củi.

    Bến Củi nằm trong địa phận Tầm Lanh, nhưng trong những giao tiếp làm ăn, người ta quen nói Bến Củi. Càng về sau, nhắc đến Tầm Lanh không còn mấy người biết nữa. Mọi sinh hoat rộn rịp của Tầm Lanh, chỉ diễn ra nơi Bến Củi, chừng vài tiếng đồng hồ vào giữa trưa, khi bọn thợ từ rừng ra, lái gỗ từ các nơi tới. Lăng xăng đo đạc, trả giá. Xuống củi từ những xe bò xe trâu, hoặc cẩu những thanh gỗ súc lên xe bẹ Xong, họ chia taỵ Bọn thợ xách cưa trở vô rừng. Và lái gỗ cùng những chiếc xe be rời Bến Củi bằng con đường đất ngoằn nghèo dài hun hun hút, dưới những tán lá rậm hai bên đường.

    Tôi là kẻ thất cơ lỡ vận phải vào Tầm Lanh kiếm sống đã đành nhưng có một thành phần khác, không ai ngờ, cũng vào đây. Đó là những cô đã một thời đem thân xác mình phục vụ cho khách mua hoa nơi các phố thị đông người. Nay nhan sắc đã tàn phai, không còn đủ sức bon chen với đám đàn em mới vô nghề. Họ quay ra đón khách dọc đường, lưu động theo các chuyến xe chạy đường xa, có khi còn vào tận chốn rừng sâu với bọn thợ rừng. Mỗi lần nhìn thấy các cô em tóc tai rối bời gió bụi trên chuyến xe đi đến, hoặc mặt mũi bơ phờ từ rừng trở ta, lòng tôi trắc ẩn. Có lẽ họ cũng nhìn thấy tôi là kẻ hết thời, không hơn gì "con vạc ăn sương" như họ. Cùng một nòi lưu lạc, dễ thông cảm nhau, và từ đó sinh ra cảm tình.

    Buổi trưa. Tôi ngồi trốn nắng dưới bóng cây. Một cô sà đến, ngồi kế bên, nói rất tự nhiên như đã quen thân tự kiếp nào: "Em đi lưu diễn nhiều nơi, chưa thấy nơi nào buồn như nơi này."

    Tôi cười vì hai tiếng "lưu diễn", và lắc đầu nhẹ, tỏ ý chán đời, đồng cảm.

    Tôi hỏi: "Em tên gì?"

    "Kiều."

    "Tên thật của em hả?"

    "Không. Hồi em mới bước chân vô nghề, có thằng cha tự xưng thi sĩ, gọi em là Thúy Kiều. Nghe cái tên cũng hay hay, em xưng Thúy Kiều luôn. Không biết tại sao, khi em nói tên em là Thúy Kiều, có nhiều người cười. Chắc họ biết tên giả. Em bỏ bớt chữ Thúy, chỉ còn Kiều. Em xài tên Kiều cho đến bây giờ."

    "Sau này, nếu có ai còn cười nữa, em thêm chữ Giáng, thành Giáng Kiều. Người ta sẽ hết cười."

    "Ừ, Giáng Kiều. Tên cũng đẹp."

    Cô thò tay vào xú chiêng móc ra một gói thuốc Hoa Mai. Bao thuốc bèo nhèo, điếu thuốc cong queo. Cô châm lửa hút vài hơi rồi trao cho tôi

    "Hút đi. Nhìn chi mà nhìn dữ vậ?"

    Tôi nói: "Xú chiêng chứ đâu phải túi đựng đồ mà cho gói thuốc vào trong ấy."

    "Em còn nhét cả tiền nữa. Thời quỷ vương, bọn cướp giựt đầy đường. Mang bóp đầm, đi õng eo., dễ làm mồi cho tụi nó lắm."

    Tôi ngó vơ vẩn ra bìa rừng.

    Cô nhìn tôi một lúc, lại nói: "Năm bảy năm về trước, cặp vú em no tròn đầy đặn. Bao nhiêu thằng mê em, chỉ muốn vục mặt vào đó. Còn bây giờ thì... " Cô bỏ lửng câu nói.

    Tôi hỏi: "Bây giờ thì sao?"

    "Hỏi mỉa em hả?"

    "Không. Anh đang nghĩ đến luật đào thải phũ phàng khắc nghiệt của tạo hoá."

    Cô khoát tay: "Ối. Hơi đâu mà nghĩ luật này luật kia cho mệt. Em chỉ hận lũ đàn ông. Đàn ông là thứ mới chuộng cũ vong, là thứ phản bội, trời đánh thánh đâm."

    Tôi kêu lên: "Trời đất! Có phải vì nóng nực, làm em nổi giận bất thường? Em hận thằng nào thì chửi thằng đó. Sao bỗng dưng lại trút căm hờn vào anh?"

    "Em không nói anh."

    "Anh không phải đàn ông sao?"

    "Đàn ông, nhưng em trừ anh ra." Cô cười. "Thôi, mình lại quán uống nước đá đi anh. Em bao." Và đứng dậy, nắm tay tôi kéo đi.

    Đang đi, cô hỏi: "Anh mấy tuổi?"

    "Bốn mươi ba."

    "Vợ con ra sao?" Cô liếc mắt, dí ngón tay vào trán tôi. "Đừng nói với em rằng anh còn độc thân nhe."

    "Em điều tra giống như công an thẩm vấn."

    "A a..., nhắc đến công an, em lại nổi sùng. Bọn nó ruồng bắt tụi em, đưa vào trại Phục Hồi Nhân Phẩm. Phục cái mả cha nó, chứ phục hồi gì. Đứa nào "thâm niên công vụ" như em, nó đẩy đi lao động, phơi nắng cháy da. Đứa nào còn trẻ đẹp, nó giữ lại, hành ngày hành đêm muốn ngất xỉu, kêu trời không thấu. Những thằng công an của trại Phục Hồi Nhân Phẩm, bản mặt thằng nào cũng tái mét xanh xao, mắt quầng thâm vì chơi bời trác táng quá độ. Có thằng ghẻ lác đầy mình, con vi trùng giang mai đã rúc vô tận xương tủy của tụi nó rồi."

    "Em hay bắt quàng, từ chuyện nọ xọ chuyện kiạ"

    "Thôi, trở lại chuyện của anh. Vợ anh đâu?"

    "Gửi cho bà già vợ nuôi. Còn anh lo nuôi thân anh."

    Cô ngó tôi, cười cười: "Hỏi thiệt nha. Có thích em không?"

    "Đừng hỏi tầm phào."

    "Cái mặt làm bộ sầu đời, cách nói chuyện cà tửng của anh, nhiều em gái ngây thơ chịu lắm. Tụi mình kết duyên thành chồng vợ được đấy."

    "Để ôm nhau chết đói hả?"

    "Em tình nguyện đi làm nuôi anh."

    "Đi khách đem tiền về nuôi anh?"

    "Không. Em chán cái nghề này lắm rồi."

    Chúng tôi ngồi dưới chái hiên quán Ba Canh. Chị Ba chủ quán mang nước đến, rồi bỏ đi ngay như muốn tránh mặt...
    o0o

    Chương 2

    Cô Kiều nhìn theo sau lưng chị Ba, kề tai tôi, nói nhỏ: "Em còn lạ gì con đ. ngựa này. Nó đỏng đảnh với mấy thằng xe be ngoài chợ. Ai chẳng biết,"


    "Thôi. Chuyện người ta. Mắc mớ gì em."

    "Hứ! Cái thứ r...đực, còn làm ra vẻ khinh người. Khó ưa."

    Cô nguýt dài. Đuôi mắt đã có dấu hiệu xếp nếp thời gian.
    ..........

    Tầm Lanh chỉ có một quán tạp hoá duy nhất của Ba Canh, nằm kế Bến Củi. Bên hông quán, che thêm cái chái dùng làm nơi bán thịt rừng, và nước đá giải khát buổi trưa cho những người sinh hoạt nơi Bến Củi. Ba Canh giao quán cho vợ con trông coi. Còn anh, lo chạy vòng ngoài. Vào rừng mua lại thịt tươi từ các tay săn bẫy thú, hoặc theo xe be ra chợ bổ thêm hàng hóa về cho vợ. Nhiều khi công việc bề bộn, vợ anh phải thay thế ra chợ bổ hàng. Việc này cũng mất khá nhiều thời gian, phải ở lại qua đêm, hôm sau mới có chuyến xe vào lại Tầm Lanh. Vì phải ở lại qua đêm, nên chị Ba mang nhiều tai tiếng lăng nhăng với dân xe be và lái gỗ. Người ta xầm xì về chuyện này, nhưng Ba Canh không hề hay biết. Trời sanh ra anh để nhìn đời theo con đường thẳng, chứ không phải để nghi ngờ dò xét ở những khúc quanh.

    Trời nắng loá. Trông ra Bến Củi, mặt đất dường bốc hơi thành gợn sóng. Những xe be đã bắt đầu rục rịch, chuẩn bị rời bãi.

    Cô Kiều nói: "Em phải về. Anh có muốn em ở lại không?"

    "Anh không có tiền."

    "Miễn phí cho anh."

    "Anh trú miễu ở đình. Làm bậy Quỷ Thần vật chết. Thôi, em về đi."

    "Về lần này, có lẽ em không trở vô nữa. Em muốn đổi nghề, kiếm chuyện khác làm ăn."

    "Ừ, được đấy. Em cũng lớn tuồi rồi. Phải nghĩ tới tương lai."

    Cô than thở: "Em muốn về quê cũ, làm lại cuộc đời. Nhưng em hư quá, vô phương quay về."

    "Thì đi nơi khác. Buôn gánh bán bưng gì cũng được."

    "Phải có một căn bản gia đình, mà em thì cô đơn...." Cô thở dài.

    Tôi an ủi: "Từ từ, em cũng sẽ kiếm được người thương em."

    Ngoài bãi, có tiếng kêu ơi ới. Xe sắp rời Bến Củi.

    Cô đứng dậy: "Em đi nhé. Chắc mình không gặp nhau nữa đâu."


    Cô bước đi xa, còn ngoảnh đầu ngó lại. Bỗng cô trở gót, quay vào cầm tay tôi: "Coi... kìa..., cái mặt buồn buồn, dễ ghét. Bộ thương em hả?"

    "Thôi mà, đừng có đùa. Bao nhiêu người dòm ngó."

    "Dòm, kệ họ. Mai mốt có ra chợ, nhớ tìm em nhẻ"

    Tôi hối: "Được rồi. Em đi đi. Trễ chuyến xe bây giờ."

    Cô lầm lũi đi nhanh ra Bến Củi, lên xe, đưa tay vẫy vẫy. Tôi trông theo, cảm thấy nao nao. Không biết lòng mình ra sao nữa.

    Tôi ngồi lại với nỗi trống không, buồn vô cớ.

    Chị Ba bước ra hiên, dọn những ly tách trên bàn, nói: "Cặp kè với loại người ấy, chỉ mất mặt."

    "Nói chuyện thôi. Đã có gì đâu?"

    "Còn muốn có gì nữa hả? Anh Ba Canh giúp anh có cơm để sống, chứ không phải để anh đem tiền bao gái."

    "Chị thấy tôi có lạng quạng với ai không?"

    "Chuyện khuất lấp ban đêm, chỉ có trời biết. Còn chuyện ban ngày, đã rõ trắng đen. Bạ ai cũng tán tỉnh, thượng vàng hạ cám không chừa thứ nào."

    Thái độ và lời lẽ của chị Ba làm tôi ngạc nhiên. Chị đâu có quyền nói những lời gay gắt như thế với tôi. Nghĩ tới tình nghĩa anh Ba Canh lâu nay, tôi không nỡ phản ứng làm mất lòng người vợ của anh.

    Tôi nói: "Chị hơi nặng lời đấy." Và bỏ đi ra bãi.
    ........

    Bến Củi không còn ai. Tôi một mình vác củi chất vào từng thước khối theo những cây cọc, Ba Canh đã đóng sẵn từ trước. Hôm nay, anh theo xe ra chợ lấy hàng.

    Tôi làm mãi đến xế chiều. Khô cổ, khát nước, mồ hôi đầm lưng áo. Trời đứng gió, oi nồng. Muốn vào quán để uống ly nước đá, nhưng nghĩ lại thái độ khó chịu của chị Ba, tôi ngại. Tôi đi chếch về phía tây Bến Củi, nơi có ngôi đình, lâu ngày không được trùng tu.

    Hồi mới tới đây, trông thấy một bên hiên đình quằn xuống sắp đổ. Hình ảnh hư hao tàn tạ cuốn hút lòng tôi. Tìm ở đâu cho xa. Một nơi chốn mà người đời quên lãng, sẽ là nơi trú ngụ an toàn cho con chim tơi tả trước cơn dông thời cuộc. Mái đình xưa, lợp ngói âm dương, phủ màu rêu xám. Cuối nóc đình, chỗ giáp với đầu hồi, có gắn con hạc bằng đồng thau, xoãi cánh như đang cố sức một cách tuyệt vọng, chấp chới bay lên để thoát khỏi sự sụp đổ của thời gian, nhưng đôi chân tội nghiệp cứ dính chặc với ngôi đình. Phía sau con hạc, cỏ dại và những cây con mọc đầy trên mái. Lớp lớp rêu cỏ, âm thầm nói lên biết bao điều ý nghĩa. Những ai hăm hỡ xẻ gỗ dựng đình từ thế kỷ trước, đều khuất bóng cả rồi. Thần linh phiêu hốt nơi đâu, mà tượng gỗ xiêu xó nơi này. Dù không được trùng tu, nhưng số phận ngôi đình vẫn còn may mắn. Nhờ vào vị thế địa dư hẻo lánh, và không có tiếng tăm linh hiển vang xa, nên ngôi đình thoát được cái hoạ san bằng bởi chiến dịch triệt hạ những đình chùa lăng miếu, quét sạch nền văn hoá cũ của bao đời cha ông để lại.

    Đã bao nhiêu đêm, tôi nằm trăn trở dưới mái hậu liêu, sau đình. Nghe chim đớp muỗi vỗ cánh chạm xạc xào trong khóm lá ngoài kia. Nghe tiếng dơi chí choé cắn nhau giành chỗ đậu, dưới mái ngói bên hàng hiên sắp đổ. Thấm thía nhứt là tiếng vạc kêu sương, rớt xuống tự trên lưng chừng trời. Dường như trong tịch mịch lặng im, tiếng vạc lẻ loi, làm tôi thấy rõ hơn về nỗi quạnh hiu của lòng mình. Những đêm trăng tỏ, tôi thường đứng trông ra Bến Củi. Những khối củi mập mờ nhìn từ xa, giống như những chiếc xe tăng đang lổn nhổn tiến về phía bìa rừng. Bồi hồi nhớ lại thời còn chiến tranh. Một binh lực hùng mạnh là thế, bỗng một ngày tán loạn rã tan. Chuyện vô lý, tưởng chừng như cơn mơ. Đến khi lủ khủ dắt nhau vào tù, mới bừng ra sự thật. Từ ấy trở đi, lý lịch tôi mang một dấu ấn lớn, không mong gì xoá được để làm lại cuộc đời. Tôi về Tầm Lanh như người xưa bất đắc chí, quay về sằn dã. Ẩn nhẫn mà sống. Nhưng, sao bất cứ nơi nào, tôi cũng thấy bi đát. Hoàn cảnh một cô Kiều trưa nay, cũng làm tôi suy nghĩ. Tôi có hơn gì cô đâu. Đời đã lâm vào thế bí. Trở lui không được, tiến tới không xong...

    (còn tiếp)

    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  4. #34

    Chương 3_


    Đêm đã khuya. Sương xuống lạnh màu trăng. Hình như có tiếng chân ai dẵm lên những phiến lá khô ngoài sân đình. Tôi nhỏm dậy. Một người vừa bước đến bên thềm hậu liêu.

    Tôi ngạc nhiên: "Chị Ba! Có gì gấp mà giờ này ra đây?"

    "Cũng có chút việc." Chị nói nhỏ giọng.

    "Tôi có thể giúp chị không?" Vừa hỏi, tôi vừa vén tấm mùng, vắt lên nóc.

    Chị e dè ngồi xuống mép giường: "Anh có giận tôi không?"

    "Giận chuyện gì?"

    "Hồi trưa, tôi lỡ lời."

    "Không đâu. Chị nói cũng đúng. Tôi hay rà rê với mấy cô ấy."

    "Tôi biết anh làm thế, vì buồn."

    "Vâng. Tán gẫu cho qua ngày."

    "Nhưng anh phải lựa người chứ."

    "Có tính chuyện lâu dài đâu mà chọn lựa?"

    "Giữa ban ngày, kề vai bá cổ với gái điếm, không sợ người ta cười sao?"

    "Cái thân cùng đinh mạt kiếp như tôi, còn sợ ai cười nữa?"

    "Thấy chướng quá, tôi có nói nặng lời. Anh buồn không?"

    "Tôi buồn, nhưng không phải buồn chị"

    Chị ngó tôi, cười cười: "Buồn ai?"

    "Buồn vì... buồn. Thế thôi." Tôi ngập ngừng lúng túng. Cảm giác có điều gì bất thường.

    "Buồn vì cô đơn hả?" Con mắt chị liếc nhẹ, gợi tình...

    Dưới ánh trăng khuya nghiêng rọi vào hậu liêu, nét mặt chị Ba có sức quyến rũ lạ lùng. Mùi xà bông chanh trên tóc, mùi đàn bà quyện vào nhau thoang thoảng. Những đêm nằm một mình dười mái hậu liêu, tôi thèm được ôm một người đàn bà. Nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ người ấy là chị Ba.

    "Nói đi. Có phải buồn vì cô đơn?" Chị lẵng lơ nhìn tôi, và đưa tay vén mớ tóc giạt qua một bên cổ. Bộ ngực vun đầy của chị phập phồng dưới lớp áo mỏng.

    Tôi chống đỡ sự quyến rũ một cách yếu ớt: "Chị Ba à..., còn anh Ba Canh."

    Nói thế, nhưng hình như hình ảnh Ba Canh đã mờ nhạt trong trí tôi rồi.

    Chị nói: "Ảnh đi ra chợ. Anh cũng biết mà."

    Hơi hướm từ cổ chị Ba phả vào mũi tôi, cám dỗ. Và tôi cũng nghe rõ cả hơi thở hồi hộp của mình nữa.

    Có tiếng dơi kêu chí choé bên kia hàng hiên. Bỗng dưng, tôi cảm tưởng như tất cả những bức tượng ngả nghiêng đóng bụi trong đình, đều chỗi dậy. Quỷ Thần kéo nhau ra hậu liêu, đứng nhìn chị Ba và tôi. Tôi chợt nhớ lại ngày còn bé, đọc chuyện "Một Vị Quan Thanh Liêm" đời xưa, trong sách Giáo Khoa Thư: Có người mang của hối lộ đến. Vị quan từ chối. Người ấy nói: "Xin quan cứ nhận. Chuyện này không ai biết." Vị quan nói: "Sao lại không? ông biết. Tôi biết. Quỷ Thần Trời Đất biết." Chuyện của Chị Ba và tôi đêm nay, dù anh Ba Canh không biết, nhưng chị Ba biết, tôi biết, và Quỷ Thần Trời Đất biết.

    Ngọn đèn lương tâm leo lét sắp tắt rồi. Tôi cố lấy lại bình tĩnh, bước xuống giường, ra đứng ngoài hiên, lơ lãng nhìn trăng.

    Tôi gọi, vừa tha thiết, vừa khước từ: "Chị Ba ơi... Về đi. Lỡ có người trông thấy thì... chết."

    Chị ngỡ ngàng, ngồi sững lâu lắm. Tội nghiệp chị. Tôi muốn quay lại ôm lấy cái thân thể chín muồi dục vọng, ngã ra mặt giường, rồi đời có ra sao thì ra.

    Bất ngờ chị nói: "Thôi, tôi về. Đã theo tán tỉnh mấy con đ., còn lên mặt đạo đức làm cao."

    Câu nói như một gáo nước lạnh dội xối vào mặt, tôi bừng tĩnh.

    Chị thay đổi nhanh vô cùng. Mặt lạnh băng, vùng vằng bỏ đi. Không biết nghĩ sao, chị dừng lại, ngập ngừng: "Anh hứa không nói với ai?"

    "Vâng. Tôi hứa."

    Chị quay lưng. Thấp thoáng dưới trăng, bóng chị Ba mờ khuất ngoài Bến Củi.

    Tôi nằm thức suốt đêm. Thầm tiếc dịp may, nhưng cảm thấy yên lòng. Ngày mai, nhìn lại anh Ba Canh mà không hề thấy ngượng.

    Bình minh lên. Quạ kêu trên đầu cây sao già. Tiếng quạ kêu nghe thảm. Trong tiếng quạ sáng nay, dường như có thêm một điều gì thảng thốt. Có lẽ, hồn tôi bắt đầu nhuốm bệnh?

    Mọi sinh hoạt của Tầm Lanh, Bến Củi vẫn bình thường. Chị Ba đối với tôi, cũng bình thường. Nhiều khi tôi tự hỏi, chị có còn nhớ gì trong đêm ấy không? Khó mà biết được ý nghĩ của chị. Trong cái đầu của mỗi người đàn bà, có cả một kho tàng bí mật.

    Anh Ba Canh bao giờ cũng tử tế. Lòng anh đơn giản. Anh tưởng lòng người cũng đơn giản như anh. Anh thường khuyên tôi, nên tìm một người đàn bà goá, để gán ghép hai cuộc đời cô đơn làm một. Vì quá thật thà, anh đâu biết rằng có những cặp vợ chồng đang sống trên lưỡi dao cạo. Đến một ngày nào đó, hiểu ra thì con tim đã bị cứa nát rồi. Chừng nào anh Ba Canh mới thấu được lòng dạ chị Bả Lúc ấy, liệu anh làm sao với con tim chảy máu của mình?


    Chương 4__


    Ba năm tôi ở Tầm Lanh. Kẻ lạ chợt đến chợt đi. Tình người dưng nước lã. Tôi nương tựa vào gia đình Ba Canh, và coi đây là chỗ thân tình duy nhất. Đứa con gái lớn của anh, tên Mận, học hành dang dở. Tôi đến chơi, thường vẫn dạy thêm cho Mận về văn học, sử ký, địa dư, khoa học thường thức. Năm mười lăm tuổi, Mận nghĩ chuyện gì ở trên đời, tôi cũng thông suốt.

    Có lần, Mận hỏi: "Chú ơi, muối lấy từ đâu?"

    Tôi nói: "Từ trong nước biển."

    "Tại sao nước biển có muối nhỉ?"

    "Vì nước biển mặn."

    "Tại sao nước biển mặn?"

    "Vì nước biển có muối."

    Cái kiểu trả lời theo chu kỳ vòng tròn của tôi, làm hai chú cháu cười ngất.

    Năm mười sáu tuổi, Mận nói: "Chú ngon hơn ông Nguyễn Công Trứ."

    Tôi hỏi: "Tại sao?"

    "Ông Nguyễn Công Trứ đang làm quan, bị hất xuống làm lính, vẫn chạy theo sau để leo lên nữa. Còn chú, nghe ba cháu nói, cũng đang làm quan gì đó, rồi bị đi tù, trở về đi vác củi, chứ không thèm chạy theo cách mạng."

    "Hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác. Không so sánh thế được đâu. Cháu đừng nhắc chuyện cũ, để chú được yên thân làm nghề vác củi."

    Năm mười bảy tuổi, Mận nói: "Chú ơi, chú giống ông Trần Tế Xương."

    Tôi hỏi: "Ổng là thi sĩ. Chú là tiều phu. Sao lại giống nhau được?"

    Mận lật quyển sách, đọc:

    "Một trà, một rượu, một đàn bà
    Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta
    Chừa được thứ nào hay thứ ấy
    Có chăng, chừa rượu với chừa trà."

    Rồi ngước lên nhìn tôi: "Chú cũng vậy. Không chừa được đàn bà."

    "Đàn bà đâu? Chú đang sống một mình mà."

    "Hừm... Cháu thấy mấy cô làm... "gái", bu vào chú nói chuyện hoài."

    "Ừ, thì nói chuyện cho... vui."

    "Không được. Chú phải chừa cái thứ ba luôn."

    Tôi kêu: "Trời ơi. Chú đâu phải thầy tu mà chịu đủ thứ điều răn, giới luật?"

    Mận khẳng định: "Người tốt không giao thiệp với người xấu."

    Trong mắt Mận, tôi là người tốt. Mận không muốn tôi lân la gần gũi những người mà Mận cho rằng xấu. Mận đâu biết trên cõi đời ô trọc này, không thể nhìn bề ngoài con người mà tỏ được vàng thau. Mận thừa hưởng tấm nhan sắc tương đối mặn mà của mẹ, còn tính nết ra sao, chỉ có trời biết.

    Một chiều, nghỉ việc sớm. Tôi thơ thẩn trên sân đình.

    Mận đến, nói: "Má cháu bảo đem biếu chú trái dưa hấu đầu mùa." Và đặt trái dưa xuống bậc thềm.

    Tôi nói: "Tránh chỗ đó. Coi chừng mái hiên sập xuống bất cứ lúc nào."

    Chúng tôi vòng ra đứng trước tiền đình, cửa chính.

    Mận nhìn cánh cửa, mối mọt hư hao: "Cái đình này, ghê quá."

    "Cháu có vào bên trong bao giờ chưa?"

    "Hồi nhỏ, cháu thường vào mỗi khi có dịp cúng đình. Nghe nói Thần đình được sắc phong của vuạ Sắc đựng trong cái hộp gỗ, để bên cạnh bức tượng."

    "Mình vào coi thử đi."

    Tôi mở cửa chính điện. Bụi thời gian lả tả, rơi đầy trên tóc trên vai. Mùi cứt dơi xông nồng lên mũi. Nền đình lót gạch Tàu, bản lớn. Dấu chân chúng tôi in trên màu bụi xám. ánh sáng bên ngoài hắt qua cửa chính mờ mờ, đủ nhìn thấy bàn thờ, và bức tượng. Hai tấm liễn màu đỏ rủ xuống hai bên, viết bằng Hán tự. Bụi phủ, nhện giăng. Tượng Thần không lớn mà uy nghiêm. Hộp đựng sắc vua phong làm bằng gỗ mun, được che bởi miếng vải lụa điều. Tôi giở miếng vải lụa. Trên nắp hộp có khắc hình một con rồng khảm xa cừ.

    Tôi toan mở, Mận ngăn: "Không được."

    Tôi quay lại nhìn: "Sao không?."

    "Chẳng phải ai cũng có thể mở hộp ra coi được đâu."

    "Vậy, ai có thể mở?"

    "Cháu nghe nói, chỉ những vị chức sắc phải làm lễ xin phép Thần, trước khi mở hộp."

    "Những vị chức sắc, bây giờ ở đâu?"

    "Không biết." Mận đứng nép vào tôi, ngó dáo dác chung quanh. "Mình đi ra, chú. Vào đây, cháu thấy sờ sợ."

    Vì tôn trọng tín ngưỡng và tập tục lễ nghi của ngưới đời trước, tôi không mở hộp để coi sắc phong thần vua ban,

    Tôi nói: "Mai cháu đem cây chổi cho chú mượn. Chú muốn quét dọn bên trong ngôi đình."

    "Không. Đừng động đến mọi vật bên trong."

    Chúng tôi ra tới cửa chính. Bất ngờ, thấy chị Ba đứng sẵn nơi tiền đình.

    Tôi gọi: "Chị Ba!" như thay thế một lời chào.

    Mặt chị có vẻ khác thường: "Các người làm gì trong ấy?"

    Mận nói: "Chú định coi sắc vua."

    "Hừ... Sắc vua." Chị nắm tay Mận lôi về. Không thèm ngó đến tôi.

    ............

    Tôi gặp lại Ba Canh ngoài bãi, hôm sau. Anh không nói gì. Thái độ rất lạnh lùng.

    Không chịu nổi sự im lặng của anh, tôi lên tiếng hỏi: "Chị Ba có nói với anh điều gì về tôi?"

    Anh ngừng tay làm việc, rút thuốc ra hút, và đứng suy nghĩ. Mãi lâu sau, anh nói: "Tôi quý chú em, coi như người nhà. Không ngờ, chú tệ quá." Anh thở dài.

    "Nhưng chị nói những gì?"

    "Những gì, chú cũng biết rồi. Con Mận còn khờ. Chú là người hiểu biết. Miếu đình là chốn linh thiêng. Sao lại đem nhau vào trong ấy làm... bậy? Không sợ Quỷ Thần quở phạt?"

    "Có phải chị Ba thêu dệt chuyện này?"

    "Ai dám thêu dệt chuyện động trời như thế."

    "Anh chị đã hỏi kỹ lại con Mận chưa?"

    "Nó chối. Khóc kêu oan. Làm sao nó có thể nhận một hành động tồi bại như vậy?"

    Tôi gắt: "Anh cũng tin lời chị sao?"

    "Không tin vợ thì tin ai?" Nếu vợ tôi không bắt gặp tại trận, chỉ nghe lời đồn, thì cũng khó tin được."

    "Bắt gặp tại trận thế nào?"

    "Chú là người trong cuộc, chú biết rõ hơn ai hết. Tôi không nói là vì còn nể mặt nhau."

    Tôi muốn đấm ngực, than trời. Mận khóc, kêu oan. Còn tôi, kêu với ai? Đính chính thế nào?

    "Bây giờ anh tính sao?" Tôi hỏi.

    "Chuyện xảy ra quá đột ngột, tôi chưa biết đường nào giải quyết. Đàn bà nhiều khi sáng suốt hơn mình. Vợ tôi nói, không nên làm ồn lên vụ này, vì danh dự của chú và con Mận. Nó phải giữ danh giá để mai kia còn lấy chồng nữa. Chú nên rời khỏi Tầm Lanh, cắt đứt ngay mối tình vụng trộm này."

    Cái câu "chú nên rời khỏi Tầm Lanh" làm tôi hiểu rõ ý định của chị Ba. Chị không hiểu lầm. Chỉ vì không muốn tôi còn lảng vảng quanh đây, sợ một lúc nào đó, tôi sẽ tiết lộ về đêm trăng cũ, có lần chị đến mái lậu liêu. Nếu lần ấy tôi đồng tình với chị, thì hai người cùng giữ bí mật.... Và chị cũng không cần phải dựng đứng lên một điều không có thật giữa tôi và Mận. Bây giờ, dù tôi có vạch rõ âm mưu của chị Ba ra, thì anh Ba Canh cũng sẽ cho rằng tôi đặt điều bêu xấu vợ anh để chạy tội cho mình.

    Tôi nói: "Anh Ba, mai tôi rời Tầm Lanh theo ý của chị. Xin anh nhắn với chị rằng, vì muốn bảo vệ danh giá của mình, chị đã vu oan cho tôi và con Mận."

    "Vu oan? Tôi không nghĩ thế. Và cũng không hiểu chú muốn nói cái gì?"

    "Hiểu sao được, khi anh đang sống ngọt ngào trên lưỡi dao cạo? Tôi và con Mận đã bị đứt tay rồi. Không biết chừng nào tới anh?"

    ............

    Trên chuyến xe rời Bến Củi, tôi thấy Mận đứng dưới mái hiên, bùi ngùi trông theo. Chẳng biết Mận có khóc hay không...

    Bóng xế hắt hiu trên đầu cây sao già. Ngôi đình vẫn im lìm như ngày tôi mới đến. Ba năm, cây rừng Tầm Lanh mọc rễ trong tôi. Tôi nhổ gốc ra đi. Không có ai vẫy tay đưa tiễn.

    __o0o__
    (Lâm Chương)

    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  5. #35
    __ Lần đầu tiên tôi được đọc qua truyện ngắn này cũng đã hơn 10 năm trước, nhưng thỉnh thoảng đọc lại, tôi vẫn thấy xúc động và thương xót cho những mảnh đời trong câu chuyện.


    ĐÔI MẮT PHƯỢNG.....
    (Tác Giả: Nguyễn Đạt Thịnh)

    Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhảy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhảy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)

    Tôi lập gia đình nằm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp; thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”

    Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ; một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.

    Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng; tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng. Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ; tôi không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng. Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì Phượng. Chỉ một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi dã mọc sừng. Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.

    Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình, Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó _ ông Thợ Tạo _ mới đúng là người tôi phải oán trách.

    Ði đôi với cặp mắt tình tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy _dù chỉ có đồng rưỡi_ có ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.

    Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

    Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực; tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.

    Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.

    Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.

    Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm, đa tình của chính mình. Không phải là một người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngã.

    Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”

    Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Ðó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy. Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bị những mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một hình thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.

    Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.

    Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”

    Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”

    Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”

    Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”

    Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.

    Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.

    Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.

    Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.

    Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.”

    Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.

    Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhung mịn màng làm lòng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”

    Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.

    Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”

    Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.

    Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

    Có lần Phượng nói với tôi bằng một giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”

    Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng.

    Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế gì hết.”

    Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.

    “Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được uu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

    Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói còn trong xác người.

    Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.

    Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.” Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.

    Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.

    Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt một năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

    Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xòm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà con như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?” Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản." Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.

    Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

    Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”

    Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống, … . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.

    Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

    Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu phép trước guồng máy xã hội mới.
    Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

    Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả, Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
    Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

    Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”

    Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.

    Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.”

    “Ðón tầu? Ðể đi đâu?”

    Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”

    Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.

    “Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.

    Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”

    Tôi ôm Phượng vào lòng; giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.

    Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.

    Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình; nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.

    “Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó; không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”

    Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

    Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”

    “Anh tin. Anh yêu mình.”

    “Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”

    Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.

    Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”

    Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.

    “Em có con?” tôi hỏi.

    Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”

    Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên cua những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.

    “Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”

    “Nếu mình đồng ý.”

    Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần.

    Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vình, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

    Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt; nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.

    Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”

    Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

    Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ còn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

    Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.

    Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.

    Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”

    “Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”

    Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.

    Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”

    Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.
    “ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”

    Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”

    Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.

    Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam. Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam. Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

    Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa; tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
    Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”

    Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”

    “Biết chích không?”

    “Dạ biết.”

    Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

    Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.

    Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.

    Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho.

    Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.

    Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.

    Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu.
    Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.

    “Tới rồi. Thấy đất rồi.”

    “Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”

    Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”

    Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”

    “Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.

    “Không chừng Nam Dương.”

    “Rất có thể là Úc.”

    Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.

    Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”

    “Vâng,” tôi lơ đãng đáp.

    “Không chắc đã có người trên đảo.”

    “Vâng.”

    Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.

    Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.

    “Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”

    “Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”

    “Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”
    Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.

    Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.

    Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.

    Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.

    Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam.

    Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.

    Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.

    “Ðau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.

    Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”

    Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
    Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”

    Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

    Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành.

    “Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.

    Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh; tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”

    Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

    Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.

    Ðêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

    Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.

    Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.
    Thượng Ðế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Ðể chứng minh là con người cũng không hơn gì loài cầm, loài thú ư?

    Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nhìn tôi, Phượng bảo, “Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.”

    “Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.

    Vợ tôi nhìn tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”

    Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”

    Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.

    Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sau đã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút gì còn xót lại.

    Ðến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Ðể thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.

    Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển. Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy. Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.

    Thịt cá mập béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.

    Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.

    Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”

    Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.

    Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.

    Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp.

    Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không mình?”

    Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ ngon lành.

    Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.

    Những người chung quanh nhìn tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút gì nữa cả.mTay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi tìm con?”

    Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.

    “Họ đã xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái. Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không còn khả năng khóc, than.

    Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng.

    Phượng bối rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.

    Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Ðiều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng. Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con của khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.

    Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.

    Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng; tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại. Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn còn có mắt, chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa tình của Phượng.

    Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”

    Nhưng tôi đã lầm. Ðối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.

    Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Ðài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.

    Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.

    Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng. Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”

    Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe. Yếu đuối, tôi ngã mấy lần, Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.

    Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đã mất hết hydrate; giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư thuyền. Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình thức thủy táng.
    _________


    Tôi chấm dứt câu chuyện này vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đã thực hiện lời ba hứa.”

    Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ nhiều quá,” lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”

    Tôi vuốt tóc nó, “ba thương con.”

    “Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hertman, Houston, nơi tôi làm việc.
    “Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.

    “Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Ðan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dã man đã giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.”
    “Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, vì có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”
    Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học; môn học mới của nó là điện ảnh.

    Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đã vẽ xong từ năm ngoái bức tranh quảng cáo cuốn phim đầu tay ÐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh. Nó đóng vai trung úy quân y của Sư Ðoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
    ___o0o___
    (Nguyễn Đạt Thịnh)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  6. #36

    LÊN RỪNG THĂM BẠN ___
    (Tác Giả: Lâm Chương)


    Từ trên đồi cao nhìn xuống, giữa đại ngàn mênh mông xanh ngắt, đám rẫy của anh Khan nhỏ như một chiếc chiếu, màu nhạt lá non. Tôi lặn lội tìm đến giang sơn biệt lập của anh khi mùa bắp đang rộ trái. Lọt thỏm giữa đám rẫy là lều tranh. Giữa lều, treo một chiếc võng làm bằng bao bố. Những ngày ở đây, tôi ngủ trên chiếc võng này. Cái sạp tre để sát vách, chỗ ngủ hàng đêm của anh Khan.

    Đối diện vách bên kia, anh kê những viên đá làm ba ông táo nấu ăn. Mọi thứ trong lều đều đơn giản. Phía ngoài, gần bên hông lều, một cái hố đang đào dở. Hố rộng bằng căn phòng nhỏ. Theo lời anh, còn phải đào sâu hơn nữa, khoảng hai thước.


    Lúc mới đến, tôi hỏi: "Đào hố để làm gì?"

    Anh nói: "Bắt khỉ."


    Tôi ngạc nhiên: "Bắt khỉ?"

    "Ừ , bắt khỉ."

    "Để ăn thịt?"

    "Khỉ ốm, chỉ có da bọc xương. Thịt khỉ lại tanh, không ai ăn."

    "Không ăn thì bắt để làm gì?"


    "Để đuổi khỉ."

    "Bắt khỉ để đuổi khỉ? Tôi không hiểu."

    "Cứ ở đây vài hôm thì hiểu."

    Anh Khan không giải thích. Có lẽ anh muốn dành cho tôi một lý thú bất ngờ.


    Buổi sáng sớm, trời còn mát, và buổi chiều, khi mặt trời xuống lấp lửng trên đọt cây rừng, nắng cũng dịu bớt, tôi phụ anh Khan trong công việc đào hố. Anh xúc đất vào cái ki đan bằng nan trẹ Tôi kéo đất lên, đổ chung quanh hố. Anh gầy nhưng sức dẽo và bền, tôi không bì kịp. Làm việc với anh, tôi đuối, phải nghỉ từng chặp.Những lúc tôi nghỉ, anh một mình xúc từng xẻng đất quăng lên. Anh làm đều đặn, khoan thai như đang tập thể dục dưỡng sinh. Đối với anh, không có gì phải vội vàng. Anh quan niệm rằng con người lầm lẫn khi chạy đua với thời gian. Đời sống ngắn ngủi mà một lúc muốn chụp bắt nhiều thứ. Và sau cùng, cái thứ mà họ không muốn chụp bắt đến với họ. Đó là sự tử vong. Khi nằm ngắc ngoải, họ nghĩ lại và thấy rằng họ chưa kịp sống cho đúng nghĩa một người đã sống. Nghe anh bày tỏ cái quan niệm sống này, tôi rất chán, nhưng vẫn hỏi sống thế nào cho đúng nghĩa một người đang sống? Anh nói, không tham cầu, không chờ đợi, tận hưởng sự hiện hữu trong từng giây phút. Tôi hỏi tận hưởng luôn cả nghịch cảnh, và nỗi niềm đau khổ?Anh nói nghịch cảnh hay đau khổ là do tâm cảm. Tại sao không coi đó là sự thay đổi món ăn của tinh thần? Đã từng ăn những món dở, mới biết thế nào là món ngon. Tôi cười, rằng tư tưởng anh được chắp nối một phần triết Đông, một phần triết Tây. Anh nói, anh chẳng cần biết Đông hay Tây. Anh sống theo kiểu của anh. Và anh cũng nói, tôi đã đến đây rồi, nên bỏ quên sách vở, để cho cái đầu được nghỉ ngơi thư thái.


    Buổi trưa, lúc trời bắt đầu nắng gắt, tạm ngừng công việc đào hố. Tôi theo anh Khan đi kiểm soát chung quanh rẫy. Có những chỗ bị chồn, sóc cắn phá làm bắp hư hại. Và, vài nơi trên những luống khoai lang bị heo rừng ủi. Anh lần theo những dấu chân, để biết lối nào heo thường vào rẫy. Phải trừ khử những con heo phá hoại này. Anh Khan nói thế.

    Tôi thấy chung quanh rẫy có treo những cái thùng thiếc, buộc lòng thòng thêm vài viên đá, và nối sợi dây dài đến lều.

    Tôi hỏi: "Để làm gì?"


    Anh nói: "Chuyện đơn giản thế này cũng không biết. Mãi chạy theo máy móc tinh xảo, lo tìm hiểu những chuyện xa vời tận mặt trăng mặt trời, đến lúc quay trở lại với đời sống thiết thực cận kề thì loay hoay, bối rối."


    "Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi."


    "Mùa bắp ra trái, thú rừng thường hay đến kiếm ăn. Nhất là khỉ, heo rừng, chồn, sóc phá hại mùa màng. Thú rừng rất sợ tiếng động. Lâu lâu, giựt sợi dây làm thùng thiếc khua động để thú rừng bỏ chạy."

    "Tôi coi trong sách vở, nói người ta làm những hình nộm, trông giống như người đang giữ vườn, để đánh lừa thú vật không dám đến gần."

    "Chẳng có sách vở nào nói hình nộm để đuổi thú. Hình nộm chỉ có tác dụng đuổi chim mà thôi. Trên những cánh đồng, mùa lúa chín, người ta làm hình nộm ở nơi trống trải, dễ nhìn thấy, để chim muông không dám đáp xuống ăn lúa. Còn đây là rẫy bắp giữa rừng, nhiều cây cối rậm rạp che khuất, làm hình nộm không có tác dụng với thú rừng."

    Tôi đến với anh Khan được ba ngày. Lòng đã chán. Anh ít nói đến độ lầm lì. Sau những bữa cơm chiều, anh thường ngồi bập thuốc rê, trầm tự Lưng anh hơi còng xuống. Trông giống một hình tượng cô đơn, im lặng ngồi chịu đựng với thời gian. Tôi nói với anh như thế. Anh chỉ mỉm cười, xa vắng. Tôi cố gợi chuyện, bằng cách hỏi tại sao anh tách rời vợ con, lên rừng một mình như người ở ẩn? Tại sao khi ra khỏi tù, anh vụt đổi thái độ và lối sống? Anh ngó mông ra rừng, nói chậm rãi, thỉnh thoảng dừng lại một lúc lâu để bập vài hơi thuốc. Mỗi lần nhìn lại chặng đường đã đi qua, thật kinh khủng. Chiến tranh như con quái vật khổng lồ, theo nó thì bị nó ăn nuốt, cưỡng lại thì bị nó chà đạp. Đàng nào cũng chết, chỉ có điều chết trước hay sau mà thôi. Anh may mắn chưa kịp chết thì chiến tranh chấm dứt, bước sang giai đoạn khác. Trong tình thế mới, anh bị đẫy vô tù. Ở tù đã khốn nạn, nhưng ở tù dưới chế độ được mệnh danh là ưu việt, lại càng khốn nạn hơn. Những con người của chết độ ưu việt này, đã phát triển đến cao độ cái tính nham hiểm và gian trá. Họ biến tù nhân thành những con ma đói, và hạ xuống ngang hàng với súc vật. Điếu thuốc đã tàn, anh Khan ngừng lại vấn thêm điếu khác. Lúc nào cũng có điếu thuốc đang cháy khi anh nói, và anh cứ bập hoài, như để trấn an một nỗi niềm, hay để suy nghĩ, gạn lọc từng câu. Ngày anh được thả ra khỏi nhà tù, có người bạn cùng chungcảnh ngộ, kể cho anh nghe hai câu chuyện ngụ ngôn, gọi là chút quà tiễn bạn, làm vốn sống khi ra khỏi địa ngục.


    Truyện một: Có một thương gia giàu có, hay đi buôn bán nhiều nơi, gom góp những vật quý trong thiên hạ về làm của riêng. Trong số những vật quý này, có con sáo biết nói tiếng người. Một hôm, người thương gia nói với con sáo rằng: "Sáo ơi, ta có việc sắp đi ngang qua quê hương thuở trước của mày. Vậy, mày có gì nhắn cho bạn cũ ở đó, ta chuyển lời chọ" Con sáo nói: "Ông chủ làm ơn cho tôi gởi lời thăm các bạn, và hỏi chúng có nhắn gì cho tôi hay không."

    Khi đến quê hương của con sáo, người thương gia ngước nhìn lên vòm cây, nơi có đàn sáo đang đậu, ông nói: "Đàn sáo ơi, con sáo quý của nhà ta, gởi lời thăm chúng bây. Và hỏi chúng bây có nhắn lại lời gì cho nó hay không?" Đàn sáo im lặng.Người thương gia đứng chờ một lúc. Và lạ thay, từ trên cây, đàn sáo rớt xuống chết hàng loạt.

    Người thương gia trở về, con sáo của ông hỏi: "Ông chủ ơi, các bạn tôi thế nào?" Người thương gia nói: "Ta đã chuyển lời thăm của mày, hỏi chúng có nhắn gì cho mày không, chúng chỉ im lặng. Và sau đó rớt xuống chết như bị lời trù rủa ghê gớm."


    Ngày hôm sau, người thương gia thấy con sáo quý của mình nằm chết trong chuồng. Ông xách con sáo vất ra ngoài như một thứ đồ bỏ. Bỗng, con sáo vỗ cánh bay đi mất, trước sự ngạc nhiên của người thương gia.


    Dứt chuyện thứ nhất, anh Khan nhìn tôi chờ đợi một sự góp ý. Tôi hỏi ý nghĩa chỗ nào? Anh giải thích, con sáo bị nhốt trong lồng vì nó có giá trị. Giả chết là một cách đánh lừa người thương gia, rằng nó không còn giá trị nữa. Nhờ thế mà nó thoát được sự giam cầm. Trong chế độ ưu việt này, người nào tỏ ra có giá trị, sẽ bị theo dõi dòm ngó. Nếu không dùng được, họ tiêu diệt, chứ không cho sống. Tốt nhất là giả ngây khờ, chẳng ai thèm để ý, sẽ được yên thân. Tôi mừng vì anh Khan đã bắt đầu tỏ thái độ cởi mở, ít ra anh cũng không còn giữ thế thủ với tôi. Còn chuyện thứ hai, tôi hỏi.


    Truyện hai: Trong một buổi lâm triều, sứ giả của một nước láng giềng, dâng tặng nhà vua ba bức tượng hình người, và xin cho biết bức tượng nào giá trị nhất. Nhà vua và cả đám quần thần cầm lên, săm soi hoài, thấy ba bức tượng đều giống nhau, trọng lượng cũng bằng nhau, khó mà phân định bức tượng nào giá trị nhất. Cuối cùng, vua cho truyền rao trong dân chúng, tìm người thông minh giúp vua giải quyết vấn đề ba bức tượng.


    Khi nghe chuyện này, có một nông dân cầm theo ba cọng rơm, lên đường đến kinh đô, xin vào yết kiến nhà vua để tìm hiểu giá trị của ba bức tượng. Anh xỏ cọng rơm vào lỗ tai bức tượng thứ nhất, cọng rơm thông qua lỗ miệng. Anh xỏ cọng rơm vào lỗ tai bức tượng thứ hai, cọng rơm thông qua lỗ tai phía bên kia. Anh xỏ cọng rơm vào lỗ tai bức tượng thứ ba, xỏ đến cuối cọng rơm, nhưng vẫn không thấy thông ra chỗ nào.

    Anh nông dân cầm bức tượng thứ ba đưa cho nhà vua và nói, đây là bức tượng giá trị nhất.

    Tôi lại hỏi ý nghĩa thế nào? Anh Khan cười, nụ cười ít thấy nơi một kẻ trầm tư, rằng nếu không có lời bình giải kiểu Mao Tôn Cương, thì tôi khó mà lãnh hội được cái thâm thúy của người xưa. Câu chuyện trên muốn nói, thứ nhất, tai nghe mà bép xép ra lỗ miệng, thì hoa. tòng khẩu xuất, nghĩa là tai hoa. theo cái miệng mà ra. Thứ hai, nghe tai này lọt qua tai kia, không nhớ gì cả, là thứ vô dụng. Cả hai loại người trên, chẳng giá trị gì. Thứ ba, nghe và cất kỷ trong lòng, không nói ra. Đây là loại người ý tứ kín đáo. Sống trong chế độ ưu việt, áp dụng Ba Không: không nghe, không thấy, không biết, có thể tránh được nhiều tai vạ. Tôi nói, tránh được tai vạ để giữ tính mệnh, nhưng sống mà buồn quá, cũng chán. Anh Khan ngước nhìn lên đám mây cao, nói trời lặng thinh, nhưng bốn mùa vẫn luân chuyển, vạn vật vẫn không ngừng sinh hoá. Không ai có thể biết được ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì.Hãy chờ xem.

    Một ngày, sau bữa cơm chiều, có hai gã người Thượng ghé rẫy của anh Khan. Anh giới thiệu, một người tên Y Nôm, người kia tên SõLum. Cả hai đều nước da ngăm đen, thân hình rắn rỏi. Họ dắt theo một con chó, loại chó săn, cao giò, bụng thon, tai vểnh, lông có vằn như cọp. Và mang theo những cái rế đan bằng mây rừng, giống cái rế lót nồi ở những vùng quệ Như đã hẹn trước, anh Khan đưa họ đi quan sát dấu chân heo rừng. Dài theo những lối heo thường ra vào phá rẫy, họ đặt những cái rế lật ngửa lên. Giữa rế để một miếng mồi bằng loại thịt đã có mùi hôi, được móc với một chùm lưỡi câu. Mỗi lưỡi câu cột dính với vành tròn phía trong của cái rế, bằng sợi cước dài khoảng gang tay.

    Tôi hỏi: " Làm thế mà có thể bắt heo rừng được sao?"


    Y Nôm hỏi lại: "Chứ ông cán bộ nghĩ phải làm thế nào?"

    "Tôi nghe người ta nói, dùng một thân cây níu quằn xuống làm cần bẫy, cột sợi dây làm thòng lọng, đặt trên mặt đất. Khi heo dẵm phải, cần bẫy bật, và cái thòng lọng siết giò heo treo lên."


    "Ông cán bộ chỉ nghe người ta nói, chứ ông không có để cái tay làm công việc. Làm cái bẫy như thế cũng được, nhưng không tốt và có hại cho con người."


    "Tại sao không tốt mà lại có hại cho người?"


    Y Nôm cười, lắc đầu.


    Anh Khan nói: "Nó không đủ lời giải thích đâu. Này nhé, trên đường heo đi, không dễ tìm được cây nào thích hợp để làm bẫy. Và khi đã làm bẫy rồi, không dễ gì con heo dẵm chân phải cái vòng thòng lọng. Giả dụ, heo đã dẵm vào thòng lọng, cần cây bật siết giò heo treo lên. Nó có thể cắn đứt dây, hoặc cắn đứt lìa một cái giò bỏ lại để thoát thân."

    "Trời đất! Nó dám tự cắn đứt cái giò à?" Tôi kêu lên kinh ngạc.

    "Có nhìn thấy cái giò bỏ lại, mới biết loài heo rừng gan dạ phi thường. Làm cái bẫy như trên, đã khó lại tốn nhiều công, nhưng kết quả rất ít. Và chừng nào heo chưa mắc bẫy thì còn duy trì cái bẫy. Nếu lỡ có ai ngang qua, vô tình dụng phải, sức bật của cần bẫy có thể gây nguy hiểm."

    "Thế còn cái rế kia, bắt heo cách nào?"


    "Cách nào thì chờ xem. Có thể ngày mai, ngày mốt. Không lâu đâu."


    "Nếu trong vài ngày, heo không đi qua lối đặt những cái rế, thì có cần phải thay mồi không?"


    "Không cần. Heo là loài ăn tạp. Mồi càng bốc mùi càng hấp dẫn."

    Khi hai gã người Thượng đi khỏi, tôi hỏi anh Khan, tại sao Y Nôm gọi tôi là cán bộ? Anh nói, tất cả những ai đến với buôn bản vùng cao, mang cái dáng dấp phi lao động, chỉ biết đứng nhìn, hỏi những câu ngớ ngẩn, và chỉ trích phê bình, lý thuyết suông mà chẳng làm được gì , họ đều gọi là cán bộ. Anh nói tiếp, trong thời chiến tranh, người Thượng đã đóng góp tích cực một phần xương máu cho sự thành công chiếm đoạt miền Nam. Người ta hứa hẹn với họ, rằng họ sẽ được đền bù xứng đáng bằng cách cải thiện cho đời sống dân buôn bản tốt đẹp hơn. Nhưng chiến tranh chấm dứt đã lâu rồi, chế độ đã thành hình vững chắc, mà đời sống của họ vẫn thế, thậm chí còn khó khăn hơn. Họ không còn được làm ăn tự do nữa. Thỉnh thoảng, có những ông cán bộ từ miền xuôi lên đây, gọi sự tự do này là sự tùy tiện, thiếu tổ chức. Người ta đặt ra kế hoạch, bắt họ phải làm theo khuôn mẫu. Những kẻ không có một chút kinh nghiệm nào về đời sống giữa núi rừng, dạy khôn cho kẻ được sinh ra và lớn lên từ bao đời cha ông ở đây. Tóm lại, người ta nói về vấn đề cải thiện đời sống, mà không hề cung cấp phương tiện. Người ta chỉ muốn tổ chức lại mô hình xã hội, để dễ bề kiểm soát mà thôi. Trên đường trở lại căn lều, anh Khan nói từ ngày có tôi đến đây, anh đã phá lệ Ba Không: không nghe, không thấy, không biết.


    Sáng hôm sau, anh Khan và tôi đang ăn khoai lang lót dạ, nghe có tiếng chó sủa, và tiếng kêu ơi ới ngoài rừng.


    Anh Khan nói: "Y Nôm, SõLum gọi."


    Tôi theo anh ra nơi đặt bẫy. Hai gã người Thượng, mỗi người cầm một cây lao, đầu có bịt sắt nhọn, đứng vây một lùm cây rậm. Con chó sủa, nhiều lần dọm mình muốn chồm vô, nhưng không dám.


    SõLum ngoắc tôi: "Ông cán bộ lại đây coi."


    Theo ngón tay chỉ của SõLum, một con heo rừng lông xám, hai bên mép có nanh dài và cong. Loại heo độc chiếc, đủ khả năng tách bầy, đi kiếm ăn một mình riêng lẻ. Nhìn cái tư thế mắc bẫy của con heo, tôi hiểu được tất cả những gì hôm qua còn thắc mắc. Heo táp miếng mồi, nuốt tới cổ, không trôi được vì đã mắc phải những lưỡi câu, cột bởi những sợi cước dính vào lòng chiếc rế. Vì sợi cước ngắn nên cái rế áp sát vào mõm. Heo dùng chân trước đẫy chiếc rế ra, nhưng không dám đẫy mạnh vì sợ sợi cước căng, làm lưỡi câu móc đau cuống họng. Đẫy một hồi, chân trước vô tình lọt vào một cái lỗ của chiếc rế. Coi như một cái chân đã bị trói. Cái chân trước còn lại, sẽ tiếp tục đẫy nữa, rồi cũng sẽ lọt vô cái lỗ khác, không rút ra được. Thế là cái mỏm heo và hai chân trước hoàn toàn bị khoá bằng chiếc rế. Heo không dám làm động mạnh chiếc rế, sợ lưỡi câu móc đau cuống họng. Khi đã mắc bẫy, heo chỉ có thể lê lết xa nơi đặt bẫy một khoảng mười thước không hơn. Và, người thợ săn chỉ còn một việc phải làm sau cùng, là phóng lao đâm vào những chỗ nhược của con heo mà không sợ bị nó tấn công ngược lại.


    Sau vụ bẫy heo rừng. Anh Khan nói, Y Nôm và SõLum cho biết đàn khỉ đã kéo về lảng vảng vùng này rồi. Nhưng chừng nào chúng đến tảo thanh rẫy bắp thì chưa biết. Một hôm, tôi thấy vài con khỉ nấp ló trên cây. Anh Khan nói, đó là những con tiền sát, đi dò địa bàn hoạt động. Khỉ là loài tinh khôn sau loài người. Chúng sống có đàn. Mỗi đàn có một con khỉ đầu đàn. Con này sẽ dẫn đàn đi kiếm ăn rày đây mai đó, như những bộ tộc du mục thời xưa. Chúng đến cái rẫy nào một lần, sẽ lẩn quẩn ở đó nhiều ngày, ăn cho tàn mạt rồi mới chịu đi nơi khác. Con khỉ đầu đàn, không vào rẫy. Nó ngồi trên ngọn cây cao để canh chừng, và xua con cháu vào mục tiêu, ăn cho no, còn độn hai bên má làm phần dự trữ. Trước khi rút lui, chúng còn mang theo một hoặc hai trái bắp làm chiến lợi phẩm, và đóng thuế cho con khỉ đầu đàn. Khi nào con khỉ đầu đàn la ré lên là báo hiệu có biến, đàn khỉ đang ăn sẽ bỏ chạy, mất trật tự còn hơn cuộc di tản chiến thuật từ cao nguyên về miền biển. Tôi hỏi thế những cái thùng thiếc khua động chung quanh rẫy, không có tác dụng làm chúng sợ hay sao? Anh Khan nói, cũng có tác dụng trong những lần đầu, nhưng nhiều lần sau chúng quen, không sợ nữa. Khi ta ở trong lều, thì chúng phá ngoài rẫy. Khi ta ra rẫy, chúng kéo vô trong lều, lục phá tan hoang đồ đạc.


    Một buổi trưa, nghe tiếng khọt khẹt ngoài rẫy, anh Khan giựt dây khua thùng báo động và chạy ra xem. Một vạt bắp bị phá. Nhiều cây gảy gục và trái bị cạp lem nhem dang dở.

    Anh nói: "Chỉ mới đợt đầu mà thiệt hại như thế, thì đàn khỉ này có thể đông gần trăm con."


    Tôi ra bìa rẫy, nhìn lên những ngọn cây rừng, tất cả đều im lìm.

    "Chúng đã chạy xa hết rồi." Tôi nói.


    "Chưa chắc. Có thể chúng nấp đâu đó trong những vòm lá. Thử ném mạnh một viên đá lên thì biết ngaỵ"


    Tôi ném viên đá, không thấy động tĩnh gì. Anh Khan ném một khúc gỗ mục lên tàng cây khác. Bỗng nghe ào ào trên cây. Bầy khỉ hốt hoảng chuyền cành, đổi chỗ ẩn nấp. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi, tất cả đều im lìm trở lại. Nhìn kỹ sẽ thấy vài con thu mình trong lá, hai mắt thao láo nhìn xuống.

    Trở lại lều, anh Khan chuẩn bị bắt khỉ bằng cách đâm một chén muối ớt thật cay, trộn với cơm nguội, để xuống hố. Anh dựng thêm một cây tầm vông từ dưới lên miệng hố, và giải thích, cây tầm vông làm cái thang cho khỉ xuống hố. Gặp cơm trộn ớt đỏ, nó sẽ bốc ăn, cay quá chảy nước mắt, nó sẽ đưa tay dụi mắt. Tôi cười, bàn tay dính ớt mà dụi vào mắt, thì chỉ còn có cách làm hiệp sĩ mù nghe gió kiếm mà thôi.

    Chuẩn bị xong, anh Khan kéo tôi ra một góc rẫy, nơi bìa rừng, ngồi dưới bóng cây tọ Anh nói, bỏ trống cái lều, nhường cho bầy khỉ. Nhưng suốt chiều hôm đó, không có con khỉ nào bén mảng vào lều.


    Hai hôm sau. Trên đường từ nhà Y Nôm trở về, vừa đến rẫy đã nghe tiếng con khỉ đầu đàn trên ngọn cây ngoài rừng la ré lên, anh Khan chạy vội vào lều. Bầy khỉ tuôn ra, phóng chạy. Đồ đạc trong lều bị phá tung, vất bừa bãi. Dưới cái hố, bên hông lều, những con khỉ còn kẹt lại, tranh nhau leo lên bằng cây tầm vông. Cứ con này ôm cây tầm vông leo lên, thì con kia sợ hãi nắm đuôi kéo xuống, giành leo lên trước. Rốt cuộc, không con nào lên được miệng hố. Chúng quờ quạng, loi choi, bưng mặt, dụi mắt, và la chí choé. Anh Khan rút cây tầm vông lên. Thế là những con khỉ dưới hố đã hoàn toàn bị nhốt. Tôi đếm được bảy con.

    Tôi hỏi: "Đã bắt khỉ rồi. Bây giờ, làm cách nào đuổi khỉ?"

    "Đến giai đoạn này, mọi chuyện sau đều dễ dàng."

    Tất cả đồ nghề đã chuẩn bị từ trước. Anh Khan dùng thanh cây, một đầu có buộc thòng lọng, tròng vào cổ từng con, kéo lên, trói lại. Anh lấy kéo cắt lông trên đầu khỉ, như bị cạo trọc. Và lấy sơn màu đen đỏ trắng vàng, phết lem nhem lên đầu, lên mặt khỉ, trông rất khôi hài. Xong, anh mở trói, thả nó chạy vào rừng. Lại lôi con khác lên, hớt lông, sơn đầu...

    Anh Khan giải thích, khỉ có khuynh hướng nhập bầy. Những con khỉ này, nó sẽ chạy đi tìm bầy để nhập. Nhưng những con khỉ khác không còn nhận ra bạn nữa, và tránh xa nó như con vật quái đản. Tự bản thân con vật bị sơn mặt, nó không biết nó quái đản, nên bầy khỉ càng chạy tránh, nó càng bám theo để nhập bầy. Cứ thế, một bên chạy, một bên bám riết, càng ngày càng đi xa, thật xa.


    "Rồi nó sẽ về đâu?"


    "Rừng núi bao la muôn trùng, ai biết sẽ về đâu."

    "Những con khỉ bị bôi sơn lên mặt, rồi sẽ ra sao?"


    "Cũng không ai biết sẽ ra sao. Nếu nó cứ bám riết theo bầy, có thể một ngày nào đó, con khỉ đầu đàn sẽ cắn nó chết."

    Sáng mai, tôi sẽ rời khỏi lều rẫy, bỏ lại núi rừng, từ giả anh Khan để đi một nơi thật xạ Trong đêm, tôi nằm thao thức trên chiếc võng, không ngủ được. Nhìn ánh trăng khuya lạnh lẽo soi vào căn lều trống trải, tôi nghĩ đến những ngày cô đơn của anh Khan giữa đám rẫy đìu hiu. Tôi lại nghĩ đến đàn khỉ cứ chạy mãi, chạy mãi, không biết giờ này chúng dừng lại hay chưa? Anh Khan cũng không ngủ được. Anh ngồi dậy vấn thuốc, bất ngờ anh hỏi tôi, nghĩ thế nào về những con khỉ bị sơn mặt? Tôi nói, nếu ở Âu Mỹ, Hội Bảo Vệ Súc Vật sẽ can thiệp cho nó. Anh bảo, khi tôi sang xứ người, nên tìm đến cái Hội Bảo Vệ Súc Vật, để nhờ họ che chở. Và nhớ hỏi họ, rằng giữa vùng rừng núi Việt Nam, có những "con khỉ người" đang bị sơn mặt, họ có bảo vệ không?


    Lâm Chương
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  7. #37
    Khi còn bé, tôi rất thích đọc Duyên Anh. Và, lần đầu tiên đọc qua truyện ngắn này, tôi đã nhớ mãi tựa đề cùng nội dung câu chuyện...


    __CON SÁO CỦA EM TÔI
    (Một trong những truyện ngắn đầu tay của tác giả Duyên Anh)

    Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ. Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi. Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc.

    Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ . Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục. Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này

    Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.

    Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mãi đàn sáo và chú Nghị thì giang hồ phiêu bạt, chú Nghiêm lại khéo léo chiều ông tôi, vì thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang.

    Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.

    Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đa nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh ly. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng "oe oe". Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi : hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.

    Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng - đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mà là "đồ đĩ", bác tôi bảo mẹ là "con lăng loàn" và mợ tôi nói bâng quơ "cóc chết ba năm quay đầu về núi". Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bé bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.

    Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.

    Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.

    Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vọi lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.

    Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng:

    - Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.

    Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muối coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo. Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói:

    - Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.

    Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi:

    - Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?

    Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời:

    - Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ

    Em ngây thơ:

    - Thế làm sao nó lớn được?
    - À sáo mẹ mớm mồi.
    - Sáo bố làm gì hở anh?
    - Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!

    Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu:

    - Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?
    - Chắc có.
    - Anh biết à?
    - Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!
    - Mẹ ru em bằng bài "Con cò mà đi ăn đêm", sáo ru con bằng bài gì hở anh?
    - Anh chịu, chả biết được.
    - Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?
    - Ừ.

    Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức' sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn ; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rây chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo:

    - Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.

    Tôi cáu tiết cãi lại:

    - Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.

    Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao xuýt ngã. Cậu mắng mỏ:

    - Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!

    Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi, em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn.

    Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại : chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ:

    - Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!

    Tôi run run trả lời em:

    - Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.

    Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn:

    - Chết em rồi!

    Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt:

    - Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?

    Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.

    Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.

    Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bên vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.

    Dạo cha tôi ở Hà nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách - thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ ngư bên hồn Trúc bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắc chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó.

    Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chim nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu điếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất h iền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu "ú a ú ớ" cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú nột cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm sước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.

    Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Chú thường kể cho tôi nghe về Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích:

    - Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.

    Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước' gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đan xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng.

    Vài hôm thì chú ra đi, mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi.

    Ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.

    Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sao miệng, chú sáo đói kêu "khách khách" trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường "làm nũng" em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.

    Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó "sốt rét", em tôi định làm, song mẹ tôi mắng:

    - Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.

    Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.

    Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.

    Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là:

    - "Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách".

    Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết:

    -"Sáo nhớ mẹ, sáo khóc."

    Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói "Sáo nhớ mẹ..." Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.

    Ở bến đồ, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồi tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo:

    - Mất bố mẹ sáo có khổ không?

    Rồi em nói tiếp:

    - Khổ ư? tội nghiệp nhỉ, bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.

    Con sáo đôi khi vô tình buột miệng:

    - "Sáo nhớ mẹ sáo khóc"

    Em tôi dỗ dành:

    - Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi...

    Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.

    Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu MỢ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.

    Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng đức dạy tôi buộc tổ sáo... Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.

    Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.

    Tính ra anh em tôi nuôi sáo đã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bồ quần áo mới , có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.

    Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn.

    Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.
    - Anh ơi! liệu mẹ có chết không?
    - Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.
    - Sao mãi mẹ chải khỏi gì cả?
    - Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.
    Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dạy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.
    - Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?
    - Anh chả nhớ rõ. Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại...

    Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồi hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.
    - Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.

    Em tôi nũng nịu:
    - Con mua pháo ống lệnh cơ!
    - Ừ thì mua pháo ống lệnh.
    - Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.
    - Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.

    Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ.

    Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ:

    - Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.

    Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp:

    - Vâng ạ!

    Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn:

    - Tại mẹ ốm... thành thử... tết này nhà mình... thiếu cỗ. Con nhớ... thắp hương... bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết... không được miếng thịt...

    Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi... Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học:

    - Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.
    - Nhưng mẹ cháu nghèo.
    - Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.
    - Rồi cháu có sung sướng không chú?
    - Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài...
    - Thật hả chú?
    - Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai , quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.

    Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc : đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.

    Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.

    Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó g giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo.

    Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào.

    Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi, tôi mới trở vào.

    Mẹ tôi hỏi:

    - Tại sao con khóc?

    Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời:

    - Thưa mẹ, khói làm con cay mắt đấy ạ!

    Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dạy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói:

    - Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!

    Em reo to:
    - Có cỗ hở anh?
    - Ừ, cỗ to lắm.
    - Anh cúng cha chưa?
    - Ðã.

    Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi:

    - Thịt gì đấy anh?
    - Thịt chim.
    - Anh mua à?
    - Không.
    - Thế ai cho, ông ngoại hở?

    Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít:

    - Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?

    Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi:

    - Nó ở đâu hở anh?

    - Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!

    Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi:

    - Mai, em Mai...

    Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng:

    - Em ơi! Anh xin...

    Tôi chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.

    (Duyên Anh)

    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  8. #38
    Biệt Thự HXhuongkhuya's Avatar
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    4,662
    Chào anh Việt Hạo Nhiên . HX xin phép đăng bài MĐiên của Vương Hằng Tích vào trang truyện sưu tầm của anh VHN nhé .



    Người Mẹ Điên



    Tác giả Vương Hằng Tích - Trang Hạ chuyển dịch .
    .



    Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, không ngần ngại ngồi tè ra trước mặt mọi người.Vì vậy , đàn bà trong làng khi đi qua chỗ cô gái thường nhổ nước bọt, có người chạy đến trước mặt dậm chân “ cút đi “, thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

    Hồi đó cha tôi đã 35 tuổi, Cha làm việc ở bãi khai thác đá, bị máy chém cụt tay trái, nhà nghèo , mãi không cưới được vợ.

    Bà nội thấy cô gái điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “ đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không mất đồng xu nào, nghiễm nhiên trờ thành chú rể.

    Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẳm cháu, miệng bà hóp không còn cái răng nào vui sướng nói” cái con mẹ điên này mà cũng biết sinh cho bà cái thằng chống gậy rồi”, có điều tôi được sinh ra chỉ có bà nội ẵm , không bao giờ mẹ được đến Mẹ chỉ muốn được ôm tôi, bao nhiêu lần mẹ đứng trước mặt bà nội dùng hết sức và gào lên “Đưa , đưa tôi “”bà nội cũng mặc kệ. Tôi non nớt đỏ hỏn, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? dù sao mẹ cũng chỉ là con điên.

    Mỗi lần mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội trợn mắt lên chửi: “mày đừng có hồng mà bế nó,tao phát hiện mày mà bế nó, tao đánh cái là chết, không chết, tao cũng đuổi mày đi”.Bà nội cương quýêt chắc nịch, mẹ hiểu ra ,mặt mẹ sợ hải khủng khiếp, chỉ dám đứng ở xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được ngụm sữa nào, bà nội đút từng thìa cháo nuôi tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có “ bệnh thần kinh”, nhỡ lây sang tôi thì phiền lắm.

    Hồi đó nhà tôi vẫn đang trong cảnh nghèo đói, nhất là sau khi có thêm mẹ và tôi, nên bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại, mà còn thỉnh thoảng gây nên tiếng thị phi.
    Một bửa nọ, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay bà xúc đầy bát cơm đưa cho mẹ bảo:” con dâu , nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô, cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà giàu có hơn mà ở, sau này cấm không quay lại đây nữa nghe chưa?

    Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội hạ lệnh” tiễn khách “ liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đang ăn rơi lã tã ngoài miệng, nhìn sang tôi đang nằm trong lòng bà, kêu lên ai oán : ‘ Đừng , đừng …”

    Bà nội đanh mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét :”Con dâu điên, mày ngang bướng cái gì, bướng thì chẳng tốt lành gì cho mày đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao bọc chở che mày hai năm rồi, còn đòi cái gì nữa, ăn hết bát đấy rồi đi, nghe chưa hả? ”
    Nói đọan , bà nội ra sau cửa lấy ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất – nghe phập một tiếng. Mẹ sợ gan như chết giấc, khiếp sợ rồi lại chậm rãi nhìn xuống bát cơm trước mặt, nước mắt đã tứơi đầy bát cơm.

    Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà nội một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẩn thờ, hóa ra mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bửa mẹ chỉ cần ăn ít hơn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ bề ngoài mà thôi.

    Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn trên má, rồi quay lại sắt mặt nói:” ăn mau mau rồi còn đi, ở nhà này rồi cô cũng chết đói thôi”. Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm nhỏ núôt cũng không nổi, mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu rồi thất thiểu bước ra khỏi cửa.
    Bà nội dằn lòng đuổi : ‘’ cô đi đi, đừng có quay đầu lại, dưới bầu trời này còn nhiều nhà giàu lắm”.

    Mẹ tôi quay lại, mẹ đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra mẹ muốn được ôm tôi một tí.Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tả lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẳm tôi vào lòng, môi mẹ nhắp nhắp cười, nụ cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội chằm chặp nhìn mẹ như quân thù, hai tay đã chuẩn bị đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơm điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ tôi chỉ được ba phút, bà nội không đợi thêm được giành tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.

    Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu một chút, tôi mới phát hiện ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ.Tôi tìm cha đòi mẹ, tìm bà nội đòi mẹ, họ đều nói mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn nhỏ trong làng bảo:” mẹ mày la một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi”.
    Tôi đòi bà phải trả lại mẹ cho tôi, tôi còn nguyền rũa bà là “bà lang sói”, thậm chí còn hất tung mọi thứ bà đút cho tôi ăn. Ngày đó, tôi làm gì biết” điên “ nghĩa la cái gì đâu, tôi chỉ bíêt cảm thấy nhớ mẹ vô cùng, mẹ như thế nào nhỉ , mẹ còn sống hay không ?

    Không ngờ năm tôi 6 tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó mấy đứa bạn chạy như bay tới báo: “Thụ, mau đi xem, mẹ đien mày về kìa: Tôi mừng quá co giò chạy vội ra ngòai, bà nội và cha tôi cũng chạy theo .Lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đo áo quần vẫn rách nát, tóc tai còn dính những vụn cỏ khô vàng khè, làm sao ai biết mẹ tôi ở đâu ra.

    Mẹ không dám vào nhà, mẹ ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, tay cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
    Khi tôi cùng lũ bạn đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám bọn tôi để tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi nhìn chòng chọc, nhếch mép bảo “ Thụ…. bóng .. . bóng ’.

    Mẹ đứng lên, liên tục dơ lên quả bóng bay trong tay, cố dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ mà hằng đêm tôi nhớ thương mong đợi là cái hình người này đây! Một thằng nhỏ đứng cạnh tôi kêu to ‘ Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa ? là mẹ mày đấy. Tôi tức tối đáp lại “ Nó là mẹ mày, mẹ mày mới là con điên ’,Tôi quay đầu chạy trốn, người mẹ điên này tôi không thèm. Bà nội và cha tôi lại đưa mẹ về nhà.

    Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị ray rứt dày vò, bà ngày càng già, trái tim bà không còn sắt thép nữa, nên bà chủ động đưa mẹ tôi về, còn tôi thì bực bội, bởi mẹ làm mất thể diện tôi.Tôikhông bao giờ tươi cười với mẹ, không chủ động nói chuyện với mẹ, chưa bao giờ gọi ‘Mẹ’

    Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội nghĩ cách huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi làm đồng bà dạy mẹ quan sát, một thời gian bà nội nghĩ rằng mẹ có thể tự đi cắt được cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong hai bồ cỏ lợn. Bà nội vừa nhìn thì tá hỏa sợ hải, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trổ bông trên ruộng của người ta, bà nội vừa lo vừa giận “ Con mẹ điên , luá và cỏ mà không phân biệt được”.

    Bà nội chưa biết xoay xở ra sao thì chủ ruộng lúa bị cắt đã tìm tới mắng bà là cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta bà lấy gậy đánh vào lưng eo con dâu, vừa chửi” Đánh chết con điên, mày cút ngay đi cho bà”. Mẹ tuy điên nhưng biết đau, biết tránh né đầu gậy, miệng lắp bắp sợ hai “ Đừng… đừng…’. Sau cùng, nhà người ta thấy chứơng mắt,chủ động “ thôi chúng tôi không đòi nữa, giử cô ấy chặt đừng để như thế nữa’

    Sau cơn sóng gió, mẹ ỏai người khóc thúc thít. Tôi khinh khỉnh bảo “ cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn’.Vừa dứt lời, gáy tôi bị một tát mạnh của bà: bà trừng mắt bảo” Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy, mẹ mày đấy”, tôi vùng vằng “ cháu không có lọai mẹ điên này’.A, thằng này láo, xem tao có đánh mày không, bà nội giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dứơi đất lên, che giữa tôi và bà nội, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt : “ đánh tôi , đánh tôi”.

    Tôi hiêu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, cánh tay bà nội từ trên không buông thõng xúôn, bà lẩm bẩm : con mẹ điên biết thương con đấy.Khi tôi vào lớp 1, cha tôi vẫn vất vã làm công việc canh hồ cá, mỗi tháng 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm đồng dưới sự chỉ bảo của bà , chủ yếu chỉ cắt cỏ lợn.

    Nhớ mùa đông đói rét, năm tôi học lớp 3, trời đột ngột đổ mưa, bà sai mẹ mang ô cho tôi.Có lẽ trên đường trơn ướt mẹ đã ngã ì ạch mấy lần, tòan thân như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ngòai cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng gọi tôi “ Thụ … ô” Có mấy đứa bạn cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông , vừa óan hận mẹ không biết điều làm tôi xấu hổ vừa hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.

    Tôi tức lên chộp lấy hộp bút đập mạnh cho nó một phát, nhưng thằng Hỷ tránh được và nó xông tới bốp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau, nó to và mạnh nên tôi dễ dàng bị nó đè xúông đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng ‘vút ’ kéo dài từ bên ngòai lớp học, mẹ như một đại hiệp bay “ ào tới, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

    Ai cũng bảo người điên rất khỏe, đúng như vậy, mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên không trung, nó kinh sợ khóc gọi bố mẹ. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, mẹ thản nhiên đi ra.


    Mẹ vì tôi gây ra đại họa, nhưng mẹ coi như không có gi xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, chỉ múôn lấy lòng tôi. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu mẹ vẫn tỉnh táo vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.

    Lúc đó, tôi không kìm được, kêu lên “ Mẹ”, đấy là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sừng sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, mẹ như một đứa trẻ vui mừng, rồi cười ngớ ngẩn. Hôm đó lần đầu tiên hai mẹ con cùng che chung cái ô về nhà.

    Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà sợ rụng rời ngã lăn trên ghế, vội vã nhờ người gọi cha tôi về. Cha vừa bước vào nhà, một đám thanh niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì , họ đập nát như tương các thứ trong nhà tôi.

    Bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói : con trai tao sợ quá phát điên rồi, đang nằm nhà thương, nhà mày không mang 1.000 tệ trả tiền thuốc thang, tao đốt sạch nhà mày ra ’.Một ngàn tệ? Cha tôi làm 1 tháng 50 tệ, nhìn họ đằng đằng sắt khí, mắt cha tôi đỏ lên, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt cha dỡ lấy thắt lưng da đánh tới tấp khắp người mẹ.

    Trận đòn khủng khiếp, mẹ như con chuột , khiếp hải run rẫy, như con thú săn bị dồn vào đường chết, mẹ kêu lên thảm thiết .Sau đó trưởng đồn cảnh sát phải đến can ngăn bàn tay bạo lực của cha, kết quả là : cả hai bên đều tổn thất , không ai phải bồi thường ai, nếu ai con gây sự sẽ bắt ngay người đó.
    Đám người đi rồi cha tôi nhìn khắp nhà, mọi thứ tan tành, cha lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, bất ngờ cha ôm mẹ vào lòng khóc thảm thiết “ mẹ điên ơi, không phải tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như không đánh thì việc này không dàn xếp nổi, làm sao có tiền mà đền người ta, bởi nghèo khổ mà thành họa đấy thôi”.

    Cha lại nhìn tôi” Thụ , con phải cố mà học lên đại học, không thì nhà ta cứ bị kẻ khác bắt nạt suốt đời”. Tôi gật đầu.
    Mùa hè năm 2000 tôi đỗ trung học với kết quả xúât sắc, bà nội cực nhọc cả đời nên mất trứơc đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Gia đình tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, nên tôi được chính phủ trợ cấp cho tôi 40 tệ tháng, nhờ đó tôi được tiếp tục học. Gánh nặng tiếp tục đặt lên vai mẹ tôi..

    Tôi học nội trú, cha tôi vẫn làm việc với 50 tệ tháng. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu thức ăn xong , thì đưa mẹ mang đến trường cho tôi, mỗi ngày 20 ki lô mét đường núi ngoằn ngòeo làm khổ mẹ tôi phai nhớ đường đi, có ngày gió tuyết mẹ cũng đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào, ngòai tình yêu mẫu tử ra , tôi không biết cách giải thích nào khác hiện tượng này.

    Ngày 27 tháng 4 năm 2003, là ngày chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang thức ăn ,mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả cắn một miếng, cười hỏi mẹ” Ngọt quá, ở đâu ra ? mẹ nói: “ tôi …hái…”, không ngờ mẹ tôi cũng bíêt hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: “ mẹ , mẹ càng ngày càng tài giỏi ” , mẹ cười hì hì.

    Trứơc lúc về, tôi có thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an tòan, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong tôi bận rộn lo ôn thi cúôi cùng thời phổ thông để thi vào đại học.
    Ngày hôm sau , khi đang trong lớp học, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngòai. Thím hỏi , mẹ tôi có đến tiếp tế đồ ăn không ? tôi nói : hôm qua mẹ có đến và về rồi.Thím bảo “ không , mẹ mày đến giờ vẫn chưa về” Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không lạc đường, chặng đường này mẹ đã đi 3 năm rồi, không thể lạc được.

    Thím hỏi “ mẹ mày có nói gì không ?” Tôi nói : không , mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi” thím đập hai tay” Thôi chết rồi, hỏng rồi có lẽ vì mấy quả đào dại rồi”.Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi men theo đường núi về tìm. Đường về , quả thật có mấy cây đào dại, trên cây lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giử được quả, cùng lúc đó chúng tôi nhìn thấy trên cây đào có nột vết gảy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.

    Thím nhìn tôi rồi nói” chúng ta xúông khe vách đá tìm “, tôi nói “ Thím, thím đừng dọa cháu”, Thím không nói gì kéo tay tôi đi xúông vách núi.
    Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi chung quanh, tay mẹ nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành màu đen nặng nề.
    Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi : mẹ ơi , mẹ ơi… mẹ sống chẳng được sung sướng ngày nào.Tôi áp sát đầu vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá trên đỉnh núi như cũng rớt nước mắt theo.

    Một năm sau ngày chôn cất mẹ, thư gọi nhập học của Trường Đại học Hồ Bắc bay thẳng vào nhà tôi.
    Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào ngôi mộ cô tịch của me ”Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi. Mẹ có nghe thấy không, mẹ có thể ngậm cười nơi chín suối”


    Sưu Tầm
    Last edited by HXhuongkhuya; 05-14-2017 at 12:31 PM. Reason: Nguyên bản

    HXhuongkhuya cám ơn các anh chị
    , các bạn ghé thăm .




  9. #39
    NGƯỜI BẠN HỌC VÀ ÔNG THẦY CŨ___
    (Tác Giả: Phạm Tín An Ninh)


    Đơn vị tôi, dù đã tạo được những chiến thắng lẫy lừng trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, để có một “Kontum Kiêu Hùng” và giữ vững được Tây Nguyên, nhưng có chiến thắng nào lại không phải trả giá bằng máu xương chiến sĩ. Để kịp thời đối phó với tình hình chiến tranh leo thang, ngày một khốc liệt, đơn vị cần được khẩn cấp bổ sung quân số, từ cấp đại đội trưởng cho đến khinh binh. Số lượng sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp ở các quân trường không đủ, nên Bộ TTM phải ban hành kế hoạch “đôn quân”, đưa những quân nhân phục vụ lâu năm từ các tiểu khu, các quân trường, trung tâm huấn luyện, ra bổ sung cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt quân số.

    Tháng 5-1973. Thời gian này tôi đang đảm trách một phần hành tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Trong lần đơn vị tiếp nhận một số khá đông sĩ quan và hạ sĩ quan, tôi bất ngờ nhận ra trong số những người đang xếp hàng trình diện ông Trung Đoàn Trưởng có một người bạn học khá thân và một vị giáo sư thời trung học ngày xưa. Thằng bạn mang cấp bậc đại úy – tôi đã biết từ trước, nhưng điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên là ông thầy chỉ mang cấp bậc trung sĩ nhất. Thoáng có một chút ngờ vực, tôi bước tới gần ông hơn để chắc chắn là trí nhớ của mình không tệ lắm.

    Chờ thủ tục trình diện xong và sau khi ông Trung Đoàn Trưởng dặn dò vài điều cần thiết, tôi chạy đến ôm chầm lấy người bạn và kéo đến gặp ông thầy còn đang đứng ngơ ngác trong hàng. Thằng bạn không nhớ ông thầy, có lẽ nó chỉ học với ông một vài tháng ngắn ngủi. Và dường như ông thầy cũng chưa nhận ra tôi, nên vội đứng nghiêm đưa tay lên chào. Tôi kéo cả hai người vào một căn hầm lớn được dùng làm Trung Tâm Hành Quân, nơi tôi đang làm việc.

    Đỗ Bê, bạn tôi, quê ở trên Thành – Diên Khánh. Học cùng lớp với tôi những năm đệ nhất cấp bên trường Văn Hóa. Lớn hơn tôi một tuổi, đẹp trai, tính tình hiền lành và rất hiếu học. Bê và người bạn cùng quê, anh Phan Ái Minh, cũng là bà con họ hàng, thuê một căn nhà nhỏ ở sau khu đình Phương Sài trọ học. Tôi thường đến đây chơi với Bê, nên sau này cũng trở nên thân thiết với Minh. Sau khi đỗ trung học, Bê và tôi cùng vào đệ tam trường Võ Tánh. Bê học Ban A còn tôi Ban C. Phan Ái Minh thì học ở đây từ trước và trên bọn tôi một lớp. Sau này, cả ba thằng đều đi lính. Phan Ái Minh vào Khóa 20 trường Võ Bị Đà Lạt, còn Bê và tôi vào Thủ Đức. Minh nhập học Võ Bị trước một năm nhưng ra trường sau tôi sáu tháng. Ra trường Minh được bổ sung về cùng trung đoàn với tôi, nhưng khác tiểu đoàn. Một tháng sau, khi tôi còn đang hành quân trên Lâm Đồng thì nghe Minh tử trận ở Lạc An. Hai đứa đã hẹn nhau trong hệ thống vô tuyến, để rồi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại.

    Đỗ Bê vào Thủ Đức sau tôi một khóa. Ra trường được bổ sung về làm huấn luyện viên tại Trung Tấm Huấn Luyện Lam Sơn – Dục Mỹ. Sau đó, tôi chỉ gặp Bê một lần duy nhất vào cuối năm 1970, khi bạn tìm đến thăm tôi đang nằm điều trị vết thương tại Quân y Viện Nguyễn Huệ, mang cho tôi ít đồ dùng, một xâu nem Ninh Hòa và mấy lon bia. Bê dìu tôi ra chiếc ghế đá phía sân sau, vừa uống bia vừa nghe tôi kể chuyện chiến trường. Thấy tôi hành quân vất vả, bị thương mấy lần, nó an ủi, bảo là số nó nhiều may mắn hơn tôi.

    Thầy tôi, giáo sư Hồ Đắc Huế, là ông thầy đầu tiên khi tôi bắt đầu bậc trung học. Năm 1958 tôi thi rớt vào lớp đệ thất trường công lậpVõ Tánh. Ngôi trường nổi tiếng vùng duyên hải miền Trung. Buồn và xấu hổ với đám bạn bè cùng quê, nhất là hối hận vì đã làm cha tôi thất vọng. Thời ấy ở quê tôi chưa có trường trung học nào. Chưa biết phải làm gì thì một buổi chiều, sau khi đi làm về, cha tôi cho biết có một giáo sư từ trường trung học Bồ Đề Nha Trang ra Vạn Giã, quê tôi, mở trung học tư (cũng mang tên Bồ Đề), nhưng trước khi niên học bắt đầu vào mùa thu, ông sẽ mở một khóa Hè đặc biệt dành cho các học sinh trung học. Điều đặc biệt bất ngờ hơn, cha tôi bảo là thời gian đầu ông sẽ trọ ở nhà tôi, vì chưa tìm được nhà để thuê. Ông tên Huế và cũng là người gốc Huế, bà con họ hàng với người bạn thân của cha tôi ở Nha Trang, cũng là một ông thầy giáo gốc Huế khác. Chính ông giới thiệu thầy và nhờ cha tôi giúp.

    Không biết là thầy có những bằng cấp gì, nhưng ông dạy rất nhiều môn, từ Việt Văn, Pháp Văn đến Toán, Lý Hóa. Môn nào thầy dạy cũng hay, đặc biệt thầy nói tiếng Pháp nghe cứ như Tây. Sau này tôi mới biết là thầy từng du học ở Pháp. Nghe tiếng của thầy, học trò kéo đến học rất đông. Học phí thấp. Biết đứa nào nhà nghèo thầy chỉ lấy tượng trưng.

    Thầy khá đẹp trai, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt thật buồn. Trông thầy có dáng dấp một nghệ sĩ hơn là ông thầy giáo. Có hai điều giống cha tôi là thầy rất thích đánh cờ tướng và hút thuốc liên tục. Dường như lúc nào tôi cũng thấy có điếu thuốc trên tay thầy. Và cả hai người đều hút Bastos xanh. Cứ mỗi lần tôi đi mua thuốc cho cha tôi thì thầy nhờ mua thêm cho thầy mấy gói. Cha tôi dành cho thầy căn phòng lớn nhất trong nhà, có cửa ra vườn sau. Khu vườn nhỏ chỉ trồng mấy cây cam và một vòm hoa giấy. Có lẽ lúc ấy tôi còn con nít, nên thầy chỉ thường ngồi đánh cờ và tâm tình với cha tôi. Nhưng buổi tối, những lúc thầy ngồi đàn hát phía sau vườn, tôi được thầy gọi cho ngồi nghe và bảo tôi “chấm điểm những bài hát của thầy”. Thầy hát rất hay những bài do chính thầy sáng tác, hoặc phổ từ những bài thơ của thầy. Hầu hết là những bản nhạc buồn. Giọng trầm và tha thiết. Thầy nhìn vào xa xăm và hát như là đang trút tâm sự cùng ai đó chứ không phải cho tôi nghe. Ban đầu tôi cứ tưởng tôi là thính giả duy nhất của thầy, nhưng sau này tôi mới bất ngờ khám phá một điều, có một người đàn bà trẻ thường xuất hiện sau vườn nhà tôi, phía bên kia hàng rào dâm bụt, trong những đêm thầy ngồi đàn hát.

    Không biết là vì đẹp trai hay hát hay, mà thầy đã làm xiêu lòng người góa phụ trẻ có nhan sắc. Tôi biết chắc điều này, vì bà đã “hối lộ” tôi mấy lần để đưa cho thầy mấy bài thơ, và dặn dò tôi không được cho ai biết, kể cả cha tôi. Nghe nói bà là vợ của một ông cán sự Nông Lâm Súc làm việc ở Hiệp Hội Nông Dân, bị tử nạn giao thông trên Đèo Cả, chỉ sau một tháng làm đám cưới. Bà là cô giáo dạy trường huyện, ở xa tới, hình như là Phan Rang hay Đà Lạt gì đó, thuê nhà phía sau nhà tôi. Thỉnh thoảng tôi thấy có mấy ông thầy giáo trẻ đồng nghiệp và cả mấy ông Hiến Binh mũ đỏ lai vãng trước nhà bà.

    Một hôm thầy đột ngột dọn ra khỏi nhà tôi, sau khi nói chuyện với ba tôi. Thầy sang tá túc bên hông chùa, nằm ngay phía sau trường Bồ Đề, lúc ấy chỉ có ba phòng học. Cha tôi ngạc nhiên, vì trước đây thầy cho biết thầy ăn mặn và sống hơi phóng túng, ngại làm phiền nhà chùa nên mới đến trọ ở nhà tôi. Sau khi tôi tiết lộ chuyện những bài thơ của người đàn bà trẻ phía sau nhà, cha tôi tròn mắt rồi gật đầu bảo có lẽ đó chính là lý do thầy dọn đi. Trong những lúc tâm tình, thầy thường nói với cha tôi, thầy rất sợ đàn bà.

    Mãn khóa Hè, thầy ghé lại nhà tôi, thăm và cám ơn cha tôi. Thầy khen tôi học khá, đề nghị nên cho tôi học đệ lục thay vì đệ thất. Hơn nữa tuổi tôi cũng hơi cao. Cuối cùng trước khi chia tay, thầy cho biết là sẽ rời quê tôi về lại Nha Trang, và có thầy Trần Đức Trang, một vị giáo sư lớn tuổi, có kinh nghiệm về tổ chức và hành chánh, ra thay thế thầy để thành lập và làm hiệu trưởng trường Bồ Đề Vạn Ninh, nhưng không phải bắt đầu từ niên khóa này mà phải chờ đến niên khóa tới, vì các thủ tục chưa hoàn tất kịp. Do đó, tôi phải khăn gói vào Nha Trang. Và theo sự khuyến khích của thầy, thay vì bắt đầu lớp đệ thất, tôi vào học lớp đệ lục trường Văn Hóa, ngôi trường tư thục mới mở ở đầu đường Quốc Lộ 1, gần nhà chú tôi, nơi tôi trọ học.

    Bẵng một thời gian hơn hai năm tôi không gặp thầy, mặc dù nhiều lần lên trường Bồ Đề Nha Trang hỏi thăm thầy, nhưng không ai biết. Có người bảo thầy đã về Huế, có người lại bảo đang dạy ở Sài Gòn. Bỗng một hôm tôi bất ngờ thấy thầy xuất hiện trong văn phòng trường Văn Hóa, nơi tôi đang theo học. Gặp lại nhau, thầy trò mừng lắm. Thầy bảo từ Sài Gòn mới về lại Nha Trang và sẽ dạy môn Sử Địa cho các lớp đệ tứ và đệ nhị, thay cho thầy Nguyễn Mậu, vừa đắc cử vào Hạ Nghị Viện. Tôi nhảy cỡn lên vui mừng, vì tôi đang học lớp đệ tứ, sẽ được học với thầy. Thầy chỉ cho tôi đường đến nhà thầy và bảo cuối tuần ghé lại chơi. Thầy thuê một căn nhà nhỏ trong con hẻm lớn, phía trước trường đi xuống Rộc Rau Muống. Ngôi nhà khá xinh xắn, khang trang. Khu vườn nhỏ phía sau trồng đầy hoa cúc và một hàng rào phủ kín hoa tigôn.

    Một ngày cuối tuần tôi đến thăm thầy, bất ngờ gặp một chị bạn cùng lớp đang ngồi đánh cờ tướng với thầy. Chị bạn mới vào học năm đệ tứ, cũng gốc Huế, là một người con gái đẹp, nhưng lúc nào cũng u buồn, nhất là đôi mắt. Chị có vẻ lớn tuổi hơn bọn tôi. Trong lớp thường ngồi im lặng, không thân thiết và đùa giỡn với bất cứ ai, kể cả nữ sinh, nhưng ai cũng quý chị. Tôi ngồi xem ba ván cờ. Không biết thầy có nhường hay không nhưng chị bạn tôi thắng cả ba bàn. Lần đầu tiên tôi biết có một người con gái giỏi cờ tướng như vậy. Và cũng lần đầu tiên tôi thấy được nụ cười của chị. Lần sau đến thăm thầy, tôi lại gặp chị, đang ngồi hát cho thầy đệm đàn. Khung cảnh thật lãng mạn. Hết bản nhạc, thầy đứng lên treo cây đàn trên vách, đi lấy thêm một cái tách nhỏ, mời tôi cùng ngồi uống trà. Loại trà Huế có mùi thơm rất đặc biệt. Trông hai người khá tâm đắc. Tôi ái ngại khi phải xen vào cái không khí yên ả và tình tự của hai người, nên viện nhiều lý do để không đến thăm thầy nữa.

    Khoảng hơn một tháng sau, chị bạn nghỉ học. Chúng tôi đọc trên báo mới biết chị vừa đóng vai chính một cuốn phim khá nổi tiếng. Nghe nói, khi thực hiện bộ phim này, ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa không tìm được tài tử nào thich hợp để thủ vai chính. Một hôm ghé lại Nha Trang, lang thang một mình trên bãi biển, bất chợt ông bắt gặp ánh mắt u buồn của một cô con gái đang ngồi một mình nhìn về cõi xa xăm, tĩnh lặng và đẹp như một bức tượng, không hề biết có ông đang đứng thật gần. Ông lặng yên khá lâu rồi xin phép được nói chuyện. Cô con gái lưỡng lự, gật đầu. Ông đạo diễn đã tìm được một người lý tưởng để thủ vai chính cho cuốn phim đắc ý của mình. Cuốn phim nói về một cuộc tình buồn, có nhiều cảnh đóng ở Nha Trang. Ông đạo diễn muốn thực hiện một bộ phim để kỷ niệm nơi ông đã sinh ra, mặc dù sau đó ông đã sống những ngày tuổi thơ và lớn lên ở Huế.

    Bộ phim đã làm cho khán giả tốn nhiều nước mắt, qua khuôn mặt xinh xắn và đôi mắt u buồn rất thật của cô gái Huế thủ vai chính. Bộ phim thu nhiều lợi nhuận cho đạo diễn và nhà sản xuất. Nhưng người thủ vai chính không bao giờ còn xuất hiện. Cô đã uống thuốc độc quyên sinh. Hôm đám tang, thầy Huế dẫn cả lớp đệ tứ chúng tôi theo sau quan tài tiễn đưa chị về cõi vô cùng. Đám tang thật buồn. Thầy Huế mang kính đen, nhưng tôi có cảm giác phía trong đôi kính ấy đong đầy nước mắt. Báo chí có đề cập đến cái chết của chị, người “tài tử” bất đắc dĩ rất tuyệt vời này, nhưng không ai biết chính xác lý do vì sao chị phải tìm cái chết, ngoài những tin đồn.

    Một lần nữa, thầy bỗng dưng biến mất. Không ai gặp thầy ở Nha Trang. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Bá Mậu, chuyên dạy Pháp văn, phải tạm thời thay thầy, dạy môn Sử Địa lớp tôi để kịp kỳ thi trung học. Và cũng từ hôm ấy tôi không biết tin tức gì về thầy Huế, và trong lòng cứ mãi băn khoăn bao điều không hiểu được, về thầy.

    Hôm nay, ở một nơi chẳng một ai muốn hẹn, tôi bất ngờ gặp thầy. Thầy lại mang đến cho tôi thêm một điều khó hiểu: tại sao thầy chỉ là trung sĩ 1? Tôi khui hộp bánh trong khẩu phần lương khô (Ration C) và làm ba ly cà phê “dã chiến” mời thầy Huế và bạn Đỗ Bê uống mừng cuộc trùng phùng. Nghe thầy cứ gọi thưa chúng tôi bằng cấp bậc, tôi ôm vai thầy:

    – Bất cứ trong hoàn cảnh nào, hai thằng chúng em cũng luôn là học trò của thầy. Xin thầy cứ gọi chúng em là em như thưở nào, chỉ ngoại trừ khi phải đứng trước hàng quân. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này, em rất thèm được nghe có người gọi mình là em.

    Thầy nở nụ cười rồi lưỡng lự gật đầu. Lâu lắm gặp lại nhau, có bao nhiêu điều muốn hỏi, nhưng thấy ánh mắt lo lắng của hai người khi nhìn ra khung cảnh đổ nát chung quanh còn ngổn ngang các xác xe tăng bị cháy, tôi chỉ hỏi thăm sức khỏe và gia đình. Điều thắc mắc nhất là cái lon trung sĩ 1 của thầy, nhưng việc này khá tế nhị nên tôi cũng không dám hỏi. Thầy bảo thầy thuộc quân số Tiểu khu Tuyên Đức hơn năm năm nay nhưng may mắn được nằm trong toán phụ trách trông coi các biệt điện của Vua Bảo Đại để lại ở Đà Lạt. Có lệnh đôn quân, cần 20 hạ sĩ quan bổ sung gấp cho Sư Đoàn 23, tất cả hạ sĩ quan đều phải bắt thăm. Ông là một trong số 20 người “không may mắn” đó. Tôi bảo sẽ cố gắng giúp hai người bằng tất cả khả năng của mình. Thầy Huế thì dễ dàng hơn để xin sắp xếp vào một ban tham mưu nào đó ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, còn bạn Đỗ Bê với cấp bậc Đại úy, rất khó, hơn nữa theo lệnh ông Tư Lệnh Sư Đoàn, phải bổ sung tất cả sĩ quan cho các tiểu đoàn tác chiến, mặc dù Bê chưa có một kinh nghiệm chiến trường nào.

    Tôi nhớ tới khả năng làm thơ, soạn nhạc và đàn hát của thầy Huế ngày xưa, nên đi gặp anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT xin anh nhận thầy về làm việc với anh. Tôi cũng giới thiệu với anh, ông là thầy cũ rất đáng kính của tôi thời trung học. Nể tình quen biết, anh Thiếu tá theo tôi đến Ban Quân số, xin nhận Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế về Khối CTCT. Thầy nắm tay tôi ái ngại, bảo là không muốn làm phiền tôi, và cũng không muốn người chỉ huy nghĩ là thầy nhờ tôi gởi gấm. Tôi ôm vai thầy bảo là khả năng của thầy rất xứng đáng để làm việc ở Khối CTCT. Sau này, thầy cho biết là anh Thiếu Tá Trưởng Khối đối xử rất tốt với thầy. Tôi không nhận thầy về làm việc với tôi, vì muốn tránh gây sự khó chịu cho thầy và cả cho tôi.

    Người bạn Đỗ Bê thì được bổ sung về Tiểu Đoàn 1. Tôi gặp ông Trung Đoàn Trưởng trình bày trường hợp Đỗ Bê, là bạn học và từ khi ra trường Thủ Đức, anh chưa giữ chức vụ tác chiến bao giờ nên đề nghị không đưa Bê ra làm đại đội trưởng tác chiến, mà nắm đại đội chỉ huy của Tiểu Đoàn 1, đang khiếm khuyết, để có thời gian làm quen với chiến trận.

    Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 là Thiếu Tá Phan Văn Khánh, từ binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt (giải tán) mới thuyên chuyển về. Anh Khánh tốt nghiệp Khóa 12 VBĐL, nhưng vì phục vụ trong Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, dưới quyền Đại tá Lê Quang Tung, nên sau ngày 1.11.63, anh bị đám tướng tá đảo chánh bắt giam, và sau này còn gặp nhiều rắc rối. Khi mới về Trung Đoàn, anh tạm thời ở Bộ Chỉ Huy, chưa được giữ chức vụ gì. Biết anh là một niên trưởng, rất tư cách, lại có gia đình ở Nha Trang, nên tôi rất kính trọng và thân thiết. Tôi giới thiệu Bê với anh và nhờ anh giúp đỡ, chỉ vẽ cho Bê thời gian đầu ở đơn vị tác chiến. Chỉ hai tháng sau, anh Khánh cho biết Bê rất tư cách, sớm thích nghi, can đảm và có khả năng lãnh đạo chỉ huy, nên anh đã đề nghị đưa Bê lên làm tiểu đoàn phó thay cho người tiền nhiệm vừa bị trọng thương vì đạn pháo kích của địch. Hơn nữa, so với các đại đội trưởng, Bê có cấp bậc thâm niên nhất. Sau cuộc hành quân, khi Tiểu Đoàn về dưỡng quân tại khu Phương Hòa, bên bờ sông Dakbla, tôi ghé lại thăm Bê, mừng và khen nó. Tôi mời anh Khánh và Bê ra tiệm Thiên Nam Phúc ăn thịt rừng uống rượu.

    Thầy Huế được đề cử làm Trưởng Ban Văn Nghệ kiêm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến. Trong hoàn cảnh này, thầy có vẻ tạm hài lòng với công việc. Tôi thường đến thăm và đón thầy đi uống cà phê mỗi khi có dịp về phố Kontum. Trong tâm tình, tôi được biết thầy vẫn còn độc thân, và sau khi rời khỏi Nha Trang thầy về Sài Gòn, dạy một vài trường trung học tư và một số giờ Pháp Văn ở Đại Học Vạn Hạnh.

    Nhắc tới chị bạn cùng lớp xinh đẹp có đôi mắt u buồn, đóng vai chính bộ phim nổi tiếng của ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa lúc trước, tôi hỏi thầy:

    – Có phải chị ấy là người yêu của thầy và vì sao chị lại quyên sinh trong lúc cuộc đời đang đẹp?

    Thầy cúi xuống, trầm ngâm giây lát rồi lắc đầu:

    – Tội nghiệp, cô ấy là một người con gái đặc biệt, tài hoa và rất đáng yêu, nhưng ông trời lại bất công, bắt cô chết sớm. Cô có hoàn cảnh buồn và bị đau tim nên không muốn sống! Đặc biệt cô rất giống người con gái tôi đã từng yêu. Phải nói là từng say mê mới đúng!

    Khi ngẩng đầu lên, thầy lấy cặp kiếng cận ra và lau nước mắt. Tôi hỏi thêm:

    – Có phải vì vậy mà thầy không lấy vợ? Thầy rất nghệ sĩ và đào hoa, em tin là có nhiều cô con gái yêu thầy.

    Bỗng tôi khựng lại, khi thấy thầy lắc đầu:

    – Tôi chỉ có một người yêu, người con gái mà tôi từng say mê đó! Nhưng khi tôi học bên Pháp thì cô ấy bỏ tôi đi lấy chồng.

    Và đột nhiên thầy hỏi lại tôi:

    -Em có biết cô ấy lấy ai không?

    Tôi im lặng. Thầy bảo:

    – Cô lấy em trai tôi. Chính vì vậy mà sau khi ở Pháp về, sau lần dự đám cưới em tôi, tôi không bao giờ trở về Huế nữa.

    Tôi khá bất ngờ, câu chuyện gợi cho tôi sự tò mò:

    – Chắc thầy buồn và trách cô ấy lắm?

    – Buồn, đương nhiên, nhưng trách thì không. Vì lỗi tất cả là ở tôi. Giữa cô ấy và đi du học, tôi đã chọn du học. Tôi chấp nhận trả giá cho sự ích kỷ và ngu xuẩn ấy của mình, không ngờ cái giá lại quá đắt. Còn em tôi, không biết nhiều về tình cảm mà tôi đã dành cho nàng, vì lúc ấy tôi muốn giấu ba tôi, ông rất nghiêm khắc và lúc nào cũng muốn tôi phải tập trung vào việc học.

    – Vì cái giá ấy mà thầy không bao giờ lấy vợ?

    Ông im lặng một lúc rồi lắc đầu:

    – Hồi ấy tính như vậy, nhưng rồi cuối cùng có lẽ tôi cũng sẽ lấy vợ. Lần này lại là một người khổ vì tôi. Tôi không thể ích kỷ và ngu xuẩn thêm một lần nữa. Người con gái, à quên, người đàn bà đó có thể em còn nhớ.

    Định nói thêm điều gì nữa đó, nhưng ông khựng lại:

    – Nhưng thôi, tôi đã từng có một kinh nghiệm khá đau đớn, nên chuyện gì chưa xảy ra, không thể nói trước được.

    Tôi thầm nghĩ, hóa ra cuộc đời ông thầy này có quá nhiều chuyện kỳ lạ. Tôi lại nhớ tới cấp bậc trung sĩ 1 của ông, nhưng rồi không dám hỏi. Nhiều lần tôi nghĩ, có thể ông sinh hoạt trong nhóm sinh viên Phật tử Ấn Quang ở Trường Vạn Hạnh, có tiếng thân Cộng, chống chính phủ, nên gặp rắc rối? Tôi đã có gặp anh Trưởng Ban 1 (Quân Số) để xin được xem qua hồ sơ quân bạ của ông, trong đó chắc chắn có ghi rõ mọi lý do. Nhưng hồ sơ của thầy gởi theo đường Quân Bưu, chưa đến. Tôi đang chờ.

    Bất ngờ, Thiếu Tá Phan Văn Khánh được điều động sang một trung đoàn khác để giữ chức vụ trung đoàn phó. Bạn tôi, Đại úy Đỗ Bê, tiểu đoàn phó của anh, được chỉ định xử lý thường vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1. Trong một chuyến bay tiếp tế, tôi đáp xuống bộ chỉ huy tiểu đoàn chỉ để kịp bắt tay khen và tặng một chai Black and White mừng nó lên chức.

    Hai tuần sau, trong một cuộc chạm súng với một tiểu đoàn địch, Tiểu Đoàn 1 của Bê được hai trực thăng võ trang của Phi Đoàn Lạc Long 229 yểm trợ, đã tạo một chiến thắng vẻ vang. Đánh tan đơn vị địch, tịch thu trên 60 vũ khí đủ loại và bắt sống 8 tù binh. Ngay sau khi trận chiến vừa kết thúc, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đáp xuống vị trí ngợi khen đơn vị, gắn cho Bê anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và cho làm Quyền Tiểu Đoàn trưởng. Tôi gọi máy chúc mừng và bả0:

    - Bắc Bình ơi! “Con bò tứ” (lon thiếu tá) đang ở trước mặt mày đó!

    Khoảng hai tháng sau, tin tức tình báo cho biết, có một sư đoàn Cộng quân từ miền Bắc mới xâm nhập, đang có mặt ở Pleiku, gần biên giới Miên- Việt.Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn dự đoán Pleiku, nơi đặc bản doanh Bộ Tư Lệnh QĐ II, sẽ là mục tiêu tấn công qui mô của địch. Trung Đoàn chúng tôi được điều động xuống Pleiku, trách nhiệm phòng thủ trên tuyến vòng đai cách tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng tây nam. Bộ Chỉ Huy chúng tôi đóng tại Căn Cứ 801, nằm phía tây QL 14 khoảng 10 km, và cách Hàm Rồng cũng khoảng hơn 10 km đường chim bay. Tiểu đoàn 1 của Bê hành quân tảo thanh bên ngoài, cách căn cứ chừng 5 cây số về hướng biên giới. Một hôm, khoảng 10 giờ sáng, trong một cuộc tao ngộ chiến với một lực lượng địch, Bê bị hứng trọn một quả B-40, tử thương tại chỗ. Xác Bê được đưa thẳng về QYV Pleiku.

    Tôi thẩn thờ khi nghe tin Bê chết. Chết một cách bất ngờ và tức tưởi. Trên chiến trường, nhiều cấp chỉ huy từng tạo nên bao chiến thắng hiển hách nhưng cuối cùng lại chết vì một viên đạn vô tình, không đáng.Tôi theo trực thăng CNC của ông Trung Đoàn Trưởng bay đến QYV. Thân xác Bê đầy những vết thương đang còn bê bết máu. Đôi mắt chưa khép hẳn.

    Tôi vuốt mắt Bê mà nước mắt tôi đổ xuống, đầm đìa. Điều cuối cùng tôi có thể làm được cho Bê, là xin phương tiện để sớm đưa Bê về nguyên quán. Tôi hình dung đến vùng quê Gò Cam, Diên Khánh hiền hòa, ngôi nhà mái ngói đỏ và những người trong gia đình Bê mà tôi bao lần đến đó, gặp gỡ. Tôi cũng nhớ tới Phan Ái Minh người anh em ở chung nhà trọ học với Bê lúc xưa, cũng là bạn thân của tôi sau này, một con người tài hoa, đã hy sinh chỉ hơn một tháng sau ngày tốt nghiệp từ Trường Võ Bị. Trong không khí yên lặng của khu nhà xác bệnh viện, tôi mơ hồ như bên tai đang văng vẳng bài truy điệu của chính vị Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị vang tiếng một thời: “Ôi! sự nghiệp đang công đeo đuổi thôi đành gián đoạn nửa đường. Chí tang bồng hằng mong thực hiện thôi cũng đành ôm hận ngàn thu.”

    Tôi tìm thầy Huế báo tin Đỗ Bê tử trận. Ông tròn mắt rồi bật khóc. Hôm nghe tin có phi cơ chở quan tài của Bê về Nha Trang, thầy xin theo tôi và anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT ra phi trường để chào tiễn Bê lần cuối. Trước khi đi, tôi hỏi thầy có muốn “hộ tống” quan tài Bê về Nha Trang cùng với anh sĩ quan CTCT của Tiểu Đoàn 1, tôi sẽ xin phép cho thầy. Thầy vui mừng gật đầu, nhưng thoáng một chút ái ngại. Tôi vỗ vai thầy, bảo yên chí, tôi sẽ xin anh Trưởng Khối CTCT và anh Trưởng Ban 1 làm sự vụ lệnh cho thầy thêm một tuần để thầy ghé về Đà Lạt thăm nhà.

    Thêm một người bạn nữa ra đi. Cũng ở Tiểu Đoàn này, trước đây một năm, tôi đã mất Đặng Trung Đức, Khóa 19 VB, một người bạn thân quý như anh em kể từ ngày hai đứa mới ra trường, cùng làm trung đội trưởng cho một anh trung úy Khóa 16 VB rất tài ba. Đức là một tiểu đoàn trưởng xuất sắc, đã lập nhiều chiến công hiển hách trong Mùa Hè 1972. Và cũng chỉ mới 8 tháng trước, Trần Công Lâm , thằng bạn thân thiết cùng khóa Thủ Đức, cùng trung đội SVSQ với tôi, (nó giường trên tôi giường dưới), đã bỏ mình trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú, khi đang nắm Tiểu Đoàn 3. Dẫu biết trong chiến tranh, sinh tử là lẽ thường tình, nhất là thời gian này, chiến trường thật thảm khốc, con số thương vong rất lớn, nhưng chứng kiến những cái chết trẻ của bạn mình, lòng đau đớn tựa hồ như có trăm ngàn vết chém.

    Quá thời gian 15 ngày trong sự vụ lệnh, vẫn chưa thấy thầy Huế trở lại đơn vị. Anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT và cả anh Trưởng Ban 1 hỏi tôi mấy lần, như là một lời nhắc nhở, bởi chính tôi là người xin phép cho thầy. Tôi bồn chồn lo lắng. Chẳng lẽ thầy đào ngũ vì thấy quá khổ sở và nguy hiểm, nhất là bị ám ảnh cái chết của Đỗ Bê, người học trò cũ cùng đến trình diện đơn vị một lúc với thầy? Tôi không tin là thầy đã phụ lòng tốt của mình, nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh chết chóc này, điều gì cũng có thể xảy ra.

    Đã đến hạn phải báo cáo đào ngũ Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế. Được anh Trưởng Ban 1 cho biết và hỏi ý kiến, tôi năn nỉ xin anh chờ thêm hai tuần nữa. Cuối cùng thầy tôi vẫn bặt vô âm tín.

    Một tuần, sau khi báo cáo đào ngũ và lệnh truy nã đã gởi đi, bỗng một hôm anh Trưởng Ban 1 cho tôi biết, có người đàn bà tìm đến hậu trạm Trung Đoàn (tại Hàm Rồng), đưa giấy chứng nhận của Cảnh Sát, cho biết là Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế đã bị Việt Cộng giết chết trên đường trở về đơn vị. Tôi lái xe xuống hậu trạm, chờ cho bà làm thủ tục xong, tôi đến mời bà về Ban Xã Hội (nơi bà tạm nghỉ) để xin phép được nói chuyện.

    Gặp bà, tôi sửng sốt. Vì dù có thay đổi ít nhiều với thời gian, và trên đầu quấn chiếc khăn tang, nhưng tôi vẫn nhận ra bà chính là cô giáo, người góa phụ trẻ, từng có thời thuê nhà ngay sau nhà tôi, và đã nhờ tôi đưa mấy bài thơ cho thầy Huế phổ nhạc, nhưng đọc qua tôi biết đó là lời tâm sự bà muốn tỏ cùng thầy.

    Bà cho biết, vì không tìm được phương tiện quân sự khác, khi sự vụ lệnh đã hết hạn, nên thầy rất nôn nóng, quyết định đi xe đò qua ngõ Nha Trang – Quy Nhơn. Xe bị một đám Việt Cộng giả dạng lính mình, chặn ngay phía dưới Sông Pha. Bọn họ lục soát xem giấy tờ, cướp hết tư trang vàng bạc của hành khách, bắt vào rừng một số đàn ông và bắn chết ba người, trong đó có thầy.

    Sau khi nhận ra tôi, bà tỏ ra thân tình, gần gũi hơn, và có lẽ tôi là người để bà có thể trút hết tâm tư đang đè nặng trong lòng. Bà đổi cách xưng hô:

    – Chị là bạn và cũng có thể nói là vợ chưa cưới của thầy Huế. Chị lên đây với giấy ủy quyền của bà cụ, mẹ anh ấy. Bẵng đi một thời gian rất lâu, từ dạo nghe tiếng đàn và giọng hát của thầy ở sau vườn nhà em, chị gặp lại thầy ở Đà Lạt, quê của chị và nơi làm việc của thầy.

    – Em không hiểu tại sao thầy không là sĩ quan mà chỉ mang trung sĩ? Em thắc mắc điều này mà chưa dám hỏi thầy – Tôi hỏi chị.

    – Thầy có tâm sự việc này với chị. Sở dĩ thầy không khai bằng cấp là để khỏi phải vào Thủ Đức. Thầy muốn tránh gặp mặt vợ chồng người em trai, người làm đám cưới với cô nữ sinh Đồng Khánh mà không hề biết là ông anh mình hết lòng yêu trước ngày đi du học. Chú em vào Thủ Đức và khi ra trường được giữ lại làm huấn luyện viên. Cô vợ thì xin được công việc trong một ngân hàng ở Sài Gòn, nhưng nhờ vốn của cha mẹ cho, nên sang lại và làm chủ một câu lạc bộ ngay trong trường Sĩ quanThủ Đức. Thầy Huế không hề trách em mình, nhưng chú em đã buồn và khổ tâm vô cùng khi biết đươc điều này. Thầy Huế muốn tránh gặp mặt vợ chồng chú em trai vì không muốn gây khó chịu cho cô chú ấy và cả cho thầy. Sau đó, có một thời gian ông gần như mất trí khi biết được tin cả hai vợ chồng chú em bị VC giết chết trong Tết Mậu Thân cùng với ông cụ. Trước Tết chú em nghỉ phép dắt vợ về thăm gia đình ở Huế. Riêng thầy, tìm mọi cách xin hoãn được một thời gian, đầu năm 1967 thầy vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Ra trường may mắn được chọn về Tiểu khu Tuyên Đức. Nhờ một người học trò cũ là một Phó Đốc Sự quen thân với ông tỉnh trưởng giúp đỡ, thầy được bổ sung vào toán “quản gia” cho mấy cái biệt điện của Vua Bảo Đại để lại. Công việc nhàn nhã, rất ít khi phải mặc quân phục, nên rất ít người biết chức vụ hay cấp bậc của thầy. Thầy xin dạy thêm ở một vài trường tại Đà Lạt, nên tiền bạc cũng không thiếu. Anh mãn nguyện với công việc và rất mê Đà Lạt, nên không có ý định thay đổi, cho đến khi phải bắt thăm và ra Sư Đoàn 23 này.

    Tôi hỏi lại bà:

    – Sao người học trò làm Phó Đốc Sự không giúp, giữ thầy lại.

    – Cả ông tỉnh trưởng và ông Phó Đốc Sự cũng đã thuyên chuyển đi trước đó lâu rồi.

    Tôi hỏi sang chuyện khác:

    – Gia đình cha mẹ thầy vẫn còn ở Huế, và thầy được chôn cất ở đâu?

    – Tết Mậu Thân, ông cụ và hai vợ chồng chú em bị giết. Thầy còn hai cô em gái và cậu em trai út, tất cả đều đã lập gia đình. Bà cụ không muốn ở chung với dâu rể, thấy thầy sống một mình tội nghiệp, nên dọn vào Đà Lạt ở với trưởng nam. Chị vẫn thường xuyên đến phụ giúp bà. Từ ngày anh Huế đổi ra Kontum, chị dọn về ở chung với bà, bây giờ bà đã khá già. Khi sống thầy rất yêu Đà Lạt, nên chị xin phép bà cụ an táng anh ở Đà Lạt. Dù chưa chính thức kết hôn, nhưng chị xem anh ấy đã là chồng mình. Thêm một lần nữa chị để tang chồng, mặc dù chị chỉ có một mối tình duy nhất trong đời, với anh ấy. Người chồng trước lớn hơn chị nhiều tuổi, chị lấy cho vui lòng mẹ chị. Khi ấy chị còn nhỏ quá, chưa biết tình yêu là gì và cũng chưa làm chủ được mình. Khi ông ấy chết vì một tai nạn, chị thấy tội nghiệp cho ông và cũng tội nghiệp cho chị.

    Tôi mời chị dùng một bữa cơm chiều ở một cái quán“dã chiến” phía trước, do vợ
    của một anh lính tài xế Biệt Động Quân làm chủ. Tôi khoe ở đó có món cá kho tộ và canh chua nấu với lá giang tuyệt lắm, nhưng chị bảo đã nhận lời dùng cơm và ở lại đêm với các cô nữ quân nhân bên Ban Xã Hội.

    Sáng hôm sau, tôi mời chị, anh Thiếu tá Trưởng Khối CTCT và cô Trung úy Trưởng ban Xã Hội đi ăn sáng. Phòng Không Trợ cho biết, có một phi đội trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng 215 hoán đổi, sắp trở về lại căn cứ Nha Trang, chúng tôi đưa chị lại bãi đáp, giới thiệu với anh phi công trưởng hợp đoàn, để xin cho chị được tháp tùng.

    Vẫy tay chào tiễn chị, trong lòng tôi dấy lên bao nỗi ngậm ngùi. Một người bạn rồi một ông thầy ra đi. Nhanh quá. Tôi nhớ đã từng hứa giúp họ hết lòng, nhưng quyền hạn và khả năng của mình quá hạn hẹp mà chiến tranh thì lại khốc liệt, tàn nhẫn vô cùng! Và những cuộc tình trong thời chiến tranh cũng sôi nổi, buồn, và ngắn ngủi như đời một người lính chiến.

    (Phạm Tín An Ninh)__
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  10. #40


    __ĐÈN KUALA LUMPUR "NGỌN TỎ, NGỌN LU"
    (Tác Giả: Trần Mộng Tú)

    __ Bài viết của Trần Mộng Tú về số phận nữ của chế độ hiện tại. Đọc mà ê chề cho thân phận những đứa con vô phước của Mẹ Âu Cơ.

    Trần Mộng Tú, từ Mỹ, đi theo phái đoàn Báo Chí và Tôn Giáo, trở về những hải đảo Mã Lai và Thái Lan để nhìn lại Con Đường Vượt Biên của những Thuyền Nhân Việt. Trong chuyến đi, bà tìm được mối liên hệ mới với những "hậu thuyền nhân" trên đất người.


    Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    Anh về học lấy chữ nhu
    Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.

    oOo

    Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.

    Những cô gái Việt sang tới Mã Lai làm ăn thì người chồng ở nhà phải chờ “chín trăng” là chín tháng hay “mười thu” là mười năm. Bài hát ca dao Nam Bộ đó, bây giờ được hát bởi những người chồng.

    Từ cửa sổ khách sạn Nova Hotel trên đường Jalan Alor, không cách xa tháp đôi nổi tiếng Twin Tower lắm của Kuala Lumpur, buổi tối mở cánh cửa sổ ra, nếu bạn ngó về phía trái, thấy một con đường nhỏ với một dẫy đèn lồng đỏ, treo trên những mái hiên. Những ngọn đèn đỏ này không to lắm, có “ngọn tỏ ngọn lu” thỉnh thoảng có cả một ngọn không được thắp hay thắp mà không sáng.

    Nơi đó họ gọi là Phố Đèn Đỏ. Cái tên nghe thật dung dị. Thắp đèn đỏ thì gọi là phố đèn đỏ vừa gợi hình vừa dễ nhớ. Thật ra cái tên Phố Đèn Đỏ có tiểu sử của nó tùy từng quốc gia, nhưng nói chung đó là tên gọi của chốn ăn chơi của các ông trên thế giới.

    Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.

    Khu đèn đỏ là khu “Bán phấn Buôn Hương.” Hương gái Việt và Phấn gái Việt được biết, ở thời điểm này chiếm 80%.

    Con phố Jalan Alor có chợ đêm “Night Market.” Sinh hoạt chính từ 4 giờ chiều cho tới 5, 6 giờ sáng hôm sau. Chợ đêm chủ yếu là thức ăn. Ở đây ngoài bếp Mã, có bếp Tàu và bếp Việt. Tìm nước mía, nước dừa, ngô (bắp) hấp, khoai luộc rất dễ dàng. Trái cây Mã rất gần gũi với Việt Nam: Chôm chôm, măng cụt, soài, nhãn mùa này đầy chợ. Có Quán ăn Việt, người Việt làm chủ. Du khách đủ mọi lớp tới. Có người đi du lịch với vợ, với gia đình. Cũng có những thương gia trên đường giao hàng, trên đường ký hợp đồng tới đây ăn xong thì ở lại qua đêm đi mua hương mua phấn.

    Những cô gái Việt bán hương phấn ở đây nhiều lắm, họ còn khá trẻ. Tuổi từ mười tám cho tới ba mươi. Họ là những món hàng đẹp và ngon trong chợ đêm này.

    Tài xế taxi Mã gặp khách đàn ông đi một mình. Bất cứ người khách đó mang quốc tịch gì, màu da gì, cũng được hỏi một câu rất giản dị:

    Do you want Vietnamese pretty girls?

    Chữ Vietnamese được nhấn mạnh trong câu hỏi.

    Tại sao gái Việt ở đây nhiều thế, họ tới đây bằng cách nào? Có thể là họ đi theo kiểu Xuất Cảng Lao Động chính thức hay họ bị mua chuộc, bị lừa, hoặc tự nguyện sang Mã làm gái bán vui, mua buồn. Đi bằng cách nào thì tất cả đều vì lý do kinh tế. Họ là những phụ nữ rất đáng thương.

    Một buổi sáng, tôi tình cờ được ngồi ăn cùng bàn với mấy cô trong một quán ăn của người Việt. Ngồi một lúc, cung cách của các cô mang thuốc lá ra hút, gọi cà phê, thức ăn, cho tôi biết các cô làm gì ở đất nước này. Tôi bắt chuyện làm quen, các cô vui vẻ tâm sự. Một cô khoảng trên dưới ba mươi, người miền Nam. Cô nói cô ở Kiên Giang đến.

    - Kiên Giang bây giờ đẹp lắm!

    Cô khoe. Rồi cô tâm sự:

    - Em với chồng bỏ nhau, con gái lớn đang học trung học, thằng nhỏ bảy tuổi bệnh, em không có tiền chạy thuốc, nó chết. Em buồn quá, có người rủ đi xa kiếm tiền thì đi. Đi theo diện du lịch, rồi ở lậu luôn.

    – Nếu bị hỏi giấy tờ thì sao?

    Không sao cả cô ơi! Ở đây dễ lắm, có tiền cho tụi lính (cảnh sát) là xong hết. Có tiền em gửi về nuôi má, nuôi con ăn học.

    Cô khác nói:

    - Cô ơi, ở đây tụi em làm gái sợ lính Mã lắm, nó cho vào tù bất cứ lúc nào. Mình ở lậu, làm việc này phải sợ tất cả mọi người. Phải có tiền thuê “Bảo Vệ” nữa. Bị khách hành hung hay không trả tiền thì gọi Bảo Vệ can thiệp. Vào tù cũng gọi Bảo Vệ chuộc ra. Tiền chuộc cộng tiền nộp cho Bảo Vệ thành một số nợ to. Mình phải làm để trả món nợ đó trước khi có tiền gửi về nhà. Tụi em mỗi đứa một cảnh cô ơi.

    Cô khác kể:

    - Ở Bắc em trồng trà trên Thái Nguyên, sáng nắng, chiều mưa, vất vả lắm, cũng chẳng được bao nhiêu, nhà lúc nào cũng nợ. Thấy bạn em rủ sang Mã Lai kiếm tiền dễ hơn, nói làm massage, hát Karaoke khá lắm. Người ta ứng trước cho cả ngàn đồng Mỹ, làm giấy tờ cho mình hết, chỉ việc đi sang làm trừ dần. Sang đến nơi mới hay mình nợ người ta cả tiền ứng trước, tiền vé máy bay, tiền giấy tờ, một con số to lắm. Khó lòng mà trả được món nợ này. Giấy tờ người ta giữ hết, mình không nói được tiếng của nước này. Thế là họ bảo sao phải nghe vậy nếu không muốn vào tù.

    Cô chưa nói hết câu đã nước mắt ngắn, dài. Một cô khác kể chuyện của nhau:

    - Chúng em, có người xuất cảng lao động, cực quá không làm nổi, hay đang làm thì hết việc.Về lại quê nhà thì tiền vay nợ để đi chưa trả được bao nhiêu. Chồng có khi đang thất nghiệp hoặc ốm đau. Thôi anh để em ở lại làm thêm đôi năm nữa. Anh đâu có biết đích xác em làm việc gì. “Ngậm bồ hòn làm ngọt” cô ơi! (Chữ ngậm bồ hòn này chỉ có người Bắc mới biết.)

    Một cô khoảng ba mươi, có cặp mắt rất buồn:

    - Cô ơi, làm hoài cũng quen, nếu mình biết tự đề phòng cho không nhiễm bệnh và biết nghe lời thì dễ sống hơn. Số phần mà cô, phải chấp nhận để sống. Chắc cỡ tuổi tụi em cũng chỉ làm được vài năm nữa. Nếu có phe đảng thì lên làm chủ, rồi mình lại “lừa” người sang sau. Nếu không thì mang cái thân tàn về quê. Không tính trước được cô ơi. Chúng em phó mặc cho phần số. Giọng miền Trung của cô, ngập ngừng, dịu dàng, nghe mà mủi lòng.

    Có cô thú nhận:

    - Tụi em yếu đuối chứ có chị rất cứng cỏi, biết bị lừa tìm mọi cách để thoát. Chạy vào tòa đại sứ tố cáo, hay chạy vào sở công an Mã, đôi khi cũng thoát được cô ạ. Thật ra các chị có chồng tốt ở nhà chờ, chỉ vì nghèo muốn ra nước ngoài lao động, nay bị lừa nên nhất định về. Còn như chúng em, ai có chồng ở nhà cờ bạc, nghiện hút, hay đánh đập vợ con thì đâu còn muốn về nữa. Mà chồng mình đôi khi cũng chẳng cần biết mình làm gì, miễn cứ gửi tiền về là được. Buồn lắm cô ơi!

    – Cô ăn đi chứ, sao cô cứ nhìn cái ang cá kèo vậy?

    Cái ang cá kèo lạ lắm. Cả trăm con cứ nhảy tung lên như là khiêu vũ, bắn cả ra ngoài ang. Mươi phút sau chúng nằm xếp lớp lên nhau, rất ngoan ngoãn và thứ tự. Tất cả cái đầu nghiêng về một phía như có người cầm đũa xếp những con cá trong một cái nồi để kho. Những con cá này được mang sang từ Việt Nam. Người chủ quán bảo gây mê cho nó ngủ mấy tiếng, bỏ vào thùng xốp gửi máy bay qua đây. Sang tới nơi chúng sẽ tỉnh dậy. Từ Việt Nam sang Mã Lai có hai tiếng bay mà.

    Trên một khía cạnh nào đó, những cô gái Việt có phải đã sang Mã Lai bằng cách đi của những con cá kèo này không? Cá kèo ở Việt Nam được xếp vào dạng cá rẻ tiền, cá của dân quê nghèo khó ăn thường ngày. Cá kèo là hạng chót nên đi xem hát mà mua vé rẻ tiền người ta cũng gọi là ngồi ở hạng “cá kèo."

    Hôm sau tôi được một anh bạn kể cho nghe chuyện “Đi Biển” tối hôm trước. Anh ở trong nhóm của chúng tôi, anh dắt cả mấy cô cháu, cả một linh mục khá trẻ, vào đó “tham quan cho biết sự tình” thôi.

    Đó là một nhà hàng đêm có tên là Beach Club (Họ gọi tắt là đi Biển), ở không xa khu chợ đêm. Nơi đây mỗi người vào phải mua một chai nước ngọt hay bia giá khoảng 400 tiền Mã (gần 10 Mỹ Kim). Vào trong Biển tối om đó có cả hàng chục cô gái Việt tuổi mười tám, đôi mươi, chạy ra vây chung quanh mình.

    Khách và các cô muốn tính với nhau thế nào thì tính, miễn là nộp tiền cho chủ theo đúng luật đã quy định. Ở nơi này, các cô còn xuân trẻ có thể kiếm một đêm từ một đến hai trăm Mỹ kim.

    Các cô sẽ lôi kéo, vuốt ve, khách không trốn vào đâu được. Thật ra đã vào đấy thì có ông nào không muốn bị bắt. Nhưng đây là nhóm của chú cháu anh nên họ chỉ đứng chụm vào nhau nói chuyện và quan sát. Nghe anh nói chuyện với linh mục cứ cha cha, con con. Một cô khẽ lên tiếng:

    – Con muốn được xưng tội.

    Tôi ngắt lời, hỏi:

    – Thế cha có giải tội cho cô ấy không?

    Anh bạn nói:

    - Không, cha sợ bị phục kích.

    Tự nhiên tôi thấy thương quá! Nếu thật tình cô ấy muốn xưng tội thì sao? Có lẽ cô là người Công Giáo, bao lâu nay không hề tới nhà thờ vì nghĩ mình tội lỗi. Tôi tin cô có thể cầu xin tha thứ thẳng với Chúa. Chúa nhân từ vô cùng, Chúa hiểu hoàn cảnh của cô hơn bất cứ ai.

    Trong một buổi tối khác, quán ăn khác, chủ cũng là một phụ nữ người Việt, khoảng bốn mươi tuổi. Phụ bếp, chạy bàn có nam, có nữ, toàn người Việt. Một cô trông rất trẻ, đang ngồi chẻ rau muống làm gỏi cho khách. Tôi hỏi chuyện làm quen mọi người, cô chủ cho biết ở đây đã chín năm, chồng là người Hoa. Cô phụ bếp mới sang được một tháng. Đi diện du lịch rồi sẽ ở luôn. Cô chủ nói, em chỉ cần đút tiền cho lính Mã là cái gì cũng xong cô ạ.

    Tôi đợi lúc cô phụ bếp mang thức ăn cho tôi, tôi hỏi:

    - Con có gia đình chưa? Ở thành phố nào?

    – Dạ có rồi, con ở Huế. Con có hai đứa con nhỏ. Cô ngập ngừng một chút nói thêm: Nghèo quá cô ạ, mà luôn luôn không có việc làm. Cả hai vợ chồng cùng thất nghiệp hoài. Con giao con cho nhà chồng, sang đây làm để có tiền gửi về.

    Tôi nhìn kỹ cô thêm một chút, thấy cô người mảnh mai, có chút nhan sắc, tôi chạnh lòng nói khẽ:

    – Cô biết con làm ở đây vất vả, từ 4 giờ chiều tới 5, 6 giờ sáng. Nhưng nếu ai rủ con đi làm việc gì nhàn hơn, nhiều tiền hơn, con đừng có nghe. Con hiểu cô nói gì không?
    Cô gái nhìn tôi với cặp mắt bối rối. Cô hạ mi mắt thấp xuống một chút. Cô cũng trả lời rất khẽ

    – Dạ, con hiểu. Con cám ơn cô.

    Tôi thấy lòng mình nao nao. Chẳng phải bà con thân thích gì sao bỗng thấy thương như thương con, cháu mình.

    Hoàn cảnh của những cô gái mang hộ chiếu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cô đến từ đâu? Huế, Hà Nội, Kiên Giang, Mỹ Tho, Cà Mau hay Ninh Bình, Lạng Sơn, Nam Định, các cô đều là những con cá kèo bị (hay tự chọn) gây mê bỏ vào thùng xốp mang đi.

    Những ngọn đèn lồng đỏ, "ngọn tỏ ngọn lu" đó còn treo tới bao giờ.

    Trần Mộng Tú___
    (Mã Lai, tháng 4/2017)


    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

 

 

Similar Threads

  1. Truyện Thật Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 3
    Last Post: 06-23-2015, 06:14 PM
  2. Audio Truyện Ngắn
    By V.I.Lãng in forum Truyện
    Replies: 11
    Last Post: 08-07-2013, 05:05 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 04-26-2013, 02:03 AM
  4. Hẹn Hò - Truyện Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 5
    Last Post: 02-09-2013, 06:04 PM
  5. Truyện Thật Ngắn
    By cao nguyên in forum Truyện
    Replies: 92
    Last Post: 01-28-2012, 07:00 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 12:04 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh