Register
Page 2 of 5 FirstFirst 1234 ... LastLast
Results 11 to 20 of 44
  1. #11


    Tâm sự của một cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan
    (Tác giả: Cấn Thị Bích Ngọc)



    Viết theo tâm sự của một cô dâu Việt Nam nhân một chuyến đi Đài Bắc.

    Có lúc trăng soi dạng lưỡi liềm, nhọn như dao, không khắc vào tim mà lòng vẫn nhói đau. Cũng có lúc trăng chênh chếch như giọt nước mắt khổng lồ thổn thức giữa bầu trời hiu quạnh đen tuyền màu u uẩn. Bao tiếng gió miên man rầm rì giữa hàng cây lá vẫn không làm trăng tươi. Trăng ủ rũ, trăng tư lự, trăng ngẩn ngơ buồn, trăng soi rọi tâm tư lũ con gái chúng tôi.

    Tôi nằm bên chồng, nghe tiếng ngáy đều của anh mà thấy lẻ loi, cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má, thương mình. Má đã bao nhiêu năm nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo, cô đơn trong đêm về tịch mịch. Nhưng còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít quanh đây mà sao sương đêm vẫn hoang lạnh?

    Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh cho đời sống chật vật của gia đình tôi. Điều này trên lý thuyết cũng không khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết ơn vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu thương.

    Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.

    Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày thống nhất là ngày hận thù được thăng hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô giáo một trường tiểu học. Đất nước thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa.

    Má như một kẻ thua trận, gồng gánh đưa lũ con về quê ngoại. Má giã từ Sài Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ cuộc sống an bình ngày xưa. Má tảo tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng về sau những tháng ngày lao tù học làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi ra đời. Và rồi ba lại ra đi kiếm tìm tự do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi tìm tương lai cho cả gia đình, nhưng ba đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên nghỉ trong lòng đại dương. Đã không còn phiền não, không còn trầm tư trong đôi mắt ôn nhu ngày nào. Chỉ thương cho Ba, ra đi trước khi được về thăm quê nội ở bên kia bờ Bến Hải. (Tôi đã được nghe chuyện kể về một dòng sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài phía Bắc và vùng đất tự do phương Nam). Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng để lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ cười hiếm hoi trên môi má đã tắt lịm từ ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua nỗi chết của tâm hồn, gắng gượng sống cho đàn con.

    Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn. Chị em tôi bó gối nhìn nhau, nhìn má ngày càng võ vàng vì những cơn bệnh trầm kha không phương tiện chữa trị. Để rồi một ngày, tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những giấc mơ vốn dĩ rất đơn giản đến tội nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng đi tìm tương lai trong những nơi chốn lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người, đơn thuần là những món hàng, quên hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng trơ khoe bày tấm thân thể ngà ngọc, danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ. Tại nơi chốn bát nháo đó, nơi mà ranh giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi gặp chồng tôi.

    Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.

    Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.

    Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi. Đã bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng đế về sự trùng hợp huyền diệu này. Nó đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc men cho má và một mái gia đình với một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù không đồng ngôn ngữ, không đồng quá khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng những ánh mắt lãnh đạm, đôi khi rõ nét miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc hôn nhân lệch lạc, má vẫn nói nghĩa vợ chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn, mong rằng tôi và chồng tôi vẫn sóng bước đồng hành để trong đời sống của tôi không phải chỉ có những mất mát. Tôi nhớ ơn chồng nhưng chưa yêu anh được. Cho đến bây giờ mỗi lần ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để che dấu nỗi e dè, ngại ngùng khi khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc ngang của anh thật cận kề.

    Có lẽ vì chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông với người trong mộng của chồng. Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.

    Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.

    Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…Hay là: kiếp trước tui ở ác, nên bây giờ phải chịu nghiệp quả. Mà thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị đánh đập, không bị chuyền tay từ người đàn ông này qua người đàn ông khác. Nhưng tim tôi vẫn khắc khoải, hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia sẻ niềm tủi nhục của những chị bạn. Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi đồng nghĩa với những đường cùng ngõ hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng tôi đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi đã không bao giờ có tuổi thanh xuân. Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực bẫy. Có ai hiểu những khuấy động trong tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn của lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội nghiệp?? Chúng tôi thường đọc thấy những nét rẻ khinh trong mắt người bản xứ, tôi thường phân vân tự hỏi mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội dám mơ ước thoát cảnh khốn cùng. Chỉ mong sao những người cùng tiếng nói đừng khinh miệt những cánh chim phiêu bạt đáng thương của lũ chúng tôi.

    Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.

    Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm. Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận.Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.

    Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.

    Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro. Tôi đã sống dậy từ bao nỗi chết.

    Trong tôi bao phác họa muôn màu về một ngày mai khi đứa con bé nhỏ của tôi bước những bước thơ ngây vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng những giấc mơ. Rồi từng ngày tháng trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư lự. Con chưa mở mắt, nhưng tim đã ấp ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương Việt Nam ngàn trùng xa mà những điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh đây. Con sẽ được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết tình hoài hương. Ước ao sao con sẽ yêu thương quê ngoại như má luôn trân trọng nơi chốn má chào đời.

    Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái.

    Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.

    Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…

    Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích.

    Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.

    Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.

    Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.

    Xin một ngày, giấc mơ sẽ trở thành hiện thực!

    __o0o__
    (Tác Giả: Cấn Thị Bích Ngọc)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  2. #12


    .
    Những Anh Hùng Vô Danh đồn Dak-Seang
    (Tác Giả: Cựu quân nhân Không Lực VNCH Trường Sơn Lê Xuân Nhị)

    Lời tác giả: "Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục, thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Xin thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng của đồn Dak Seang."

    "Đường ra trận mùa này đẹp lắm..."

    Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.
    Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá ba số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói quả mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng; tôi lại mới bị Thủy giận, chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ giã em được, em tưởng mình… rớt máy bay chết rồi, bèn đi cặp thằng khác thì hết một đời trai. Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một tên chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt tên Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười:

    - Nhìn bản mặt táo bón của chú mầy làm tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày chưa... lấy vợ.

    Tôi phản đối (ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được):

    - Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh? Bị "đào"'hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm, có gì mà huy hoàng. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xác thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất, mà chỉ sợ… mất "đào" ở nhà."

    Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí:

    - Hậu sinh…. chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng chó nào dám ti teo? Đi phải thưa, về phải trình, tiền bạc phải 'báo cáo' đầy đủ. Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có quy củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốp rốp. Thằng nào muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái, nói theo một cách văn chương thì đó là “những ngày nghỉ mát” vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa của... bà tư lệnh; muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền "đấu láo" tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ… mới chết, thì cũng là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm kiểm chứng hay thắc mắc lôi thôi. Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trễ công việc. Thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú. Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action", phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v... thì đời lính mới thú vị.

    Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận:

    - Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.

    Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có chất... văn học chút nào hết:

    Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
    Đời hết vui khi đã vẹn câu thề

    Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai.

    Men rượu của buổi tiệc giã từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:

    - Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.

    Anh Ngọc dễ dãi:

    - Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.

    Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành….

    Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn đều ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính Không Quân đến lính Bộ Binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích..., ai nấy võ khí trang bị tới răng, trông phát khiếp. Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ của các em nữ sinh. Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ. Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ. Khi chiều xuống, cơm nước xong là về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ. Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên tai bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung, muốn văng ra khỏi giường. "Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn… bà xã cho được việc!" một giọng càu nhàu cất lên. Lại có giọng khác hăm dọa "ngày mai tao phải 'phản đấu' mới được." Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu" ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon. Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại "ầm" một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bị ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thì đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm "Đ.. mọa nó, bén chi mà bén miết!" Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi…

    Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy, không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
    Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tuần trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ở, ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mãnh lực nào, sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình, ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người linh bộ binh để "chết thay cho dân tộc", để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy. Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn, chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bởi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường - Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước. Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" - yêu Quê Hương, yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường giá cả.

    Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. "Cùng tắc biến - biến tất thông," mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.... Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn. Có thằng Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm rồi, mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:

    - Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?

    Nó đáp tỉnh queo:

    - Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.

    Tôi suýt bật cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu:

    - Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.

    Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, On chửi thề:

    - ĐM.. thằng mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu!

    Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả thật là dễ thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không còn "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… lì đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dễ gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẳm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này, nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… "màu tím hoa sim," trông chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định giành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối mục này. Tôi biết thằng khỉ ấy có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một câu "everybody loves the lover." Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật! Tôi ước chi giá như phi đoàn có chừng chục tên như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó "hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ?" Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh "Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày."

    Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không đụng trận nào cho ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn "giặc cỏ" đến quấy rối, rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Trong những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi duy trì khả năng bắn rocket. "Duy trì khả năng" là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu sẽ quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào, nên phải bay "duy trì khả năng" cho khỏi quên. Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như "Dăng gô" bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi, phi đoàn ai cũng chán, vì lối bắn mất dạy. Đang bay trên mục tiêu, tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dễ nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. “G” đâu mà lắm thế, mặt mũi cứ dài ra cả thước, nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh còn nhìn "tác phẩm" của tôi rồi phê bình "Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc."

    Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc:

    - Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng bỏ hoang nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi anh.

    Đại úy Ngọc bỗng nhiên phản đối:

    - Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.

    Có cái gì thắc mắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh mới nói:

    - Mày có để ý thấy chiến trường lần này - đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay - yên lặng một cách quá đáng không?

    Tôi chả biết gì, trả lời:

    - Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?

    - Thường thường mà yên quá như thế này, là thế nào cũng có đánh lớn.

    Tôi nói xuôi:

    - Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.

    Khoảng 5 giờ chiều, tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng:

    - Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.

    Chỉ một thoáng sau, anh la lên:

    - Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.

    Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô, bỗng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe mấy tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: "15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xúi quẩy." Vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:

    - Trên trời mà phòng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới đất tụi nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay.

    Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt. Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chỗ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. gì ở đây."

    Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế!" Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này. Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn. Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”. Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần nào xuất hiện. Anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:

    - Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Tết cũng huề.

    - Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.

    - Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ.

    - Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn….

    Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:

    - Bạch Ưng, đây Thanh Trị.

    - Nghe 5 bạn.

    - Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đã đếm được 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

    Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo thổi xuống một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào.
    Anh Ngọc bỗng nẩy ra một kế... chết người:

    - Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải "chiến tranh chính trị" mới được.

    - Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi… chiến tranh chính trị anh?

    Người phi công "chiến tranh chính trị bất đắc dĩ" lên mặt dạy dỗ:

    - Từ từ để tao cắt nghĩa. "Chiến tranh chính trị" nghĩa là… có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới, thì pháo nó mới câm được.

    - Xong rồi.

    Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này thì đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu.

    Anh Ngọc trấn an tôi:

    - Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao!

    Nghe sao mà chán đời! Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi! Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng, rồi rú lên:

    - Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi.

    Nhưng anh nói ngay:

    - Nhưng tử vi nói tao sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.

    Tôi nghiệm ra rằng, con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng.
    Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng, bóng "con gà cồ" của giặc đã nằm ngay dưới cánh. Chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng "everywhere." Vừa vào vùng là mấy anh Cobras làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy là con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đã đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn, cái món "chiến tranh chính trị" xem ra hết ép phê. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại.

    Đại úy Ngọc gầm lên:

    - Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên, tao cho nó… bỏ bomb thấy mẹ mày.

    Tức quá mà không làm gì được thì… chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:

    - Thạnh Trị, đây Bạch Ưng...

    - Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.

    - Có sao không bạn?

    - Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc, với lại con cái tôi đánh giặc còn “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.

    - Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.

    - Bạn ráng nhanh giùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.

    - Tôi hiểu bạn.

    Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc. – Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra…. – Ờ, may ra….

    Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. "Oành!" trái rocket nổ... gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu! Không chết, nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó… đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn:

    - Thạnh Trị, đây Bạch ưng...

    - Nghe bạn 5.

    - Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn, bạn muốn tôi đánh đâu?

    - Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.

    - OK! Roll.

    Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám "mây phản quốc," khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:

    - Bạch ưng, đây Thạnh Trị...

    - Nghe 5 bạn.

    - Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi sập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.

    - Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.

    - Bạn…

    Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "Ra giao thông hào với mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:

    - Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.

    Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:

    - Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp…dái, thì cha con nó mới chịu chạy lẹ...

    Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được, vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:

    - Bạch ưng, đây Thạnh trị...

    - Nghe bạn

    - Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.

    Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb, bỏ dở cây đại bác của địch, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.

    - Tụi nó đông như kiến bạn ơi!

    - Còn phải hỏi...

    Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân (TTHQ) báo là có thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:

    - Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.

    Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau, tiếng trao đổi cả trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào, bởi trong những tiếng ồn ào đó, có cả tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa, rồi nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn bộ, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, "để" những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất:

    - Bạch Ưng, đây Thạnh Trị...

    Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.
    Anh Ngọc bấm máy:

    - Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.

    - Tôi yêu cầu Bạch Ưng cho đánh ngay vào trong đồn.

    Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe…lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:

    - Bạch Ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.

    - Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?

    - Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi! Cứ đánh vào đây cho tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.

    - Bạn suy nghĩ kỹ chưa?

    Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:

    - Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm! Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn…

    Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi." Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận. "Cẩn thận con C… ông!" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:

    - Roger! Sir, Did you say… right on it? Over..

    - Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over...

    - Roger, sir, I understood, sir, Over.

    Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này...
    Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này? Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết rằng người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước. Họ đã "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng. Họ đã chết để cho dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc… Rồi ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia; trên đầu những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẳm? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoảng đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội? "Tử biệt sinh ly”, câu nói nghe được từ thuở học trò, bấy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm. Mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt.

    Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.
    Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh, lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn, không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rũ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết quả oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:

    - Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

    Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:

    - Yes sir, they have gone in honor...

    - That was an "Alamo" by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over

    Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.

    - Roger! We have thousand of "Alamo" like that every day in our country.
    -

    - Roger, I believe that, sir! God bless you all. Over.

    Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hãnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẫm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.

    Sáng hôm sau, tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua, một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung của quân giặc.
    Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh Trị. Nhưng chả còn Thạnh Trị nào để trả lời cho Bạch Ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn, cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài vòng quanh đồn để ngậm ngùi thương tiếc cho các anh, rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi." Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh, những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi...

    Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính "âm thầm" nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiếp, không "truyền thống, binh chủng", không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tĩnh "xin cho nó nổ trên đầu tôi"; "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi!" Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúy giá nhất của cuộc đời mình là mạng sống để đổi lấy cho quê hương, dù đã rách nát tả tơi, còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi họp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè với những mái tôn cháy nắng sẽ còn rộn tiếng cười trẻ thơ. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây, biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả….
    Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:

    Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
    Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
    Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
    Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
    Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
    Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
    Người thất cơ đành thịt nát xương tan
    Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
    Tuy tên họ không ghi trong sử sách
    Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
    Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
    Khoing ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
    Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
    Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
    Và linh hồn chung với tấm tình trung
    Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.


    Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh. Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh." Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
    __o0o__
    (Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị)
    Last edited by Việt Hạo Nhiên__; 12-15-2016 at 08:06 PM. Reason: Lời tác giả
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  3. #13
    Việt Hạo Nhiên đọc qua tuỳ bút dưới đây đã khá lâu rồi nhưng vẫn không biết được tên tác giả cho chính xác. Hình như là bài viết được đúc kết bởi hai tác giả khác nhau. Hôm nay, VHN xin mang về chia sẻ với ACE nào chưa có dịp đọc qua. 



    "ÔNG KHAI TRÍ": MỘT ĐỜI HAM MÊ SÁCH.


    __ Người Saigon nên đọc, không phải người Saigon, đọc cho biết!


    Tôi có người chị ruột giúp việc bán sách cho tiệm sách Việt Hương ở số 34 đưòng Lê Lợi. Từ đây đi về hướng chợ Bến Thành có thêm 3 tiệm sách : 

    Thanh Tuấn số 56, Phúc Thành số 58 và Khai Trí chiếm 2 căn 60 - 62.

    Theo chị tôi kể lại thì Ông Khai Trí khởi nghiệp bằng 1 chiếc xe đẩy (như xe bán sách ở bến sông Seine bây giờ). Xe bán sách của Ông thường đậu trước cổng Trường Chasseloup Laubat đường HồngThập Tự. Tôi nghe kể lại vậy thôi chớ đâu ngờ sẽ gặp Ông ở trại tù Z30C Hàm Tân.

    Buổỉ sáng, khi Tù đợi đi lao động, thì sớm hơn lúc đó, có một ông già lúc nào cũng với bộ quần áo trắng đã ngã qua màu cháo lòng đẩy chiếc xe "cải tiến" chứa phân bắc của tù đem đi. Sáng nào cũng vậy, ít ai biết tên ông là Nguyễn Hùng Trương chủ nhà sách Khai Trí. Người Sài Gòn gọi ông là "ông Khai Trí" theo tên nhà sách & nhà xuất bản do ông làm chủ. Hết sức quảng bác nhưng ông lại rất ít nói về mình, nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền Nam.

    "Ông Khai Trí" tên thật là Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức. Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc. Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà, đầu tuần trở lên trường với món tiền đủ để tiêu xài dè sẻn trong tuần. Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số tiền đó vào sách báo rồi cả tuần nhịn ăn sáng, chỉ uống nước lã cho đỡ đói.

    Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài. Vào thập niên 1940 ông đã gây dựng được một tủ sách có giá trị. Bạn bè đến chơi, thấy ông có nhiều sách hay thường nhờ ông mua giùm. Có lần, chỉ 5 người nhờ nhưng ông mua đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng. Số sách dư ra, ông đem ký gửi ở quán sách; 3 hôm sau, người chủ quán hỏi ông sách loại đó còn không, nếu còn thì đem tới tiếp vì sách gửi trước đã bán hết rồi. Từ đó ông nảy ra ý định mua sách báo ở nước ngoài về gửi bán. Sách ông chọn là loại sách có giá trị, quý hiếm, nhiều người cần mà trong nước không bán. Lúc đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên, có khi cả nghìn cuốn.

    Nhờ cố gắng làm việc không quản mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng, nên đến năm 1952 ông Khai Trí đã đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi), đặt tên là Nhà sách Khai Trí (nay là Nhà sách Sài Gòn). Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua. Nữ nhân viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một cách kín đáo...

    Những điều này hiện nay được áp dụng ở đa số hiệu sách nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ vậy mà sau nầy nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng lầu. Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản sách với những đầu sách được chọn lựa kỹ càng và phong phú.

    Một thú chơi đặc biệt của ông Trương nữa là sưu tầm sách báo (chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde, ông có từ số đầu tiên cho tới ngày "30/4/75"). Ông còn cùng nhà văn Nhật Tiến chủ trương ra Tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu sách có giá trị. Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách: Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Quê em mến yêu, Làm con nên nhớ, Chánh tả cho người miền Nam, Huế mến yêu, Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam...

    
Nhà văn Nguyễn Thụy Long (tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Loan mắt nhung," (một cuốn tiểu thuyết mà sau này giới nghiên cứu miền Bắc sau 1975 cũng hết lời ca ngợi) có viết một bài nhan đề "Vĩnh biệt ông Khai Trí," trong đó có nhắc đến hoàn cảnh đau thương của ông Khai Trí sau 1975: 

    "Ông Khai Trí, Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức, Gia Định, mất hồi 5 giờ 15 ngày 11 tháng 3 năm 2005, tức ngày mồng 2 tháng 2 năm Ất Dậu, thọ 80 tuổi sau hai tuần nằm bệnh viện. Ông mất đi do sức già lực kiệt, nhiều năm ông cố gắng tranh đấu để xin lại hiệu sách vĩ đại của ông sau khi bị nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tịch thu, sau đợt cải tạo văn hóa 1976 tại Sài Gòn. Tiệm sách của ông tại đường Lê Lợi mang tên Khai Trí bị nhà nước "quản lý", nay mang tên Phahasa của nhà nước.

    Thuở đó, sau khi các sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đi cải tạo trước, đến lượt những văn nghệ sĩ bị bắt, tác phẩm thiêu đốt và họ đều bị coi là kẻ có tội, đương nhiên là bị bôi nhọ, bị kết tội là Biệt Kích Văn Nghệ.

    Ông Khai Trí cũng bị coi là tội phạm, liệt vào hàng văn nghệ sĩ và bị bỏ tù, vì "người chiến thắng" cho ông là người kinh doanh và phát triển cái văn hóa đồi trụy.

    Những người đã từng sống ở miền Nam trước "giải phóng," ai cũng biết đến ông. Gọi là ông Khai Trí mà quên cái tên cúng cơm của ông là Nguyễn Hùng Trương, ông làm được nhiều công việc lợi ích cho văn hóa Việt Nam, cả đời ông đam mê công việc ấy. Và ông quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở miền Nam, kể cả những văn nghệ sĩ Bắc di cư 1954. Ông Khai Trí lại ra tay giúp đỡ nhiều anh em văn nghệ sĩ khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn, mua tác phẩm của họ, tuy chưa in còn để đấy nhưng ông vẫn trả tiền đầy đủ không thiếu một xu. Ngoài ra, ông còn tài trợ cho nhiều tờ báo hồi đó ở Sài Gòn. Tôi không biết nhiều, nhưng tôi biết về tờ báo Sống của Chu Tử, cũng có sự góp sức về mặt tiền bạc của ông.

    Bao nhiêu lần đi qua đường Lê Lợi, tôi nhìn thấy ông Khai Trí buồn bã đứng ở góc đường đó, nhìn sang hiệu sách cũ của mình mang tên mới là Phahasa. Một lần khác, cũng trong bữa giỗ ông Chu Tử, tôi hỏi ông Khai Trí về việc xin lại nhà sách Khai Trí đến đâu rồi? Ông cười chua chát:

    - Phải đến năm 3000 thì may ra…

    Ngày ông bị bắt, bị bỏ tù, bao nhiêu bài báo nói xấu ông, kết tội ông còn dấu bao nhiêu kho sách Ngụy, không thành thật khai báo. Chuyện thế thái nhân tình lúc ông gặp hoạn nạn, những kẻ trước đây từng chịu ơn ông, tố cáo ông bao nhiêu là tội kể cả những điều không có, để lập công.

    Buổi lễ tang ông Khai Trí, tại nhà ông đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, tôi gặp nhiều bạn bè của ông, những người thuộc chế độ Sài Gòn cũ đến thắp cho ông những nén nhang và chia xẻ sự thương tiếc với gia đình ông.

    Tôi nhớ mãi dáng ông Khai Trí đứng nhìn lên hiệu sách cũ của mình và câu nói chán nản của ông, năm 3000 thì người ta trả lại cho ông nhà sách Khai Trí. Sao mà chua chát thế cho ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, cả một đời chỉ có một đam mê là làm văn hóa, giữ gìn cái hay, cái đẹp cho thế hệ mai sau.
    __***__

    Tôi (Làng Đậu) đã định viết một bài về tờ Thiếu Nhi, tờ báo giáo dục lớn nhất và thành công nhất tại miền Nam trước năm 1975; nhưng rồi nhiều biến cố xảy ra khiến tôi chưa làm được việc ấy, và sáng nay (11 tháng 3 năm 2005) thì được tin: Ông Nguyễn Hùng Trương, nguyên chủ nhiệm tờ báo Thiếu Nhi và là chủ nhân Nhà sách Khai Trí tại miền Nam trước 1975 vừa từ trần tại Sài Gòn. 

    Xin mượn diễn đàn talawas này như một nơi để tỏ lòng tri ân và thành kính với người đã góp công không nhỏ trong giáo dục và đào tạo một thế hệ thiếu nhi tại miền Nam, và tôi, tác giả bài này là một độc giả nhỏ bé theo cả nghiã đen lẫn nghiã bóng. 


    Nhắc tới Khai Trí, tôi tin rằng ai đã sống tại Sài Gòn thì không thể quên được cái tên này. (Sau 1975, nhà sách này được trưng dụng làm một cửa hàng phát hành sách tại số 60-62 Lê Lợi.) 


    Còn nhớ những ngày đầu sau 1975, khi còn là con mọt sách mới nở, tôi lang thang trên đường phố Sài Gòn, được mục kích tận mắt ông chủ nhiệm Nguyễn Hùng Trương trải tấm ny-lon lớn trên viả hè ngay trước cửa Nhà sách Khai Trí để bán nốt các số báo Thiếu Nhi còn sót lại; tờ báo vốn khổ to, nhưng đến gần 1975 thì nó đã co nhỏ và thu bé mình lại, chỉ còn như một cuốn sổ tay mỏng lét. Có lẽ số phận cuả nó cũng tương tự như số phận cuả các bạn thiếu nhi ở các vùng nóng trong những ngày tơi tả cuả một cuộc chiến đang đến hồi kết: cố thu mình lại là để giữ nguyên vẹn cái hình hài mà cha mẹ Việt Nam đã ban cho. Tôi còn nhớ rất rõ một bài trong một số đã phát hành, đại ý như sau: "Cho dù tờ báo có nhỏ đi, số trang có bị bớt đi và số người đọc có giảm thiểu đến bao nhiêu thì mãi mãi chủ trương, mục đích giáo dục và chất lượng cuả tờ báo vẫn sẽ không thay đổi..." 


    "Ông Khai Trí“ thật sự làm đúng những gì đã nêu: Tiền lời cuả nhà sách khi bán các mặt sách khác đã được đem qua để bù lỗ cho tờ Thiếu Nhi. Có lẽ riêng đối với tôi, một thằng bé đen đủi không quen biết, ông đã hành xử "bù lỗ nhiều hơn"; khi tôi hỏi mua 3 tờ Thiếu Nhi vì không đủ tiền mua nhiều, thì đã được ông cho thêm mấy tờ mà tôi muốn. 

Theo nhà văn Nhật Tiến, ông Khai Trí đã có thời gian sống ở Hoa Kỳ, dự định mở lại Nhà Khai Trí, nhưng điều trớ trêu cho ông là hầu hết các tác phẩm cuả Nhà Khai Trí đã "được" một số nhà xuất bản hải ngoại khác in lại mà không hề nghĩ đến chuyện... bản quyền! Có lẽ đó là một trong những nguyên do chính khiến ông chán nản và trở về sinh sống tại Sài Gòn.

    
Tiện đây, thay mặt cho các độc giả, xin chân thành ghi ơn tất cả những người đã bỏ rất nhiều công lao viết bài cho tờ Thiếu Nhi, trong đó phải kể tới chủ biên Nhật Tiến, họa sĩ Vi-Vi (Võ Hùng Kiệt) và các nhà văn, nhà báo, các dịch giả mà tôi không thể nhớ hết tên. 

Sau đây xin ghi lại những hình ảnh mà tôi còn giữ về tờ báo đã "vang bóng một thời" ấy.

    
Về hình thức, trang bià và trang cuối cuả tờ Thiếu Nhi lúc nào cũng được trình bày rất công phu, dùng kỹ thuật in offset, một kỹ thuật tiến bộ (và cũng đắt tiền) nhất thời bấy giờ. 


    Trang bià thường in hình vẽ cuả hoạ sĩ Vi-Vi về các đề tài khác nhau. Có lẽ bức tranh tôi thích nhất là bức Ông đồ, bức tranh này sau đó cũng đã được lên khung trong một bộ tem dưới cái tên cúng cơm cuả hoạ sĩ Vi-Vi: Võ Hùng Kiệt. 
Nếu như trang đầu cuả tờ báo là một sự trang trọng cần thiết thì trang cuối, ngược lại, sẽ cho độc giả vô vàn thú vị qua các câu chuyện bằng tranh màu nổi tiếng dịch lại từ tiếng nước ngoài, như truyện Tin-Tin, truyện Asterix Obelix, truyện cuả Walt Disney,... Những truyện tranh này đã được chọn lọc rất kỹ trước khi đăng nên có chất lượng cao về nội dung giáo dục. Hoạ sĩ Vi-Vi cũng có góp phần vẽ minh hoạ một số truyện tranh Việt Nam. 


    Đến phần trong, in typo 3-4 màu, lúc nào cũng bắt đầu bằng lá thư chủ nhiệm hay chủ bút; chủ nhiệm tờ báo qua các lá thư này thường gởi những lời nhắn nhủ khuyên bảo chân tình đến các em thiếu nhi và các bậc phụ huynh về nhiều đề tài thiết thực cuả cuộc sống. Các chủ đề biến động theo sự lớn mạnh cuả lượng độc giả cũng như theo sự suy tàn cuả chế độ chính trị ở miền Nam. Nhưng cho dù thế nào, trong các mục chính cuả tờ báo, chưa bao giờ thiếu truyện ngắn, truyện dài, truyện dịch cuả các nhà văn nhà báo miền Nam cũng như những bài văn thơ chọn lọc cuả bạn đọc hay cộng tác viên. Bên cạnh đó, là các bài phổ biến kiến thức khoa học thường thức cũng như các bài về kiến thức sống. Tôi còn chưa quên các bài trích đăng cuả dịch giả Nguyễn Hiến Lê về những tấm gương thành công, những bài học về nhân cách từ các cuốn sách "học làm người". Tờ báo không bao giờ bị khô khan bởi nó luôn có các kỳ thi đố vui có thưởng, các chuyện cười do độc giả gửi tới cũng như các tiết thơ, văn, nhạc, hoạ cuả nhiều tác giả già, trẻ. Mục "Truyện cổ tích“ cũng thu hút người đọc không kém bằng các truyện cuả Tô Hoài, Nhật Tiến và nhiều cây bút cừ khôi khác. Chỗ không kém phần thú vị cuả tờ báo là hai mục: "Trả lời thắc mắc" và "Tay ngọc bên bếp hồng". Chắc không viết thì các bạn cũng rõ hai mục này để làm gì. Một lần có bạn đọc nào đó cắc cớ hỏi đố về độ cao cuả một ngọn núi tên lạ hoắc, khiến cả BBT tờ báo gặp khó dễ hết mấy tuần. Nếu tôi không lầm thì chính nhà văn Nhật Tiến đã ra thông báo rằng mục tiêu cuả mục trả lời thắc mắc không phải là để thi thố tài năng, cũng không phải để thách đố mà là hỗ trợ các bạn trong học vấn, kiến thức. Trong bài trả lời, ông đã khéo léo biến câu hỏi đố thành bài học đạo đức đáng giá. 


    Sau 1975, do các đợt vận động cuả chính quyền về việc "tiêu huỷ các tàn dư văn hoá đồi truỵ phản động" cũng như các đợt kêu gọi thiếu niên nhi đồng làm "kế hoạch nhỏ", những số báo Thiếu Nhi còn sót lại cuả tôi và có lẽ cũng cuả nhiều gia đình đã lần lượt ra đi. Tôi không trách gì những ngưòi thực hiện chủ trương này, nhưng nếu họ có được cái nhìn thoáng hơn và sâu xa hơn thì có lẽ những tài sản quý báu về văn hoá vốn đã bị huỷ hoại quá nhiều trong cuộc chiến cũng đỡ bị tuyệt diệt.
    
Tờ Thiếu Nhi, theo thiển ý, bỏ rất xa các tờ báo sau này được xuất bản dành cho thiếu nhi trong nước về cả chất lẫn phẩm, vì nó là tinh hoa cuả nhiều nhà văn, nhà báo, trí thức, nghệ sĩ góp thành và đặc biệt nó lại không chịu bất kỳ một ảnh hưởng chính trị hay một xu hướng văn hoá độc đoán nào. 


    Cuối cùng, xin "trình“ lại vài câu thiệu trong vô vàn các câu mà tờ Thiếu Nhi đã in trong phần footnote ở trang bià ngoài cuả các số báo: 


    Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan (Thích Ca) 


    Lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghiã thắng hung tàn (Nguyễn Trãi) 


    Sự học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi.

    __o0o__

    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  4. #14


    __CÂY ĐÀN CỦA BÁ NHA__
    (Tác Giả: Minh Đức Hoài Trinh)


    Bá Nha gặp Tử Kỳ sau khi đã thử thách nhau, sau khi đã xin lỗi vì ân hận khi biết rằng “thạch trung khả tàng Mỹ Ngọc” (trong đá có dấu ngọc) và sau khi đã thốt lên một câu tâm sự: “Tri thức mãn thiên hạ, tri kỷ vô nhất nhân” (dưới bầu trời quen hết mà người hiểu mình thì chẳng có một ai).

    Tri kỷ là gì? Định nghĩa của người xưa, tri kỷ là khi đã có sự giao du hữu nghị rất thâm sâu với nhau. Chữ Kỷ tức là ta để ngược lại với chữ Nhân là người khác. Tri kỷ tức là người biết ta, hay là biết ta, mà thôi. Khi con người đã biết rằng mình chẳng có ai đáng gọi là tri kỷ, tức là chấp nhận cái nghiệp cô đơn mà mình đã tạo lấy từ một kiếp nào trước, ở đây, Bá Nha vì cô đơn nên phải chọn cây đàn làm tri kỷ. Chỉ ở với cây đàn tức là lúc đánh đàn con người mới thấy rằng mình không còn cô đơn nữa.

    Y gia ghi nhận rằng sự âu lo làm cho ngày tháng ngắn hơn, mà đánh đàn lại làm cho tháng ngày dài ra, cũng như làm cho con người sống lâu, trẻ lâu, so với những người có cuộc sống không âm nhạc. Người quân tử, thường hay tìm đến với thi ca, âm nhạc, cây cỏ, những thú vui tao nhã, không hại mình mà cũng chằng hại ai. Bá Nha và Tử Kỳ, xét theo thuyết Phật thì tuy cách xa nhau, một người là quan Đại Phu nước Tấn, một người chỉ là ẩn sĩ nghèo, ở Hán Dương nước Sở. Hẳn kiếp trước có duyên nợ, có hò hẹn nhau nên kiếp nầy mới được gặp nhau dù chỉ là trong một đêm.

    Nếu nói là duyên nợ thì người gặp Duyên là Tử Kỳ mà người thiếu Nợ chính là Bá Nha. Bá Nha chỉ đàn cho Tử Kỳ nghe có mấy bản, sau đó là tàn đêm hai người phải giã từ nhau, Bá Nha về Tấn, Tử Kỳ chết, và Bá Nha là người sống để trả món nợ nhớ thương. Con người Bá Nha mới đáng được mang ra phân tách chứ Tử Kỳ chết là hết nợ, chỉ người còn lại mới bị đọa đày trong sự khổ đau kỷ niệm, thương nhớ. Bá Nha đáng phải là một người sinh ra để hưởng thụ, nếu ông tầm thường hơn, kém chất quân tử hơn, vì ông có đủ mọi điều kiện để sung sướng. Mới 28 tuổi đã làm đến chức Đại Phu nước Tấn, gia đình phải dư dả mới được ăn học đầy đủ, một mình mà có ba nơi Cầm Đài mà ngày nay còn tên tuổi. Cầm Đài chỉ là nơi ghé qua vài hôm đánh đàn, không phải là một ngôi nhà to lớn, một Cầm Đài ở Lô Sơn, một cái ở Chiết Giang và một cái ở Hán Dương, cái thứ ba hẳn là làm sau khi Tử Kỳ mất để ngồi tưởng đến bạn chứ đàn đâu nữa mà đánh.

    Bá Nha đàn hay đến nỗi ngựa đang ăn mà cũng phải ngẩng đầu lên nghe (Bá Nha cổ cầm nhi lục mã ngưỡng mạc). Muốn đàn hay ngoài cái tài thiên phú, còn phải có thì giờ để tập dượt, phải tìm được thầy, lắm khi phải đi xa bao nhiêu đường đất tốn kém bao nhiêu công của để học ra được một chút gì chứ không phải một sáng một chiều mà có thể trở thành cầm sĩ, bất cứ là đàn gì.

    Đàn Cầm tên gọi là Huyền Cầm, hay Cổ Cầm vì nó được tạo từ đời thượng cổ. Nhạc khí tục truyền do Phục Hy chế ra bằng 3 thứ gỗ độc đáo là cây Ngô Đồng, cây Tử và cây Tử Đàn.

    Gỗ rất quan trọng khi cấu tạo một cây đàn, không phải bất cứ gỗ nào, gỗ gì cũng đóng được đàn tốt, thứ đàn xứng với tâm hồn và bàn tay của nghệ sĩ, nhất là khi nghệ sĩ còn là một bậc quân tử.

    Gỗ Ngô Đồng nhẹ nên được chọn làm mặt đàn, Ngô Đồng không những chỉ nhẹ mà còn tạo nên được âm thanh vừa dài, vừa ấm, sử chép, do một sự tình cờ, có người đốt gỗ Ngô Đồng trong lúc va chạm nghe âm thanh vang rất kỳ lạ, bèn lấy thử làm một cây đàn. Đàn lên rất hay, đến đời nhà Hán, có Thái Ung là một nhân vật rất uyên bác, ông còn là một tay thiện đàn, ông đã bắt chước theo, thấy kết quả nên người đời sau cứ thế mà theo.

    Ngô Đồng có thứ hoa trắng gọi là Bạch Đồng, hoa tím gọi là Cang Đồng hay Ngô Đồng, quả Ngô Đồng lúc già nứt làm đôi, còn một tên khác nữa là Cầm Mộc vì được chọn làm nhiều thứ đàn.

    Cây Tử gỗ nặng hơn, dùng để làm đáy đàn, lá cây Tử giống lá cây Ngô Đồng nhưng bé hơn, gỗ Tử được gọi là Mộc Vương, dùng để làm hòm rất quý, theo kinh nghiệm người ta cho rằng nhà làm bằng gỗ Tử không bao giờ bị sét đánh, hòm không mục nát, sâu mọt không ăn, có cây sống trên nghìn năm. Tử đàn lại là thứ gỗ mọc ở vùng nhiệt đới, gỗ non mầu hồng nhưng lúc già đổi sang mầu tím, do đó mới được mang tên Tử Đàn. Gỗ trắng là Bạch Đàn gỗ vàng là Hoàng Đàn, gỗ nầy thả xuống nước sẽ chìm, mang mùi hương tự nhiên dùng làm trục đàn rất tốt.

    Đàn Cầm dài 3 xích, 6 thốn, 6 phân để tượng cho 366 ngày của một năm (theo người xưa, bên Tàu). Trên tròn vun như bầu trời, dưới vuông như mặt đất lòng rỗng, dưới có 4 chân nhỏ, trên mặt đàn có hai lỗ gọi là Long Trì, Phượng Chiếu, tức là hồ của Rồng, ao của Phượng.

    Gọi là Cầm vì nó đồng âm với chữ Cấm, tức là đánh đàn sẽ làm ngưng cấm những ý nghĩ dâm tà, bắt tâm người dừng lại ở chỗ trinh chính.
    Cầm được chia ra 5 thứ, nhất huyền, tam huyền, ngũ huyền, thất huyền và cửu huyền. Cả 5 cây đàn đều mang dương số, tức là số lẻ. Đàn của Bá Nha phải là thứ Ngũ Huyền, 13 phím đàn để tượng cho 13 tháng trong một năm, vì có tháng nhuận, cũng như Ngũ Huyền tượng cho Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và cho ngũ cung là Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ.

    Âm sắc của Huyền Cầm vốn u trầm, sâu xa và trang trọng. Thanh âm không vang, chát chúa, nhưng người xưa đánh đàn là để tu thân dưởng tính, làm tan biến những ý nghĩ xấu xa hèn kém, đưa tâm trí đến chổ thanh cao thoát tục. Tùy tâm mà tạo nên âm thanh. Cổ Cầm không dễ, cần có sự tập luyện, nhẹ nhàng hơn so với đàn sắt, đi đâu cũng có thể mang theo, bạn của người quân tử.

    Vì xem đàn như tri kỷ, như bạn nên người xưa vẫn thường đặt tên cho đàn. Cổ Cầm có những tên như: Băng Thanh, Xuân Lôi, Ngọc Chấn, Hoàng Hộc, Thu Tiêu là những tên người xưa ưa chọn để đặt cho đàn.

    Sử chép một hôm Bá Nha đi chơi ở phía Bắc núi Thái Sơn, gặp buổi trời mưa to gió lớn, phải ngưng thyền ở dưới chân núi. Tâm trạng u buồn, mang đàn ra dạo khúc Lâm Vũ (Lâm Vũ còn dùng để gọi thứ mưa dầm quá 3 ngày). Qua tiếng nhạc, Chung Tử Kỳ đã nghe trộm và đoán biết tâm trạng u ẩn của người đánh đàn mà chưa biết là ai.

    Tử Kỳ chỉ là một ẩn sĩ, họ Chung, nhà nghèo, tuy có kiến thức rộng nhưng không muốn trầm mình vào vòng danh lợi, không thi cử, không ra làm quan. Một phần vì chữ hiếu, cha mẹ già, chỉ muốn ở gần để phụng dưỡng, vì giao cho ai cũng không thể bằng chính mình.

    Phải nhận rằng cái vốn liếng trí thức và đạo đức của Tử Kỳ là do nơi cha mẹ đã truyền lại, thêm với sự đọc sách để rồi suy tư, tự tìm cho mình một con đường lối sống. Sau một đêm nói chuyện, Ba Nha mời cùng sang Tấn với mình, dọn con đường tiến thân cho Tử Kỳ nhưng Tử Kỳ từ chối, bảo còn cha mẹ già không thể bỏ đi xa, thà chịu cuộc sống nghèo nhưng thanh sạch và được gần cha mẹ, ở Tập Hiền Thôn cách không xa bến sông.

    Ở đây xin không đề cập đến những gì mà mọi người đều đã nghe, đã biết, những cái gọi là Cao Sơn Lưu Thủy của đôi bạn ấy, mà chỉ đưa câu chuyện ra để phân tích con người của Bá Nha và cây đàn của ông mà thôi.

    Bá Nha, một người thiện Cổ Cầm và Tử Kỳ là một người thiện thính. Sách chép như thế, người đánh đàn nầy không phải là thứ nghệ sĩ đã dùng cây đàn để làm kế mưu sinh, không cần thính giả, không cần ánh đèn sân khấu, cũng không thiết những tràng vỗ tay, cũng như một chút hư danh do cây đàn đưa tới. Bá Nha chỉ đàn cho mình, hẳn trên cây đàn của ông cũng có khắc những chữ “Tu thân lý tính” như của Khổng Tử, hoặc loại thơ “Duy sa đào ngõa, Chí tòng hồng mông” như tất cả những cây đàn của các vĩ nhân xưa. Bối cảnh xã hội của thời Xuân Thu nhiểu nhương nên mới sinh ra một số dị nhân, ẩn sĩ, những người chỉ muốn giữ mình cho thanh sạch nên cố tình xa lánh những cảnh phồn hoa, đô thị sang giàu. Điểm đặc biệt của câu chuyện là sự “Thâu Thính” tức là nghe đàn trộm. Nghe trộm đàn mà làm cho đàn phải đứt giây “liệt huyền” thì đủ biết là người nghe không phải tầm thường. Biết nghe, biết thưởng thức đến làm rung cảm dao động đến Thần Nhạc, bắt đàn phải “liệt huyền” để báo cho người đánh đàn biết đang có sự hiện diện của tri âm, xin đừng so sánh với hoàn cảnh của những sự đứt giây đàn mà hằng ngày vẫn xẩy ra, do bàn tay vụng về không biết vặn trục, ngược xuôi, những bàn tay nhấn phím quá độ, hoặc những sợi giây đàn đã rĩ mục, thì sự đứt giây đàn nầy không phải để nói lên sự hiện diện của tri âm, thâu thính như hoàn cảnh Bá Nha và Tử Kỳ.

    Âm nhạc là một ân huệ của Thượng Đế đã dành cho loài người, và loài người từ xưa đã thấu triệt điều ấy nên mới có câu rằng biết thanh mà không biết âm tức là cầm thú (tri thanh bất tri âm giả, cầm thú dã).

    Thanh là những tiếng phát từ môi răng, nếu, lưỡi họng, mà âm là do từ tâm người đưa ra.

    Thanh là những tiếng được mang tên Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ. Thanh hợp với Khí thành Âm, và Âm là những sự Cương, Nhu, Thanh, Trọc, hòa lại với nhau, uống lấy nhau như rượu với bình để rồi hòa thành Âm.

    Từ đời thượng cổ người ta đã biết dùng những mắt tre thổi lên thành âm thanh, làm chủ chốt nền móng của âm nhạc (xem phần Cổ Nhạc ở tập II). Mỗi âm thổi lên do những ống sáo dài hay ngắn, và những phù hiệu Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ đã được dùng để ghi làn nhạc, ngũ âm nầy đã biểu tượng cho Quân, Thần, Dân, Sự và Vật.

    Cung được gọi là Âm của Trung Ương, của đất đai của hướng Tây. Thương thuộc hành Kim trong Ngũ Hành, là tiếng của mùa Thu, tiếng buồn thương oán nộ.

    Giác là âm của hành Mộc, của tiếng gỗ, tiếng cỏ hoa, tiếng của mùa Xuân. Trưng, hay Chùy là âm của Lửa, hành Hỏa, của mùa Hạ, tượng cho sự vật, dương khí ngưng đọng ở âm nầy, và cũng với âm Trưng để gạn lóng mọi sự.

    Vũ là âm của nước, của hành Thủy, của phương Bắc nếu Giác là của phương Đông Cũng như Trưng là âm phương Nam, thì Vũ là âm của phương Bắc, trầm và thâm sâu, đi thẳng vào lòng người. Người biết phẩm Thanh tức có thể tri Âm.

    Âm nhạc thuở ban sơ mang nhiều chiến đấu tính, về sau khi vào tay các văn nhân nghệ sĩ, nhạc trở thành một thứ Tĩnh Lực, người đời chỉ còn biết dùng nhạc để vui chơi giải trí, yến ẩm, dâm loạn mà thôi. Đến một quốc gia nào, chỉ cần nghe tiếng nhạc, thì người biết “Phẩm Thanh” có thể nhận định được cái làn sóng chính trị đương thời, sẽ đưa đến chỗ thịnh hay suy. Âm nhạc của một nước thịnh trị thì nghe bình tĩnh, vui vẻ, mà hòa nhã. Âm nhạc của một nước sắp loạn, thường có giọng oán nộ, một nước sắp mất nghe có giọng buồn rầu và âu lo, quằn quại, đau xót. Những vùng có đất đai đơn bạc mà sông lớn thì khí huyết con người cũng nông nỗi, đất đai thấp mà bằng phẳng thì tâm tính người cũng nhu nhược, đất phì nhiêu thì tính người hay lười biếng… Tất cả những thứ ấy đều phản ảnh vào âm nhạc, mà người biết “Phẩm Thanh” đều nhận thấy, cảm thấy.

    Trở về với Bá Nha , ông là loại người đại diện cho một nền văn hóa thuần túy, chưa bị ô nhiễm vì những đảo điên của xã hội. Hẹn với Tử Kỳ năm tới cũng ngày tháng ấy, trên bến sông ấy sẽ gặp lại nhau, suốt một năm đợi, để rồi đến nơi không thấy tri âm chờ mình. Dùng tiếng đàn để gọi nhau cũng không nghe hồi đáp, sáng ngày mai gọi tiểu đồng cùng đi tìm, ngỡ rằng Tử Kỳ vì có cha mẹ già như ngọn đèn trước gió nên bận bịu. Trên đường vào Tập Hiền Thôn, gặp một ông cụ già tay xách hương hoa, hỏi thăm nhà Tử Kỳ. Khi người già ấy biết đây là Bá Nha, bạn của con trai mình thì oà khóc mà báo tin rằng Tử Kỳ đã chết đúng 100 ngày, trước khi chết có dặn cha mẹ phải chôn mình ở ngay bến vì có hẹn với Bá Nha là sẽ gặp nhau. Bá Nha ngất đi sau khi nghe tin bạn đã chết, lúc tỉnh dậy, ông đàn một bài điếu Tử Kỳ, người trong làng lúc nghe tiếng khóc thì cảm động đến đứng chung quanh có vẻ thành kính nhưng, đến lúc nghe tiếng đàn lại khúc khích cười, cười trong khi lòng nghệ sĩ đang tang tóc. Hẳn vì bị những tiếng cười của lũ người chỉ hiểu được tiếng khóc mà không hiểu được cái đau thương thể hiện qua tiếng đàn, đối với người nghệ sĩ còn cay đắng hơn muôn nghìn tiếng khóc tầm thường, Bá Nha biết rằng từ nay không còn ai có thể hiểu mình nữa nên đã “Tuyệt Huyền Phá Đàn” tức là cắt giây và đập đàn, thề không đàn cho ai nghe nữa.

    Đến đây xin mở vòng ngoặc để nói đến sự khác biệt của phàm phu thanh, và thánh nhân thanh. Người đời tầm thường làm sao hiểu được thế nào là thánh nhân thanh, cố nhiên là thấy đứng trước mộ thì khóc là phải lẻ, ai lại đàn thì phàm phu làm sao hiểu được tiếng khóc của cây đàn, hay của người nghệ sĩ đã nhờ cây đàn khóc hộ mình.

    Trong hai người bạn thì quả Bá Nha mắc nợ và là kẻ đáng thương nhất, đã mất tri âm lại chịu vì tri âm mà mất cả cây đàn là tri kỷ, cuộc sống rồi sẽ cô đơn biết mấy. Trái lại, Tử Kỳ là con người ít mang nợ, kiếp trước không tạo nghiệp, kiếp nầy cũng hiền hòa hiếu thuận, sống cuộc sống của một bậc ẩn sĩ, nếu không là thánh nhân. Chết sớm là một sự thoát tục sớm… Hơn nữa, chết rồi còn có kẻ vì mình mà đập đàn, và hẹn sẽ trở về thu xếp công việc để đón cha mẹ về phụng dưỡng thay cho mình.

    Người như Bá Nha và tình bạn của Bá Nha sẽ không bao giờ ai còn tìm thấy. Nhưng, với cuộc sống cô đơn không tri kỷ, không tri âm, liệu cuộc sống có còn đáng sống?
    ____***____
    (Minh Đức Hoài Trinh)
    Last edited by Việt Hạo Nhiên__; 12-22-2016 at 03:19 PM. Reason: Sửa "chấm, phẩy" cho rõ nghĩa.
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  5. #15
    Minh Đức Hoài Trinh, đôi dòng tiểu sử:

    Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982.

    Tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học. Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . . Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.

    Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.

    Bà đã dùng ngòi bút và khả năng của mình thường xuyên tranh đấu cho các văn nghệ sĩ bị cộng sản giam cầm phải được trả tự do, ngoài những bài báo, bà còn sáng tác hơn 25 tác phẩm giá trị, trong đó có truyện ngắn, thơ…

    Nhà Văn Nguyễn Quang đã thực hiện 1 tập sách rất công phu khá đầy đủ những tài liệu, bài vở và hình ảnh với tiêu đề: “Văn Nghiệp Và Cuộc Đời Minh Đức Hoài Trinh.” Nhà Văn Nguyễn Quang có đoạn viết: “Sau khi đọc quyển sách nầy người ta tự hỏi làm sao Minh Đức Hoài Trinh một con người nhỏ bé lại có thể hoàn thành trên nhiều lãnh vực trong thời gian đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. . .Bà đã đi trên khắp 5 lục địa, bà đã vào những vùng chiến tranh lửa đạn. . .” Những đóng góp của bà với một cuốn sách nhỏ nầy chắc chắn không diễn tả hết được những gì bà đã làm cho quê hương cho nền văn học Việt Nam.

    Các tác phẩm của bà đã xuất bản gồm có:
 Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  6. #16
    Ngày còn rất nhỏ (trước Tháng Tư, 1975]), có một hôm, VHN được bà chị mang về cho quyển truyện "Những Giọt Mực."

    VHN đã mê mẩn đọc trọn quyển sách này ngay từ trang đầu, và cũng từ hôm ấy VHN đã ghiền đọc Lê Tất Điều. Sau này sang Hoa Kỳ, VHN mới biết rằng ngoài bút hiệu Lê Tất Điều ra, chú còn sử dụng bút hiệu Cao Tần & Kiều Phong để sáng tác thơ và gửi bài cho văn bút hải ngoại.

    Hôm nay, nhân dịp một năm cũ sắp qua, VHN xin đăng lại truyện ngắn "Tờ Lịch Đầu Tháng" được trích ra từ một trong 11 truyện ngắn của quyển "Những Giọt Mực" nói trên.


    ____TỜ LỊCH ĐẦU THÁNG___
    (Tác Giả: Lê Tất Điều)

    Trước khi bị bóc đi, tờ lịch ngày ba mươi mốt nói với tờ lịch ngày mồng một:

    – Ta sắp vĩnh viễn giã từ chú em. Ngày sắp tới là ngày riêng của chú, chú sẽ mở đầu một tháng. Chú có riêng mình một buổi bình minh, một buổi trưa, một hoàng hôn và có cả đêm tối. Nhưng chú phải nhớ, phải nhớ cho thật kỹ một điều: chú em chỉ được sống đúng một ngày thôi đấy nhé. Dòng họ chúng ta mang cái truyền thống ấy, đời sống chúng ta ngắn ngủi và rất chính xác. Vậy hãy sống cho ra sống, đừng bỏ phí một giây nào.

    Tờ lịch ngày ba mươi mốt rớt xuống, tờ lịch ngày mồng một trình diện cuộc đời. Nó mang trên mình đầy đủ di tích và đặc tính của những tờ lịch trước. Vẫn khuôn mặt hình chữ nhật, vẫn là năm 1974, chỉ có tháng mới, ngày mới.

    Đầu tiên, tờ lịch ngất ngây vì trách nhiệm, vì đời sống đột ngột vừa hiện ra trước mặt.

    Nó có riêng cho mình một buổi bình minh!

    Nắng đầy cửa sổ, nắng tràn trên sân nhà. Chị Rèm cửa tuy nép mình một bên vẫn hồng lên rực rỡ. Muôn ngàn hạt bụi đang đuổi nhau tung tăng, sưởi mình trong nắng; chúng giống hệt những tinh cầu trong vũ trụ của một chú búp bê vô cùng bé nhỏ. Bác Gió, sau một đêm du hành trong không gian mênh mông, đem về cho bình minh một chút quà lành lạnh của sương đêm và mùi thơm dịu dàng của cây trái cỏ hoa.

    Để chào tờ lịch ngày mồng một, mọi vật mặc áo mới, tươi mát và sạch sẽ.

    Tờ lịch cảm thấy mình quan trọng, nó tin rằng mọi vật đang chờ đợi nó ghê lắm. Tờ lịch nói:

    – Xin nhắc quý vị, hôm nay là ngày mồng một đầu tháng.

    Mọi vật lặng thinh, bình thản. Đã có biết bao nhiêu bình minh qua đi trong phòng này! Mọi vật không có lý do gì để vội vã. Nhưng cũng có vài vật thông cảm với tờ lịch, họ hiểu rằng nó chỉ có độc nhất một buổi bình minh. Nó có quyền say sưa cuống quít. Tờ lịch lại nói:

    – Xin nhắc quý vị bình minh rồi. Đời sống đẹp quá, phải vui lên chứ.

    Ông Bàn bắt đầu hơi bực mình, ông càu nhàu:

    – Này chú bé con, đừng làm ồn. Đâu có phải bọn này đợi chú ra đời rồi mới được biết bình minh.

    Tờ lịch im, nhưng vẫn nôn nao, bồn chồn.

    Nó bắt đầu để ý tới từng vật xung quanh. Trong buổi bình minh hồng hào khỏe mạnh, tờ lịch quan sát và học hỏi về đời sống của những vật khác biệt, như chú học trò vừa bắt đầu cắp sách đến trường.

    Buổi trưa tờ lịch biết rõ về ông Bàn, anh Ghế, chú con Quay. Nó cũng biết tại sao cụ Sách được mọi vật kính trọng. Nhất là tờ lịch biết rõ nhiệm vụ của nó: nhắc nhở mọi người, mọi vật biết rằng họ đã bước tới đâu trên con đường thời gian vô tận.

    Còn việc nhắc nhở thời gian đi mau thì đã có bác Đồng hồ.

    Nhưng khi chiều tới, tờ lịch lại nhớ đến lời nhắn nhủ của vị tiền nhiệm.

    – ….chú em chỉ được sống đúng có một ngày thôi đấy nhé… Vậy hãy sống cho ra sống….

    Mặt trời lặn, bóng tối về. Tờ lịch biết rằng nó chỉ còn có một đêm. Và bắt đầu từ giây phút này, nó cũng không còn là vật cần thiết nữa rồi.

    Buổi chiều, chú bé chủ nhân căn phòng đã nhìn nó một lần để tính toán ngày tháng, thế là đủ cho tờ lịch mãn nguyện. Và tờ lịch cũng biết rằng qua đêm nay, khi bình minh khác bắt đầu, nó sẽ phải rơi xuống, nhường chỗ cho đàn em.

    Nửa đêm, tờ lịch hỏi Đồng hồ:

    – Xin bác coi giúp: Tôi còn mấy giờ nữa?

    Đồng hồ đáp:

    – Khoảng sáu tiếng.

    Khi hỏi bác Đồng hồ lần thứ hai, biết chỉ còn sống được bốn, giờ tờ lịch bỗng nói với mọi vật:

    – Thưa quý vị! Xin quí vị giúp cho tôi một điều. Tôi muốn được thấy mọi vật đều vui. Những thế hệ trước tôi hẳn đã từng nhiều lần được hưởng chuyện đó. Nhất là những tờ lịch có may mắn ra đời nhận công tác vào đúng một ngày lễ.

    – Có lẽ sự đòi hỏi của tôi làm phiền vài vị. Nhưng tôi chỉ sống đúng một ngày và ngày thì đã sắp hết. Mong quý vị nghĩ tình tương trợ muôn loài mà tha thứ cho. Tôi hiểu rằng, ngoài khung cửa sổ kia, ngày rộng lớn mênh mông, rộng bằng cõi nhân gian muôn màu muôn vẻ mà tôi đã được nghe bác Ô đen, những chú Giầy Dép kể lại một phần. Ngày có những bình minh lạ, có những hoàng hôn xa mà tôi chẳng hề biết tới vì ngày của tôi chỉ thu nhỏ trong căn phòng này. Tôi thấy ông Bàn, cụ Sách, chú con Quay, tôi sống với chị Bóng bay, anh Ghế... Vâng! Chính là các vị đã làm thành một ngày của tôi. Từ những sinh hoạt cho đến nỗi buồn của quí vị là ngày của tôi. Chỉ còn một đêm nay thôi, tôi mong quí vị tặng cho phần cuối cùng của đời tôi những giây phút rực rỡ.

    Tất cả các vật trong phòng lặng thinh. Chúng xúc cảm.

    Chú con Quay chạy ra giữa phòng xoay tít. Cây Đàn ném ra một trận mưa nốt nhạc. Bông hoa trong bình mở tung, tươi hồng như vừa tình dậy sau một giấc mộng đẹp. Bốn cây nến rực sáng ở các góc phòng. Cụ Sách phanh cái bụng đầy chữ ra, ngâm một bài thơ cổ. Chị Rèm cửa gọi bác Gió, họ thướt tha khiêu vũ trong ánh nến vàng tươi.

    Tờ lịch hân hoan, vừa hát theo tiếng đàn vừa chờ bình minh đến...

    Có những ngày mà mọi vật quanh chúng ta bỗng dưng vui tươi, hớn hở. Hoa sẽ đẹp hơn, mặt bàn sạch sẽ hơn, chú con Quay tài tình sẽ dễ thương hơn là nhờ vào tờ lịch đấy.

    Đó là tờ lịch biết quý trọng, mến yêu vô cùng một ngày riêng của nó.

    ___***___
    (Lê Tất Điều)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  7. #17
    Một bài thơ của Cao Tần
    TA LÀM GÌ CHO HẾT NỬA ĐỜI SAU...
    (Cao Tần)

    dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
    gánh sơn hà toan chất thử lên vai
    chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
    dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai

    rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
    xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
    hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
    chuyện vá trời coi đã nhẹ như không

    một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn
    nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn
    nay đất khách kéo đời rất nản
    ta tính sẽ về vượt suối trèo non...

    sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
    những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
    và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy
    và cờ bay trên đất nước xanh tươi

    một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
    thần tự do giờ đứng ở nơi nào?
    ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
    tự đốt mình cho lửa sáng xem sao ...

    thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
    ta tiếc gì năm chục ký xương da
    sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
    những oan hồn ai bỏ giữa bao la...

    bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
    thấy chiến trường la liệt xác anh em
    năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
    đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm

    sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
    những hào hùng uất hận gối lên nhau
    kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
    ta làm gì cho hết nửa đời sau?

    ***
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  8. #18

    _Chỉ còn vài hôm nữa lại đến ngày giỗ của Mẹ tôi. Xin được chia sẻ với ACE dăm chuyện ngắn sưu tầm dưới đây như một lời nhắn nhủ cho những ai (rất may mắn) vẫn còn có Mẹ trong đời...

    Thân chúc các bạn một ngày bình an.


    MẸ...

    Khi xưa nhà còn nghèo, mẹ hay mua cua đồng về giả làm cua rang muối. Cua đồng cứng nhưng mẹ khéo tay chiên giòn, đủ gia vị nên thật ngon. Thấy các con tranh nhau ăn, mẹ nhường. Các con hỏi, mẹ bảo: "Răng mẹ yếu!"

    Giờ, các con đã lớn, cửa nhà khá giả hơn, chúng mua cua biển gạch son về rang muối mời mẹ. Các con nói vui: "Cua rang muối thật đó mẹ!"

    Chúng đua nhau ăn ngon lành. Riêng mẹ không hề gắp. Các con hỏi, mẹ cười móm mém: "Còn răng đâu mà ăn?"

    _o0o_

    
Cha kể, từ bao lâu nay cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ tìm cách từ chối. Lúc thì mua sữa cho con, lúc sách vở, lúc tiền trường...

    Đến khi tay đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần nào được đeo.

    Lớn lên, chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: "Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui."

    Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng...

    _o0o_

    
Trong năm đứa con của má, chị nghèo nhất. Chồng mất sớm, con đang trong tuổi ăn học. Gần tới lễ mừng thọ 70 tuổi của má, cả nhà bàn với xem nên chọn nhà hàng nào, bao nhiêu bàn, mời bao nhiêu người.

    Chị lặng lẽ đến bên má: "Má ơi, má thèm gì, để con nấu má ăn?"

    Chưa tan tiệc, Má xin phép về sớm vì mệt. Ai cũng chặc lưỡi: "Sao má chẳng ăn gì?"

    Về nhà, mọi người tìm má; thấy dưới bếp, má đang ăn cơm với tô canh chua lá me và dĩa cá kho tiêu chị mang đến...

    _o0o_

    Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó; trong đau khổ lẫn hạnh phúc.

    Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm. Mẹ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành "Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây mà!" Vậy là nó nín.

    Rồi một ngày nọ, mẹ cũng đi theo bà...

    Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo: "Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây mà!" rồi lấy tay nó đặt trên ngực trái của dì, nơi quả tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc to hơn.

    _o0o_
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  9. #19

    NHỮNG GIỌT MỰC...
    (Lê Tất Điều)

    Đêm hơi lạnh. Ánh trăng lọt qua cửa sổ, soi sáng một chút mặt ông Bàn. Bình mực thủy tinh đổ nghiêng, mang trên mình mảnh trăng nhỏ xíu, lấp lánh, xa vời.
    Dòng mực xanh chảy lan trên mặt ông Bàn đã khô. Đáy bình còn một gợn đen đậm nhỏ. Đó là ba giọt mực cuối cùng.

    Ông Bàn giận lắm. Chưa bao giờ ông giận đến thế. Chú Ngăn kéo sợ ông sẽ quẳng tất cả các vật trên thân thể ông xuống, kể luôn chú. Chú gắng thu xếp các vật trong lòng mình, cho chúng nằm thứ tự gọn gàng. Ở đậu trong bụng ông Bàn, chú Ngăn kéo luôn tế nhị, giữ gìn. Nhưng lần này, lỗi không ở chú Ngăn kéo.

    Ông Bàn to tiếng:

    - Ông Cung, cụ Sách nghĩ coi: tôi làm sao chịu nổi. Trong phòng này tôi là món đồ xui xẻo, cực khổ nhất.. Vật gì cũng có thể nhảy lên mặt tôi được. Ban ngày tôi còn phải cõng cả ánh nắng, ban đêm cõng ánh trăng, toàn những món đồ do chị Cửa sổ mang về.

    Cửa sổ nhỏ nhẹ:

    - Ánh trăng và ánh nắng nhẹ tênh mà.

    - Đồng ý. Nhưng chị phải biết ánh nắng có thể làm tôi vỡ mặt ra. Tuy nhiên việc đó bỏ qua. Tôi xin hỏi mọi vật: tôi là bàn tôi đâu có là anh hề nhựa, sao mặt tôi ngày một bẩn thỉu, kỳ cục, đầy những vết mực dọc ngang, lộn xộn?

    Anh Bút chì nằm bên cạnh cô Vở quăn góc nói nhỏ:

    - Cháu chỉ lỡ vẽ trên mặt bác một cái xe hơi, một cái nhà…

    Anh Bút bi cũng lên tiếng:

    - Cháu vẽ một con vịt.

    Ông Bàn giận dữ hơn:

    - Hình đó đâu phải là con vịt. Đó là một thứ quái vật, đầu to như đầu ngựa, hai cẳng như cây tăm. Tôi yêu cầu các cháu từ giờ đừng có trổ tài hoạt hoạ nữa.

    Cụ Sách lên tiếng nghĩa là mở cửa kho đạo đức:

    - Những vật trên mặt ông Bàn không biết điều chút nào. Hãy noi gương những vật ở nhờ trong lòng ông Tủ. Họ tới, họ đi, biết bao đợt rồi, lòng ông Tủ vẫn sạch sẽ.

    Ông Cung góp lời:

    - Vật cẩn thận không bao giờ để lại dấu tích nơi mình đã cư ngụ, nhất là những dấu tích mất vệ sinh. Ngày xưa, khi còn đi theo các chiến sĩ, ta đã từng cắm trại, các chiến sĩ không để lại một cái hố nhỏ.

    Sau câu nói của ông Cung, ông Bàn đã bớt càu nhàu, nhưng chưa nguôi giận.

    - Lỗi tại tôi xin ông Bàn tha thứ. Tôi đứng không vững nên mới ra cớ sự.

    Đó là câu nói của bình mực thủy tinh.

    Tất cả xôn xao của mọi vật, cùng cơn giận của ông Bàn hình như bây giờ mới làm hắn bừng tỉnh. Không phải hắn lì lợm, bướng bỉnh. Hắn là vật đãng trí mơ mộng nhất trong phòng. Dù chứa mực trong lòng, thân thể hắn vẫn có những phần trong veo. Cảnh vật in hình trên đó, nhỏ xíu, mơ hồ. Không giống mặt gương, phản chiếu hình một cách máy móc, chính xác. Bình mực bóp méo khuôn mặt mọi vật theo ý hắn.

    Những đêm trăng như đêm nay, đứng gần cửa sổ, hắn chứa cả trăng sao, bầu trời yên tĩnh. Vài cành cây bên cửa xao động làm cho mảnh thế giới in trên bình mực sinh động, đẹp tuyệt vời. Tất cả mang một màu xanh hơi tối. Nếu một chú kiến lạc vào thế giới nhỏ bé, xinh xắn ấy, chú sẽ biến thành thi sĩ. Vì vậy, bình mực của chúng ta hoá ra là một vật mơ mộng.

    Bình mực đổ, từ cái miệng tròn vo của hắn, mực trào ra, hào hứng như bọn tù vượt ngục. Mặt ông Bàn thêm một vết đen lớn khủng khiếp. Đó là lý do khiến ông giận dữ, nói những lời cay đắng, trách móc lung tung. Tai họa xảy tới từ hồi chiều.

    Bình mực đã công khai nhận lỗi, dù chậm, ông Bàn cũng hài lòng. Ông già rồi, không chú ý tới dung nhan mình. Vết mực loang lớn thật, nhưng so với những hình vẽ lăng nhăng, những vết dao chém, nó cũng chẳng làm ông xấu hơn được. Tuy nhiên ông Bàn vẫn doạ:

    - Bây giờ anh mới biết lỗi à? Tôi sẽ quẳng anh xuống đất, cho anh vỡ tan xác ra.

    Ông Bàn rung nhẹ, các khớp gỗ kêu cót két. Nhiều vật tưởng ông quyết liệt hạ bình mực, đều hoảng kinh. Cụ Sách cất tiếng:

    - Xin ông Bàn bớt nóng.

    Những cây Bút mực cũng cuống quít can ngăn:

    - Anh Bình mực thật dễ ghét, nhưng thiếu anh ấy, chúng cháu mất kho nhiên liệu, hoá vô dụng. Mong ông nghĩ lại.

    Chỉ có Bút chì im lặng. Đương sự rất đắc chí vì có thể tự lực, tự cường. Hắn viết ra những chữ mờ nhạt, nhưng khỏi cần nhờ vả , lệ thuộc anh nào. Bình mực sống chết chả ăn nhậu gì tới hắn. Bút chì bị mang tiếng ích kỷ và vụng về. Hắn phải đeo kè kè ở sau đuôi một cục tẩy tròn chuyện việc xoá những bước đi lỗi lầm của hắn.

    Những bông hoa thuộc loại tình cảm, nghe chuyện cãi vã xô xát đã thất kinh. Giọng hoa run rẩy:

    - Ông Bàn chớ làm vậy! Ông Bàn chớ làm vậy!

    Chỉ có ông Cung, vật từng trải, lão luyện là biết ông Bàn doạ chơi. Một vật dễ giận, dễ to tiếng, rồi dễ nguôi như ông Bàn, ít khi làm chuyện ác độc.

    Bình mực thủy tinh cũng sợ hãi. Rơi từ mặt bàn xuống, chắc tan xác thật? Nhưng vật đãng trí và mơ mộng này lại tự an ủi bằng trí tưởng tượng. Cần quái gì. Hắn nghĩ. Nếu tan thành trăm mảnh, ta sẽ là trăm mảnh lóng lánh sáng, trăm mảnh mang hình trăng tròn, trăm mảnh bầu trời ngoài khung cửa sổ….không còn một giọt mực nào dính trên thủy tinh, cả trăm mảnh sẽ trong veo. Tuy nhiên trăm mảnh rực rỡ đó không sống lâu, sẽ gặp nhau trong sự tăm tối của thùng rác. Kẻ mơ mộng, sau phút tưởng tượng tới sự tan tành đẹp đẽ, bỗng biết ớn:

    - Tôi đã nhận lỗi rồi mà. Tôi xin hứa sẽ cẩn thận hơn.

    Bình mực chưa dứt lời, mọi vật bỗng nghe tiếng khóc. Tiếng khóc vang lên từ trong lòng bình mực. Tiếng khóc tỉ tê tuyệt vọng.

    Mọi vật sững sờ, im lặng, lắng nghe. Ông Bàn bối rối trước tiên:

    - Này chú Bình mực, ta doạ chơi vậy thôi, sao mà nhút nhát quá vậy?

    Bình mực cãi:

    - Ông lầm rồi, tôi đâu có khóc.

    Quả vậy, đó là tiếng khóc nhỏ bé của ba giọt mực cuối cùng, còn đọng dưới đáy bình.
    Ba giọt mực tụ lại, như một giọt nước mắt đen lớn buồn thảm. Hàng ngàn giọt mực đến rồi giã từ bình mực. Bình mực biến thành nơi tạm trú của chúng. Mới đầu vật mơ mộng này cũng lưu luyến tất cả những khách trọ. Sau đó quen đi, hắn trở về với nếp sống riêng tư. Tiếng khóc của ba giọt mực khiến hắn kinh ngạc.

    Bông hồng khẽ hỏi:

    - Làm sao các em lại khóc?

    Một giọt mực nghẹn ngào:

    - Bọn em đang khô dần.

    Giọt mực thứ hai:

    - Chúng em không bao giờ được làm bổn phận của loài mực.

    Giọt mực thứ ba tiếp lời:

    - Tất cả những giọt mực cùng sinh ra đời với chúng em đều đã sống đầy đủ. Họ được những anh chị bút đón ra khỏi bình, họ biến thành chữ, thành hình vẽ. Họ khô trong danh dự vinh quang, chúng em không như vậy. Chúng em đang héo tàn trong đáy bình mực một cách vô duyên.

    Những câu than thở của ba giọt mực khiến cho muôn ngàn chữ trong tất cả những sách vở bừng tỉnh. Sau đó muôn ngàn chữ cùng hân hoan. Tiếng than của kẻ hậu sinh như lời khen tặng các vị tiền bối. Cả những giọt mực đã khô hàng trăm năm, đang mờ tới nét chữ cuối cùng cũng góp niềm kiêu hãnh. Những giọt mực khô trong lòng cụ Sách thì reo vui hơi quá lố. Chúng cất tiếng cười dù cố đè nén, vẫn làm cho những trang sách rung rung. Tất cả những giọt mực vào lòng cụ Sách đều biến thành lời đạo đức, khôn ngoan, dạy dỗ loài người, phác giác những chuyện huyền bí của vụ trụ. Những giọt mực ấy đã tìm được một địa vị hết sức cao trọng, như giọt mực xấu số thứ ba đã nói: "Họ khô trong danh dự vinh quang."

    Cụ Sách phải nạt khẽ:

    - Này! Cười vui trước nỗi đau khổ của vật khác là vô ý thức.

    Căn phòng đỡ mất trật tự.

    Nhưng muôn ngàn chữ vẫn sung sướng, cười thầm, và ba giọt mực đang khô trong đáy bình, tiếp tục khóc tỉ tê.

    Chỉ có năm sáu giọt mực khô trong lòng chị Vở cất tiếng an ủi:

    - Không ra khỏi bình các em đừng buồn. Như bọn ta đây, đâu có gì là sung sướng.

    Chúng ta không hoá thành chữ, mà thành một cái hình quái gở. Quả thực, cậu bé đã dùng những giọt mực này để vẽ một hình người đầu tròn, tóc lởm chởm, không có mũi, chân tay cong queo, kì dị. Những giọt mực khác, biến thành hình vẽ xấu xí trong vở, trên bìa sách, trên mặt bàn, cũng đua nhau an ủi ba giọt mực. Họ cho rằng ở vĩnh viễn trong bình còn hơn là biến thành những quái thai.

    Hàng trăm giọt mực, vết loang lớn trên mặt ông Bàn, bây giờ mới đủng đỉnh lên tiếng:

    - Còn bọn chúng tôi thì sao? Cũng nhục nhã lắm chứ. Cả trăm mạng hoá thành vết đen dơ dáy trên mặt ông Bàn, chúng tôi đâu có khóc.

    Ba giọt mực vẫn khăng khăng:

    - Thà làm một vệt đen còn hơn khô héo trong đáy bình. Chúng tôi biết không phải giọt mực nào cũng gặp may mắn khi ra đời. Nhưng đã là mực, phải được ghi một vết ở đâu đó. Là chữ, là hình vẽ, là một cái chấm xấu xí cũng được, chúng tôi muốn ra khỏi bình. Chúng tôi không muốn chết non và chết vô ích.

    Các vật trong phòng lặng thinh. Ba giọt mực cảm thấy mình đang khô héo mau hơn, lại tỉ tê khóc. Bông hồng nghe thấy chuyện chết chóc, buồn rũ cánh. Chị Bóng bay thơ thẩn lăn tới một góc nhà, ngậm ngùi thương những vật nhỏ bé mong manh. Chú con Quay muốn cất lời an ủi. Nhưng chính chú cũng nghĩ rằng một vật sinh ra đời chẳng để làm gì, chẳng có ích gì thì vật đó buồn phát khóc là phải.

    Bỗng dưng ông Bàn hỏi to:

    -Sao? Cụ Sách, trong cái bụng đầy nhóc thông thái của cụ, không có ghi câu nào an ủi ba giọt mực hả?

    Hồi này, ông Bàn ưa trêu cụ Sách. Ông nghi cụ vẫn có ý coi thường ông. Bụng cụ đầy chữ, bụng ông chỉ có chú Ngăn kéo dốt nát. Thỉnh thoảng ông tìm cách đưa cụ Sách vào thế kẹt. Chẳng hạn ông hỏi cụ: tại sao giầy dép không có chân lại đi khắp nơi, bàn ghế có tới bốn chân thì nằm một chỗ. Bây giờ ông lại làm cụ Sách lúng túng.

    - Ờ….ờ…nghĩ rằng ba giọt mực không nên buồn quá thế. Trời sinh ra muôn vật: mỗi vật có một số phận….

    Chưa bao giờ cụ lại nói một câu thiếu dứt khoát như vậy.

    Ông bàn bỗng phá lên cười:

    - Ha! Ha! Ha! Xin lỗi cụ Sách! Nhà cháu không đồng ý với cụ. Theo quan niệm của vật dốt nát này thì ba giọt mực không có quyền khóc. Cả ba phải reo mừng vì đã sống những ngày đầy ý nghĩa.

    Cả phòng kinh ngạc, ba giọt mực nín khóc lắng nghe. Ông Bàn vẫn cười ha hả:

    - Hãy coi cái thân tôi này. Tôi là bàn, tôi có hoá ra gì đâu, nhưng tôi đã để cho biết bao nhiêu vị ngồi trên mặt. Các vị ấy đều có ích, thế là cuộc sống của tôi có ý nghĩa.

    - Ba giọt mực dưới đáy bình đâu có vô ích. Nếu họ không ở đó thì làm sao các anh chị bút có thể với tới hết tất cả những giọt mực khác?

    - Ba giọt mực cuối cùng đã làm một việc có ý nghĩa nhất: họ đội những đứa khác trên đầu, suốt ngày này sang ngày khác. Nhờ vậy, những giọt đứng trên đầu họ mới bám vào ngòi bút, ra ngoài, biến thành chữ.

    - Chú Bình mực phải biết điều đó chứ. Bao nhiêu thế hệ mực đã qua trong lòng chú? Mỗi thế hệ đều có ít nhất ba giọt mực nằm dưới đáy, nâng các giọt mực khác lên cao. Sau đó, những giọt hy sinh khô đi trong lặng lẽ.

    - Khi nãy, tôi nghe các chữ, những giọt mực khô trong lòng cụ Sách đã cười. Thật là một lũ vô ơn. Dù vinh quang hiển hách đáng lẽ lũ ấy phải biết tới những giọt mực đã đội chúng lên, những giọt mực chịu nằm dưới đáy bình, chịu nhục nhằn, tăm tối và thiệt thòi.

    - Vậy ba giọt mực bé tí teo, các cháu có quyền kiêu hãnh. Các cháu đóng góp vào rất nhiều sách vở. Và hàng tỉ chữ, hằng sa số hình vẽ trên cõi thế gian này đều mang ơn những giọt mực nằm dưới đáy bình.

    Ông Bàn không cười nữa, căn phòng im lặng hoàn toàn. Một lát sau, cụ Sách nói với ông Cung tên:

    - Lần này, tôi chịu thua lão già lỗ mãng. Lão chỉ có một cái bụng rỗng tuếch mà khôn gớm!

    Trong bình thủy tinh lóng lánh, ba giọt mực cuối cùng kiêu hãnh hân hoan bốc thành hơi.

    _______***______
    (Tác Giả: Lê Tất Điều)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  10. #20

    ____Máu Lửa CHARLIE.......

    (Tác Giả: Thiếu Tá Nhảy Dù QLVNCH Đoàn Phương Hải)

    - Tưởng nhớ Anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Khóa 14 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù/QLVNCH.

    - Nhớ "Đệ Nhất Ẩm Sĩ, Cuồng Thái Y" Tô Phạm Liệu, Y Sỹ Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù/QLVNCH.
    - Các chiến hữu đã ở lại Charlie..

    - Gửi Mễ, Duffy, và các bạn hữu để nhớ Charlie.

    Những quân mạt-chược màu đỏ màu xanh, những vệt nắng lung linh xuyên qua khe lá pha trộn với màu áo hoa rừng của những người lính Nhẩy Dù trong buổi trưa hè, dưới tàng cây rợp bóng của vườn Tao Đàn, đã tạo cho tôi một cảm giác thật êm ả, thoải mái dễ chịu.

    Đang mãi mê xoa thì anh Năm kêu đi họp, làm cả bọn bật đứng lên. Trong đơn vị, chúng tôi có thói quen kêu nhau bằng anh, với cấp bậc đi sau. Tiếng "Anh" nghe gần gũi thân quen và đầy tình cảm, như trường hợp ông Tiểu Đoàn Trưởng của tôi hiện nay, chúng tôi vẫn kêu bằng Anh Năm, vì ông mang cấp bậc Trung Tá.

    Tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù của chúng tôi được không vận ra Pleiku, sau đó vào vùng hành quân để giải tỏa áp lực địch đang đè nặng lên hai tỉnh Pleiku và Kontum.

    Giã từ vườn Tao Đàn sau hơn một tháng dưỡng quân với nhiệm vụ bảo vệ Dinh Tổng Thống, cầu Xa Lộ, Hóc Môn, Phú Lâm, Bà Điểm. Những địa danh này là cửa ngõ chính mà địch thường lợi dụng xâm nhập thủ đô Sàigòn. Tạm biệt Đêm Màu Hồng, hủ tiếu gà, cá bờ sông, những tàng cây đầy bóng mát trong vườn Tao Đàn và Sàigòn, nơi đầy những biến động trong trận chiến tranh dành quyền lực của các tướng lãnh và các phe phái chính trị?

    Ngày 13 tháng 3 năm 1972, tôi ghi lại những nét đầu tiên trong trang nhật ký hành quân.

    Những cơn gió lạnh của rừng núi Pleiku làm tôi rùng mình, kéo cao cổ áo saut. Những đỉnh núi cao với nhiều hình thể lạ lùng in đậm trên nền trời, trông thật đẹp và hùng vĩ. Biển Hồ với màu nước xanh phẳng lặng.

    Tượng Đức Mẹ trên đỉnh đồi cao, hiền dịu, bao dung, hai cánh tay mẹ giơ ngang trái tim như đang ôm cả bầu trời. Lòng tự nhiên lắng đọng, tôi hít thật sâu cái lạnh của núi rừng, nhìn những ngôi sao đổi ngôi trên bầu trời, tôi cầu xin bình an cho bạn bè và đồng đội.

    Mấy ngày tạm ở Pleiku, đêm nào tôi cũng ra hội quán Phượng Hoàng với Thăng "Fulro", Long "đất", Kỳ, Xuân.. bên Không Quân, để nhắc đến bạn bè, kể cả những người đã ra đi trong cuộc chiến.

    Tuần lễ sau, đơn vị tôi theo quốc lộ 14 lên Kontum, Tân Cảnh. Lâu lắm mới hành quân trở lại vùng 2, vẫn núi đồi hùng vĩ năm nào, nhưng quốc lộ, xóm làng đã thay đổi nhiều, bom đạn chiến tranh làm loang lổ mặt đường, cầu cống hoàn toàn đổ gãy, dân chúng sống thật nghèo nàn dọc theo hai bên quốc lộ.

    Đóng quân tại Diên Bình, tôi đã xúc động khi thấy tháp chuông nhà thờ sụp đổ, cả dẫy nhà nguyện phía sau chỉ còn là những đống gạch vụn hoang tàn. Mấy năm trước tôi bị thương trong trận đánh khai thông quốc lộ này, tôi đã nằm trong dẫy nhà nguyện, tôi không thể quên cha Joe, vị cha xứ người Pháp đã sống và chết trên ngôi giáo đường cao nguyên với những con chiên ngoan đạo của cha đến từ các giáo phận miền Bắc, trong những năm 54 chia đôi đất nước.

    Từ Tân Cảnh, Charlie ẩn hiện trên nền trời ảm đạm mờ sương. Charlie gồm 3 đỉnh đồi, cao độ trên dưới 1000 thước, nối liền nhau bằng những sườn đồi thoai thoải. Phía bắc là ngã ba biên giới Việt-Lào-Cambốt, phía đông bắc là quận Tân Cảnh, và xa xa về phía nam là tỉnh lỵ Kontum chìm trong rừng xanh núi đỏ.

    Mặt trận B3 Cộng Sản gồm 3 sư đoàn 2, 3, 320, du kích địa phương và các trung đoàn pháo, phòng không, đang liên tục tấn công tạo áp lực nặng nề cho Quân Đoàn II. Cộng quân công khai xử dụng xe Molotova tiếp tế quân trang, quân dụng cho mặt trận B3 trên hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh và Charlie đã trở thành cái gai nằm ngay trên khoảng "xa lộ" tiếp tế chính yếu này của địch.

    Từ ngã ba biên giới, giòng sông Pôkô dậy sóng, qua núi băng rừng, đổ về chảy dọc theo quốc lộ 14. Gần đến Tân Cảnh có một nhánh nhỏ ào ào như thác đổ chảy gần căn cứ Charlie. Dọc theo những đỉnh núi chập trùng, Charlie cách Tân Cảnh hơn 10 cây số về phía tây nam; phía bắc Charlie là căn cứ Yankee, căn cứ 5, căn cứ 6, phía nam Charlie là căn cứ Delta, Hồng Hà, Mêtrô, Võ Đính.. Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù rải đều quân trên các căn cứ, tạo thành một vòng cung với nhiệm vụ phát giác và tiêu diệt địch, để bảo vệ quốc lộ 14 và vùng đồng bằng duyên hải của Quân Khu II.

    Charlie, Delta, Hồng Hà.. hay Võ Định, là những tên được Bộ Chỉ Huy Hành Quân đặt ra cho Không Quân, Pháo Binh, dễ nhận diện khi cần yểm trợ.

    Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù được trực thăng vận vào Charlie xong xuôi, Đại úy Hùng, đại đội trưởng đại đội 113 đóng quân phía bắc Charlie, 3 cây số gần chân núi Yankee, tạm gọi là C1. Trung úy Thinh, đại đội trưởng 111, đóng tại C hay Charlie. Đại úy Hùng, đại đội trưởng 112, Đại úy Nho, đại đội trưởng 110, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và đại đội 114 của Trung úy Cho đóng tại C2, đỉnh cao phía nam cách Charlie hơn 500 thước. Từ điểm cao C2 này, tiểu đoàn xử dụng để tiếp tế hay khi cần tăng viện, một cách dễ dàng hơn.

    Ném mạnh cục sỏi ra xa, đá tung cục đá dưới chân, anh Năm nhăn mặt cau có, sau một ngày vần vũ trên trực thăng đổ quân và quan sát địa thế quanh Charlie. Tôi biết anh đang tức giận với nhiệm vụ hành quân. Đưa tay chỉ dẫy núi cao phía tây, trùng trùng điệp điệp, Sư đoàn 320 Cộng quân và các đoàn xe Molotova của địch đang tự do di chuyển, trong khi đó thì nhiệm vụ của tiểu đoàn bằng mọi giá giữ vững Charlie, có nghĩa là tử thủ Charlie.

    Ráng chiều đỏ rực đang phủ nhòa cảnh vật, Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù vừa qua ngày đầu tiên trên chiến địa!

    Nằm trên võng, lắng nghe những âm thanh kỳ lạ của núi rừng trong buổi sớm mai, những tia nắng đầu ngày rơi từng vệt tròn trên poncho, tiếng chim hót, tiếng suối reo, hơi thở của rừng cây, mùi đất mới, vệt khói mong manh từ ly cà phê buổi sớm tạo cho tôi cảm giác khó tả. Tôi uể oải vươn vai nhìn xuống thung lũng, những vạt sương sớm giăng mắc trắng đục trên lưng đồi.

    Anh Năm, Mễ, tôi, Duffy (Cố Vấn Mỹ Liên Lạc), Liệu (Y Sỹ Trưởng Tiểu Đoàn) và các đại đội trưởng bàn thảo kế hoạch phòng thủ, các hỏa tập cận phòng, chung quanh và ngoài căn cứ. Anh Năm gằn giọng chỉ tay về những đỉnh núi xa xa:

    - Mình chỉ có vài đỉnh đồi để vinh quang hay gục ngã. Tao đã xin Lữ Đoàn để lại một đại đội tại Charlie, còn toàn bộ Tiểu đoàn phải di chuyển hàng ngày để phát giác và tiêu diệt địch sớm hơn, nhưng Lữ đoàn không chấp thuận và lệnh phải giữ Charlie bằng mọi giá. Như thế là mình mất thế thượng phong, chỉ thủ và không tấn công.

    Hổ "xám" chiến trường nhún vai bất mãn vì cái lệnh hành quân kỳ cục, phải tử thủ Charlie khi biết địch hơn mình về quân số và vũ khí gấp mấy mươi lần! Đưa mắt nhìn nhau, với kinh nghiệm nhiều năm trận mạc, chúng tôi biết đang bị đâm thấu tim bằng một lệnh hành quân quái ác.

    Lính tráng đào hầm hố, giao thông hào ngang dọc vị trí đóng quân. Tôi xin trực thăng tăng cường tối đa thuốc men, đạn dược, để sẵn sàng phòng thủ. Các đại đội tung quân lục soát xa căn cứ, nhưng lần nào cũng đụng mạnh, khi Mễ tiến chiếm các cao điểm phía nam. Lợi dụng địa thế hiểm trở, địch đóng chốt trong các hang đá, trên các cao điểm mà bom đạn không thể "lách" vào các khe núi để "móc" chúng ra. Địch gài trận địa pháo và bố trí phòng không dày đặc, gây tổn thất cho đơn vị mỗi khi tấn công.

    Ngày 6 tháng 4, Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù tại căn cứ Delta, phía nam Charlie bị pháo và tấn công. Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù bên Charlie theo dõi trận đánh qua máy truyền tin. Giao tranh suốt đêm, có lúc địch đã chiếm nửa căn cứ, sau lại bị đánh bật ra, rồi mờ sáng hôm sau "Ngọc Ngà" thằng bạn cùng khóa báo cáo chiếm lại Delta, địch thảm bại tháo lui, để lại nhiều tổn thất về nhân mạng và vũ khí.

    Chiêu một ngụm cà phê, Anh Năm chỉ trên bản đồ và nói:

    - Rút kinh nghiệm trận đánh đêm qua, địch sẽ pháo mình liên tục, sau đó sẽ tung cả trung đoàn để chiếm lại Charlie. Nhắc "tụi nhỏ" dè sản đạn dược, căng thêm tối đa phục kích tự động, tung tiền đồn ra xa, tu bổ thêm hệ thống phòng thủ.

    Trước khi về hầm trú ẩn, Anh Năm nói với lại với tôi:

    - "Khều", mày và Mễ move vị trí ra xa tao một chút, mỗi người một góc, lỡ có gì thì còn thay nhau chỉ huy.

    Hai ngày kế tiếp, địch bắt đầu pháo trên cả 3 căn cứ. Theo tình báo và tài liệu tịch thâu từ tù binh, địch chắc chắn xử dụng Sư Đoàn 320 tấn công và tiêu diệt Charlie, để chiếm lại con đường huyết mạch dùng tiếp tế, chuyển quân về đánh Tân Cảnh, Kontum, trong chiến dịch mùa hè.

    Ngày 9 tháng 4, hỏa tiễn và đại pháo 130 địch cầy tung hệ thống phòng thủ, sau 4 giờ pháo kích, với hàng ngàn quả đạn công phá. Địch bắt đầu tấn công Charlie, trong khi đó chúng vẫn đồng thời pháo Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn.

    Đại đội 111 chống trả mãnh liệt. Pháo binh, khu trục, trực thăng võ trang trút đủ loại bom đạn lên đầu địch. Sau nhiều đợt xung phong không kết quả, địch rút, để lại hàng trăm xác chết với vũ khí ngổn ngang đầy ngất sườn đồi.

    Địch dùng pháo 130 với đầu nổ chậm, đạn chui sâu xuống lòng đất, rồi nổ tung lên. Hầm hố nào chịu đựng cho nổi với tầm bắn xa gần 30 cây số, nhanh và chính xác. Pháo 130 là vũ khí tối tân cực kỳ độc hại, bỏ xa pháo binh 105, 155 hay 175 mà ta đang xử dụng!

    Đêm xuống thật nhanh, Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù đang chuẩn bị cho một định mệnh tàn khốc trong những ngày sắp tới. Nơi những rặng núi mịt mùng phía tây, từng đoàn xe Molotova địch đang di chuyển, ánh đèn pha sáng rực góc rừng. Kêu pháo bắn tiêu diệt, pháo bắn không tới, kêu Không Quân oanh kích thì không có phi vụ, kêu Duffy xin B52, những vẫn mịt mù vô vọng.

    - Mình làm gì bây giờ?! - Anh Năm buông tiếng thở dài với khuôn mặt buồn bực, rồi nói tiếp - Tử thủ một ngọn đồi chờ địch pháo cho tan nát, sau đó ào ào tấn công. Cứ đà này tiếp diễn hơn tuần lễ, chắc chắn mình sẽ tổn thất nặng. Nhớ ngày ở Hạ Lào, Dambe, địch tung cả trung đoàn, nhưng tao coi như "pha", vì mình có địa thế để vùng vẫy, không có cái nhiệm vụ "tử thủ". Còn bây giờ thì khác, phải "ôm lấy" Charlie để ăn pháo và chấp nhận thương đau..

    - Không lẽ sinh nhật tháng này cũng là ngày đi tàu suốt tại đây? Bếp lửa gia đình mịt mờ xa tắp cuối phương nam!

    - Thôi ngủ đi ông ơi. Mình chiến trận nhiều rồi, đâu có sao.

    - Nhưng lần này tôi thấy không ổn. Hồi chiều Anh Năm mặc lại bồ đồ Hoa Huyết Đỏ, tôi tính nói mà sợ ông giận.

    - Bộ đồ đó xui bỏ mẹ! Ông nhớ kỳ quốc lộ 22 giải tỏa Thiện Ngôn, chút xíu là tịch rồi...

    - Mẹ kiếp, cứ mỗi lần ông ấy bận đồ đỏ là đụng liên miên. Sáng mai tôi phải nói ông ấy vứt mẹ nó đi.

    - Dị đoan quá, nhưng không tin không được.

    Trao đổi vài câu tâm sự với Toubib Liệu, tôi thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề, đầy mệt mỏi trong cái lạnh của rừng núi Tây Nguyên.

    Vừa viết xong chữ "Ngày 10 tháng 4" trên cuốn nhật ký hành quân thì địch bắt đầu pháo ngay Bộ Chỉ Huy. Nép mình trong giao thông hào, tôi kêu máy cho các đại đội. Tất cả đều đang bị pháo. Tiếng rít của hỏa tiễn và pháo 130 ly làm tê liệt lệnh lạc. Tôi nói như hét trên máy truyền tin, báo cáo lên Lữ Đoàn để xin phi cơ quan sát lên vùng với hy vọng thấy vị trí pháo địch. Lữ Đoàn có vẻ không tin là pháo 130. Tôi bực tức cúp máy và chửi thề vài câu cho bớt giận!

    Đắng môi, khô miệng vì căng thẳng mỗi khi nghe tiếng "depart" của pháo, vài giây chờ đợi, giây phút ngắn ngủi lằn ranh của tử sinh.

    - Nó pháo ra ngoài, hình như đạn rơi về phía suối?

    - Ừ, nó pháo ra ngoài...

    Thật ra đó chỉ là ảo giác, nói để trấn an, nói để hy vọng, nói để tự dối lừa mình, nói để biết mình đang sống trong nỗi chết gần kề.

    Tôi nghe tiếng phi cơ quan sát trên đầu. Vào tần số Không Lực, nhận ra giọng Xuân trên chiếc L19. Tôi hét lên:

    - Mở mắt ra coi tụi nó đặt pháo ở đâu? Hướng dẫn thằng "Fulro" giệt nó đi cha nội. Nó hỏi thăm tao hơi nhiều rồi đó.

    - OK. Có đám thằng Long "đất" khu trục vào vùng rồi đấy.

    Căn cứ lãnh gần 3000 quả 130 nổ chậm và hỏa tiễn. Địch bắt đầu tấn công...

    Hình như địch muốn dò xét khả năng phòng thủ và hỏa lực Không, Pháo yểm, nên chúng vừa dứt pháo thì lại tấn công, lúc hướng đông, lúc hướng nam, xong chúng lại rút... Trò chơi tiếp diễn suốt ngày. Rõ ràng địch đánh thăm dò và pháo 130 vẫn là trò chơi hữu hiệu và độc hại nhất, vừa tiêu hao, vừa làm thần kinh căng thẳng. Tiền sát viên của địch trên những hốc núi cao dùng ống nhòm điều chỉnh pháo mỗi khi thấy binh sĩ di chuyển. Để tránh tối đa thiệt hại, chúng tôi chỉ di chuyển trong giao thông hào kiên cố quanh vị trí đóng quân.

    Trực thăng tản thương cố gắng mấy lần, nhưng không thể đáp được vì hỏa lực phòng không quá mạnh của địch, toàn 12 ly 7 từ các khe núi bắn ra. Trực thăng võ trang, không quân oanh kích ít gây tổn thất cho địch. Duffy xin được mấy phi vụ B52 sẽ thả lúc nửa đêm. Sau khi cho tọa độ, anh Cố Vấn hét lên vì xin thả quá gần, chỉ cách vị trí đóng quân hơn 500 thước.

    Đêm xuống thật nhanh, sao lấp lánh trên cao, núi đồi đen thẫm đầy đe dọa, những đốm lửa bập bùng trong đêm sau các cuộc oanh kích trong ngày làm những bụi cây chập chờn di động như bóng địch quân. Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù chống mắt đợi chờ, mệt mỏi đói khát sau mấy ngày đêm ăn pháo và tấn công của địch. Tựa lưng vào giao thông hào chờ B52 tới thả bom, tôi buột miệng:

    - Anh Năm, sao anh khoái bộ hoa dù Angle quá vậy? Bộ này coi bội xui lắm, hay là anh thay đi, có tin có lành mà Anh Năm.

    - Xui cái gì, tụi mày chỉ dị đoan. Bộ đồ vừa đẹp lại vừa hiếm, tao kiếm mãi mới ra đấy!

    Mễ phang thêm một câu:

    - Lần trước ở Dambe, đụng mấy ngày đêm, Anh cũng bận bộ đồ này.

    - Lần đó thắng lớn, tao ngồi trên thiết giáp điều quân như Patton, dứt điểm một trung đoàn của Công Trường 9 như lấy đồ trong túi. Vũ khí thu như núi, rửa mặt cho Quân Đoàn III. Nghĩ lại tao còn thấy khoái.

    - Nhưng mình mất một đại đội trưởng và hai trung đội trưởng.

    - Thì biết làm sao. Chiến tranh có những tổn thất mà tao đâu có bao giờ mong muốn.

    Toubib Liệu thêm một câu:

    - Cú giải tỏa quốc lộ 22 gần Thiện Ngôn, một mảnh cối vào mắt, nằm Cộng Hòa cả tháng, bộ ông không nhớ sao?

    Tôi châm thêm ngòi:

    - Hôm vi vút ở Văn Cảnh kỳ đóng quân ở vườn Tao Đàn, chút xíu có chuyện lớn, bộ anh quên rồi hả? Cứ mỗi lần Anh "chơi" bộ hoa dù Angle này lên là có chuyện.. Vía nó nặng lắm, hay là anh cho tôi đi..

    - Để mai tính, giờ tối rồi, còn nửa giờ nữa là đúng nửa đêm, check lại với Duffy chưa? Chúng mày chỉ lắm chuyện, hay là tụi mày muốn "chôm" bộ đồ của tao. Áo quần thì ăn thua mẹ gì mà sui với hên.

    - Rồi Anh Năm! Mấy cái hỏa châu tôi đuổi ra khỏi vùng rồi. Mấy thằng nhỏ tiền đồn tôi cho về hồi chiều và đã báo tất cả chuẩn bị với sức chấn động của B52.

    Duffy giơ ngón tay cái lên trời, tay kia chỉ hướng nam. Đột nhiên, trời đất rung chuyển, lửa cuốn cuồn cuộn bốc lên trong tiếng nổ giây chuyền của hàng ngàn trái bom 500 cân Anh từ B52 trút xuống. Không khí như nghẹt thở. Đứng tựa mình vào giao thông hào, hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, mồm há to để chống lại sức dội, nhưng tôi muốn tắt thở, máu muốn ào ra từ lòng ngực, người rung lên, đất đá, cành cây rơi lộp bộp trên nón sắt. Đợt ném bom chấm dứt sau vài phút. Lửa vẫn cuồn cuộn bốc lên ở phía nam căn cứ.

    Ngày hôm sau, địch không tấn công chỉ pháo cầm chừng. Buổi sáng sương mù nên mãi gần trưa trực thăng tản thương mới vào vùng. Khu trục bao vùng, gunships tác xạ những điểm nghi ngờ trong các khe núi để trực thăng cố gắng đáp. Nhưng vô hiệu, phòng không địch vẫn tác xạ như đan lưới. Một trực thăng trúng đạn đang lết ra khỏi vùng.. Hy vọng hoàn toàn tan vỡ...

    Anh Năm cất tiếng:

    - Tao nghĩ cú này nặng đấy. Tao đã báo cáo rất rõ tình hình địch với Lữ Đoàn. Vũ khí và quân số mình quá yếu so với địch. Một tiểu đoàn Dù so với hai trung đoàn địch và cả rừng pháo, phòng không. Chắc chỉ hơn một tuần nữa ăn pháo và vài đợt biển người tấn công là mình sẽ bị..

    Anh Năm bỏ dở câu nói. Trong đôi mắt xa xăm của Anh đã linh cảm một điều không may sắp đến. Anh lầm bầm:

    - Duffy đã báo cáo qua hệ thống Cố Vấn, nhưng chẳng ai buồn nghe, lúc nào cũng chỉ là lệnh Tử Thủ.. Đánh nhau mà như thế này, tao nản lắm. Tao là con nhà võ, tao không thích bị trói tay, rồi chìa mặt cho địch đánh. Người trực tiếp chỉ huy mặt trận phải biết rõ địch và tình hình hơn Bộ Chỉ Huy.. Thôi! Mình cố gắng một hay hai hôm nữa, nếu cứ tình hình này, tao sẽ tính...

    Tôi chán nãn đề nghị:

    - Để lại một trung đội, rồi mình di động đi Anh Năm. Ra ngoài dễ xoay sở hơn. Nằm đây đợi pháo, tôi nghĩ không khá. Nhẩy Dù chuyên tìm và diệt địch, nay đóng quân chờ pháo.. là tiêu rồi.

    - Tao đã nói rồi, nhưng không ai nghe. Tao cũng chán với cái chữ Tử Thủ rồi!

    - Sương mù ngày nào cũng dầy đặc đến gần trưa mới tan. Bốn năm giờ chiều là trời bắt đầu nhá nhem tối thì Không Quân đánh đấm gì được. Có hôm chờ dài cổ cũng chả có bóng ma nào trên trời.. Thôi thì nhờ ông "Lạc" pháo binh nấu "phở" cho ăn vậy.

    - Thôi đừng lèm bèm nữa. Tao không muốn ra tòa. Lữ Đoàn còn không tin nó pháo mình bằng delay 130 nữa đấy. Ê, Khều, mày lượm vài mảnh gửi về cho họ.. coi đi!

    - Nếu họ muốn thì vào đây mà lấy. Bộ mình đùa với xương máu anh em hay sao?!

    Tựa giao thông hào, mỗi người mang một tâm sự khác nhau. Tôi thấy không vui và bâng khuâng tự hỏi: "Không lý đây là trận đánh cuối cùng trong đời?"

    Cảnh vật mờ dần trong nắng chiều. Đêm xuống nhanh, đêm yên lặng rợn người.. Biết đâu ngoài kia địch đang bò tới gần căn cứ và ở một nơi không xa, trong các dẫy núi phía tây pháo địch đang căn lại hướng súng và dùng loại đạn tàn phá khốc liệt hơn.

    Tôi đang mải suy nghĩ thì Toubib Liệu buông một câu, rồi gục gặc cái đầu:

    - Dám kỳ này không được nhìn mặt đứa con sắp sinh lắm! Mấy thằng Y sỹ khác giờ này đang "phè cánh nhạn" chứ đâu có đứng tựa giao thông hào chờ pháo như tao.

    - Có ai bắt đi Nhẩy Dù đâu. Thôi ráng đi. Vài tháng nữa về Lữ Đoàn hay bệnh xá Sư Đoàn thì tha hồ vi vút.

    - Mẹ kiếp, tôi không thích về đó. Tính tôi ngang bướng, hay nhậu nhẹt, đụng mấy Xếp mất công. Mấy cha không ưa tôi, thôi tan hàng đi ngủ.

    Trằn trọc trên võng căng dưới giao thông hào, tôi nghe rõ tiếng rên xiết đau đớn của các thương binh. Lòng tôi chùng xuống khi thấy poncho bó xác các binh sĩ tử thương càng ngày càng nhiều. Hồi chiều anh Toubib cho biết thuốc men sắp cạn.

    Tiếng "em gái hậu phương", giọng anh ca sĩ quen thuộc trong bản "Lính Đa Tình" làm tôi muốn đá văng cái radio đi chỗ khác. Mẹ kiếp, lúc này mà đa tình đa tiếc cái mẹ gì.. Tôi buồn bực thiếp đi trong mệt mỏi.
    ........


    Tảng sáng 12 tháng 4, quây quần bên ly cà phê dã chiến, tôi hỏi đùa Anh Năm:

    - Sao Anh không thay bộ đồ đi. Anh nói anh cho tôi mà?

    - Tụi mày chỉ vớ vẩn và nói dai như đỉa. Hải, mày hỏi thằng Hùng "mập" có động tĩnh gì không? Nói nó bung ra lục soát tìm một cái trảng trống để tản thương cho mấy thằng "rách áo". Mễ, mày cho thằng Móm bung ra thật xa phía đông tìm cái LZ (bãi đáp) khác đi!

    Rồi Anh Năm đứng dậy nói:

    - Tao về thay bộ đồ, nói không lại tụi mày.. Cứ coi ba cái sách bói tướng, rồi nói nhảm. Nhớ dặn "tụi nhỏ" lấy súng đạn của địch mà sài. Tình hình này hy vọng tiếp tế, tản thương coi bộ gay go lắm. Để thương binh như thế này tao chịu không nổi. Tao về hầm viết lá thư, khi nào có trực thăng thì gửi, nhớ kêu tao nếu có gì lạ.

    Anh nói xong hơi chồm về phía trước đi về hầm, Liệu đánh một câu:

    - Tướng hơi lộ sỉ, đi chồm về phía trước là tướng ít gặp may, tướng vất vả!

    - Lại đến phiên ông. Bụng ông to chứa đầy cognac chắc hậu vận khá.

    - Dĩ nhiên "Đệ Nhất Ẩm Sĩ" (người uống rượu số 1) họ Tô có bao giờ thiếu VSOP đâu!

    Vừa nói xong thì nhiều tiếng rít qua đầu và nhiều tiếng nổ liên tiếp. Địch bắt đầu pháo đón chào một ngày mới. Lại hỏa tiễn, lại 130 nổ chậm. Tôi chép miệng nép mình trong giao thông hào, để mặc cho số phận. Mễ chụp máy hỏi các đại đội. Tất cả báo cáo đều bị pháo. Mễ lẩm bẩm: "Kỳ này nó nhất định dứt điểm mình."

    Một quả rớt cách tôi và Mễ vài thước. Mễ bị hất văng ra xa tôi, tôi nhào lên vừa đúng lúc Mễ lăn mình trở lại. Thật may mắn, quả đạn rớt vào giao thông hào bên cạnh nên Mễ chỉ bị thương nhẹ, máu lấm tấm đầy người. Toubib Liệu khám qua cho Mễ và nói:

    - Không sao, sây sát chút đỉnh, còn đánh được thằng VSOP.

    Tôi kêu máy gọi Anh Năm, không có tiếng trả lời. Tôi chạy lại hầm trú ẩn của Anh và Duffy. Tôi muốn ngộp thở đứng tim khi thấy hầm Anh Năm trúng đạn, mấy thân cây lớn đặt ngang hầm sụp đổ hoàn toàn. Ngay lúc đó, Duffy vừa chui ra khỏi hầm, đầu ngực đầy máu. Mễ, Liệu và tôi, Long và chú đệ tử của Anh vội moi đất kéo Anh ra khỏi hầm, mặc cho pháo vẫn rơi đều trên căn cứ.

    Chúng tôi mang Anh ra khỏi hầm, đặt ngay dưới giao thông hào. Thân thể Anh còn nóng, tôi bịt chặt vết thương cho Anh, máu ấm chảy qua kẻ ngón tay. Liệu cúi xuống coi kỹ lại vết thương rồi ngẩng lên nhìn chúng tôi lắc đầu: "Anh đã đi...". Thi thể thân thiết đó sẽ lạnh dần, đời sống đã ngưng lại, những giọt máu hồng vẫn nhỏ giọt thấm vào lòng đất. Bộ áo hoa dù Angle bê bết máu, mùi thuốc súng và mùi da thịt thoảng trên không. Tai tôi ù đi như không còn nghe tiếng bom, tiếng đạn. Mắt tôi nhòa đi và thấy rõ lại hình ảnh Anh mới lúc trước đây hơi chồm về phía trước, đá tung cục sỏi, đi nhanh về hầm. Tôi lẩm bẩm một mình:

    - Đã nói rồi mà Anh Năm! Bộ đồ sui lắm, sao Anh không thay từ trước. Biết đâu nếu không mặc nó, Anh chả được bình an?!

    Hôm ở hậu cứ Long Bình, Anh đã nói với tôi rằng năm nay là năm sui của Anh. Anh nói Anh sẽ cẩn thận, nhưng Anh cẩn thận thế nào, Anh chống chỏi làm sao với một cái lệnh hành quân quái ác "Tử Thủ Charlie" và một định mệnh tàn khốc đã dành sẵn cho Anh.

    Ngày khánh thành câu lạc bộ Đồi Mũ Đỏ (Red Hat Hill) trong doanh trại của Tiểu Đoàn, Anh bê về bức tượng Mẹ Bồng Con của anh Thịnh và anh Huấn ở báo Diều Hâu biếu Anh. Anh nói: "Bức tượng ám ảnh tôi hoài. Tượng đẹp thì có đẹp, nhưng sao lại là nàng chinh phụ bế con và choàng vòng hoa đại trắng."

    Tôi biết Anh không vui từ lúc lãnh nhiệm vụ trấn thủ Charlie. Với bao lần vào sinh ra tử, Anh biết sớm muộn gì cũng gặp tai ương khi phải đóng quân tại một đỉnh đồi quá vài ngày. "Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù" đã san bằng Dambe, đánh tung Ashao, Aluoi.. nhưng cũng không thể đánh bật cả rừng phòng không và hai trung đoàn địch đang vây hãm Charlie. Với một tiểu đoàn Dù, vài trăm binh sĩ. Anh biết và chúng tôi cũng biết, nhưng nào ai có biết cho Anh!

    Lấy bông và cồn lau cho Anh, gói ghém Anh.. rồi thẫn thờ chào Anh lần cuối. Tiếng gọi thân quen "mày, tao" đơn sơ mộc mạc nhưng nồng ấm tình người. Anh thường hay nói với tụi tôi: "Tao Khóa 14, tụi mày Cùi 18, 19, 22.. Tao coi như em út trong nhà nên mày tao với tụi mày cho thân mật." Thường mỗi lần Anh nói như thế, thì Toubib Liệu hỏi ngay:

    - Còn Quân Y thì sao?

    - Thì cũng thế thôi. Năm nào ông chẳng khăn gói lên học quân sự trên Đà Lạt. Thái Phiên, Chi Lăng.., ông đi mòn mấy đôi giầy thì rõ ràng là ông cũng dân Võ Bị...

    Nằm đó đi Anh Năm, Chalie sẽ mãi mãi là tên Anh. Rừng núi Tây Nguyên nơi Anh đến và đi. Tôi sẽ nhớ mãi cả đời Charlie oan nghiệt. * * * * * "Anh Năm,

    Anh mất đi, Mễ lên thay Anh, tôi thay Mễ làm những chuyện Mễ vẫn làm. Trách nhiệm đơn vị đang đè nặng trên vai Mễ.

    "Đã quá trưa, địch vẫn pháo. Căn cứ như bị đào sới. Cây cối đổ gẫy ngổn ngang, lính chết và bị thương càng lúc càng cao. Tử thương gần 30 và bị thương nặng nhẹ trên 100. Charlie vẫn mịt mờ bom đạn. Tôi cũng chẳng biết là bao nhiêu đạn đã nổ trên Charlie và trên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, mà chỉ biết lòng đang đầy rẫy những muộn phiền, căng thẳng. Pháo giăng giăng bao phủ khung trời. Ngày nào cũng ăn pháo từ sáng tới chiều thì chắc ít nhất cũng vài ngàn...

    "Pháo vừa ngưng thì địch tấn công. Từ đồi cao nhìn xuống Charlie, những bộ kaki vàng giắt lá cây, hàng hàng lớp lớp xung phong.

    "Giọng Thịnh chắc nịch vang lên trong máy điều động đại đội chống trả. Pháo binh, Không Quân yểm trợ rất hữu hiệu. Đã mấy lần địch khựng lại, rồi lại tấn công. Mễ điều động mấy tổ đại liên và đại bác 90 của Hùng "móm" kéo xuống lưng đồi tác xạ ngang hông địch. Tôi hướng dẫn và chỉ điểm cho L19 hướng tấn công của địch.

    "Khu trục tác xạ oanh kích mục tiêu, tôi nhìn rất rõ từng chiếc nón bay của bạn bè khi phi cơ chúi xuống trút bom Napalm trên đầu địch. Cả một biển lửa bùng lên quanh Charlie. Lửa hừng hực thiêu đốt rừng người, lửa nhân gian cuồng bạo. Bắc quân la hét lăn lộn trong biển lửa. Lửa từ lưng trời chụp xuống, lửa từ chân núi cháy lên.. chỗ nào cũng lửa và lửa.

    "Phòng không địch tác xạ như đan lưới. Hai khu trục trúng đạn, một nổ cháy như một cây đuốc trên không, chiếc còn lại với làn khói trắng sau đuôi bay chớp choáng về hướng Tân Cảnh. Tôi hét lên trong máy hỏi Xuân L19 và biết Kỳ bị bắn rớt, còn Long bị bắn ngay đuôi, sống chết chưa biết ra sao?

    "Không gian, tổ quốc, bầu trời! Vì nhiệm vụ, vì bạn bè.. đại bàng đã gẫy cánh. Vĩnh biệt Thần Phong can đảm tài ba mà tôi mới gặp mấy tuần trước tại Pleiku.

    "Sau nửa ngày thiêu đốt Charlie, từng thảm TOT hỏa tập pháo binh bắn cận phòng với đầu nổ chụp. Địch bắt đầu tháo chạy. (TOT là lối tác xạ của nhiều pháo đội Pháo Binh từ nhiều hướng khác nhau cùng bắn tập trung rất nhiều quả đạn vào cùng một mục tiêu).

    "Tiếng súng thưa dần, xác địch cháy cứng sườn đồi. Mùi da thịt cháy, mùi thuốc súng, làm tôi lợm giọng muốn ói. Đánh bao nhiêu trận, đụng địch bao nhiêu lần, nhưng thật tình tôi chưa bao giờ thấy địa ngục rực lửa thiêu đốt con người như hôm nay.

    "Anh Năm,

    "Tôi vẫn làm nhiệm vụ hàng ngày để báo cáo với Anh là "tụi nhỏ" đã làm theo lời Anh, đã chiến đấu như bày sư tử dữ, đã đánh đẹp như ngày theo Anh vào Dambe, Thiện Ngôn, Trại Bí... "Song Kiếm Trấn Ải", biệt danh của Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù do Anh đặt đã làm những gì Anh muốn với trên 400 xác địch quân cháy la liệt quanh Charlie và cả trăm vũ khí bỏ lại chiến trường.

    "Hoàng hôn trên Charlie vẫn đẹp, tôi vẫn tựa giao thông hào nhìn những đám mây giăng mắc với hàng ngàn hình thể khác nhau. Mây trời như biển động dậy sóng theo gió đổi hình và theo nắng chiều đổi thay màu sắc, có lúc ánh vàng rực rỡ, có lúc rực đỏ như máu lửa Charlie, lại có lúc như ngàn vạn tinh binh cờ xí rợp trời bao vây thành quách. Sao Hiệp Sĩ vẫn rực sáng trên trời. Chùm sao Thơ Ấu của Anh, chùm sao trong giải ngân hà Anh đã theo đó về quê tìm lại tuổi thơ ấu nơi miền quê đất Bắc. Anh về tận Hà Đông, nơi Anh cất tiếng khóc chào đời, nơi êm đềm chỉ có diều bay theo gió và không có chiến tranh...

    "Tôi chỉ nhắc lại những gì Anh mơ ước trong những chiều cấm trại, bó gối ngồi ở lưng đồi trên hậu cứ Long Bình, lơ đãng nhìn xuống giòng sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc quanh các lò gạch nhả khói dưới chân làng Cao Thái, gần Tân Mai, Tam Hiệp.. và xa xa pho tượng Tiếc Thương để súng ngang đùi như đang thương tiếc những người lính trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.

    "Hùng "mập" và Thinh hỏi tôi sao vắng tiếng Anh. Tôi nói Anh còn đang say ngủ...

    "Số thương vong lên cao, quanh Charlie đầy xác địch. Mễ nói Thinh để lại mấy toán tiền đồn nhỏ, gài tối đa phục kích tự động, rồi rút về tăng cường phòng thủ Bộ Chỉ Huy. Tôi trằn trọc cả đêm, chỉ chợp mắt được vài tiếng đồng hồ thì trời sáng. Tôi nghe Liệu nói với Mễ:

    - "Hôm nay là ngày 13, con số không lành, thế nào chúng cũng pháo và tấn công mình nữa. Tôi lo cho thương binh quá. Nếu không có thuốc và di tản kịp thì chắc sẽ không qua khỏi. Mê Linh đưa tôi cây M16 hay M79 cho được việc. Tôi hết thuốc men rồi...

    "Không Quân và trực thăng võ trang bắn phá để trực thăng tản thương cố gắng vào vùng. Nhưng tất cả đều vô hiệu, một trúng đạn ở phía bắc Yankee, một nổ tung gần Charlie và một chập choạng bay khỏi vùng với làn khói trắng bên hông. Thế là hết! Hy vọng tan theo mây khói.

    "Mễ ra lệnh cho Hùng 113 lục soát kiếm bãi đáp phía bắc Charlie. Hùng báo cáo đụng địch khi kiếm ra bãi đáp. Hình như địch bố trí tại tất cả những trảng trống chung quanh Charlie để ngăn chặn tiếp tế hoặc đổ quân tiếp viện. Thinh dẫn đại đội 111 bung mạnh về hướng đông. Giao tranh dữ dội khi Thinh ra khỏi căn cứ hơn nửa cây số. Trung úy Thinh, đại đội trưởng đại đội 111 hy sinh trong trận đánh tàn khốc đầy máu lửa. Địch bố trí phòng không 12 ly 7 và đại bác trực xạ kèm theo hàng hàng lớp lớp tấn công. Trung sĩ Lung, tay tổ trưởng nổi tiếng tháo vát, lỳ lợm của tiểu đoàn, chưa bao giờ thất bại trước bất kỳ một nhiệm vụ giao phó nào, cũng vừa gục ngã. Chuẩn úy Khánh, sĩ quan tiền sát pháo binh độc nhất không bị thương và đã chiến đấu cực kỳ dũng mãnh để mang xác Thinh và đồng đội về căn cứ.

    "Xế chiều ngày 13, địch tấn công sau khi đã mưa pháo vào căn cứ từ lúc trưa. Hơn tuần lễ nay, hầu như ngày nào cũng vài tiếng đồng hồ ăn pháo. Cây cối đổ gẫy thêm, nằm ngổn ngang. Binh sĩ móc thêm những hàm ếch thật sâu trong các giao thông hào. Chỉ còn đường tơ kẽ tóc để sống còn, nên hệ thống trú ẩn đã được đào sới rất công phu.

    "Bây giờ thì đi không được mà ở cũng không xong. Giao tranh tiếp diễn suốt đêm. Nhờ quen thuộc địa thế, quen từng ngã rẽ đường hầm. Nhiều khúc giao thông hào địch đã xâm nhập, nhưng cuối cùng cũng bị tiêu diệt vì chúng không quen hệ thống địa đạo của ta. Hỏa châu vẫn bập bùng soi sáng núi đồi...

    "Trời sáng dần, ta và địch vẫn quần thảo đẫm máu, bám sát lấy nhau. Đã có lúc tôi, Mễ, Duffy và Toubib Liệu chiến đấu như những khinh binh khi địch đánh vào tới sát vị trí chỉ huy.

    "Đại đội 113 bị cầm chân nên không thể về tăng cường cho căn cứ. Tôi đề nghị với Mễ cứ để 113 ở ngoài làm trừ bị cuối cùng và tôi cũng đề nghị bỏ Charlie vì thương vong quá cao, đạn dược còn rất ít. Mễ nhìn hàng loạt poncho bó xác Anh Năm, các sĩ quan, binh sĩ tử thương và các thương binh rên xiết nằm chật giao thông hào.

    "Có cái đớn đau, dằn vặt nào hơn khi thế cùng lực kiệt, không tiếp tế, không tản thương, không lương thực thuốc men.. mà vẫn phải đương đầu với hàng hàng lớp địch quân, để rồi lần lượt gục ngã vì kiệt sức!

    "Mễ, tôi, Duffy lấy quyết địch cuối cùng: Bỏ Charlie vào lúc xế chiều, sau khi Duffy xin được mấy phi vụ B52 thả xuống phía nam và phía đông căn cứ để tiểu đoàn di tản. Đợt bom lửa cuối cùng thả ngay trên tuyến phòng thủ đại đội 114 của Trung úy Cho đã đánh bật địch quân ra khỏi tuyến phòng thủ. Chiến trường tạm lắng dịu, chỉ còn tiếng pháo binh tác xạ yểm trợ vào những điểm nghi ngờ địch quân tập trung dưới chân đồi. Chúng tôi biết chắc địch đang điều động mở một đợt tấn công khác.

    "Tôi thẫn thờ buồn bã châm điếu thuốc cho chú đệ tử bị thương. Thầy trò chia ngọt sẻ bùi với nhau từng miếng ăn, giấc ngủ trong mấy năm liền. Qua ánh mắt như chờ đợi, như ước mong khi tôi dìu chú về chỗ của tôi. Vết thương ở vai khá nặng, máu ra nhiều. Tôi nhắc chú cố gắng đi sát tôi, tới đâu hay tới đó. Chú mỉm cười bóp chặt tay tôi. Giọt nước mắt nóng rớt trên mu bàn tay...

    "Chiều nay di tản. Thương binh nhẹ thì đi theo, còn thương binh nặng thì sao?! Không còn một phép nhiệm mầu nào đến với chúng tôi. Tôi báo cho Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù biết rằng chúng tôi sẽ phải di tản hai phần ba quân số thương vong, lương thực, thuốc men đã hết từ hai hôm trước.

    "Vĩnh biệt Anh Năm và các chiến hữu! Thôi thì biết làm sao, đời lính chiến nay ở mai đi! "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".. Có mấy ai đi mà trở về trong buổi loạn ly?!

    "Tôi và Hùng "móm" lấy hướng 800 dẫn đầu đoàn quân ào ra khỏi Charlie khi ánh nắng chiều cuối cùng vừa khuất sau dẫy núi phía tây, trong khi pháo binh bắn ngăn chặn phía sau và bên hông để ngăn địch truy kích. Nhờ mấy phi vụ đánh bom hồi chiều và ba toán tiền đồn nằm sẵn từ buổi trưa, đoàn quân ào đi không gặp kháng cự.

    "Xuống khỏi chân đồi chừng 400 thước thì B52 rải từng thảm bom ở phía nam, đông nam căn cứ. Chúng tôi cố tránh thả bom ngay đỉnh đồi, vì nghĩ rằng biết đâu những thương binh nặng còn chưa theo kịp và thân xác Anh Năm cùng bao đồng đội tử thương còn nằm tại đó. Bom rít qua đầu. Cơn địa chấn bom và sức ép làm cả đơn vị lăn lộn bên sườn núi. Tất cả đều kiệt lực. Mễ nằm gục vì vết thương hôm qua. Mồm tôi ứa máu vì quá mệt mỏi và kiệt sức. Duffy cũng chẳng hơn gì, còn Toubib Liệu gục xuống bên gốc cây bất động.

    - Hải! Coi hướng cho đúng và hỏi coi thằng 3 tới đâu rồi?

    Với bản năng sinh tồn, chúng tôi lại vùng lên lao về điểm hẹn. Đêm tối đen, lính nắm vai áo nhau mà đi, kẻ mạnh dìu kéo thương binh, tựa lưng vào cây rừng để lấy thêm sức tiến qua cây khác. Kim địa bàn lân tinh giao động, hướng 800, hướng của sự sống và hy vọng. Hỏa châu vẫn bập bùng trong đêm tối.

    "- Khều! Ông nghĩ mình thoát không? Nó mà phục kích là kể như chết chắc!

    "- Còn chừng một cây số nữa thì tới nơi. Tao đã liên lạc được với Hùng "mập" rồi, hắn sắp tới. Đừng nói nhảm, cái miệng lép xép, sui bỏ mẹ!

    "Điểm hẹn Mễ và tôi chọn là một khoảng trống ngay cạnh bờ sông Pôkô để đơn vị lấy nước và di tản thương binh. Trảng trống trong khu rừng lau là điểm hy vọng, điểm mong đợi cuối cùng của những người lính Dù sau 7 ngày đêm quần thảo với 2 trung đoàn địch, kèm theo những trận mưa pháo đẫm máu trên hỏa ngục Charlie.

    "Trời sáng dần, bắt tay được với đại đội 113, Hùng "mập" đang rải quân sát bìa rừng và tung các toán tiền đồn ra xa.

    "Như một gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi và Mễ, vì Lữ Đoàn cho biết chưa có trực thăng và ra lệnh cố gắng chiến đấu để về Tân Cảnh.

    "Chiến đấu?! Chiến đấu trong thế cùng lực kiệt với quân số 167 người, kể cả thương binh đang kiệt sức vì đói khát đã 3 ngày. Nhưng Nhẩy Dù là "cố gắng" nên chúng tôi lại vùng lên. Tôi không buồn trả lời và đưa mắt nhìn Duffy, viên Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt đã sống với tụi tôi như anh em, chia nhau từng bát cơm hộp cá. Vết thương rỉ máu trên đầu, trên ngực, nhưng Duffy vẫn cứng như một thỏi thép với cây XM18 và chiếc máy truyền tin đặc biệt của các toán Lực Lượng Đặc Biệt khi nhẩy xâm nhập.

    "Chúng tôi sẽ có máy bay Mỹ trong vài phút!

    "Ngả lưng nhìn trời xanh qua khe lá, chưa hút tàn điếu thuốc thì có tiếng súng nổ của các toán tiền đồn của đại đội 113. Hùng "mập" báo cáo tất cả đều chạm địch. Pháo 82, B40, B41 và AK nổ vang một góc rừng. Địch ào tới tấn công. Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù vùng lên chống trả, lính đại đội 113 ào ra ngăn địch. Giọng Hùng sang sảng điều động các trung đội. Đúng là kẻ đến không mong, giặc Bắc phương ào vào vị trí đóng quân. Chúng tôi vừa bắn vừa rút vào khu rừng lau cao quá đầu người...

    "Đơn vị tan thành từng mảnh nhỏ, từng toán chiến đấu đơn độc. Tiếng chửi thề và tiếng la hét của ta, của địch vang khắp khu rừng lau và các sườn đồi kế cận, chỗ nào cũng có súng nổ. Địch gọi tên Mễ, tên tôi ra đầu hàng! Chắc chúng tra khảo thương binh để lấy tin tức. Ngay lúc đó, Duffy vừa liên lạc được với 2 chiếc trực thăng võ trang Cobra, một chở quân và một O2 quan sát. Nhờ địa thế trống trải của khu rừng lau nên Cobra thấy rất rõ đâu là địch, đâu là bạn. Toán còn 36 người nên di tản làm 5 đợt vì chỉ có một trực thăng chở quân.

    "Với hỏa lực khủng khiếp và chính xác của Cobra, địch khựng lại, trực thăng đáp xuống rừng lau:

    - Liệu, ông đi trước đi! Chân ông bị thương ông không chạy nổi đâu!


    "- Tôi không đi, tôi ở lại với các ông.


    "- Đi đi, chân cẳng như thế mà ở lại. Ông nặng bỏ mẹ, tôi cõng ông không nổi đâu.


    "Vừa nói, tôi vừa lùa Liệu lên trực thăng với 6 người lính khác. Máy bay vút đi. Trong ánh mắt Liệu có một chút gì vương vấn xót xa.

    "Địch lại ào về phía chúng tôi. Cả toán vừa chạy vừa bắn lại. Nhờ hỏa lực yểm trợ của Cobra, thêm được 3 đợt bốc quân an toàn. Toán còn lại Mễ, Duffy, tôi và Trung úy Long bị địch đuổi bắt tới cùng.

    "Trong mấy chuyến trực thăng di tản vừa qua, phi công Mỹ muốn Duffy được bốc đầu tiên, nhưng Duffy nhìn tôi và nói:

    "- Tôi không bỏ các anh, những chiến hữu đúng nghĩa nhất mà tôi chưa hề gặp trong cả đời chinh chiến. Tôi biết rõ, nếu tôi đi đợt đầu thì chắc khó hy vọng có máy bay trở lại bốc nốt các anh.

    "Ngay lúc đó, cặp Cobra, trực thăng võ trang mới vào vùng, chúng tôi sẵn sàng chờ đợi di tản đợt cuối cùng.

    "Trực thăng vừa đáp, tôi lên sau cùng. Máy bay vừa lên cao vài thước thì một loạt AK bắn lên tàu, tôi trúng đạn ở chân phải và rớt từ trực thăng xuống đất. Tôi hét lên và chỉ kịp nhìn đuôi trực thăng vút lên.. Trời xanh mây trắng ngang tầm mắt. Tôi đứng lên, nhưng gục xuống ngay vì đạn bắn trúng bàn chân và ống chân bên phái. Tôi tự nghĩ chắc sẽ chết vì vết thương ra hết máu, vì đói, vì khát, vì kiệt sức cho dù địch không bắt được tôi. Khẩu súng Colt và cây M16 còn đầy đạn. Tôi chợt nghĩ đến hồi tháng 6 năm 65, một lần Đồng Xoài tan nát, tôi đã mất Dũng, thằng bạn thân cùng khóa. Tôi đã thấy Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Phó và mấy trăm chiến hữu gục ngã trong trận đánh kinh hãi hồi tôi mới ra trường Võ Bị. Lần đó, với vết thương bể mặt nát tay, tôi vẫn về được sau 5 ngày lê lết, đói khát trong rừng với vết thương đã làm độc.

    "Giờ là tháng 4 năm 72, Charlie rực lửa, tôi đã mất Anh Năm và bao nhiêu chiến hữu còn nằm lại Charlie. Tôi ước tính từ đây về Tân Cảnh chỉ còn 5 cây số, nhưng là 5 cây số đồi cao vực thẳm, 5 cây số đường rừng và tôi lại đang bị thương ở chân thì làm sao tôi đi được. Tôi có thể sẽ gục chết ở một xó rừng, khe suối và bày kiến sẽ kéo nhau rúc vào thân thể, thịt xương sẽ rữa nát hình hài. Hình ảnh thân yêu vợ con, cha mẹ chập chờn trong trí óc. Thằng bé mới sinh chỉ gặp mặt đôi lần.. Còn phép lạ nào sẽ đến với tôi?! Sau 7 ngày chiến đấu quên ăn quên ngủ, sao giờ này tôi lại trúng đạn từ trực thăng rớt xuống. Chỉ chậm một giây nữa là tôi sẽ bay về vùng trời êm ấm...

    "Tiếng trực thăng trên đầu làm tôi vụt đứng lên bằng bàn chân trái. Tôi giơ cao tay, miệng hét lớn. Tôi không thể tin, mồm tôi há to, mắt mở lớn. Trực thăng xà xuống bãi cỏ. Duffy giơ hai tay nắm chặt giây đạn và một tay tôi, rồi kéo mạnh tôi lên. Máy bay vút lên với một loạt đạn bắn trúng thân tàu. Chiếc trực thăng nghiêng một bên rồi bay thẳng, máu phun có vòi từ anh xạ thủ đại liên người Mỹ làm ướt mặt tôi và Duffy. Mễ kéo tôi vào giữa thân tàu khi nửa người tôi và hai chân còn đong đưa ngoài không khí. Duffy chồm tới bịt chặt vết thương trên ngực anh xạ thủ đại liên.

    "Nằm trên sàn tàu, tôi không thể tưởng và không thể tin tôi còn sống trước tình chiến hữu cao cả của hai người lính ở hai đất nước khác nhau. Duffy ôm lấy tôi.. Có một chút nghẹn ngào trong khoé mắt. Vì vết thương quá nặng, anh xạ thủ đại liên Mỹ đã qua đời, anh phi công phụ đang gục đầu bên cửa máy bay với vết thương ở tay.

    "Khi về đến trạm cứu thương, tôi mới biết anh xạ thủ đại liên Mỹ đã hết nhiệm kỳ, ngày mai anh sẽ về Mỹ, anh đang có mặt trên trực thăng thì vô tình chiếc máy bay nhận được lệnh vào bốc tụi tôi. Định mệnh thật trớ trêu!
    ***


    "Tảng sáng hôm sau 15 tháng 4, Thành "râu", bạn cùng khóa 19 của tôi, từ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn vần vũ trên trực thăng bay ngang Charlie, ngó cảnh hoang tàn đổ nát đang âm ỷ cháy để chào Anh Năm lần cuối và tìm cách bốc các binh sĩ lạc lõng sau trận đánh hãi hùng ngày hôm trước.

    "Anh Năm,

    "Đó là tất cả những gì đã đến với đơn vị, sau khi Anh ra đi. Mặc dù Anh ở lại Charlie, nhưng Anh không cô độc, anh có "tụi nhỏ" ở lại cùng Anh. Anh sẽ ngắm hoàng hôn để nhớ thời trai trẻ, Anh sẽ gặp lại hình ảnh một "công tử càn" của Hà Nội năm xưa hay một thanh niên mới vào đời trong Trại Học Sinh Nghèo Phú Thọ, bỏ Bắc vào Nam năm 1954 khi đất nước chia đôi. Chiếc đai đen nhu đạo và những kỷ niệm "giang hồ" Anh hay kể cho tụi tôi nghe vẫn mãi mãi là những gì đẹp nhất khi bạn bè ngồi nhắc tới anh.

    "Anh Năm thân kính,

    "Đúng như Anh đã tiên liệu khi đặt chân lên Charlie, nỗi lo âu, sự tiên đoán của Anh đã thực xảy ra cho Bộ Chỉ Huy Nhẩy Dù và các đơn vị bạn.

    "Charlie mất ngày 14 tháng 4 thì Delta, Metro ở phía nam cũng phải di tản. Vòng đai Nhẩy Dù bỏ trống bên hông, Sư Đoàn 320 Cộng quân tăng thêm Sư Đoàn 2 ào ào như nước vỡ bờ đánh chiếm Tân Cảnh, khởi đầu cho những ngày Hè rực lửa trên quê hương.

    "Sông Lô, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù phải mở huyết lộ đánh qua đỉnh Chu-Pao, kéo toàn Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù về Kontum.

    "Ngày 24 tháng 4 năm 72, Tân Cảnh rơi vào tay giặc, đúng 12 ngày sau khi Anh đi khuất. Giòng sông Dapla quanh thị trấn Kontum đỏ ngầu, xác ta và địch hòa với màu đỏ của những hàng phượng vĩ buồn thảm gục ngã hai bên bờ sông. Kontum, Pleiku đang chiến đấu một mất một còn với giặc. Mùa hè thảm khốc đang ập đổ trên quê hương, mở đầu cho thiên Chiến Sử oai hùng của Quảng Trị, Kontum và Bình Long anh dũng.

    "Anh Năm,

    "Sau ngày tôi bị thương, tôi được đưa về bệnh viện Đổ Vinh trong căn cứ Hoàng Hoa Thám. Loạt đạn AK bắn bể xương bàn chân và mắt cá chân bên phải. Mổ xẻ xong xuôi, mấy anh Toubib cho biết tôi không còn hy vọng quay lại đơn vị tác chiến và nhẩy dù được nữa, vì xương bàn chân và mắt cá đã gẫy vụn làm nhiều mảnh. Tôi lê bàn chân bó bột về nhà chờ 29 ngày tái khám và bắt đầu làm quen với đôi nạng gỗ trên vai.

    "Anh Năm,

    "Đã năm lần bảy lượt tôi vào cư xá sĩ quan Chí Hòa muốn thăm Chị và cháu Tường, nhưng lần nào cũng vậy, khi đỗ xe gần cửa nhà Anh, nhìn vành khăn tang trên đầu chị và cháu thì tôi lại không có can đảm và đổi ý ra về. Tôi sợ sự thật, tôi sợ khi phải đối diện với chị. Tôi biết ăn nói làm sao, giải thích thế nào về sự ra đi của Anh. Còn cái cảnh khổ và chua xót đớn đau nào hơn khi hình Anh trên bàn thờ nghi ngút khói hương, nhưng thân Anh lại không có được một nấm mồ? Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận, sống mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ, nhưng chúng tôi đã bất lực, đã bỏ Anh mà đi, bỏ Anh ở lại Charlie nơi rừng xanh núi đỏ xa hút mãi tận Trường Sơn.

    "Anh Năm,

    "Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?

    "Tôi lang thang ra phố, người ta vẽ chân dung nhiều sĩ quan tử trận trên khắp 4 Quân Khu thuộc đủ mọi binh chủng, trên những khung vải thật lớn dựng trên công viên hay những giao lộ tấp nập người qua lại, với hàng chữ "Anh Hùng" và hai chữ "Tiếc Thương". Người họa sĩ có nét bút xuất thần vẽ thật giống Anh với đôi hàng chữ: "Tiếc Thương Cố Đại Tá Nhẩy Dù Nguyễn Đình Bảo, Người Anh Hùng Đã Ở Lại Charlie" trên khung hình treo trước công viên Quốc Hội.

    Tôi ngừng xe, nhìn Anh thật lâu giữa giòng người xa lạ trên hè phố, nhưng đầu óc thì chỉ thấy khỏi lửa ngập trời bên tiếng hò reo ở trận chiến Charlie.

    Tôi về lại vườn Tao Đàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.

    Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:

    "- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? "Tôi lên xe theo xa lộ Biên Hòa để về hậu cứ tiểu đoàn. Doanh trại Đồi Mũ Đỏ hoang vắng buồn tẻ khi các đơn vị đang bận hành quân. Qua khu trại gia binh, khăn sô trải trắng trên đầu góa phụ, bầy em bé thơ ngây đang nô đùa hồn nhiên trước sân trường.

    Vượt con dốc, chạy một vòng quanh doanh trại, sông Đồng Nai vẫn mênh mông uốn khúc quanh các lò gạch nhả khói dưới chân đồi, rừng cây khuynh diệp bên kia vẫn thoang thoảng mùi dầu gió trên không. Giàn hoa dưa tím trước phòng Anh và tôi thoảng mùi thơm đong đưa trước gió. Cảnh cũ còn đây, nhưng người xưa sẽ chẳng trở về.

    Tôi chợt nghe tiếng kèn hạ cờ buổi chiều trên đỉnh đồi doanh trại. Tôi lại nghĩ tới Anh. Lúc nằm xuống không một tiếng kèn đưa tiễn và thiếu cả một lá cờ phủ lấy xác thân. Tôi dục chú tài xế lái xe xuống đồi thật nhanh, tôi đang chạy trốn Anh, chạy trốn đồng đội và thằng bé đệ tử của tôi. Tất cả hình như đang nói nói cười cười đâu đây trong doanh trại..

    "Anh Năm,

    "Anh đã ra đi hơn một phần tư thế kỷ, 26 năm biết bao vật đổi sao rời. Để tôi làm lại nhiệm vụ ngày xưa kể lại anh nghe...

    "Mễ, Liệu và tôi, những người gần gũi Anh nhất trong trận chiến Charlie đã không còn ở quê nhà và chúng tôi đã nhấp nhô theo vận nước nổi trôi. Đàn em của Anh đã bỏ quê hương đi về "quê hương mới?!" Mặc dù Anh đã đi thật lâu, con trai của Anh đã là một y sỹ, chiến hữu của Anh kẻ ở người đi, nhưng những người còn lại vẫn nhớ Anh, họ vẫn nhắc đến tên Anh qua bài hát mà Nhật Trường viết tặng riêng Anh, viết cho "Người Ở Lại Charlie."

    "Mấy chục năm sau, vượt đại dương muôn trùng sông nước, theo gió bay ngang dọc địa cầu, dù ở nơi đâu, chân trời góc biển, nơi đâu có người Việt thì nơi đó họ hát bài ca bất hủ để nhớ Anh. Ngay cả ở quê nhà, kẻ thù của Anh cũng vẫn nghe dân chúng hát bài ca để nhắc đến tên Anh.

    "Chắc Anh chưa quên ông "Sĩ Quan Võ Bị Quân Y" Tô Phạm Liệu, ông Toubib Nhẩy Dù ngực đỏ huy chương, người uống VSOP (Very Sexy Old Parachutist) như hũ chìm. Khi hành quân thì một bên ống chích, một bên M16, cũng ăn pháo, cũng la hét, cũng bắn hết băng M16 này đến băng M16 khác khi đánh ở Charlie, Dambe, Hạ Lào, Ashao, Aluoi...

    "Tháng 4 năm 75. Cũng lại tháng 4, tháng mà Anh đã đi khuất, Liệu di tản qua Mỹ, thi lại bằng y sĩ và hành nghề tại tiểu bang Lousiana trong một bệnh viện tâm thần. Liệu vẫn như xưa, vẫn vui vẻ, ồn ào. Ông đội trưởng "Đội Hổ Sói Con" vẫn gặp tôi, Duffy và Mễ vài tháng một lần, nhưng Liệu có cái tên mới, để tôi đọc Anh nghe, chắc Anh lại búng tay, đá sỏi mà cười: "Đệ Nhất Ẩm Sĩ, Cuồng Thái Y Tô Phạm Liệu".

    Làm gì có ai trên đời có cái tên lạ lùng và hay như vậy. "Đệ Nhất Ẩm Sĩ", người uống rượu số 1 thì Anh đã biết rồi, còn "Cuồng Thái Y" là anh Toubib làm việc ở nhà thương chữa cho mấy người điên.

    "Liệu vẫn "ra đi không mang ba-lô, quần áo cứ thế đút túi" mà giang hồ với anh em. "Bến Cũ" nào cũng nồng ấm khi Liệu ghé ngang. Nếu ngày xưa chinh chiến có cướp mất Anh, thì ngày nay, bệnh hoạn đâu có tha Tô Phạm Liệu. Mặc dù là "Quan Thái Y" nhưng Liệu cũng không tránh khỏi bệnh nan y. "Ẩm Sĩ" họ Tô đã bỏ "Bến Cũ" mà đi. A Lịch Sơn thành (Alexandria) là nơi Liệu làm việc và lặng lẽ ra đi sau cả năm bạo bệnh cuối đời...

    "Mê Linh, Phương Hải, Sông Lô, từ Bắc Cali "đội pháo" mà đi. "Bến Cũ" Nam Cali, Dallas, Houston, New Orleans "hành quân" kéo tới. Đám gà nhà Tịnh Hô, Đà Lạc, Phán, Trác từ New York, DC kéo sang. "Nam Xương", người kể chuyện Anh trong thiên bút ký Mùa Hè Đỏ Lửa đọc bài điếu văn, có nhắc đến Anh, nhắc đến Charlie.. cỏ cây hoa lá còn rung động, nói chi đến đám bạn bè đỏ mắt đứng quanh.

    Ở đâu "Bến Cũ" cũng về để dự đám táng, đến để nhìn Liệu ra đi, đến để mỗi người một ly nhỏ VSOP với "Ẩm Sĩ" họ Tô. Ngày xưa thì bạn bạn bè bè. Bây giờ thì tro tàn thiêu xác!

    Gần một phần tư thế kỷ sau, Liệu ra đi ở một nơi cách Charlie nửa trái địa cầu.

    "Anh Năm và Toubib Liệu thân kính,

    "Viết để nhớ Anh, để kể sự thật về Charlie và cũng để báo cáo với Anh là Liệu đã trở lại Charlie với Anh, với tụi nhỏ trong ngày giỗ tròn một năm của Liệu. Đáng lẽ tôi muốn báo cáo với Anh từ lâu, nhưng mỗi lần cầm bút lên thì lại không biết viết gì. Không biết viết làm sao, toàn là chuyện kẻ ở người đi làm lòng chùng xuống, viết hoài không nổi.

    "Hôm tháng rồi đi xem một phim chiến tranh. Phim chiếu cảnh một ông già mang gia đình qua bãi biển Normandie bên Pháp. Ông cụ đi một mình vào nghĩa trang, bóng người chập chững trong nghĩa địa toàn thập tự giá trắng tinh. Từ ngàn dậm xa xôi ông mang bó hoa đến thăm cấp chỉ huy, thăm những chiến hữu cùng chung đại đội với ông đã nằm xuống khi cùng ông cụ đánh chiếm một khu phố. Bao nhiêu bạn bè hy sinh, chỉ còn một mình ông cụ sống sót. Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, một mình đứng nhìn bãi biển đổ quân, tiếng binh đao khói lửa, hình ảnh bạn bè gục ngã, cụ chập choạng với nước mắt lưng tròng. Đi vào nghĩa trang, gục đầu bên mộ để nhớ bạn và hình ảnh chiến trận năm xưa. Gia đình, vợ con rời xa nghĩa trang để cụ một mình sống lại với những huy chương dĩ vãng.

    "Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, tôi không thể đi thăm Anh, đồng đội và thằng bé đệ tử thân tín của tôi đã ở lại Charlie. Không phải vì Anh ở quá xa, nhưng vì 23 năm qua tôi chưa có ý định trở về. Nơi nào người ta cũng kèn hoa cho người đi khuất, vinh danh tưởng nhớ những chiến sĩ vị quốc vong thân, chỉ riêng nơi quê cũ, từ khi đất nước đổi thay, đâu có ai còn nhắc đến Ngày Chiến Sĩ Trận Vong!?

    "Xin thắp nén hương lòng để tưởng nhớ Anh và tất cả bạn bè đã hy sinh cho tổ quốc.

    "Tôi tự nhủ lòng, một ngày nào đó, nếu có dịp, tôi sẽ về, sẽ dến Charlie, sẽ đến những chiến trường xưa cũ, để nhớ bạn bè, để thắp một nén nhang thăm Anh và đồng đội. Nhưng, chả biết bao giờ thì làm được, mặc dù bây giờ tóc đã điểm sương!

    "Xin tạ lỗi cùng Anh và Chiến Hữu.

    "Toubib Liệu, gọi tên ông một lần nữa: "Đệ Nhất Ẩm Sĩ, Cuồng Thái Y Tô Phạm Liệu" để nhớ Giỗ đầu của ông và gửi về ông hai chữ "Hồ Trường": ...... "Hồ trường, Hồ trường.. nay biết rót về đâu..."

    Bắc California, mùa đông 1998

    Đoàn Phương Hải
    (Trích tác phẩm "Góc Biển Chân Trời")
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

 

 

Similar Threads

  1. Truyện Thật Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 3
    Last Post: 06-23-2015, 06:14 PM
  2. Audio Truyện Ngắn
    By V.I.Lãng in forum Truyện
    Replies: 11
    Last Post: 08-07-2013, 05:05 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 04-26-2013, 02:03 AM
  4. Hẹn Hò - Truyện Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 5
    Last Post: 02-09-2013, 06:04 PM
  5. Truyện Thật Ngắn
    By cao nguyên in forum Truyện
    Replies: 92
    Last Post: 01-28-2012, 07:00 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:45 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh