Register
Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 44
  1. #21

    __ Hôm nay, VHN xin phép được đăng lại câu chuyện ngắn dưới đây của tác giả Tuấn Kiệt - anh cũng là một hội viên của gia đình Đặc Trưng chúng ta.


    Truyện ngắn có cái tên "Củ Khoai Mì" (là lạ) này VHN đã đọc qua cách đây khá lâu rồi, và người tác giả tuy không phải là một văn sĩ nhưng cách diễn đạt bằng nội tâm/bằng những từ ngữ chân thật của anh có một sức lôi cuốn kỳ lạ khiến VHN đã phải "đi" theo anh từ đầu đến cuối câu chuyện. Trong "Củ Khoai Mì," VHN tìm được những nụ cười & giọt lệ. VHN đã cùng anh đi qua những chặn đường đau khổ của người dân Miền Nam; đã cảm nhận được nỗi xót xa, hụt hẫng và một tương lai vô vọng của những cựu quân nhân QLVNCH sau ngày ra tù; đã nếm được những đắng cay, nghiệt ngã mà người dân Miền Nam phải gánh chịu trong những năm tháng sau ngày "thống nhất đất nước" - một mỹ từ gian xảo mà bọn CSBV đã sử dụng để xâm chiếm Miền Nam.

    Xin mời ACE cùng thưởng thức.



    ____CỦ KHOAI MÌ___
    (Tác giả: Tuấn Kiệt)


    Thạch và tôi gặp lại nhau ở một quán cà phê vệ đường năm 1979.

    Sài Gòn năm đó te tua tan nát. Hoa lá tả tơi như chuyện gia đình của thằng Thạch cũng theo hoa lá mà ... tơi tả. Người vợ hiền lành thuở nào đã dẫn đứa con gái nhỏ đi đâu mất tiêu trong thời gian thằng Thạch còn trong tù cải tạo.

    - Ê, Kiến! Tuần tới tao phải về lại vùng kinh tế mới. Hết phép rồi.

    Nhìn nhau.

    Hai đứa quen nhau trong tù cải tạo. Nó, Không Quân. Tôi, Bộ Binh. Nó lớn hơn 3 tuổi nhưng cứ mầy tao thét rồi quen luôn.

    - Hết phép? Mà phép gì? Mầy không có cách nào ở lại Sài Gòn được à?
    - Tao khai với bà chủ tịch xã là tao bị... điên.

    Tôi bật cười:
    - Mầy bị điên?
    - Ừ!
    - Mà bả tin hông?
    - Tin chứ mậy! Bả cho tao giấy giới thiệu về bệnh viện thần kinh ở Biên Hoà. Tao gặp ông bác sĩ phe mình làm ở trỏng, ông Lân. Ổng ký giấy cho tao về tịnh dưỡng tại gia 3 tháng. Tao đưa giấy đó cho bà Năm chủ tịch xã thì bả ký cái nầy cho tao.

    Tờ giấy vàng khè vẽ bùa lẳng tẳng có hàng chữ Xã Hội Chủ Nghĩa gì gì đó với khều khào một chữ ký mà thằng Thạch bạn tôi, một sĩ quan Không Quân từng vần vũ trên trời rộng đang mơ ước được gia hạn thêm 3 tháng nữa. Cái mơ ước được tự do cư trú và làm việc bỗng dưng quá xa vời.

    - "Thì mầy cũng cứ vậy mà làm tiếp". Tôi nói.
    - "Coi bộ lần nầy hổng được mầy ơi! Kỳ rồi bả nghi tao nói láo". Thạch lo lắng do dự.

    Bỗng nhiên tôi nổi hứng:
    - Hay mầy muốn tao dẫn đi?
    - Ừ! Có lý! Mầy đóng vai người nhà dẫn tao lên xin gia hạn thêm.

    Tôi kỳ kèo:
    - Mà tao phải làm anh bà con mầy tao mới chịu.
    - Mầy muốn làm ba tao cũng được!

    Tình trạng tôi lúc đó khá ổn. Từ tù cải tạo ra, tôi đến trình diện thằng công an xã ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài, nó mới 18 tuổi, tôi thì 27. Tôi gọi nó bằng anh ngọt lịm, cộng thêm mấy gói thuốc lá Vàm Cỏ hút cho lủng phổi và bịch cà phê. Nó ký cho tôi một cái giấy tay, ịn con dấu cái cạch cho về Sài Gòn một tháng trị bệnh.

    Mà hên nữa là tôi gặp lại anh Đức, Đại Uý Quân Y ngày xưa, chẳng biết vì may mắn hay có móc ngoéo ngón tay gì hay không mà anh được lưu dụng làm việc ở bệnh viện Bình Dân Sài Gòn không phải đi tù cải tạo.

    Ảnh đưa cho tôi mấy cuộn băng bột:
    - Em cứ kiếm phần nào trong cơ thể rồi bó cục bột vào thì đỡ phải ngại đứa nào hỏi giấy tờ.

    Tôi suy nghĩ lung lắm. Phải kiếm phần nào cho người ta dễ thấy mà không làm trở ngại công việc làm ăn đi đứng vì cuộn băng sẽ đóng cứng lại sau khi mình thấm nước.

    Ở cổ ư? Thất bại! Làm sao mình cua đào được? Lúc đó tôi vẫn còn độc thân và cho dù xã hội tối thui như nhiều đêm bị cúp điện, nhưng tuổi trẻ vẫn luôn còn lạc quan và tình yêu trai gái vẫn còn nẩy nở, tuy chậm hơn một chút, tuy do dự hơn một khoảnh thời gian nhưng tình yêu vẫn nồng nàn thân ái.

    Vả lại, nếu cuộn cục bột ở ngay cần cổ thì tối làm sao ngủ?

    Tôi bèn chơi ngay khúc dưới đầu gối tới bàn chân, xé đường chỉ ống quần để thiên hạ dễ thấy cuộn băng bột và tôi chống thêm cây gậy.

    Thiệt là hay! Suốt cả một thời gian dài, không công an nào thèm hỏi đến giấy tờ.

    Sáng hôm sau, thằng Thạch bán chiếc nhẫn cưới bằng vàng 24 để làm lộ phí lên đường. Tôi có nói với má tôi, rằng sẵn dịp đi Long Khánh chuyến nầy nếu gặp được kháng chiến Phục Quốc thì con sẽ theo luôn. Má tôi, hai con mắt long lanh: "Ừ! Nếu con coi được thì về dẫn cả nhà đi luôn. Tao nấu cơm cho kháng chiến cũng được mà!"

    Trên đường cuốc bộ tới bến xe đò An Đông, tôi nói với thằng Thạch:
    - Bây giờ mầy phải giả bộ khùng từ lúc nầy.
    Nó dẫy nẫy:
    - Quê mậy! Con gái tùm lum! Làm quê mậy...
    - Mầy phải đóng kịch từ lúc nầy để quen đi, đến lúc gặp bà Năm thì mới không "bể địa" chứ.

    Nó làm thinh. Được trớn, tôi kéo một phần áo của nó đang bỏ vô quần thành nửa trong nửa ngoài. Thằng cũng còn diện gớm, tóc chảy tém bốn sáu, quần áo sạch sẽ mắc tiền. Hình như hắn đã chấp nhận chuyện vợ phải dẫn đứa con đi kiếm con đường sống khác, cũng như đa số những tù cải tạo khi viết thư hay nhắn về nhà, đều cùng một lời: "Nếu em tìm được con đường nào cho em và các con thì xin cứ mạnh dạn bước đi, đừng chờ đợi anh về. Anh sẽ hiểu, và anh không oán trách gì đâu. Ngày về của anh là ngày lèo, chúng cứ bảo là học tập tốt thì về nhưng chúng chẳng hề định nghĩa chữ Tốt là gì, chữ tốt trở thành chữ Hề diễu cợt."

    Tôi lấy tay xoa xoa lên tóc thằng Thạch. Nó né:
    - Ê! Làm cái gì vậy mậy?
    - Chắc một lát tao lấy sình trét lên áo mầy quá! Ăn mặc diện như vầy đâu giống khùng? Giống như mầy đi hỏi vợ thì đúng hơn.

    Nó cười cười khoái chí:
    - Bộ đồ kẻng của tao đó!
    - Ừ! Chút xíu nữa cho mầy hết kẻng luôn em trai à!

    Bến xe An Đông ồn ào hỗn độn, người ta mua bán tứ tung. Ai cũng buôn hàng lậu vì nghề nào cũng bị cấm. Ngay cả bà già tay xách chiếc giỏ nhỏ, trong có chục ổ bánh mì dồn thịt sẵn, thầm thì: "Ai ăn bánh mì thịt hông?" hay cô gái lấm lét: "Ai uống nước đá hột é hông?"

    Người ta mua bán mà con mắt bên phải thì nhìn khách hàng còn mắt bên trái thì canh chừng tụi công an, mà dân chúng đã thân ái đặt tên là bò vàng. Tất cả những nghề làm ăn lương thiện bỗng chốc biến thành bất lương lén lút.

    Hàng loạt loa phóng thanh đặt ở mỗi thôn xóm ca ngợi người tốt việc tốt khiến cho những con người "xấu" giương đôi mắt thâm quầng nhìn những con người "tốt" vàng võ èo uột. Xấu và tốt không còn có thể phân biệt được dưới chế độ lạ kỳ nầy nữa rồi! Nhớ hồi khi xưa, người ta dặn nhau "Lành cho sạch, rách cho thơm." Bây giờ thì thúi hoắc cả đám. Ai cũng bon chen ngất ngưởng chạy đi tìm miếng ăn từng giờ từng phút.

    Hải ngoại lúc đó hãy còn èo uột chưa vững, chưa biết cách gởi tiền về tiếp tế người thương. Hải ngoại ngày đêm quặn tim đau đớn, thân nhân còn lại oằn người gánh chịu nỗi trần ai.

    - Á! Bò vàng bà con ơi! Chạy chạy...

    Thôi thì ai cũng rần rần bỏ chạy. Tôi với thằng Thạch cũng cấm đầu chạy. Chạy cho chắc ăn.
    Lỡ...!
    Có quá nhiều cái "lỡ" đem đến những buồn phiền không kể xiết. Chạy đôi khi cũng là thượng sách.

    Chạy xong rồi thì người ta tụm lại mua bán đổi chác tiếp. Thiệt! Giống như là trò chơi cút bắt của con nít.

    Tôi bàn với thằng Thạch:
    - Hay mầy bán bộ đồ nầy mua bộ cũ hơn vừa hợp lý mà tụi mình lại có thêm chút tiền dằn túi?
    - Sao mầy không bán bộ đồ mầy đi?

    Uý chời! Nó chạm vào cái lịch sự tối thiểu còn sót lại của tôi. Tôi chỉ có một bộ đồ ăn nói. Mỗi lần giặt là tôi phải mặc xà lỏn ngồi chồm hổm đợi đồ khô rồi đem ủi và mặc tiếp:
    - Ủa! Tao đâu có giả vai điên đâu? Tao là anh mầy dẫn mầy đi xin phép mà. Nhớ hông em trai?
    - Mầy nhỏ hơn tao đến mấy tuổi mà lúc nào cũng muốn làm anh.
    - Hì hì!
    Mặt nó nhăn nhăn kể lể:
    - Mầy mặc đồ mới, tao đồ cũ. Tao thấy tủi thân quá! Hay là hai thằng bán hết?

    Hai thằng cũng biết là nếu chuyến nầy mà gặp được nhóm Phục Quốc thì hai đứa sẽ xoá bàn cờ chơi lại ngoạn mục hơn, quần áo cũ mới gì không còn là điều quan trọng nữa.

    -"Anh cởi quần thì tui đưa tiền." Tiếng cô gái lanh lảnh.
    -Tui cởi quần, cô xách cô chạy mất thì tui biết ai mà đòi?
    -Anh không cởi quần, tui đưa tiền, anh bỏ chạy thì làm sao tui rượt kịp anh?

    Không còn ai tin ai nữa! Chế độ đưa người vào cảnh bần cùng để chia rẽ nhau.

    Lại có chộn rộn ở đằng kia. Có tiếng la thất thanh: "Bớ bà con ơi! Giựt đồ! Giựt đồ! Bắt nó lại giùm tui!" Thằng nhỏ mặt mày tái méc ôm cái giỏ xách của bà kia chạy bán mạng. Đúng là chế độ giựt dọc!

    Tôi với thằng Thạch ngồi trên xe đò. Tướng nó bự con mà mua lầm bộ đồ nhỏ xíu coi ngố dễ sợ. Tóc, thì bị tôi vò cho bù xù, đôi dép da đã đổi qua đôi dép ...râu. Tôi bắt nó cầm trên tay chứ hổng được mang. Bây giờ thì nó giống y hệt như người mất trí. Ngơ ngác trên xe đò.

    Mất vợ, mất con, mất giang sơn tổ quốc, mất cả tương lai và mất luôn ...bộ đồ kẻng.
    Không điên cũng thành điên!

    - Ê! Thạch! Mầy giữ chỗ ngồi cho tao. Tao xuống mua cái gì ăn.
    - À! À!

    Nó không muốn nói chuyện với tôi nữa rồi! Giận hờn gì nhau em trai?
    Trở lên thì thấy cái ghế của tôi đã bị một ông sồn sồn có râu mép chỗ đậm chỗ dợt chiếm mất.

    - A! Chú à! Chỗ ngồi đó của tui đó!
    - A! Tui thấy chỗ trống thì tui ngồi hà!
    - Chú ơi! Tui đưa thằng em bà con bị khùng lên nhà thương Biên Hoà đó. Chú ngồi kế bên nó, lỡ nó lên cơn, nó cắn chú ráng chịu à nha!

    Thằng Thạch nó muốn cười mà hổng dám cười, ráng nén hơi nhịn xuống, mặt nó đỏ ửng lên, mắt trợn trợn bỗng nó đưa cùi chỏ ra ý như muốn giựt cùi chỏ vào mặt ông có râu. Ông kia đưa tay lên đỡ đỡ có vẻ nhờn nhợn lắm rồi. Bỗng thằng Thạch quát lên:
    - Đ. Mmm!!!

    Ông kia vọt liền.

    Chiếc xe đò hậm hực hì hục phun khói ngất trời tiến ra quốc lộ 1, đường đi Biên Hoà.
    ..........

    Đường đi Biên Hoà.

    Con đường đi ngang qua hồ tắm Ngọc Thuỷ thuở xưa, những ngày cúp cua trốn học một đám chở nhau trên xe Honda đi tắm "piscine", ngang qua quân trường Thủ Đức có những tháng ngày dài đổ mồ hôi. Và ngang qua nghĩa trang Quân Đội có pho tượng người lính Nhảy Dù ngồi thẫn thờ tiếc thương cho bao đồng đội đang yên nghỉ bên trong. Có lá cờ ấp ủ bên trên như tấm chăn phủ ấm áp. Những người đã nhắm mắt, nằm xuống xuôi tay. Xong rồi một bổn phận với non sông. Có người hùng, có kẻ hèn. Có người đời liêm khiết, có kẻ xuôi ngược bon chen. Nay, thân xác nằm kề bên nhau. Nhưng không hiểu linh hồn có đi về chung một con đường?

    Chỉ một điều chắc chắn là ngôi tượng mỹ thuật đẹp đẽ truyền thần kia đã bị những oán ghét nhỏ nhoi ti tiện giựt sụp đổ như một sự trả thù hăm doạ đê hèn. Họ không có được cái bao dung của người ái mộ nghệ thuật để khiêng pho tượng vào Viện Bảo Tàng. Thật là đáng trách thay cho một sự lập lại của lịch sử: Huỷ hoại và Đốt sách.

    Nắng lên cao, gió thổi mạnh...

    Hình như con đường và khung cảnh hai bên chạy giật lùi lại chứ không phải chiếc xe đò cà khịa đang chạy thẳng tới.

    Đi từ sáng sớm lúc nắng mới mỉm cười, nay đến trưa trờ trưa trật nắng quạu quọ nhăn mày nhăn mặt mà vẫn chưa tới. Sài Gòn - Biên Hoà, cho tôi chiếc xe đạp, nhổm mông đạp rút một hồi là tới ngay. Đã vậy mà còn: Pịp! Pịp! Nghe như tiếng động cơ bị tắt máy. Được một lúc thì tắt máy thiệt chứ đâu còn "nghe như" nữa!

    Tiếng ông lơ xe ồm ồm:
    - Bà con cô bác ơi! Ông ngoại bà ngoại ơi! Làm ơn xuống xe, phụ đẩy vô lề đường.
    Tiếng bà già cằn nhằn:
    - Xe cộ gì thấy ớn lạnh! Mầy đẩy một mình mầy đi á!
    Tiếng ông già cự nự:
    - Cậu à! Đi xe, tiền tui trả đủ. Đẩy xe có trả lại tiền tui hông?
    Tiếng người lao nhao:
    - Ừ! Trả bớt lại tiền, tụi tui phụ đẩy cho!
    Ông lơ xe xuống giọng:
    - Thôi mà ngoại ơi! Ba má ơi! Cho con nuôi vợ con với! Mấy người hổng đẩy thì tối nay ngủ lại đây! Chị Ba à chị Ba! Nhổm nhổm cái đít lên cho tui lấy thùng đồ nghề cái coi? Chèn ơi! Má ơi! Sao má nhổ cổ trầu lên thùng đồ nghề của tui?

    - Xí! Mầy biết cái gì mà sửa? Xe nằm chình ình rồi mới làm bộ làm tịch!
    - Chị Ba à! Lấy cái đít ra chút nữa coi?

    Gió vẫn hiu hiu thổi. Chim chóc không lả lơi bay lượn như ngày xưa. Hình như chim đã tìm được hướng bay tị nạn. Chỉ có mấy cây cột đèn ngả nghiêng chịu đựng cho số phận đổi thay. Cột đèn quên bẵng đi nhiệm vụ của mình vì cột đèn ngày nay đã quen âm u với bóng tối nhiều hơn là tiếp điện để toả hào quang rực sáng. Không đủ điện, đời tối thui.

    Dưỡng Trí Viện Biên Hoà có nhiều tàng cây to bao phủ, toả bóng mát cả một vùng. Nhưng bên trong thì xơ xác tan nát tất cả từ vật dụng y khoa cho đến con người.

    Những người mất trí cũng chịu đựng cuộc đổi đời.

    Có người tự dưng tỉnh hẳn lại vì chợt nhận ra rằng, chế độ mới nầy "phê" quá! Phải làm người tỉnh trí mới chống chọi lại được. Có người đang tỉnh cũng bỗng cảm thấy "phê" luôn! Phải làm người mất trí mới quên đi những cọ mài của chế độ mới.

    Tôi gặp bác sĩ Lân một mình. Thằng Thạch bự con mà nhát như con gái tuổi dậy thì. Nó đứng lại ở bên kia đường chếch chếch cổng bệnh viện. Nó đủn tôi vô.

    Bác sĩ Lân độ ba mươi mấy tuổi, người tầm thước mang mắt kiếng cận khoác áo choàng trắng, dáng thông minh. Nhìn phớt qua là biết liền phe ta.

    Hồi đó người ta hay nhìn tướng để đoán phe, hễ phe ta thì dễ cởi mở hơn một chút. Còn phe mấy ông mặt xám thì phải lựa lời cho trôi.

    Tôi làm động tác lỡ dở chào tay trong quân đội rồi như sực nhận ra là không nên, tôi bỏ tay xuống. Chỉ một thoáng ngắn đó thôi cũng thấy mắt anh Lân chớp chớp cảm động. Có lẽ những kỷ niệm dĩ vãng của anh xẹt về như ngọn sóng chợt lớn cuốn lên rồi tan đi. Sống nghẹt thở thì người ta nhớ nhiều về thời lúc còn thở nhẹ.

    - Chào Thiếu Tá... í... xin lỗi!
    Tôi cố ý gọi ảnh cấp bậc cao hơn dù tôi đoán được rằng chắc có lẽ ảnh là Trung Uý hay Đại Uý. Bên Quân Y chậm lên lon hơn.

    - Thưa bác sĩ, em tên Kiến, anh bà con của thằng Thạch (đưa tờ giấy ra). Hôm nay em đưa nó lên để bác sĩ tái khám.

    Anh Lân nói tiếng Nam, giọng còn nhà quê hơn tui:
    - Dậy chứ chú Thạch đâu?
    - Dạ! Hồi nãy xuống xe đi gần tới bệnh viện thì nó sợ bác sĩ quá, nó chạy mất rồi! Em, cái chân cà nhắc rượt theo hổng kịp!
    - "Vậy! Tui tái khám cho ai? Cho chú hả? Chú có điên hông?". Ảnh nheo nheo con mắt cười cười.
    - Dạ! Em đâu có điên đâu bác sĩ.
    - Hồi đó ở đơn vị nào?
    - Dạ! Sư đoàn 2 Bộ Binh.
    - Có cải tạo hông?
    - Dạ có!
    - Trại nào?
    - Kà Tum rồi về Hóc Môn thành Ông Năm.
    - Bao lâu?
    - Dạ! 4 năm mấy
    - Vậy thì điên được rồi!
    - Hì hì! Phải công nhận bác sĩ diễu có duyên thiệt!

    Bác sĩ Lân nhìn nhìn ra sân trước. Có mấy người quên cuộc đời đang lững thững bước ngập ngừng. Có ba cô y tá ngoài sân. Tôi nhận biết có một người từ Bắc vô, vì cái dáng của cổ. Hai người kia thì tướng thon thả, còn cô thì không. Và mái tóc tết hình con rít coi thiệt sợ hãi. Kiểu tóc bím mà hồi nhỏ tôi thấy con gái Sài Gòn có thắt, nhưng sao coi nó có vẻ nhí nhảnh và trẻ trung hơn, thấy nó gọn gàng và ...nhỏng nhẻo.

    Còn cô thì ...!!
    Có nhiều cái không thể hiểu nỗi hay giải thích được.

    Bác sĩ Lân bỗng tằng hắng:
    - Chú muốn tui làm cái gì?

    Trời! Thiệt là sướng cho tôi! Tôi tưởng, tôi phải đi cầu cạnh, phải uốn lưỡi nài nỉ, phải cười cười cầu tài. Không ngờ hồng phúc của thằng Thạch sáng ngời. Tôi được quyền ra giá:
    - Thưa bác sĩ, xin bác sĩ cho một giấy chứng nhận thằng Thạch vẫn còn bị bệnh và xin cho một ít thuốc an thần.
    - "Thuốc an thần lúc này bán chạy lắm à nha!". Ổng cười con mắt nhấp nháy sau làn kính.
    Chèn! Ông cận thị nầy nói trúng phóc ngay tim đen của tôi. Tôi bỗng đỏ mặt. Ít ra tôi cũng còn biết mắc cỡ. Tự nhiên tôi đưa tay gãi đầu:
    - Nếu bác sĩ không có thuốc thì cho em xin giấy chứng nhận không thôi!
    - Tui cho chú cả hai! Thôi ráng lên!
    - Cám ơn Niên Trưởng!

    Thấy tôi hí hửng bước ra. Thằng Thạch quýnh lên:
    - Sao được hông mậy? Được hông?
    - Được chứ mậy! Anh mầy mà!

    Tôi đưa tờ giấy chứng nhận và bọc thuốc bác sĩ Lân cho. Cu Thạch mừng húm:
    - Bán mầy! Bán hết mớ thuốc nầy. Được giá lắm đó!

    Ông bác sĩ cận thị chứ mắt ổng nhìn xa thật! Xuyên qua vách tường thẳng tận vào lòng người. Ổng biết thế nào thằng Thạch cũng bán thuốc dù cho nó có điên thật đi nữa.

    - "Mấy cậu có thuốc men gì muốn bán hông?". Một bà sồn sồn đứng đợi sẵn ở vòng sân trước bệnh viện trờ đến.
    - Có một mớ thuốc an thần nè chị!

    Chị sồn sồn nắm tay hai đứa kéo ra xa xa vì một nhóm chạy thuốc Tây đánh hơi được đang kéo tới.

    - Mà sao chị biết được thuốc giả hay thiệt đây mấy cậu?
    - Chị ơi! Mới ở trong bệnh viện ra nè!
    - Mấy cậu hổng biết chứ bệnh viện cũng có thuốc giả nữa!

    Đời nầy thiệt ra mà nói chứ giả thật thật giả hổng biết đâu mà mò. Hồi trước, người ta chỉ dám nghi mấy minh tinh màn bạc mới có thể xài đồ giả. Chứ bây giờ ...hư, thực mơ màng quá!

    - Hay là tui cho chị uống thử hai viên coi có phê hông nha?
    - Ý! Tui uống lỡ nó phê thiệt rồi người ta giựt xe tui thì tui bứt vốn liền!

    Đám kia bắt kịp đám nầy. Thôi ai nấy say sưa trả giá, nài kéo khen chê, tiền bạc nhứ ra rút vô, môi trề trề mắt trợn trợn nhìn thuốc nhìn người đo đạc tính toán. Rồi thì cũng được giá, bán hết 40 viên cho chị sồn sồn, giữ lại 10 viên làm bằng chứng cho bà chủ tịch xã vùng kinh tế mới Long Khánh sắp đi.

    - Cám ơn hai cậu nha!- Chị sồn sồn nói - Còn cái gì bán nữa hông?

    Thằng Thạch chỉ tôi:
    - Còn thằng nầy, bán luôn!
    - Ý! Cẩu còn trẻ quá! Mua về tui nuôi biết đến chừng nào? Hi hi!!

    Tụi tôi đi ngược ra lại, đón xe đò về Long Khánh.
    ........
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  2. #22

    Tiếp theo...


    Long Khánh

    Đường đi Long Khánh, đường có ngã rẽ đi thẳng ra Vũng Tàu, có biển Thái Bình mộng mơ.

    Nhiều người mơ mộng được nhào xuống biển, bơi sải hay thả ngửa rời khỏi cuộc sống với chế độ chỉ biết bòn mót của cải dân. Chế độ có tiếng khóc than to hơn tiếng cười hoan lạc.

    Nhưng nhiều quá những nút chặn. Chưa ngửi được mùi thơm mặn nồng của nước biển thì đã bị đuổi lại về miền núi đồi khô khan, máng cái cày trên vai, kéo qua cánh đồng không lúa không nước.

    Kéo cái cày khơi khơi trên cánh đồng khô...
    Ngửng mặt nhìn trời, nước mắt chảy. Cúi xuống nhìn đất, lệ còn rơi.

    Xe đò ngừng lại ở vùng bụi cát đã chuyển qua màu hung. Khu kinh tế mới của thằng Thạch chẳng mới tí nào, cũng èo uột nhà tranh trống hóc, chẳng kinh tế lợi lộc gì cả.
    Chỉ sản xuất được những tiếng thở dài. Như khu kinh tế mới Đồng Xoài tôi ở cũng cùng một thảm cảnh, cùng một tiếng thở dài như nhau.

    Tiếng ông già người Hoa lơ lớ:
    - "Lồ" chó chết! "Pắt" tui lên đây để làm cái "léo" gì chớ?

    Hai đứa cuốc bộ từ con lộ lớn dẫn vào. Thằng Thạch có vẻ ngần ngại, ngập ngừng. Tôi tìm lời an ủi:
    - Đừng lo mầy ơi! Nếu hổng được thì mầy cứ ở lại.
    - Ở lại chết mầy ơi!
    - Cái gì mà chết?
    - Đói thê thảm, không có làm ăn được cái gì. Không có trồng trọt được cái gì! Đ.Mmm!!

    Hồi đó thằng Thạch lái phi cơ trực thăng có cây súng đại liên rượt mấy anh mặt xám bắn xì khói. Bây giờ mấy ảnh đì thằng Thạch vào chốn đìu hiu nhà tranh vách lá, một mảnh đất cằn, hóa phép sỏi đá biến thành cơm vậy cũng công bình rồi. Tôi nói cho nó nghe điều đó và tôi ngu quá thêm vô câu: "Vậy là còn khoan hồng lắm lắm!" Nó chửi tôi thôi né không kịp.

    Đến trước sân căn nhà tranh dùng làm văn phòng chủ tịch xã. Tôi nói nhỏ bên tai thằng Thạch: "Mầy nghe theo tao nha mậy. Đừng vô. Đợi tao kéo hãy vô nha!"

    Cu Thạch bây giờ chẳng những đầu tóc bù xù, hai tay cầm hai chiếc dép râu, mặc cái áo cũ cụt ngủn, cứ nắm vạt kéo kéo xuống như muốn cho nó dài ra thêm một chút nữa. Nó mới bị thói quen nầy kể từ lúc mua bộ đồ ở bến xe An Đông. Mặt mày quằn quện bụi đỏ và mồ hôi vì tôi không cho nó rửa mặt. Nó phải điên thật mới được.

    Sĩ Quan Không Quân Cu Thạch ngày hôm nay thành người mất trí giả mà thiệt, thiệt mà giả.

    Sĩ Quan Không Quân Cu Thạch ngày hôm nay không còn Tổ Quốc Không Gian để bảo vệ nữa.

    Sĩ Quan ráng lo bảo vệ những tháng năm buồn của Sĩ Quan.

    Tôi một tay chống gậy, một tay đẩy một tay kéo, miệng gầm gừ: "Đừng đi! Đừng đi!" Thằng Thạch cái mặt chù ụ, đứng cho một đống. Thiệt ra nó muốn đi lắm, đi tìm một chiếc phi cơ có quả bom nguyên tử trên đó, bay lên thả xuống cho tan tành cái phiền muộn của cuộc đời nầy.

    Trong nhà thấy ngoài sân chộn rộn bèn bước ra ba người. Một người đàn bà đứng tuổi thấp người hơi mập, tôi đoán là bà Năm chủ tịch xã. Một ông mặt xám ngắt, bộ đồ vàng công an, cầu vai đỏ chót, phe phẩy nón cối muốn quạt đi cái nắng chiều nhơm nhớp của vùng cao su và một cô, tóc con...rít. Vậy là hai con rít. Một cái một đực.

    - "A! Cái dì dậy mấy cậu?". Giọng Nam Kỳ vang lên từ người đàn bà đứng tuổi.
    - Dạ! Xin lỗi! Có phải dì là chủ tịch xã?
    - Ừ! Tui đây.
    - Dạ! Cháu là anh bà con của thằng Thạch ...- tôi ngó qua ông mặt xám và cô tóc con rít khẽ gật đầu chào. Hai người chào trả - ...dẫn nó lên đây trình diện dì và ...dượng - ngó ông xám ngắt - ...và cô - ngó cô con rít - ...a...hồi nãy, cháu có đưa nó ghé qua Dưỡng Trí Viện Biên Hòa ...- tôi ráng kiếm chữ " trịnh trọng high class " tôi xài, để cho mấy người đó có cảm tưởng rằng họ cũng quý phái luôn - ...mà cái nó vụt bỏ chạy, báo hại bác sĩ Lân và quý vị Gạt Đờ Co bảo vệ Thần Kinh phải rượt theo bắt lại, nhốt vô phòng Cách Âm rồi chích cho một mũi Rờ Mi MạcTen mới êm.

    Tự nhiên tên rượu Cỏ Nhắc (Cognac) Rémy Martin- ở đâu nhảy vô trong óc của tôi làm tôi phun ra như thiệt. Tôi liếc liếc thằng Thạch, nó đang ngồi bẹp dưới sân cát, hai chân duỗi ra. Chắc có lẽ mệt và đói nữa, nay nghe nhắc tên rượu, nó lại càng mơ màng đến bữa ăn thịnh soạn có chất nồng màu hổ phách óng ả.

    Dì Năm bỗng lăng xăng:
    - Cậu Thạch đây hả cậu Thạch? Chèn ơi! Hồi đó đẹp trai lắm mà!

    (Mất nước thì còn đẹp trai cái ...khỉ gì nữa?)

    - Dạ thưa dì và dạ thưa...dượng -hình như ông mặt xám khoái nghe tiếng dượng giọng Nam Kỳ của tôi, như câu xề vọng cổ lúa Đồng Tháp với miệt vườn trái cây nhãn lồng, nó ngọt và nó mơ mơ vì tôi thấy mặt ổng cứ ngây ngây. Còn dì Năm thì tôi cứ một dạ thưa, hai dạ thưa làm bả khoái tỉ, cứ như bả đang làm Tổng Thống. Riêng em "con rít" thì tôi hổng dám đụng chạm đến, lỡ tôi ngọt ngào quá em đâm ra mê tôi thì chết tía luôn! - suốt cả tháng nay nó không ăn cơm. Nó cứ lang thang ngoài đường.

    - Tội nghiệp hông! Thôi! Cậu Thạch đứng dậy đi vô nhà rồi dì Năm kiếm cái gì cho ăn.

    Tôi nhìn nó. Ánh mắt tôi nói: "Khoan!"
    Nó vờ lờ đờ nhìn tôi: "Tao biết chớ!"

    Kẻ thua trận làm nũng được lúc nào thì phải chộp cơ hội cho đỡ sầu.

    Dì Năm năn nỉ thêm một chập.
    Ánh mắt tôi: "Đi!"
    Ánh mắt nó: "Tao biết chớ! Đói bụng muốn chết!"

    Trên bàn một ấm nước trà, nải chuối sứ còn năm sáu trái, vài cái bánh ít bao lá chuối, năm bảy thỏi kẹo mè. Tất cả đặt trên cái mâm nhỏ. Ông mặt xám rót trà ra cái chén nhỏ:
    - Mời cậu xơi nước
    - Cám ơn dượng

    A! Ông Tưng nầy. Mời tôi uống nước.
    Hồi đó nếu gặp ngoài mặt trận thì cả hai đã nhào tới bóp cổ nhau rồi. Nay ông mời tôi uống nước như một sự hối lỗi của chữ "giải phóng" mà ông ngộ nhận bao năm nay.
    Kể từ tháng tư, bảy lăm. Mọi sự cởi bày. Những con mắt có võng mô đều thấy được sự thật rõ ràng: Từ ngữ "Giải Phóng" rõ ràng là một sự Xâm Lược.

    Nay uống chén trà thông cảm. Thông cảm khỉ gì nổi?

    Tôi uống cho đỡ cơn khát mà thôi, cơn khát của con đường còn đi đang bị gián đoạn.
    Tôi uống cho đỡ tức một số đàn anh không chịu chơi bàn cờ tề chỉnh.

    Tôi biết thằng Thạch cũng cùng nổi tức và cơn khát như vậy. Tôi cầm chén nước đến bên nó, gừ gừ trong họng: "Mầy phun ra"

    Nó phun ra...

    Hai đứa đang diễn một vở kịch: "Những người ở lại chịu nhiều đắng cay".
    Mà thật ra đâu phải là một vở kịch?
    Đây là thực tế rõ ràng mà! Không cần cố gắng cũng nhập vai.
    Toàn xã hội, toàn quốc đang trân người gánh cơn nạn khổ.

    Thằng Thạch phun nước vào mặt tôi. Tôi đáng bị phun nước vào mặt lắm, cho dù là nước miếng nói chi nước trà?

    Thất phu hữu trách mà! Giang sơn bị giựt. Thằng Thạch và tôi lại là những người lúc ra trường có thề bảo vệ giang sơn.

    Nhưng cũng nên kêu oan một tiếng với Ông Địa. Cu Thạch và tôi còn quá trẻ để gây ra cột mối chiến tranh. Cu Thạch và tôi còn trẻ quá để gánh chịu sự trả thù bỉ ổi.
    Nhưng thật tình mà nói, Cu Thạch và tôi còn đủ trẻ để gánh mọi tai ương hơn là để tai ương trùm khắp lên bờ vai yếu ớt của các quả phụ và trẻ thơ, của những cụ già bô lão và những người không còn nguyên vẹn hình hài. Nhưng cơn trốt dữ dằn ác đức đã trùm lên khắp cả. Nam Phụ Lão Ấu. Không tha một ai!

    - Cậu Thạch à, ăn chuối nha?

    Cũng con mắt ngó: "Khoan!"
    Cũng con liếc lại: "Đói quá!"

    Rồi thêm câu mời, tiếp câu dỗ dành. Cu Thạch chơi khiêng luôn nguyên mâm, xề cạnh góc nhà, ngồi bẹp xuống đất, bóc vỏ chuối ăn liền.
    Tôi vờ hét lên:
    -Mầy có cám ơn dì Năm với dượng Tưng chưa hả?

    Nó lúng búng cám ơn. Nó quẹt nước mũi. Nó ngồm ngoàm quả nữa. Nó bỏ cái mâm không xuống đất. Nó ôm phần còn lại trong lòng bỏ ra ngoài sân ngồi bẹp xuống cát, ngửng mặt nhìn trời.

    - Thế cậu trước cũng là ngụy quân nhể?
    Tôi chối phăng:
    - Thưa, tôi là giáo viên.
    - Thế cậu là Phó Tiến Sĩ?

    Tôi không biết học đến đâu để thành phó tiến sĩ?
    Thời tôi học cứ tiến sĩ là tiến sĩ. Kinh tế cứ là kinh tế chứ chẳng Kinh Tế Hạch Nhân hay Kinh Tế Dịch Hạch gì cả. Bảo Sanh Viện Từ Dũ là cứ Bảo Sanh Viện, không Xưởng Đẻ, Xưởng Đái gì?

    - "Dạ! Dạ! Đúng rồi! Sao dượng biết hay quá vậy? Bộ dượng cũng là phó tiến sĩ?" Tôi cười lớn lên, mắt mở to như vừa khám phá được một vĩ nhân.

    - Không! Tôi thì chẳng học hành gì nên hồn. Cứ nghĩa vụ mà đi, đâm lỡ dở cả!

    Trời! Nếu ai cũng dám nói thật như ông già đang ngồi trước mặt tôi, thì ruộng bác, bác làm. Ruộng tui, tui mần. Không có chiến tranh lôi thôi giành giựt.

    Ông già trước mặt tôi bị người ta xài hết một đời. Chiều về lỡ dở. Vào đến miền Nam mới ngẩng lên thấy được sự thật phũ phàng.

    Giấy tờ gia hạn cho thằng Thạch được ký mau lẹ, con dấu được dùng hai tay ấn ấn cho trịnh trọng lại còn được mời ở lại ăn cơm và ngủ qua đêm.

    Thôi! Có cho tiền tôi cũng không dám ở gần. Ai biết đằng sau khuôn mặt của màu xám có thêm một màu gì nữa? Tôi hỏi xin mua lại vài lon gạo để về nhà thằng Thạch nấu ăn. Dì Năm không lấy tiền. Tôi cám ơn rối rít. Dì Năm cho thêm mấy con khô cá sặc. Thiệt là số của thằng Thạch lúc nào cũng đỏ.

    Lần đầu tiên trong ngày, tôi thấy nụ cười nhẹ nhõm của thằng bạn:
    -Ê! Kiến. Tao với mầy qua thăm Chín.
    -Chín nào? Chín là ai?
    -Chín dễ thương mà tội nghiệp lắm, chồng Chín còn đang ở tù cải tạo.

    __***__

    Chín đứng đó. Trong buổi hoàng hôn, giữa đám cỏ tranh, nhìn mút lên trời, thăm hỏi ánh nắng chiều vàng rọi xuống. Đứa con gái 6 tuổi đứng kế bên, nắm tay mẹ nhìn bâng quơ.

    Thạch gọi:
    -Chín ?

    Nàng quay lại.

    Khuôn mặt son trẻ, mắt buồn hiu ánh màu trông ngóng đợi chờ. Nắng nám trên tóc và da nhưng nắng chưa đủ năng lực phá đi khuôn sắc mỹ miều.

    Tôi thấy một quầng thâm dưới mi mắt của nàng. Nhưng quầng thâm ấy cũng chưa đủ cường độ làm nàng già hơn, mà quầng thâm ấy chỉ làm người ta xót xa khi nhận thấy người con gái nầy không có được một ngày vui từ lâu lắm rồi.

    Chín nở nụ cười mỉm gặp người quen:
    -A! Anh Thạch! Lâu quá rồi không gặp lại anh. Bệnh tình của anh bớt chưa? Như Tiên chào hai bác đi con.

    Con nhỏ mắc cỡ, khoanh tay lí nhí trong miệng. Thằng Thạch cười hì hì đưa hết chuối, bánh và kẹo cho nó. À! Thì ra hồi nãy nó làm liều chơi hết một mâm là cố ý để giành cho con nhỏ dễ thương nầy. Tôi cứ tưởng nó giành phần cho tôi.

    Chín xoay qua:
    -Dạ! Chào anh

    Tôi nhìn Chín:
    - Dạ, chào chị. Tui là Kiến, bạn của Thạch trong tù cải tạo.
    - Em nhỏ tuổi hơn. Anh cứ gọi em là Chín hay gọi tên thật của em là Lành. Chồng em là Hoàng Giang, Biệt Động Quân cũng đang ở tù cải tạo. Sao lâu quá vẫn chưa về?
    - Hoàng Giang? Biệt Động? Có phải ảnh cao bằng tui nhưng có bề ngang hơn và có râu quai nón?

    Mắt Chín mở to mừng rỡ:
    - Dạ! Đúng rồi! Anh có quen ảnh hả? Ảnh lúc nầy ra sao? Có khoẻ không? Lâu lắm không có thư ảnh về. Lần cuối em gồng gánh lội bộ vô tuốt trong rừng Kà Tum thăm nuôi. Trời ơi! Lúc đó ảnh ốm nhách.

    Cải tạo nào cũng ốm nhách. Mà không chỉ những tù cải tạo. Dân ngoài cũng ốm nhách! Ốm nhách như ...Chín. Tụi tui ở tù vòng trong ốm hơn. Chín và dân chúng ở tù vòng ngoài, ốm bằng. Cả nước từ Nam Trung Bắc cùng ở tù. Tơi tả như nhau.

    -Vậy Chín tên là Bình Yên Yên Lành. Bé Như đẹp như mẹ, nên Hoàng Giang gọi luôn là Như Tiên. Hoàng Giang kể tui nghe vậy.

    Chín cười lỏn lẽn thẹn thùa:
    -Ảnh lúc nào cũng ghẹo mẹ con em
    -Vậy thì đúng Hoàng Giang tui quen rồi

    Trung Uý Biệt Động Quân Hoàng Giang hồi xưa mặc quân phục có phù hiệu con cọp nhe nanh, hay kể tôi nghe lúc còn ở trong rừng thẳm Kà Tum về người vợ hiền Bình Yên và đứa con gái nhỏ Như Tiên. "Như bài ca Mộng Thường của Nhật Trường" Tôi cười hỏi. Hoàng Giang lắc đầu, mắt đăm chiêu.

    Không! Không phải tên em là Mộng Thường yêu anh chàng Biệt Động trong một ngày cuối đông của nhạc sĩ Nhật Trường. Em tên là Trương Thị Lành, mà Biệt Động Quân Hoàng Giang vẫn hay cười cười nịnh vợ: "Cưới em người đẹp, đời anh hạnh phúc, đời anh Yên Lành"

    Nhưng người đẹp Yên Lành của Biệt Động không có bình yên chút nào. Nàng thay áo dài mặc vào bà ba theo chồng ra mãi tận Pleiku. Vùng đóng quân, vùng nóng hổi chiến tranh. Vùng ăn đạn pháo kích nhiều hơn ăn cơm. Vùng có bụi đỏ nhưng không làm má em thêm hồng mà lại làm cho đôi con mắt em trũng sâu của những đêm dài thức khuya cầu nguyện cho chồng bình yên.

    Và bây giờ thì tại đây, Long Khánh, cũng có những cuộc đất đỏ sau trận mưa quánh lại thành sình quện vào gót em đi, nặng nề như em gồng cả một gánh sầu bi đau khổ. Em một mình với cỏ tranh. Em một mình với con thơ. Em một mình với chuỗi đời không còn mơ ước. Em được người chồng anh hùng gọi tên là Bình Yên nhưng đời em bị xé nát làm trăm mảnh.

    Chồng em, Hoàng Giang vượt ngục. Con Cọp không chịu bị nhốt trong chuồng, Con Cọp tìm đường về với Lành, người vợ yêu dấu nhỏ nhoi ẻo lả trước cơn giông đời. Con Cọp tìm đường về ước muốn gặp lại đôi mắt ngây thơ ngút ngàn của đứa con 6 tuổi đẹp như tiên mà ngày đi Cọp cứ tưởng là chỉ có 10 ngày xa cách. Nay đã hơn 4 năm. Mười ngày phải nhân cho ngàn mấy lần mới đủ?

    Cọp bị gạt một cú quá cỡ thợ mộc. Không còn thước tất để đo. Nên Hoàng Giang tìm đường về, nửa đường bị bắt lại. Giam vào cái cửi, nửa trên không khí, nửa dưới ngập nước sình lầy.

    Tôi không dám kể Bình Yên nghe.
    Tôi chỉ gật gù: "Vẫn vậy! Vẫn mạnh! Sắp về." Ít nhất mua dùm nàng một hy vọng qua một ngày, đoạn một tháng, kế một năm.

    - "Chín à! Chín có thể nấu cơm ăn không?" Thạch hỏi.

    Chín thoáng vẻ bối rối! Gạo đâu nấu cơm? Gần lò bếp là nồi khoai mì còn mấy củ. Mẹ con ăn khoai mì lâu nay trừ cơm. Chín cắm một hàng khoai mì ngoài hè. Đất nầy, đất kinh tế mới ưu việt chỉ có cỏ tranh và khoai mì sống nổi.

    Phải làm con gì để ăn cỏ tranh? Nhưng hễ làm con người dưới chế độ cộng sản thì cứ khoai mì mà đá tới. Thêm một vá nước cốt dừa chan lên? Rãy ít muối mè, phủ lên một muổng nhỏ đường cát trắng? Vậy là tư sản mại bản mất! Vậy là phạm vào luật của nhà nước ngay. Nhà nước ta đã rần rần quản lý tất cả những gì ăn được. Ngay cả những thứ không ăn được, nhà nước ta, Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa cũng quản lý luôn.

    Nhà nước quản lý: Của cải và nụ cười.
    Dân chỉ được làm chủ: Đói đau cùng nước mắt.
    Đời sao thê thảm!

    - Thạch có mấy lon gạo với hai con khô. Chín nấu cơm nha? Mình cùng ăn luôn.

    Lại do dự, lại tự ái của người tự trọng.

    - Hay là Thạch đổi một khúc khoai mì của Chín? Chịu ha?

    Chín chớp đôi mắt. Mắt đỏ hoe. Nhìn con. Con lâu lắm chưa ăn cơm. Con lâu lắm chưa ăn chuối. Con lâu lắm chưa ăn bánh ít. Con lâu lắm chưa biết kẹo là gì? Như cả một thế kỷ. Phần nầy, lỗi của mẹ!

    Tất cả bước vào nhà. Trời tối. Nhúm bếp nấu cơm. Nướng khô. Hâm nóng tình bạn bè mới gặp đã thân vì cùng cảnh ngộ.

    Trên cái bàn được kết bằng tre. Tôi thấy một cuốn vở học trò chi chít những chữ như một quyển bút ký ghi lại tâm tình. Có bài thơ dài thậm thượt, bài thơ không dứt. Bài thơ não nuột chưa tìm được đoạn kết. Tôi chỉ thấy thoáng qua được một đoạn:

    Vẫn như vùng núi đồi xưa
    Vẫn cỏ lơi trong gió
    Vẫn tiếng cười của trăng
    Vẫn là căn nhà nhỏ
    Vẫn chỉ em một mình

    Bỗng dưng tôi mơ ước, ngay ngày mai tôi sẽ gặp được Quân Phục Quốc để thằng Thạch sẽ bay trên trời thả bom, cần thêm thằng bạn Đạo, Hải Quân từ ngoài biển câu cà nông vào. Cả hai yểm trợ tôi xung phong chiếm lấy mục tiêu. Mục tiêu của Hoà Bình và Thịnh Vượng. Mục tiêu của cánh đồng cỏ non xanh mướt có con bò thảnh thơi nằm nghĩ, có tiếng hò gặt lúa của nông phu, có con đò xuôi theo giòng nước. Có lục bình trôi.

    Trả Con Cọp Hoàng Giang về với Chín và Như Tiên.

    Trả đời bình yên về lại người dân cày. Trả tôi về với chồng sách vở và mộng mơ tuổi thơ.

    Trả thằng Thạch về với ...bác sĩ Lân.

    ... Hôm nay...
    ... Bây giờ...

    ...Không biết phi công Văn Thạch có còn giữ củ khoai mì kỷ niệm của Chín không?

    Trương Thị Yên Lành có được bình yên?

    Cọp đã về chưa?
    ..........
    _______o0o_______
    (Tác Giả: Kiệt Trần/Kiến Hôi)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  3. #23


    Thi Bá Vũ Hoàng Chương khí phách cao vời với "Họa Tòng Khẩu Xuất"___
    (Tác Giả: Nguyễn Minh Thanh)


    I -Tóm lược tiểu sử:

    Vũ Hoàng Chương - Thi bá VHC người Nam Định, sinh năm 1916. Tốt nghiệp tú tài 1937. Từng theo học Luật, học Toán không thành. Sau đó đi dạy học và làm thơ, viết kịch. Năm 1944 Ông kết hôn với Đinh Thục Oanh là chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng.

    Năm 1954, HĐ Geneve, Ông di cư vào Nam tiếp tục nghề dạy học tại các trường Chu Văn An, các tư thục và làm thơ, viết văn...

    Năm 1959 Ông đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc với tập thơ Hoa Đăng và tham dự hội nghị Thi Ca Quốc Tế taị Bỉ. Năm 1972 Ông đoạt giải Văn Chương toàn quốc...

    II - Món quà không nhận:

    Sau khi VNCH bị Hoa Kỳ bỏ rơi và thất thủ (30/4/1975) Hà Nội cử Cù Huy Cận, một nhà thơ với chức vụ BộTrưởng Văn Hoá Thông Tin vào Sài Gòn để dò xét tình hình đồng thời chiêu dụ giới Văn Nghệ sĩ Miền Nam hợp tác. Huy Cận đã đến thăm VHC với quà cáp hậu hĩnh gồm có một chai rượu quý và một lọ đầy thuốc phiện, một ảnh của HCM để nhờ thi sĩ đề tặng vài câu thơ lên đó với mục đích lập công, đồng thời sẽ dùng làm chiêu bài để dụ giới văn nghệ sĩ Miền Nam.

    Cuộc hội ngộ thân mật đã diễn ra sau thời gian dài xa cách, vì hai người đã từng quen biết nhau ở Hà Nội. Song, khi Huy Cận đề nghị Thi Sĩ đề thơ lên ánh HCM, VHC im lặng không nói, không hứa chi cả. Huy Cận, khi ra về hẹn ba ngày sẽ cho người tới nhận bức hình. Vũ Hoàng Chương cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ mấy lời tiễn bạn mà thôi.

    Sau ba ngày, Huy Cận cho người tới nhận bức hình HCM, và được báo lại rằng hai tặng vật vẫn y nguyên, bức ảnh quốc tặc HCM vẫn vậy. Huy Cận rất tức giận, chờ dịp trả thù.

    III - Đêm Họp Mặt Văn Nghệ: "Hoạ tòng khẩu xuất."

    Khoảng đầu tháng 4 năm 1976, Việt Cộng tổ chức cái gọi là "Đêm Họp Mặt Văn Nghệ" do Thanh Nghị, một tên VC nằm vùng tổ chức (năm 1968 tết Mậu Thân bị động chạy trốn vô bưng theo cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ).

    Phiá Hà Nội với lực lượng hùng hậu gồm: Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh. Phía Sài Gòn thì Vũ Hoàng Chương cũng được mời tham dự

    Đề tài thảo luận là 2 câu thơ của Tố Hữu trong bài "Đời đời nhớ Ông" làm để khóc tên đồ tể Staline chết năm 1953:

    "Thương cha thương mẹ thương chồng
    Thương mình thương một thương ông thương mười"

    Lần lượt Thanh Nghị, Huy Cận, Vũ Đình Liên lên phát biểu. Dĩ nhiên toàn những lời hoa mỹ ca tụng Tố Hữu (tên thi nô trùm văn nghệ) lên tới mây xanh.

    Để cho có tính thống nhất và cho có vẻ hài hoà Nam Bắc, Hoài Thanh nhằm vào uy tín lớn của VHC, đã tha thiết mời Ông góp ý. Sau nhiều lần từ chối, chẳng đặng đừng, ông đã phát biểu.

    Dưới đây là lời phát biểu của VHC (theo lời tác giả Sông Lô kể lại):

    “Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình [hỷ, lạc, ai, nộ, ái, ố, dục] của con người mà vận dụng cho thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, bài thơ càng có giá trị cao.

    Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng đã được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh mình khi Tố-Hữu xuất thần vận dụng nỗi u hoài, sáng tác ra những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng, thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt sự thật. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.

    Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao, vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng, trước hết ông ta phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không đã, có chung một mối cảm xúc hay không?

    Tôi biết chắc là không! Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài, Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

    “Yêu biết mấy nghe con tập nói
    Tiếng đầu lòng con gọi Xít-Ta-Lin"

    Chắc chắn là không một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả mẹ của hay bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau mà ta đang mổ xẻ.

    Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là dưới sự đòi hỏi của một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.

    Theo tg Sông Lô, qua sự phân tích và lý giải của VHC, đám khán thính giả Hà Nội đã rất tức giận. Có người muốn phản bác lập luận của Ông, nhưng thấy không có chỗ hở, họ bèn đề nghị VHC nói về "Thi Ca" mong có kẽ hở để phê phán bắt bẻ. Ông đã diễn đạt như sau:

    "Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không thể chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, nhưng không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy."

    "Tôi xin nhắc lại: sự thực muôn đời sẽ là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống."

    Mấy ngày sau cái gọi là "Đêm Họp Mặt Văn Nghệ" đó, thi sĩ VHC đã bị bắt và đưa vào tù khám lớn Chí Hoà.

    Như vậy là đại hoạ đã đến với Ông. Tuy Ông biết trước nhưng không tránh, không thèm tránh do tâm Liêm sỉ và Khí phách cao vời của Ông. Ta thấỳ, trong bài thơ "Vịnh Tranh Gà Lợn " có câu:

    "Rằng vách có tai, thơ có hoạ."

    "Thơ có hoạ" rõ ràng, chính Ông đã biết trước trong tình thế đương thời rất dễ bị tai hoạ vì thơ, nhưng không lo và không cần tránh. Bởi nếu muốn, thì khi Huy Cận đến viếng, ông vó thể đổi màu như con tắc kè, "phản suy phù thịnh" thiệt dễ vô cùng. Cái
    Liêm sỉ của Thi Bá là ở chỗ này.

    Riêng về khí phách, ông đã biểu hiện qua phần phê bình 4 câu thơ của thi nô Tố Hữu và phần thuyết giảng về "Thi ca" mà ta đã đề cập ở trên. "Hoạ tòng khẩu xuất" vũng
    chính tại nơi đây!

    Ngoài ra, Liêm sỉ, Khí phách của Ông cũng đã thể hiện từ trước qua câu thơ:

    "Lòng lợn âm dương một tấc thành" trong bài "Vịnh Tranh Gà Lợn." Nói tóm lại qua bài "Vịnh Tranh Gà Lợn," tác giả đã biết trước là "thư có hoạ" song Ông vẫn "một tấc thành." Đó là tư cách của kẻ sĩ.

    Ông đã tiêu biểu sáng ngời cho hạng người hiếm thấy:

    - Phú quí bất năng dâm
    - Uy vũ bất năng khuất

    Ông bị bắt ngày 13/4/1976. Và mất ngày 6/9/1976 sau khi VC cho về nhà 5 ngày sau.

    IV -Thơ của VHC và Thơ hoạ:

    Vịnh Tranh Gà Lợn

    Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,

    Gà lợn om sòm rối bức tranh.
    Rằng vách có tai, thơ có hoạ
    Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
    Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
    Lòng lợn âm dương một tấc thành.
    Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
    Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
    (Vũ Hoàng Chương)

    Xót xa số phần hẩm hiu của một kẻ sĩ tài danh, hậu sinh phụng hoạ bài "VTGL" để ca ngợi liêm sỉ, khí phách của Ông, đồng thời cũng nghiêm mình kính cẩn chào và chúc Ông an lạc nơi cõi vĩnh hằng:

    (Phụng hoạ bài Vịnh Tranh Gà Lợn )

    Quốc bại vong nhân phận phải đành
    Thế mà phong thái đẹp như tranh
    Ung dung trước lũ quàng khăn đỏ
    Bình thảng quanh bầy phản áo xanh
    Dẫu biết hoạ tòng trong khẩu xuất
    Vẫn đem lý giải với tâm thành
    Chỉ vì cóc nhái ngồi bàn độc
    Cưỡi hạc... non Bồng ngắm nguyệt thanh
    (Nguyễn Minh Thanh cẩn bút)

    V - Lời kết :

    Qua câu chuyện của Vũ Hoàng Chương và Huy Cận, chúng ta thấy có điểm hơi giống chuyện cúa Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường đời vua Gia Long. Kết thúc tiểu truyện bi hùng:

    "Thi bá VHC khí phách cao vời với "Hoạ tòng khẩu xuất" xin mượn câu đáp khí khái của tiên sinh Ngô Thì Nhậm lẫm liệt với tên ĐTT tiểu tâm; để xót xa, ca ngợi bậc tài danh, một Kẻ Sĩ tiêu biểu trong Văn Học Miền Nam:

    "Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế."

    _____o0o_____
    (Nguyễn Minh Thanh biên soạn)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  4. #24
    Nhà Ngói Nguyenthitehat's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Giọt Sương Đêm
    Posts
    284
    Cám ơn VHN đã posted một câu chuyện, một truyện đọc hay "Củ Khoai Mì"

    Nguyễn Thị Tê Hát
    "Trước Khi có ta... ai đã là ta?
    Sau ta bây giờ... ai sẽ là ta?"

    http://vuonhatehat.blogspot.com/

  5. #25

    Việt Hạo Nhiên chân thành cảm ơn cô/chị Nguyễn Thị Tê Hát cùng các ACE sau đây:


    ___ thuykhanh, kim, chieubuon_09, HXhuongkhuya, NGOC HAN, cuocsi, Kiến Hôi, hoài vọng, CCG, PhPhuongVy, Thiên Di, HaiViet, songthuong, DuLan đã khuyến khích và ủng hộ chủ đề "Truyện Ngắn Sưu Tầm" trong bao lâu nay.


    Nhân dịp đầu năm, VHN xin được gửi đến tất cả ACE hội viên & BĐH diễn đàn Đặc Trưng lời cầu chúc tốt đẹp nhất trong năm mới 2017.


    Thân kính,
    Việt Hạo Nhiên__
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  6. #26


    ____GÀ ỐNG TRE__
    (Tác Giả: Nguyễn Quang Tuyến)


    Chuyện Lão Khoát thu nhỏ chữ "Ống" to đùng xuống dần dần, rồi chữ "Ống" còn nhỏ tí để người ta chỉ còn thấy chữ "Gà Tre", được coi như là chuyện thời sự ở cái làng nhỏ bên sông Trường Giang quê tôi. Con sông Trường mảnh khảnh bao mùa thiêm thiếp giữa hai bờ cát trắng và bóng thùy dương, chỉ chợt thức dậy kêu gào đáp ứng lời của biển trong mùa bão tố Cái con sông Trường tội nghiệp kia, mỏng manh là vậy mà cứ phải bao năm chứng kiến, chờ đợi, nghe ngóng biết bao nhiêu chuyện râm ran của cái quán nhậu Gà Tre bên bờ: Chuyện Lão Khoát .

    Lão tên thật là gì chẳng ai trong lứa tuổi chúng tôi biết; chỉ biết mang máng đã có một thời lão rời khỏi làng và nay trở về. Lão từng làm việc đâu đó nơi một nông trường Tây Bắc, và có một sổ hưu đủ sống lay lất. Vốn là người từng trải đây đó cộng thêm tính chất trai xứ Quảng, nên miệng lão huyên thiên, đã nói là không muốn ngừng, ngừng chỉ là nhịp nghỉ để tìm cơ hội nói tiếp. Lão tranh luận mọi thứ, hiểu biết mọi thứ và tất cả đều dựa vào cái đài lão đặt trên cái hòm gổ đầu giường , đài cung cấp cho lão từ chuyện ngủ nên nằm nghiêng bên phải cho đến chuyện cái vũ trụ này đã tạo dựng nên từ mấy triệu năm và có một cái lổ đen ghê gớm nó sẽ nuốt chững căn nhà của lão lẫn bà Ba hàng xóm! Lão biết hết và lão sẳn sàng sùi bọt mép để tranh luận cho cái biết làng nhàng của lão.

    Lão Khoát mê lý luận đủ mọi thứ trên đời và lão phà cái lửa trung tâm chân lý đó cho bọn trẻ chúng tôi. Ðàn ông xứ Quảng ngồi bên nhau là cải lấy được về mọi thứ, nhưng nơi nào có mặt lão Khoát thì tranh cải bao giờ cũng có đề tài, đủ các loại đề tài, mà phần thắng luôn thuộc về lão với nhiều lý do khác nhau . Chân lý dù trừu tượng đến mấy lão cũng vê lại, giải thích, cho nhiều ví dụ cụ thể và cuối cùng thì bao giờ lão cũng phán:

    - Ðó, coi kìa, nó rành rành, thấy không ?

    Có lẽ chẳng ai thấy, nhưng đành nhường cho lão cái lẻ phải mà lão độc quyền ôm giữ. Việc gì rồi lão cũng lật qua lật lại vấn đề ở nhiều góc cạnh, và cũng tìm cho ra cách giải thích. Lão có cách giải thích kiểu của lão, và giải thích xong lão xem như đã giải quyết xong mọi việc. Ðể chứng minh chân lý của mình, nhiều khi lão thêm vào các con số, hoặc phần trăm, hoặc so sánh; theo lão dường như có thêm bao nhiêu số lẻ là sẽ gần chân lý bấy nhiêu “Cả xã mình nuôi hơn hai ngàn ba trăm con heo, so với trước là: … “ . Chẳng ai kiểm chứng điều đó được nhưng cứ nghe các con số nối nhau là có cảm giác đó là sự thật! Biết tụi con cô Bảy ở xóm trên bỏ học vì nhà quá túng quẩn, cô Bảy chạy gạo từng bửa bương chải nuôi ba con, lão Khoát nhíu mày:

    - Cái việc bỏ học là không được! Giáo dục là việc quan trọng! Rồi tương lai tụi nhỏ ra sao? Phải có tri thức, nhất định là phải có tri thức mới mong đóng góp công sức cho xã hội! Còn khó khăn thì là cái chung của xã hội, phải vượt lên, phải phấn đấu. Làm cha làm mẹ là phải lo cho con cái có cơm, có chữ, phải không? Nó rành rành ra đó, thấy không?

    Sau khi lão vung tay, rướn mắt, văng nước bọt nói về chân lý “ cái cơm, cái chữ “ là xem như cái chân lý ấy lão đã bao lại được, gói nó lại và xếp vào ngăn tủ thuộc loại: “ đã giải quyết xong! “. Còn chuyện cô Bảy tối nay có ôm bụng đói, khóc râm rứt vì con mình bỏ học đi làm phụ hồ thì lão chẳng bao giờ lưu tâm .

    Tôi quen lão Khoát cũng đã lâu , từ ngày lão và hai thằng cháu dựng cái quán Gà Ống Tre ở bìa làng , bên cạnh sông Trường Giang nhạt nhòa bên đồi cát trắng . Trước đó , lão đã đi khắp xóm nói về kế hoạch nuôi gà của lão . Khu vườn hơn công đất nằm lẹm bên bờ sông được lão dựng chòi tranh , đan phên tre dựng quanh rào . Như mọi người đàn ông xứ Quảng , lão luôn nói to hơn âm thanh cần thiết để cho mọi người nghe:

    - Nè, đâu có phải bởi tôi trồng một vạt rau húng mà tôi phải mở tiệm phở, rồi nói đó là phải kinh doanh từ A đến Z? Nói cái gì cũng phải có căn cơ, nuôi một bầy gà đâu phải là lý do mở quán? Tôi có bờ sông, tôi có gió nồm mát, tôi có lùm tre kót két trong gió trưa hè … Chừng đó cái có, cộng với con gà, cộng với bó rau răm … Hà , hà thêm chút sáng kiến kinh doanh là ra Quán thịt gà . Nhưng vấn đề là gà gì ? Có đặc biệt không ? Có lôi kéo sự tò mò của mọi người không? Ðó, rành rành vậy đó mới là có kế hoạch! Kinh doanh mà không biết qui luật của nó là hỏng bét!

    Lão nghỉ hơi, ngắt ngang bài thuyết minh tràng giang bằng cách gỏ gỏ mấy ngón tay cáu gắt lên cái đầu bi ve hói, lưa thưa mấy sợi tóc bạc. Càng lý luận, mắt lão ánh lên , khuôn mặt linh hoạt được chấm phá bởi hàm răng lộn xộn , ố vàng bờn bợn vì khói thuốc Như những người Khu V, sống một thời gian dài ở đất Bắc, trong câu nói của lão bao giờ cũng chen vào mấy từ nhé, đấy … và vài ngữ âm phải bấm môi, cong lưỡi để có âm vờ, âm rờ. Mới đầu thì dân trong xóm thấy là lạ về cách nói của lão, lâu dần rồi cũng quen đi, và lâu dần lão cũng bớt xì xì, xù xù cái âm có tiếng gió!

    Quán thịt gà của lão một thời nổi tiếng cả huyện, nghe nói có tờ báo địa phương, có nhà Ðài tới phỏng vấn cách làm ăn của lão nữa. Lần đầu tiên, tôi đến thăm lão Khoát là thời đó.

    Ngày ấy, quán của lão trương một bản hiệu lớn viết rõ to bốn chữ Quán Gà Ống Tre. Dường như để nhấn mạnh chữ Ống được viết to và đậm nét bên cạnh một con gà thịt vàng hườm, bóng mỡ, đang hoát mỏ lên trời, như đang cầu nguyện.

    Tôi ngồi bên chỏng tre chờ món gà ống tre muối tiêu chanh nổi tiếng. Gió nồm riu riu từ dòng Trường Giang mơn man trong nắng chiều nhàn nhạt; từ xa tít dòng sông như tan hòa trong màu mờ mờ của cát trắng và thùy dương. Chiều quê bao giờ cũng bải hoải buồn vô cớ, không tên. Lão Khoát trờ tới, đon đả như quen nhau từ thời nào.

    - Ảnh ở mô tới? Ngồi chờ thịt luộc hè? Lão quay về phía bếp cao giọng: mấy đứa làm lẹ lên bay, đừng để ảnh chờ lâu!

    Chữ “bay” rê dài và cao lên, đúng là âm Quảng Nam dọc bờ Trường Giang . Quán có lai rai vài người khách quê, ồn ào, rôm rả xen tiếng bánh tráng nướng bẻ lốp bốp. Lão Khoát chủ động bắt chuyện.

    - Chú em biết không, thịt gà ống tre thực đặc biệt ngon, nó mềm mà không nhủn, nó béo mà không ngấy, nó có xương mà nhai như sụn! Có vậy Quán này mới nổi tiếng, mới lên Ðài được chớ!

    Tôi tò mò hỏi sao lại gọi là gà ống tre, lão đưa cái bàn tay thô ráp, sần sùi lên đầu vê mấy sợi tóc bạc lưa thưa, láu lỉnh nhíu mắt, nói như đánh đố:

    - Chiêu độc đó chú em! Thời kinh tế mà chú nấu không đặc biệt không khác người làm chi thắng được. Còn chờ gà luộc chín hơi lâu, chú ra sau vườn xem cơ sở chăn nuôi của tôi.

    Tôi theo lão ra sau vườn. Lão không còn là ông chủ quán nhà quê láu lỉnh, thăm dò từng động thái của mỗi khách hàng nữa; lão trở thành nhà kinh doanh khôn ngoan dày kinh nghiệm:

    - Ai nói cái khó nó bó cái khôn, nó ló cái khôn đó chú em à. Rành rành ra đó, đã làm phải làm cho trúng, làm cà lơ là chết, làm kinh doanh chứ phải chơi đâu ! Lão nhấp nháy ánh mắt tinh quái, đưa tay lên đầu vuốt tóc, rồi tiếp. Khởi kỳ thủy, tui nuôi gà công nghiệp, gà thả vườn, ở quê mình ai chẳng nuôi gà, có lễ tết tiệc tùng ai chẳng tự biên tự diển: gà nhà bếp nhà, rau nhà … Thế là ế, tui bèn làm quán bán cháo gà, cơm gà, lòng gà … Người quê mình không đến, người ngoài phố không vào, bán cho ai? Lại ế! Cái khó lại đến, thế là cái khôn lại ló ra ! Mình phải tìm mưu , tìm chước : Tôi nuôi gà ống tre và quán bán đặc hiệu: gà ống tre. tôi học miếng nghề này nơi một lão nuôi gà đá ở chợ Ðược. Lần đầu thấy con gà nung núc thịt như đòn bánh tét, hai chân co rút, què quặt, túm lông đuôi, lông đầu lún phún tôi ghê ghê; vậy mà cầm đũa lên rồi, nhai xương như sụn cá nhám mới thấy là đặc biệt Ðúng là đặc biệt! . Tôi học nghề nuôi gà ống tre. Chú thấy quán tôi phất lên như diều! nhà Ðài tới phỏng vấn về sáng kiến kinh doanh, về đặc sản … Hà, hà … người dưới phố kéo lên chật quán vì ham thích, tò mò và trong đó có tâm địa hơi độc ác một chút. Lão cười khà và lại vuốt mấy sợi tóc bạc lưa thưa như để chấm câu.

    - Sao vậy Chú? - tôi hỏi.

    - Cái này nó lạ lắm chú em à. Có làm dâu trăm họ mới thấy rõ lòng người. Ai cũng nói việc làm lành, hành thiện vậy mà trong cái sự khoái khẩu vẫn cần có chút ác độc nó mới làm cho cái khoái đậm đà, một chút ác độc trong việc sát sanh nó như gia vị trong thực phẩm. Dù món ăn chay cũng ưa lấy trái chuối làm hình con cá trê, lấy hột đậu đen làm đôi mắt long lanh. Có vậy khi cắn ngập răng mới thấy cái ngon có thêm phần khoái. Con cá, con chim, con ếch rô ti vàng mà không thấy mỏ nghếch lên, đôi cánh chập choạng gục xuống thì cái răng hờ hửng việc cắn xé. Chú em thấy đúng không, rành rành ra đó mà! Nhìn con gà ống tre mum múp thịt đỏ hỏn, thân thể chật ních thịt như đòn bánh mà đôi chân tí xíu như chân chim câu: cái con vật dị tật, bất toàn kia gây cho kẻ thưởng thức sự khoái trá! Hà hà chú em không thấy chút ác ý đó nó như vị cay cay của gia vị sao?

    Cái mà lão gọi là ác độc đó nó bày ra từng dãy trước mắt tôi: Ống tre loại lớn được cưa từng lóng, xếp từng hàng, có nhiều màu sơn khác nhau, nơi mỗi đầu ống một đầu gà mào đỏ, lông xù lú ra như đầu rùa ló khỏi mu. Thân hình gà nằm gọn trong ống tre, chỉ có đầu và một túm lông đuôi lưa thưa xỉa ra phía sau, phía cuối ống có khoét lỗ cho phân rơi xuống.

    - Ðây, chú em coi ống màu xanh là vào ống được 03 tháng, màu vàng nhạt là 02 tháng … màu nâu này là đã 06 tháng đến một năm, thịt chật ống như nêm, đưa ra chẻ ống được rồi. Nuôi gà tre thú khoái nhất là chẻ ống: chẻ trái dừa làm đôi thì mình biết chắc thịt dừa trắng , nước dừa trong ; nhưng chẻ ống tre thì hoàn toàn khác! Cầm ống tre thấy nặng tay, lắc lắc không có cảm giác thịt chưa khít thành ống, thế là chẻ được rồi. Mỗi lần chẻ ra là một khám phá, khách hàng rất thích thú cảm giác này!

    - Nhưng làm sao bỏ con gà vào ống tre để nuôi?

    - Lựa ống tre mỏng cơm dài cở hai gang tay, khoét lỗ tròn đầu lóng tre cho gà thò cổ ra mổ thức ăn, cắt từng phần cuối ống đan rọ tre chụp lại để gà mọc lông đuôi, lựa gà giò bỏ vào ống, trườn tới thì được mà lui thì không. Cứ vậy, gà thò đầu ra mổ thức ăn, uống nước, lớn dần đến lúc đầu không rút vào trong ống được, càng mập ra thì thịt chặt đầu, lông trong rụng hết chỉ còn ở chút đầu cổ, lơ thơ mấy sợi ở đuôi … Ban đầu gà còn kêu vì tù túng nhưng quen dần rồi thì thích thú vì khỏi bươn chải mà vẫn có cái ăn … Càng ăn, càng lớn, càng được bọc kín và hết đường xoay xở … và càng ngon !!

    Nhìn các dãy nhà tranh tiếp nối, mấy bầy gà thả vườn chạy đôn đáo tranh mồi bên đụn rơm, bên cạnh các dãy ống tre mấy chiếc đầu gà thòi ra lúc lắc, các cặp mắt thao láo.

    Lão Khoát với lấy một ống tre gà đưa tôi, tiếng ót ót như giọng thái giám trong cổ họng chú gà không làm tôi ngạc nhiên bằng cảm giác trĩu nặng, như bưng một khối thịt đặc cứng. Lão nhìn tôi như đo lường sự ngạc nhiên ngở ngàng của khán giả trước một trò xiếc ngoạn mục. Tôi thật sự kinh ngạc! Lão Khoát kéo tôi về phía sân sau bếp. Sân gạch nhỏ sau bếp vươn vải mấy túm lông gà, mấy dúm ruột gà lầy nhầy o o tiếng nhặn xanh. Lão đặt ống tre dựng đứng, trụm lông đuôi lơ thơ nằm bẹp dí xuống sân lát gạch tàu, đầu con gà đỏ au trang trọng ngẩng cao nhìn thẳng trời xanh . Mào đỏ, mỏ cong, cặp mắt vẫn thao láo nghiêm trang. Lão Khoát dùng mác chẻ nhẹ ống tre trên nền gạch, ống tre toát đôi như vở òa ra bởi sức căng núc ních của khối thịt. Con gà lăn tròn trên nền, tiếng kêu ót ót, the thé, con gà đáng thương! Nó nung núc thịt như đòn bánh, nhưng trông còn ghê hơn khi thấy đôi cánh rúm lại, đôi chân rút lại, mũm mĩm như đôi bàn tay và đôi chân em bé mơn mỡn mấy tháng tuổi gắn vào một thân hình mập ú, mặt mũi râu ria xồm xồm! Mấy sợi lông tơ như lông thỏ trắng, óng vàng mượt mà trên lớp da đỏ bềnh bệch, đỏ như đám mẩn ngứa trên da người. Con gà cứ kêu on ót và lăn tròn, đôi chân và cánh lâu ngày không cử động như mấy cục bọt nhão gắn thừa thải vào thân. Hình ảnh chú gà ống tre lăn tròn, đám mòng xanh kêu o o, tiếng con gà như thản thốt tắt nghẹn làm tôi cảm thấy lờm lợm. Tôi quay về chổ ngồi, một dĩa gà luộc vàng hườm bốc khói trên bàn làm tôi nghĩ đến cái tâm trạng ác độc mà lão Khoát vừa nói. Buổi chiều, gió biển xa lùa vào Trường Giang, gió nồm lăn tăn trên sông như nếp gấp của khuôn mặt u sầu, khắc khổ.
    ...............................

    Ðã mấy năm qua rồi, bây giờ tôi trở lại, trên trán lão Khoát lăn tăn gợn sóng, quán xưa là GÀ ỐNG TRE, chữ Ống bây giờ teo tóp, nhỏ lại và thành tên quán Gà Tre. Khu chợ nhỏ bên sông giờ đây đã nhiều màu ngói đỏ, hàng quán đông đúc hơn, duy lão Khoát đã già đi. Tôi hỏi lão tại sao thu nhỏ chữ Ống lại để quán thành Gà Tre. Lão trầm ngâm:

    - Cái thời thịt bắp, thịt giò, cứ cái con gì mập ú na, ú nú, thịt lắm mỡ nhiều là hấp dẫn, đã qua rồi! Ðó là thời thiếu đói quán xá cứ khêu gợi thịt thà, mở màng là lôi kéo khách. Lúc ấy thì cái cục thịt nung núc, xương mềm mở ngập của chú gà ỐngTre là chiêu hấp dẫn. Chỉ cần luộc chín, da óng vàng treo nghếch đầu lên trong tủ kính là cũng đủ làm lắm gả ngang qua quán, mắt liếc xéo, mà nước bọt nuốt đánh ực! Hà, hà. Cái thời ấy đã qua rồi chú em à; đùi, ức, phao câu mở màng chẳng lôi kéo được ai. Bây giờ người ta kêu gọi trở lại thời xưa, thời vườn rộng rào thưa, gà thả vườn, gà tre mới là món hấp dẫn . Tại sao à? Cũng phải thôi chú em à, trời cao đất rộng, cái gì quay về được thì nên quay lại cho hợp đạo trời đất. Con gà , con vịt , giun , dế đều tranh sống đều nuôi nhau sống chứ đâu có nằm ú nụ chờ sẳn để ăn! Tôi thấy cái lý ở đời vậy mà hay lắm chú em ơi!

    Lão kéo tay tôi vào vườn sau, mấy ống tre chẻ bỏ vươn vải bên xó bếp bầy gà bới mồi tốc bụi dưới gốc tre già.

    - Ðó, cái ngon của con gà bây giờ nó nằm ở cái lý giản đơn là đàn gà phải tìm cách sống, tranh sống. Phải bươn chải để kiếm mồi, phải biết lo rằng cái giun cái dế mình nhìn thấy đó nếu không nhanh tay, lẹ chân thì bị đối thủ chộp lấy . Ðơn giản, quá đơn giản phải không chú em? Vậy mà con người phải mất khá nhiều thời gian để tìm về cái đơn giản và lại tự hào là đã tìm ra cái mới lạ! Con gà ống tre, chú thấy đó, cái đầu, cái mỏ, cái mào ở ngoài ống thì phát triển bình thường; con mắt, cái đầu, nó thấy hết, nó hiểu hết, nhưng nó làm gì được với cái thân nặng nề, lê lếch trong ống Khi đói nó phải ăn, khát phải uống; và làm sao nó cấm thịt mở nó phì ra? Cái vòng lẩn quẩn!! Càng ở ống lâu thì càng khó thay đổi. Giai đoạn đầu, để cứu đàn gà lở nuôi trong ống tôi dừng cho ăn, chẻ ống và bán tháo mấy con đầy thịt. Có cố nuôi cũng không được, sống ngoắt ngoải, tội nghiệp! Chà, chú có thấy mới thương. Chẻ ống tre ra, bỏ đi cái vỏ bao bọc, nó như ốc mượn hồn bể vỏ, như rùa bể mu; đầu nó làm sao khiến được cái thân nặng nề, què quặt kia? Bỏ thức ăn trước mặt, đầu gà nhướng cổ nhìn mà cái thân đỏ hỏn, lăn lông lốc! Tội nghiệp! Cái đầu, cái cổ nó quen ngọ nguậy trong một cái lổ u hình ở đầu ống tre; cái thân nó yên ổn đầy tự tin trong cái ống tre cứng cáp … Bây giờ nó làm sao bươn chải, tranh dành con giun, con dế? Chẻ ống tre ra rồi, thấy đôi mắt nó long lanh ướt, nặng nề xoay xở, nó thừa biết khó thể sống được trong cuộc tranh dành con giun con dế với đám gà thả rong. Tội nghiệp bầy gà ống tre của tôi!

    Lão nói như muốn khóc, giọng lão thỉnh thoảng trầm xuống nghe như tiếng kẻo kẹt của hàng tre trong gió nồm thưa. Nghe lão Khoát khẻ khàn tâm sự, lão như lão nông tri điền ngồi bên sân nhà nhẩn nha nói chuyện với con bò nghé bên đụn rơm trong buổi chiều tà.

    - Còn mấy con gà nuôi năm ba tháng trong ống, lão tiếp, mới rụng lớp lông tơ, lông ống vẫn còn, chân vẫn còn loạng choạng bước thấp, bước cao. Chẻ ống ra là nó đi như người say rượu, đầu nghểnh hướng tây, chân đá hướng đông. Bỏ thức ăn xuống đất, mà đầu nó cứ nghếch lên trời; phải một thời gian nó mới điều chỉnh được để có cái nhìn chính xác về vị trí. Và khi nó biết cách định hướng, biết tranh dành thức ăn thì cùng lúc chúng cứ tụm đầu vào nhau rỉa rói mấy sợi lông ống đen mềm nằm sát làn da hồng như con giun chỉ. Vườn thì rộng, đàn gà vườn xôn xao chạy nhảy cào bới; chổ này mấy chú gà giò ríu rít đá nhau, chổ kia anh gà trống lẳng lơ túc túc gọi mái; chị mái già bới tung toé lá tre tìm ổ mối, la toáng lên như chỉ có chị ta là biết nuôi con mọn … Cuộc sống trong vườn sống động là vậy, mà chú em có biết không, đàn gà ống tre cứ đứng tụm đầu dồn ở góc vườn dương mắt chờ đợi … Chúng mổ nhau, những giọt máu đỏ chảy dài trên làn da, dính trên mỏ và trong các đôi mắt hoang dại, khiếp sợ … Tội nghiệp mấy con gà ống tre của tôi. Chúng không biết tìm mồi mà chỉ biết tìm nhau để mổ vào các vết thương chưa lành, chưa kịp lành!!

    Lão chỉ cho tôi xem mấy ống tre cưa từng khoanh ngắn treo lủng lẳng bên thùng lúa để ngang tầm mổ của đàn gà:

    - Ðể cứu chúng, tôi nghiệm ra cách này: chúng nó đã quen sống trong ống, chúng nó tồn tại và tự tin trong cái ống tre bao bọc, che chắn và cái mỏ cứ quen mổ ăn những gì có sẳn trước mắt, bỏ ống tre đi, phải bươn chải tìm thức ăn thì nó lảo đảo… ngay cả cho thức ăn trước mắt nó cũng không còn khả năng mổ và ăn như bình thường. Khi tôi treo mấy khoanh ống tre trước rổ lúa, nó thích thú đun đầu qua vòng tròn ống tre và mổ lúa ăn. Chú em có thấy lạ không? Ôi! Thói quen quả là một bản năng. Chắc còn lâu lắm lũ gà ống này mới quen với đất rộng trời cao, quen với ý nghĩ có một thế giới mềm mại, tươi mát quanh ta, ngoài cái ống tre.

    Tôi nhìn thấy mấy đọt tre nhún nhẩy theo gió nồm lùa từ dưới sông lên tiếng kọt kẹt đều đều êm ả, bên khóe mắt chân chim nhăn nhúm của lão Khoát hình như có tứa ra một chút nước ...

    ____(Nguyễn Quang Tuyến)___
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  7. #27
    Biệt Thự
    Join Date
    Nov 2016
    Posts
    1,234
    Em cắn chỉ, vá cờ cho phẳng


    Anh vươn vai làm Thủ Quốc Quân Kỳ.

    Cắm ngọn cờ lên bia đá còn ghi
    Ơn Tổ Quốc, ơn sinh thành dưỡng dục



  8. #28

    _Đầu năm Dậu, nhớ lại một sự kiện đã xảy ra trong cộng đồng Người Việt Hải Ngoại cách đây gần 28 năm.



    _Chuyện về cột cờ đầu tiên tại Little Saigon_
    (Tác giả : Lê Giang Trần)

    Người viết về câu chuyện này may mắn là bạn của 3 người trong nhóm vận động dựng cột cờ, nên đã được biết khá rõ ràng. Trong phạm vi giới hạn một bài viết, người viết chỉ vắn tắt, cốt yếu nhấn mạnh về ý nghĩa của cột cờ đầu tiên do chính người Việt Nam tị nạn dựng lên, hơn là chi tiết chính xác sử liệu. Rất mong độc giả chia sẻ, cũng như các nhân vật trong cuộc cảm thông bỏ qua những thiếu sót. Bài viết này được viết riêng cho chuyên mục “Người Việt, 30 Năm Tị Nạn và Định Cư” như một đóng góp nhỏ bé trong việc ghi lại quá trình thành hình và phát triển của cộng đồng Việt Nam tại Little Saigon.

    1981, năm Con Gà, trong một bài phóng sự của tờ LA Times do một nữ phóng viên gốc Trung Hoa viết về nơi phố thị Bolsa, bà đã ví von nơi này như là một “Little bit Saigon”. Dần dà người ta bỏ đi chữ bit, “Little Saigon” định danh từ đó. Nhìn lại, 24 năm, sang năm 2005 Ất Dậu là 3 con gà. Chợt nhớ Ất Dậu 1945 ngày xưa ở Việt Nam...

    Năm 1982 là năm định hình cho một phố thị Việt Nam tại quận Cam, con đường huyết mạch chính là Bolsa Ave với khoảng 100 cửa hàng Việt Nam mọc lên lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chưa nhộn nhịp hẳn vì hãy còn những khoảng đất vườn dâu, vườn cam, vườn rau nằm rải rác hai bên đường. Một chợ thực phẩm duy nhất là chợ Hòa Bình nằm cùng dãy với quán Café Le Crossand D'orée.

    Ít người biết rằng, không phải con đường Bolsa khai sinh ra nơi tập trung buôn bán, mà khởi đầu là trên con đường Wesminster, gần đến đường Golden West đã có ngôi chợ Việt Nam, chợ Quê Hương, đầu tiên tại đấy cho mãi đến 1982 vẫn còn, và rải rác dọc trên con đường này từ năm 1977 đến 1982 nhiều cửa hàng đã thành hình. Nhưng kể từ khi MiNi Mall (khu nhà sách Tú Quỳnh, nhà hàng Thành Mỹ) thành hình trên đường Bolsa, rồi Nguyễn Huệ, rồi khu nhà hàng Song Long nối tiếp, hầu hết các tiệm ở đường Wesminster cũng lục tục dọn qua khu tập trung mới trên đường Bolsa. Chợ Quê Hương đổi chủ rồi cũng bị chợ Hòa Bình hút hết khách nên ế ẩm và đóng cửa, chấm dứt thời kỳ phôi thai kinh doanh trên con đường Westminster bất hạnh.

    Trong sự thành hình của con phố Bolsa, sau 30 năm, dân Việt cư kỳ cựu ở vùng đất này nên nhắc đến một sự việc có tầm vóc tinh thần rất lớn đối với người Việt tị nạn sinh sống tại Little Saigon mà có lẽ theo thời gian đã chìm vào quên lãng, những người đến Little Saigon định cư sau này có thể cũng không nghe ai kể lại. Đó là cây cột cờ Việt nam đầu tiên được dựng lên tại khu thương xá Nguyễn Huệ, nơi có nhà hàng Đồng Khánh và phở Nguyễn Huệ. Nơi đây, lá quốc kỳ Việt Nam được phép chính thức treo phất phới trên nền trời, khẳng định và đại diện cho một dân tộc, một quốc gia, một sắc dân tị nạn Cộng sản đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ. Lá cờ tượng trưng cho hồn thiêng sông núi, tiêu biểu cho một giá trị lịch sử đã được gìn giữ và hy sinh bằng biết bao xương máu cho lá cờ ấy, lá cờ Vàng Việt Nam biểu tượng của một dân tộc có tự do đã bị cướp đoạt. Họ hoặc vượt thoát hoặc bị xua đuổi khỏi quê nhà và chỉ mang theo một ấn chứng duy nhất là lá cờ của dân tộc họ, lá quốc kỳ xác định một quốc gia mà thế giới đã công nhận.

    Trước năm 1989, là năm cộng sản Việt Nam mở cửa mời đón kiều bào về thăm quê hương, trước đó đối với người Việt tị nạn tại hải ngoại, quê nhà chỉ còn có trong tâm tưởng, không biết đến bao giờ mới trở về lại cố hương.

    Năm 1984, một phóng viên tờ LA Times đăng bài phóng sự về chuyến đến thăm Little Saigon, ông nêu lên nhận xét “Little Saigon không chỉ là một trung tâm thương mại, đối với tôi, Little Saigon là trung tâm của quá khứ và một lịch sử được mang theo từ Việt Nam...”

    Thực vậy, Little Saigon được xem là “thủ đô tị nạn”, một nơi có sinh hoạt chính trị mạnh mẽ, đồng thời tập trung hầu hết các văn nhân nghệ sĩ về đây sinh sống, đã tạo cho Little Saigon có một sắc thái đô thị đặc biệt, thu hút không riêng du khách Việt, du khách ngoại quốc cũng tò mò tìm đến viếng thăm nơi gọi là “Vietnamese Town”.

    Trở lại, vào cuối năm 1984, một số quân nhân đứng lên lập nhóm để vận động với chính quyền thành phố Wesminster, xin được dựng cột cờ treo lá quốc kỳ Việt Nam tại khu thương xá Nguyễn Huệ. Nhóm này gồm năm người:

    Cao Xuân Huy (Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến)

    Lữ Mộc Sinh (Lực lượng Đặc Biệt)

    Nghi Thụy (đài Truyền Hình Việt Nam)

    Lý Khải Bình (Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến)

    Việt Trí Cường, biệt danh Cường Cụt (Lực lượng Đặc Biệt)

    Khoảnh đất dựng cột cờ đã xin được của chủ phố là ông Triệu Phát. Mọi thứ được tiến hành trong hồi hộp nôn nao nhưng bằng tinh thần của quân đội, quả quyết, tự tin, danh dự. Tại sao hồi hộp? Đấy là khoảng thời gian tinh thần chống cộng ở cao điểm, thành phần cộng kiều trà trộn hoạt động ngầm trong cộng đồng Việt Nam thì luôn nằm trong bóng tối, họ theo dõi mọi sinh hoạt của cộng đồng tị nạn. Theo thống kê của chính quyền Orange County thời đó, mức quan tâm về tội phạm băng đảng trong cộng đồng Việt Nam không phải là con số nhỏ (số thống kê vào năm 1989 là 41%). Thời đó, chuyện nổ súng thanh toán trong hàng quán, vũ trường gần như là chuyện thường tình. Đối với quân nhân thì xem là trò trẻ con, nhưng tình huống nổ súng bất ngờ không biết ai là ai, đáng phải đề phòng.

    Khi tin tức dựng cột cờ được công khai phổ biến thì có truyền đơn rơi, thư hăm dọa phóng vào nhóm quân nhân khởi xướng tổ chức dựng cột cờ. Cường cụt đã nhiều lần được dán “note” vào kiếng xe anh với lời lẽ đại ý “Hãy bỏ ý đồ ngu xuẩn dựng cột cờ, thời thế đã thay đổi, đã hết thời của các anh v.v...” Vì những hăm dọa được tung ra tới tấp từ trong bóng tối như vậy, nhóm dựng cột cờ phải lưu tâm đề phòng, một mặt vẫn tiến hành việc làm của họ.

    Ngày 18 tháng 3 năm 1985 Lễ Thượng Kỳ được tổ chức. Nhóm dựng cờ gửi thư mời đại diện các tổ chức chính trị, hội đoàn, đặc biệt là các tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp trong quân đội hiện đang sống trong vùng hoặc lân cận. Ngày Lễ ấy có hai vị tướng đến chứng kiến là Tướng Nguyễn Ngọc Oánh ở Fressno về và Tướng Nguyễn Bảo Trị. Nhóm có mời được Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ đến dự. Từ San Jose, nguyên Đại Úy Không Quân Lại Thế Hùng xuống để điều hợp Lễ Thượng Kỳ.

    Đêm trước ngày thượng kỳ, Cao Xuân Huy trải “nốp” sleeping bag dưới chân cột cờ ngủ giữ vì cộng kiều tung thư hăm dọa sẽ ủi sập cột cờ. “Nằm đó, nó ủi thì mình chết trước” Cao Xuân Huy nói rồi cười khẩy, tiếp “Bộ tui để nó ủi khơi khơi dễ dàng à! ĐM, tui hổng biết làm gì tụi nó à?” Lữ Mộc Sinh thì nổi máu con gà điên pollo loco, thề nặng “Tui mà không kéo lá cờ lên được thì tui chặt bàn tay tui dưới cột cờ rồi kéo nó lên”.

    Đêm đó, ngoài một số quân nhân tự nguyện âm thầm thức suốt đêm canh giữ, còn có một số “anh em Bolsa”, những tay thứ thiệt, cũng ngấm ngầm lập vòng đai, đặt điểm trong các quán gần đó để “coi thằng nào lạ mặt nhốn nháo là hỏi giấy, ĐM, VC là tụi em thịt liền”. Rõ ràng là một đêm dài căng thẳng. Làm sao mấy quân nhân ấy không thủ “giò gà”. Đêm rồi qua, chỉ có mấy con mèo hoang quậy kêu ngoài thùng rác giấc khuya.

    Sáng ngày thượng kỳ, các quan khách, tướng lãnh đứng trên lan can lầu, trước văn phòng Luật Sư Trần Sơn Hà nhìn xuống. An ninh toàn khu vực đã được kín đáo trấn thủ chặt chẽ, kể cả bên kia đường, ngã tư đường. Cường cụt ngồi xe lăn, dưới hai chân cụt, cây UZI sẵn sàng. Hai tay nghiêm trang nâng lá quốc kỳ xếp thẳng băng vàng rực, cùng với lá quốc kỳ hoa sao Mỹ. Quân nhân Hổ, cụt một chân, đẩy xe lăn cho Cường cụt hai chân. Lại Thế Hùng điều khiển nghi lễ Thượng Kỳ. Tony Diamond kéo quốc kỳ Việt nam lên, Cường cụt kéo quốc kỳ Mỹ lên. Theo quy định cho phép, lá quốc kỳ Mỹ phải treo cao hơn quốc kỳ Việt Nam vì là cờ quốc gia chủ. Cường cụt lúc thượng kỳ quá xúc động, lòng yêu nước tăng lên sao ấy, chỉ kéo cờ Hoa Kỳ bằng ngang cờ Việt Nam. Vậy mới có chuyện.

    Đám phản chiến Mỹ bỗng xuất hiện sau đó, đòi cắt dây hạ cờ Việt Nam xuống vì đã dám kéo cao bằng ngang cờ Mỹ. Nhóm đại diện Cựu Quân Nhân Mỹ bèn can thiệp. Nhóm dựng cờ phải theo luật định, nhích lá cờ Việt Nam xuống thấp nửa lá cờ Mỹ. Tạm êm chuyện. Cộng kiều có lẽ nhận được chỉ thị mới, bất động, không thấy cho xe đến ủi, không thấy bắn sẻ, không pháo kích, không đặt plastic hay gài mìn claymore chỉ có gió xuân thoang thoảng mùi hoa trúc đào và trên cao gió lộng, lá cờ vàng tung bay phần phật. Lần đầu tiên nơi hải ngoại, lá cờ của hồn thiêng sông núi Việt Nam vươn mình uốn lượn như con rồng tung mình vờn gió xuân.

    Một cụ già mù có người con trai đưa đến dự lễ, khi lắng nghe có tiếng phần phật cờ reo, ông níu cánh tay người con hỏi: “Cờ đã kéo lên được chưa con?” “Dạ, kéo lên xong rồi Ba”. Cụ già bật khóc nức nở, gương mặt không còn ánh sáng đôi mắt lộ đầy xúc động mếu máo, bàn tay run run vịn chặt vai người con trai bên cạnh, anh cũng rưng rưng theo nỗi niềm của người cha. Cao Xuân Huy tình cờ đứng gần, chứng kiến, quay vội vào tường cho giọt nước mắt nóng hổi của mình lăn khỏi con mắt.

    Bầu không khí trang nghiêm long trọng ấy, khi lá Cờ Vàng Việt Nam tung bay trên nền trời Little Saigon, ai chứng kiến mà không vui buồn lẫn lộn, xúc động ngậm ngùi hòa lẫn hãnh diện lâng lâng. Ôi phải 10 năm, từ 1975 đến 1985, mười năm sau mới thực sự tận mắt nhìn thấy lại lá cờ oai linh của đất nước Việt Nam tung bay cùng gió lộng. Thôi... âu cũng là niềm an ủi lớn lao cho tâm trạng lưu vong trên đất khách quê người... cho ấm lòng chiến sĩ....

    Nhà báo Du Miên cho biết, cột cờ Việt Nam tuy dựng lên là được sự cho phép của City Westminster, nhưng dựng xong vẫn chưa có văn bản chính thức. Sau khi dân Mỹ tại đây thấy cờ Việt Nam kéo lên, đã phản đối mạnh mẽ lên cơ quan chính quyền thành phố, họ đòi hạ xuống, khiến City lúng túng. Bấy giờ ông Trần Duy Hòe (thuộc Lực Lượng Đặc Biệt) phải xông xáo ra vào city đòi hỏi phải có văn bản cho phép chính thức cho cây cột cờ đã thành hình. Cuối cùng, một nghị quyết của chính quyền thành phố Westminster được ban hành, chấp nhận trên pháp lý về sự hiện hữu hợp lý của cây cột cờ. Đó là công lao của Ông Hòe và một số người thầm lặng cùng sát cánh với ông.

    Vài hôm sau ngày thượng kỳ, dây cột cờ bằng nylon bị cắt đứt, lá cờ chao đảo chới với như kẻ sắp chết đuối kêu cứu. Thay dây mới. Lại bị cắt đứt. Kỳ này chúng ông thay bằng dây thép, siết bù lon lại, xem cộng kiều các con làm sao. Lữ Mộc Sinh tập họp anh em Bolsa, giao phó: “Tụi anh đã làm xong việc dựng cột và treo cờ. Đến phiên tụi em giữ cờ”. Như vậy, lá quốc kỳ Việt Nam lành lặn tung bay cũng nhờ có một phần góp tay canh giữ của “anh em Bolsa” thời ấy.

    Những ngày kế tiếp sau ngày thượng kỳ, dưới chân cột cờ liên tục được nhiều người mang đến những chậu hoa tươi bày kín khắp cả chung quanh, bày tỏ niềm vui và lòng yêu kính lá quốc kỳ. Ngày 30 tháng 4 năm 1985, sau hơn một tháng dựng cờ được tổ chức “Đêm Không Ngủ” dưới ngọn cờ vàng. Đêm không ngủ đầu tiên dưới ngọn cờ quê hương thật là đầy ý nghĩa, thật đậm đà tình người, thật vui và cũng siết ngậm ngùi khi thả hồn nhớ nghĩ về quê nhà, bên ấy còn bao người thân ngóng chờ mòn mỏi, bên các trại tị nạn thì khổ cực, kêu cứu tuyệt vọng...

    Thêm một chi tiết. Nơi khoảnh đất dành cho cột cờ có ngọn đèn đường đứng sát bên ngoài, nên nhìn vào cột cờ bị che khuất. Do hồn thiêng sông núi xui khiến sao đó, xuất hiện anh Diệp Thanh Tùng, tự nguyện chờ nửa khuya, mang xe cần cẩu lớn đến, cắt dây điện ra, dời cột đèn vào sâu trong sân, nối dây điện lại cho đèn cháy bình thường. Hỏi ra, anh là nhân viên đang làm trong Ty Điện Lực, thấy cột đèn che cột cờ coi chướng mắt không chịu nổi, bèn nổi máu anh hùng, bứng cột đèn đi chỗ khác chơi. Làm xong việc, lặng lẽ ra đi. Ai tin chuyện này có thể xảy ra, vậy mà đã xảy ra, mới thấy cây cột cờ linh thiêng thật.

    Từ 1985-1988, 3 năm liền tổ chức đêm 30 tháng 4 tại khuôn viên nhỏ hẹp nơi chiếc cột cờ phất phới lá cờ vàng. Ba năm ấy, một quân nhân Thủy Quân Lục Chiến là Huỳnh Minh Châu, người cao lớn, tính ít nói và hiền lành, tự nguyện làm người thay cờ, giữ cho lá cờ luôn được lành lặn và rực rỡ. Tiếp tục lặng lẽ bao năm trời đến ngày hôm nay, không biết đã có bao nhiêu tấm lòng âm thầm nối tiếp duy trì gìn giữ để từng ngày từng đêm trên bầu trời Bolsa vẫn không vắng bóng lá cờ. Ai biết? Ai thương?

    Sau khi tin tức lan truyền về cột cờ đầu tiên ở hải ngoại, có một vị là nhân viên của sứ quán Việt Nam ngày trước ở San Francisco, đã liên lạc với nhóm dựng cờ để mang lá quốc kỳ Việt Nam treo ở tòa sứ quán mà ông đang gìn giữ cẩn thận, mang đến bàn giao cho nhóm để treo lá quốc kỳ ấy lên. Buổi lễ được tổ chức thật cảm động và trang nghiêm ở trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam. Ông Trần Duy Hòe đại diện đứng ra nhận lá quốc kỳ.

    Sau năm 1989, do Cộng Sản Việt Nam mở cửa, Việt Nam dần dà không còn là một quê hương xa vời trong tâm tưởng như những năm về trước. Vết thương lòng đã nguôi ngoai, dấu chân của lịch sử cát bụi đã lấp bằng. Những lá cờ Việt Nam được dựng treo khắp nơi ở hải ngoại khắp thế giới, người Việt ở hải ngoại nhìn những lá cờ treo quá quen mắt. Nhưng nếu ai là người chứng kiến phút giây lịch sử khi lá cờ Việt Nam lần đầu tiên được kéo lên tung bay trên bầu trời tị nạn nơi xứ người, mới cảm nhận được trọn vẹn sự linh thiêng, tôn quý đối với một lá cờ được giữ gìn bằng biết bao xương máu của những vị anh hùng vị quốc vong thân.

    Sau năm 2000, tôi tưởng có lẽ chính mình cũng đã quên đi. Bỗng một hôm, nhìn thấy hàng ngàn người Việt Nam tị nạn ngồi biểu tình trong đêm lạnh, khi cùng nhịp, phất lên lá cờ vàng nhỏ bé trong tay, hàng ngàn lá cờ nhịp nhàng đồng phất lên theo những cánh tay ấy đã khiến tôi nghẹn cứng cả lồng ngực. Sức mạnh khủng khiếp của màu cờ đánh thức một cái gì bừng dậy trong tôi. Tôi không hiểu là cái gì, nhưng tôi biết chắc, hồn thiêng sông núi Việt Nam là một điều có thật, đừng quên.

    Đến cuối năm 2004, sau gần 30 năm từ mốc lịch sử 1975, lá cờ hồn thiêng sông núi, lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ, riêng tại Hoa Kỳ, đã được hầu hết các tiểu bang trên nước Mỹ công nhận là lá cờ của người dân Việt Nam Tự Do, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, đã vượt thoát ra đi, đi tìm tự do và định cư trên khắp thế giới. Lòng đấu tranh kiên quyết gìn giữ màu cờ dân tộc đã được đáp đền, đã được hồn thiêng sông núi Việt Nam, anh linh của anh hùng tử sĩ hy sinh dưới lá quốc kỳ tự do ấy phù trợ cho tấm lòng son sắt của dân tộc.

    Khi nào bạn có dịp đi ngang qua cây cột cờ đầu tiên dựng trên con phố Bolsa nơi Little Saigon, xin bạn gửi lên lá cờ vàng tung bay ấy một cái nhìn trìu mến. Chính lá cờ Vàng ấy mới thực sự làm ấn chứng đầu tiên cho cái thị tứ mà về sau, vào ngày 17 tháng 6 năm 1988 đã được chính quyền sở tại công nhận chính danh “Little Saigon” (bảng hướng dẫn exit vào Little Saigon đã được dựng trên freeway 22 trước khi vào exit Magnolia). vì nơi đây, đã trở thành một thành phố được mệnh danh “Thủ Đô Người Việt Nam Tị Nạn."
    ____o0o____
    (Lê Giang Trần)
    Last edited by Việt Hạo Nhiên__; 01-30-2017 at 12:58 AM.
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  9. #29

    __TRUNG THU CỦA BÁC ĐÈN XẾP__
    (Tác Giả: Lê Tất Điều)

    Đêm thật khuya, buổi sinh hoạt của đồ vật trong phòng bắt đầu như thường lệ. Bao giờ họ cũng tán gẫu với nhau về chuyện xảy ra ban ngày, hoặc về chú bé chủ nhân của một vài vật. Chị Tranh trên tường hồi này ít nói. Trước kia chẳng ngày nào chị ta quên khoe sắc đẹp của mình và nhắc đến những đôi mắt đã chiêm ngưỡng chị.

    Ông Bàn lên tiếng trước nhất. Ông càu nhàu về vụ hôm nay chú bé lại làm đổ mực lên mặt ông. Ông già rồi mặt mũi nứt nẻ cả, giờ lại loang lổ mực xanh, mực tím thật dơ bẩn. Ông cảm thấy xấu hổ, mất mặt với bà con quá. Cái bệnh mọt ăn trong xương, trong mình ông vào mùa này lại thêm nặng. Hết cằn nhằn ông xoay qua kêu rên, rồi ông gây sự với chú Ngăn kéo:

    - Đã nằm nhờ trong bụng người ta, còn rinh về đủ thứ, nặng muốn chết.

    Thực ra, lỗi không phải ở chú Ngăn kéo. Cậu bé có món đồ chơi gì cũng tống vào lòng chú. Nhưng Ngăn kéo không cãi. Ông Bàn già rồi, "kính lão đắc thọ." Ở với nhau lâu, chú biết tính ông. Ông hay cằn nhằn nhưng tốt bụng.

    Anh Ghế cũng lên tiếng phụ họa với ông Bàn. Anh than phiền về vụ chú bé hồi này hay nghịch, thường đứng trên mình anh mà nhảy nhót hoài.

    Anh Diều giấy suốt cả buổi chiều bay lượn mệt nhọc giờ này nằm ở gầm tủ ngủ bù. Nếu không, chắc anh đang ba hoa thuyết trình về tổ tiên của anh. Ôi! Thời đại của những ông Diều khổng lồ có sáo để ca hát vi vu giữa lưng trời. Anh thương nhớ thời đại đó biết bao! Tổ tiên của anh cũng chả bao giờ phải đeo một cái đuôi dài lằng nhằng như cái đuôi của anh bây giờ. Thân thể của các ngài rất cường tráng cân đối. Ít khi gió làm các ngài phải đảo nhiều vòng. Cần gì có đuôi để giữ thăng bằng.

    Trầm lặng nhất là ông già Cung tên, ông mang dòng máu hiệp sĩ quí phái, lúc nào cũng kín đáo với lớp áo màu đen phơn phớt bụi phong trần. Thỉnh thoảng, ông kể lại một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Các đồ vật trong phòng tưởng chừng nghe tiếng quân reo, ngựa hí và thấy ông Cung tên nằm gọn trong tay một dũng tướng, đang tả xung hữu đột giữa trận tiền. Đêm nay, ông không nói, chắc ông đang thương nhớ một điều gì. Hay ông lắng nghe tiếng bọn guốc dép kể các cuộc du lịch của chúng và lòng thầm khinh bỉ. Bọn giầy dép được đi xa, biết nhiều, nói dóc nghe còn thương được. Lũ guốc chỉ quanh quẩn ở xó nhà cũng góp lời, thật nản.

    Như thế, đêm sẽ trôi qua một cách bình thường cho tới lúc bình minh đến, nếu đột nhiên dưới gầm tủ không vang lên tiếng kêu thảm thiết:

    - Trời ơi! Cứu tôi! Cứu tôi!

    Đó là tiếng kêu của cụ Sách.

    Mọi vật nhốn nháo hỏi:

    - Chuyện gì đó cụ?

    - Cụ mơ ngủ hả?

    Cụ Sách hổn hển:

    - Tôi đang mơ màng thì bị cắn vào gáy một cái đau điếng!

    - Cái gì cắn?

    - Không biết. Chắc là một con quái vật.

    Ông Tủ có vẻ ngạc nhiên:

    - Này cụ Sách, sao cụ lại nằm dưới đó? Tôi tưởng cụ phải nằm trong lòng tôi chứ. Lúc nào tôi cũng chả dành cho cụ một chổ nằm mát mẻ rộng rãi.

    Cụ Sách vừa xuýt xoa kêu đau, vừa than thở:

    - Ấy, tại cậu chủ vứt tôi ra đây đấy. Hồi này cậu ấy bừa bãi quá, chả coi công dạy dỗ của tôi ra gì hết.

    Chưa nói xong câu, cụ lại kêu rú lên. Ông già Cung tên, vốn có máu hiệp sĩ trong người ra lệnh lập tức:

    - Phải có ánh sáng.

    Mọi vật đều hướng về phía Đèn Ống chờ đợi. Nhưng cái tên này đang ngủ say sưa. Bây giờ chỉ có ông chủ nhà đánh thức hắn mới dậy, và khi dậy hắn kêu lách tách mấy tiếng càu nhàu, nhập nhoạng ngái ngủ mấy cái. Hắn làm việc có giờ và cư xử một cách hết sức máy móc. Khi hắn mới được đưa về đây, ông Đèn Cầy vừa trông thấy đã than:

    - Thôi thế là máy móc đã bắt đầu ngự trị, đè bẹp loài đèn cầy rồi.

    Và ông lui về một góc bàn thờ, chỉ chờ dịp Đèn Ống ốm đau mới ra tay được một lát. Nhưng trong dịp có lễ lạc ông trở nên quan trọng lạ thường, đó là nguồi an ủi duy nhất, quả thực, những giây phút linh thiêng đó, ông Đèn Cầy cảm động và hài lòng, mặt mũi ông thật rực rỡ. Tư cách ông đàng hoàng hơn anh Đèn Ống nhiều. Trong lúc nguy nan thế này, ai dám trông mong vào Đèn Ống máy móc và ích kỷ. Nhưng, lúc này ông Đèn Cầy ngủ mê mệt. Anh Ghế gọi anh Diều:

    - Ê! Bồ bay lẹ tới gầm tủ coi con quái vật nào, đang tấn công cụ Sách?

    Diều cằn nhằn:

    - Việc ai người ấy lo. Tôi làm việc nặng nhọc cả buổi chiều rồi, không làm giờ phụ trội đâu.

    Nói xong, tên ích kỷ hạng nhì này ngủ tiếp. Mọi vật nghĩ đến chị Bóng bay. Nhưng chị ấy mới bị xì hơi hồi chiều qua, bị ốm, nằm ỉu xìu ở một góc nhà, gầy tọp hẳn đi, chưa biết xẹp lúc nào. Chắc chị không cất bước nổi.

    Tình hình có vẻ hoàn toàn tuyệt vọng. Bình hoa bắt đầu nhỏ lệ thương xót cho ông Sách. Bỗng dưới gầm giường có tiếng quay vù vù. Chú Con Quay đã đứng dậy. Chú xoay tít, xoay tít và lần tới gầm tủ quan sát. Chú nói:

    - Xin báo cáo với Đại tướng Cung tên. Kẻ tấn công cụ Sách là một con chuột khổng lồ. Nó đang cắn gáy cụ ấy.

    Cụ Sách rên rỉ không ngừng. Ông Cung tên hét:

    - Tôi có thể bắn hạ nó, nhưng làm sao xoay cho ra chút ánh sáng bây giờ. Tôi không thể bắn ẩu được.

    Mọi vật lại ngẩn ngơ. Làm sao có anh sáng bây giờ? Bình hoa khóc thảm thiết. Ông Bàn sốt ruột:

    - Tôi có thể khuân vác tất cả. Ai muốn nhảy lên mặt tôi mà ngồi cũng được. Nhưng tôi làm gì có ánh sáng. Tội nghiệp cụ Sách quá. Nếu cụ có bề gì chắc tôi không sống nổi. Ngày nào chúng tôi cũng gặp gỡ nhau.

    Ông Bàn càng nói càng nghẹn ngào!

    - Ông Cung tên sửa soạn tấn công đi. Tôi sẽ lo vụ ánh sáng.

    Câu nói đó của một giọng khàn khàn như xuất phát ra từ một nơi đầy bụi. Đó là giọng bác Đèn xếp. Bác chui từ gầm giường ra. Bác đã nằm đó để chờ tết Trung thu. Mỗi năm bác chỉ làm việc có một ngày. Thời gian còn lại, bác nghỉ hè.

    Bác Đèn xếp đã lăn tới giữa nhà. Bác đứng thẳng và sáng dần. Thân thể bác đầy bụi. Ánh sáng còn mờ. Những lằn xếp chưa dãn ra hẳn, chúng cũng lười biếng như những khớp xương lâu không được dùng tới. Ông Cung tên hét:

    - Ráng lên chút nữa!

    Bác Đèn xếp cố sáng hơn.

    - Tôi thấy bóng tên chuột rồi. Sáng thêm chút nữa bác Đèn xếp.

    Đèn xếp không ngừng cố gắng.

    - Rồi! Tôi thấy nó rồi!

    Mũi tên vụt đi trúng ngay con chuột. Nhà hiệp sĩ Cung tên mà bắn thì có bao giờ trượt. Mọi vật reo hò. Nhưng ở giữa nhà, bác Đèn xếp không thể chia vui được. Bác đã ráng sức đến nỗi cả thân mình bác bốc lửa. Bình hoa rú lên và ngất xỉu.

    Trong ngọn lửa nóng hừng hực, bác Đèn xếp thều thào:


    - Xin vĩnh biệt các bạn!

    Thoáng một cái, bác đã đen hết mình.

    - Trung thu sang năm các bạn hãy nhớ đến tôi nhé!

    ................. Và bác ngã xuống cùng với ngọn lửa.
    ___o0o___
    (Tác Giả: Lê Tất Điều)
    Last edited by Việt Hạo Nhiên__; 02-02-2017 at 11:05 PM.
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

  10. #30

    __Nghĩa trang xưa và tôi
    (Tác giả: Chu Lynh)


    "Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ, Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào."

    Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi hết chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời: tìm về nơi chôn nhau cắt rún, nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu, ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương giang khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa. Nổi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng, bởi ngổn ngang bao điều thúc bách. Ô hay, đau thương từ quá khứ như còn đâu đây, thoảng trên con hẽm về khuya khua đôi nạn gỗ hay bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước, một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu, nhưng xa hẳn thế giới đua chen, cần những bước chân ghé thăm và những nén hương lòng thắp lên...

    Trước đây mỗi lần đi qua khu vực này, tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc quy mô và nghệ thuật của nghĩa trang, và khi nhìn tác phẩm THƯƠNG TIẾC, lúc nào tôi cũng thấy bức tượng Người Lính sống động. Người lính ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến. Trong tư thế nuối tiếc Đồng Đội, anh như còn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi. Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một đấu tích để lại. Tôi nghe nói, người cộng sản đã đổ hận thù lên cả NGƯỜI LÍNH bằng đồng, một tác phẩm điêu khắc hiếm có, bằng cách đập phá bệ tượng, giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi.

    Toàn cảnh đã đổi thay. Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất, chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này. Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi: Cổng TAM QUAN và đền TỬ SĨ.

    Từ cổng Tam Quan, hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ONG mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa .

    "CON ONG KHÔNG THỜ HAI CHÚA,
    NGƯỜI LÍNH CHỈ CHẾT CHO MỘT NGỌN CỜ"

    Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn, nhìn thật rõ mới đọc được:

    "VÌ NƯỚC HY SINH - VÌ DÂN CHIẾN ĐẤU"

    Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi. Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình...

    NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HOÀ: Nghĩa trang của những NGƯỜI LÍNH đã chết cho Quê Hương Việt Nam. Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền TỬ SĨ, ngự trên đỉnh đồi, mà ngày nào đó, đã từng là nơi tôn nghiêm khi Vị Nguyên Thủ Quốc Gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong, ngày Quân Lực, ngày QUỐC KHÁNH.

    Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà (sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của Chính Phủ trước đây) vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ. Rừng bia mộ mênh mong nằm xen lẫn với cỏ cây u tùm, phân chia từng lô bởi những con đường đất. Rải rác đó đây là những ụ đất, những hố sâu, những cây cau su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ, còn lại là những ngôi mộ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói, có lẽ ba mươi năm nay, chưa một ai đến viếng. Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang, nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế. Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì đó trên mảnh đất này. Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại, tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm. Nhiều tấm bia bị đập bể, có những phần mộ bị dời vị trí. Một sự phá hoại qui mô đầy tính thù hận. Đột nhiên mắt tôi rưng rưng niềm phẩn uất.

    Người cộng sản đang chiêu dụ người Việt Hải ngoại về xây dựng đất nước, mời mọc đầu tư, cổ xuý hoà giải, vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả của những người đã nằm xuống. Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Mồ mã các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận, mồ mã nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẩn. Người cán binh cộng sản, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, họ là ai? Tất thảy là những người con dân Việt bất hạnh, là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng, phải được chia sẽ từng mảnh đất chôn cất, chia sẽ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù...

    Chiều xuống, nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những ngôi mộ như hớn hở đi vào ống kính ,cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận ảnh vài tấm bia . Khi quay ống kính về phía ngôi tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI sừng sững trước mặt, tôi thật sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ này. Nhìn rõ những hình ảnh trên Màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những NGƯỜI LÍNH VÔ DANH ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình, ngày nay họ trở thành những vị anh hùng trong lòng Dân Tộc.

    Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của tháng ngày thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái anh gửi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ, tình quê hương đậm đà. Anh về Thủ đô, lòng em rộn rã. Những địa danh bỗng hiện ra, những trân đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thắm ngọn đồi chiến lược ? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành? Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mãnh đất Miền Nam. Thế rồi Anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

    Bao nhiêu năm chiến tranh chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ nhưng không thể viết thành lời. Không thể viết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Người nằm đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quí giá. Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta biết bao điều suy nghĩ về sinh ký tử qui của con người, về tình tự Dân tộc muôn thuở của Quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản lại hô hào đoàn kết lại để chết cho một thiểu số người. Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức.

    Ôi quê hương ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của Dân tộc. Ta không dám mơ ước một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối. Kẻ nơi cõi âm, người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nổi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn còn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thuỷ chung cho thế hệ ngày mai. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lây động theo nhịp thở của Anh từ lòng đất

    Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngú
    Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.

    Ngôi Đền TỬ SĨ, ngọn tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI, vành khăn tang, rừng mộ bia, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người VIỆT NAM hằng yêu thương Đất Nước và Giống Nòi.
    ____o0o____
    (Chu Lynh)
    ___"In the end, it's not the years in your life that count. It's the life in your years." (Abraham Lincoln)

 

 

Similar Threads

  1. Truyện Thật Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 3
    Last Post: 06-23-2015, 06:14 PM
  2. Audio Truyện Ngắn
    By V.I.Lãng in forum Truyện
    Replies: 11
    Last Post: 08-07-2013, 05:05 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 04-26-2013, 02:03 AM
  4. Hẹn Hò - Truyện Ngắn - Mầu Hoa Khế
    By MưaPhốNúi_ in forum Truyện
    Replies: 5
    Last Post: 02-09-2013, 06:04 PM
  5. Truyện Thật Ngắn
    By cao nguyên in forum Truyện
    Replies: 92
    Last Post: 01-28-2012, 07:00 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 08:06 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh