Register
Page 2 of 14 FirstFirst 123412 ... LastLast
Results 11 to 20 of 134
  1. #11
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    TRẬN CHIẾN ÐẤU BI HÙNG CUỐI CÙNG
    CỦA TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN VŨNG TÀU


    Tác Giả: Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng

    (Cựu Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)




    Từ bên bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T54 và các sư đoàn Bắc quân đã xóa nát văn kiện hiệp định Ba Lê 1973, tiến dần về Nam. Như một thứ định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặc và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ bên ngoài cương thổ Việt Nam. Từng tấc đất bị mất. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt... Mất Quảng Trị, Huế, Ðà Nẳng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết...Và rồi đầu tháng Tư 75, Bắc quân bị Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Ðảo chận khựng tại Long Khánh 12 ngày đêm, sau đó địch tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn. Quân ta cứ rút, cứ rút.

    Vũng Tàu, những ngày cuối tháng Tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng, náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường.

    Ngày 26 tháng 4, Bắc quân tấn chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết! Nhưng trường Thiếu Sinh Quân thì dường như không. Truờng tọa lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, song lại bị ngăn cách bởi những vách tường vách đá kiên cố bao quanh, cái giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn không lọt vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặng như mọi ngày, Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 ( lớp người viết) đang trong thời gian học thi tốt nghiệp vẫn cúi đầu miệt mài với sách vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 được nhà trường cho về với gia đình, còn các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân, vì thế không khí nhà trường càng ngày càng nặng nề, yên tĩnh.. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra nét âu lo, bức xúc trên những gương mặt của các cán bộ và nhân viên cơ hữu nhà trường.

    Ngày 28 tháng Tư, chúng tôi được lệnh tập hợp sau bữa ăn chiều. Trung tá Ngô Văn Doanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:
    - Các em không có gì phải rối loạn, lo âu! Nhà trường đã có kế hoạch di tản!

    Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được Chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối rúc chui dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu lờ lững lượn trên vòm trời xanh.

    Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những âu lo của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo chẳng biết từ đâu xé gió rít qua không gian... và Ầm! Ầm!.. Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rơi vào chân núi đài viba sát đàng sau lưng trường. Ðại úy Lê Viết Ðắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12 rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược chạy xuôi lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ô ng như một con gà mẹ dáo dác bảo bọc đàn con. Không biết mục tiêu những viên đạn trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo trong đầu non nớt chỉ biết ăn học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống, sự chết. Chúng tôi vẫn nằm yên. Ðịch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.

    Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác mang mang, tuyệt vọng, toàn trường như bất động lặng yên nghe tiếng Ðại úy Hoàng, cán bộ Liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:

    - Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu Sinh Quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập hợp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh!
    Thế là hết! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuâân theo răm rắp. Khoảng xế 1 giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ nhân viên. Ðoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Ðội ngủ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang.

    Ða số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải doạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Ði về đâu? Với ai? Thông báo toàn trường được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính.. Ðột nhiên, nữa đường di chuyển, chúng tôi bị một số anh Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện cùng người chỉ huy toán lính TQLC... Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoáùn Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban ra. Trên đường về, tâm hồn tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắc nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản rất là mong manh.

    Về đến sân trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Ðội 7 đang chờ ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại, nặng nề. Cả đám chúng tôi bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên theo đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung sĩ I Ngộ, cán bộ của trường và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là liên lớp nhỏ nhất trường. Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng một chiếc trực thăng, chờ âm thanh cánh quạt, mỏi mòn, tuyệt vọng. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi bóng chiều ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

    Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời cổng trường. Trái tim tôi nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với, hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Rồi phóng thanh, một lần nữa, xác định một thực tế phủ phàng:

    - Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa! Các em hãy tự lo lấy bản thân!

    Thế là đã quá rõ! Chúng tôi bị bỏ rơi! Ngôi trường này là nhà. Cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết làm gì, và biết đi về đâu. Những trái tim non uất nghẹn, chới với, hoảng hốt. Và thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tản mát tung ra chạy khỏi trường. Nhưng chạy đi đâu? Chẳng biết! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!

    Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc thường đánh bóng bàn với tôi, cùng tôi, tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh. Tôi thấy ở phía trước mặt khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi, bị một người lính, không biết ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt, tôi và Thịnh vội vàng vứt súng và quay ngược chạy trở về trường, mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra Bãi Trước rồi rồi từ Bãi Trước quay ngược trở lại trường. Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường và gia đình nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu.

    Bố mẹ Vân dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vân nhìn hai chúng tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi. Là những bạn học cùng lớp, Vân còn có gia đình, ruột thịt ở bên cạnh, còn hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi giạt về đâu trong cn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trời, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗi lo âu. Và mọi người cứ nhìn nhau, không ai nói một lời. Trong lúc mọi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trường vọng lại:

    - Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm!

    Tiếng của em Thiếu Sinh Quân nhỏ vang vọng trong màn đêm, thúc bách não ruột như tiếng chim chíp của đàn gà con mất mẹ làm tôi vô cùng xốn xang, bất xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thiếu Sinh Quân lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng các em gọi loa đã giục tôi đứng lên và cương quyết trở lại truờng với các em. Bố Mẹ Vân lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vân và nói trước khi phóng vào đêm tối:

    - Tụi con không thể bỏ các em được!

    Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh... cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán Thiếu Sinh Quân khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu ăn và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu Carbine, cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

    Nhìn lên bầu trời đen thẳm, nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan nan với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẳn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến đấu này sẽ về đâu? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thên cuối cùng của chúng tôi.

    Tôi và Thịnh vát súng đi một vòng toàn trường, thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác những hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào ổ súng, sẳn sàng khai hỏa... Tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Ðổng. Tôi đặt mật khẩu, dặn các chốt canh học thuộc lòng, nếu thấy bóng người di chuyển đến thì hỏi, trả lời không đúng mật khẩu là "quạng" liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẳn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

    Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đèu được phân phối khẩu phần đầy đủ... (Nhìn các bạn "chén" bữa cơn nửa khê nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn...) Xong công việc, tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của Chỉ Huy Trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn thiết tha gì nữa, cậu ta chui vào một góc phòng và mấy phút sau đã bắt đầu "kéo đờn cò". Ngoài trời, đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công, nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vân đang làm gì, và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại bữa cơm đó. Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tỉnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã "hồn bướm mơ tiên", tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẳn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ nài lợi hại đến nhường nào.

    Tôi quay trở lại phòng Chỉ Huy Trưởng,và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bây giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hàng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai em gái tôi rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tọi lại đến vòi mẹ xin tiền, rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Ði gần đến chợ thì... một em THiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói:

    - Anh Dũng! Có lính đông lắm, đang đi về hướng mình!

    Tôi bật dậy, nhảy ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tỉnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì, và nghĩ cậu bé lay mình dậy vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hóa cuốc... nên sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm. Bỗng nghe tiếng oang oang của hạ sĩ Hoành mà các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo, anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên vì sự hiện diện của hạ sĩ Hoành, chẳng biết anh nhập cuộc tự bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:

    - Tụi bay ở đó đi! Chắc lính mình đó! Ðể tao ra coi thử!

    Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành, liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên, vát súng hướng về phía cổng trường. Ðến lúc đó, tôi mới thấy có một nhóm người lố nhố ở tít đàng xa đang hướng dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em sẳn sàng cho mọi bất trắc. Ðột nhiên, tất cả anh em đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:

    - Việt cộng!

    Tiếng hô "Việt cộng!" của hạ sĩ Hoành vừa dứt thì lập tức, tất cả hỏa lực đặt sẳn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề đồng loạt khai hỏa yễm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân không thể nào ngờ họ "được đón tiếp nồng hậu" như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hỏa lực từ trong trường dập ra thậy dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ là họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hỏa dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẳn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.

    Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã bừng thức giấc và ngạc nhiên, lo âu, nhìn vào trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng và Phạm Ngọc Trình chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vát súng, đứa vát đạn. Ðến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang, thoắt một cái, khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẳn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ đại liên trên lầu gào:

    - Ê tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạnnghe!

    Sau tiếng gào lớn của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù, mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn nổ tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng tấn công và chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân quả cảm, liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng "điếc không sợ súng" và ý nghĩ "không còn gì để mất!".

    Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở phía bên kia đường, chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hỏa từ trên cao, một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B40 để công phá chúng tôi ở mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hỏa lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.

    Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cánh cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xẩy ra không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B40 thứ hai nối tiếp một lần nữa, mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai thèm chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt đánh nhau mới "sướng!"

    Mặc dù có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Ðối phó với địch quân trên các tầng lầu khách sạn, Phú Văn Ðại cầm khẩu M79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà sử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.

    Ðối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phí hợp với trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng cũa các khẩu Garant nhịp nhàng, ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một dàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lưới đạn chằng chịt phủ xuống đầu đối phương.

    Với quân số ước lượng hơn một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hỏa lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến gần chúng tôi, nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước lằn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

    Ðến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng Chỉ Huy Trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên trên đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi chợt thấy một bộ đội cộng sản đang đặt một khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi, tôi bật ngay khẩu carbin trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt một ánh sáng xanh bay về phía tôi, chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay. Viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân - Trí – Dũng, phá tan một mảnh đá lớn. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Tôi khỵu xuống với chân phải bị trúng thương, liếc nhìn xuống áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà tôi không cảm thấy một chút gì đau đớn thì tôi ngả ra ngất xỉu. Trong lúc đó, Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân, Lê Văn Tánh chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.

    Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn Hóa. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

    Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngưng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự, vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em THiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn họ cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.

    Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, còn lại chỉ có vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị Bắc quân bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân, nên tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

    Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn , mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này, tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân. Bệnh viện đầy ngập những người bị thương, nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm, chẳng có y tá nào ngó ngàng tới, chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau tôi mới được biết tên là Nguyễn Kim Hùng, đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Ðến sáng hôm sau, thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu, Thiện huế và vài em nữa tôi không nhớ tên, đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

    Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Truờng Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu, tuy nhiên, trong lòng người dân xứ biển , hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội...







  2. #12
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    Có Một Mùa Hoa Gạo

    Nguyễn Vạn Lý


    ° ° °
    Văn lùi xe ra khỏi trạm xăng và tìm cách trở lên xa lộ. Chàng đang trên đường trở về sau khi thăm một người bạn thân tại New Orleans. Chàng phải rẽ xuống cái thành phố nhỏ ven biển Texas này để đổ thêm xăng. Bỗng chàng trông thấy mấy người Á Đông tại một ngã tư, và ngay cạnh đấy là một cửa tiệm bán thực phẩm Á Đông. Một tấm biển lớn đề một hàng chữ Việt Nam: "Chợ Quê Hương", và ngay bên dưới là một hàng chữ Tầu. Chàng mỉm cười tự hỏi:

    - Không biết "quê hương" ở đây là Việt Nam hay là Trung Hoa?

    Chàng không có việc gì phải vội vã, và lúc đó vẫn còn sớm, mới khoảng 11 giờ sáng, nên chàng đậu xe ngay trước cửa tiệm. Chàng dự định vào xem có gì đặc biệt để mua về làm quà cho vợ.

    Bên trong tiệm là từng dãy những tủ hàng đựng các đồ ăn khô và tươi, giống y như các tiệm thực phẩm khác mà chàng đã biết. Lúc đó là buổi sáng của một ngày đầu tuần, nên tiệm rất vắng khách. Văn đoán chàng là người khách duy nhất, và có lẽ là người khách đầu tiên của ngày hôm đó. Bên quầy tính tiền là một người đàn bà lớn tuổi, có vẻ là chủ tiệm. Một thanh niên làm công đang chất đồ lên các quầy hàng. Văn cắm cúi đi, ngó từng dẫy hàng, và chàng có cảm tưởng người đàn bà nhìn theo chàng. Cuối cùng chàng chọn mua một ít khoai lang. Chàng vẫn thích ăn khoai lang luộc, và những củ khoai ở đây trông mập mạp ngon lành và rất tươi.

    Tại quầy tính tiền, chàng có dịp quan sát bà chủ tiệm kỹ hơn. Bà ta khoảng gần sáu chục tuổi, tuy già nhưng có nét ưa nhìn. Trên khuôn mặt đầy phong sương của tuổi đời, đôi mắt mệt mỏi vẫn còn vẻ tươi vui, và nụ cười vẫn còn duyên dáng. Mái tóc bà ta đã ngả màu muối tiêu, nhưng dáng dấp vẫn còn nhanh nhẹn. Bà ta nhìn Văn đăm đăm trước khi bỏ túi khoai lên cân, rồi lên tiếng hỏi Văn bằng một giọng đặc Hà Nội:

    - Ông thích ăn khoai lang? Ông chọn khéo quá nhỉ! Khoai này ăn ngon và bùi lắm cơ.

    Văn có linh cảm chàng đã gặp người đàn bà này ở đâu rồi, nhưng chàng không thể nhớ ra. Chợt bà ta quay sang nói một tràng tiếng Tầu với người thanh niên làm trong tiệm. Văn mỉm cười: "Bà nói tiếng Tầu giỏi quá nhỉ?"

    - Thì tôi là người Tầu mà.

    - Nếu vậy bà nói tiếng Việt hay quá, đặc giọng Hà nội! Tôi cứ tưởng bà là người Việt đấy.

    - Thì tôi sinh đẻ tại Việt Nam mà.

    Khi người đàn bà cúi xuống lấy một cái túi nylon đựng khoai cho Văn, chàng trông thấy một vết bớt màu đậm ở cổ bà ta. Sau khi trả tiền, chàng bước đi, nhưng chợt chàng bàng hoàng quay phắt lại và hỏi:

    - Có phải bà là Mẫn ở chợ Cầu Không trước kia không?

    Người đàn bà mở to mắt, và hỏi lại: "Có phải ông là Văn không?"

    Văn buông rơi túi khoai, giơ hai tay lên trời và kêu lên: "Trời ơi quả thực là Mẫn rồi! Đã tưởng không bao giờ được gặp nhau nữa!"

    Bà chủ tiệm mừng rỡ, nắm lấy hai cánh tay Văn, và nhìn kỹ mặt Văn: "Tôi không ngờ có ngày gặp lại Văn. Ngay từ lúc thấy Văn cúi đầu đi ngó từng dẫy quầy hàng, tôi đã ngờ ngợ rồi. Vẫn cái lối đi ngày xưa, đầu lúc nào cũng cúi xuống như muốn tìm tiền của ai đánh rơi. Ở đâu mà hôm nay lại lạc đến đây thế này?"

    - Cũng ở gần đây, chỉ cách vài giờ lái xe thôi. Lần đầu tiên tôi tới cái thành phố này mà lại gặp được Mẫn. Mẫn ở đây lâu chưa?

    - Trên mười năm rồi đó. Này, từ cái lần cuối cùng gặp nhau đến nay là bao lâu rồi? Có lẽ cũng phải bốn mươi năm đấy nhỉ?

    - Bốn mươi mốt năm đúng!

    Mẫn chép miệng: "Quá nửa một đời người! Nhưng trông Văn vẫn trẻ, còn tôi thì già rồi."

    - Trẻ gì nữa, tại tôi nhuộm tóc đấy. Tôi với Mẫn bằng tuổi nhau thì chẳng ai già ai trẻ cả.

    Mẫn ngẫm nghĩ rồi hỏi Văn: "Hôm nay Văn có bận gì không? Nếu không có việc gì phải về gấp, ở lại đây ăn trưa với nhau một bữa, và kể chuyện đời cho nhau nghe được không? Tiệm ăn bên cạnh đây có nhiều món ngon đáo để. Đã lâu lắm mới có dịp mời Văn."

    - Thế thì nhất Mẫn rồi. Dù bận gì cũng bỏ hết. Gặp được Mẫn đâu phải chuyện dễ. Một giấc mơ đấy.

    Mẫn gọi người thanh niên lại, dặn dò bằng tiếng Tầu, rồi dẫn Văn sang tiệm ăn bên cạnh. Tiệm ăn sáng ngày thứ hai cũng vắng tanh. Hai người chọn một cái bàn bên cạnh cửa sổ trông ra biển. Bên ngoài gió vẫy vùng trong một khoảng trống bao la, quay quắt những cụm cây dại mọc bên bờ cát. Nước biển ở đây là một màu xám lợt không mấy hấp dẫn, và cũng không khích động lòng người tới những cuộc viễn du đến những chân trời xa.

    Thấy Văn nhìn ra ngoài bãi biển trống vắng, Mẫn than thở: "Cảnh ở đây trơ trụi lắm, chẳng có gì gợi nhớ đến cây gạo ngày xưa cả."

    *

    "Cây gạo ngày xưa!" Mẫn muốn nhắc tới cây gạo tại phố chợ Cầu Không một nửa thế kỷ trước? Hồi ấy là mùa hè năm 1945, lúc Văn mười tuổi, và Mẫn cũng bằng tuổi chàng. Tuy bằng tuổi nhau, nhưng Mẫn khôn lanh hơn Văn nhiều. Mẹ Văn có một tiệm bán muối độc quyền tại khu phố chợ Cầu Không. Văn học ở làng, cách chợ Cầu Không bảy cây số, nhưng mùa hè năm ấy Văn được ra sống tại Cầu Không.

    Đối với Văn thì phố chợ Cầu Không đã là một nơi đô hội rồi, vì tiệm bán muối của mẹ Văn ở ngay trước chợ nên lúc nào cũng náo nhiệt, nhất là vào những ngày phiên chợ thì người ta phải chen lấn nhau mà đi. Chỗ nào cũng có hàng quà hàng bánh, và nhiều người ăn mặc rất sang trọng. Cửa tiệm lại là một căn phố lầu bằng gỗ, có ban công. Văn rất thích cái thú được trèo cầu thang, ra ban công nhìn xuống đường, một cái thú Văn chưa bao giờ được hưởng ở trong làng.

    Khu phố có khoảng mười căn nhà lầu bằng gỗ, tất cả nhìn sang chợ Cầu Không; con đường liên tỉnh trải đá phân cách chợ và khu phố. Phía sau dẫy phố là một cái ao tù không có lối thoát nước, quanh năm phủ váng và là ổ sinh sản của muỗi. Cả khu phố ấy, không một nhà nào có cầu tiêu. Mọi người phải ra cánh đồng gần đấy làm cái việc bài tiết cần thiết. Thực ra cách ngã tư chợ Cầu Không một quãng, trên con đường trải đá sang Phủ Lý Nhân, có một cây gạo cổ thụ, gốc rất to và ngăn thành nhiều hốc lớn. Những cái hốc cây gạo kín đáo ấy đã trở thành một cái cầu tiêu công cộng cho những người sống trong khu phố chợ Cầu Không. Người ta cứ việc ra đó khi cần, rồi thơ thới ra về, và có từng đàn chó tranh nhau ra dọn dẹp sạch sẽ hết. Văn rất chịu cái thú "ra gốc gạo" này, và ở đây người ta hiểu cái thành ngữ "ra gốc gạo" có nghĩa là đi đại tiện.

    Chính một lần "ra gốc gạo" Văn đã gặp Mẫn. Chiều hôm ấy Văn đang ngồi trong một cái hốc của gốc gạo, mơ màng nhìn tới những làng mạc xa xa, lờ mờ ở cuối chân trời, thì chợt Văn nghe thấy tiếng những hòn sỏi rơi lách cách trong cái hốc bên cạnh. Hình như có ai đang chơi đùa với những hòn sỏi. Văn ngó sang xem có phải là một tên bạn cùng phố không, thì bị một tiếng con gái la mắng:

    - Ê, nhòm cái gì?

    Văn bối rối thụt lui, và vội vàng cho xong rồi đứng dậy ra về. Văn vốn nhút nhát, lại bỗng nhiên mang tiếng nhìn trộm con gái, nên muốn lảng tránh gốc gạo càng sớm càng tốt. Nhưng ngay lúc đó, từ cái hốc bên cạnh, một người con gái ăn mặc kiểu Tầu cũng bước ra. Cô ta gườm gườm nhìn Văn, như muốn trách mắng nữa. Thực ra Văn đã kịp nhìn thấy gì đâu, nhưng Văn lủi thủi cúi đầu đi như chạy trốn. Khi Văn về đến cửa nhà thì thấy cô bé người Tầu đó bước vào tiệm thuốc bắc bên cạnh. Trước khi khuất hẳn, cô bé còn lườm Văn một lần nữa. Văn bỏ lên lầu ra đứng bần thần ở ban công, nghĩ tới sự oan uổng của mình. Chợt Văn nghe thấy tiếng động ở ban công bên cạnh và quay nhìn sang. Văn lại thấy cái cô bé khó tính ấy. Cô ta trông thấy Văn liền quay lưng bước vào nhà, và đóng xập cửa lại.

    Bên cạnh nhà Văn là tiệm thuốc bắc Vệ Sinh Đường của một ông lang người Tầu mập ú. Tiệm thuốc có vẻ đắt khách lắm, vì không những ông lang mập kê toa bán thuốc, mà tiệm còn bán thêm hàng tạp hóa nữa.

    Hôm sau Văn gặp bà già nấu ăn của tiệm thuốc bắc, và hỏi dò người con gái Tầu là ai. Bà già cho biết người con gái Tầu ấy là cháu ông chủ Vệ Sinh Đường, gọi ông ta bằng chú. Tên cô ta là Tiểu Mẫn, và có người gọi là A Mẫn, nhưng mọi người trong tiệm chỉ gọi cô ta là Mẫn cho gọn. Nhà Mẫn ở Phủ Lý, nhưng vì lúc đó phi cơ Mỹ thường oanh tạc các vị trí của quân Nhật trong tỉnh, nên gia đình gửi Mẫn tới chợ Cầu Không với người chú để tránh nguy hiểm.

    Hàng ngày Văn học ôn bài vở vào buổi sáng trên gác, và buổi chiều đi chơi quanh quẩn trong phố. Phía đầu bên kia chợ có hai cây cầu song song với nhau, bắc qua một con sông nhỏ. Một chiếc cầu đúc được gọi là Cầu Tây và một chiếc cầu gỗ sơn đỏ có mái che được gọi là Cầu Tầu. Bên kia cầu là khu nhà xây kiểu mới, tường gạch và cửa kính, có những cửa tiệm đại lý rượu và thuốc phiện. Văn không thích dãy nhà xây kiểu mới này, vì không có lầu và thơ mộng như khu phố chợ. Văn cũng thích chiếc Cầu Tầu hơn Cầu Tây, vì Cầu Tầu có lan can và mái che mưa nắng, mặc dù bấy giờ không ai dùng cây cầu cổ ấy nữa. Văn thường đứng trên cầu hóng mát, soi bóng mình trong dòng nước chảy bên dưới. Kế bên Cầu Tầu là một ngôi đình bề thế, trước cửa có tượng Ông Thiện và tượng Ông Ác, và những hình rồng đắp trên tường và trên mái. Quang cảnh ở đây trông giống như một bức tranh Tầu.

    Ngày nào Văn cũng trông thấy Mẫn ở trong tiệm thuốc bắc. Lúc tiệm đông khách, Mẫn phải giúp bán hàng, và lúc rảnh rỗi, Mẫn cũng lang thang đi chơi bên đầu cầu hoặc bên trong chợ. Mấy ngày sau, Mẫn nhìn Văn một cách bình thường, không còn giận ghét như mấy ngày đầu, một phần cũng vì Mẫn thấy Văn hiền lành, không phá phách như mấy đứa trẻ khác trong khu phố.

    Một buổi chiều tối, lúc đó đã nhá nhem rồi, Văn đang đứng trong hiên nhìn sang những ngọn đèn tù mù trên những quầy hàng bán đêm trong chợ, thì Mẫn rụt rè lại gần Văn, dáng điệu có vẻ cầu khẩn. Mẫn hỏi Văn, "Đi ra gốc gạo không?"

    Văn lắc đầu. "Không, đi hồi chiều rồi."

    Mẫn năn nỉ, "Đi với tôi một lát đi. Tối rồi đi một mình tôi sợ lắm. Hôm nay bà già nấu ăn về quê, tôi không nhờ ai đưa đi được."

    Văn không muốn ra gốc gạo vào buổi tối, nhưng Văn bằng lòng đi với Mẫn, một phần vì Văn muốn xóa sự giận hờn của Mẫn lần trước. Thế là Văn và Mẫn đi ra gốc cây gạo, nhưng Văn đi cách Mẫn một quãng. Tới nơi Văn đứng cách xa cây gạo, lấy đá liệng xuống cái ngòi nước bên cạnh đường để giải trí trong lúc chờ đợi Mẫn. Lúc ra về, hai người gặp mấy con chó đứng chờ bên đường, những con chó đói, hung dữ đứng thè lưỡi nhìn hai đứa trẻ. Mẫn kinh sợ đi sát vào Văn, và khi tới gần bày chó, bàn tay run run của Mẫn nắm chặt lấy tay Văn. Văn cũng sợ đàn chó, nhưng không dám bỏ chạy một mình. Văn cúi xuống nhặt mấy hòn đá để phòng thân. Khi Văn cúi xuống lượm đá, mấy con chó liền lảng ra, chạy vào hốc cây gạo. Hai đứa trẻ bị một phen hú vía.

    Kể từ buổi tối ấy, Mẫn thân với Văn hơn. Những buổi chiều hai đứa trẻ thường đi lang thang với nhau, cùng nhau đứng tựa thành Cầu Tầu, vừa nói chuyện vơ vẩn vừa ăn ô mai của Mẫn lấy trong tiệm. Vào những buổi tối sáng trăng, đôi bạn trẻ len lỏi giữa những gian hàng trong chợ. Một lần hai người vào đình xem hát. Trong cái đám đông chen lấn nhau trong đình, Mẫn phải nắm chặt tay Văn, sợ hai người lạc nhau. Nhưng cái nơi ưa thích nhất của hai đứa trẻ là cây gạo vào buổi chiều, khi bóng mát của cây gạo trùm một khoảng rất rộng, và trước mặt là một cánh đồng bao la, lúa xanh lượn nhấp nhô như sóng biển. Văn và Mẫn thường ngẩng đầu nhìn lên vòm lá âm u, và ao ước trèo lên được ngọn cây gạo, vừa để bắt tổ chim, vừa có thể nhìn ra thật xa.

    Cây gạo đứng ngạo nghễ, vươn lên trơ trọi bên cánh đồng. Từ đằng xa hàng mấy cây số, người ta đã có thể trông thấy cây gạo rồi. Cây gạo dường như không thèm đếm xỉa đến cái loài người đang làm xú uế cái gốc cây. Ngày đêm cây gạo chỉ chờ đợi gió đến để tình tự. Đấy là một cặp tình nhân rất khác thường. Có những lúc gió bỏ mặc cây gạo đứng yên lặng buồn rầu, ủ rũ chờ đợi hàng giờ. Thường thì gió đến nhẹ nhàng như mơn man, cây gạo khẽ run lên, lá reo múa thành tiếng thì thầm của hai người tình thủ thỉ, những cành nhỏ cuống quýt chao đảo như mơn trớn vuốt ve, như rùng mình. Nhưng đôi khi gió ập đến thực hung dữ, như một cuộc ái ân cuồng nhiệt; có khi cây gạo và gió giống như một cặp tình nhân đánh ghen. Gió cuồng nộ quấn giật cây gạo, trong lúc những cành cây gạo trở thành những cánh tay chống đỡ, cào cấu quật vụt đối phương. Sau mỗi trận đụng độ như thế thì cây gạo lại thiệt thòi mất một số cành khô bị gẫy và nhiều lá rụng.

    Văn và Mẫn thích ra gốc cây gạo vào lúc lộng gió, vì giữa cơn quần thảo của gió và cây gạo, Văn và Mẫn có thể nhặt được những bông hoa gạo đỏ tươi cuối mùa. Có bông rơi vụt xuống như đâm đầu vào bãi cỏ xanh, không thèm ngoái nhìn lại chốn cũ; có bông rơi ngửa, miệng hoa vẫn quay về phía cây gạo, như luyến tiếc cái tổ ấm vừa lìa bỏ; có bông rơi một cách rất thong thả, quay quay trong gió như nhảy múa, và Văn và Mẫn nhảy lên vồ lấy hoa trước khi hoa rơi xuống đất. Văn và Mẫn thường thi nhau xem ai nhặt được nhiều hơn, và người thua thường là Văn. Một lần Văn bảo Mẫn:

    - Màu hoa gạo đỏ như má Chiêu Quân treo trong phòng của Mẫn.

    Mẫn không đồng ý. "Màu hoa gạo đỏ tươi hơn. Hình Chiêu Quân màu đỏ xậm và không tươi."

    Những ngày hạnh phúc của hai đứa trẻ mười tuổi cứ thế trôi đi dưới bóng cây gạo, bên đầu cầu sơn đỏ và bên những quầy hàng trong chợ. Mẫn lúc nào cũng là người ra lệnh và Văn vui sướng tuân theo. Cái thú đặc biệt nhất của hai đứa trẻ là đi "ra gốc gạo" vào những lúc trời mưa to. Hai đứa hai cây dù che người, đi chân không ra gốc gạo, thích thú nghe tiếng mưa rơi trên dù và cảm giác những luồng nước trên đường lùa vào kẽ chân. Bàn chân Mẫn dài và rất đẹp, những ngón chân hơi cong lên, bàn chân của một người có khả năng nghệ sĩ và khéo tay. Mẫn học ít hơn Văn nhưng chữ Mẫn viết đẹp hơn. Mẫn có thể đan được những chiếc quạt rất khéo, và biết thêu thùa. Mẫn còn nói tiếng Việt hay và rành rẽ hơn Văn. Khi phải kể lại một chuyện gì hay cần phát biểu điều gì, Mẫn nói rất rành mạch, rõ ràng và văn hoa hơn Văn nhiều. Giọng nói của Mẫn trong trẻo như tiếng ngân của chiếc khánh bạc. Đôi mắt của Mẫn to, có những cái nhìn vừa thiết tha vừa thấu hiểu. Đôi môi đỏ tươi hơi rộng, sẵn sàng bĩu môi phản đối một điều gì, hoặc căng ra thành một nụ cười thật dễ thương. Một khuyết điểm duy nhất trên người mà Mẫn lúc nào cũng cố che giấu là một vết bớt mầu đậm trên cổ. Mẫn thường mặc áo cao cổ để che giấu cái bớt ấy.

    Văn tự cho là may mắn có một người bạn gái như Mẫn. Niềm hạnh phúc của Văn còn được những tiếng nhạc phụ họa thành những giấc mơ. Lúc đó cuộc chiến tranh Trung Nhật đang hồi khốc liệt, và quân Nhật đang làm chủ Đông Dương. Những bản nhạc về cuộc chiến Trung hoa nổi tiếng như bản "Đêm Trung Hoa" hoặc "Ngày Nào Chàng Trở Lại" và bản nhạc "Biệt Ly" của Doãn Mẫn rất được thịnh hành. Văn thường nghe thấy người lớn hát những bản nhạc ấy, kèm theo tiếng đàn Banjo hoặc Mandoline là loại nhạc cụ phổ thông nhất thời đó. Nhiều đêm trăng, trong lúc Văn nằm ngoài ban công nhìn trăng sáng, nghĩ đến Mẫn, nghĩ đến Cầu Tầu sơn đỏ và cây gạo lộng gió, thì tiếng đàn và tiếng hát du dương từ trong chợ, từ đầu cầu vẳng lại, ru Văn vào những giấc ngủ nhẹ nhàng thần tiên. Một lần Văn ngủ quên ngoài ban công suốt đêm, nhưng đến sáng Văn ngạc nhiên thấy có một chiếc mền nhỏ đắp lên người. Ngày hôm ấy, lúc ra nhặt hoa gạo, Mẫn chỉ ngón tay vào trán Văn và trách:

    - Bận sau không được ngủ ngoài ban công nữa. Coi chừng nhuốm sương bị cảm đấy. Tối qua tôi phải lấy mền đắp cho đó.

    Bao giờ Mẫn cũng săn sóc Văn. Có lần Văn cãi nhau với lũ trẻ trong phố, và Văn có vẻ bị lép vế. Mẫn liền nhảy vào bênh vực Văn. Lũ trẻ không cãi lại được tài ăn nói của Mẫn nên tức giận và mắng Mẫn:

    - Cái con khách trú kia, cút về Tầu đi!

    Lần đầu tiên Văn thấy Mẫn tức giận như thế. Hình như hai tiếng "khách trú" làm Mẫn đau lòng. Mẫn xầm mặt quay lưng bỏ về nhà, và suốt hai ngày Mẫn không đi chơi với Văn. Có lẽ Mẫn giận lây cả Văn. Vì Văn mà Mẫn bị lũ trẻ kia xúc phạm. Nhưng chỉ vài ngày sau Mẫn lại vui vẻ với Văn, nhưng Mẫn không bao giờ nói chuyện với lũ trẻ con cùng phố nữa. Mẫn chỉ còn Văn là bạn, và hai người thân thiết với nhau hơn trước. Một lần Mẫn hỏi làng của Văn ở đâu. Văn trả lời:

    - Cứ đi thẳng con đường đê này về phía Phủ Lý, đi qua nhiều cánh đồng, nhiều cổng làng, và ngay sau khi đi qua một con sông nhỏ nước trong xanh, thì tới một khúc đê có một rặng nhãn là làng của tôi đấy. Làng tôi không có cổng làng. Khi nào Mẫn trở về Phủ Lý, Mẫn sẽ phải đi qua làng tôi.

    - Ở trong làng có vui không? Tôi thì chẳng bao giờ có làng để về, chỉ ở thành phố thôi.

    - Tôi thấy ở đây vui hơn. Ở làng tôi làm gì có Cầu Tầu và cây gạo to như ở đây. Trong làng cũng không có nhà lầu.

    Nhưng ngày vui nào rồi cũng có lúc chấm dứt. Ba tháng hè trôi qua mau hơn Văn mong đợi. Đã đến lúc Văn phải về làng để sửa soạn đi học trở lại. Ngày hôm trước khi về, Mẫn lẳng lặng đưa cho Văn một chiếc quạt bằng cói do chính tay Mẫn đan. Văn không có gì tặng lại, chỉ bẽn lẽn cám ơn Mẫn. Chiều hôm sau lúc Văn bước lên chiếc xe kéo để về quê, Văn không thấy Mẫn đâu cả. Văn ngẩng đầu nhìn lên ban công thì thấy thấp thoáng bóng dáng của Mẫn đang thụt lui vào trong phòng. Mẫn không muốn tiễn đưa Văn; có lẽ Mẫn muốn tránh xúc động.

    Khi chiếc xe kéo chạy qua ngã tư, Văn quay nhìn cây gạo. Bây giờ đã hết mùa hoa gạo rồi và từ nay Văn sẽ không còn được cùng Mẫn tranh nhau nhặt hoa gạo nữa. Văn ngơ ngác cảm thấy mất mát một cái gì. Văn quay lại, phố chợ Cầu Không khuất dần, cũng như niềm vui suốt một mùa hoa gạo cũng đang xa dần, và nỗi buồn tiếc đang bắt đầu dâng lên trong lòng Văn.

    *

    Thời cuộc bỗng biến chuyển mau lẹ. Trong lúc Văn sửa soạn cho niên học mới thì Nhật bại trận phải đầu hàng, và tất cả đều thay đổi. Mẹ Văn dọn hàng về làng, không còn bán muối độc quyền nữa. Văn sẽ không bao giờ có cơ hội ra sống tại phố chợ Cầu Không. Văn nhiều lần tự hỏi không biết Mẫn đã trở về Phủ Lý với gia đình chưa, hay vẫn còn ở lại Cầu Không.

    Một năm trôi qua. Văn đã học xong bậc tiểu học, nhưng không có phương tiện học trung học vì thời cuộc. Đối với Văn, mùa thu năm 1946 là một mùa thu buồn và đẹp nhất. Đó là lần đầu tiên cái tâm trí non nớt của Văn bắt đầu biết thế nào là tưởng nhớ, là buồn tiếc. Trước kia Văn không hề nhớ tiếc cái gì lâu. Nhưng trong cái mùa thu của năm 1946, khi khói thu bắt đầu xây thành thì người ta biết cuộc chiến với quân Pháp sẽ phải xảy ra. Tuy nhiên rất ít người biết chiến tranh sẽ như thế nào, và vì thế chiến tranh mang một cái đẹp lãng mạn như trong các bản nhạc, một thứ men say giục giã thế hệ đàn anh của Văn lên đường, ra đi theo tiếng gọi của xúc động và mộng mơ. Riêng Văn chỉ biết nhìn bầu trời xanh biếc, những ngọn khói lam bốc lên từ những mái tranh, giữa cái màu xanh ngăn ngắt của những vườn dâu, rồi thơ thẩn đứng bên một cây cầu nhỏ, nhìn dòng nước trong vắt mải miết chảy đi, giống như những ngày vui không bao giờ trở lại. Những lúc ấy Văn chỉ nghĩ đến Mẫn.

    Rồi chiến tranh máu lửa lan tràn, người ta phải tản cư, chạy trốn bom đạn và chết chóc, và sự học phải đình trệ vì những nhu cầu sống còn khác cấp thiết hơn. Văn cũng không còn thời giờ để tưởng nhớ tới Mẫn và cây gạo nở hoa nữa. Sau một thời gian tản cư, gia đình Văn vào Hà nội. Văn tiếp tục đi học trở lại, tuy chậm trễ mất vài năm.

    Vào mùa hè năm 1953, Văn học một lớp luyện thi Trung học tại phố Mã Mây. Hàng ngày chàng đi bộ qua phố hàng Buồm để tới lớp học. Văn đã trở thành một thanh niên 18 tuổi. Cái phố hàng Buồm lúc nào cũng tấp nập người đi lại, nơi có tiệm ăn Đông Hưng Viên nổi tiếng, và hàng dãy những tiệm ăn nhỏ, những tiệm thuốc bắc và tiệm tạp hóa. Một buổi chiều đi học về, Văn chợt nghe thấy một tiếng hỏi sau lưng, "Có phải Văn không?"

    Văn quay lại, chàng trông thấy một cô gái Tầu, mặc áo hoa đi giầy thêu, đang nhìn chàng đăm đăm. Trong một thoáng, Văn nhận ra Mẫn, người bạn gái của thời niên thiếu. Nhưng bây giờ Mẫn đã là một thiếu nữ xinh đẹp; nàng cũng 18 tuổi như Văn. Văn chợt thấy lòng rộn lên một niềm vui, như một bãi biển khô cạn buồn tênh bất chợt được một đợt sóng biển đổ ập lên. Chàng sung sướng reo lên:

    - A, Mẫn!

    - Tôi thấy Văn đi qua cửa nhiều lần, nhưng lần này mới bắt lại được.

    Văn nói đùa: "Gặp được nị, ngộ mừng lắm."

    - Biết được hai chữ Tầu mà cũng bày đặt nói.

    - Tôi biết nhiều hơn hai chữ. Tôi biết tới ba chữ cơ. Để tôi nói cho Mẫn nghe: "Ngộ ái nị."

    Mẫn có vẻ không bằng lòng câu nói của Văn. Nàng cau mày trách, "Lại nói sàm rồi!" Như để cho bớt căng thẳng giữa hai người bạn sau tám năm mới gặp lại nhau, Mẫn liền đổi mặt tươi cười và bảo Văn:

    - Văn vào đây. Tôi đãi Văn món này.

    Rồi Mẫn nắm tay Văn kéo vào một quán giải khát nhỏ gần đó, và gọi hai chén "lục tào xá" cho hai người. Hai người tíu tít hỏi thăm nhau về những ngày qua. Mẫn cho biết nhà nàng ở dưới phố Huế, gần chợ Hôm, và hàng ngày lên đây bán hàng cho một tiệm tạp hóa.

    - Tôi trông thấy Văn cả tuần nay rồi, nhưng Văn cứ cúi mặt xuống lầm lì đi nên tôi không vẫy gọi được. Hôm nay phải ra tận đường chờ Văn đấy.

    Rồi Mẫn cười khúc khích, trêu đùa Văn, "Sao Văn cứ cúi gằm mặt mà đi như thế? Coi chừng có ngày đụng phải hàng quà, làm đổ hàng của người ta rồi phải cởi áo ra mà đền."

    Hai người bạn cũ nay đã lớn, nhưng không hề giữ kẽ, vẫn coi nhau như những ngày còn thơ ấu, đứng bên nhau dưới gốc gạo hoặc bên thành cây cầu cổ. Thời đó đối với người con trai 18 tuổi thì tương lai vẫn còn ở phía trước. Nhưng một người con gái 18 tuổi thì đã tới giai đoạn dừng lại rồi. Mẫn bùi ngùi nói với bạn:

    - Thời gian qua mau quá, mới ngày nào mà đã tám năm rồi. Nhiều lúc tôi cũng nhớ đến những ngày ở chợ Cầu Không. Có lẽ đó là những ngày vui nhất của tôi. Bây giờ tôi phải đi làm công cho người ta. Bá tôi giờ già rồi - nàng gọi thân phụ bằng "Bá."

    - Nếu tôi không đi học tư thì chắc chẳng bao giờ gặp lại Mẫn. Mẫn làm ở đây có dễ chịu không?

    - Đi làm công thì có bao giờ khá được. Buôn bán mình phải là chủ thì mới khá. Chỉ có Văn là sướng, vẫn còn được đi học. Văn phải chịu khó chăm học đi để sau này làm ông nọ ông kia, để khỏi vất vả như tôi.

    - Phải rồi, học để sau này võng anh đi trước võng nàng theo sau.

    Mẫn bĩu môi, "Thời bây giờ người ta không đi võng nữa. Người ta đi xe hơi cơ."

    - Nếu vậy ngày ấy tôi với Mẫn cùng ngồi xe hơi với nhau vậy.

    Mẫn quay đi chỗ khác, làm như không nghe thấy lời nói có vẻ tán tỉnh của Văn. Hai người bạn cũ ngồi với nhau thêm một lát, rồi Văn đi cùng với Mẫn ra phố hàng Đào để Mẫn chờ xe điện trở về phố Huế. Sau đó ngày nào đi qua nơi làm việc của Mẫn, Văn cũng mỉm cười vẫy tay chào Mẫn. Cả hai trao đổi những nụ cười thật hồn nhiên thân thiện. Đôi khi quá đông khách, Văn không thấy Mẫn ngẩng lên chờ mình. Một lần khác, Văn chờ Mẫn hết giờ làm, rủ Mẫn ra phố hàng Ngang để ăn kem. Mẫn đòi trả tiền vì Mẫn nói học sinh thì làm gì có tiền, còn đang ăn hại bố mẹ, nhưng lần đó Văn nhất định đãi Mẫn. Đôi lần khác Mẫn cũng chặn Văn lại, trao cho Văn những gói quà, như bánh kẹo, ô mai... Đó cũng là những ngày hè hạnh phúc của Văn và Mẫn. Nhưng một lần Mẫn có vẻ rất buồn, báo cho Văn biết Bá nàng đau nặng.

    Rồi lớp luyện thi của Văn chấm dứt; chàng nằm nhà học ôn bài vở cho kỳ thi và không có dịp đi qua phố hàng Buồm nữa. Khi Văn thi đậu kỳ thi năm đó và được mẹ thưởng cho ít tiền, chàng đi ngay ra phố hàng Buồm tìm Mẫn. Chàng dự định mời Mẫn đi coi chiếu bóng và ăn cơm tối. Khi Văn tới tiệm làm của Mẫn, chàng không trông thấy Mẫn. Chàng đi đi lại lại trước cửa tiệm nhiều lần, và sau khi đợi hơn một giờ, Văn liều lĩnh bước vào tiệm và hỏi thăm về Mẫn. Người đàn ông chủ tiệm có vẻ cáu kỉnh, và bảo cho Văn biết Mẫn không còn làm tại đó nữa. Văn hỏi thăm nhà của Mẫn ở đâu thì ông ta lắc đầu không biết.

    Văn buồn bã đi xuống khu chợ Hôm nhiều ngày, hy vọng gặp được Mẫn. Chàng trách mình trước kia sao không hỏi địa chỉ của nàng. Sau những lần đi tìm không được Mẫn, Văn thường ra bờ hồ Hoàn Kiếm, đứng trên cầu Thê Húc trước đền Ngọc Sơn, để tưởng nhớ Cầu Tầu ở chợ Cầu Không, nơi chàng đã đứng suốt một mùa hè với Mẫn. Cầu Thê Húc cũng sơn đỏ, nhưng không có mái che như Cầu Tầu trong trí nhớ của chàng.

    Văn vẫn tiếp tục đi học và chàng cũng quên dần Mẫn. Cho đến ngày đất nước chia đôi, gia đình chàng di cư vào Saigon, và chàng vẫn không gặp lại Mẫn. Văn hy vọng Mẫn cũng di cư vào miền Nam, vì thế Văn thường đi lang thang vào khu Chợ Lớn hoặc những khu vực nào nhiều người Tầu cư ngụ, với hy vọng gặp được Mẫn, người bạn duy nhất trong suốt tuổi hoa niên của chàng.

    Năm tháng qua đi, những ký ức về một người bạn gái Trung hoa không còn thôi thúc trong lòng Văn nữa, nhưng cái ký ức về một mùa hoa gạo bên người bạn gái Trung hoa ấy đã khiến Văn yêu thích những gì là Trung Hoa. Chàng thích đọc truyện Tầu, coi phim Tầu, nghe nhạc Hồ Quảng và hay ngắm những thiếu nữ Tầu. Chàng đi vào nghề dạy học, và những học trò người Tầu hoặc lai Tầu của chàng thường được chàng ngầm ưu ái đặc biệt.

    Cái tâm trạng mong chờ người bạn gái ngày xưa đã khiến Văn chậm lập gia đình. Hình như chàng vẫn nuôi một hy vọng mong manh được gặp lại Mẫn. Mãi đến khi đứng tuổi rồi chàng mới vội vã lấy vợ, như sợ rằng nếu không lấy vợ ngay thì chàng sẽ không bao giờ lấy vợ nữa. Thế mà hôm nay, trong một chuyến đi chơi phiếm bất ngờ thì lại gặp Mẫn. Hai người bạn nhỏ xa nhau gần nửa thế kỷ, gặp lại nhau tại một nơi thật xa lạ, tưởng như chân trời góc biển, khi cả hai mái tóc đã điểm sương và cõi lòng đã nguội lạnh.

    *

    Mẫn và Văn hầu như không màng tới ăn uống, chỉ lắng nghe lời nhau, hoặc cố kể cho nhau những điều ấp ủ từ lâu. Hai người bạn cũ thấp thoáng thấy trong mắt nhau hình ảnh một cây gạo cô đơn lắc lư trong gió chiều, và mơ hồ trong lòng họ là tiếng lá gạo run rẩy xào xạc, tiếng sóng vỗ nhẹ vào chân Cầu Tầu, và tiếng nhạc Hồ Quảng nức nở gọi sầu trong đêm vắng.

    Đến một lúc Mẫn phải kêu lên, "Kìa ăn đi chứ, Văn! Coi này, tô canh chua nguội cả rồi."

    - Tôi không đói. Tôi chỉ muốn nghe cuộc đời của Mẫn, kể từ sau khi tôi di cư vào Nam.

    - Cuộc đời của tôi thì có gì vui đâu mà Văn muốn nghe.

    - Nếu vậy Mẫn kể cuộc đời buồn của Mẫn đi. Đã lâu tôi không biết khóc là gì. Thử xem cuộc đời của Mẫn có bắt tôi phải nhỏ nước mắt không.

    Mẫn ở lại Hà nội. Sau khi bá nàng mất, vì hoàn cảnh sinh kế, Mẫn phải lấy chồng rất sớm, ngay năm 1954, lúc Mẫn mới 19 tuổi. Chồng Mẫn lớn gần gấp hai tuổi Mẫn, nhưng có tiền. Đây là một cuộc hôn nhân không tình yêu. Trong suốt tuổi thanh xuân, Mẫn lúc nào cũng bận rộn buôn bán trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, và hầu chồng nuôi con. Thỉnh thoảng Mẫn cũng chợt nhớ đến Văn, khi tình cờ trông thấy một cây gạo nở hoa, hoặc đi qua một cây cầu cổ, hoặc thấy một người nào cùng trạc tuổi, có mái tóc dợn sóng bồng bềnh và cứ cúi mặt xuống mà đi. Những năm chiến tranh khi phi cơ Mỹ oanh tạc Hà Nội thì cuộc sống thực là điêu đứng. Chồng Mẫn chết khi Mẫn chưa già. Năm 1980, lợi dụng cơ hội người Trung hoa bị đuổi, Mẫn đã tìm cách chạy chọt cho Mẫn và con cháu ra đi, thoạt đầu là Hồng Kông, và sau đó trôi dạt tới cái thành phố miền biển Texas này. Con gái và con rể của Mẫn cũng có một tiệm thực phẩm ở một thành phố gần đó. Mẫn kết luận:

    - Kể từ năm 1954, cuộc đời tôi không có gì vui cả. Có một lần tôi sang Hưng Yên mua hàng, và đi qua chợ Cầu Không. Cây gạo vẫn còn đó, nhưng phố chợ tồi tàn hơn trước, và Cầu Tầu bị phá đi rồi. Thực là một phép lạ tôi sống qua được giai đoạn đen tối lâu dài ấy.

    Văn nghĩ cuộc đời và tình duyên của Mẫn không vui, và có lẽ đó là lý do Mẫn vẫn còn nhớ cây gạo cũ của một mùa hè xa tít trong dĩ vãng, cái khoảng thời gian sung sướng đáng nhớ nhất trong đời nàng. Mẫn hỏi thăm Văn về con cái, rồi cười chế nhạo Văn:

    - Cháu ngoại của tôi còn lớn hơn con của Văn đấy.

    - Đó là lỗi của tôi, cứ chờ đợi mãi một người đã lấy chồng rồi.

    - Có ai bắt chờ đâu! Thôi, ế vợ thì nhận đi, đừng đổ lỗi cho người ta nữa.

    Văn lảng sang chuyện khác, "Mẫn đã về thăm quê ở Trung hoa chưa?"

    - Mấy năm trước tôi về thăm Quảng Đông, nhưng khi về đến làng cũ thì dòng họ Triệu nhà tôi chẳng còn ai cả. Cả dòng họ đã lạc lõng khắp bốn phương trời rồi. Người làng coi tôi như người ngoại quốc. Thật là buồn, ngay khi trở về đất của tổ tiên mà vẫn là khách trú. Bây giờ ở đâu tôi cũng chỉ là khách trú.

    Rồi Mẫn cười lém lỉnh và bảo Văn, "Bây giờ tôi với Văn bình đẳng rồi."

    - Sao lại bình đẳng?

    - Tôi với Văn bây giờ đều là khách trú cả.

    Về một phương diện thì Mẫn và Văn đều là những người khách trú, những người phải xa quê hương và sinh sống ở xứ người, nhưng nguyên nhân của mỗi người thì khác nhau. Từ năm 1975, cả triệu người Việt bỗng trở thành khách trú, lưu lạc khắp nơi trên thế giới. Người Trung Hoa vì hoàn cảnh kinh tế, đã tự nguyện trở thành khách trú, luôn luôn tìm tới một vùng đất khách để sinh sống. Cái tâm trạng của những người khách trú mang những tình cảm rất mâu thuẫn nhau: vừa ước mơ vừa hối tiếc. Họ mơ ước tới được những miền đất hứa để sinh sống, nhưng vẫn luyến tiếc cái quê hương sinh ra họ nhưng không nuôi nổi họ, không bao dung được họ. Họ chính là những chàng Từ Thức, đã tìm thấy được Thiên Thai, nhưng vẫn còn nặng lòng trần.

    Chợt Mẫn đề nghị với Văn, "Này Văn, bữa nào tụi mình về thăm Việt Nam đi, trở lại chợ Cầu Không nhìn lại cây gạo ngày xưa. Cây gạo giờ chắc già lắm rồi. Hy vọng người ta chưa đốn cây để bán gỗ."

    Từ một nơi đất khách, hai tâm hồn cùng hướng về một cái mốc rất xa xôi, xa xôi cả trong thời gian và trong không gian. Người ta có thể quay trở lại một điểm nào đó trong không gian từ đó người ta đã ra đi. Nhưng người ta có thể nào đi ngược thời gian về một thời điểm trong quá khứ không? Văn ngậm ngùi nói với Mẫn:

    - Tôi cũng muốn cùng Mẫn về thăm lại chợ Cầu Không lắm. Nhưng tôi sợ rằng khi trở về bên cây gạo ngày xưa, tôi cũng chỉ là một người khách trú thôi.

    Hai tâm hồn khách trú già, lận đận suốt gần một đời người đầy dâu bể, mà vẫn ướp giữ ấp ủ những hình ảnh về một mùa hoa gạo rất xa xôi. Hình ảnh của nhau đã khắc sâu trong tâm họ đến nỗi, đối với nhau, cả hai người không bao giờ thay đổi, không bao giờ lớn lên, lúc nào cũng chỉ là những tâm hồn mười tuổi của một mùa hè tuyệt vời. Bây giờ họ vẫn nhìn nhau bằng tấm lòng và những con mắt rất thanh tịnh, và vẫn thân mật gọi nhau bằng tên, như hai đứa trẻ đã gọi nhau một nửa thế kỷ trước.

    Hàng năm hoa gạo vẫn nở. Nhưng chỉ có một mùa hoa gạo, cái màu hoa đỏ tươi đã nhuộm hồng hai tâm hồn trẻ thơ, và cái màu đó đã không bao giờ phai nhạt trong hai tâm hồn, dù năm tháng trôi qua và cuộc đời đã có nhiều thăng trầm cay đắng. Cái hình ảnh của những chấm hoa gạo đỏ, rải rác trên bãi cỏ xanh vào một chiều nổi gió chính là cái bến đỗ cho hai con thuyền lạc lõng, là ngọn lửa sưởi ấm và an ủi hai tâm hồn cô quạnh, chỉ một mùa gặp nhau mà đã là cả một đời.

  3. #13
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    TÔI ĐI NHẢY DÙ
    Mđ Vĩnh Chánh




    Dù cho sông cạn đá mòn
    Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa (1)

    Gần nữa thế kỷ, tuy có nhiều cơ hội thôi thúc để viết những dòng chữ này, nhưng tôi vẫn chưa dứt khoát cho đến một buổi sáng ngồi uống cà phê với nhóm đàn anh QYND. Những tâm tình từ đàn anh Mđ DS. Nguyễn Mậu Trinh, tuy có khả năng không bị trưng tập vì con một nhưng anh vẫn tòng quân, và còn xin đăng cho được vào QYND vì muốn… “quậy”. Đàn anh Mđ BS. Phạm Gia Cổn rót thêm những khoái cảm “đi mây về gió” của nhảy dù điều khiển; đàn anh Mđ DS. Mai Minh Chí lại khấy động trí nhớ mọi người có mặt với những mẫu chuyện đời lính ND khi anh theo đại đội Quân Y ND hành quân với Lữ Đoàn tác chiến. Rồi Mđ BS. Trần Tấn Phát, thuộc hàng tiền bối 7 túi, tình cờ nhắc lại niên trưởng đã từng nhảy dù biểu diễn trên Sông Hương ở Huế trong đầu thập niên 60, bày tỏ khoái cảm khi cánh hoa dù bung lơ lững trên trời nhìn xuống thấy hàng ngàn người đứng dọc hai bên bờ sông đang chiêm ngưỡng, và sau đó được đón tiếp nồng hậu của phái đoàn quân dân cán chính gồm sự hiện diện của nhóm nữ sinh trường ĐK tại Cercle sportif

    Tôi vội lên tiếng “có tiểu đệ đứng duới say sưa nhìn các đại huynh biểu diễn nhảy dù hồi đó”. Về lại khung trời kỷ niệm của mes vertes années, thời gian cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, tôi không hề bỏ sót lần nào khi có biểu diễn nhảy dù trên sông Hương. Chạy vụt ra bờ sông từ nhà ở trong khuôn viên trường ĐK, tôi leo lên ngồi trên cây để được nhìn cho rõ. Có một lần bị ong vò vẻ cắn nhiều phát trên mặt và đầu, rớt té từ trên cây xuống đất, tôi ôm mặt sưng to chạy vào nhà, nhờ bà chị xoa vôi lên mặt rồi chạy ngay ra lại bờ sông xem tiếp, bất kể cái đầu bưng bưng đau nhức và cặp mắt híp nhỏ lại vì sưng. Mê xem nhảy dù như thế đó! Làm sao mà không bị mê hoặc khi thấy từng lượt người nhảy ra khỏi thân phi cơ, để rồi nguyên cánh dù ngạo nghễ bung lớn trên không, y như cánh chim đại bàng lơ lững trong gió, trước khi đưa người lính rớt xuống sông Hương. Cả một thế gìới cao xa, lạ lùng, vượt hẳn trên cái đầu óc ngây thơ non nớt của tôi. Kích thích lòng tò mò, ưa thích và ham muốn để lại một ấn tượng sâu đậm trong thằng bé.

    “Không là gió, mà bay trên cánh gió
    Không là mây, mà ngạo nghễ đường mây
    Một ngày Mũ Đỏ, một đời Mũ Đỏ
    Giữa không gian còn lưu lại dấu giày “ (2)

    Lớn lên, sau khi đã ghi danh bơi lội tại Cercle Sportif, tôi đến tận câu lạc bộ thể thao, chen đứng ở tầng dưới ngay cận mặt nước, vừa được xem cuộc biểu diễn nhảy dù trên không, vừa theo dõi các anh lính ND được các thuyền công binh vớt từ ngoài sông đem vào. Sau khi thay áo quần ướt, họ đóng bộ áo quần Saut, đội nón Béret đỏ, hiên ngang bước lên tầng thượng để nhận vòng hoa từ các nữ sinh Đồng Khánh. Tôi xớ rớ chạy theo, sờ mó vào bộ đồ hoa dù, ngắm nhìn say sưa dáng bộ hiên ngang của những anh lính Mũ Đỏ oai hùng, quên luôn cả thời gian.

    Các bạn thích “lính” nói chung thường sống trong gia đình có cha anh hay chú bác trong quân đội, thường được nghe kể về chuyện sinh hoạt của lính, chuyện đánh giặc, đời quân ngũ. Tôi không được như vậy. Kinh nghiệm đầu đời của tôi lúc 6 tuổi là chuyện tôi cả gan đánh cắp 3 trái lựu đạn màu vàng nặng trịch từ đồn Girard đem về dấu ở vườn sau nhà, thầm tính sẽ đưa cho người lớn xử dụng đánh cá. Khi người lớn phát giác, tôi bị gia đình la rầy và trừng phạt rất nặng. Điều đó cho thấy được cá tính bạo gan, không biết sợ, thích phiêu lưu mạo hiểm của tôi. Tôi say sưa những trò chơi lính như sắp hàng bước đi Un Deux Trois, trò bắn súng, dù với súng bắn bằng miệng, hay đánh kiếm dù là kiếm được làm bằng que tre…

    Hồi 4- 5 tuổi ở Phủ Cam, tôi thích leo trèo, đánh đu trên những cây trái trong vườn nhà mình hay nhà ông bà Nội, bắt đầu với những cây thấp rồi những cây cao dần, mà chẳng bao giờ cảm thấy sợ hải. Độ cao chưa hề làm tôi ngộp thở những khi vắt vẻo trên cây cao, những khi tôi lên chơi sân thượng của căn nhà lầu mới 3 tầng của ông bà Nội, hoặc trèo lên tận tầng cao nhất của đồn lính Pháp Girad nằm ngay sau nhà tôi khi còn ở Phủ Cam, là những nơi có thể nhìn thấy biển. Lúc tôi khoảng 7 tuổi, gia đình Măng tôi được chính thức dọn vào ở lầu 3 trong trường ĐK. Tôi lại càng quen thuộc với độ cao hơn nữa, tôi chuyên leo bắt các tổ chim sáo nằm dưới mái ngói cao vút của trường, trèo hái hoa phượng cho các chị nữ sinh, hoặc đứng chồm ra khỏi cửa sổ nhà nhìn xuống sân trường ngắm các o ĐK Huế.

    Đọc những lịch sử chiến tranh như Thuỷ Hử, Đông Châu Liệt Quốc, Tôn Tẩn Bàn Quyên, Tam Quốc Chí, Tào Tháo Lưu Bị… rồi những chuyện bằng tiếng Pháp về chiến tranh cận đại khi theo học trung học ở trường Providence, Huế. Nào là La Deuxième Guerre Mondiale, Couler le Bismark, Le Débarquement en Normandie, La Guèrre de L’Indochine, Le Tocsin de L’Indochine, La Bataille de Dien Bien Phu, Je Suis Medecin à Dien Bien Phu… là đam mê của tôi. Để rồi, hình ảnh người lính chiến, đặc biệt lính Nhảy Dù có tiếng gan dạ, cái đẹp của những cánh dù lộng gió, những chuyện lý thú về Nhảy Dù… đã hoàn toàn lôi cuốn tôi. Tôi thích lối đánh nhanh, đánh mạnh, đánh đẹp, đánh tapis, đánh thần tốc, đánh xáp là cà của lính Nhảy Dù…

    Theo thời gian, chiến tranh lan rộng dần, từ rừng núi đồng quê xa xôi đổ sập đến các thành phố trong Mậu Thân 1968. Huế của tôi chịu nhiều đau đớn, thị xã bị tàn phá bởi bom đạn, hàng ngàn người dân bị thảm sát, chôn sống. Nhiều bạn quen âm thầm rời bỏ trường vào quân đội, kẻ động viên, người tình nguyện vì muốn thay đổi cuộc sống tẻ nhạt của “một ngày như mọi ngày” trong khi đất nước đang bị đe dọa triền miên. Bấy giờ tôi đang là SV trường Y Khoa Huế, tham gia chương trình Huấn Luyện Quân Sự Học Đường trong 2 mùa hè liên tiếp, biết theo dỏi tình hình chiến sự qua các báo chí, truyền hình, tìm đọc những bút ký, những tài liệu quân sự, làm quen với những bản nhạc lính…

    Tập truyện “Y Sĩ Tiền Tuyến” của BS. Quân Y Nhảy Dù Trang Châu mà tôi đọc lần đầu vào cuối năm 1969 đã để lại cho tôi một ấn tượng sâu đậm và tốt đẹp về binh chủng ND, cho tôi hiểu biết thêm về sự huấn luyện bằng Dù bắt buộc phải có cho mọi quân nhân ND, hình ảnh chinh chiến của người lính Dù và nhiệm vụ của người y sĩ tại mặt trận. Đó là cuốn sách đầu giường ưng ý nhất của tôi vào thời sinh viên. Với nó, tôi đã mơ một ngày nào mình sẽ, không chỉ một quân y sĩ, mà phải là một y sĩ Nhảy Dù. Nhất là khi đọc được những lời thơ tâm huyết khí khái biểu hiện cho con người đầy nhân tính của Miền Nam VN trong nhiệm vụ bắt buộc bảo vệ đất nước chống xâm lăng:

    Trong cuộc chiến hôm nay
    Cho tôi xin chiến đấu không hận thù
    Xin những vết thương bình đẳng
    Cho tôi đổi một trăm chiến thắng
    Lấy một giọt nước mắt kẻ thù (3)

    Chiến tranh chẳng thể dừng mà ngày càng trở nên khốc liệt. Hạ Lào năm 1971, rồi 1972 với những trận chiến long trời lở đất xẩy ra hầu như cùng một lúc tại cả 3 mặt trận, Tây Nguyên với Kontum/Ban mê thuột Ben Het/đồi Charlie/Tân Cảnh, Bình Long với An Lộc/Chơn Thành/Lộc Ninh/ Quốc Lộ 13 và Quảng Trị với Đồng Hà/Thạch Hản/Cổ Thành/Ái Tử/ La Vang/Triệu Phong, kéo dài cho gần cuối Hè cùng năm. Đâu đâu cũng nghe đến những hy sinh chưa từng có trước đây của quân lẫn dân, những cuộc chiến đẩm máu - cố thủ - triệt thoái- tăng viện- giải vây –tái chiếm - đều vượt mọi hiểu biết trước đây của quân sử. Những chiến công – cùng với những tổn thất- của các đơn vị ND, Biệt Kích Dù, TQLC, BĐQ, ĐPQ, BB, Không Quân… Đâu đâu cũng nghe những bi hùng ca “Anh không chết đâu em”, “Người ở lại Charlie”, hay những ngụ ngôn để đời “Bình Long Anh Dũng/Kontum Kiêu Hùng/Trị Thiên Vùng Dậy”, “An Lộc Địa, Sử Ghi Chiến Tích-Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân”… bên cạnh “Kỷ vật cho em”, “Ngày mai đi nhận xác chồng”: phủ phàng. Tàn nhẫn. Đau đớn…

    Trong bối cảnh chao đảo của đất nước, tôi tìm đọc tập truyện “Mùa Hè Đỏ Lửa” của tác giả Phan Nhật Nam vào năm cuối Nội Trú Y Khoa. Nếu “Y Sĩ Tiền Tuyến” cho tôi khái niệm về cuộc chiến đang từ từ leo thang cùng nhiệm vụ và tinh thần làm việc của một y sĩ ND thì “Mùa Hè Đỏ Lửa” đã mở rộng tầm hiểu biết của tôi về một cuộc chiến tàn khốc và vĩ đại, một địa ngục trần gian. Một mùa hè khô nóng của máu và máu, của bão lửa và sắc thép, của bao cái chết không toàn thây do hỏa pháo cường tập. Của tử khí từ cả ngàn thây người ngổn ngang trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Qua những mẩu chuyện lớn nhỏ tận nơi của các đơn vị lâm chiến, những mắt thấy tai nghe, những đối thoại, những đàm thoại vô tuyến làm nổi bật tinh thần chiến đấu anh dũng của người lính Miền Nam… Của bao hy sinh để bảo vệ một cuộc sống đúng nghĩa và xứng đáng với 2 chử Tự Do. Miền Nam Việt Nam đã chiến đấu, giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Tôi đã hiểu như vậy. Tôi đã cảm kích những người lính đang chiến đấu. Tôi cám ơn đất nước tôi. Với lòng yêu nước dâng trào, tôi tự hiểu rồi cũng sẽ đến phiên mình nhảy vào cuộc chiến này trong nay mai.

    Sau khi tốt nghiệp, xong phần trình luận án Y Khoa, và đang làm Giảng Tập Viên môn Giải Phẫu ở trường Y Khoa Huế, tôi nhận giấy trình diện quân đội vào cuối năm 1973. Tháng Giêng 1974, khoảng 160 bác sĩ, nha sĩ và dược sĩ, gom chung vào khoá 17 YND Trưng Tập, bắt đầu học hành chánh quân y tại Trường Quân Y, với Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân và Y Sĩ Tr. Tá Vũ Khắc Niệm (cả hai đều lần lượt là TĐT TĐQY/SĐND) làm chỉ huy trưởng và chỉ huy phó. Nhìn thành phần nòng cốt của bộ tham mưu trường Quân Y, ngoài 2 vị BS. trên, chúng tôi thấy đa số xuất thân từ QYND. Trong nhóm bạn thân 4 đứa trưng tập chúng tôi, bạn Bùi Cao Đẳng, Lê Quang Tiến và tôi có phần quyết chí sẽ chọn đơn vị ND một khi tốt nghiệp trường Quân Y.

    Nhìn từ các khóa đàn anh của ĐH Y Khoa Huế, chúng tôi biết có BS. Tôn Thất Sơn, tốt nghiệp khóa 2, là người đầu tiên vào Quân Y Nhảy Dù. Kế đó là các anh Nguyễn Văn Minh, tự Minh Đầu Bạc, khóa 5, và 2 anh Huỳnh Mỹ và Nguyễn Văn Liêu, đồng khóa 6. Ngoại trừ anh Tôn Thất Sơn đã ra khỏi QY Nhảy Dù, cả 3 anh Minh, Mỹ và Liêu vẫn đang còn yên ổn phục vụ đơn vị ND. Ngoài ra, anh BS. Bùi Cao Đệ, khóa 4, đang là một quân y sĩ của Lực Lượng Đặc Biệt.

    Chúng tôi thường bàn tính với nhau kỹ lưỡng về quyết định trong tương lai này, nhất là sau khi được BS. Thuấn, trưởng Ban 3 của TĐQY/SĐND, thuyết trình về lịch sử, cơ cấu của SĐND và TĐQYND và về hành chánh QYND cho toàn khóa 17 Trưng Tập. Chúng tôi cũng từng biết SĐND cùng với SĐTQLC là những đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến hàng đầu của quân lực VNCH, nên mỗi Sư Đoàn có nguyên một TĐQY, 1 quân y viện và mỗi tiểu đoàn tác chiến đều có 1 BS. trực tiếp đảm nhận công việc chuyên môn với chức vụ là y sỹ trưởng của TĐ với gần 20 y tá thuộc quyền. Trong khi ấy, với những đơn vị khác như Bộ Binh, BĐQ, Thiết Đoàn, Quân Vận… mỗi trung đoàn hay mỗi liên đoàn mới có 1 hoặc 2 BS. Đặc biệt, ngoài phụ cấp tác chiến, chỉ riêng y sĩ ND mới được hưởng thêm phụ cấp bằng Dù mà ngay cả y sĩ TQLC, BĐQ cũng không có được phụ cấp bằng hải vụ hay bằng sình lầy. Thành thử tiền lương của quân y sĩ Dù nhiều hơn hẳn tiền lương của các quân y sĩ thuộc các binh chủng khác. Đó là chưa đề cập đến chuyện đa số sĩ quan xuất thân từ Nhảy Dù đều được điều động giữ những chức vụ quan trọng trong các lãnh lực chỉ huy, tác chiến hay chuyên môn, tại những binh chủng khác, một khi họ họ thuyên chuyễn khỏi đơn vị Nhảy Dù. Cuối cùng và quan trọng không kém, Bộ Tư Lệnh SĐND nằm tại Saigon, có nghĩa là sau vài ba tháng bôn ba hành quân, các đơn vị ND có thể trở về hậu cứ, binh sĩ vui chơi thỏa thích ở chốn phồn hoa đô hội.

    Khi nói đến ND, ai cũng biết đó là một đơn vị thiện chiến hàng đầu, thường được tung vào những trận chiến khó khăn, nên người lính ND thường gặp nhiều gian nguy và dễ bị thương tích, tử trận hơn những quân nhân thuộc binh chủng khác. Tuy nhiên nếu chỉ bàn về con số quân y sĩ tử trận và đặc điểm của cái chết từng người, trong suốt chiều dài của cuộc chiến VN, QYND bị thiệt mất 2 vị, là Y Sĩ Tr. Úy Đổ Vinh, y sĩ trưởng TĐ5ND, tử thương vì trúng mảnh pháo vào đầu khi đang săn sóc thương binh tại Quảng Tín vào cuối tháng 3, năm 1965, và Y Sĩ Đại Úy Nghiêm Sỹ Tuấn, Y Sĩ Trưởng TĐ6ND cũng bị tử thương vì pháo ở Làng Vay, gần Khe Sanh vào năm 1968, trong khi đang chờ đáo nhiệm chức vụ mới tại BV Đổ Vinh sau 2 năm lội theo TĐ tác chiến. Được biết trước đây, BS. Tuấn đã từng bị thương 2 lần, ở Dakto và ở Cao Lãnh. Ngoài ra, Y Sĩ Thiếu Tá Bửu Trí, một người chú họ của tôi, tuy gia nhập QYND năm 1960, lại là vị chỉ huy trưởng QY của Lực Lượng Đặc Biệt khi tử trận vì trực thăng bốc cháy trên không phận Ban mê thuột vào khoảng năm 1967.

    Chuyện chết vì pháo kích, ở mặt trận, ở tiền trạm, ở hậu cứ hay ở thành phố, có thể xem một tai nạn trúng ai nấy dạ vì đã tới số. Tuy nhiên không có 1 y sỹ QYND nào trực tiếp bị tử thương bởi đạn bắn thẳng do địch phục kích, đánh đặc công, hoặc tuyến phòng thủ bộ chỉ huy tiểu đoàn bị tràn ngập.

    Với sự tự tin vào số mạng, với biện luận không lẽ ai đi ND đều chết, các bạn Đẳng, Tiến và tôi nhìn vào lịch sử QYND chỉ thấy 2 đàn anh ra đi vĩnh viễn trong khi SĐNĐ đánh trận liên tục và hiện diện ở bất cứ điểm nóng nào trên cả 4 quân khu. Khi vào trận, không chắc gì mình đã bị trúng đạn, mà trúng đạn không hẳn sẽ bị thương nặng, bị thương nặng không chắc là sẽ chết. Chúng tôi tiếp tục tìm hiểu thêm về khả năng tác chiến của binh chủng ND ở cấp tiểu đoàn. Với cấp số trên 500 vừa quan vừa quân khi TĐ vào trận, gồm 4 đại đội tác chiến và 1 đại đội chỉ huy trong đó có 1 trung đội súng nặng,1 trung đội Quân Y, 1 trung đội Truyền Tin… tất cả binh sĩ đều được trang bị tận răng. TĐND không tham chiến riêng rẽ mà vào vùng dưới sự chỉ huy trực tiếp của lữ đoàn ND, gồm 3 TĐND tác chiến, 1 TĐ Pháo Binh nổi tiếng bắn nhanh, chính xác và can cường, 1 ĐĐ Trinh Sát nổi tiếng đánh đẹp, chơi đẹp và lì lợm, 1 ĐĐ Quân Y luôn túc trực cứu chữa thương binh cận bên trận chiến … ngoài ra còn nhận sự yểm trợ tối đa bởi pháo binh diện địa, thiết giáp, không quân chiến thuật, trực thăng võ trang và tản thương… Vì vậy, chúng tôi cảm thấy an tâm, biết được sự phòng vệ an ninh của Bộ Chỉ Huy TĐND rất chặt chẽ vì chưa hề nghe BCH TĐND nào bị đánh chạy, phòng tuyến bị thủng, TĐ bị phục kích hay bị đánh đặc công, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng phải gọi pháo binh mình bắn ngay trên phòng tuyến mình, hoặc rút lui trong mất mát để tạm thời bảo vệ lực lượng của mình, tái phối trí rồi lại tấn công sau đó.

    Những phân tích trên đây được minh xác rõ ràng hơn khi tôi theo chân TĐ1ND vào trận chiến, tận mắt nhìn thấy khả năng chiến đấu của TĐND, hỏa lực, cách bố trí dàn quân, cách phòng vệ cho Bộ Chỉ Huy TĐ. Tôi không thể nào quên mỗi khi dừng chân đóng trại qua đêm, người sĩ quan Ban 3 bắt tay làm việc liền tay về chuyện phòng vệ cho TĐ bằng cách chấm tọa độ tiên liệu/ tuyến tiên liệu xung quanh bộ chỉ huy TĐ là những vị trí mà địch có thể dồn quân tấn công hay đặt súng lớn tác xạ vào TĐ, những con rạch, những đường mòn, những khe núi dẫn đến BCH mà VC có thể men vào đánh phá ban đêm. Có sẵn, những tọa độ đơn giản hóa bằng bí số như A1, A2, B1… pháo binh Dù mới tác xạ nhanh, chính xác và hiệu quả khi khẩn cấp. Trong cùng thời gian, người ĐĐ Trưởng ĐĐ Chỉ Huy lo chuyện phòng thủ tuyến cho toàn ĐĐ, tìm nơi đặt mìn Claymore, lựu đạn, trái sáng; sắp đặt vị trí đại liên phòng thủ, vị trí súng cối, an ninh riêng cho BCH gồm TĐT, TĐ Phó (thông thường vị TĐ Phó ít ở chung với BCH và tách riêng đi với 2 ĐĐ tác chiến tạo thành cánh phó), sĩ quan Ban 3 cùng ban tham mưu, và quân y. Ông ta liên tục nhắc nhở, thúc dục binh sĩ đào hầm lớn và hố cá nhân, cắt phiên canh gác, cho các toán nằm phục kích đêm cách xa bên ngoài tuyến. Ông đi thanh tra từng bộ phận, đến từng nhóm hầm hố lều võng để căn dặn cấm thắp lửa, cấm xài đèn sáng khi trời tối và quan trọng nhất là, nếu bị tấn công ban đêm, không một ai được chạy mà phải nằm sát đất, trong hố để tác chiến và có quyền bắn tất cả những bóng người đang chạy trên mặt đất vì đó là đặc công VC…

    Ngoài chuyện bố trí, canh gác, an ninh, phòng thủ tối đa nói trên, có lẻ quan trọng nhất là BCH TĐND thường xuyên di chuyển khi hành quân tìm địch và diệt địch, không ở một chổ nhiều hơn 1-2 ngày, để giữ bí mật nơi đóng quân, hòng tránh pháo địch hoặc đặc công. Tôi vẫn nhớ rỏ một lần, sau một ngày di hành liên tục trong rừng, vừa dừng chân nghỉ được vài giờ và quân lính đang định ăn tối, TĐT nhận tin toán tiền thám của mình tìm thấy dấu vết của trinh sát “vịt con” gần vị trí đóng quân. Thế là lệnh khẩn cấp di chuyễn rời nơi vừa đóng quân ngay lập tức. Toàn thể ĐĐ cùng BCH TĐ ngậm tăm đi thêm khoảng 2-3 giờ nữa mới dừng chân lại và nghỉ qua đêm. Quả như vậy, dù không cách xa nơi vừa rời tính theo đường chim bay, nhưng mọi người đều nghe được tiếng pháo địch dội vào vị trí cũ trong đêm khuya. Hú vía thật! Sự kiện này cho thấy thắng bại hay tổn thất nhiều hay ít hoàn toàn do người chỉ huy có kinh nghiệm cầm quân và dạn dày trong khói lửa. Mà với Nhảy Dù, kinh nghiệm chiến trường quả thật quý báu và đáng được đề cao.

    Sau đây là cái chết của những quân y sĩ của các binh chủng khác vào những năm trước khi chúng tôi trưng tập. Người y sĩ chết trận đầu tiên là BS. Đoàn Mạnh Hoạch ngay sau khi anh nhảy ra khỏi xe bọc thép để tiến lên tuyến đầu cứu chửa thương binh, tại Quảng Ngãi giữa năm 1964. Kế đó là Y Sĩ TQLC Trương Bá Hân tử thương vào cuối năm 1964 tại Bình Giả/Bà Rịa khi TĐ 4 TQLC bị nguyên 1 trung đoàn cọng quân phục kich, tàn sát toàn bộ chỉ huy TĐ và bắt sống luôn người cố vấn Mỹ. Tháng 4, 1965, Y Sĩ TQLC Trần Ngọc Minh bị đâm chết khi VC tấn công ngay vào bộ chỉ huy TĐ 3 TQLC ở Thăng Bình, Quảng Nam. Tháng 6, 1965, tại quận Mộ Đức, Quảng Ngãi, Y Sĩ TQLC Lê Hữu Sanh, bị bắn chết dù đang trúng thương khi BCH TĐ5 TQLC bị 1 Trung Đoàn địch phục kích và tràn ngập vị trí, khiến cả TĐT và cố vấn Mỹ cùng tử thương. BS. Phạm Bá Lương, Y Sĩ Trưởng của Trung Đoàn 7 BB, vẫn bị địch giết chết dù anh có đưa tay đầu hàng trong khi anh đang đánh răng vào buổi sáng, đúng lúc bộ chỉ huy Trung Đoàn bị đánh đặc công tại Bầu Bàn, tháng 7, 1965. Tháng 10, 1965, y sĩ trung úy Nguyễn Văn Nhứt tử trận cùng với vị Trung Đoàn Trưởng Bộ Binh trong một trận đánh xáp lá cà đẩm máu ở rừng cao su, Dầu Tiếng. BS. Nhứt, người đậu thủ khoa nội trú của khóa mình, là vị BS. Trưng Tập đầu tiên bị chết trong cuộc chiến. Y Sĩ Trung úy Trần Thái tử trận khi đoàn xe chở đạn bị phục kích trên đuờng Saigon/ Bà Rịa vào cuối năm 1965. Vào cuối năm 1967, Y Sĩ Trung Úy Phạm Đình Bách, thuộc khóa 13 QY Hiện Dịch, tử trận chỉ vài tháng sau khi anh ra phục vụ đơn vị BB. Y Sĩ TQLC Đinh Quốc Bảo, y sĩ trưởng TĐ 6 TQLC, là người duy nhất trong TĐ bị tử thương khi hầm trú ẩn của anh lãnh nguyên một trái hỏa tiển 122 ly tại căn cứ Sarge, Quảng Trị trong năm 1971. (4). Và trong thời gian chúng tôi thụ huấn tại trường Quân Y, HQ. Y Sĩ Trung Úy Ngô V. Khương, tử nạn khi trực thăng chở anh nổ cháy trên trời vì trúng hỏa tiển tầm nhiệt ở gần căn cứ HQ Nam Căn, Cà Mâu. Anh Khương, học trên tôi 1 năm, là người quân y sĩ Trưng Tập tử trận đầu tiên và duy nhất của trường YK Huế.

    Trong thời gian di tản chiến thuật 1975, thật tình không một thống kê chắc chắn về con số những quân y sĩ bị tử nạn trên đường di tản. Riêng với QYND, theo tôi biết, không có một y sĩ ND nào bị thiệt mạng mặc dù có đến 2-3 người bị bắt làm tù binh ở mặt trận Phan Rang của Lữ Đoàn 2 ND vào đầu tháng 4, 1975. Tuy nhiên, với QY của TĐTQLC có Y Sĩ Đại Úy Cao Mạnh Thăng, ĐĐ Trưởng ĐĐQY 369 TQLC, hoàn toàn mất tích cùng với Tr.Tá Nguyễn Xuân Phúc và Tr. Tá Đỗ Hữu Tùng, Lữ Đoàn Trưởng và Lữ Đoàn Phó LĐ 369 TQLC và hàng ngàn lính TQLC dưới tay, có lẻ họ đã vùi thây hay tan xác trên bải biển trống ở Đà Nẳng, không một công sự chống đở, dưới cơn mưa pháo không thương tiếc của địch vào tháng 3, 1975. (5)

    Ngoài cái chết của 2 y sĩ ND Đổ Vinh và Nghiêm Sỹ Tuấn, không có vị nào trong TĐ QYND bị thương nặng đến độ tàn phế để phải được cho giải ngũ. Gần đây, tôi được biết Niên Trưởng (NT) Trần Tấn Phát, Y Sĩ Trưởng TĐ1ND, bị đạn xuyên đùi trái ở Quận Thuận Mẫn, Phú Bổn năm 1965; NT. Nguyễn Văn Cơ, Y Sĩ Trưởng TĐ5ND, bị mảnh đạn vào má phải gây bể xương, ở trận Pleime năm 1965; NT. Phạm Quý Điểu, Y Sĩ Trưởng TĐ3ND, gảy xương chân khi tham dự nhảy dù hành quân ở Chiến Khu D; NT. Trần Đoàn, Y Sĩ Trưởng TĐ2ND, bị thương cả 2 mông vì đạn súng cối ở Quảng Trị, năm 1966 (6); NT. Hà “chảy”, Y Sĩ Trưởng TĐ8ND, bị thương ở bàn tay vì mảnh súng cối ở Quảng Trị năm 1966; Y Sĩ ND Vũ Đình Nguyên cũng bị thương ở bàn tay vì đạn súng cối năm 1967, nhưng lại may mắn được một YSND đồng nghiệp mổ lấy mảnh đạn ngay tại mặt trận; đàn anh Tô Phạm Liệu, Y Sĩ Trưởng TĐ11ND, bị thương ở trận Charlie, 1972…

    Tuy nhiên, TĐQY TQLC có khá nhiều y sĩ bị thương tật đáng kể. BS. Phạm Hữu Hảo, Y Sĩ Trưởng TĐ2 TQLC, thoát chết nhưng bị thương nặng ở đùi khi TĐ Trâu Điên bị phục kích ở Phò Trạch/Huế vào tháng 6, 1966; BS. Đinh Quốc An, Y Sĩ Trưởng TĐ6 TQLC, bị thương rất nặng ở chân vào tháng 2, 1967, tuy không bị cưa chân nhưng được liệt kê tàn tật vĩnh viễn; BS. Ngô Quang Trung, Y Sĩ Trưởng TĐ3 TQLC bị viên đạn bắn sẻ trúng đầu trong lần hành quân tại Tân An năm 1967; BS. Lê Tấn Huỳnh Long, Y Sĩ Trưởng TĐ1 TQLC, bị miểng pháo gãy cột xương sống tại quận Kiến Hưng, tỉnh Chương Thiện ngày 30 tháng 4, 1970; BS. Nguyễn Trùng Khánh bị thương bụng và cột sống vì mìn ngay ngày hôm sau, khi được điều động đến thay BS. Long ở TĐ1 TQLC; BS. Đỗ Mỹ Ánh, Y Sĩ Trưởng TĐ7 TQLC, bị mảnh đạn 130 ly mất 1 con mắt vào năm 1971 cùng lúc Y Tá Trưởng của anh bị tử trận; BS. Nguyễn Hữu Hoàn, Y Sĩ Trưởng TĐ 1 TQLC, tuy thoát chết khi trực thăng chở nguyên trung đội quân y của anh bị trúng hỏa tiển vào lúc đơn vị điều động đổ quân xuống Triệu Phong, Quảng Trị vào tháng 7, 1972, nhưng anh bị phỏng rất nặng và trở nên tàn phế vĩnh viễn. (6)

    Ngày tốt nghiệp trường Quân Y vào cuối tháng 5, 1974, BS. Bùi Cao Đẳng, đậu thứ 11 trong danh sách khóa 17 Trưng Tập YND, là người đầu tiên bước lên bục gỗ, vừa cầm cây gậy dài chỉ vào hàng chữ QYND trên bảng danh sách chọn đơn vị, vừa la lớn không do dự “tôi chọn đơn vị QYND”. Kế liền Đẳng là tôi, đậu thứ 12, rồi BS. Lê Quang Tiến, đậu thứ 14, cũng với một thể thức như Đẳng, đồng chọn QYND, mặc dù trên bảng chọn đơn vị phục vụ vẫn còn rất nhiều chỗ êm ả, nhẹ nhàng như các quân y viện tiểu khu, các liên đoàn quân y… Ngoài 3 chúng tôi, còn có thêm 4 BS, 1 NS và 1 DS cùng chọn QYND. Tất cả chúng tôi lần lượt được cả khóa đứng dậy hoan hô vỗ tay vang dậy cả phòng họp.

    Trở về nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, tôi báo cho Măng tôi biết mình đã chọn đi Nhảy Dù. Măng tôi la hoảng lên, lo lắng thấy rõ. “Răng mà chọn đi ND nguy hiểm rứa! Không sợ chết à?! Gia đình nuôi con ăn học ra tới BS. mà không biết suy nghĩ thương lại Măng và các anh chị!..” Tôi liền trình bày quan điểm của mình về binh chủng ND cho Măng tôi nghe. Ngoài ra, tôi còn nhắc cho Măng tôi nhớ gia đình mình là công giáo, sống chết là số mệnh, rồi nào là anh rể tôi, Hồ Khắc Đàm, vốn là TĐT TĐ11 BĐQ khét tiếng với trận Ben Hét, ra vào trận mạc liên miên mà chỉ bị thương thôi; rồi người anh họ Tr. Tá Hồ Châu Tuấn còn ghê hơn nữa vì ảnh thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà nay vẫn sống nhăn răng gần nhà mình; và người em con của Cô ruột tôi, Đ. Úy Trần Văn Thể, ra vào sinh tử bao nhiêu năm, nay là ĐĐT một đại đội tiêm kích của TĐ1ND… Mặc tôi giải thích, Măng tôi vẫn nhất quyết cho người kêu các bà chị của tôi đến nhà để bàn chuyện, ý muốn tìm cách thay đổi đơn vị cho thằng con trai út bằng cách nhờ cậy người anh bà con khác là Đại Tá Bảo, chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Quân Số Thặng Dư của Bộ TTM mà cơ sở nằm ngay đầu đường Lê Văn Duyệt/Tô Hiến Thành, không cách CXSQ Chí Hoà bao xa.

    Đến nước đó, tôi cương quyết giữ vững lập trường của mình, cho biết tôi dứt khoát muốn trở thành một BS. Nhảy Dù, rằng tôi muốn tự thực hiện một thay đổi quan trọng cho đời mình, dấn thân vào chốn nguy hiểm để xem mình có thể quên được người con gái tôi hằng đeo đuổi và thương nhớ trong nhiều năm qua. Xót xa cho thằng em mình, các chị tôi bênh vực tôi và cuối cùng Măng tôi đành miễn cưởng chấp nhận.

    Tuần lể trước khi trình diện Bộ Chỉ Huy TĐQYND ở trại Hoàng Hoa Thám, nhóm chúng tôi cùng rủ nhau đi tìm mua nón Béret đỏ của Pháp, những bộ quần áo Dù bằng nylon, thuê người sửa lại cho vừa kích thước, rồi may phù hiệu của SĐND vào cánh tay áo trận bên phải, huy hiệu TĐQYND vào cánh tay áo bên trái, huy hiệu Cánh Thiên Thần vào túi áo trên bên trái cùng với bảng tên mình ở trên, 2 bông mai đen trên cổ áo và phù hiệu ND trên mũ Beret.

    Riêng về phần tôi, người anh bà con Hồ Châu Tuấn cảm khoái chuyện tôi đi ND và đặc biệt thương quý tôi, tặng cho tôi những bộ áo quần hoa dù màu đỏ huyết của Pháp mà mãi cho đến khi mất nước tôi vẫn chưa có dịp mặc đi dạo phố, 2-3 áo Saut trận của Pháp, 3-4 đôi bottes de Saut loại da rất tốt. Rồi anh rể Hồ Khắc Đàm của tôi cũng chuyển giao cho tôi nhiều vật dụng cá nhân anh còn lưu giữ sau khi rời BĐQ. Ngày chúng tôi hân hoan trình diện TĐQYND ở hậu cứ nhận chỉ thị học khoá Huấn Luyện ND, chúng tôi đồng ăn mặt áo quần trận như một sĩ quan ND với nón Béret đỏ và đầy đủ phù hiệu. Ngoại trừ huy hiệu bằng Nhảy Dù.

    Khi vào Trung Tâm Huấn Luyện ND, tôi vượt qua trắc nghiệm về khả năng sức khỏe và sự bền bỉ của cơ thể trong những ngày đầu tiên không mấy khó khăn, ngay cả với chạy dã chiến 7-8 cây số với trang bị hành quân, ba lô sau lưng và súng trên tay, rồi chạy nước rút cả cây số sau khi được nghỉ nửa giờ. Đó là nhờ cả tuần trước, mỗi ngày 2 lần sáng và chiều, tôi đều đặng ra sân vận động trong CXSQ Chí Hoà tập chạy, hít đất, nhảy dài, Barre fixe, leo dây... Tuy nhiên, về đến nhà buổi chiều, thân thể tôi rả rời, mọi bắp thịt đau nhức. Sau phần căn bản nhập khóa, chương trình Huấn Luyện Nhảy Dù gồm có 2 giai đoạn, huấn luyện dưới đất và thực tập nhảy dù từ trên phi cơ.

    Tuần lể thứ nhất với cách thức mang dù lưng và dù bụng cùng các trang bị hành quân,cách tháo đai dù, khám dù, cách thức đi đứng trên phi cơ, móc khóa dù vào dây, kiểm soát dù cho người đứng trước, tiến dần đến cửa trong tư thế sẵn sàng nhảy và GO khi đèn xanh bật lên, tư thế nhảy ra khỏi phi cơ, kiểm soát và lái dù theo ý muốn, các thế té xuống đất (như té trước, té sau, té ngang phải hoặc trái) hòng tránh thương tích, và thu lượm & bảo trì dù sau khi đáp xuống đất. (7)

    Tuần thứ hai căng thẳng hơn nhiều với tập nhảy từ 2 đài cao. Đài 11 thước với mỹ danh "Chuồng Cu" tập cho lính Dù quen với cách nhảy khỏi phi cơ ở độ cao, với 2 dây đai dù treo vào bánh xe trên 1 dây cáp; khi nghe tiếng hô GO, khóa sinh phải phóng ra khoảng không trước mặt cho đúng tư thế. Thông thường đây là chặng đường mọi khoá sinh, từ quan cho đến quân, đều run sợ, toát mồ hôi và dễ bỏ cuộc, không những vì bị ngộp bởi độ cao, mà còn vì thân hình bị thả rơi tự do trong mấy giây trước khi bị giựt khựng lại rất mạnh bởi đai dây trên 2 vai. Trước đó, người lính dù phải đứng thẳng, đầu gối chụm lại, 2 tay ôm dù bụng, mắt phải mở, nhảy ngay sau tiếng GO với miệng đếm số 331, 332, 333, 334. Hết chuồng cu rồi tới Đài 12 thước, được gọi là Dây Tử Thần, là nơi khoá sinh đu vào tay cầm của bánh xe mắc vào dây cáp căng từ đỉnh đài xuống dần đất, để tập làm quen với cảnh mặt đất dâng lên khi đáp xuống đất, để ngay sau cú phất cờ đỏ từ huấn luyện viên, lộn vòng đúng tư thế rồi đứng dậy. Vì đã quen với độ cao từ nhỏ, nên tôi không có mấy trở ngại hoặc xanh mặt hồi hộp như nhiều quân nhân khác. Ngoài 2 Đài, chúng tôi phải học làm quen Dù Lôi là cách tránh dù bị gió mạnh lôi không đứng dậy được khi chân vừa chạm đất.

    Qua 2 tuần học lý thuyết và thực tập trên đất, xen kẻ giữa những màn cả khóa vừa chạy vừa hát hoặc vừa la to khẩu hiệu “Nhảy Dù - Cố Gắng”, và những hâm nóng mỗi sáng với hít đất, chạy, nhảy, leo dây… có một số nhỏ khoá sinh bị loại. Riêng nhóm QY chúng tôi không có người nào bị đánh rớt, dù có bạn chạy lẹt đẹt cuối đoàn, hay sợ xanh mặt khi nhảy chuồng cu nhưng vẫn cương quyết không bỏ cuộc. Tất cả chúng tôi đều sẵn sàng cho giai đoạn 2, cũng là giai đoạn chót của chương trình huấn luyện ND. Đó là chính thức thực tập nhảy dù từ trên phi cơ ở độ cao 400 thước.

    Giai đoạn này gồm có 7 sauts nhảy từ phi cơ. Vì là sĩ quan nên tôi được chỉ định làm trưởng toán đứng đầu mỗi khi nhảy. Nhớ lại Saut đầu tiên, đang đứng thẳng người ở cửa phi cơ, vừa kịp nhìn thấy đèn xanh báo hiệu và nghe tiếng GO của huấn luyện viên, tôi vừa nhoài người nhưng chưa kịp phóng ra khỏi cửa thì đã bị ngay gió mạnh cuốn thổi văng ra bên ngoài trời, quên luôn cả đếm số và có lẽ... đang còn nhắm mắt. Khi nhận biết thân mình đang rơi bỗng bị khựng lại, tôi mở mắt nhìn lên thấy dù tự động đã bung rộng trên đầu, một cảm giác lâng lâng khó tả và không thể quên. Ôi thật sung sướng khi biết mình đang như một loài chim trời, một Thiên Thần Mũ Đỏ đang nhẹ nhàng lơ lững giữa không gian. Nhìn xuống dưới thấy mặt đất dâng lên nhanh, tôi bắt đầu chú trọng vào cách hướng dù vào vị trí đáp cũng như chuẩn bị tư thế đáp. Khi gần đến mặt đất tôi kéo nhẹ đai dù 2 bên xuống cùng một lúc rồi nhanh chóng buông ra. Cánh dù đang xuống nhanh bỗng được bung to ra làm chậm tốc độ và làm nhẹ sự đáp xuống đất, để lúc chân vừa chạm đất tôi cho người đáp nghiêng một bên và an toàn lăn xuống đất. Ôm đai dù chạy một phần tư vòng tròn quanh chiếc dù cho dù xẹp xuống, tôi tiến đến núm dù, cuốn dù lại và mang nguyên dù cùng đai dù đến giao nộp ở chổ tập họp. Chiều về nhà tôi hào hứng kể cho Măng tôi nghe chuyện tôi nhảy dù lần đầu tiên khiến Măng tôi cũng vui lây, dần dần quen với cái nguy hiểm của lính ND và có thiện cảm nhiều hơn.

    Với những Saut kế tiếp, tôi hoàn toàn tỉnh táo và làm đầy đủ các động tác học được từ 2 tuần trước. Saut thứ 4, mang thêm Balô trước 2 đùi, ngay dưới dù bụng, mà mình phải nhớ thả giây cho Balô xuống trước khi đến phiên mình đáp xuống đất. Saut này tôi bị gió cuốn mạnh, nên phải kéo đai dù ngược với hướng gió cho dù xuống thẳng, khiến chạm đất mạnh. Bị dù lôi, tôi phải chạy nguyên vòng tròn mới không bị gió kéo lăn lóc dưới đất. Saut thứ 5 vừa có Balô vừa mang cây súng. Saut thứ 6, với đầy đủ trang bị hành quân trên người, ngoài dù lưng và dù bụng, rất nặng nề. Saut Thứ 7 cuối cùng là Saut nhảy đêm. Từ cửa phi cơ nhìn ra ngoài tối đen, gió ào ào; nhảy ra khỏi phi cơ nhìn xuống bãi đáp Ấp Đồn le lói chút ánh sáng từ những bó đuốc 4 góc và ở vòng đai. Đáp xuống đất có phần hồi hộp hơn vì không biết chính xác khi nào chân chạm đất. Tôi vẫn nhớ 2 Saut đầu tiên và Saut nhảy đêm chúng tôi đều nhảy từ phi cơ C47. Nhưng từ Saut thứ 3 cho đến Saut thứ 6, có lẽ chúng tôi được nhảy từ phi cơ C123 một hoặc hai lần. Vì loại phi cơ này lớn chứa nhiều người hơn và bay nhanh hơn nên vài ba người nhảy cuối toán có thể gặp nguy hiểm nếu đáp trúng vào hàng rào giây thép gai ở cuối bãi đáp hoặc đôi khi còn đáp hẳn ra ngoài vòng đai an ninh của bải. Là người luôn nhảy đầu toán, nên tôi không gặp những cảnh trớ trêu trên.

    Sau Saut nhảy đêm, nhóm QYND chúng tôi rủ nhau đi ăn mừng vì anh em chúng tôi vượt qua được mọi giai đoạn khó khăn của khóa HLND để trở thành một người lính Dù thật thụ mà không một bạn nào bị thương tật; đồng thời chúng tôi hãnh diện nhận biết mình cũng có sức chịu đựng và khả năng sống sót như bao người lính Dù khác, khi cần. Tinh thần ấy thể hiện qua khẩu hiệu “Nhảy Dù- Cố Gắng” mà ngày ngày được mọi khóa sinh, kể cả chúng tôi, đồng loạt la lớn trong khi chạy chung đoàn hay trong khi luyện tập.

    Nhảy Dù - Cố Gẳng đã giúp người lính Dù vượt qua sợ hãi phóng mình ra khỏi cửa phi cơ, tung mình vào trận chiến, quên đi muôn vàn khó khăn khổ nhọc trên bước tiến quân. 4 chữ Nhảy Dù - Cố Gắng, tuy đơn giản, nhưng khi được hét vang từ một tiểu đội lính Dù, từ một ĐĐ tác chiến, từ một TĐ Dù, trở thành một sức mạnh tập thể giúp đơn vị hoàn tất nhiệm vụ được giao phó trong hoàn cảnh gay go nhất, nguy hiểm nhất của địa ngục trần gian, đòi hỏi quyết tâm, quả cảm và hy sinh tối đa. Để xung phong thẳng vào vị trí địch. Để không lùi một bước trước quân thù. Để tử thủ cho đến phút cuối cùng. Để giữ vững vị trí ngay cả trong giờ thứ 25. Để đơn vị không bị over run. Không do dự khi cần gọi pháo bắn nổ chụp trên đầu mình. Cho dù bị thương tích. Cho dù chỉ còn một người. Với một lưởi lê. Một trái lựu đạn.

    Tell my wife I love her true
    Tell my children to remember me
    Tell my paratroopers never surrender
    You, my officers, one final salute… (8)

    Nếu từng là Thiên Thần Mũ Đỏ, cuộc đời ta luôn gắn liền với Nhảy Dù - Cố Gắng, trong bảo lửa chinh chiến, trong lao tù và mãi về sau này. Trước những quằn quại đau đớn của cả thể xác lẫn tâm hồn. Trong chiến thắng hay thất bại. Với những up and down của cuộc sống, những hư hao mất mát trong tình cảm. Qua những vết thương trên cơ thể hay trong lòng, qua những phong ba bão tố của đời người. Nhảy Dù - Cố Gắng. Nhảy Dù - Cố Gắng cho ta ý chí bất khuất, nghị lực phi thường, sự cam khó và nhẫn nhục khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Nhảy Dù - Cố Gắng khi cùng chung góp sức mạnh đoàn kết giữ đời cho nhau.

    Ngày hôm sau của Saut nhảy đêm, toàn thể khóa sinh được tập họp trước sân cờ. Không riêng gì tôi, mọi người đều cảm động và hãnh diện nhận lãnh bằng và huy hiệu bằng ND từ tay vị Chỉ Huy Trưởng TTHLND. Trên đường về nhà, tôi ghé ngang qua tiệm may nhỏ trong trại Hoàng Hoa Thám, nhờ cô chủ gắn huy hiệu bằng Dù vào phía trên túi áo trận bên phải. Kể từ giờ phút ấy, tôi chính thức là một người lính Nhảy Dù. Một Y Sĩ Nhảy Dù. Một Thiên Thần Mũ Đỏ.

    Hầu như mọi lính Dù đều có chung một tần số: thích mạo hiểm, thích xông pha, thích thử thách. Thương yêu Tổ Quốc. Trọn vẹn với nước nhà. Chí tình với đồng đội. Thích lối sống hào hùng, nay đây mai đó, là người của mây bốn phương trời, hoặc xanh cỏ hay đỏ ngực. Đồng mang nặng một tinh thần trách nhiệm cao độ, một tinh thần thượng võ hào hùng và một kỷ luật thép vô cùng nghiêm minh. Có sức chịu đựng bền bĩ, có khí phách của một nam nhân bất khuất, dũng cảm và gan dạ, sẳn sàng bảo vệ danh dự màu cờ sắc áo. Thích làm Thiên Thần (sống), thích Mũ Đỏ, thích bộ đồ Hoa Dù với áo Saut. Và có khuynh hướng ăn chơi bạt mạng, nhất là mỗi khi về phép sau một trận đánh, thích phiêu lưu bay nhảy, văn nghệ đầy mình. Rất mê gái… và cũng rất được gái mê?!... Đồng thời… lại rất là sợ… VỢ.

    Hai ngày sau khi lãnh bằng Dù, vào đầu giữa tháng 7, 1974, toàn thể 9 người chúng tôi trong toán QYND mới học xong bằng Dù được đưa ra Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của SĐND ở Non Nước, Đà Nẵng, trình diện Y Sĩ Th. Tá Trần Đức Tường, TĐT. TĐQYND và Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh SĐND. Qua hôm sau, tôi được đưa ngay đến TĐ1ND với Tr. Tá Lê Hồng làm TĐT và Th. Tá Ngô Tùng Châu làm TĐP, nhận chức vụ Y Sĩ Trưởng của TĐ1ND, không hề biết trước, không một chuẩn bị hành trang. Và từ đó tôi bước vào đời y sĩ tiền tuyến, theo chân TĐ1ND đi vào mặt trận Thường Đức- Đại Lộc. Bấy giờ Th. Tá Ngô Tùng Châu vừa được bổ nhiệm làm TĐT. TĐ1ND. Đến cuối tháng Giêng 1975, tôi được thuyên chuyễn về TĐ15ND Tân Lập ở Saigon.

    Từ ngày khoác áo chinh nhân với quân phục hoa dù mũ đỏ, tôi đã thực hiện được ước mơ trở thành một y sĩ ND của mình. Chính chức vụ cũng như tinh thần chiến đấu của đơn vị đã giúp tôi học hỏi kinh nghiệm quý báu, cho tôi hiểu thế nào là tinh thần trách nhiệm, tinh thần đồng đội, lãnh đạo chỉ huy. Tôi dần dần chững chạc hơn trong suy nghĩ và trong phong cách. Tôi quyết chí và tự tin hơn tìm gặp lại người tôi hằng yêu thương sau 3 năm xa cách với vẻ hiên ngang khí khái của một Thiên Thần Mũ Đỏ. Dưới mắt nàng tôi không còn là bạch diện thư sinh mà là một con người dày dạn phong sương, vững vàng, lạc quan và đầy sức sống.

    Mùa Xuân 1975 là một mùa xuân đầy thảm họa cho đất nước, với những trận đánh cuối cùng của Lữ Đoàn 3 tại mặt trận Khánh Dương, của Lữ Đoàn 2 ND ở mặt trận Phan Rang, rồi của Lữ Đoàn 1 ND ở mặt trận Long Khánh, và cuối cùng là trận đánh đầu tiên đồng thời cũng là trận đánh cuối cùng của Lữ Đoàn 4 ND Tân Lập ở Saigon và vòng đai, với ngày cuối buông súng nghẹn ngào của TĐ15ND của tôi tại cầu Bình Triệu.

    Nhưng riêng với nàng và tôi, đây là một mùa Xuân tràn ngập yêu đương khi cuộc tình sử của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi theo thời gian ngắn còn lại của cuối cuộc chiến. Có thể nàng cũng thấm mệt vì sự đeo đuổi dai dẳng mang nặng chất “Cố Gắng” của tôi trong suốt 9 năm trường. Cũng có thể nàng tội nghiệp tôi khi nhìn thấy những bụi cây cỏ còn sót trên bộ áo trận chưa kịp thay khi tôi đi từ nơi đóng quân đến thẳng nhà nàng. Hay vì nàng ngỡ ngàng thấy một khoảng dơ bám trên tường trắng sau khi tôi tạm tựa đầu mình vào trong một cơn buồn ngủ bất chợt đến, hoặc khi chiếc khăn ướt nàng đưa tôi lau mặt trở nên đen thui cáu bẩn. Tôi còn nhớ ánh mắt e ngại của cha nàng khi nhờ ông giữ giùm dây ba chạc gồm có khẩu súng Colt, lựu đạn mini, dao găm, địa bàn, biđông nước… để đưa con gái ông đi chơi. Mãi sau này, nàng mới hé mở “Hồi thấy lính mặc đồ rằn ri là em sợ lắm. Nhưng anh mặc đồ ND với nón Beret đỏ, thì... khác. May cho anh đó…”

    Ngày đôi cánh thiên thần của tôi sụp gẫy, nàng can đảm dang rộng đôi tay cứu vớt đời tôi. Vòng tay em tuy nhỏ, nhưng cái ôm choàng cứng chặt và bền bỉ hơn cả cánh dù tôi hằng mơ ước. Em cùng tôi chắt chiu hạnh phúc trong cơn lốc đổi đời, cùng nhau bước qua bao gian khó, thử thách để có nhau và mãi mãi bên nhau.

    Giờ đây, nhìn lại ngày tháng tuổi hoa niên của mình, tôi nhận biết tôi đã làm một quyết định đúng khi vào Nhảy Dù. Tôi đã đi. Đã thấy. Đã nghe. Đã Sống. Đã làm tròn bổn phận với đất nước. Đã vinh quang cũng như tủi nhục. Và chưa một lần tôi hối tiếc thời gian đi Nhảy Dù, phục vụ QYND, cho dù phải trả bằng cái giá của mấy năm tù tội, gian nan trên biển cả lênh đênh.

    Xin cho tôi nhắm mắt nghe tiếng gió vi vút qua những rặng cây để tưởng nhớ đến những bạn chiến đấu của mình, có tên hay không tên, đã gục ngã trên các nẻo đường quê hương, lắng nghe tiếng thầm thì nhắc nhở đừng quên chúng tôi nhé! Như hàng chữ khắc trên tượng đài vô danh ở chổ hẻo lánh trong dẫy núi Rocky, Colorado, “Nếu khóc than có thể biến đổi diễn tiến của sự việc / thì dòng lệ của tôi sẽ đổ xuống không ngừng cho đến ngàn thu”…

    Nguyện xin Thánh Michael, quan thầy của binh chủng Mũ Đỏ, gìn giữ linh hồn những Thiên Thần đã rời bỏ đại đoàn, và quan phòng những Thiên Thần hiện vẫn sống tạm ở trần thế.

    Xin kính tặng những Quân Y Sĩ, những Sĩ Quan Trợ Y và những Quân Y Tá Tiền Tuyến, đặc biệt của TĐQYND, cùng các quân nhân Nhảy Dù, đã bỏ mình trong cuộc chiến VN.

    Xin hãy cho tôi một lần đứng chào
    Những người bạn đã nằm xuống nơi xưa
    Xin hảy cho tôi một lần trở lại
    Bung cánh Dù ngạo nghễ năm xưa…(9)


    Một Lần Nhảy Dù, Một Đời Nhảy Dù
    Airborne All The Way
    Para Un Jour, Para Toujours
    Nhảy Dù - Cố Gắng



    Viết cho ĐSMĐ
    Mđ Vĩnh Chánh
    Bên bờ hồ Mission Viejo
    Ngày 23, tháng 8, 2016

  4. #14
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Năm 1969 thì Trung Tâm Nhảy Dù đã không cho nhẩy sô đêm vì mất an ninh bãi nhẩy ( Hóc Môn ) và khóa sinh chỉ phải nhẩy 4 sô ngày....Ai có điều kiện thử liên lạc với ông Vĩnh Chánh xác minh ...mà thôi cũng chẳng cần thiết nữa

  5. #15
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,622

    Đâu đây cánh dù còn lướt gió...

    Cánh dù ôm kín đời...


    Cám ơn trời đã cho gió
    Lộng không gian đưa những cánh dù bay
    Chừ đôi cánh ấy ngàn năm khép
    Vẫn để cho đời những tinh khôi
    .

    cuocsi 2016-11-27



    ( trích bài viết
    TÔI ĐI NHẢY DÙ
    Mđ Vĩnh Chánh)


    Không là gió mà bay trên cánh gió
    Không là mây, mà ngạo nghễ đường mây
    Một ngày Mũ Đỏ, một đời Mũ Đỏ
    Giữa không gian còn lưu lại dấu giày “
    (2)

    Last edited by cuocsi; 11-26-2016 at 11:28 PM.

  6. #16
    Biệt Thự HXhuongkhuya's Avatar
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    4,662




  7. #17
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Quote Originally Posted by cuocsi View Post
    Cánh dù ôm kín đời...


    Cám ơn trời đã cho gió
    Lộng không gian đưa những cánh dù bay
    Chừ đôi cánh ấy ngàn năm khép
    Vẫn để cho đời những tinh khôi
    .

    cuocsi 2016-11-27


    cuocsi !Ngày đi nhẩy mà có gió mạnh thì ớn xương sống...từ chết tới bị thương...nếu gió mạnh thổi dù bay qua bên kia sông nhăn răng cười với mấy thằng du kích hoặc mở mắt ra thì thấy xe Hồng Thập Tự chở vềchỗ tập trung ( vì tôi chú ý nhìn để tránh mấy con trâu gặm cỏ phía dưới đến lúc rớt cái bịch ...xỉu...) dù gì thì cũng không muốn chuyển qua chỗ khác .

  8. #18
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    Biệt Hải
    CHUYẾN CÔNG TÁC BẦU TRÓ (ÐỒNG HỚI)



    V.12



    Lời Mở Ðầu:
    Thưa quý Niên Trưởng và quý bạn, có tham gia trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới 1964. Người viết là một nhân chứng đi trong chuyến đó, vì thời gian đã quá lâu nên không thể nhớ hết hơn nữa lối hành văn thiếu mạch lạch, mong quý N/T và các bạn nếu biết xin bổ túc thêm, thành thật cám ơn.

    Tôi và anh Nguyễn Bảy lúc hồi còn niên thiếu, chúng tôi hai đứa cùng chung học dưới một mái trường Tiểu- Học Thánh Giuse, Ðà nẵng. Gia đình 2 chúng tôi cách nhau một con sông Hàn (sông Hàn Ðà Nẵng) đứa ở bên kia sông gọi là làng Nhượng nghĩa, thằng ở bên nầy sông gọi là làng Ðức- Lợi (về sau này Ðức Lợi và Thanh- Bồ cả 2 sát nhập lại gọi chung là Thanh Ðức). Hai đứa chúng tôi thường nô đùa với nhau trong những lúc ra chơi và tan trường, đã từng chia sẽ cho nhau từng cái càrem (ice cream). Có những khi chia phe bắn nhau bằng những sợi giây thun và các cọng phượng cùng với những thằng bạn đồng lứa khác thật hết sức hồn nhiên và vui thích, có những buổi chiều thứ sáu cuối tuần tôi rủ anh Bảy về với bọn tôi để ở lại đá banh, có khi năm bảy đứa hoặc có lúc ba bốn thằng mỗi bên, mãi mê chơi đến chiều tối anh mới chịu trở về lại Nhượng Nghĩa, trên những chuyến đò ngang có những cô thiếu nữ chèo đò thật mơ mộng, dễ thương.

    Anh Nguyễn Bảy cao hơn tôi cả một cái đầu, anh rất vui tính mỗi lần gặp tôi thường nhoẽn một nụ cười vui vẽ. Sau nầy Nhượng Nghĩa và Thanh Ðức thành lập các đội bóng tròn Thanh Thiếu Niên, chúng tôi mỗi đứa một bên thĩnh thoảng gặp lại nhau trên sân cỏ, có cả những lúc chơi bóng chuyền với nhau nữa mỗi lần được dịp gặp nhau anh đều hỏi thăm tôi có khỏe không V.12? Tôi vội trả lời vẫn khỏe chứ, có khỏe tao mới đến chơi banh với mầy được hôm nay. Nói xong cả hai đứa cùng ôm nhau cười toe toét rất ư hồn nhiên. Thời gian sau nầy khôn lớn, mỗi đứa một nơi và nghe tin anh đã lập gia đình, còn tôi vẫn mang nhãn hiệu độc thân vui tính.

    Vào khoảng cuối tháng 11 hoặc 12 năm 1963, chúng tôi hai đứa vô tình gặp lại nhau dưới mái nhà tôn xiêu vẹo trong cùng một chí hướng tương lai của thời trai lúc bấy giờ, căn nhà đã bỏ hoang phế tự lúc nào và anh em được một người của cơ quan tuyển mộ hẹn gặp gỡ nhau tại đó, tựa như những chàng điệp viên lai vãng tới để lấy tin tức. Tôi và anh Tòng A được một chiếc xe Jeep chở tới trước, khoảng độ 15 phút sau thì lại thấy anh Châu B và anh Bảy cũng được người có thẩm quyền chở tới, tất cả anh em chúng tôi 4 thằng không hẹn mà gặp và rồi ôm nhau với nỗi vui mừng khôn tả nhất là anh Bảy vì đã quá lâu tôi không được gặp, mười phút sau đó chúng tôi được gặp thêm anh Hiển (râu) anh Hợp và anh Lạc từ làng Tam Tòa xuống.

    Tất cả anh em chúng tôi tổng cộng 7 người được mời lên một chiếc xe GMC (Quân đội) chạy về hướng cầu Trịnh Minh Thế Ðà Nẵng khi tới ngã ba viên tài xế quẹo phía tay phải trực chỉ Non Nước, chạy đến ngang làng Mỹ Thị xe quẹo trái lần theo dấu đường mòn quanh co, tiến vào rừng thông (Mỹ Thị) thì tới một doanh trại. các dãy nhà này được lợp bằng tôn chung quanh xây bằng những viên táp lô, cuối sân có một giếng nước và một căn nhà bếp chứa khoảng được 20 hoặc 30 chục người ngồi ăn, trong căn trại chính đã có sẵn một số giường nệm đôi lên đến con số 30 chục và một người Sỹ quan trực đứng sẵn ở đó, sau nầy tôi được biết tên ông ta là Chuẩn Úy Ninh, quê quán ở Huế.

    Chúng tôi ở tạm đó một thời gian, để chờ tiếp nhận thêm một số anh em ở các nơi về cho đủ túc số để nhập khóa. Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1964, khóa II Biệt Hải bắt đầu học, trong thời gian đầu 3 tháng đầy nhiều cam go cực khổ nếm đủ mùi vị cay đắng nhất là trong tuần huấn nhục (tuần Ðịa Ngục) một số anh em đã chấp nhận bỏ cuộc vì không chịu nỗi, hoặc thiếu sức khỏe, được trả về nguyên quán hoặc đồng ý sát nhập vào Dân Sự Chiến Ðấu (lính gác,doanh trại) Số anh em còn lại hội đủ điều kiện được phân chia ra các toán. Sau ngày mãn khóa tôi và anh Tòng A, anh Châu B, anh Hiển (râu) anh Hợp B và anh Lạc tất cả được đưa về toán Cumulus (Trại 4) còn anh Bảy và các bạn khác được đưa về toán Mercury (Trại 3) ở Mỹ Thị.

    Trong thời gian 1964 đến 1966 chúng tôi đã đột kích vào lòng đất địch nhiều lần, từ Ðồng Hới ra đến tận Nghệ An, Thanh Hóa mục tiêu được chỉ định là bắn phá các đồn công an dọc theo ven biển, dùng các hỏa tiễn bắn vào các doanh sự quân đội miền Bắc đồng thời bắt những cán bộ địa phương đưa vào Nam khai thác tin tức.

    Tôi nhớ vào khỏang tháng 5 năm 1964, anh em chúng tôi được lệnh cấp trên cho biết thực tập liên toán Cumulus và Mercury để công phá nhà máy nước tại Bầu Tró, Ðồng Hới mục đích triệt hạ và làm tê liệt hệ thống cung cấp nước cho toàn tĩnh Ðồng Hới và các vùng phụ cận. Cả hai toán đã âm thầm thực tập trong vòng một tháng, có lúc cả liên toán và một đôi khi cũng thực tập riêng từng toán, tập di chuyển theo đội hình và đổ bộ ban đêm từ ngoài Chiến đỉnh PTF (Patrol Torpedo Fast) vào bờ bằng xuồng cao su (bobo) thực tập bắn các loại súng cá nhân Tiểu liên M-3 hoặc Suzuke của Thủy Ðiển, có cả súng đại bác 57 ly không giật và súng cối 61 ly thật tinh nhuệ, suốt trong thời gian dài thực tập rất công phu và tỉ mĩ, các cấp chỉ huy hỗn hợp luôn cố tìm các địa thế trong Nam tương giống với địa thế ở Bầu Tró Ðồng Hới để cho nhân viên dễ làm quen.

    Hằng ngày chúng tôi thực tập bắn đại bác 57 ly không giật vào các mục tiêu không di động. Tôi, anh Hiền, và anh Quắc xạ thủ 57 ly còn anh Châu B, anh Hợp A và anh Hợp B phụ xạ thủ, và cả 2 anh khác phụ trách 61 ly không giật có bổn phận bắn trái sáng để anh em chúng tôi xác định mục tiêu (vì đã quá lâu nên tôi không còn nhớ tên 2 anh nầy) Trước ngày ra đi chúng tôi được tập dượt qua tất cả phận sự của từng người một lần cuối cùng, hôm đó có sự hiện diện đầy đủ các cấp chỉ huy cả 2 phía Mỹ & Việt và được sự thẩm định kết quả xem như hoàn hảo của cấp trên chấp thuận, liền ngay lúc đó chúng tôi được lệnh cấm trại 100% .

    Vào buổi chiều cùng ngày tất cả nhân viên toán Cumulus chúng tôi, được mời về trại 3 họp chung với toán Mercury và được thiết đãi một buổi cơm thân mật với sự có mặt đầy đủ các cấp chỉ huy Mỹ & Việt và ban huấn luyện viên, trong lúc mọi người đang vui vẽ ăn uống chúng tôi vẫn được nghe thuyết trình đầy đủ về chuyến công tác phá hũy nhà máy nước Bầu Tró cho những ngày sắp tới, thuyết trình viên chỉ dẫn rất tỉ mĩ từng chi tiết, hướng dẫn cách thức xữ dụng và căn dặn những điều cần thiết, đồng thời cũng cho biết mật khẩu để nhận diện nhau khi bị thất lạc. Mật Khẩu "Hỏi ai ? trả lời khát nước" tất cả chúng tôi đều bắt buộc phải thuộc nằm lòng. Còn trường hợp súng 57 ly và cối 61 ly cũng như xuồng cao su (ho bo) nếu bị địch bao vây liệu thế không mang ra được phải nhanh nhẹn phá hủy tức khắc không được chần chờ.

    Sau khi cơm nước vừa xong xuôi tất cả các cấp chỉ huy lớn nhỏ, tới trò chuyện thăm hỏi anh em chúng tôi hình như để khích lệ tinh thần lần cuối cùng, và không quên cầu chúc cho công tác sớm được thành công và gặt hái mọi thắng lợi. Trong lúc tôi đang cầm lon Beer đứng một góc quanh đó, thì từ đằng xa nghe đươc tiếng của anh Bảy gọi V. 12, và bảo lại đây với anh, tôi vội vàng đi tới và nhận thấy trên gương mặt của anh Bảy lúc ấy vương vấn một nét buồn, trông không được vui cho lắm anh đang nằm trên giường và nhìn xuống nói với tôi. Nè 12, không biết tại sao hôm nay tao thấy sốt ruột không yên, tôi an ủi anh và nói không sao đâu có lẽ mầy uống beer tối nầy hơi nhiều đó thôi, nhưng anh vội trả lời tao đã từng uống nhiều lần nhưng lần nầy tao thấy có vẻ hơi khác lạ. Nếu trong chuyến nầy có gì xãy ra chắc chắn vợ con tao sẽ khổ. Với thân tình bạn bè tôi lại trấn an anh một lần nữa, chuyện gì cũng có Chúa Mẹ quan phòng cả, mầy hãy xin phó thác cho các đấng, yên chí đừng có lo nghĩ vẫn vơ vui vẽ lên lấy sức khỏe cho chuyến này.

    Tối hôm đó chúng tôi chia tay nhau, tất cả toán Cumulus trở về trại 4, phần có hơi thấm mệt bỡi chất men tôi lên giường ngũ một giấc cho đến sáng ngày hôm sau mới tĩnh dậy, buổi sáng hôm đó tất cả chúng tôi được nghĩ không phải đi thực tập, anh em mọi người ai lo công việc của người đó, lấy hết súng lớn súng nhỏ ra lau chùi cẩn thận đạn dược lắp vào băng sẵn sàng, kiểm soát tất cả các dụng cụ được đưa đi theo gồm có 3 khẩu đại bác 57 ly không giật, 1 khẩu súng cối 60 ly không giật cùng cấp số đạn nổ và đạn trái sáng cộng thêm vài ba trái lựu đạn lân tinh phá hũy súng lớn. Sau khi đã đầy đủ mấy ông huấn luyện viên và ban vũ khí lấy xe chở tất cả số vũ khí đó, và đưa xuống trước đặt trong các chiến đĩnh PTF, còn lại 3 chiếc xuồng cao su được chở đi theo 2 toán, tổng cộng tất cả là 22 người nhân viên có mặt buổi trưa hôm đó tại bến tàu. Nhân viên toán được trang bị loại Tiểu liên-3 và Tiểu liên Suzuke (Thủy Ðiển) với 7 băng đạn, mỗi băng lắp đầy 3 chục viên, trừ ra 3 người xạ thủ 57 ly chỉ mang Rulo và 5 viên đạn đã lắp sẵn,ngoài ra còn phải mang 3 trái đạn lân tinh để phá hũy súng khi trường hợp khẩn cấp.

    Tôi nhớ lúc đó vào khoảng giữa tháng 6. 1964, lúc 8.30 chiều 4 chiếc Chiến đĩnh PTF (Patrol Topedofast) bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẵng. Vượt trùng duơng trực chỉ hướng Ðông Bắc, như những con kình ngư rẽ sóng lướt nhanh tiến về hướng hải phận Quốc tế, và sau đó 4 chiến đĩnh bèn quay mũi về hướng Bắc Việt Nam, và tiến sâu vào bờ biển Ðồng Hới. Trong khi đó anh em chúng tôi đang nằm ngũ dưỡng sức, cũng có một số anh em leo lên khỏi hầm tàu vì chịu không nỗi mùi hôi của dầu, nói chung tất cả mọi người bấy giờ cùng đều mang một tâm tư băn khoăn và lo lắng từng phút từng giây, của chuyến công tác đầy táo bạo và cực kỳ nguy hiểm trong một vài giờ tới, có lẽ lần đầu tiên Biệt Hải xữ dụng loại súng cá nhân hạng nặng ra vuốt râu giặc Hồ.


    Không ảnh vùng Ðồng Hới


    Và rồi cũng không ai quả quyết hoặc đoán được những gì có thể xãy ra trong đêm nay cho chính bản thân mình, sự sống chết lúc này tựa như sợi chỉ treo mành thật mong manh. Lúc nầy tôi đang nằm ở dưới hầm tàu dù cảm thấy thấm mệt nhưng không tài nào chợp mặt được, bèn ngồi dậy đọc vài kinh phó thác vận mạng cho Chúa và Mẹ xin quan phòng và giữ gìn bản mạng con cũng như toàn thể bạn bè lần này. nghe một hồi chuông báo động vang lên, tiếp theo là ngọn đèn màu đỏ đầy ghê rợn được bật sáng. Báo hiệu giờ giấc sắp sửa thi hành, chúng tôi mọi người không ai bảo ai đều ngồi dậy một lúc và tất cả cùng làm một động tác đó là chụp vội lấy khẩu súng cá nhân, và kiểm soát tất cả các dụng cụ cần thiết để mang đi theo xữ dụng. 4 chiếc chiến đĩnh vẫn âm thầm tiến vào cửa biển của Ðồng Hới, khi đã xác định đúng mục tiêu, 2 chiếc ở lại phía ngoài để bảo vệ đồng thời yểm trợ cho 2 chiếc đang chở toán chạy vào sát gần bờ hơn.

    Dưới ánh trăng lờ mờ hình dáng 2 Chiến Ðĩnh trông tựa như 2 con kình ngư đang từ từ giãm bớt tốc độ và rồi dừng lại, một lệnh được phát ra từ trên phòng lái của Hạm Trưởng tất cả chuẩn bị sẵn sàng đổ toán, chiếc PTF tôi đi anh em đã giúp phụ nhau, nhanh nhẹn cho thả xuống 2 xuồng cao su, đồng thời lúc đó tôi thấy Hạm Trưởng có đưa cho trưởng toán Yên một cái đèn pin hình dáng nhỏ như cây viết và căn dặn anh giữ lấy nó, khi nào gặp trở ngại cần được tiếp cứu cứ bấm đèn pin nầy lên tôi có thể nhận ra bạn và địch để giúp yễm trợ cho các anh. Tất cả anh em chúng tôi xuống, xuồng cao su vào lúc 11 giờ tối, dưới sự chỉ huy của Trưởng toán Yên, cả 3 chiếc xuồng cao su đồng nỗ máy cùng một lúc chạy theo hướng đội hình chữ V trực chỉ vào bờ, được khoảng 45 phút thì thấy ở phía trước và cả vùng chung quanh hơi xa xa chúng tôi có các thuyền đánh cá của dân, một vài chiếc thắp đèn số còn lại đều đã tắt, hình như mọi người trong ghe đều ngủ không nghe thấy tiếng động đậy.

    Lúc ấy 3 chiếc xuồng cao su của chúng tôi đều được giãm bớt tốc độ để tránh gây ra tiếng động, mặt biển đêm nay thật phẵng lặng gió chỉ thổi nhẹ lất phất nên mấy chiếc xuồng (ho bo) lướt nhanh trên mặt nước không hề bị cản trở của các đợt sóng, bỗng tôi và một số anh em ngồi chung xuồng nghe được rõ ràng tiếng mõ đánh lóc cốc tựa như những tiếng báo động của địch từ hướng làng Phú Hội dội tới (làng này nằm ở phía Bắc cửa biễn Ðồng Hới) khi xuồng cao su hơi tiến gần vào bờ chúng tôi lại càng nghe được tiếng mõ đánh rõ hơn, tôi vội nói với trưởng toán hay là chúng đã thấy anh em mình rồi đó, 3 chiếc được lệnh tắt máy và dùng bằng dầm chèo tay khi đã vào gần tới bờ chúng tôi ngừng chèo và cố gắng quan sát, và tiếng mõ kia nghe mỗi lúc một xa dần.

    Khi ước lượng khoảng cách bờ còn 400 thước, thì 2 người tiền sát viên lội vào trước đó là anh Chút và anh Lạt phụ trách kiểm soát bờ biển đồng thời tìm chổ an toàn cho toán xâm nhập, lúc đó chiếc xuồng của tôi lại chèo trở ngược ra hợp với 2 chiếc ở ngoài tất cả đều hướng mắt vào bờ để chờ sự báo hiệu của 2 bạn bằng loại đèn hồng ngoại tuyến cầm tay, ngồi ngoài xuồng lúc bấy giờ trưởng toán Yên cũng cầm hồng ngoại tuyến để theo dõi vào trong bờ (vì mắt thường không thể thấy được) thời gian trôi qua thật hết sức chậm chạp, mọi người ai nấy đều hồi hộp từng phút từng giây hầu như bất động, để chờ tình hình của 2 bạn đang còn ở trong bờ cho biết kết quả gần 20 chục phút trôi qua, chiếc hồng ngoại tuyến được chuyền tay hết người nầy đến người khác nhưng chẳng thấy gì khác lạ.


    Xuồng đổ bộ của Biệt Hải tại Bầu Tró
    (Ðồng Hới, ngày 30 tháng 6 năm 1964)


    Ông Yên vội lên tiếng hỏi vọng qua 2 chiếc xuồng cao su bên cạnh anh em có thấy gì lạ không? tinh thần mọi người rất căng thẳng vì thời gian chờ đợi đã lâu sợ có chuyện gì không may cho 2 người tiền sát. Bỗng ông Yên nhận được tín hiệu của 2 tiền sát trong bờ bấm đèn báo an toàn cho toán đổ bộ, lúc đó trưởng toán ra lệnh cả 3 chiếc xuồng phải chèo thật nhanh vào bờ, đồng thời phụ nhau khiêng xuồng cao su tới chổ cất dấu, và 5 người trong số 22 anh em được trang bị Tiểu liên M-3 & Suzuke bọc nòng giãm thanh ở lại đó canh giữ.

    Còn tất cả 17 anh em với nhiệm vụ từng người mang 57 ly không giật, và 1 khẩu súng cối 61 ly cộng với cấp số đạn dược đầy đũ di chuyển thật nhanh đội hình hàng dọc theo hướng địa bàn của trưởng toán chỉ định, đi được khoãng 500 thước thì mọi người nghe được những tiếng lạch cạch (tựa như tiếng súng giảm thanh của Tiểu liên M-3) tôi kéo trưởng toán tới và nói nhỏ vào tai, hình như ở ngoài chổ dấu xuồng đã bị động, ông Yên vội cho toán dừng lại để lắng nghe và xác định, nhưng những tiếng hồi nãy bỗng nhiên đều tắt lặng luôn và không còn nghe nữa, thấy dừng lại hơi lâu vã lại thời giờ không cho phép tôi vội bấm trưởng toán, tiến hay lùi thì ông nên cho anh em biết, khi nghe tôi nói xong ông bỗng ra lệnh tiến tới mục tiêu, chúng tôi tất cả vừa đi vừa chạy trên vai vẫn vác khẩu 57 ly nhưng lúc đó hầu như tôi không còn cảm thấy nặng nề, thoạt một lúc đã tới bờ Bầu Tró và rẽ lối sang phía tay trái 50 thước cho sát gần mục tiêu hơn, và cùng lúc được lệnh đặt tất cả súng xuống khai hỏa, chúng tôi hành động như một cái máy bắn vào tới tấp, phần anh xạ thủ cối 61 ly thì nạp đạn trái sáng bắn lên không trung giúp cho anh em chúng tôi xác định mục tiêu. Thế là cả ba khẩu 57 ly không giật nhắm vào mục tiêu liên tiếp bắn tới, nhà máy nước Bầu Tró đã bị sập hoàn toàn, sau đó thấy một đám cháy và ngọn lữa được bốc cao soi sáng cả một vùng quanh đó.

    Bắn xong chúng tôi được lệnh rút nhanh để kịp ra gặp tàu mẹ đúng 5 giờ sáng. Trong lúc đang chạy gần tới bờ biển tôi có gặp anh Bảy và anh chỉ tay bảo tôi theo hướng của anh, lúc bấy giờ trên vai tôi vẫn còn vác khẩu 57 ly không giật vì quá mệt và bây giờ lại cảm thấy nặng nề nên tôi chạy thẳng ra, còn anh bảy chạy ngược về hướng dưới cửa Ðồng Hới, khi chúng tôi chạy ra gần tới chổ dấu xuồng cao su (hobo) thì nghe tiếng chạm súng ở phía làng Phú hội (nghĩa là lúc đó toán canh gác xuồng cũng đang chạm địch). Anh em được lệnh của trưởng toán dàn hàng ngang chạy ra, vì ban đêm nên lính cộng sản không nhận ra chúng tôi và lên tiếng hỏi, bộ đội hay công an đó? Thế là anh em chúng tôi tha hồ bắn “ vì mật khẩu của toán hỏi ai? đáp khát nước”. Toán ở làng Phú Hội chạm súng trước, vì trong cửa Ðồng Hới đi ra xa gấp 2 lần từ trên làng Phú Hội đi xuống, ở làng Phú Hội có toán của anh Châu và anh Tín, nghe anh nói 7 băng đạn không còn một viên nào mang về, vì đám dân quân nhào ra quá đông chúng dùng bằng gậy gộc xông vào, có lúc anh Châu đã đánh cận chiến với chúng nên trên trán anh đã bị rách da, còn anh Lê Văn Chút và một số anh em đã bắn tới tấp yễm trợ cho số anh em còn lại rút ra. Riêng anh Hiển (râu) đã lấy được một khẩu CKC của tụi nó.

    Phía dưới cửa biển Ðồng Hới thì thuộc toán của anh Bảy anh Sắc và một số bạn khác đang chống đỡ, tôi và các anh thuộc xạ thủ 57 ly nằm ở giữa lúc đó ở hai đầu đang bắn nhau dữ quá, cộng với tiếng la hét của dân quân và công an cộng sản nghe thật rùng rợn nhìn bên tay trái thấy Hiển và Quốc hai anh đang sữa soạn phá hũy súng 57 ly sẵn đó tôi cũng cho phá luôn. Sau khi thanh toán 3 khẩu 57 ly xong chúng tôi lại chạy tiếp tìm hướng ra bờ biển, thì nghe được tiếng của Bảy kêu tôi bằng ám số 12 tụi nó xông ra đông lắm, tôi quay lại nhìn thấy anh rất hùng tay kẹp khẩu tiểu liên M 3 xối xã bắn từng loạt vào đám cộng sản, riêng tôi không thể giúp gì cho anh được trong phút giây này vì xạ thủ 57 ly nên chỉ có độc nhất một khẩu rulo phòng thân mà thôi.

    Thấy bên phía tay trái có một mô đất khá cao, tôi vội trườn người qua đó nghĩ xã hơi cho đỡ mệt, một lát sau lại thấy Châu B cùng tới, và bảo tôi cùng chạy anh Châu B còn khỏe chạy trước còn tôi cố gắng theo sau, trong lúc chạy chân tôi vấp phải một mô đất và té xuống, thì một loạt đạn bay xẹt ngang đầu hú hồn miệng lâm râm nói lời cám ơn Chúa, rồi lại lồm cồm đứng dậy tiếp tục chạy được khoảng độ 50 thước thì trông thấy một tên cộng sản bị thương khá nặng đang dãy dụa cố trườn đi, tôi liền rút khẩu rulo nhằm vào bóp cò, nhưng mấy lần súng không nỗ miệng lẩm bẫm chửi thề "à mẹ kiếp nó" liền sực nhớ ra, là hồi nãy vừa bị té sấp mặt xuống cát ngay lúc đó trên tay đang cầm khẩu rulo nên cát đã vào đầy cả nòng súng, bởi lẽ đó hèn gì súng không nổ, một số anh em đã ra được trước leo lên xuồng cao su và nổ máy, tôi ra sau một số anh em liền kéo lên tất cả 3 chiếc trực chỉ chạy về hướng các Chiến đĩnh PTF đang đậu (cũng xin được nói thêm ở đây chiến thuật xâm nhập của Biệt Hải, là đột kích chớp nhoáng và rút thật nhanh, chỉ trừ ra khi bị bất ngờ chạm địch thì mới phản ứng tự vệ mà thôi, lý do vùng hoạt động quá xa xôi không được sự yểm trợ của các đơn vị bạn, phần cơ cơ sở hậu cần của chính phủ VNCH không có ở miền Bắc, anh em các toán Biệt Hải đều biết được tất cả những điều kiện đơn phương khi thi hành công tác, nhưng vẫn chấp nhận, theo sự suy luận của anh em toán viên chúng tôi, mục đích là cốt tạo hoang mang cho dân chúng mất niềm tin vào cán bộ, và gây sự nghi ngờ lo lắng cho công an cộng sản).

    Khi 3 chiếc xuồng cao su chở toán chạy ra được 15 phút thì có 2 chiếc tàu Hải thuyền của cộng sản chạy theo rượt đuổi chúng tôi xuất phát từ các hướng, ở làng Phú Hội và cửa biển Ðồng Hới. Anh em lấy ống nhòm quan sát thấy hình như trên tàu có trang bị đại liên. liền lúc đó trưởng toán Yên bảo tôi lấy cái đèn pin trước khi đi Hạm trưởng đã đưa cho ông để dùng khi khẩn cấp, tôi cầm đèn pin đứng trước mũi và nhắm hướng các PTF đang đậu bấm lên mấy lần, ở ngoài khơi các Hạm Trưởng và anh em Hải Tuần khi nhận được tín hiệu kêu cứu của chúng tôi và đồng thời theo dõi trên màn ảnh rada lập tức chạy vào và bắn đại bác 40 ly cũng như đại liên 20 ly nhắm thẳng tới các tàu hải thuyền của cộng sản, và sau đó thì không còn thấy các tàu của chúng chạy theo nữa.





    Chiến đĩnh PTF (Patrol Torpedo Fast)
    thuộc Lực Lượng Hải Tuần trên Biển Bắc


    Tất cả anh em được vớt lên hai chiếc PTF, lúc đó trưởng toán Yên kiểm soát lại nhân viên thấy thiếu mất 2 người gồm có anh Nguyễn Bảy và anh Vũ Văn Sắc, mọi người đều cảm thấy đau buồn và thương tiếc, nhất là tôi đã mất đi một người bạn thân thương của thời thơ ấu, một đồng đội mà tôi hết sức mến yêu đó là anh Nguyễn Bảy, và rồi phút chốc làm cho tôi hồi nhớ lại những lời anh đã trăn trối trước một ngày ra đi.

    “Riêng tôi mãi mãi xin được đốt nén hương lòng cho 2 bạn trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới “

    Trước khi 4 Chiến đĩnh PTF quay mũi chạy về hướng Nam Ðà nẵng, thì bất chợt 2 Hạm Trưởng, Nguyệt và Sơn cho tàu chạy sát gần bờ biển và bắn hàng loạt đạn 40 ly và súng cối 81 ly vào các đồn bót duyên phòng của chúng từ Phú Hội đến cửa Ðồng Hới, đã làm cho anh em toán hết sức phấn khởi như một cử chỉ trả thù cho 2 người bạn của chúng tôi đó là, Bảy và Sắc.
    Xin được Vĩnh- Biệt các anh lần cuối, trên đường trở về lại miền Nam, vì quá mệt trong suốt đêm qua nên tôi ngũ thiếp đi lúc nào không hay, khi được các bạn đánh thức dậy thì các Chiến đĩnh PTF đã tới gần bến và các toán được di chuyển sang một chiếc Swift. Chúng tôi về trại tắm rữa thay quần áo xong được Sỹ quan trực dẫn lên phòng ăn sáng, tiếp theo đó lấy giấy phép xuất trại. qua mấy ngày sau anh em trở lại Trại và vẫn tiếp tục thi hành các sứ mạng như trước.

    Một vài hôm sau được nghe một số anh em cho biết có mở đài radio của cộng sản để theo dõi về tin tức 2 bạn: Bảy, Sắc. Và tin tức của cộng sản cho biết thì anh Nguyễn Bảy bị chết tại mặt trận, còn anh Vũ văn Sắc bị chúng bắt sống và kết cho anh tội danh là gián điệp Biệt Kích phạm tội phá hoại, giết người đồng thời lên án tử hình anh Vũ Văn Sắc trong cùng một tuần.

  9. #19
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    John McCain: Hồi ký Hỏa Lò




    Xuất thân trong một dòng họ ba đời binh nghiệp danh tiếng khi có ông nội và cha là những Đô Đốc Hải Quân Hoa Kỳ, Thượng Nghị Sĩ John McCain là một trong các chính khách đương thời có những kinh nghiệm cá nhân sâu đậm với cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong một phi vụ oanh tạc Hà Nội vào ngày 26 Tháng 10 năm 1967, phi cơ của Thiếu tá không quân lực lượng Hải quân Hoa Kỳ John McCain, 31 tuổi, bị bắn hạ ngay trên bầu trời Hà Nội. Bị bắt sống, bị tra tấn và cầm tù trong hơn 5 năm trời, TNS McCain được trao trả tù binh vào Tháng 3 năm 1973 và đã viết về những năm tháng tù tội tại Hỏa Lò Hà Nội ngay sau khi được trả tự do. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên tờ US News & World Report vào Tháng 5 năm 1973.





    Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú KTT: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây . Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20.


    Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một hơi không khí và bắt đầu chìm xuống lại. Tất nhiên là vậy vì tôi đang mang đồ bay và các thiết bị trên người nặng ít nhất cũng 50 lbs. Tôi chìm xuống và cố gắng chòi lên mặt nước lần nữa. Tôi không thể hiểu tại sao tôi không thể sử dụng chân phải hay tay của mình. Tôi choáng váng, trồi lên lần nữa và lại bị chìm xuống. Lần này thì tôi không thể trồi lên lại mặt nước. Mang chiếc áo phao cứu sinh trên người, tôi cúi xuống dùng miệng kéo dây và cuối cùng cũng nổi lên lại mặt nước.

    Vài cán binh Bắc Việt đã bơi ra kéo tôi vào bờ và ngay lập tức họ bắt đầu lột đồ tôi ra, theo như thủ tục chung của họ. Tất nhiên vì đây là ngay trung tâm thành phố nên có đông người tụ tập, và tất cả bọn họ đã hò reo, gào hét, chửi rủa, phun nước miếng và đá tôi túi bụi. Khi họ đã cởi gần hết quần áo của tôi ra, tôi mới bắt đầu thấy đau nhói nơi đầu gối phải. Tôi gượng dậy và nhìn xuống nó. Bàn chân phải nằm xéo lên đầu gối trái của tôi, gần như vuông góc. Tôi thốt lên, “Chúa ơi! Chân tôi”. Dường như điều này làm họ điên tiết dù tôi không biết lý do tại sao. Một kẻ trong số họ dộng báng súng trường xuống vai tôi một cú khá nặng. Một kẻ khác đâm lưỡi lê vào chân tôi. Đám đông này thực sự đang nổi cuồng. Ngay lúc đó, một thanh niên xuất hiện và hét nạt đám đông dạt ra. Một người phụ nữ khác đỡ tôi dậy và kề lên miệng tôi tách trà, trong lúc có mấy tay chụp hình bấm vài pô hình. Điều này làm đám đông dịu lại một chút. Thế rồi họ đưa tôi lên cáng, khiêng vào một chiếc xe tải và chở thẳng đến nhà tù chính của Hà Nội. Tôi được đưa vào một xà lim và đặt xuống sàn nhà. Tôi vẫn còn nằm trên cáng, chỉ mặc đồ lót và có khoác cho một tấm chăn lên người.

    Trong ba hay bốn ngày sau, tôi tỉnh lại vài lần giữa cơn mê man bất tỉnh. Dù vậy tôi cũng bị đưa ra khảo cung nhiều lần – điều mà chúng tôi gọi là một cuộc “kiểm tra vấn đáp”. Đó là những lúc tôi bị đánh với đủ gán ghép về tội phạm chiến tranh. Bắt đầu bị đánh ngay ngày đầu tiên. Tôi không thèm khai bất cứ điều gì ngoại trừ họ tên, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh. Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa, “Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng”. Tôi không tin lắm. Tôi nghĩ rằng nếu ráng cầm cự, thế nào rồi họ cũng đưa tôi đến bệnh viện. Tôi được tên lính canh cho ăn một tí thức ăn và uống chút nước. Nước thì tôi còn nuốt được, nhưng đồ ăn vẫn tiếp tục bị ói ra. Lúc đó, bọn họ chỉ muốn khảo tin tức quân sự chứ không phải tin tức chính trị. Nhưng mỗi khi họ hỏi tôi một cái gì đó, thì tôi cũng chỉ khai tên họ, cấp bậc, số quân và ngày tháng năm sinh chừng đó. Tôi nghĩ đến đâu ngày thứ tư gì đó thì có hai tên bước vào, thay vì chỉ một. Một tên kéo tấm chăn để chỉ cho tên kia vết thương của tôi. Tôi nhìn xuống đầu gối. Kích thước, hình dạng và màu sắc của trái banh sao thì nó cũng y vậy. Tôi còn nhớ khi tôi còn là một sĩ quan huấn luyện bay thì một đồng ngũ của tôi cũng đã bị đẩy ra khỏi máy bay của anh và bị gãy đùi. Chân bị tụ máu và rồi anh bị chết, một điều khá bất ngờ đối với chúng tôi – khi có người chết vì bị gãy chân. Tôi nhận ra rằng tôi cũng đang bị y hệt như vậy.

    Khi tôi nhìn thấy vậy, tôi nói với người lính canh, “OK, cho tôi gặp cấp trên các anh”. Chỉ dăm phút, một sĩ quan tới, đó là người mà chúng ta sẽ còn biết rõ về sau, tạm gọi là “Con Rệp”. Hắn ta là một kẻ tra tấn tâm thần, một trong những quái vật tồi tệ nhất mà chúng tôi phải đối phó. Tôi nói, “OK, tôi sẽ cung cấp cho anh tin tức quân sự nếu anh đưa tôi đến bịnh viện”. Hắn rời phòng và trở lại với một bác sĩ, một gã mà chúng ta gọi là “Zorba”, một tên hoàn toàn không có khả năng. Hắn cúi xuống bắt mạch. Hắn không nói được tiếng Anh, nhưng lắc đầu và lúng búng gì đó với “Con Rệp”. Tôi hỏi: “Các anh có đưa tôi đến bệnh viện không?” “Con Rệp” trả lời, “Trễ rồi”. Tôi nói, “Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện, tôi sẽ hồi phục”. “Zorba” bắt mạch tôi lần nữa, và lặp đi lặp lại, “Đã quá trễ”. Họ đứng dậy và bỏ đi, để tôi nằm lại bất tỉnh. Chỉ một lúc sau, “Con Rệp” ập vào phòng hét toáng lên, ” Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày đến bịnh viện”.

    Tôi kể lại chuyện này để nói lên điều này: Khó mà có tù nhân cụt tay chân nào còn sống sót trở về vì bọn Bắc Việt sẽ chẳng mất thì giờ chữa trị cho những ai bị trọng thương. Chỉ riêng việc chuyển từ kiểu đời sống tại Mỹ sang chốn lao tù bẩn thỉu, bụi bặm và nhiễm trùng, cũng đã khó cho ai còn sống sót. Trong thực tế, nội việc chữa trị tôi trong bệnh viện cũng đã xém làm tôi mất mạng.

    Tôi thức dậy một vài lần trong ba bốn ngày sau. Huyết thanh và máu đang được truyền cho tôi. Tôi trở nên khá tỉnh táo. Căn phòng mà tôi nằm không đến nỗi nhỏ lắm, khoảng đâu 15×15 feet, nhưng dơ dáy bẩn thỉu và bị trũng, mỗi khi trời mưa thì nước ngập sàn cũng từ nửa đến một inch. Tôi chẳng được tắm rửa lấy một lần trong bệnh viện. Tôi cũng gần như không hề thấy bóng dáng một bác sĩ hoặc một y tá nào, ngoại trừ bác sĩ có ghé liếc sơ tôi vài lần. Họ nói tiếng Pháp chớ không phải tiếng Anh.

    Người canh tôi là thằng bé 16 tuổi, chắc vừa lên khỏi ruộng lúa. Trò tiêu khiển ưa thích của thằng bé là ngồi cạnh giường tôi và đọc một cuốn truyện có vẽ hình một ông già cầm khẩu súng trường trong tay, đang ngồi trên thân máy bay một chiếc F-105 bị bắn hạ. Thằng bé chỉ trỏ gì đó vào mình, rồi tát và đánh tôi. Nó làm điều đó một cách đầy khoái trá. Nó đút tôi ăn vì cả hai cánh tay của tôi đã bị gãy. Nó bưng vào chén mì gói có chút xương sụn, rồi đút tôi. Các xương sụn rất khó nhai. Tôi ngậm đầy miệng đâu ba bốn muỗng gì đó rồi nuốt trộng. Tôi chẳng ăn thêm được nữa, thế là thằng bé bưng ăn hết. Mỗi ngày hai lần tôi ăn khoảng ba hoặc bốn muỗng thức ăn như vậy.

    Tôi nằm đó đâu khoảng 10 ngày, thì một buổi sáng có một tên “gook”- kiểu chúng ta gọi bọn Bắc Việt – đến. Gã này nói tiếng Anh rất giỏi. Hắn hỏi thăm tôi rồi bảo, “Chúng tôi có một người Pháp đến thăm Hà Nội và muốn mang tin tức về cho gia đình của anh”. Đóng chút ngây ngô vào lúc đó – vì cần phải khôn ngoan hơn với những loại người này – tôi hình dung chuyện này cũng chẳng thiệt thòi gì, nếu anh chàng này đến gặp tôi và quay về thông báo cho gia đình tôi rằng tôi vẫn còn sống sót. Khi đó tôi chưa biết được rằng tên của tôi đã được công bố trong chiến dịch tuyên truyền rầm rộ của Bắc Việt và bọn họ rất hí hửng vì đã bắt được tôi. Họ nói với một số bạn của tôi khi tôi bị bắt rằng, “Chúng tôi đang nắm thái tử trong tay”, làm tôi cũng mắc cười. Họ bảo tay người Pháp sẽ tới thăm tôi tối đó . Khoảng trưa, tôi được đặt lên chiếc xe lăn và đưa vào phòng mổ để băng bột tay phải cho tôi.

    Họ rất vất vả để nối xương lại với nhau, bởi vì cánh tay tôi đã bị gãy ba nơi, có hai khúc bị trôi dật dờ. Tôi phải chứng kiến cảnh một gã vật lộn để sắp lại xương tay cho mình trong khoảng một giờ rưỡi đồng hồ mà không có thuốc tê. Sự đau đớn tột độ làm tôi xỉu đi nhiều lần. Cuối cùng hắn ta đành bỏ cuộc và gắn cái ngực băng bột vào tôi. Điều này làm tôi kiệt sức và đó là lý do tại sao sau này, khi một số phim truyền hình được quay, nhiều người xem thấy tôi như thể đang bị say thuốc là vậy. Khi mọi chuyện đã xong, họ đưa tôi vào một căn phòng lớn với một chiếc giường ra trắng tươm tất. Tôi nghĩ, “Boy, mọi thứ coi bộ thực sự khá hơn”. Tay lính canh nói với tôi: “Bây giờ mày sẽ ở trong căn phòng mới này”.

    Khoảng một giờ thì một gã đàn ông được gọi là “Mèo” đến. Về sau tôi mới biết rằng hắn ta là người đã phụ trách tất cả các trại tù binh tại Hà Nội cho đến cuối năm 1969. Hắn khá lanh lợi, một loại trí thức đang nắm quyền Bắc Việt. Hắn nằm trong Cục chính trị của Đảng Lao động Việt Nam. Điều đầu tiên hắn làm là đưa tôi nhận diện thẻ quân của Đại tá John Flynn – tức tướng John Flynn bây giờ – viên chỉ huy cao cấp của chúng tôi. Ông cũng bị bắn hạ trong cùng một ngày với tôi. “Mèo” nói qua một thông dịch viên, hắn không nói tiếng Anh lúc đó. “Người của truyền hình Pháp đang đến”. Tôi nói, “Tôi không nghĩ rằng tôi muốn được quay phim”. Hắn xẵng giọng, “Anh cần hai cuộc giải phẫu, và nếu anh không nói chuyện với anh ta thì chúng tôi sẽ lấy lớp băng bột ở ngực anh ra và anh sẽ không được giải phẫu gì thêm nữa”. Hắn tiếp: “Anh phải nói rằng anh biết ơn nhân dân Việt Nam và xin lỗi về những tội ác của mình”. Tôi nói với hắn ta là tôi sẽ không làm điều đó.

    Cuối cùng, một người Pháp tên là Chalais bước vào, một tay cộng sản, như tôi biết ra sau đó, cùng với hai phóng viên ảnh khác. Ông ta hỏi tôi về sự đối xử và tôi nói với ông là thỏa đáng. “Mèo” và “Chihuahua”, một tên thẩm vấn khác, nhắc sau lưng tôi để nói theo rằng, tôi rất biết ơn cho việc chữa trị khoan hồng và nhân đạo của họ. Tôi từ chối, và khi chúng ép tôi, Chalais nói: “Tôi nghĩ rằng những gì ông nói với tôi cũng đủ rồi”. Sau đó Chalais hỏi tôi có nhắn tin gì về cho gia đình. Tôi bảo với ông là hãy nhắn vợ và những người khác trong gia đình là tôi đang hồi phục và rất yêu thương họ.

    Một lần nữa, từ đàng sau, “Mèo” khăng khăng bắt tôi nói thêm đại loại là hy vọng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc để tôi có thể được về nhà. Chalais cứng rắn cắt ngang lời hắn ta, bảo rằng ông đã hài lòng với câu trả lời của tôi. Ông đã giúp tôi thoát khỏi một tình huống đầy khó khăn. Chalais ở ngay Paris. Vợ tôi sau đó đã bay sang đó gặp ông ta và ông đã cho cô ấy một bản sao đoạn phim, về sau được chiếu trên đài truyền hình CBS tại Mỹ. Ngay khi ông vừa đi khỏi, bọn chúng lập tức đưa tôi lên xe đẩy và tống về lại căn phòng bẩn thỉu trước đó.

    Sau đó, đã có nhiều người đã đến nói chuyện với tôi. Không phải ai trong họ cũng đến để thẩm vấn. Có lần một nhà văn già có chòm râu dài như Hồ Chí Minh và nổi tiếng của Bắc Việt đến phòng của tôi, muốn trò chuyện về Ernest Hemingway (Chú KTT: Đó là nhà văn Nguyễn Tuân, người đã đưa cuộc nói chuyện này vào tập bút ký “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” theo chỉ thị đảng để ca ngợi chính sách “nhân đạo” (!?) của đảng với tù binh chiến tranh). Tôi nói với ông ta rằng Ernest Hemingway chống Cộng bằng vũ lực. Nó cho ông ta một điều gì đó để suy nghĩ. Những người khác đến để tìm hiểu về đời sống ở Mỹ. Họ hình dung rằng cha tôi cấp bậc quân sự cao như vậy, tất tôi phải được nhiều đặc quyền và trong vòng quyền lực. Họ không có khái niệm gì hết về cách vận hành dân chủ của chúng ta. Một trong những người đàn ông đến gặp tôi là tướng Võ Nguyên Giáp, được gọi là người hùng của Điện Biên Phủ mà tôi nhận biết qua ảnh sau này. Ông đến xem tôi ra sao, mà không nói gì. Ông là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và nằm trong Trung Ương Đảng cộng sản Bắc Việt.

    Khoảng hai tuần sau, tôi đã được đưa vào giải phẫu chân có quay phim. Họ chẳng hề chữa trị gì cánh tay trái bị gãy của tôi. Nó tự lành. Họ bảo chân tôi cần hai cuộc giải phẫu, nhưng vì tôi đã có một ” thái độ xấu” nên họ sẽ không cho làm cuộc thứ hai. Tôi cũng chẳng biết họ đã làm cái quỷ gì trên chân tôi. Nhưng bây giờ quay về Mỹ, một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình sẽ mổ và xem xét lại. Chưa gì ông đã báo với tôi rằng họ đã rạch sai đường mổ và cắt hết gân chằng ở một bên. Tôi ở trong bệnh viện khoảng đâu sáu tuần, sau đó được đưa đến một trại giam ở Hà Nội tạm gọi là “Đồn Điền”. Nó là vào cuối Tháng 12 năm 1967. Tôi được đưa vào chung một xà lim với hai người khác là George Day và Norris Overly, cả hai cùng là Thiếu tá Không quân. Tôi nằm trên cáng, chân còn cứng đơ và bộ ngực băng bột mà tôi đã mang được khoảng hai tháng. Từ trọng lượng bình thường 155 lbs, tôi tụt xuống còn khoảng 100 lbs. Sau này Thiếu Tá Day kể họ không nghĩ tôi sống thêm quá một tuần. Tôi cố gượng ngồi dậy được. Mỗi ngày tôi ngủ mê man khoảng 18 giờ, 20 giờ. Họ đã phải chăm sóc mọi thứ cho tôi. Họ được phép xách một xô nước để thỉnh thoảng rửa ráy cho tôi. Họ đút tôi ăn và chăm sóc tận tụy, và tôi hồi phục rất nhanh.

    Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác ngay sau lễ Giáng sinh. Vào đầu Tháng Hai năm 1968, Thiếu Tá Overly được đưa ra khỏi phòng của chúng tôi và được trả tự do cùng với David Matheny và John Black. Họ là ba người tù binh đầu tiên được Bắc Việt trao trả. Tôi hiểu họ đã được khuyến dụ là không nên nói gì về việc đối xử tù nhân, để không gây nguy hiểm cho những người của chúng ta vẫn còn đang bị giam cầm. Chỉ còn lại Day và tôi một mình với nhau. Ông còn bó bột tay phải vì bị bắn sau lần ông đã bị bắt tận phía Nam, định vượt trốn và bị bắt lại lần nữa. Ngay sau khi tôi đã có thể đi được, vào khoảng Tháng 3 năm 1968, thì Thiếu Tá Day bị chuyển đi.

    Tôi bị biệt giam từ thời điểm 1968 đó trong hơn hai năm trời. Tôi không được phép gặp mặt, nói chuyện hay giao tiếp với bất kỳ tù nhân đồng ngũ nào. Phòng giam của tôi tạm vừa phải- khoảng 10×10, có cửa ra vào chắc chắn mà không có cửa sổ. Hệ thống thông gió là hai lỗ nhỏ ở trên trần nhà, khoảng 6×4 inch. Mái nhà bằng thiếc nên phòng nóng như thiêu. Phòng mờ mờ đêm cũng như ngày, nhưng họ luôn bật một bóng đèn nhỏ để có thể quan sát tôi. Tôi bị nhốt trong đó suốt hai năm.




    Theo cái kiểu bị biệt giam này thì điều quan trọng nhất để tồn tại là liên lạc được với một ai đó, đôi khi nó chỉ là cái vẫy tay hoặc một cái nháy mắt, gõ vào tường, hoặc có ai đưa ngón tay ra hiệu cũng làm mọi chuyện khác đi. Nó cũng rất là quan trọng để giữ cho đầu óc mình làm việc và tất cả chúng tôi đều làm việc này. Một số người thích toán học nên họ nhẩm các phép toán phức tạp trong đầu vì chúng tôi chưa bao giờ được phép có giấy bút. Vài người khác thì xây nhà trong đầu, xây từ tầng hầm lên trên. Tôi thì thiên về triết học. Tôi từng đọc rất nhiều sách về lịch sử nên đã dành hết ngày này đến ngày khác để ôn lại trong đầu những cuốn sách lịch sử này, suy diễn nơi nào nước này hay nước khác đã sai đường, hay Mỹ nên làm gì trong lĩnh vực đối ngoại. Tôi cũng suy niệm rất nhiều về ý nghĩa của đời sống. Cũng dễ dàng rơi vào sự tưởng tượng. Tôi đã từng viết sách và kịch trong tâm trí mình, nhưng tôi nghi ngờ rằng trong số này chẳng có cuốn nào hơn được mức tiểu thuyết rẻ tiền nhất. Người ta đã hỏi tôi làm cách nào mà chúng tôi có thể nhớ được những chi tiết như mật mã, con số, tên họ cùng mọi thứ khác. Thực tế là, khi anh không có bất cứ điều gì khác để suy nghĩ, không bị chia trí thì nó thật dễ dàng. Kể từ khi tôi đã quay lại đây thì lại rất khó cho tôi để nhớ cả những điều đơn giản, ví dụ như tên của một người mà tôi vừa mới gặp. Trong thời gian bị biệt giam, tôi nhớ tên của tất cả 335 tù nhân chiến tranh ở Bắc Việt. Tôi vẫn còn nhớ chúng. Điều bạn phải chống chọi với nó là nỗi lo lắng. Nội tình trạng thể chất mình cũng dễ gây căng thẳng. Một lần tôi bị trĩ và đầu óc tôi bị chết dính vào nó khoảng ba ngày. Cuối cùng, tôi nhủ, “Coi McCain, mày có từng biết thằng nào chết vì bệnh trĩ chưa?”. Vì vậy tôi bỏ mặc không nghĩ ngợi nữa và sau vài tháng thì nó tự khỏi.

    Câu chuyện của Ernie Brace minh họa cho việc liên lạc là quan trọng với chúng tôi thế nào. Lúc tôi đang bị nhốt tại “Đồn Điền” vào tháng 10 năm 1968, có một căn phòng phía sau phòng tôi. Tôi nghe vài tiếng động bên đó vì vậy tôi bắt đầu gõ nhẹ vào tường. Tín hiệu mà chúng tôi gọi là “cạo râu và cắt tóc” để anh chàng khác sẽ gõ lại hai tiếng. Trong hai tuần, tôi không nghe động tĩnh, nhưng cuối cùng thì có hai tiếng gõ. Tôi bắt đầu gõ theo bảng chữ cái – một cái là “a”, hai cái là ” b ” và cứ vậy. Rồi tôi bảo: “Áp tai vào tường”. Cuối cùng anh ta đến và tôi áp cái cốc vào tường, nói cho anh ta nghe được. Tôi chỉ cho anh mã gõ và các thông tin khác. Anh nói tên mình là Ernie Brace. Ngay lúc đó thì có tên lính canh lai vãng, tôi nói với Ernie, “Thôi, ngày mai tôi gọi lại cho anh”. Cũng mất vài ngày anh ta mới quay lại bức tường. Anh chỉ nói được “Tôi là Ernie Brace” rồi bắt đầu khóc nức nở. Sau khoảng hai ngày thì anh dằn được cảm xúc của mình, và trong vòng một tuần anh chàng này đã biết cách gõ, giao tiếp, nhắn tin và làm rất tốt về sau. Ernie là một phi công dân sự bị bắn rơi ở Lào. Anh bị cùm chân trong một cái lồng tre trong rừng, cổ bị xích lại trong ba năm rưỡi, hầu như chẳng sử dụng đến đôi chân. Anh trốn thoát ba lần và sau lần thứ ba bị bắt lại, anh bị chôn đứng xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu.

    Trong những ngày đó, vẫn vào năm 1968, theo lẽ là chúng tôi được phép tắm cách ngày. Nhưng cái trại này thiếu nước nên đôi khi hai ba tuần, cả tháng cũng không được tắm. Tôi có một tên chuột cống canh ngục, lúc nào cũng đưa tôi ra sau chót. Bồn tắm kiểu cái chuồng ngựa đổ bê-tông. Sau khi tất cả mọi người tắm, thường là không còn nước dư nhưng tôi cũng bị tống vào đứng không năm phút “tiêu chuẩn tắm” rồi bị đưa về lại phòng. Chuyện vệ sinh thì tôi được phát cho cái xô có nắp đậy không vừa miệng. Ngày nào cũng phải đổ nhưng có người khác xách giùm vì tôi còn đi chưa nổi. Từ lúc Day và Overly rời tôi, Day rời vào tháng 2 còn Overly thì tháng 3 năm 1968, việc đối xử căn bản là có đỡ. Khi tôi bị bắt gặp đang gõ tín hiệu, liên lạc với người phòng khác hay đại loại vậy thì chỉ bị tặc lưỡi “Tắc, tắc! Không được thế, không được thế”. Thật vậy, tôi nghĩ cũng không đến nỗi nào.


    Ngày 15 tháng 6 năm 1968 , một đêm tôi bị đưa lên phòng thẩm vấn. “Mèo” và một gã đàn ông khác mà chúng ta gọi là “Thỏ” đang ở đó. “Thỏ” nói tiếng Anh rất giỏi. “Mèo” là chỉ huy của tất cả các trại tù tại thời điểm đó. Với tôi, hắn làm như không nói được tiếng Anh, mặc dù rõ ràng theo tôi thì hắn biết, vì trong các cuộc trò chuyện, hắn đặt câu hỏi hoặc nói chuyện trước khi “Thỏ” dịch những gì tôi nói. Như bạn biết, người phương Đông hay nói vòng vo một chút. Đêm đầu tiên, “Mèo” nói chuyện với tôi khoảng hai tiếng. Tôi không biết ý hắn ra sao nhưng đại loại hắn nói với tôi là hắn từng quản các trại tù binh Pháp trong những năm 1950 và đã tha cho một vài người, và rằng gần đây hắn gặp lại thì họ đã cám ơn về lòng tốt của hắn. Hắn bảo Overly đã về nhà “với danh dự “. Tôi thực sự không biết phải nghĩ gì, bởi vì tôi đã từng có những cuộc thẩm vấn khác mà tôi chẳng khai báo. Lần này thì họ không tra tấn tôi. Họ chỉ nói rằng tôi sẽ không bao giờ được về nhà và sẽ bị xét xử như một tội phạm chiến tranh. Đó là đề tài thường xuyên của họ trong nhiều tháng. Đột nhiên “Mèo” hỏi tôi:

    - Anh có muốn về nhà không?

    Tôi sững người và tôi nói với bạn rất thẳng thắn rằng, tôi đã trả lời rằng tôi phải suy nghĩ về nó. Tôi trở về phòng và nghĩ ngợi khá lâu. Tôi đâu liên lạc được các sĩ quan cấp trên để có thể nhận được lời khuyên. Tôi lo liệu tôi có còn sống hay không bởi vì tôi đang ở trong tình trạng khá xấu. Tôi vừa bị kiết lỵ khoảng một năm rưỡi nay, bị sụt cân lần nữa. Nhưng tôi hiểu quân cách sĩ quan rằng “không chấp nhận ân huệ hoặc ân xá ” và “sẽ không chấp nhận ưu đãi đặc biệt nào”, vì đối với ai đó được về nhà trước đó là một đặc ân đặc biệt. Không thể phá quân cách này. Ba đêm sau tôi được đưa trở lại.

    Hắn hỏi lại: “Anh có muốn về nhà không?”. Tôi nói: “Không”. Hắn ta muốn biết lý do, và tôi trả lời lý do. Tôi nói rằng, Alvarez (người Mỹ đầu tiên bị bắt) cần được thả đầu tiên, sau đó là các binh lính. “Mèo” nói với tôi rằng Tổng thống Lyndon Johnson đã ra lệnh cho tôi về nhà. Hắn đưa cho tôi một lá thư từ vợ tôi, trong đó cô đã viết: “Em ước chi anh là một trong ba người đã trở về nhà”. Tất nhiên, cô không cách nào hiểu được những phức tạp phía sau. “Mèo” cho biết rằng các bác sĩ đã nói với hắn rằng tôi không thể sống nổi trừ khi tôi được chữa trị tại Mỹ. Chúng tôi cứ vờn nhau điều này và tôi vẫn mực nói “Không”. Ba đêm tiếp sau đó cũng cứ như vậy. Trong sáng lễ Độc Lập 4 tháng 7 năm 1968, cùng một ngày cha tôi được thăng quyền Tổng Tư Lịnh Thái Bình Dương các lực lượng Hoa Kỳ, tôi được dẫn vào một căn phòng thẩm tra khác. “Thỏ” và “Mèo” đã ngồi ở đó. Tôi bước vào và ngồi xuống. “Thỏ” nói:

    - Cấp trên chúng tôi muốn biết câu trả lời cuối cùng của anh.


    - Câu trả lời cuối cùng của tôi cũng vậy. Đó là “Không”.

    - Câu trả lời cuối cùng của anh phải không?

    - Đó là câu trả lời cuối cùng của tôi.

    “Mèo” đang ngồi với một đống giấy tờ trước mặt và một cây viết trong tay, hắn bẻ đôi cây viết, mực văng tung tóe. Hắn đứng lên, đá sầm cái ghế phía sau và nói: “Chúng dạy mày tốt lắm. Chúng dạy mày tốt lắm”. Tôi có thể thêm vào là, hắn nói bằng một giọng Anh rất chuẩn. Hắn quay ngoắt người, bước ra ngoài và đóng sầm cửa lại, để lại “Thỏ” và tôi ngồi lại. “Thỏ” nói: “Bây giờ, McCain, chuyện sẽ rất xấu cho anh đó. Về lại phòng”.

    Giai đoạn Bắc Việt liên tục đối xử tàn nhẫn với tù binh Mỹ kéo dài đến khoảng Tháng Mười năm 69. Họ muốn tôi gặp các nhóm phản chiến đến Hà Nội, trong đó có rất nhiều người nước ngoài như Cuba, Nga. Tôi nghĩ lúc đó chưa có nhiều người Mỹ “phản chiến” sớm vậy, dù các năm sau đó thì nhiều hơn. Tôi từ chối gặp bất kỳ nhóm nào. Với họ thì giá trị tuyên truyền sẽ rất lớn khi cha tôi là Tổng tư lệnh Thái Bình Dương.

    Nhóm David Dellinger đến. Nhóm Tom Hayden đến. Ba nhóm tù nhân được thả, trên thực tế , dưới sự bảo trợ của các “nhóm hòa bình” vậy. Những người đầu tiên được thả về với một trong nhóm anh em Berrigan. Nhóm tiếp theo là toàn bộ một phi hành đoàn, có James Johnson , một trong những Bộ Ba Fort Hood (Chú KTT: Nhóm 3 Binh Nhất Mỹ phản đối việc bị đưa sang Việt Nam) về cùng vợ của chủ biên tạp chí “Ramparts” và Rennie Davis. Nói chung, tôi nghĩ có tám hoặc chín người về kiểu đó. Sau đó là một nhóm thứ ba. Bắc Việt muốn tôi gặp tất cả các nhóm này, nhưng tôi đã có thể né được.

    Nhiều khi không thể làm họ mất mặt, vì vậy bạn phải cố gắng để đu đưa với nó. Bạn biết là “mặt mũi” là chuyện lớn với loại người này, và nếu bạn để họ có thể giữ thể diện thì được dễ dàng hơn rất nhiều. Ví dụ họ đánh tôi tàn nhẫn và bắt tôi phải gặp một phái đoàn, tôi trả lời “Được, tôi muốn gặp một nhóm vậy, nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và tôi cũng không nói bất cứ điều gì về việc đối xử với tôi, nhưng nếu được hỏi, tôi sẽ kể sự thật về các điều kiện tôi đang bị giam giữ”. Họ bảo, “Anh đồng ý gặp một phái đoàn nên chúng tôi sẽ cho anh gặp”. Nhưng như mọi người thấy, họ chưa bao giờ cho tôi gặp. Một lần, họ muốn tôi viết vài hàng cho các tù nhân chiến hữu của tôi nhân dịp Giáng sinh. Tôi viết thế này: “Gởi đến các tù nhân chiến hữu mà tôi không được phép gặp mặt hay nói chuyện, tôi cầu mong gia đình các chiến hữu được tốt lành và hạnh phúc, và tôi hy vọng rằng các chiến hữu được phép viết và nhận thư gia đình theo Công ước Geneva năm 1949 mà những người đang giam cầm các bạn không cho phép. Xin Thiên Chúa ban phước lành đến các chiến hữu”. Họ nhận thư nhưng tất nhiên là không bao giờ được công bố nó. Nói cách khác, đôi khi viết cái gì đó ca ngợi chính phủ mình hoặc chống lại họ thì tốt hơn chuyện cứ nói “Tôi sẽ không viết bất cứ điều gì”- vì đó cũng có thể là cách câu giờ khi các điều viết ra này phải được thông lên đủ loại cấp trên của chúng.

    Bây giờ để tôi kể với bạn câu chuyện của đại úy Dick Stratton. Anh bị bắn rơi vào Tháng Năm 1967, lúc vài nhóm phản chiến Mỹ đã nhao nhao la làng rằng Hoa Kỳ ném bom Hà Nội dù chúng tôi chưa làm vào thời điểm đó. Dick bị bắn rơi phía ngoài Hà Nội, nhưng họ muốn có một lời thú tội nhân lúc một ký giả Mỹ đang có mặt. Đó là vào mùa Xuân và mùa Hè năm 67 – chắc mọi người còn nhớ những câu chuyện rất giật gân về những thiệt hại do bom Mỹ? “Thỏ” và những tên khác thẩm vấn Dick Stratton rất tàn bạo. Tay Dick đầy các vết hằn dây thừng đã bị nhiễm trùng. Chúng thực sự bóp dẹp anh để có được một lời thú nhận rằng, anh đã ném bom Hà Nội như một bằng chứng sống.

    Chúng rút móng tay và gí tàn thuốc lá vào người anh. Dick bị dồn đến mức không thể nói “không”. Nhưng khi chúng đưa anh đến buổi họp báo, anh làm một hành động cúi chào – anh cúi chào 90 độ theo hướng này, anh cúi chào 90 độ theo hướng khác, đủ bốn góc. Với đám “gooks” thì không phải điều gì quá lạ lẫm vì chúng quen với việc cúi chào vậy. Nhưng bất kỳ người Mỹ nào nhìn thấy hình ảnh của một người Mỹ gập mình đến thắt lưng để cúi chào vậy cũng biết rằng có điều gì đó không ổn, có điều gì đó đã xảy ra với anh ta. Đó là lý do tại sao Dick làm những gì anh đã làm. Sau đó chúng tiếp tục tạo áp lực để anh ta nói rằng anh ta không bị tra tấn. Chúng tra tấn anh để buộc phải nói rằng anh không bị tra tấn. Dick vừa ra tuyên bố mạnh mẽ tại cuộc họp báo một vài tuần trước ở đây rằng anh muốn thấy Bắc Việt bị buộc tội là tội phạm chiến tranh. Anh ấy là một người cao quý. Anh và tôi đã ở chung trại “Đồn Điền” với nhau trong một thời gian dài và anh rất cang cường trong đó .

    Anh là một sĩ quan hải quân xuất sắc, một người Mỹ cống hiến hết mình và có đức tin sâu sắc. Tôi nghĩ đến Dick Stratton rất nhiều. Anh rất, rất là xui bị nhận những đối xử tàn tệ nhất mà đám “gook” có thể nặn ra.

    Chúng tôi đã trải qua một mùa Xuân và Hè 1969 đặc biệt xấu vì có một cuộc vượt ngục tại một trong những trại tù. Hai người của ta là Ed Atterberry và John Dramesi lên kế hoạch chuẩn bị rất tốt nhưng đã bị bắt lại. Atterberry bị đánh đến chết sau cuộc vượt ngục bất thành này. Chẳng nghi ngờ gì về điều này khi Dramesi thấy Atterberry bị đưa vào một căn phòng và nghe tiếng đánh đập rồi bị biệt tăm từ đó. Còn Dramesi, nếu anh không phải là một người lì đòn thì cũng có thể đã bị đánh chết. Anh có thể là một trong những người gai góc nhất mà tôi từng gặp. Anh là dân từ Nam Philly, từng là một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp và là một đô vật khi còn trong đại học. Các đòn thù lây sang tất cả các trại khác. Họ bắt đầu tra khảo chúng tôi về các kế hoạch vượt ngục. Thức ăn trở nên tồi tệ. Việc kiểm tra phòng trở nên rất nghiêm ngặt. Anh không thể có bất cứ điều gì trong phòng mình, không có gì. Họ không cho cả thuốc i-ốt xức ghẻ như trước vì Dramesi và Atterberry đã bôi i-ốt cho sậm da như người Việt Namtrước khi vượt ngục.

    Mùa hè năm đó, từ Tháng Năm đến khoảng Tháng Chín thì cứ ngày hai lần, tuần sáu ngày, tất cả chúng tôi được cho ăn chỉ là canh bí đỏ và bánh mì tại trại mình. Đó là một chế độ ăn uống rất kham khổ, đầu tiên là ngán tận cổ thứ canh bí đỏ đó, kế đến là nó không có bất kỳ giá trị dinh dưỡng thực sự nào. Điều duy nhất để có thể giữ cho bất kỳ trọng lượng trên người là bánh mì, một cục bột nhão nhoét. Ngày Chủ Nhật, chúng tôi được cho ăn món chè đậu, đậu nấu với đường, không có chút thịt nào. Rất nhiều người chúng tôi ốm tong teo và hốc hác. Tôi xui xẻo bị bắt gặp đang liên lạc bạn tù bốn lần trong Tháng Năm năm 1969. Tôi bị tống vào một phòng trừng phạt đối diện với xà lim của tôi nhiều lần. Cũng Tháng Năm 1969 đó, họ muốn tôi viết, như tôi còn nhớ, một lá thư cho các phi công Mỹ đang bay trên Bắc Việt để yêu cầu họ đừng làm điều đó nữa. Tôi đã bị buộc phải đứng liên tục – đôi khi chúng phạt mình đứng yên hay ngồi trên một chiếc ghế suốt một thời gian dài. Tôi bị bắt đứng vậy cũng mấy ngày, chỉ được nghỉ vài tiếng khi một lính canh – một người thực sự là con người duy nhất mà tôi từng gặp ở trong đó – cho tôi nằm xuống cho một vài giờ khi ông gác trong một đêm khuya. Một trong những thủ thuật chúng tôi đối phó để chúng chẳng hủy được mình là nếu cảm thấy đứng mệt quá thì tự ngồi xuống, để chúng buộc đứng lên lại. Vì vậy, tôi ngồi xuống và bị một tên lính canh bé choắt đặc biệt đáng căm ghét xông vào, nhảy giậm lên xuống đầu gối tôi. Vì chuyện này mà tôi đã phải mang nạng trở lại cả một năm rưỡi sau đó.

    Đó là một mùa Hè dài đăng đẳng và khó khăn nhưng đến Tháng Mười năm 1969, đột nhiên có những thay đổi lớn trong trại. Sự tra tấn ngừng lại. Một ngày kia, gã “Công tử” đến phòng của tôi và thông báo tôi sẽ có được một người bạn tù ở chung phòng. Thức ăn đỡ hơn và phần ăn cũng nhiều hơn, còn đám lính canh ra vẻ thân thiện. Tôi cho rằng tất cả điều này trực tiếp nhờ vào các nỗ lực vận động của chính phủ và người dân ở Hoa Kỳ vào năm 1969. Em trai tôi là Joe rất tích cực trong Liên Đoàn Quốc gia những gia đình các tù nhân chiến tranh và mất tích người Mỹ tại Đông Nam Á. Tổ chức này bao trùm tất cả các nhóm gia đình tù binh chiến tranh POW. Joe đã giải thích cho tôi biết lý do tại sao thái độ Bắc Việt Nam đối với tù binh Mỹ lại thay đổi vậy. Vào khoảng những năm 1965, 1966 trước đó, khi việc ném bom miền Bắc tăng dần, Hà Nội trình diễn màn tuyên truyền đầu tiên của mình bằng cách điệu các phi công Mỹ bị đánh đập diễn hành qua các đường phố. Đáng ngạc nhiên với họ là phản ứng của truyền thông thế giới nói chung là tiêu cực. Kế đó Bắc Việt đã cố gắng chiến thuật buộc Thiếu tá Dick Stratton xuất hiện và xin lỗi vì những tội ác chiến tranh. Nhưng rõ ràng là ông đã bị ngược đãi và buộc phải làm điều này chỉ dưới sự cưỡng ép. Điều đó chỉ phản tác dụng. Họ làm tiếp việc trả tự do hai nhóm ba tù binh vào Tháng Hai và Tháng Mười năm 1968. Những tù binh này bị bắt dưới sáu tháng, chưa bị giảm cân đáng kể và nhìn còn khỏe mạnh.

    Cho đến khi Nixon lên nắm chính phủ đầu năm 1969 thì trước đó chính phủ ở nhà còn giữ thái độ: “Không nói về tình trạng tù binh chiến tranh vì e rằng sẽ làm nguy hại tù binh Mỹ đang bị giam”. Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird, đầu năm 1969, đã có các cuộc đàm phán hòa bình với Bắc Việt và Việt Cộng tạiParis (đàm phán đã bắt đầu dưới thời Tổng thống Johnson vào cuối năm 1968). Laird đem hình ảnh của những tù binh bị đánh đập tàn nhẫn mà các hãng tin nước ngoài chụp được, chẳng hạn như Frishman, Stratton, Hegdahl – tất cả đều bị xuống ký trầm trọng. Ông nói với Bắc Việt: “Công ước Geneva nói rằng các ông phải thả tất cả các tù binh bị bệnh và bị thương. Những người này đang bị bệnh và bị thương, tại sao họ không được trả tự do?”. Tháng Tám năm 1969, Hà Nội thả Frishman. Anh không còn khuỷu tay, chỉ được gắn cánh tay cao su khập khiễng và sụt mất 65 lbs. Hegdahl ra tù và sụt 75 lbs. Wes Rumbull cũng được thả, phải bó bột vì gãy sống lưng. Frishman được phép tổ chức một cuộc họp báo và kể ra các chi tiết sự tra tấn và ngược đãi. Tin tức này xuất hiện trên toàn thế giới, và từ đó, bắt đầu từ mùa Thu năm 1969, việc đối xử tù binh đỡ hơn. Chúng tôi nghĩ tác động trực tiếp là đến từ thực tế Frishman là một nhân chứng sống thực về sự ngược đãi tù binh Mỹ của Bắc Việt.






    Tôi tự hào về các hoạt động tranh đấu cho tù nhân chiến tranh của em trai tôi là Joe và Carol-vợ tôi, bên nhà. Sự khao khát của những người vợ có chồng tù tội theo thời gian thường là “Lạy Chúa, bất kể sao cũng được, con chỉ muốn chồng con được về”. Với Carol thì câu trả lời của cô ấy là, “Chỉ cần có được chồng tôi trở về không đủ đối với tôi và không đủ với John, mà tôi muốn anh ấy đứng thẳng người trở về”. Tôi được nhận khá ít thư từ Carol. Chỉ có ba thư trong bốn tháng đầu tiên tôi bị bắn hạ.

    Đám “gook” cho tôi nhận chỉ một lá thư trong bốn năm tù cuối. Gói quà đầu tiên được nhận vào Tháng Năm 1969, sau đó họ cho mỗi năm một lần. Lý do tôi nhận rất ít thư từ Carol vì cô khăng khăng chỉ sử dụng các tổ chức hoạt động theo Công ước Geneva về việc đối xử với tù nhân chiến tranh, mà từ chối gửi thư thông qua Ủy ban liên lạc với các gia đình tù nhân do các nhóm phản chiến điều hành. Điều này mang lại cho tôi vài điều cần nói chi tiết hơn.

    Như mọi người biết, trở lại thời điểm 1954, Bắc Việt đã ở thế tay trên trong việc lật đổ chính phủ Pháp tại Paris vì các cử tri Pháp đã chẳng còn quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam mà chính phủ của họ đã dự phần. Đó là cách Bắc Việt chiến thắng vào năm 1954, thắng ngay tại Pháp chớ không phải tại Việt Nam. Pháp đồng ý rút khỏi Đông Dương mà không đặt vấn đề gì khác khi ký thỏa thuận và kết quả là họ chỉ nhận lại một phần ba số tù binh chiến tranh của mình. Tôi tin rằng Hà Nội cũng hy vọng sẽ giành chiến thắng trong trường hợp chúng ta bằng cách làm suy giảm tinh thần dân Mỹ như vậy. Họ phải dẫn đưa dư luận thế giới về phía họ. Tôi nhớ vào năm 1968 hoặc 69, trong bài phát biểu của Phạm Văn Đồng với Quốc Hội VN, chúng ta bị banh tai với diễn văn có tiêu đề “Cả thế giới ủng hộ chúng ta” chớ không phải kiểu “Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ xâm lược” hoặc bất cứ điều tương tự vậy.

    Năm 1969, sau khi ba tù nhân được trả tự do về đến Mỹ và kể lại sự tàn bạo trong các trại tù binh chiến tranh thì Tổng Thống Nixon đã bật đèn xanh cho công bố điều này. Nó tác động mạnh đến việc đối xử với chúng tôi. Cảm tạ Chúa cho điều này, bởi nếu không phải vậy thì rất nhiều người trong chúng tôi sẽ chẳng bao giờ còn cơ hội sống sót trở về. Một ví dụ nhỏ về cách thay đổi như sau: trên cửa xà lim tôi là các chấn song sắt, thường bị che bởi một tấm ván để tôi khỏi nhìn ra ngoài và để chặn sự thông gió. Một đêm, vào khoảng cuối Tháng Chín năm 1969, “Đầu Lệch”- tên trưởng trại tù đích thân đến và lấy nó ra để tôi bắt đầu có chút thoáng gió. Tôi chẳng tin vào mắt mình. Từ đó, mỗi đêm họ hé ô cửa trên để tôi có được chút thông gió. Chúng tôi bắt đầu được tắm thường xuyên hơn.

    Thiệt hết sức là ngạc nhiên. Vào Tháng 12 năm 1969, tôi được chuyển từ “Ngũ Giác Đài” sang “Las Vegas”, là một khu vực nhỏ tại Hỏa Lò do người Pháp xây năm 1945. Người Mỹ thì gọi nó là “Hà Nội Hilton”. “Khách Sạn Tan Tác” cũng là ở đó – đó là nơi đầu tiên mà ai cũng bị đưa đến thẩm vấn mở màn và sau đó bị đưa đến các trại khác. Toàn bộ nhà tù này có diện tích khoảng hai block đường. Tại “Las Vegas “, tôi bị đưa vào một nhà nhỏ gọi là “Gold Nugget” có ba phòng giam. Chúng tôi đặt tên cho các ngôi nhà theo tên các khách sạn tại Las Vegas như “Thunderbird”, “Stardust”, “Riviera”, ” Gold Nugget” và “Desert Inn “. Bị chuyển đến “Gold Nugget” và ngay lập tức tôi có thể tạo sự liên lạc với những tù nhân quanh trại, vì khu vực tắm ở ngay cửa sổ phòng tôi nên tôi có thể nhìn qua kẽ trên cửa phòng tắm và liên lạc với nhau. Tôi bị biệt giam ở đó cho đến Tháng Ba năm 1970.

    Họ ép tôi gặp các đoàn phản chiến Mỹ đã bắt đầu tăng dần nhưng không bị bất kỳ sự tra tấn nào để ép buộc. Vào Tháng Giêng năm 1970, tôi được đưa đến “Mèo” để thẩm vấn. Hắn nói với tôi rằng, hắn muốn tôi gặp một khách nước ngoài. Tôi lặp lại điều đã luôn nói với hắn trước đó rằng, tôi sẽ gặp họ nhưng tôi sẽ không nói bất cứ điều gì chống lại đất nước mình và nếu được hỏi về việc đối xử, tôi sẽ kể với họ về sự khắc nghiệt của nó. Rất ngạc nhiên cho tôi, hắn nói: “Tốt, anh không cần phải nói bất cứ điều gì”. Tôi nói với hắn tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị này. Tôi trở về phòng và tìm cố vấn từ một sĩ quan cấp trên trong khu vực tù của mình và ông khuyên tôi cứ đi gặp. Vì thế tôi đã gặp một tay nói rằng hắn đến từ Tây Ban Nha, nhưng sau này tôi nghe được là đến từCuba. Hắn chẳng hỏi tôi bất kỳ câu hỏi nào về các vấn đề gây tranh cãi hoặc chuyện đối xử hay suy nghĩ của tôi về cuộc chiến. Tôi nói với hắn là tôi chẳng hối hận gì về những gì tôi đã làm và nếu có xảy ra lần nữa, tôi cũng sẽ làm lại y vậy. Điều đó dường như làm hắn nổi giận vì hắn là một cảm tình viên của Bắc Việt. Giữa lúc đó, một phóng viên bước vào chụp vài tấm hình. Tôi đã nói với “Mèo” trước đó là tôi không muốn có bất cứ sự công bố hình ảnh nào của tôi, vì vậy khi tôi về phòng sau cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng 15, 20 phút gì đó, tôi nói với hắn là tôi sẽ không gặp khách nào khác vì hắn đã không giữ lời hứa. Sau đó Đại úy Jeremiah Denton, người đang điều hành khu tù chúng tôi lúc đó đưa ra đường lối là chúng tôi không nên gặp bất kỳ đoàn nào khác. Tới Tháng Ba, tôi có được một bạn tù chung phòng là Đại tá Không quân John Finley. Ông và tôi sống chung được khoảng hai tháng. Một tháng sau khi ông nhập phòng, “Mèo” đến gặp tôi và bắt phải gặp một phái đoàn khác. Tôi từ chối nên bị phạt ngồi ghế ngoài trời trong ba ngày đêm liên tục. Sự ép buộc lên chúng tôi liên tục để phải gặp các phái đoàn phản chiến. Đầu Tháng Sáu tôi bị tách khỏi Đại tá Finley và bị đưa vào một xà lim gọi là “Calcutta”, cách xa các tù nhân gần nhất cũng khoảng 50 mét. Nó rộng chỉ 6×2 feet, không có lỗ thông gió và rất, rất là nóng. Suốt mùa hè tôi bị lả nhiệt vài ba lần và bị lỵ. Sức khỏe tồi tệ hẳn, tôi không được tắm rửa và khẩu phần bị cắt giảm xuống còn một nửa, thỉnh thoảng lại bị bỏ đói một ngày hay hơn. Suốt thời gian này tôi bị đưa đi thẩm vấn và bị ép phải gặp những người phản chiến nhưng tôi từ chối .


    Tháng Chín tôi bị chuyển đến khu gọi là “Riviera” nằm tách biệt sau trại.Tôi ở đó cho đến khi Tháng Mười Hai năm 1970. Ở đó tôi có thể liên lạc với bạn tù khá tốt vì có một cánh cửa có lỗ thông gió quay ra ngoài. Tôi đứng lên cái xô rồi dùng bàn chải đánh răng để quơ tín hiệu cho các tù nhân khác và họ sẽ quơ lại cho tôi. Tháng Mười Hai tôi bị chuyển đến “Thunderbird”, một trong những ngôi nhà lớn với khoảng 15 phòng giam. Việc liên lạc với bạn tù rất tốt ở đây khi chúng tôi gõ tín hiệu lên vách giữa các phòng giam với nhau. Tôi học được rất nhiều về âm học trong thời gian này, vì nếu bạn biết gõ đúng chỗ trên vách thì có thể nghe được người khác ở cách xa bốn năm phòng. Cuối Tháng 12 năm 1970, tôi đoán là khoảng ngày 20, tôi được cho ra ngoài vào ban ngày với bốn người khác. Vào đêm Giáng Sinh, chúng tôi được đưa ra khỏi phòng mình và chuyển đến “Trại Thống nhất “, một phần khác của Hỏa Lò. Khoảng 45 người, chủ yếu bị đưa từ “Vegas” bị nhốt chung vào một phòng lớn. Có bảy phòng lớn như vậy và mỗi phòng giam 45 hoặc 50 tù nhân. Chúng tôi có tổng cộng 335 tù nhân tại thời điểm đó. Có bốn hoặc năm người không trong tình trạng tốt nên bị nhốt riêng. Các Đại Tá Flynn, Wynn, Bean và Caddis cũng bị nhốt riêng biệt, không được chuyển vào với chúng tôi lúc đó.

    Tên giám thị của chúng tôi lại là “Con Rệp” mà chúng tôi rất căm ghét. Hắn hành hạ chúng tôi đủ điều, không cho chúng tôi tụ tập hơn ba người cùng lúc. Chúng sợ chúng tôi sẽ thiết lập sự truyền bá chính trị cho nhau. Chúng không cho chúng tôi được làm Thánh lễ. Tháng Ba năm 1971, các sĩ quan cấp trên quyết định rằng chúng tôi sẽ tổ chức một Thánh lễ. Đó là điều quan trọng với chúng tôi và cũng là điều đúng để tranh đấu. Chúng tôi tiến hành và tổ chức lễ. Những người chủ Thánh lễ ngay lập tức bị đưa ra khỏi phòng. Chúng tôi bắt đầu hát vang những bài Thánh ca và Quốc ca. Đám “gook” nghĩ đó là một cuộc nổi loạn nên mang dây thừng và dùng judo vật trói chúng tôi. Sau khoảng một hoặc hai tuần họ bắt đầu đưa các sĩ quan cấp trên ra khỏi phòng chúng tôi đến nơi khác. Cuối Tháng Ba chúng lại đưa thêm ba hay bốn người mỗi một trong bảy phòng ra, tổng cộng là 36 người. Chúng tôi bị đưa đến một trại chúng tôi gọi là “Skid Row”, một trại trừng phạt từ Tháng Ba đến Tháng Tám, được trở về khoảng bốn tuần khi có ngập lụt quanh Hà Nội, rồi sau đó chúng tôi lại bị đưa ra đó lại cho đến Tháng Mười.

    Ở đó chúng không đối xử tệ lắm với chúng tôi. Đám lính canh được phép đánh chúng tôi chỉ khi chúng tôi ngang ngạnh nhưng không được phép tra tấn chúng tôi để có được các tuyên bố mang tính tuyên truyền. Các xà lim đều rất nhỏ, khoảng 6×4 feet và chúng tôi bị biệt giam lần nữa. Đó là điều khó chịu nhất vì cứ làm mình nghĩ đến tất cả bạn bè đã từng bị giam chung một phòng lớn với nhau. Nhưng so với những năm 69 và trước đó thì chẳng đáng gì. Lợi thế lớn nhất khi bị giam chung phòng lớn là chỉ cần vài ba người trong nhóm phải đối phó với đám “gook” còn khi bị biệt giam thì lúc nào cũng phải tự mình đối phó với chúng, mà lúc nào chẳng có chuyện lục đục với chúng. Lẽ ra mình được phép có 15 phút để tắm nhưng mới năm phút thì tên “gook” đã bắt về lại phòng, vì vậy phải cãi với hắn và thế là bị hắn nhốt lại, không cho tắm một tuần. Nhưng khi ở trong một phòng lớn với những người khác, chẳng thèm dòm ngó đến chúng sẽ làm mình dễ chịu hơn rất nhiều.

    Suốt giai đoạn này, bọn “gook” tấn công chúng tôi bằng các phát biểu phản chiến từ một số nhân vật cao cấp ngay Washington. Đây là cách tuyên truyền hữu hiệu nhất để tấn công chúng tôi khi dùng chính phát biểu, tuyên bố của vài người nói chung là được trọng vọng tại Hoa Kỳ. Chúng dùng nhiều lời lẽ của Thượng Nghị Sĩ Fulbright, rồi TNS Brooke. Chúng lặp đi lặp lại lời của TNS Ted Kennedy, cũng như Averell Harriman. Chúng cũng thích Clark Clifford, ngay sau khi ông trở thành Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Tổng Thống Johnson. Đến khi Ramsey Clark vào cuộc thì họ xem đó là bước tuyệt vời cho mục tiêu của họ (Chú KTT: Ramsey Clark, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thời TT Johnson, người phản đối mạnh mẽ chiến tranh Việt Nam và năm 1972 đã sang Hà Nội để phản đối việc ném bom Hà Nội). Khi công luận ồn ào sau vụ công bố Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Chú KTT: Pentagon Papers là tài liệu nghiên cứu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về sự can dự chính trị và quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến năm 1967, đã bị một nhân vật phản chiến trong nhóm nghiên cứu tiết lộ cho báo New York Times vào năm 1971) thì đây là một bước đệm lớn lao cho Hà Nội để tận dụng nó như một bằng chứng về những “âm mưu đen tối của đế quốc” mà họ vẫn thường rêu rao trong nhiều năm.

    Tháng 11 năm 1971, Bắc Việt chuyển chúng tôi từ trại trừng phạt “Skid Row” về lại trại giam chung “Thống Nhất” trong phạm vi Hỏa Lò. Từ đó về sau thì hầu như chúng tôi bị nhốt chung với những người khác, kể cả những người được đưa vào sau, cũng khoảng 40 tù binh. Tháng 5 năm 1972, khi Mỹ bắt đầu oanh tạc mạnh sau khi Tổng Thống Nixon ra lịnh ném bom Bắc Việt và thả mìn các cảng, họ chuyển hầu như tất cả các sĩ quan cấp nhỏ lên trại “Dogpatch”- Trại Chó Vá gần biên giới Trung Cộng, chừa lại các sĩ quan cao cấp và nhóm chúng tôi. Tôi nghĩ rằng họ sợ Hà Nội sẽ bị đánh bom và nếu nhốt chung tất cả chúng tôi cùng một trại thì chỉ một quả bom rơi trúng cũng có thể xóa sổ tất cả. Vào thời điểm này, đám “gook” rất cộc cằn, hung dữ. Chúng từng kéo một tù binh ra khỏi phòng chúng tôi và đánh anh ta một trận bán sống bán chết vì anh đã làm lá cờ Mỹ trên lưng áo một tù binh khác. Anh là một thanh niên tốt, có tên là Mike Christian. Chúng thoi anh túi bụi ngay ngoài cửa phòng giam chúng tôi, sau đó cứ kéo lê vài feet lại đánh anh tàn nhẫn hết cả vòng quanh sân trại. Anh bị bể một bên màng nhĩ và gãy xương sườn. Nó là một bài học dằn mặt tất cả chúng tôi.


    Cuối cùng đến cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được là ngày 18 tháng 12 năm 1972. Khắp nơi rền tiếng bom theo lịnh ném bom dịp Giáng Sinh của Tổng Thống Nixon. Hà Nội bị đánh bom tức thời. Từ khung cửa sổ phòng giam nhìn ra trời, đó là cảnh tượng ngoạn mục nhất tôi đã từng chứng kiến và tất nhiên, nhìn rõ những ánh chớp trong đêm. Bom thả rất gần làm rung chuyển cả tòa nhà. Hỏa tiễn SAM đất-đối-không đan chéo bầu trời giữa tiếng còi hụ báo động inh tai quả thực là một cảnh tượng dữ dội. Khi một chiếc B-52 trúng đạn, ở độ cao hơn 30,000 feet, nó nổ sáng rực cả bầu trời , rồi ánh đỏ như ban ngày khá lâu vì rơi xuống từ trên không rất cao. Vào thời điểm đó chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không bao giờ được trả tự do trừ khi chính phủ có hành động gì đó rất quyết liệt.

    Chúng tôi bị giam ba năm rưỡi trời mà không có vụ ném bom nào xảy ra nên nhận thức khá rõ cách duy nhất để chúng tôi được thả là chính phủ phải mạnh tay với Hà Nội. Vì vậy chúng tôi rất vui mừng, hò reo cổ vũ. Đám “gook” thì không thích điều đó chút nào, nhưng chúng tôi cóc để ý. Với chúng tôi thì rõ ràng là đàm phán sẽ không giải quyết được vấn đề. Lý do duy nhất tại sao Bắc Việt bắt đầu chịu đàm phán vào tháng 10 năm 1972 bởi vì họ cũng có thể đọc được các thăm dò và biết rằng Nixon sẽ chiến thắng áp đảo trong việc tái tranh cử nên họ muốn đàm phán Hiệp định đình chiến trước bầu cử.

    Tôi ngưỡng mộ sự dũng lược của Tổng Thống Nixon. Có thể có chỉ trích ông trong vài điều, như vụ Watergate chẳng hạn. Nhưng ông phải đưa ra những quyết định không được ủng hộ lắm mà tôi có thể tưởng tượng như thả mìn, phong tỏa, ném bom. Tôi biết làm điều đó rất, rất là khó khăn cho ông nhưng đó là điều để kết thúc chiến tranh. Tôi nghĩ lý do ông hiểu điều này vì ông có kinh nghiệm đối phó với cộng sản. Ông biết sử dụng chiến thuật cây gậy và củ cà rốt. Chuyến công du của ông tới Trung Cộng và khi ký Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược với Nga được dựa trên thực tế là chúng ta mạnh hơn Cộng sản nên họ mới đàm phán. Họ chỉ hiểu khi dùng vũ lực. Và đó là lý do tại sao bây giờ tôi vẫn còn khó hiểu là trong khi mọi người đều biết rằng việc ném bom cuối cùng đã dẫn đến thỏa thuận ngừng bắn, thì tại sao mọi người vẫn chỉ trích chính sách đối ngoại của ông? Sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt lên mặt hẳn. Họ biết Tổng Thống Johnson sẽ ngừng thả bom trước cuộc bầu cử 1968. Tháng Năm 1968, hai tướng Bắc Việt thẩm vấn tôi trong hai lần riêng biệt thì cả hai đều nói hầu như giống nhau từng chữ rằng: “Sau khi chúng tôi giải phóng miền Nam thì sẽ sang giải phóng Campuchia. Sau Campuchia sẽ đến Lào và sau Lào, chúng tôi sẽ giải phóng sang Thái Lan, Malaysia, Miến Điện. Chúng tôi sẽ giải phóng hết cả khu vực Đông Nam Á”. Họ làm tôi chẳng còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu của họ không chỉ riêng với Nam Việt Nam. Một số người cười cợt bác bỏ “lý thuyết domino” nhưng Bắc Việt tin vào nó, chưa bao giờ chối bỏ nó. Hồ Chí Minh đã phát biểu nhiều, rất nhiều lần rằng, “Chúng ta tự hào ở tuyến đầu trong cuộc đấu tranh vũ trang giữa phe Xã hội Chủ nghĩa và bọn đế quốc Mỹ xâm lược”. Nó hiện hình không còn là cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giành độc lập cho miền Nam Việt Nam mà mang đúng nghĩa những gì ông ta đã nói. Đó là tất cả những gì chủ nghĩa cộng sản nhắm tới: một cuộc đấu tranh vũ trang để lật đổ các nước Tư bản Chủ nghĩa. Tôi đọc nhiều sách lịch sử của họ. Họ đưa chúng tôi khá các loại sách tuyên truyền. Tại thời điểm sau Tết Mậu Thân này, Bắc Việt nghĩ rằng họ đã thắng cuộc chiến. Họ nghĩ họ làm tướng Westmoreland mất chức. Họ tin rằng họ làm đắm cơ hội để Johnson tái đắc cử. Và họ nghĩ rằng đa số người dân Mỹ đứng về phía họ. Đó là lý do tại sao họ oang oang tham vọng của mình quá sớm vì đánh giá sai bản lĩnh của Tổng Thống Nixon.






    Quay trở lại vụ đánh bom Tháng 12 thì thoạt đầu, Bắc Việt có lẽ có rất nhiều hỏa tiễn SAM trong tay nhưng ngày càng thấy bắn ít dần, có nghĩa họ đã xài gần hết. Ngoài ra, trong vài ngày đầu tiên thì B-52 thả bom chủ yếu ngay quanh Hà Nội, sau đó trải ra xa thành phố thì theo tôi nghĩ, ta đã phá hủy được tất cả các mục tiêu quân sự trong Hà Nội. Tôi không biết số lượng phi hành đoàn B-52 bị bắn rơi bởi vì họ chỉ đưa các phi công bị thương vào trại của chúng tôi. Thái độ của các phi công chúng ta rất tốt. Tôi hỏi một phi công trẻ khóa West Point 70 rằng “Anh nghĩ sao khi nhận lịnh ném bom Hà Nội?”. Anh trả lời, “Tinh thần chúng tôi tăng vọt”. Tôi cũng nghe có một phi công B-52 khước từ nhiệm vụ trong vụ đánh bom Giáng sinh. Bạn luôn gặp chuyện kiểu đó, gặp những người khi khó khăn thì họ bị lương tâm cắn rứt. Tôi muốn nói điều này với bất cứ ai trong quân đội rằng, nếu anh không biết quốc gia mình đang làm cái gì thì nên tìm hiểu chúng và nếu thấy mình không thích điều quốc gia mình đang làm thì hãy đứng ngoài trước khi mọi chuyện được quyết định.

    Một khi trở thành một tù binh chiến tranh, anh không có quyền bất đồng chính kiến, bởi vì những gì anh làm sẽ tổn hại đến quốc gia của mình. Anh không còn nói với tư cách cá nhân, mà nói như một quân nhân của quân đội Hoa Kỳ và mang trách nhiệm trung thành với Tổng Tư Lệnh chứ không phải với lương tâm của mình. Vài bạn tù của tôi đã không làm vậy nhưng chỉ là một thiểu số rất nhỏ. Tôi tự hỏi họ có nên bị truy tố không và thấy chẳng dễ dàng để trả lời chút nào. Nó có thể phá hủy hình ảnh đẹp của phần lớn chúng tôi mang về từ địa ngục đó. Hãy nhớ rằng, một số kẻ thay lòng đổi dạ sau chiến tranh Triều Tiên đã làm phần lớn dân Mỹ nghĩ rằng hầu hết các tù binh trong cuộc chiến này cũng là những kẻ phản bội. Nếu họ có bị xét xử thì không phải vì lập trường chống chiến tranh của họ, mà vì họ đã hợp tác với Bắc Việt đến mức độ gây nguy hại cho các tù binh khác. Và có điều này cần xem xét: Hoa Kỳ sẽ có những cuộc chiến tranh khác để chiến đấu cho đến khi Cộng Sản từ bỏ chủ thuyết bạo lực lật đổ chúng ta, những người này phải chịu sự lên án để sẽ không gây tiền lệ cho thái độ làm tổn hại quốc gia trong những cuộc chiến tương lai .

    Vào cuối Tháng Giêng năm nay (1973), chúng tôi biết việc kết thúc chiến tranh đã đến gần. Tôi bị chuyển đến “Đồn Điền” và được cho ở chung theo nhóm được phân loại theo thời gian bị bắn hạ. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng để trả tù binh theo nhóm. Đó là ngày 20 Tháng Giêng. Kể từ đó, mọi chuyện trở nên dễ chịu, họ chẳng sách nhiễu chúng tôi nữa. Nhưng theo kiểu của họ thì chúng tôi vẫn bị ăn uống kham khổ trong khoảng hai tuần, chỉ đêm trước khi được trao trả mới được ăn một bữa no nê ngon lành. Có một điều rất thú vị là sau khi tôi trở về, Henry Kissinger có kể với tôi rằng khi ông ở Hà Nội để ký thỏa thuận cuối cùng, Bắc Việt có đề nghị cho phép ông ta có thể mang một người cùng theo về Washington và đó là tôi. Tất nhiên là ông từ chối và tôi đã cảm ơn ông về điều đó rất nhiều, vì tôi không muốn là biệt lệ. Hầu hết mọi người đều cá cược rằng tôi là người cuối cùng được thả, nhưng bạn không bao giờ có thể hiểu được bọn “gook”.

    Không có nghi lễ đặc biệt gì khi chúng tôi rời trại. Ủy ban kiểm soát Quốc tế đến và chúng tôi được phép nhìn quanh trại lần cuối. Có rất nhiều phóng viên ảnh, nhưng chẳng có gì trịnh trọng. Chúng tôi lên xe buýt và được đưa ra sân bay Gia Lâm. Người bạn cũ của tôi là “Thỏ” đã ở đó. Hắn đứng phía trước và bảo chúng tôi: “Khi nghe tôi đọc tên, các anh lên máy bay và về nhà”. Đó là ngày 15 tháng 3. Cho đến tận lúc đó, tôi cũng không cho phép bản thân mình có nhiều hơn một cảm giác hy vọng đầy thận trọng. Chúng tôi đã mừng hụt rất nhiều lần trước đó đến độ tôi quyết định rằng mình sẽ không được phấn khích cho đến khi nào bắt tay được với một người Mỹ mang quân phục. Điều đó đã xảy ra tại Gia Lâm và tôi biết nó đã kết thúc thật sự. Tôi chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc của mình khi đi về chiếc phi cơ Không Quân Hoa Kỳ.

    Bây giờ khi về nhà, tôi thấy có rất nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia chúng ta. Tôi không đồng ý lắm. Tôi nghĩ nước Mỹ ngày nay là một quốc gia tốt đẹp hơn so với khi tôi rời nó sáu năm trước. Bắc Việt cung cấp cho chúng tôi rất ít tin tức, ngoại trừ các tin xấu về Hoa Kỳ. Chúng tôi không biết cuộc đổ bộ thành công lên mặt trăng đầu tiên năm 1969 cho đến khi nó được đề cập trong bài phát biểu của George McGovern rằng, Nixon có thể đưa con người lên mặt trăng nhưng ông không thể kết thúc chiến tranh Việt Nam. Họ dội lên chúng tôi những tin tức về cái chết của Martin Luther King và các cuộc bạo loạn sau đó. Thông tin như vậy cứ liên tục nhả ra khỏi loa. Tôi nghĩ Hoa Kỳ bây giờ là một quốc gia tốt đẹp hơn vì chúng tôi đã trải qua một quá trình thanh lọc, tái thẩm định chính mình. Tôi thấy một tinh thần tri ân về đời sống của chúng ta nhiều hơn, thấy tinh thần ái quốc cao hơn và nhìn thấy Quốc kỳ tung bay khắp mọi nơi. Tôi nghe thấy những giá trị mới đang được nhấn mạnh, như mối quan tâm về môi trường chẳng hạn.

    Tôi nhận được rất nhiều thư từ các bạn trẻ và nhiều người đã gửi tặng tôi những chiếc vòng đeo tay POW có tên tôi mà họ đã mang. Một số không biết gì nhiều về cuộc chiến, nhưng họ có lòng ái quốc mạnh mẽ, các giá trị của họ đều tốt đẹp và tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ nhìn thấy họ sẽ lớn lên thành những người Mỹ tốt hơn nhiều người trong chúng ta. Những tình cảm tuôn tràn này làm những người tù binh chiến tranh chúng tôi choáng ngợp và có chút ngượng ngùng bởi vì trên căn bản, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi chỉ là người lính Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân bình thường. Bất cứ ai khác ở vị trí của chúng tôi cũng làm vậy. Dự tính tương lai của tôi là vẫn tiếp tục phục vụ trong Hải Quân nếu tôi còn có thể bay được. Điều đó phụ thuộc vào sự thành công của các phẫu thuật chỉnh hình cho cánh tay và chân tôi. Nếu tôi phải rời Hải Quân, tôi hy vọng sẽ phục vụ cho chính phủ trong khả năng của mình, tốt nhất trong ban đối ngoại của Bộ Ngoại Giao. Tôi đã có rất nhiều thời gian để suy nghĩ trong tù và nghiệm ra rằng, một trong những điều quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người là, bên cạnh gia đình, hãy đóng góp gì đó cho đất nước của mình.


    Đinh Yên Thảo chuyển dịch

  10. #20
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,203
    Bay trên đất bắc





    Bay Trên Đất Bắc

    Tôi đã nhiều lần vượt vùng trời Bến Hải với những chuyến bay ném bom trên đất Bắc. Lần này tôi được chỉ định dẫn dắt mười hai phi cơ tiến đánh một mục tiêu xa hơn những lần trước. Đó là hai trại quân quan trọng nằm trong vùng rừng nơi phía Tây Bắc thành phố Vinh.

    Tôi ghi nhớ nhiều về chuyến bay này vì là lần đầu tiên tôi điều khiển hoàn toàn một phi vụ Bắc phạt.

    Những lần trước tôi chỉ hướng dẫn một phi tuần bốn phi cơ theo sự điều khiển của phi đội trưởng.

    Đối với phi công khu trục, cấp trung uý dù rằng với chức vụ trưởng phòng hành quân phi đoàn, đây là một danh dự và là một hãnh diện nữa khi được lệnh đảm trách một công tác quan trọng như vậy.

    Suốt từ lúc được lệnh bay, xuyên qua buổi thuyết trình về phi vụ, tôi đã hỏi rất nhiều, rất kỹ lưỡng vị sĩ quan Quân Báo về các vị trí phòng không địch, cho đến khi đứng lên nhắc lại các phương thức phi hành cùng các đoản lệnh hành quân cho các chiến hữu cùng bay với tôi, tôi cảm thấy nôn nao vô cùng.

    Có thể hơn thế nữa, gần như là một mối lo âu. Không thể là sự lo sợ được đối với một người trẻ tuổi như tôi, đã được rèn luyện trong cái khí thế hiệp sĩ của một phi công khu trục bao lần vùng vẫy trên vùng trời lửa đạn.

    Tôi run run đếm những số giây cuối cùng cho các bạn tôi điều chỉnh giờ đúng. Nỗi lo âu ngập tràn. Khẳng định không phải là sự thiếu tự tin. Những người trẻ tuổi thường không sợ sệt trong lý tưởng mà luôn muốn chứng minh khả năng của mình trong khi bay. Khả năng của tôi đang được khảo thí. Một cuộc khảo thí quan trọng vô cùng, vì từ giờ trở đi, những quyết định của tôi, một phi công hai mươi ba tuổi, nếu sai lầm sẻ phải trả bằng giá của sinh mạng tôi và của cả mười một phi công khác mà số tuổi chỉ trên dưới hai mươi.
    Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong nghề, lần này tôi sắp sửa thêm một kinh nghiệm nữa mà mãi sau này tôi vẫn thấy thú vị vô cùng. Danh nhân nào đã nói kinh nghiệm là một ông thầy khó tính, bắt ta phải khảo thí trước khi dạy ta.

    Tôi đang là thí sinh của cuộc khảo thí kỳ cục đầy hào khí này. Hình ảnh cuốn phim Le Pont de Toko Ri chợt đến bao trùm trong tôi thật rõ ràng linh hoạt như ngày nào tôi mười hai tuổi xin tiền mẹ bốn lần để xem đi xem lại phim này.

    Vùng trời Đà Nẵng hôm đó thật thấp và âm u với nhiều mây xám. Đã có lác đác vài hạt mưa rơi.

    Các bạn tôi lộ vẻ chán nản và nói “Chán quá! Lại phải hủy bỏ phi vụ”. Chúng tôi có những giới hạn thời tiết tối thiểu để hoạt động. Dù với lòng quả cảm chấp nhận hiểm nguy nhưng chúng tôi đều phải tôn trọng những luật lệ về an phi. Tuy nhiên tôi thản nhiên ra lệnh:

    “Vẫn cất cánh như đã dự trù”.

    Các bạn tôi đều ngạc nhiên và cho là một quyết định khá liều lĩnh. Thật ra tôi đã quyết định ngay từ lúc rời phòng thuyết trình và thầm mong một biến chuyển thời tiết khả quan hơn. Tôi nhớ thật rõ các dữ kiện mà sĩ quan khí tượng đã cho biết. Trong trí tôi, cuốn phim Le Pont de Toko Ri đang quay chậm. Tôi ôn lại các lối lượn bay toát mồ hôi lạnh trong phim.

    Có ai ngờ mười mấy năm sau tôi lại đóng vai chính của một cuốn phim oai hùng.
    Thời gian trôi qua thật nhanh chóng.

    Tôi tưởng chừng như mới hôm qua còn ngồi trên ghế nệm thoải mái trong rạp hát, hồi hộp theo dõi một kiệt tác của nghệ thuật thứ bảy. Để rồi hôm nay ngồi trong phòng lái chật hẹp tù túng, trước mắt là cánh quạt động cơ ào ào rung chuyển quay tròn như cơn gió lốc, như trộn lẫn định mệnh với cuộc đời…

    Thế rồi phơn phớt dưới chân mây, là đà trên ngọn núi, chúng tôi đem tuyệt kỹ phi hành để khắc phục trắc trở thiên nhiên. Tôi đem hết hiểu biết kinh nghiệm để dẫn dắt mười hai cánh chim lao về Bắc.

    Nhìn các bạn tôi chao đi trong mưa gió âm u, lòng tôi se lạnh. Trong gió mưa cuồng loạn các bạn hãy cố gắng lên. Chúng ta còn đến trung tâm một cơn bão khác quay cuồng hơn, đang đe doạ không riêng chúng ta mà cả hàng triệu chiến hữu đang gian khổ dập tắt cơn bão loạn này. Tôi biết trời âm u lắm, đôi cánh nặng vô cùng, các bạn hãy theo tôi đi dẹp tan cái âm u khác đã triền miên từ lâu. Theo tôi cho vững để trút cái nặng nề dưới đôi cánh, xoá tan những áp lực núi đá khác đang đè nén quê hương.

    Nhìn xem kìa, bên trái hướng chín giờ, Huế cố đô thân yêu. Chân mây cao hơn đôi chút rồi. Đừng dùng máy nhiều nhé, nhớ tiết kiệm từng giọt xăng.

    Chúng ta còn đi xa lắm, dù mang thêm bình xăng phụ nhưng lúc giao chiến, đôi khi chúng ta phải thả đi cho nhẹ bớt để còn mặc sức vẫy vùng. Máu của cánh chim, máu của chính mình đó các bạn.

    Tôi đang cố gắng giữ hướng Bắc dù cho đôi cánh đang chao mạnh run rẩy từng cơn.

    Hãy tin ở tôi, ở tuổi trẻ Việt Nam.
    Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt...

    Các bạn thấy Cửa Việt chưa? Cố lên, hãy tra chìa khoá vào cánh cửa Việt Nam đang bị rỉ sét để mở ra cho lịch sử thôi tù túng, đóng khung.

    Đừng bay quá xa về phía biển, chúng ta sắp vượt Bến Hải, vĩ tuyến đau thương. Ha ha, chiếc cầu với hai cột cờ. Chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta.

    Các bạn còn nhớ bài Địa Dư vỡ lòng ngày nào?

    Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Đâu có ai ngờ là đứt khúc nơi Bến Hải.

    Bên cánh trái là giang sơn gấm vóc của giống Tiên Rồng. Dưới cánh phải là Thái Bình Dương đang dâng sóng vỗ về đất nước. Chúng ta cố bay nhanh để sớm quay về, chắp đôi cánh lại cho thanh bình mau ấp ủ quê hương...

    Vĩnh Linh, Quảng Khê, Đồng Hới...

    Tôi đã bay trên miền trời các địa danh đó, đã đem tử thần đến và cũng đã chạm mặt tử thần ở những nơi này. Quê hương tang tóc rối bời. Những trại quân bị tàn phá, những chiếc cầu gẫy gục, những quang cảnh tiêu điều, vết tích lưu lại những lần oanh tạc trước vẫn còn lở lói bên dưới kia.

    Những ai đó còn mê ngủ hay đã kinh hoàng tỉnh giấc trong những tràng bom nổ inh tai, dưới những làn phi tiễn nhức óc? Đừng để cho ảo tưởng bao trùm, hãy lên đây cùng chúng tôi, suốt con đường từ Nam ra Bắc để nhìn rõ bức dư đồ rách nát vì đâu?

    Hãy ngồi bên chúng tôi để nhìn rõ quê hương, để biết cái cảm giác của một người bay trên quê hương mà phải nghĩ đây là đất địch.
    Đã bao lần tôi muốn xua đuổi ý tưởng đau lòng đó, nhưng bên những sườn núi kia, trong thung lũng nọ, trên bờ biển này, tử thần đang chực chờ lôi kéo chúng tôi bằng lưới đạn giăng trời, để rồi sau cái tan vỡ kinh hoàng của một cánh chim, Thân xác cũng tan tành đưa chúng tôi đến nơi nào không biết, nhưng chắc chắn rằng cho đến lúc đó, chúng tôi chưa tận hưởng được cái khang cường thân thể với những mạch máu căng đầy sinh lực mà cha mẹ tạo thành, chưa mãn nhãn nhìn hết cái đẹp hùng vĩ đất nưóc của tổ tiên để lại, cũng như chưa tiêu xài hết một phần tuổi trẻ của cuộc đời.

    Tôi đưa cả phi đội bay thật thấp để cố tránh tầm rada địch. Trong mũ nghe chỉ còn tiếng rè rè của vô tuyến. Chúng tôi âm thầm bay, không một ai lên tiếng trong lúc này, kể cả đài kiểm báo Sơn Trà. Ngoại trừ khi tôi cần. Tôi biết rằng chúng tôi không cô đơn, vì ở nhà bao con tim đang hồi hộp đợi chờ. Chúng tôi rời phương Nam đã lâu, nơi đó bạn tôi cũng chờ đợi.

    Địch? Bạn?
    Tại sao lại bắt chúng tôi dùng những từ ngữ ấy?

    Tại sao không xoá bỏ những chữ ấy trong tự điển, trong lòng người? Tại sao lại xem chúng ta là kẻ thù để chúng tôi trở nên những người đối địch họ vì chúng ta sắp nhận là kẻ ác của những người thiện để tiêu diệt bất cứ kẻ ác nào muốn giết người thiện.
    Từng phần đất quê hương sẽ thêm một lần vỡ tung dưới làn bom nổ. Thân thể mẹ Việt Nam đang bị vi trùng đục khoét, chúng tôi xót xa phải cắt bỏ những ung nhọt đang hoành hành.

    Nguyện ước bây giờ là làm sao cho Mẹ bớt đau đớn, hết rên xiết, con cháu Mẹ sớm quây quần bồi dưỡng Mẹ. Mẹ, xin Mẹ cho chúng con thêm một lần chạm vào da thịt thiêng liêng để Mẹ sớm yên lành...

    Hà Tĩnh nghèo nàn âm u kia rồi.
    Vinh u buồn thảm não.

    Chúng tôi cho vòng máy quay nhanh hơn bắt đầu vượt cao theo hướng Tây Bắc tràn vào.

    Mây mù giăng đặc. Tôi cố lượn giữa các tầng mây, dò theo từng chi tiết trên bản đồ mà hầu như đã thuộc kỹ. Tôi không được phạm một sơ xuất nào, một lầm lỗi nào dù nhỏ đến đâu.

    Tôi ra thủ lệnh cho các bạn tôi.
    Loang loáng trong mây, mười hai hiệp sĩ như những cánh thiên thần đi tìm tử thần trong cái âm u của trời đất. Tôi phải tận dụng yếu tố thời tiết và bất ngờ, nếu không… nếu không thì…

    Le Pont de Toko Ri ơi, sao có sự trùng hợp lạ kỳ?
    Chỉ khác chăng không phải chiếc cầu mà là trại quân. Vẫn một thung lũng rợn người với ba mặt núi cao đầy lửa đạn. Vẫn một lối vào duy nhất như lùa vào tử lộ. Vẫn một lối ra hiểm trở, vách đá sừng sững chi chít cao xạ. Tôi có cảm tưởng như địch đã biết, đang mỉm cười chờ những cánh thiên thần.

    Trời âm u quái đãn, bay đến đâu mới nhìn được đến đó. Tầm nhìn xa bị giới hạn tột cùng. Thoáng qua vài lỗ hổng chân mây, xa xa là Thanh Hoá.

    Tám phút trước mục tiêu, tôi chợt đổi đường bay về hướng Bắc. Các bạn tôi vẫn đeo sát.
    Nhạc gió quay cuồng, tiếng máy thét gào rú mạnh.

    Đài kiểm báo Sơn Trà như lo lắng gọi chúng tôi cho biết đang bay lệch mục tiêu ba mươi độ và báo động phi cơ địch được nhìn thấy trong vùng hoạt động. Tôi đáp hiểu, không giải thích lối đánh của tôi.

    Tôi lượn quanh trong mây đổ chập chùng, vòng sang hướng Tây mục tiêu rồi chọc thẳng về hướng Nam, tin tưởng hoàn toàn vào tấm bản đồ không ảnh.

    Các bạn tôi đã sẵn sàng ở đội hình chiến đấu.
    Tôi từ đầu rặng núi vượt ra từ trong mây.

    Số một lao vào mục tiêu. Tốc độ tăng nhanh như vũ bão. Áp lực ép mạnh vào người. Làm sao… Làm sao ngay từ giây phút đầu… Le Pont de Toko Ri… Phải, tôi phải cố gắng làm sao cho hai trái bom đầu tiên rơi đúng ngay trên mục tiêu nằm cách nhau non một ngàn thước để đánh dấu cho các bạn tôi nhìn thấy qua đám mây mù. Tôi phải lam sao cho các phi tiễn cùng lúc ấy phá vỡ các ổ cao xạ ở vách núi trước mặt ngăn chặn lối ra duy nhất.

    Hơn nữa nếu tôi xuống quá thấp để tìm sự chính xác cho làn bom và phi tiễn thì lúc vượt lên sẽ quá muộn chỉ trong vòng một giây đồng hồ tôi sẽ cùng cánh chim dán vào vách đá.

    Tôi còn phải lượn lại ít lắm hai lần, trong lúc các bạn tôi đang oanh tạc, để trút số bom còn lại lên các ổ phòng không hai bên vách núi đang kẹp mục tiêu như chiếc kéo của tử thần đang chực chờ họ. Tôi còn phải nhắc nhở và theo dõi họ lúc vượt qua vách núi chắn ngang. Tất cả đều tùy thuộc vào ở lúc này.

    Tôi lao xuống mục tiêu đang tỏ dần trước mặt…
    Bom nổ kinh hoàng, phi tiễn xé rách vùng trời thung lũng. đạn bay loè sáng… Tôi như chết đi trong con người, đắm chìm trong chiến trận. Tôi trở thành máy móc, một công cụ khoa học, một nô lệ kỹ thuật. Phòng không địch giật mình hoạt động. Nhưng trễ quá rồi.
    Thời tiết xấu đã giúp chúng tôi tận dụng yếu tố bất ngờ. Các chú không ngờ chúng tôi tiến đánh lúc trời xấu phải không? Nếu trời trong thì với lối phòng thủ chắc ăn như vậy, các chú có thể xơi tái một con ruồi bay qua. Chúng tôi cần vài giây đầu tiên thôi. Đạn phòng không đỏ rực nổ tung dày đặc khung trời.

    Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…

    Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?

    Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.

    Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt…
    Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.

    Tôi vượt lên cao…
    Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.

    Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.

    Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.
    Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.

    Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế…
    Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.

    Hoàng hôn đẹp.
    Sóng biển lấp lánh ánh bạc.

    Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
    Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút giây căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.

    Thuốc ngon quá.
    Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.


    Tôi mỉm cười…
    Lê Bá Định

 

 

Similar Threads

  1. Mỗi trang là một bài thơ
    By sôngthương in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 2
    Last Post: 01-26-2016, 10:32 PM
  2. sang trang
    By n.c in forum Tùy Bút
    Replies: 5
    Last Post: 10-19-2014, 08:39 AM
  3. xin cho hỏi về trang...
    By visabelle in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 2
    Last Post: 04-04-2013, 01:34 AM
  4. Tỉa trái cây trang trí
    By lolem in forum Gia Chánh
    Replies: 1
    Last Post: 02-16-2013, 08:59 PM
  5. Sang trang
    By Hill in forum Không Gian Riêng
    Replies: 5
    Last Post: 06-03-2012, 03:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 08:03 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh