Register
Page 8 of 14 FirstFirst ... 678910 ... LastLast
Results 71 to 80 of 134
  1. #71
    Biệt Thự HXhuongkhuya's Avatar
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    4,655

    Giương cung gửi chí làm trai tới bốn phương trời
    (Hình: Song Thao)



    Quote Originally Posted by HaiViet View Post

    Bùi Quyền, đã sống như thế





    Trung Tá Nhảy Dù Bùi Quyền, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù,
    Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương 1937-2020 (Hình: Song Thao)

    HXhuongkhuya cám ơn các anh chị
    , các bạn ghé thăm .




  2. #72
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    -Hồi ký của một chiến sĩ xuất sắc về tham dự ngày Quân Lực 19/6/1973




    Hình chụp tại Sài Gòn Tửu Lầu ngày 18 tháng 6 năm 1973 Tr/úy KB Nguễn Vân Cư và cô Vũ Lan
    thuôc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương Cục Chính Huấn QLVNCH.

    Lời nói đầu: Suốt những năm tháng trong đời binh nghiệp, không có gì danh dự và hãnh diện hơn khi một người lính được đề cử và chọn làm một “Chiến Sĩ Xuất Sắc” của đơn vị về Thủ Đô Sài Gòn tham dự ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1973. Trang hồì ký này không nhằm mục đích khoe khoang hay tự đề cao một cá nhân. Người viết chỉ muốn ghi lại tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường của người lính và vinh danh những người con ưu tú của Quân Lực VNCH đã được đãi ngộ một cách xứng đáng của chính quyền đương thời và đồng bào Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Những trang hồi ký này chắc chắn không được đầy đủ lắm, còn rất nhiều thiếu sót, xin quí niên trưởng, quí chiến hữu thông cảm bỏ qua.
    Thành thật cám ơn.

    Tháng 6 năm 1973, đại úy Nguyễn Thường Hưởng Chi đoàn trưởng Chi đoàn 3/15 Thiết kỵ, thuộc Thiết đoàn 15 Kỵ Binh, Lữ Đoàn III Xung Kích, đã đề cử tôi, trung úy Nguyễn Vân Cư, chức vụ Chi đoàn phó, Chi đoàn 3/15 Thiết kỵ là một Chiến Sĩ Xuất Sắc của đơn vị, được phép về Thủ Đô Sài Gòn tham dự ngày Quân Lực 19 tháng 06 năm 1973. Thành tích của cá nhân tôi được đơn vị xét về chiến công, về quá trình hoạt động trong đơn vị, về quân phong , quân kỷ, quân vụ… đã được Trung tá Thiết Đoàn Trưởng, Thiết Đoàn 15 Kỵ Binh và Chuẩn tướng Tư Lệnh Lữ Đoàn III Xung Kích thông qua.

    Thật là bất ngờ! Một niềm hãnh diện và vui sướng tràn ngập tận đáy lòng khi các anh em kỵ binh các cấp của chi đoàn đến chúc mừng tôi với những cái xiết tay thật thân mật. Tôi có cảm tưởng mình như đang trong một giấc mơ và… giấc mơ nay đã trở thành sự thật!

    Cầm sự vụ lệnh trên tay có dấu ấn ký của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn III Kỵ Binh, và được đại úy Nguyễn Thường Hưởng, Chi Đoàn Trưởng cấp cho một chiếc xe Jeep A2 về trình diện Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, bản doanh đóng tại Gò Vấp Gia Định mà lòng tôi cảm thấy như hồn sắp bay bổng tận mây xanh. Tâm trạng vô cùng xao xuyến, rộn rã, hân hoan… khó mà diễn tả hết được!


    Tôi trình diện phòng 5 Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp lúc 8 giờ sáng ngày 17 tháng 6 . Lúc bấy giờ, tại đây đã có 3 kỵ binh khác đơn vị cũng được đề cử là Chiến Sĩ Xuất Sắc đã trình diện trước đó vài phút . Những kỵ binh này có lẽ từ các đơn vị Thiết Giáp của các vùng chiến thuật gởi về. Sau khi chào hỏi và bắt tay thân mật, một vị Trung tá (tôi không nhớ tên) Trưởng Phòng 5 BCH/TG đưa mắt nhìn chúng tôi từ trên xuống dưới, ông mĩm cười thông cảm. Vì… chưa có anh chàng kỵ binh nào… kịp hớt tóc, cạo râu,…quần áo còn dính đầy bụi đỏ hành quân vì chưa có thời gian giặt giủ, và trông giống….như…là…lính…bụi đời!

    Ông cho biết bốn người chúng tôi thuộc đơn vị của 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh của vùng I, vùng II, vùng III, và vùng IV chiến thuật được đề cử là Chiến Sĩ Xuất Sắc, và được đơn vị gởi về Thủ Đô để tham dự Ngày Quân Lực 19 tháng 06 năm nay (1973). Ngoài ra, còn có những anh em kỵ binh khác của các Thiết đoàn trực thuộc các Sư Đoàn Bộ Binh trên toàn quốc cũng đã về trình diện trong những ngày trước và đã được BCH/TG chuyển đến trại Chiến Tranh Chánh Trị Nguyễn Trãi rồi.

    Vì không còn đủ thời gian để thăm hỏi , trò chuyện, nên ông trung tá trưởng phòng chỉ hướng dẫn một cách khái quát về những gì cần phải làm trong những ngày giờ sắp tới. Sau đó, ông trao cho mỗi người một phong bì trắng, trong mỗi phong bì có 5.000 đồng tiền giấy năm trăm hình con cọp mới toanh .“Đây là phần quà của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh gởi tặng các anh”. Ông nói.

    Những thủ tục giấy tờ cần thiết đã làm xong, ông liền gọi tài xế xe Jeep của ông vào trình diện và căn dặn anh ta một vài điều cần phải làm, sau đó ông vui vẻ mời chúng tôi lên xe để chuyển về trại Nguyễn Trãi, Thánh Tổ của ngành Chiến Tranh Chánh Trị /QLVNCH.


    Mặc dù miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang là thời tiết của mùa mưa, nhưng bầu trời của vùng Thủ Đô Sài Gòn trong thời điểm này trông sao đẹp quá! Không có một cơn mưa lớn, nhỏ nào đổ xuống thành phố và vùng phụ cận. Ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuyên qua cành cây kẽ lá của những cây bàng, cây me…được trồng dọc hai bên đường, làm thành những vết trắng đen lốm đốm in lên mặt đường nhựa trông giống như màu áo bông dù của lính. Thời tiết oi bức của thành phố Sài Gòn cũng bị xua đuổi bởi những cơn gió nồm thoáng qua vô cùng mát mẻ. Thỉnh thoảng một vài cụm mây xám kéo đến định che lấp vần thái dương nhưng cũng bị những làn gió mạnh thổi đi nơi khác.

    Từ thôn quê cho đến thành thị, từ vùng ngoại ô đến trung tâm Thủ Đô , nói khác hơn là toàn cõi miền Nam Việt Nam thời bấy giờ, người ta cảm thấy như có cái gì mới lạ. Những tư gia, phố xá, công sở, trường học, cơ xưởng, hay xe đò khách , xe gắn máy, thuyền tàu.…. đều có treo hoặc sơn vẽ lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ biểu tương cho sự yêu chuộng tự do, dân chủ, và nhân quyền …của đồng bào miền Nam đang tung bay phất phới theo làn gió nhẹ. Hầu hết các dãy phố, các công tư sở, các tư gia …được sơn phết, quét vôi lại sạch sẽ, mới mẻ... người ta có cảm tưởng giống như ngày Tết Nguyên Đán sắp đến. Những đại lộ , xa lộ, đường một chiều, đường hai chiều… đều được vẽ lại những lằn sơn trắng , sơn vàng phân biệt ranh giới cho xe chạy để tránh bớt tai nạn có thể xẩy ra trong những ngày mà toàn dân thủ đô và vùng phụ cận tuông ra đường hân hoan chào mừng ngày Quân Lực. Riêng tại trung tâm thành phố Sài Gòn và xung quanh khu vực chợ Bến Thành hầu hết các nẻo đường sẽ có diễn binh các cửa ra vào đều bị đóng chận bởi những rào cản của sở Cảnh Sát Thủ Đô, và được thông báo cấm tất cả các loại xe di chuyển từ 8 giờ tối ngày 18 cho đến giữa trưa ngày 19 tháng 6 năm 1973. Những đoạn đường này sẽ được mở lại khi nào cuộc diễn binh của các đơn vị quân đội chấm dứt…

    Chiếc xe Jeep chở 4 anh em kỵ binh chúng tôi dừng trước cổng trại Nguyễn Trãi, người tài xế xuống xe và trình sự vụ lệnh cho người gác cổng. Một vị sĩ quan trực hướng dẫn chúng tôi vào một hội tường rộng rãi của trại. Trong hội trường đã có chừng khoảng trên 50 quân nhân các cấp đã đến trình diện trước, tất cả đang cười nói chào hỏi với nhau thật nhộn nhịp. Khi thấy chúng tôi vừa bước vào cửa , sự ồn ào hầu như ngưng đọng, họ đưa mắt nhìn ra cửa như muốn tìm xem những anh chàng lính mới đến thuộc đơn vị nào, binh chủng nào? Trong chốc lát không khí trở lại ồn ào nhộn nhịp như cũ sau những câu chào hỏi xã giao và những cái xiết tay thật thân mật

    Tôi đưa mắt nhìn lướt qua khối người đang cười nói trò chuyện trong hội trường để tìm kiếm xem có anh chàng nào quen cùng khóa, cùng quê, hoăc cùng đơn vị, hay cùng gặp nhau trên chiến trường trong lúc phối hợp hành quân,.… nhưng không tìm thấy một ai quen biết. Tất cả mọi người đều xa lạ, nhưng chốc lát đã thân quen vì… tất cả là “huynh đệ chi binh”. Những anh chiến sĩ hiện diện mang màu áo của đủ mọi quân binh chủng như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Đông Quân, Sư Đoàn Bộ Binh , Biệt Kích, Thiết Giáp, Pháo Binh, có cả những anh lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân từ các tiểu khu xa xôi được đơn vị tuyển chọn gởi về. Tất cả những người lính hiện diện tại đây có cấp bậc, binh chủng, đơn vị khác nhau, nhưng vẫn có những nét đặc biệt gần giống nhau vì anh chàng nào cũng có một mái tóc dài phủ tai, phủ cổ, râu ria lởm chưởm chưa kịp cạo hớt, quần áo còn dính đầy bụi đất hành quân, nước da sạm nắng trông có vẻ …lính bụi đời! Nét kiêu hùng dũng cảm của những người chiến sĩ từ chiến tuyến trở về thành phố để tham dự ngày Quân Lực không thể giấu diếm, nó được thể hiện qua những bộ quần áo trận đã phai màu vì những tháng năm dài mưa nắng, hoặc trên ngực áo mang đầy những huy chương đủ loại được đơn vị ban thưởng mỗi khi lập được chiến công …

    Một vị thiếu tá và một trung úy có mang phù hiệu Chiến Tranh Chánh Trị của trại Nguyễn Trãi bước vào, trên tay cầm những xấp hồ sơ giấy tờ, bước lên sân khấu có bục thuyết trình cầm micro lên tiếng mời tất cả các anh em quân nhân ngồi xuống những hàng ghế sắp sẳn, yêu cầu giữ im lặng. Sau những lời chào hỏi xã giao, vị trung úy CTCT điểm danh từng người hiện diện, kế đến vị thiếu tá hướng dẫn anh em các nghi thức sinh hoạt, cũng như lịch trình diễn tiến trong những ngày sắp tới.

    Độ khoảng nửa giờ sau, họ hướng dẫn tất cả anh em quân nhân qua một phòng khác. Nơi đây đã có sẳn hơn mười anh thợ hớt tóc, tay cầm sẳn một cái tông-đơ hớt tóc và một cái dao cạo râu …vui vẻ…”chào đón” anh em! Trên sàn xi măng người ta thấy còn đầy ấp những râu tóc bị cạo cắt chưa kịp thu quét. Không cần phải suy đoán, ai cũng thừa hiểu rằng chắc chắn đã có nhiều anh chiến sĩ từ chiến trận về trình diện vào những ngày trước, đã được mấy anh lính “thợ cạo” tình nguyện “dọn dẹp” sạch sẽ, gọn ghẻ mái tóc và hàm râu lởm chưởm… bụi đời của những anh chàng lính…rừng với thời gian ít ỏi ngoài chiến trường khó có thể “dọn dẹp …sạch sẽ” được !

    Một khoảng thời gian ngắn, một giờ đồng hồ, tất cả những mái tóc …dài phủ ót, và những đám râu ria moc…mất trật tự của những chàng chiến sĩ mới đến cũng đồng chung số phận rụng rơi lả chả trên sàn xi măng của phòng hớt tóc dã chiến của doanh trại! Những chàng lính trận dạn dày sương gió bây giờ đã trở thành những anh chàng “tân binh” như vừa mới nhập ngũ thi hành quân dịch ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ để chuẩn bị chuyển sang Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung! Trông các anh cũng đẹp…trai ra phếch!

    Trong khi các anh “thợ cạo” đang thi hành nhiệm vụ sửa sang “sắc đẹp” cho các chiến sĩ, một số khá đông các phóng viên báo chí , truyền thanh, truyền hình, các cơ quan truyền thông của chính phủ hoặc tư nhân đến để quay phim , làm phóng sự, và phỏng vấn... Đặc biệt trong số các cơ quan truyền thông hiện diện, tôi nhận thấy có đài truyền hình, truyền thanh quân đội, và chương trình Dạ Lan,… Dạ Lan, một em gái hậu phương lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ những tâm trạng buồn vui của đời lính trong những đêm dài trên làn sóng phát thanh quân đội. Hôm nay, cô Dạ Lan có vẻ rất bận rộn hơn, cô lăn xăn thăm hỏi và phỏng vấn từng anh chiến sĩ về lý lịch, đơn vị phục vụ, quá trình hoạt động, thành tích chiến đấu… với mục đích để vinh danh người lính Quân Lực VNCH trong chương trình phát thanh của cô vào mỗi buổi tối.

    Sau khi hớt tóc cạo râu và tắm rửa sạch sẻ, tất cả các chiến sĩ được vị sĩ quan phụ trách hướng dẫn đến phòng quân nhu. Tại đây, các anh quân nhân thợ may nhanh nhẹn cắt đo tùy theo màu áo trận của quân binh chủng cho mỗi người 2 bộ quân phục 4 túi và được cấp phát một đôi giầy “máp” đen bóng loáng. Anh nào có tên trong danh sách được đi du lịch ở Đài Loan thì được may thêm một bộ “vét-tông” và lãnh thêm một túi hành lý xách tay lớn.

    Sau bửa cơm trưa và nghỉ ngơi tại trại, khoảng 2 giờ chiều, chúng tôi được vị trung úy phụ trách đọc tên cho lên xe buýt quân đội đang đậu chờ trước sân hội trường để phân phối đến những khách sạn lớn, sang trọng và nỗi tiếng nhất quanh trung tâm Thủ Đô Sài Gòn như khách sạn Continental, Majestic, Palace, Đồng Khánh…(không nhớ hết tên khách sạn). Theo sự hiểu biết của tôi thì có khoảng 10 khách sạn xung quanh Thủ Đô dành riêng cho 300 Chiến Sĩ Xuất Sắc thuộc các quân binh chủng trên toàn quốc, khoảng 100 chiến sĩ bị V.C. bắt làm tù binh được trao trả sau hiệp định Ba-Lê, và khoảng 200 chiến sĩ thuộc ngành Cảnh Sát Quốc Gia, Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ … ở trọ miển phí suốt những ngày tham dự lễ tại Thủ đô Sài Gòn. Tổng số có khoảng hơn 600 Chiến Sĩ Xuất Sắc trên toàn quốc do các đơn vị đề cử và được tuyển chọn về Thủ Đô để tham dự ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1973.

    Chúng tôi, một nhóm 30 người được xe buýt quân đội đưa tới khách sạn Palace, tọa lạc gần bến Bạch Đằng. Những cô tiếp viên trẻ đẹp duyên dáng với những chiếc áo dài màu xanh da trời, niềm nở, tươi cười chào đón và hướng dẫn đến các phòng trọ.

    Tôi và ba chiến hữu khác được một cô tiếp viên hướng dẫn lên lầu 9 phòng số 7. Chúng tôi bốn người ở chung một phòng có 2 chiếc giường nệm đôi. Chung phòng với tôi có một chiến hữu kỵ binh thuộc Lữ Đoàn I Quân Khu I. Anh Trung là một Hạ Sĩ Quan, được thăng cấp đặc cách mặt trận 2 lần trong năm , mang cấp bậc thượng sỉ nhất ! Thành tích của anh là đã bắn hạ nhiều chiến xa T54 của việt cộng trong trận đánh phối hợp với Thủy Quân Lục Chiến tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị mùa hè đỏ lửa 1792. Ngoài anh Trung, còn có 2 anh chàng pháo thủ (không nhớ tên) cấp bậc thiếu úy, thuộc binh chủng Pháo Binh Vùng I Chiến thuật…

    Lần đầu tiên được ở trọ trong một phòng ngủ của một khách sạn sang trọng giữa trung tâm Thủ Đô Sài Gòn , chúng tôi vô cùng bở ngở và xa lạ! Máy điều hòa không khí chạy 24/24, điện thọai, TV màu, thang máy, giường nệm , vải ra trắng trải giường…đều là những thứ đắt tiền mà… “tiền lính” khó mà …”tính liền” được!. Chúng tôi cảm thấy vô cùng thoải mái và an bình khi đặt lưng xuống “đánh một giấc ngủ” cho đến trời sụp tối để tạm quên đi những ngày tháng chiến đấu không mệt mỏi trên chiến trường.

    Khoảng 6 giờ chiều, một trung úy và hai quân nhân thuộc đơn vị Chiến Tranh Chánh Trị có trách nhiệm giúp đở, hướng dẫn các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc ở khách sạn Palace, đến gõ cửa, mang đến mỗi người chúng tôi 2 bộ quần áo trận 4 túi mới toanh vừa mới may xong và ủi hồ thẳng nếp, một tấm vải băng-rôn màu đỏ bề ngang khoảng 1 tấc, dài 1 thước, có viết lên hàng chữ lớn bằng sơn trắng “Chiến Sĩ Xuất Sắc 1973” để choàng xéo từ vai phải đến hông trái (xem hình chụp), một phù hiệu gắn vào túi áo có hình người lính VNCH đang cầm súng giơ cao reo mừng chiến thắng. Chúng tôi rất lấy làm danh dự và hảnh diện mang những thứ này trên nguời mỗi khi rời khỏi khách sạn.

    Ngày 18 tháng 6. Buổi tiệc đầu tiên do Hội Đồng Nghị Viên Thành Phố Sài Gòn khoảng đãi lúc 12 giờ trưa tại nhà hàng Sài Gòn Đại Tửu Lầu. Nhân dịp này, ông Đô Trưởng Sài Gòn thay mặt đồng bào Thủ Đô đọc diễn văn chào mừng ngày hội ngộ, và gởi lời cám ơn đến tất cả các anh chiến sĩ QLVNCH đã hy sinh cuộc sống riêng tư, cầm súng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xăm lăng của Công Sản Bắc Việt, đem lại sự an vui, thanh bình cho toàn dân miền Nam nói chung, và cho đồng bào đang sinh sống tại thủ đô Sài Gòn nói riêng. Sau đó, ông nhờ những nhân viên phụ trách trao cho mỗi anh Chiến Sĩ Xuất Sắc một bao thơ có 10.000$ do đông bào thủ đô gởi tặng. Ban nhạc Tam Ca 3 Con Mèo và toàn thể anh chị em nghệ sĩ thuộc Cục Chính Huấn QLVNCH giúp vui về phần văn nghệ. Trong buổi da tiệc ngắn ngủi và vui vẻ này, tôi đã bất ngờ quen biết được một em gái hậu phương, đó là cô Vũ Lan, Tiểu đoàn 30 CTCT, KBC 4136, trực thuộc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, Cục Chính Huấn, Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Một mối tình thầm lặng giữa “Nàng Ca Sĩ Cục Chính Huấn Vũ Lan và chàng Thiết Kỵ 3/15” đã kéo dài cho đến ngày “đứt phim” 30 tháng Tư, năm 1975 mới …tan vở…!!!...

    Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, đoàn xe buýt quân đội đưa toàn thể các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa để tham dự Lễ Truy Điệu cho các Chiến Sĩ QLVNCH đã vị quốc vong thân. Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đến chủ tọa buổi lễ. Ngoài ra, còn có Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các vị Tướng lãnh quân đội, các vị Đơn Vị Trưởng của các quân binh chủng đều có mặt. Bầu trời đang trong vắt, đột nhiên có những cụm mây xám đen to lớn theo làn gió mạnh kéo đến che kín vần thái dương, khiến cho quang cảnh xung quanh vùng trời Nghĩa Trang lúc bấy giờ trở nên âm u, lạnh lẽo, và buồn tẻ…. Ngọn lửa thiêng được Thủ Tướng và các Tướng lãnh đốt lên trên cái lư hương bằng đồng rất lớn đặt trước ngôi mộ chung của Nghĩa Trang Mọi người hiện diện có linh cảm rằng những anh linh của các chiến sĩ QLVNCH vì nước quên thân đang tập trung quanh ngọn lửa hồng để tìm chút hơi ấm. Buổi lễ thật xúc động qua nghi thức chào kính và hát bài Quốc Ca, lễ đặt vòng hoa, lễ truy điệu Chiến Sĩ Trận Vong và lễ niệm hương trước Đài Tưởng Niệm . Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, các vị Tướng lãnh và các vị lãnh đạo tinh thần các Tôn Giáo như: Phật Giáo , Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo…. đứng nghiêm trang và lâm râm khấn nguyện .

    Rời Nghĩa Trang khoảng 6giờ 30 chiều, toàn thể các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc được xe buýt chuyển đến nhà hàng Continental để tham dự buổi tiệc ăn tối do các vị Dân Biểu Hạ Nghị Viện của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa khoảng đãi. Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương với các ca nhạc sĩ nỗi tiếng phối hợp cùng ban nhạc AVT phụ trách văn nghệ cho buổi dạ tiệc. Mỗi anh Chiến Sĩ cũng nhận được một món quà tiền mặt 10.000$ do Quốc Hội Hạ Nghị Viện gởi tặng.

    Ngày 19 tháng 6. Đây là ngày lễ chánh thức của Quân Lực Quân Lực VNCH. Hôm nay bầu trời vùng thủ đô rất quang đảng, không có một áng mây đen nào lãng vãng trên vùng trời Sài Gòn, tiên đoán thời tiết đã báo trước rằng trời sẽ không có mưa trong ngày này. Tất cả các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc được xe buýt đưa đến vị trí hành lễ lúc 8 giờ sáng, và được ngồi cạnh khán đài danh dự dành riêng cho Tổng Thống, phó Tổng Thống, các vị Quan Khách ngoại quốc, và các vị Tướng Lãnh quân đội.

    Quang cảnh xung quanh những đoạn đường mà đoàn hùng binh QLVNCH sắp diễn hành ngang qua các khán đài thật là nhộn nhịp. Ngồi trên khán đài quan sát hai bên những con đường của khu vực diễn hành thuộc trung tâm Thủ Đô gần chợ Bến Thành, người ta thấy có những đoạn đường dài hơn 1 cây số đối diện với khán đài, rất đông đảo đồng bào đến từ vùng thủ đô và các tỉnh lân cận để tham dự ngày diễn binh , số người tham dự có thể lên đến nhiều chục ngàn. Họ đến sớm hơn giờ diễn hành 2 hoặc 3 giờ đống hồ để giành chổ tốt.

    Những ông già bà lão mặc quốc phục cổ truyền bắt ghế kiên nhẩn ngồi chờ, những cô gái tha thướt với những chiếc áo dài đủ màu sắc sặc sở nhởn nhơ như đàn bướm lượn, những cậu trai trong bộ âu phục chỉnh tề cười nói huyên thuyên , những trẻ em khép nép bên mẹ với ánh mắt ngở ngàng trước đám đông , những chiến hữu đủ mọi binh chủng với bộ quân phục gọn gàn, nét mặt hân hoan hớn hở chào hỏi các đồng đội…Họ đứng thành nhiều hàng dọc hai bên đường; họ đứng trên những bao lơn của những phố lầu cao, họ đứng trên những khán đài được thiết lập hai bên con đường có diễn binh.v.v… thậm chí có một số trẻ em leo trèo lên những cây trụ điện cao để nhìn dễ dàng hơn, nhưng bị các nhân viên phụ trách an ninh, trật tự “mời xuống” vì sợ tai nạn có thể xẩy ra. Tất cả đều chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ của thành phố, nên suốt buổi lễ không có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra.

    Những ký giả, phóng viên, báo chí ,truyền thanh, truyền hình, quốc nội cũng như các cơ quan truyền thông ngoại quốc lăn xăn …làm phóng sự, quay phim , chụp ảnh khiến cho quang cảnh buổi lễ càng thêm náo nhiệt Những bong bóng lớn có in hình lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ , những biểu ngữ có viết chữ “Toàn Dân Hân Hoan Chào Mừng Ngày Quân Lực 19/06 “ hay “Toàn Dân Vinh Danh Chiến Sĩ QLVNCH” được giăng mắc dọc hai bên những dãy phố và những cây trụ điện đã làm cho buổi lễ càng thêm long trọng.

    Các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc trong bộ quân phục 4 túi đủ mọi binh chủng sắp thành hai hàng dọc, bước chầm chậm lên khán đài. Tiếp đến các vị Tổng Thống, Phó Tổng Thổng, các vị Bộ Trưởng, các vị Tướng Lãnh, các Quan Khách Ngoại Quốc, các Đơn Vị Trưởng của các quân binh chủng.v…v.. duyệt hàng quân danh dự rồi lần lượt tiến vào lễ đài theo điệu nhạc hùng ca được trổi lên bởi đoàn Quân Nhạc Quốc Gia, hòa lẫn những tràng pháo tay và tiếng hoan hô vang vội của hằng chục ngàn đồng bào tham dự.

    Buổi lễ được bắt đầu lúc 9 giờ sáng. Sau phần nghi lễ đón rước Quốc, Quân Kỳ, lễ chào Quốc kỳ VNCH, phút Mặc Niệm, lễ tiển đưa Quốc, Quân Kỳ chấm dứt Tiếp theo là diễn văn “Chào Mừng Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 năm 1973 và Vinh Danh các Chiến Sĩ QLVNCH” của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Kế tiếp Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội ban huấn thị, sau đó các vị đại diện Quốc Hội và Quan Khách Ngoại Quốc lần lượt phát biểu cảm tưởng..v…v… Các cô nữ sinh của trường trung học Gia Long trong những chiếc áo dài trắng trinh nguyên, tay cầm những vòng hoa chiến thắng choàng vào cổ một số các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc được tuyển chọn đứng thành 2 hàng đối diện với khán đài danh dự, tiếp theo những tràng pháo tay và tiếng hoan hô vang vội của hàng chục ngàn người tham dự tán thưởng. Kết thúc buổi lễ là một cuộc diễn binh lớn nhất chưa từng có trong Quân sử Quân Lực VNCH. Sau đây là sơ lược cuộc diễn hành…

    Mở đầu cho cuộc diễn hành …Trên bầu trời trong xanh vùng thủ đô Sài Gòn, từng đoàn trực thăng võ trang, gồm có các loại phi cơ quan sát U2, vận tải cơ C47, C119, C130 bay lượn nhiều vòng quanh khu vực khán đài, thả ra những làn khói xanh đỏ vàng tạo thành lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà nền vàng ba sọc đỏ trông rất đẹp mắt . Tiếp theo là từng đội hình của các phi đội khu trục cơ A 37, phản lực cơ F5 biểu diễn nhào lộn trên bầu trời. Đây là những loại phi cơ tối tân của binh chủng Không Quân Quân Lực Viêt nam Cộng Hòa đã từng ném lên đầu giặc những đòn sấm sét, gây thiệt hại lớn cho địch quân trên khắp 4 vùng chiến thuật. Những chiếc bong bong có in cờ VNCH được thả ra bay đầy khắp vùng trời Thủ Đô trông rất lý thú.và ngoạn mục…

    Màng biểu diễn trên bầu trời của binh chủng Không Quân vừa chấm dứt, tiếp theo sau là cuộc diễn hành trên bộ…Chỉ huy cuộc diễn hành này là Trung tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh Quân Đoàn III, Quân Khu III, và Bộ Tham Mưu… Lần lượt tiến qua khán đài với những tràng pháo tay và những tiếng hoan hô vang vội của đồng bào và quan khách tham dự. Dẫn đầu cuộc diễn hành là đoàn Quân Nhạc trong bộ đồng phục trắng có viền xanh, “kết bi” trắng, mang đủ loại trống kèn trổi lên những khúc nhạc hùng ca. Theo sau là nhịp bước đều của đoàn Thiếu Sinh Quân nối gót Cha Ông với bộ lễ phục trắng, bêrê màu đỏ thẩm. Đoàn quân kế tiếp là Nữ Quân Nhân con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu gọn gàng trong bộ đồng phục màu xanh dương nhạt và đầu đội những chiếc “ca-lô” màu xám . Theo sau là Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia, Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, Viện Đại Học CTCT, Trường Quân Y, Hải Quân, Không Quân, Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia trong bộ quân phục đại lễ màu trắng, hay màu vàng tùy theo quân trường lựa chọn. Tiếp đến là các Tiểu Đoàn Khóa Sinh của các Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, Quang Trung, Trường Quân Cảnh, Trường Quân Khuyển.v.v…oai hùng với bộ quân phục tác chiến màu xanh lá rừng và bước đều theo nhịp trống của đoàn Quân Nhạc trông vô cùng đẹp mắt và lý thú. Tất cả những đơn vị kể trên là những kho tàn quí báu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đào tạo và huấn luyện hằng chục ngàn sĩ quan nồng cốt, hằng trăm ngàn binh sĩ gan dạ cung cấp cho khắp chiến trường trên 4 vùng chiến thuật

    Theo sau đội Quân Khuyển là các nhịp bước oai hùng của các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, nỗi tiếng với những chiến thắng lẩy lừng trên các chiến trường từ bắc chí nam, bọn cộng quân nghe thấy phải khiếp sợ và né tránh. Trân đánh An Lộc năm 1972 là một trong những chiến công hào hùng đi vào Quân sử của đơn vị với 2 câu thơ bất hủ:” An Lộc địa, sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”. Kế đến là đoàn quân Mủ Nâu Biệt Động Quân kiên cường bất khuất, liên tiếp giáng lên đầu cộng quân những đòn chí tử trên khắp 4 vùng chiến thuật. Tiếp theo là đoàn quân Mủ Xanh Thủy Quân Lục Chiến nổi tiếng với những trận đánh kinh hồn trên bờ sông Thạch Hản, và Cổ Thành Quảng Trị 1972. Tiếp đến là đoàn quân Thiên Thần Mủ Đỏ oai dũng trong bộ quân phục bông dù đã làm cho cộng quân phải thất điên bát đảo từ chiến trường nội địa đến ngoại biên . Tất cả những đơn vị tổng trừ bị này là những đứa con ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẳn sàng tham gia bất cứ chiến trường nào trên khắp 4 Quân Khu..

    Theo sau các đơn vị tổng trừ bị là các chiến sĩ Địa Phương Quân và Nghĩa Quân là những đơn vị ở hậu phương đã góp phần lớn chiến đấu diệt trừ hạ tầng cơ sở của địch quân , ổn định đời sống ở nông thôn, và tranh thủ nhân tâm tại các vùng xôi đậu hẻo lánh . Kế đến là các đơn vị Chủ Lực Quân thuộc các Sư Đoàn đại diện cho các Quân Đoàn I , Quân khu I, Quân Đoàn II Quân Khu II, Quân Đoàn III Quân Khu III, Quân Đoàn IV Quân Khu IV có trọng trách bảo vệ an ninh lãnh thổ, đập tan mọi âm mưu xăm nhập của cộng quân, cầm chân địch nơi tiền tuyến, bảo quốc , an dân, kiến tạo thanh bình cho hậu phương . Tiếp theo là các Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, Dân Vận Chiêu Hồi, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia…là những đơn vị phòng vệ hậu phương, giữ gìn an ninh trật tự , bảo vệ tài sản đồng bào, kêu gọi hàng ngủ cộng quân buông súng trở về với chánh nghĩa Quốc Gia cũng lần lượt ngang qua lễ đài.

    Tiếp theo những đơn vị bộ binh là đoàn cơ giới khổng lồ với hằng chục chiếc chiến xa xếp đội hình chữ “ngũ” đang ầm ầm tiến đến khán đài , Chỉ Huy Trưởng là Chuẩn tướng Lý Tòng Bá , người hùng của chiến trường Kontum, ông đứng hiên ngang trên pháo tháp của chiến xa M48 giơ tay chào mừng quan khách và đồng bào với những tràng pháo tay nồng nhiệt tán thưởng. Nối tiếp là đoàn mô-tô và xe Jeep của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia lăn bánh nhịp nhàng trên đường nhựa với tốc độ chầm chậm . Liên Đoàn Người Nhái với những anh lính có thân hình lực lưỡng , mình trần trùi trụi, đứng oai nghiêm hùng dũng trên những chiếc xe tăng lội nước đặc biệt. Theo sau là đoàn xe của binh chủng Truyền Tin được trang bị những máy móc truyền tin tối tân hiện đại. Tiếp đến là đoàn cơ giới đủ loại của binh chủng Công Binh với những chiếc xe xích có càng lớn bằng thép vừa khai hoang chiến đấu, vừa xây dựng đồn bót, lập căn cứ địa cho các đơn vị bộ binh….Sau đó môt đoàn quân xa từ từ tiến qua khán đài là binh chủng Pháo Binh với những nòng đại bác dài của 105, 155 ly được kéo theo bởi những chiếc GMC. Những khẩu súng đại bác 20 ly song hành, đại bác 175 ly được trang bị trên những chiếc chiến xa M42 có tầm bắn xa hằng chục cây số. Kế đến là đoàn chiến xa lội nước và đổ bộ T5 của các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đã được xử dụng rất hữu hiệu trên sông Thạch Hản và Cổ Thành Quảng Trị vào năm mùa hè đỏ lửa 1972. Sau cùng là đoàn chiến xa đủ các loại của binh chủng Thiết Giáp con cháu của Phù Đổng Thiên Vương từ từ tiến qua khán đài. Những chiếc Commando car V100, thiết quân vận M113 được trang bị những vũ khí có hỏa lực hùng mạnh như đại liên 30, 50, đại bác không giật 106ly, súng cối 4.2. Chiến xa M41, M48 trang bị đại bác 76 , 90 ly nòng dài là khắc tinh của T54 và PT76 của Việt cộng…cũng đã lần lượt tiến qua lễ đài với những tiếng hoan hô và những tràng pháo tay vang dội của hằng chục ngàn đồng bào tham dự… nhiệt liệt tán thưởng.

    Cuộc diễn binh chấm dứt lúc 12 giờ, các Chiến Sĩ Xuất Sắc được Tổng Thống Nguyển Văn Thiệu mời dự tiệc tại phòng Khánh Tiết Dinh Độc Lập . Hầu hết các Tướng Lãnh, Quốc Hội lưỡng viện, và quan khách ngoại quốc đều có mặt trong bửa tiệc đặc biệt và hiếm có này . Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương thuộc Cục Chính Huấn và những cây cười Khả Năng Phi Thoàn góp phần múa hát ca kịch. Sôi nỗi và hào hứng nhất là trò chơi bắt thăm trúng quà . Mỗi anh Chiến Sĩ Xuất Sắc được Tổng Thống tặng bao thư hai mươi ngàn đồng (20.000$) và một gói quà lưu niệm. Rời Dinh Độc Lập lúc 3 giờ chiều, các anh được xe buýt chở đến sân vận động để tham dự các cuộc tranh giải thể thao rất sôi nổi và hấp dẫn do các đội nữ sinh trường Gia Long và Đồng Khánh tổ chức.

    Cùng ngày, lúc 6 giờ chiều , các Chiến Sĩ Xuất Sắc được Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Quân Đội mời tham dự tiệc tại Hội Quán Bộ Tổng Tham Mưu có sự hiện diện Tổng Thống và Phu Nhân cùng các vị Tướng lãnh. Ca, vũ, nhạc, kịch do tiểu đoàn 50 CTCT phụ trách với các ca nhạc sĩ nỗi tiếng như Phương Dung, Phương Hồng Quế, Nhật Trường, Duy Khánh…, với lời ca điệu nhạc diễn tả tâm tư tình cảm của người lính ngoài chiến trận đã được toàn thể mọi người tham dự nhiệt liệt tán thưởng, bầu không khí của bửa tiệc rất hào hứng. Trước khi chia tay để các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc đi tham dự một chương trình diễn hành xe hoa, xem triển lãm do các cơ sở thương mại, các hội đoàn quân đội, các đoàn thể tư nhân tổ chức trên những đại lộ quanh khu vực Thủ Đô và xem pháo bông do các đơn vị Hải Quân bắn lên bầu trời Thủ Đô để chào mừng ngày Quân Lực, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà và Phu Nhân, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, cùng các Tướng Lãnh của các đơn vị thân mật đến bắt tay thăm hỏi từng người và sau cùng Đại Tướng cũng không quên gởi tặng cho mỗi anh chiến sĩ một phong bì (15.000$)

    Ngày 20/06, các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc được Quốc Hội Thượng Nghị Viện mở tiệc chiêu đãi tại phòng Khánh Tiết của tòa nhà Quốc Hội lúc 12 giờ trưa. Về phần văn nghệ, những bài hát lính qua những giọng ca tình tứ và điêu luyện của những anh chị em nghệ sĩ nỗi tiếng như Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, cây sáo Nguyễn Đình Nghĩa… không khí càng hào hứng vui nhộn hơn khi có xổ số trúng thưởng và mỗi anh được trao một phong bì 10.000$ . Sau đó các chiến sĩ được đi xem những cuộc tranh giải thể thao như tennic, võ thuật, túc cầu… ở các sân thể thao của các trường học quanh thủ đô.

    Bửa tiệc cuối cùng của ngày Quân Lực được tham dự lúc 6 giờ chiều ngày 20 tháng 06, do Trung Tướng Trần Văn Trung Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị khoảng đãi tại nhà hàng nỗi tiếng Majestic nằm cạnh bến Bạch Đằng Sài Gòn. Các em gái hậu phương cùng các ca sĩ thuộc Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, Cục Chính Huấn thướt tha trong những chiếc áo dài màu xanh nước biển, với bước chân dịu dàng ỏng ẹo, tay bưng mâm thức ăn đầy ấp cao lương mỹ vị, và những phong bì (15.000$) của Trung Tướng Tổng Cục Trưởng gởi tặng, đến từng anh chiến sĩ, với giọng ngọt ngào tình tứ, các anh cho dù bụng vẫn còn no, cũng không nở từ chối lời mời mọc của những người đẹp hậu phương! Trung Tướng Tổng Cục Trưởng thay mặt toàn thể anh chị em văn nghệ sĩ, quân nhân các cấp thuộc ngành CTCT và đồng bào thủ đô ngỏ lời cám ơn các anh chiến sĩ đã đem xương máu chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc ngoài tiền tuyến, đem thanh bình an vui cho hậu phương. Sau đó mỗi anh được nhận lãnh một bằng “Chiến Sĩ Xuắt Sắc” do Trung Tướng Tổng Cục Trưởng Tổng Cục CTCT thừa lệnh Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đóng dấu và ký tên. Mỗi chiến sĩ cũng được ân thưởng 7 ngày phép để về sum hợp với gia đình.

    Ngày 21/6 kết thúc ngày Quân Lực và chia tay. Trước khi rời khách sạn Palace, các anh Chiến Sĩ Xuất Sắc đến ngỏ lời cám ơn vị giám đốc, các nhân viên, các nam nữ tiếp viên của khách sạn, cũng như vị Tr/úy và 2 chiến hữu CTCT phụ trách hướng dẫn, đã dành một tình cảm đặc biệt đối với các anh trong suốt những ngày ở trọ….

    Từ giã Thủ Đô Sài Gòn, từ giã hậu phương trở về tiền tuyến, để tiếp tục chiến đấu với quân thù trên khắp 4 vùng chiến thuật, bản thân tôi tin rằng trong tâm tư của mỗi anh chiến sĩ vẫn còn nuối tiếc những ngày thật tuyệt vời, thật an bình được tham dự ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1973 tại Thủ Đô Sài Gòn đầy lý thú và ngoạn mục.

    Chiêu Anh
    Chi Đoàn 3/15Thiết Ky .




  3. #73
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    MINH OAN CHO GIAI THOẠI “TRUYỆN TÌNH TRẦN KHẮC CHUNG VÀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA” - Hoàng Hương Trang








    Từ xưa đa số người Việt mặc nhiên cho rằng Trần Khắc Chung và Huyền Trân công chúa là một mối tình. Họ kể truyền miệng đời này qua đời khác thành ra vô tình đã “Đóng Đinh” đó là một mối tình như có thực. Chính tôi từ mấy chục năm qua cũng tin như vậy. Cứ cho là trước khi đi làm vợ vua Chiêm Chế Mân, Huyền Trân công chúa đã có ý tình dang díu với Trần Khắc Chung, nên khi Chế Mân chết, vua Trần sai Khắc Chung đi cứu con gái khỏi bị hỏa thiêu chết theo chồng theo phong tục của hoàng gia Chiêm Thành, thì hai người “Tình cũ” lại được “tái hợp”, cuộc cứu hộ công chúa thành công và hai người lênh đênh trên biển một thời gian khá dài có đến hàng năm, mới về tới Thăng Long.

    Mãi cho đến khi thành phố Huế xây dựng Trung tâm văn hóa Huyền Trân, mà dân Huế gọi là Đền thờ Huyền Trân công chúa; Tôi có dịp đến viếng, tìm hiểu cặn kẽ, đọc kỹ sử liệu và văn bia tại đền thờ, thật sự tôi đã sững sờ, ngỡ ngàng khi biết ra sự thật có trong sử liệu và văn bia tại Đền Thờ do ban nghiên cứu sử uy tín đã viết lại cho đúng sự thật. Ôi! Một nỗi oan đã kéo dài với thời gian mấy thế kỷ, mà không ai minh oan cho hai người. Theo sử liệu, khi công chúa Huyền Trân còn ở Thăng Long, chỉ mới 13 tuổi, đã được vua cha hứa gả cho Chế Mân. Khi đó, lão tướng Trần Khắc Chung đã rất già, vốn không phải họ Trần, mà là họ Đỗ, vì có nhiều công chiến trận nên được vua cho cải ra họ Trần. Lão tướng ngoài tài trận mạc, còn có tài thêu thùa rất khéo tay, vì vậy các công chúa trong triều được lão tướng dạy cho học thêu thùa. Công chúa Huyền Trân lúc đi lấy chồng mới 15 tuổi, là cháu ngoại của danh tướng Trần Hưng Đạo, bạn lão tướng chí thân của lão tướng Trần Khắc Chung. Lúc đó, lão tướng Khắc Chung đã già, đã có 3 đời vợ, con cháu đầy đàn, không thể nào lại dang díu với cô công chúa 13 tuổi là cháu ngoại của bạn mình được. Thuở xa xưa trên 700 năm trước đó, một cô gái nhỏ mới 13, 14 tuổi có dám yêu một ông già bạn của ông ngoại, và đã có vợ, con, cháu đầy đàn? Ngay thời đại ngày nay, điều đó cũng khó có thể xảy ra.

    Cho đến khi vua Trần sai đi cứu công chúa là vì lão tướng đáng tin cậy, có nhiều mưu kế, từng trải trận mạc, mới có thể cứu được công chúa thoát khỏi lên giàn hỏa thiêu. Lúc này công chúa mới sinh hoàng tử được 2 tháng. Lão tướng Khắc Chung đã tương kế tựu kế, vừa thay mặt vua Trần để phúng điếu với triều đình Chiêm Thành (Chế Mân chết, Chế Cũ lên nối ngôi vua cũng chỉ mới trên dưới 15 tuổi, là con trai của bà Hoàng hậu lớn của Chế Mân, còn con của Huyền Trân là Chế Chí mới sinh được 2 tháng) vừa đề nghị với triều đình Chiêm Thành cho phép công chúa Huyền Trân ra biển Đông để hướng về quê hương bái biệt vua Cha, rồi sẽ trở vào để lên giàn hỏa.

    Triều đình Chiêm Thành đã bị mắc mưu của lão tướng Việt Nam, đã bằng lòng cho công chúa Huyền Trân ra biển để bái biệt vua cha. Vừa hay trời phù hộ cho lão tướng, sương mù dày đặc bao phủ cả biển khơi, ba bên bốn bề đều không thấy rõ, nhân cơ hội đó, lão tướng đưa công chúa qua thuyền nhẹ, và dông tuốt về phía Bắc. Trên thuyền chỉ có mấy thủy binh chèo thuyền, thuyền nhẹ đi rất nhanh, sương mù đã che khuất bóng họ. Khi thuyền vào đến vùng biển Quảng Trị thì bị bão lớn, sóng đánh dữ dội suýt chìm thuyền, phải tấp vào bờ. Vùng đất Quảng Trị bấy giờ thuộc hai Châu Ô, Lý là đất mà Chế Mân đã dâng cho vua Trần làm sính lễ để cưới công chúa nhà Trần. Đất đã là của nước Việt, có quan trị nhậm do vua Trần Cử đến cai quản. Chính quan cai quản đất mới này đã giấu nhẹm rất bí mật tung tích của lão tướng và Huyền Trân, chờ hết mùa giông bão, sửa chữa thuyền xong mới có thể tiếp tục hành trình ra Bắc. Tại sao phải giấu tung tích? Bởi thủy quân Chiêm Thành rất giỏi thủy trận, đã từng đánh ra tận Thăng Long thời Chế Bồng Nga, do đó họ có thể cho thuyền truy lùng thuyền của Khắc Chung và công chúa. Hai người được vị quan Việt Nam giấu kỹ đồng thời lo sửa chữa thuyền bè đã bị bão làm hư hỏng nặng. Hơn năm sau, hết mùa bão, trời yên biển lặng, quân Chiêm không truy đuổi nữa, thuyền cũng đã sửa chữa xong, họ mới tiếp tục cuộc hải trình ra Bắc.

    Tuy được cứu thoát, nhưng công chúa trong tâm trạng mất một đứa con trai đầu lòng mới 2 tháng tuổi, cùng với nỗi đau vừa mất chồng, cùng nỗi sợ hãi vừa thoát lên giàn hỏa thiêu. Thử hỏi trong tâm trạng đau buồn mất chồng, mất con, và lo sợ như thế, còn tâm trạng đâu để dan díu, ngoại tình? Sở dĩ người đời sau thêu dệt nên mối tình Trần Khắc Chung và công chúa Huyền Trân là do họ đồng hóa với mối tình Tây Thi – Phạm Lãi bên Tàu, sau khi báo thù vua Tàu, Tây Thi đã theo người tình cũ là Phạm Lãi chèo thuyền chu du vào Ngũ Hồ sống với nhau, lênh đênh bềnh bồng trên sóng nước, bỏ lại thế gian sau lưng. Do đó người Việt đời sau cứ thản nhiên đồng hóa mối tình Tây Thi – Phạm Lãi và Huyền Trân – Trần Khắc Chung như là một. Đó là nỗi oan của Lão Tướng Trần Khắc Chung và là nỗi oan của sương phụ Huyền Trân mà ngày nay chúng ta phải hiểu và đánh giá lại cho rõ ràng.

    Khi về đến Thăng Long, Huyền Trân lên núi Yên Tử trình diện vua cha là Phật Hoàng Trần Nhân Tông, rồi quy y đi tu, lấy pháp danh là Hương Tràng ni sư. Bà vừa tu hành vừa dạy dân dệt vải và làm thuốc cứu bệnh cho dân. Tôi ước mong rằng người Việt Nam ta ai cũng có dịp đến viếng đền thờ Huyền Trân công chúa ở Huế để có dịp tận tường đọc kỹ văn bia và sử liệu chính thức đáng tin cậy để minh oan cho công chúa Huyền Trân và Lão tướng Trần Khắc Chung. Riêng tôi, sau lần có dịp đến viếng đền thờ và đọc cặn kẽ sử liệu, văn bia. Tôi đã thắp hương cúi đầu chân thành tạ lỗi với người xưa, vì mình đã lầm tưởng mấy chục năm qua chỉ vì hai chữ “tương truyền”, oan cho một người phụ nữ đoan hạnh và một vị lão tướng tài ba.

    Hoàng Hương Trang

  4. #74
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Tâm Sự Người Bại Tướng

    Hoàng-hôn xuống, khi nắng chiều lịm tắt,
    Đời đau thương, khi tràn ngập màu tang.
    Một triệu tinh binh Tướng Tá kiêu hùng,
    Thành trì vững, Quân nhiều không giữ được.

    Lỗi tại ai? có phải vì thời cuộc?

    Tại ý Trời, hay ý của Dân-sinh?
    Tại cái các Tướng cầm đầu hay tại người chiến binh?
    Không tận-tuy, hy-sinh vì Tổ-Quốc?

    Thế giặc mạnh, lan-tràn theo chiến cuộc,
    Ta đau lòng, vận nước quá lâm nguy!
    Chiến hay hòa, giải-pháp hay chạy đi,
    Đều tan vỡ mộng lòng theo ảo-ảnh!

    Giờ Việt Bắc, thân tù giam ngục lạnh,
    Khổ lưu đày, cô quạnh núi rừng hoang.
    Nhớ nhung như, hổ nhớ núi non ngàn,
    Sầu uất khí, hùm thiêng đành bó gối.

    Cơn bão tố, đại bàng mang cánh gãy,
    Sống ê chề, dãy dụa đầy đau thương.
    Nhớ trời xanh, bay vượt mấy từng không
    Nhớ biển cả, thuở lượn vòng đây đó.

    Nay, biệt giang hồ nằm trong ủ rũ,
    Đói dày vò, nhục nhã lũ người khinh.
    Nỗi khống chế, miếng ăn tồi lấp lửng,
    Án tử hình, đâu phải án tù binh

    Đường trần thế, muôn nghìn tai nạn,
    Khốn khổ tù muôn vạn gian truân.
    Công danh như giấc mộng tàn,
    Nổi sầu mất nước, nổi tan tình nhà!

    Sống dở sống, ta nào tha-thiết,
    Tự sát mình, thì thiệt người sau
    Thân không dần đánh mà đau,
    Người không giết bỏ, giết sầu độc chưa?

    Trăng lạnh mờ sương khuya,
    Hồn chơi vơi lạc lõng,
    Trăm mối sầu cô động,
    Trong thảm cảnh nhà giam!

    Chao ôi, Trời ơi, dân Việt lầm than!
    Vì chủ nghĩa “Lê-Nin, Các Mác,”
    Nhiều người đã thác,
    Bởi Cộng-Sản tà gian!

    Tiếng kêu hay tiếng khóc than?
    Tiếng rên thảm-thiết muôn ngàn đau thương!
    Ai đem đày đọa ngục đường?
    Cho thêm đói rét, cho nguồn hờn căm!

    Thấy cửa đóng như sắt đè nặng ngực
    Nghe tiếng cài then, như búa trúng đầu rêm.
    Nghe tiếng khóa cửa như ai rức nhói trong tim,
    Đầy tủi hận, buổi vào buồng giam lại.

    Trong song sắt nhìn ra ngoài,
    Bầu trời xanh, thu hẹp lại.
    Ngục tối mấy ngàn đêm rồi,
    Không thấy được những vì sao!

    Trong cửa sổ nhìn ra ngoài,
    Lũ Công An qua lại.
    Nghe như dẫm tim mình,
    Làm hồn ta tê tái.

    Ý thức hệ Miền Nam kiếp nạn,
    Bảy năm cố quốc dạ nào quên.
    Không xoay thế cuộc anh hùng lụy,
    Hào kiệt ngục trung nợ nước đền!

    Anh hùng mưu sự chẳng nên,
    Cúi xuống thẹn đất, ngước lên thẹn trời.
    Mài gươm rồi để hận đời,
    Chôn vùi thế hệ, lụy người tù chung!

    Van thế nhân xin đừng trách nữa,
    Lổi lầm này hãy sửa sai chung.
    Đem xương máu học bài đắt giá,
    Chi đem thành bại luận Anh Hùng.

    Việt-Thương-Nhân.

  5. #75
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Đi tìm lai lịch một bài thơ -
    Huy Phương

    * Bài “Tâm Sự Người Bại Tướng” không phải của Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, mà là của Hòa thượng Tuyên Úy Phật Giáo Thích Giác Hoa, một bạn tù của Tướng Giai ở trại Thanh Phong.

    Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo “Người Việt Dallas,” chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tháng Chạp năm 2015, tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.”
    Trong lúc trò chuyện, nhắc lại một vài kỷ niệm ngày xưa và thời gian bị tù đày, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, sau một lúc im lặng như lắng sâu vào kỷ niệm, đã đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài, mô tả câu chuyện của một con “hổ nhớ rừng,” tâm trạng một vị tướng trận mạc ngày xưa, thất thế bị tù đày.
    Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

    Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, chứng tỏ trí nhớ ông còn tốt, nhưng chúng tôi cũng cảm nhận ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Ông nhớ lại cả một bài thơ dài, nhưng ông đọc lên trong trạng thái vô thức, không cần biết là đọc cho ai nghe, hay để lần về những kỷ niệm của ông!

    Thái Hóa Lộc cho tôi biết, thời trai trẻ, ông không quen biết Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, nhưng mấy năm gần đây, khi biết tin vị Tướng này phải vào nhà dưỡng lão, gần nơi anh ở, anh đã thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Theo lời anh Thái Hóa Lộc, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đã làm bài thơ này trong thời gian ở tù ngoài Việt Bắc và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, từng câu, chữ một.
    Lần này có mặt tôi, người mới đến thăm ông lần đầu tiên, ông cũng đọc cho chúng tôi nghe bài thơ này. Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ trên đất khách.
    Vì bài thơ quá dài, nên khi về lại California, tường thuật lại chuyến đi thăm Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai ở Dallas, tôi chỉ trích lại một đoạn trong bài thơ dài để đăng lên Nhật báo Người Việt ngày 23 Tháng Mười Hai, 2015.
    Nguyên văn bài thơ dài 65 câu như sau.

    Tâm Sự Người Bại Tướng


    Hoàng-hôn xuống, khi nắng chiều lịm tắt,
    Đời đau thương, khi tràn ngập màu tang.
    Một triệu tinh binh Tướng Tá kiêu hùng,
    Thành trì vững, Quân nhiều không giữ được.
    Lỗi tại ai? có phải vì thời cuộc?
    Tại ý Trời, hay ý của Dân-sinh?
    Tại cái các Tướng cầm đầu hay tại người chiến binh?
    Không tận-tuy, hy-sinh vì Tổ-Quốc?
    Thế giặc mạnh, lan-tràn theo chiến cuộc,
    Ta đau lòng, vận nước quá lâm nguy!
    Chiến hay hòa, giải-pháp hay chạy đi,
    Đều tan vỡ mộng lòng theo ảo-ảnh!
    Giờ Việt Bắc, thân tù giam ngục lạnh,
    Khổ lưu đày, cô quạnh núi rừng hoang.
    Nhớ nhung như, hổ nhớ núi non ngàn,
    Sầu uất khí, hùm thiêng đành bó gối.
    Cơn bão tố, đại bàng mang cánh gãy,
    Sống ê chề, dãy dụa đầy đau thương.
    Nhớ trời xanh, bay vượt mấy từng không
    Nhớ biển cả, thuở lượn vòng đây đó.
    Nay, biệt giang hồ nằm trong ủ rũ,
    Đói dày vò, nhục nhã lũ người khinh.
    Nỗi khống chế, miếng ăn tồi lấp lửng,
    Án tử hình, đâu phải án tù binh
    Đường trần thế, muôn nghìn tai nạn,
    Khốn khổ tù muôn vạn gian truân.
    Công danh như giấc mộng tàn,
    Nổi sầu mất nước, nổi tan tình nhà!
    Sống dở sống, ta nào tha-thiết,
    Tự sát mình, thì thiệt người sau
    Thân không dần đánh mà đau,
    Người không giết bỏ, giết sầu độc chưa?
    Trăng lạnh mờ sương khuya,
    Hồn chơi vơi lạc lõng,
    Trăm mối sầu cô động,
    Trong thảm cảnh nhà giam!
    Chao ôi, Trời ơi, dân Việt lầm than!
    Vì chủ nghĩa “Lê-Nin, Các Mác,”
    Nhiều người đã thác,
    Bởi Cộng-Sản tà gian!
    Tiếng kêu hay tiếng khóc than?
    Tiếng rên thảm-thiết muôn ngàn đau thương!
    Ai đem đày đọa ngục đường?
    Cho thêm đói rét, cho nguồn hờn căm!
    Thấy cửa đóng như sắt đè nặng ngực
    Nghe tiếng cài then, như búa trúng đầu rêm.
    Nghe tiếng khóa cửa như ai rức nhói trong tim,
    Đầy tủi hận, buổi vào buồng giam lại.
    Trong song sắt nhìn ra ngoài,
    Bầu trời xanh, thu hẹp lại.
    Ngục tối mấy ngàn đêm rồi,
    Không thấy được những vì sao!
    Trong cửa sổ nhìn ra ngoài,
    Lũ Công An qua lại.
    Nghe như dẫm tim mình,
    Làm hồn ta tê tái.
    Ý thức hệ Miền Nam kiếp nạn,
    Bảy năm cố quốc dạ nào quên.
    Không xoay thế cuộc anh hùng lụy,
    Hào kiệt ngục trung nợ nước đền!
    Anh hùng mưu sự chẳng nên,
    Cúi xuống thẹn đất, ngước lên thẹn trời.
    Mài gươm rồi để hận đời,
    Chôn vùi thế hệ, lụy người tù chung!
    Van thế nhân xin đừng trách nữa,
    Lổi lầm này hãy sửa sai chung.
    Đem xương máu học bài đắt giá,
    Chi đem thành bại luận Anh Hùng.

    Việt-Thương-Nhân. Việt Bắc K 2 Thanh Phong, Thanh-Hóa.
    Mùa Đông 1982. (Hòa Thượng Thích Giác Hoa)




    Việt Thương Nhân, tức Hòa thượng Tuyên Úy Phật Giáo Thích Giác Hoa.
    (Hình: Hòa thượng Thích Giác Hoa cung cấp)

    Sau khi tờ báo có đăng bài thơ “của Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai” phát hành được vài ngày, tôi nhận được điện thoại của một vị Hòa Thượng ở Tổ Đình Minh Đăng Quang, trên đường Westminster, cho biết là ông cần gặp tôi về bài thơ ghi lại trong bài phóng sự của tôi đăng trên báo Người Việt cách đây vài ngày.
    Hòa Thượng Thích Giác Hoa đã cho tôi xem một tờ tuần báo cũ có tên là Chân Nguyên, số 33&34, phát hành vào Tháng Tư, 1998, trong đó có đăng một bài thơ dài, nhan đề là “Tâm Sự Người Bại Tướng,” bài thơ mà tôi đã trích đoạn để đăng lại trong bài báo của tôi, và ghi đó là sáng tác của Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai.
    Bài thơ ghi tên tác giả là Việt Thường Nhân, tức Hòa Thượng Thích Giác Hoa, người đang nói chuyện với tôi. Ông cho biết ông là một Tuyên Úy Phật Giáo, bị tù tập trung cải tạo, đã có thời gian ở trại Hà Tây và Nam Hà chung với 28 vị Tướng Lãnh VNCH.

    Trong lúc gần gũi sinh hoạt với cac vị Tướng Lãnh trong các trại tù này, ông đã quen thân với Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai. Cám cảnh với đời sống “hùm thiêng sa cơ” của các vị Tướng Lãnh, Việt Thương Nhân đã làm một bài thơ dài, viết thay cho tâm trạng của những vị tướng thất trận bị lưu đày:

    “Giờ Việt Bắc, thân tù giam ngục lạnh-
    khổ lưu đày, cô quạnh núi rừng hoang-
    nhớ nhung như, hổ nhớ núi non ngàn-
    sầu uất khí, hùm thiêng đành bó gối!”

    Những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động, Việt Thương Nhân và Thiếu Tướng Đỗ Kế Gai đã có dịp gần gũi, tâm sự với nhau như là đôi bạn chung cảnh ngộ, và cũng vì xót xa với hoàn cảnh một Tướng Lãnh thất trận, chịu bao nỗi đắng cay bẽ bàng, trong nhà tù không có giấy bút, và để tránh con mắt dò xét của đồng tù cũng như bọn quản giáo, bài thơ làm tới đâu tác giả đã học thuộc lòng tới đó. Khi bài thơ làm xông, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai muốn xin Việt Thương Nhân chép cho ông bài thơ đó, nhưng nhà sư không dám.
    Sau khi ra tù, cả hai đều đã đi định cư tại Hoa kỳ, cùng theo diện Cựu Tù Nhân Chính Trị (H.O.) và vẫn còn liên lạc được với nhau, nên khi bài thơ được đăng trên báo Chân Nguyên, Việt Thương Nhân không quên gửi cho Thiếu Tướng Giai một bản. Do vậy, chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy Thiếu Tướng Giai đã thuộc bài thơ từ cách xuống hàng, ngắt câu, và không sai một dấu chấm phẩy.

    Trong lúc nói chuyện với chúng tôi, Hòa Thượng Thích Giác Hoa có hỏi thăm tình trạng sức khỏe của Thiếu Tướng Giai, vài yêu cầu tôi nói rõ về bài thơ này, do Việt Thương Nhân sáng tác.
    Từ Dallas, ký giả Thái Hóa Lộc, người đã đưa tôi đến thăm Thiếu Tướng Giai, thú nhận, lâu nay ông cứ đinh ninh bài thơ đó là của Tướng Giai, mà không bao giờ hỏi cội nguồn, cũng như anh Lộc xác nhận chưa bao giờ nghe ông Giai nhận đó là bài thơ do ông làm.
    Phần tôi xin nhận lỗi sơ sót, trong hoàn cảnh đó, cứ nghĩ là bài thơ này do Thiếu Tướng Giai sáng tác.
    Ở trong trại tù Nam Hà, khu Z, Việt Thương Nhân phụ trách việc hớt tóc hàng tháng cho anh em tù nhân chính trị, và ông thường cạo gió cho những anh em bị cảm sốt, trong đó có các vị Tướng Lãnh VNCH. Việt Thương Nhân cho chúng tôi biết, bài thơ này ông thuộc nằm lòng và người đầu tiên ông đọc cho nghe là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, sau đó là Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, trong một lần cạo gió cho hai vị này.
    Để giải thích việc Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai đã thuộc lòng bài thơ dài 62 câu này, nhà thơ Việt Thương Nhân sau khi bài thơ đăng trên báo Chân Nguyên, ông đã gửi tặng cho Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai một bản.

    ***
    Tôi mạn phép nêu lên câu chuyện cũ, xin trả bài thơ “Tâm Sự Người Bại Tướng” lại cho người đã viết ra nó, và tiện đây cũng xin giới thiệu vài lời về tác giả Việt Thương Nhân (Thích Giác Hoa).

    “Việt Thương Nhân” theo lời người đặt nó ra, nôm na là nói đến một “người thương nước Việt.”
    Việt Thương Nhân tên thật là Nguyễn Xuân, sinh năm 1941 tại Thôn Tân Mỹ, Xã Vạn Thạnh, Quận Vạn Ninh, Vạn Giả Khánh Hòa.
    Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề mộc, nhưng lại có ý hướng muốn xuất gia. Do vậy sau khi học xong trung học, năm 1958, lúc 17 tuổi, ông tìm sư học đạo, và xuất gia theo Giáo Phái Khất Sĩ vào ngày 15 Tháng Bảy Âm Lịch – tại Tịnh Xá Ngọc Liên, Cần Thơ (gọi là Du Tăng hay Sư Áo Vàng). Năm 1964, Nha Tuyên Úy Các Tôn Giáo được thành lập, tuy các tu sĩ không bị động viên, nhưng Nha Tuyên Úy Phật Giáo đã tuyển chọn những Tu Sĩ có bằng Tú Tài trở lên để đào tạo và biên chế thành các Sĩ Quan Tuyên Úy Phật Giáo với cấp bậc Đại Úy.
    Năm 1972, Thích Giác Nhiên mới thi vào nhanh, theo học khóa 5 Chiến Tranh Chính Trị tại Trường Đại Học CTCT Đà Lạt và sau đó được bổ nhiệm vào chức vụ Tuyên Úy Phật Giáo tại Trung Đoàn 31/ SĐ 21 BB, có căn cứ gần Hỏa Lựu, Chương Thiện.

    Ngày 30 Tháng Tư, sau khi Việt Cộng vào Cần Thơ, trong cơn hoảng loạn, ông về Sài Gòn nhưng sau đó, lại trở về Cần Thơ, ra trình diện với tư cách là một Sĩ Quan Tuyên Úy Phật Giáo và bị giam tại Khu An Ninh Nội Chính, gần Cầu Bắc, Cần Thơ thuộc Trung Đoàn16- SĐ 9BB. Ba tháng sau, ông được đưa về hậu cứ Trung Đoàn 33 gần Phi trường Trà Nóc, Cần Thơ, để chuẩn bị đưa ra Bắc vào Tháng Sáu năm 1976.

    Một số tù VNCH Vùng IV Chiến Thuật, từ cảng Bình Thủy, đã đi Bắc bằng tàu Hồng Hà. Trong chuyến đi này, Việt Cộng xếp các Tuyên Úy Tôn Giáo như là các thành phần nguy hiểm, quan trọng cùng đi chung với cá sĩ quan cấp cao. Riêng 28 vị Tướng Lãnh bị giam riêng và đưa bằng phi cơ ra Bắc.
    Thượng Tọa Thích Giác Hoa đã trải qua các trại tù khổ sai ở Yên Bái, Lào Cai (Hoàng Liên Sơn) Thanh Phong, Hà Tây, Nam Hà. Trong trại tù ông ở đội Mộc và cũng phụ trách hớt tóc cho anh em bạn tù. Chính tại trại Hà Tây, ông đã có dịp gần gũi với các vị Tướng Lãnh và có dịp trò chuyện, tâm sự với Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai. Bài thơ “Tâm Sự Người Bại Tướng,” ra đời trong dịp này.

    Sau 13 năm tù, Việt Thương Nhân trở lại Cần Thơ, làm nghề mộc cũng như nghề hớt tóc để sinh sống qua ngày.
    Ông định cư tại Mỹ vào năm 1993, theo diện H.O. do cơ sở Tịnh Xá Minh Đăng Quang (Hòa Thượng Thích Giác Nhiên) bảo trợ.
    Việt Thương Nhân làm thơ không nhiều. Những bài thơ của ông phần lớn làm ra trong nhà tù Cộng Sản, là những bài thơ thống hận, rên siết cho số phận con người. Vừa là một người thất trận, bỏ quê hương và con người lâm cảnh tù đày, khổ nhục; vừa là một nhà tu trước cảnh đời đảo điên, thơ của Việt Thương Nhân phản ánh của một giai đoạn bi thương cả dân tộc. [kn]

  6. #76
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193
    Phi Công Phan Thanh Vân – Hoàng Hải Thuỷ

    Hoàng Hải Thuỷ




    Người bạn hỏi tôi:

    –Anh có tin Số Mệnh và Tử Vi không ?

    Tôi nói:
    –Phải chia câu hỏi của anh thành hai câu hỏi: Có tin Số Mệnh không? Có tin Tử Vi không? Tôi tin con người có Số Mệnh nhưng con người không thể biết trước được đời mình sẽ ra sao. Tôi không tin khoa Tử Vi có thể biết trước những việc chưa xảy đến, sẽ xảy đến trong đời một người. Chuyện tại sao tôi không tin Tử Vi là một đề tài khác. Hôm nay tôi mời quý vị đọc chuyện đời của Người Phi Công Không Lực Việt Nam Cộng Hòa Phan Thanh Vân để quý vị thấy như tôi thấy: con người Sống Chết có Số, Người chưa đến Số Chết thì dù có bị rơi vào cảnh Chết 1000/100 vẫn cứ Sống.
    Phi công Phan Thanh Vân sống những ngày cuối đời ở Virginia- Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích – Virginia is for Lovers – tôi gặp anh PT Vân ở Virginia. Ðây là lời những người bạn phi công của anh viết về anh trong Tập San Lý Tưởng:

    Ngày 1 tháng 7 năm 1961, Phi công Phan Thanh Vân lãnh một nhiệm vụ đặc biệt: anh thay Phi công Nguyễn Cao Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế cho một đội Biệt Kích VNCH.
    Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh bị hỏa tiễn của CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7- 1961, khi phi cơ đang bay sát từ mặt biển vào đất liền.
    Máy bay rơi xuống một nơi thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Phi hành đoàn do anh PT Vân chỉ huy và lái gồm 2 phi công phụ: Trung úy Phan Khắc Thích, Thiếu úy Trần Minh Tâm, 2 điều hành viên: Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yên, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu, 1 vô tuyến điện viên: Trung sĩ Nguyễn Văn Nở, 1 cơ khí viên: Thượng sĩ Phạm Văn Ðăng, và 3 Biệt Kích Dù: Thượng sĩ Lộc, Trung sĩ Tiết và Thượng sĩ Khoa, thuộc Phòng 46, Sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật. Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống bãi sình lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy vì kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót. Cả 3 đều bị thương rất nặng. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại Nhà Tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1961, ba Chiến sĩ VNCH bị đưa ra Tòa Án Quân Sự CSBV. Bản án như sau:
    –Ðinh Như Khoa, Biệt Kích Dù, 15 năm tù
    –Phan Thanh Vân, Trưởng Phi cơ, 7 năm tù
    –Phạm Văn Ðăng, Cơ Khí viên, 3 năm tù.
    PT Vân bị tù khổ sai ở Trại Bất Bạt, Ba Vì, Sơn Tây, rồi bị đưa lên giam giữ tại Trại E ở Phố Lu, Lào Cai. Năm 1971, PT Vân được CSBV phóng thích sau 10 năm tù giam và quản thúc. Nhờ sự bảo lãnh của bà chị ruột, qua Hồng Thập Tự Pháp, anh được sang Pháp để đoàn tụ với gia đình bà chị.


    Ðây là bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân:

    Chiều nay, sau khi làm xong cái giường đôi, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý Hợp tác xã Mộc Ðồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng, y nói:

    –Anh nghỉ làm đi, về lán thu xếp để ngày mai về Hà Nội.
    Tôi thắc mắc:
    –Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có chuyện gì và về bao lâu?
    Gã lạnh như tiền:
    -Anh đừng hỏi, đó là lệnh trên, tôi không biết lý do. Anh cứ đi, có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.

    Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp hành lý mà trong lòng lo sợ: lại chuyện gì đây? Ðược đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã Mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày, tháng tháng lòng tôi lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng là “Giặc Lái Mỹ Ngụy.” Năm 1961, sau khi lãnh án tù 7 năm, tôi từ Hỏa Lò Hà Nội đi qua trại này, trại kia, cuối cùng là Trại Tù E Phố Lu, Lào Cai, tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ người khi được Ðảng và Nhà Nước “trả tự do,” đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động, tối điểm”: ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ….
    Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao… tại sao…??? Nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào. Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng. Nếu không có cái lệnh ngày mai đi Hà Nội thì giờ này tôi cũng ngồi bên bếp với các bạn.

    Rồi đêm dài cũng qua, chưa 9 giờ sáng, một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đến đậu trong sân Hợp Tác Xã. Rồi tôi được gọi lên văn phòng. Cán bộ chờ tôi là cán bộ Toán. Ông nhẩn nha nói:

    “Hôm nay tôi đưa anh về Hà Nội, rồi đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Ðảng và Nhà Nước đã rất khoan hồng với anh và đã chấp thuận lời xin của người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.”

    Nghe nói tôi gần tắt thở, mừng đến nỗi tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tôi cố bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là “anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Ðảng và Nhà Nước,” nào là “anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, sống ở nước ngoài anh vẫn có thể phục vụ Tổ Quốc, và để có ngày anh trở về nước phục vụ nhân dân, phục vụ Ðảng và Nhà nước, v.v. và v.v.”

    Ông Toán nói tiếp: “Ðây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, đây là giấy máy bay của hãng Hàng Không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua. Thôi, chúng ta lên đường, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?”
    Tôi lập bập: “Dạ… Dạ… Báo cáo cán bộ…, dạ… dạ… thưa… không!” Chân tôi bủn rủn, đi hết muốn vững. Ðâu có ngờ! Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại: “Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của Hợp Tác Xã tặng anh, cầm theo mà ăn đường.”

    Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật. Hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường bốc lên sau xe, nhưng tôi thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp, sáng, tưng bừng như… Tết. Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ, tôi không để ý xe đã băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường đến sân bay Bạch Mai. Tôi nhìn sân bay, ngoài bãi đậu có hai ba chiếc máy bay, một chiếc kiểu Illouchine 14 của Nga, loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị cất cánh, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra. Tôi theo cán bộ Toán vào quầy hành khách trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay… Làm xong thủ tục, cán bộ Toán nói: “Thôi đến giờ rồi, anh ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì tốt anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.”
    Tôi líu ríu: “Dạ… báo cáo cán bộ, dạ… tôi xin cám ơn!” Tôi hối hả theo sau độ mười người nữa ra chỗ máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ áo Mao, chắc họ là cán bộ đi công tác, còn tôi thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay ôm túi bánh chưng và gói quần áo. Tôi tìm chỗ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da trắng đỏ, có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để vào buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào !

    Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của Hàng Không Nga chuyển bánh ra phi đạo, rồi cất cánh bay lên. Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nhớ đến… một chuyến bay xưa! Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:

    Tôi nhớ chiếc phi cơ C47 trắng ngần do tôi lái đêm ấy khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển rồi vào vùng trời miền Bắc. Cả 10 anh em chúng tôi đều thần kinh căng thẳng, không ai nói với ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay rung giật mạnh, không nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ, rồi… tôi không còn biết gì nữa!

    Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang… chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn, máu, mặt tôi đầy máu, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian. Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi nghe có tiếng người văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya. Tiếng kêu: “Chết tôi, nóng quá, nóng quá, chết… tôi!” Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, một nửa người của tôi ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt nhìn: cách chỗ tôi “đứng” vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt, những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ biết rằng chiếc phi cơ C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy! Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra lần hai, lúc này tôi đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
    Tiếng quát tháo của đàn ông, đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe đốt sáng cả một góc trời, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đến quát tháo bên tôi mà tôi vẫn “đứng im như một xác chết đứng.” Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy. Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống, gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, uống máu, ăn thịt tôi, tôi đau đớn, tôi sức tàn, tôi sợ, tôi nhắm mắt lại, rồi lại lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa: “Coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm !”

    Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều… Trong máy bay lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống… với giấc chiêm bao vừa qua !
    Với tay lấy cái mền đắp lên người tôi mới nhớ ra các giấy tờ mang theo, tôi lấy ra xem. Ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà Nội là giấy máy bay của Hàng Không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường bay: Hà Nội, Canton, Hồng Kông, Paris. Tôi nghĩ: tại sao ghé qua Quảng Ðông? (Canton) Ðó là đất Trung Cộng, nếu gặp lôi thôi, trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với cả ngàn ý nghĩ lo âu, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật sáng, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp xuống.

    Phi trường Quảng Ðông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu. Tôi xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga. Tôi tìm ngay đến quầy của Air France. Sau khi xem giấy tờ, giấy máy bay của tôi, một người Tầu, bập bẹ tiếng Pháp, nói:

    “Chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng Kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước trong giấy của anh, chúng tôi sẽ cho anh đi Hong Kong bằng đường xe lửa, khi đến Hong Kong anh sẽ lấy máy bay đi Paris, anh theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa.”

    Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để ghi nhận! Nhà ga xe lửa Quảng Ðông nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé rồi đưa tôi lên một toa giữa con tầu, may mắn tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, anh ta đưa tay bắt tay tôi, anh chúc tôi may mắn: “Bonne chance.” Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách theo từ khi rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.

    Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng Ðông và Hồng Kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc đồng phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di Trú (Immigration) lên toa xe để kiểm soát giấy tờ. Sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem kỹ rồi nói:

    “Với giấy thông hành này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) Hông Kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong Kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?”

    Tôi xanh mặt, lắp bắp trả lời: “Yes, yes Sir!”
    Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả, tôi nghĩ thầm: “Chết cha thằng nhỏ rồi, biết lo liệu làm sao đây?” Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong Kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền xi-măng sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của Thế Giới Tự Do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak, phi trường quốc tế của HongKong

    “Thả cọp về rừng”, đường xá ở Hong Kong đâu có xa lạ gì với tôi, khi tôi còn lái cho Air Vietnam, nhiều lần tôi ghé qua ăn chơi ở đây. Tôi vừa đi vừa chạy, băng qua các phố xá đông nghịt người vui cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho mau đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.

    Vào đến phi trường là lúc phố xá lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong Kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên Air France sau khi xem vé và giấy thông hành của tôi, nói:

    “Chúng tôi rất tiếc không thể cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang giấy tờ của CSBV, máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi sợ nhà cầm quyền Thái sẽ làm khó dễ anh, họ làm khó cả hãng chúng tôi vì họ đã có lời yêu cầu không được cho người Bắc Việt Nam đi trên máy bay dù người đó chỉ ghé qua Thái Lan. Tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào thuận lợi cho anh thì anh hãy đi.”

    Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả, tôi thở hắt ra: “Hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi mò ra ghế ngồi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo sợ cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Sợ mà không biết phải làm sao để có thể đến Paris. Chợt có người từ đằng sau đi tới vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp: “Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam? Ði đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?”

    Tôi quay lại, một người đẹp trong bộ y phục nữ chiêu đãi viên Hàng Không tươi cười đưa tay cho tôi bắt, nàng nói: “Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!” Tôi ngỡ ngàng nhìn người thiếu phụ quen quen mà không nói được một lời, nàng huyên thuyên kể chuyện cũ. À! Thì ra nàng là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho Hàng Không Ðức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, từng được tôi mời ăn, mời uống, mời nhảy mỗi khi tôi gặp nàng ở những escale Hong Kong hay Tokyo. Tôi mừng quá là mừng. Tôi vội kể sơ cuộc đời tôi trong 10 năm vừa qua và cái rắc rối lớn tôi gặp ở đây. Nghe xong nàng nói:

    “Anh đừng lo, tôi sẽ thu xếp cho anh đi Paris ngay đêm nay. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh đi trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Frankfort lúc 10 giờ đêm nay, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp cho anh tránh khỏi sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.”
    Mừng như người sắp chết được sống lại, tôi líu ríu đi theo người đẹp mà lòng xôn xao thầm nghĩ: “Sao mình may mắn được hưởng cảnh ‘thánh nhân hậu đãi kẻ khù khờ’ như vầy nè.” Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “Từ Cõi Chết cộng sản tìm về Cõi Sống Tự Do” cuối cùng tôi đặt chân xuống Phi Trường Orly, Pháp, ngày 7 tháng 2 năm 1971.

    Cò Trắng Phan Thanh Vân
    Xuân 2002

    ***
    CT Hà Ðông

    Những chiếc phi cơ chở Biệt Kích ra Bắc được sơn trắng toát, không có quân hiệu, số hiệu, những phi công chuyên lái những phi cơ trắng ấy được gọi là Cò Trắng. Tôi gặp Phi công Phan Thanh Vân khoảng năm 2000, buổi gặp đầu tiên ở nhà ông Cựu Trung tá Không Quân Hoàng Song Liêm. Vì không quen biết anh PT Vân từ trước 1975 nên nay tuy tôi rất mến anh, rất muốn biết nhiều hơn về cuộc phiêu lưu thập tử vô nhất sinh của anh, tôi không có dịp làm thân với anh để được biết thêm. Tôi chỉ biết người phi công lái chiếc phi cơ ra Bắc đêm đó là Phi công Nguyễn Cao Kỳ. Ông này bận việc nên Phi công Phan Thanh Vân tự nguyện bay thay.

    Sống sót sau tai nạn, bị mù một mắt, anh PT Vân kể ông Hồ Chí Minh ra lệnh các y sĩ phải bằng mọi giá cứu sống vài người trong số 10 anh em anh, để đưa ra tòa, tố cáo với thế giới là Miền Nam VN vi phạm Hiệp Ðịnh Genève, cho biệt kích ra đánh phá miền Bắc. Tôi được biết là các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều chối việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nói là không có việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nên người Phi công Phan Thanh Vân khi đến Pháp không được Tòa Ðại Sứ VNCH nhận là chiến sĩ Quốc Gia, không nhận tất nhiên là không cho hưởng quyền lợi cũng không giúp gì cả.
    Nghe nói khi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến Paris dự hội nghị, người phi công Phan Thanh Vân thế mạng cho ông năm xưa ở trong số người Việt đến đứng ngoài cửa Hotel đón mừng ông. Thấy bạn Phi công Phan Thanh Vân xưa, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ bắt tay, hỏi:

    – Vân đấy à???

    Nếu đêm xưa ấy, phi công Nguyễn Cao Kỳ bay chuyến bay ra Bắc như đã định, thì hôm nay tôi đâu có gì để phải xấu hổ. Than ôi… Số. Tại Số. Ai bảo ở đời người ta không có Số? Tôi bảo Có!

    Sau mấy năm ở Pháp, anh Phan Thanh Vân sang sống ở Hoa Kỳ. Anh qua đời ở Virginia. Tuổi anh bằng tuổi tôi: chúng tôi ra đời những năm 1932. 1933, 1934 Thế Kỷ Hai Mươi Trần Ai Khoai Củ!

    PT Vân là Công Tử Sài Gòn, hào hoa và có số đào huê hơn người. Những năm 1960 tôi nghe nói anh được hưởng “ân huệ thơm như múi mít” của hai Nữ Ca Sĩ tài danh đương thời. Trong hai Nữ Ca Sĩ này có một người tôi biết, người anh em cùng vợ với tôi là anh Hoàng Hải Thủy thấy đẹp, quyến rũ quá chời. Nhưng năm 1960, thời gian Nàng trẻ, Nàng đẹp, anh Hoàng Hải Thủy nhà tôi đã vợ con dzầm dzề dzồi nên anh không thể làm cánh bướm si tình mon men theo tà áo ngát hương của Nàng.

    Tôi đăng bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân để nói với quý vị chuyện Nguời Ta ở Ðời có Số. Quần áo, giày dép, sú-cheng, si-líp còn có Số, huống chi Người Ta.
    Tôi cảm khái cách gì khi đọc đoạn Nàng Hotesse de l’Air Lufhansa Francoise nhẹ gót sen đi đến vỗ vai người Phi Công VNCH Tơi Tả vừa mới ra Tù đang ngồi rầu rĩ ở Phi Truong Hong Kong. Mèn ơi… Nếu là tôi, tôi ôm hun Nàng thấm thíet, Police Hong Kong có đánh 216789 cây dùi cui lên lưng, lên đầu tôi, tôi cũng không buông Nàng ra. Nàm thao tôi buông Nàng ra được ! Mèn ơi… Cảm khái cách gì !

    Hoàng Hải Thủy


  7. #77
    Biệt Thự
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,854
    Giòng Đời” tâm tư của Đặng Duy Lạc, Cựu phi công Khu Trục VNCH (trước 75, cấp bậc Đại Tá), cùng lá thư hồi âm của người tình ông được phổ biến khá lâu.
    Nay tình cờ một người bạn KQ lại gửi cho đọc, đọc xong vẫn thấy xúc cảm như lần đầu đã đọc “câu chuyện tình không đoạn kết” này cách đây mấy năm.
    Bối cảnh chuyện tình xẩy ra thời khoảng đất nước chia đôi 1954, cho lứa tuổi “Tôi xa Hà Nội năm lên 18 khi vừa biết yêu”…
    Thời đó số lượng mối tình phải chia xa chắc cũng là một con số nhiều lắm lắm….
    Tình yêu của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm hồ dễ có ai quên…” qủa là qúa sâu đậm.
    Cảm giác giây phút đầu khờ dại cầm tay người tình, ngờ đâu mãi thành thiên thu…
    Những lời tự sự hai người trong cuộc thật chân tình, tự đáy tim,chia sẻ tâm tình khiến người đọc như tưởng cũng có mình trong cảnh huống đầy éo le này.
    Cựu Đại Tá KQ Đặng Duy Lạc nay không còn nữa, chẳng hiểu người tình đầu của ông tại VN bây giờ ra sao, có còn không ?
    Đời sống rồi cũng qua đi, nhưng câu chuyện “tình chỉ đẹp khi còn dang dở” mãi còn ở lại.TNT

    GIÒNG ÐỜI _Duy LạcTôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc (1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Ðó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách.

    Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập “Luân Lý Giáo Khoa Thư” ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v… và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Ðoàn của Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Ðôi Bạn). Sau đó từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Ðặng Thế Phong.v.v… đã thật sự thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi thanh niên.
    Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
    Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
    Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại đó. Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp “Ðệ nhất niên” của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương Hộ.v.v…
    Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt.
    Ðã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Ðôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một “message” ưng chịu kín đáo của thời đó.
    Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư “Cô hàng xóm”
    Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
    Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…

    Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi chỉ được tiếng “người Sàigòn” và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Ðêm hôm đó, trước đám đông đảo học sinh, tôi đơn ca bản nhạc “Nhớ Chiến Khu”, một bài ca tủ của tôi, “Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông réo…” Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu thương hại cho tôi.
    Rồi có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt át vô cùng.
    Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ “L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière” mà tôi thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng.
    Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi.
    Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn…
    Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư).
    Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay biết.
    Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi…
    Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Ðức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau. Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh.
    Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi cảnh “Ðồn Lẻ Chiều Xuân” chú đã âm thầm bước thêm bước nữa để nếm mùi “một cảnh hai quê”. Thật tội nghiệp!
    Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sàigòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Ðuợc biết nàng đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Viẽt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về với quân hàm Ðại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói: “Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị.” Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: “Dạ vâng, tôi đoán thế.” Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò: “Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?” “Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa.” “Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?” Nga lắc đầu cười chua chát, “Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất là đối với anh ấy…”
    Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
    Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga như “lội ngược giòng thời gian” tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối.=====================================

    Hồi Âm “GIÒNG ÐỜI…”_ Nga Sàigòn

    Anh Duy thân mến,

    Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt…. Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều… Cầm bằng như gió mang đi.
    Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v… thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn hầu hết đều… cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài.
    Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
    – Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng
    Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói:

    – Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì “người ta” còn nhớ tới mình!
    Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
    – Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
    Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.
    Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
    Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, “Chắc chắn là anh đây rồi?!” Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
    Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
    Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như đi trẩy hội ngày Xuân.

    Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài “Nhớ Chiến Khu”. Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào dè anh run …vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
    Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, “mờ mịt” thì anh phát âm thành “mờ mịch” hay “vui quá” thành “vui góa”. Và còn nhiều chữ độc đáo nữa…
    Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là… Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.


    Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:
    – Trại sinh bên toán B ăn hết “thịch” (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho “dzui”!
    Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
    Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.
    Dường như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý “người Sàigòn” có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của bọn học trò con gái tinh quái ấy không?
    Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính “nghịch” ấy ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài “Giòng Ðời”, em vẫn đọc thấy thấp thoáng cái văn phong đó.
    Anh cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!

    Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự tại, đẹp như một pho tượng!
    Em biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn?
    Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để… ngắm anh (!) Hoặc để luồn những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một anh chàng đang ngấm nghé.
    Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con nhỏ Thủy – con gái ông Xã Tài – đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình!
    Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.
    Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương!
    Anh Duy yêu dấu,
    Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!
    Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà “người ta” đã ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi. Trong bài “Giòng Ðời” anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu “bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!”
    Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ lên đường “làm nghĩa vụ quốc tế” như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
    Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!
    Khi miền Nam được “giải phóng”, em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi “học tập cải tạo”, rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy?
    Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
    Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng trong buổi chiều tàn, “Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!” Ðời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu ban đầu.
    Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Ðừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ cười răng khểnh.
    Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
    Thân ái,
    Em gái anh, NgaTái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm bằng đường bưu diện.


    Em hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. Ðọc thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ tâm tình của em.
    Last edited by Ngoc Han; 12-18-2020 at 04:09 AM.

  8. #78
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193
    Những Cánh Én Giữa Mùa Đông
    Phạm Tín An Ninh

    Tôi gặp anh trong buổi tiệc họp mặt mừng xuân của Hội Biệt Động Quân Nam Cali. Khi nghe giới thiệu, anh đến tìm tôi. Anh cầm tay hỏi lại tên tôi rồi nức nở với hai hàng nước mắt. Tôi ngạc nhiên, đứng dậy, im lặng xúc động nhìn anh khóc. Anh mặc bộ đồ bay màu đen, cao lớn, bô trai. Hàm râu mép vừa tăng vẻ cương nghị oai phong vừa đượm nét hào hoa lẫn một chút phong trần của những người đã từng một thời đi mấy về gió. Tôi vội vã cố lục lọi trong ký ức, nhưng không thể nhớ anh là ai, và đã từng gặp nhau chưa. Có thể là ngày xưa chúng tôi đã cùng tham dự một cuộc hành quân phối họp nào đó. Lúc ấy tôi là lính bộ binh, tham gia nhiều cuộc hành quân trực thăng vận, hoặc được L-19 bao vùng, Hỏa Long soi sáng hay được cận yểm bởi các oanh tạc cơ, mà chúng tôi xem như những chàng dũng sĩ, cứu tinh trong giờ phút lâm nguy. Tôi có dịp quen biết một số phi công, nhiều nhất là ở các Phi Đoàn trực thăng, nhưng không nhận ra chàng pilot vẫn còn đầy phong độ, đang đứng trước mặt mình.

    Khi bớt xúc động, anh đưa tay lau nước mắt và tự giới thiệu:
    - Xin lỗi anh, gặp anh tôi xúc động quá, vì nghĩ tới anh tôi. Tôi là em của anh Phạm văn Thặng.

    Bây giờ tôi mới hiểu ra. Đúng là tôi chưa gặp anh bao giờ. Sở dĩ anh biết tôi, vì mới đây trong một ký sự về chiến trường xưa, tôi có nhắc lại những trận đánh tại Kontum, và trong đó có kể lại cái chết can trường của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng, khi anh đang bay một phi vụ yểm trợ cho chính đơn vị của tôi.

    Tôi cảm động, ôm lấy vai anh và mời anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Chỉ nói chuyện được một lúc, vì cả hội trường đang bừng lên với những bài hùng ca trên sân khấu. Anh cho tôi địa chỉ, số điện thoại và mong được gặp tôi tại nhà anh vào cuối tuần sau. Anh muốn biết tường tận hơn về cái chết của người bào huynh khả kính, cố Trung tá Phạm văn Thặng.

    Qua tâm tình, tôi biết anh có một cái tên khá đẹp: Phạm Vương Thục. Trước 75 từng là phi công trực thăng võ trang của một Phi Đoàn kỳ cựu, tiếng tăm Vùng I: Song Chùy - 213. Đọc trên Cánh Thép, tôi còn biết anh từng là Lead Gun (trưởng toán trực thăng võ trang), tham gia trong suốt cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Một trận chiến mà địch quân tập trung hỏa lực phòng không mạnh mẽ nhất từ trước tới nay. Gây thiệt hại không nhỏ cho các đơn vị không quân Hoa Kỳ và Việt Nam tham chiến. Nhờ tài năng, phán đoán nhanh nhẹn cùng với sự bình tĩnh và can trường, anh đã vẫy vùng trên bầu trời trận mạc, bao lần vượt qua cái chết trong đường tơ kẻ tóc để yểm trợ hữu hiệu, cứu nguy cho các lực lượng chiến đấu cũng như cho chính những người bạn trong Phi Đoàn. Có lần phi cơ trúng đạn, anh đã phải đáp khẩn cấp xuống Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 30, trong khi Đồi 31 đã bị thất thủ.

    Cuối tuần, trước khi đến anh, tôi báo cho anh biết, là tôi vừa gặp người bạn cùng tù thân thiết, là một sĩ quan Lôi Hổ thuộc Nha Kỷ Thuật, vào năm 1972 đồn trú tại căn cứ B-15 ở Kontum. Và cũng là người trưởng toán, chỉ huy việc lấy di thể của anh Phạm văn Thặng từ chiếc oanh tạc cơ bị bốc cháy bên bờ sông Dakbla ngày ấy. Anh Thục rất vui mừng và mong được gặp người bạn Lôi Hổ này sẽ cùng đến với tôi.

    Chúng tôi không mấy khó khăn khi tìm đến nhà anh, dù lúc trời đã tối và đang vần vũ một cơn mưa. Chưa kịp bấm chuông là anh đã mở cửa, vui mừng mời chúng tôi vào. Ngôi nhà khá đẹp, bày biện trang nhã. Điều làm chúng tôi bất ngờ cảm động là ở một góc của tầng trên là bàn thờ trang trọng với tấm ảnh chân dung lớn của cố Trung Tá Phạm văn Thặng, một số bạn bè không quân của anh đã hy sinh, năm vị tướng và một số sĩ quan khác đã tuẫn tiết vào giờ thứ 25 cuộc chiến. Chúng tôi đứng nghiêm trước các bức chân dung, lòng ngâm ngùi thương tiếc, cùng cảm kích tấm lòng của anh, người phi công dũng cảm hào hoa vẫn luôn giữ trọn tình với quê hương, chiến hữu.

    Chị Thục từ dưới bếp chạy lên vui vẻ chào chúng tôi. Đúng là vợ phi công. Chị rất hiếu khách, bặt thiệp. Sau đó, khi nhìn trên bàn thờ gia đình, thấy tấm ảnh chân dung của Đại tá Trịnh Tiếu, tôi mới biết chị Thục là em gái của vị Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn mà tôi đã vài lần được gặp ở Kontum. Sau 75, Ông từng bị tù đày, tra tấn hành hạ nhiều năm, sức khỏe hao gầy, bệnh hoạn, nên vừa mới qua đời tại hải ngoại. Tấm ảnh của ông mới nhất trong số các bức ảnh chân dung khác trên bàn thờ. Anh Thục kể lại chuyện hai người tình cờ quen nhau, khi anh chỉ huy một phi đội vào Quảng Ngãi tham gia hành quân với Sư Đoàn 2BB. Buổi chiều, trước khi bay về Căn Cứ Phi Đoàn ở Đà Nẳng, anh được BTL/SĐ chuyển lại lời yêu cầu của Đại Tá Trịnh Tiếu (khi ấy là Trung Tá). Thục đã nhận lời chở quan tài của thân sinh đại tá Tiếu từ Quảng Ngãi ra Hội An an táng, và trong “phi vụ” đặc biệt này anh đã quen và làm xiêu lòng cô em gái xinh đẹp của ông, tháp tùng trên chuyến bay.

    Trong bàn ăn, chúng tôi kể lại những chuyện vui buồn trong thời lính chiến ngày xưa. Anh Thục cho biết anh được tin máy bay anh Phạm văn Thặng lâm nạn tại Kontum vào lúc 5.30 giờ chiều ngày 26.5.72. Ngay sáng hôm sau Sư Đoàn 1 KQ cho một phi cơ A37 đưa anh từ Đà Nẵng vào phi trường Pleiku. Phi công của chiếc A37 này lại là người em cột chèo của anh, Thiếu Tá Trịnh Đức Tự (sau này đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Quế Sơn). Nhưng khi đến Pleiku, anh được cho biết tình hình ở Kontum rất nặng nề, chưa thể tìm được anh Thặng nhưng sự sống sót rất mong manh, không còn chút hy vọng nào. Thục đã bay trở lại Đà Nẵng trong ngày. Đến tối, anh được BTL/KQ cho biết là thi thể anh Thặng đã được đưa về Tử Sĩ Đường ở Tân Sơn Nhất.

    Khi anh cùng người anh cả vào nhận xác, thấy đầu anh Thặng không còn, nên quyết định cho tẩm liệm ngay, không muốn cho gia đình biết thêm điều đau đớn này Anh đã tột cùng xúc động khi quá thương tiếc người anh khả kính đã từng có với mình cả một trời kỷ niệm tuổi thơ, đặc biệt khi còn ở miền Bắc. Anh Thặng là người con thứ sáu và anh Thục là người con thứ tám của gia đình. Năm Thục vừa tròn 12 tuổi và anh Thặng 16, đã cùng gia đình di cư vào Nam, sống và lớn lên ở thành phố Huế. Không chỉ là anh em, hai người còn là đôi bạn thân thiết, cùng theo học trường Pellerin nổi tiếng do sự giúp đỡ tận tình của các Linh mục và Sư huynh, trước khi chia tay vào quân ngũ. Vài ngày trước khi hy sinh, như là điềm báo trước, anh Thặng gọi điện thoại về Đà Nẵng thăm anh và hỏi han khá nhiều về mọi người trong gia đình.

    Tôi kể lại hành động can trường của anh Thặng mà tôi đã được chứng kiến từ khi anh lên vùng cho đến lúc hy sinh, và người bạn tù Lôi Hổ của tôi kể lại việc lấy xác của anh sau khi lâm nạn. Anh Thục ngồi nghe và khóc sụt sùi. Trước khi chia tay, anh xin địa chỉ e-mail của bạn tôi, bảo sẽ báo tin này cho cô con gái lớn của anh Thặng, hiện định cư ở Đức để cháu cám ơn người đã giúp lấy xác ba cháu. Hai ngày sau, người bạn chuyển cho tôi bức điện thư với lời lẽ rất lễ phép, cảm động dễ thương của cháu Phạm Hồng Phương, con gái lớn của anh Thặng.

    Vào tối ngày 29.4, được thư mời của anh Thục, chúng tôi đến nhà hàng Paracell tham dự một Chương Trình Tưởng Niệm do cá nhân anh phối họp với người bạn thân, chiến hữu Đặng Thành Long, một cựu SQ Hải Quân, tổ chức. Anh đón chúng tôi trước cửa Nhà Hàng, nơi có bàn thờ nhiều vị Tướng Lãnh và Sĩ Quan VNCH đã hy sinh tại chiến trường hay tuẫn tiết trước giờ mất nước. Buổi Tưởng Niệm được tổ chức thật chu đáo, và nhiều ý nghĩa, trong không khí tôn nghiêm và cảm động. Tất cả tiền thu được dành hổ trợ những người đấu tranh trong nước đang bị tù đày khốn khổ. Cũng trong đêm nay, tôi được hân hạnh gặp bác sĩ Ngô Thế Khanh, một cựu y sĩ Không Quân tại Pleiku, một người lúc nào cũng trọn tấm lòng với anh em.

    Cái tình chiến hữu anh đã dành cho làm tôi cảm động. Tôi cũng được gặp một số các anh phi công khác. Tất cả đều có một thời oanh liệt, ngang dọc trên bầu trời quê hương và hào hùng trên đầu quân địch. Đêm nay cũng có người phi công mà tên anh có lẽ người cựu lính nào cũng biết. Bởi những bài ký sự chiến trường, mà ai đọc qua cũng phải ngưỡng mộ anh, không những cảm phục về tài bay bổng mà còn có một trí nhớ thật phi thường. Người hùng Vĩnh Hiếu, Lead gun của Phi Đoàn Thần Tượng 215. Phi Đoàn mà đơn vị tôi có nhiều gắn bó nhất, lúc còn hoạt động ở khu vực Sông Mao, và khi ấy người anh cả cuối cùng của Phi Đoàn, Trung Tá Khưu văn Phát còn là Đại úy Trưởng Phòng Hành Quân. Đêm nay, đã trải qua 35 năm dâu bể, nhưng Vĩnh Hiếu vẫn rất trẻ trung, với đôi mắt sáng, hàm râu mép hào hoa, nụ cười rạng rỡ, với những cái bắt tay thật chặt ân tình và những chuyện chiến trường, chuyện đồng đội sôi nổi dường như không muốn dứt. Như vậy đó, mà anh đã từng là một phi công trực thăng võ trang gan dạ hào hùng trên khắp chiến trường Vùng 2 khói lửa năm nào. Ngồi nói chuyện với anh, tôi thầm nghĩ, nếu bây giờ trở lại chiến trường, Thần Tượng Vĩnh Hiếu này cũng vẫn là một Lead Gun hào hùng(và hào hoa) như thuở trước.

    Qua anh Thục, hôm sau tôi liên lạc được một người bạn phi công anh hùng khác. Người mà tôi đã từng chứng kiến và ngưỡng mộ về tài năng và sự can đảm phi thường. Thiếu Tá Hàn văn Trung. Năm 1973, khi ấy Hàn văn Trung còn mang cấp bậc Đại Úy, giữ chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 235 Sơn Dương ở Pleiku.

    Hôm ấy, tôi nhận lệnh Đại Tá Bùi Hữu Khiêm, TMT Sư Đoàn 23BB, cùng bay trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235, để bốc khẩn cấp số thương binh, trong đó có Thiếu Tá Cang, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2/44 ra khỏi căn cứ Võ Định. Căn Cứ nằm phía Bắc Kontum khoảng 15 cây số, bên cạnh QL 14 trên đường đi Dakto, trên ngọn núi trọc, với một cao điểm có khả năng chế ngự các vùng chung quanh. Đặc biệt, ngay phía dưới là con sông Dak La. Bên kia sông trở về hướng Bắc là vùng địch chiếm từ cuối tháng 4/72, sau khi BTL/ SĐ 22BB tại Tân Cảnh bị tràn ngập và vị Tư Lệnh đã lẫm liệt hy sinh, vùi thân nơi chiến địa. Căn cứ này đã trải qua nhiều trận chiến, bao lần bỏ đi rồi chiếm lại, nên bây giờ chỉ còn là một ngọn đồi xám xịt, hoang tàn loang lổ dấu đạn bom.

    Thiếu Tá Nguyễn Hữu Cang, tốt nghiệp khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, nguyên là Sĩ Quan Nhảy Dù. Trong một cuộc hành quân trực thăng vận tại Đông Hà, anh bị thương nặng ở chân phải. Xụất viện, với một thanh sắt vĩnh viễn nằm trong cái chân khập khiễng, được lệnh thuyên chuyển ra khỏi Nhảy Dù về BTL/Quân Đoàn II, giữ một chức vụ tại Trung Tâm Hành Quân. Chỉ một thời gian ngắn, anh khẩn khoản xin ra đơn vị tác chiến, mặc dù Phòng Tổng Quản Trị từ chối vì tình trạng sức khỏe của anh. Anh tiếp tục xin vị Tư Lệnh, và cuối cùng được toại nguyện, bổ nhiệm về nắm Tiểu Đoàn 2/44, mà vị Trung Đoàn Trưởng trẻ tuổi thao lược, lại là người bạn cùng khóa: Trung Tá Ngô văn Xuân.

    Đầu năm 1973, vài ngày trước khi có Hiệp Định Paris (Ngưng Bắn Da Beo), Tổng Thống Thiệu ra lệnh các đơn vị cố gắng mở rộng tối đa vùng kiểm soát, đặc biệt chiếm lấy những vị trí quan trọng để cấm ngọn cờ chủ quyền. Tiểu Đoàn 2/44 nhận lệnh phải chiếm bằng được căn cứ Võ Định, cao điểm trọng yếu tận cùng phía Bắc Kontum.

    Với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ, hữu hiệu của Không Quân và Pháo Binh, Tiểu Đoàn 2/44 của Thiếu Tá Cang được trực thăng vận bất ngờ xuống ngay vùng địch, đánh một trận khá đẹp, nhanh chóng tiêu diệt lực lượng địch án ngữ phía dưới và dễ dàng chiếm lĩnh căn cứ trên ngọn đồi Võ Định. BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội CHYT và một Đại Đội tác chiến trách nhiệm phòng thủ căn cứ. Các Đại Đội còn lại bung ra hoạt động các vùng lân cận. Một toán Công Binh được thả xuống ngay sau đó để tu sửa lại hệ thống phòng thủ, nhất là vị trí dành cho một trung đội pháo binh 105 ly sẽ được thả xuống nay mai. Ngày N+1 tình hình hoàn toàn yên tĩnh, nhưng sáng sớm hôm sau, pháo địch từ bên kia sông thi nhau ập xuống. Địch đã có sẵn các yếu tố tác xạ và sử dụng tối đa các loại pháo, liên tục và chính xác. Những công sự phòng thủ chưa kịp tu bổ xong đã bị phá hủy. Thiếu tá Cang và một số sĩ quan và binh sĩ bị thương, kể cả anh Sĩ Quan trưởng toán Công Binh.

    Ngày hôm sau, tình hình trở lại yên tĩnh trong không khí căn thẳng nặng nề. Sau khi Sao Mai 09, (phi cơ quan sát L-19) hướng dẫn hai phi tuần đánh bom vào các điểm nghi ngờ vị trí đặt pháo của địch, hai chiêc trực thăng tản thương, được yểm trợ bởi các gunships, đáp xuống căn cứ để bốc thương binh. Riêng Thiếu Tá Cang tình nguyện ở lại cùng đơn vị. Nhưng khi chiếc thứ nhất vừa đáp, hằng loạt pháo địch lại thi nhau rót xuống. May mắn chỉ có người co-pilot bị thương nhẹ, nhưng máy bay bị trúng đạn, không cất cánh được. Chiếc thứ nhì quyết không bỏ đồng đội, đáp xuống bốc phi hành đoàn trong tiếng nổ và khói lửa mù trời của pháo địch.

    Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, BTL Sư Đoàn quyết định rời bỏ căn cứ Võ Định để tránh tổn thất do trận địa pháo của địch. Tiểu Đoàn 2/44 rút về Căn Cứ Eo Gió, nằm phía Nam Võ Định khoảng bốn cây số. Nhưng phải giải quyết số thương vong và anh Tiểu Đoàn Trưởng không thể di chuyển theo đoàn quân bộ chiến được. Tôi được vị Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn giao cho trách nhiệm tháp tùng trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235 thi hành nhiệm vụ khá gay go nhưng rất khẩn cấp này.

    Đến bãi đáp B15, tôi gặp người chị huy hợp đoàn trực thăng hôm ấy. Rất vui mừng khi gặp lại Đại Úy Hàn văn Trung, Trưởng Phòng Hành Quân Phi Đoàn 235. Tôi đã từng bay đổ quân với anh vài lần, thích bản tính vui vẻ và thầm thán phục về khả năng chỉ huy và bay bổng của anh. Sau khi nghe tôi trình bày tình hình và mục tiêu, cũng như lời dăn dò của vị TMT /SĐ, Đại Úy Trung gọi các phi công lại để bàn kế hoạch. Tôi lên chiêc C&C do Trung điều khiển, cất cánh trước cùng với hai trực thăng võ trang. Sau một vòng bay để quan sát kỹ lưỡng địa thế, anh Trung bay vòng lại và gọi tất cả phi cơ còn lại lên vùng. Tôi thấy anh cho một số phi cơ bay tản ra nhằm đánh lạc hướng địch, để hai trực thăng khác bất ngờ đáp xuống căn cứ. Nhưng không tránh được sự quan sát của địch. Chiếc trực thăng vừa can đảm xuống thấp và lấy hướng an toàn bay vào, thì pháo địch đã nổ ngay trên bãi đáp. Đại Úy Trung cùng hai trực thăng võ trang liền xuống thấp yểm trợ, và cùng lúc ra lệnh cho chiếc trực thăng này bay ra theo hướng an toàn nhất, chiếc thứ hai bay từ hướng khác tìm cách bất ngờ xuống bãi đáp. Nhưng pháo địch tiếp tục ập xuống. Nhìn chiếc trực thăng bay lên từ trong một vùng khói lửa, chúng tôi ai cũng căng thẳng, hồi họp lo âu. Đại úy Trung ra lệnh cho cả hợp đoàn bay về Kontum lấy xăng.

    Sau gần một giờ nghỉ ngơi và nghiên cứu một kế hoạch khác, Đại úy Trung gọi các phi công lại, thảo luận kế hoạch và phân chia nhiệm vụ. Lần này anh sẽ đích thân lái chiếc C&C đáp xuống bốc thương binh. Dường như Trung vừa mới quyết định một điều bất thường, ngoại lệ, nên tất cả mọi người đều tròn mắt nhìn anh ái ngại. Anh nổ máy, đích thân điều khiển phi cơ. Anh bay thật thấp dọc theo con suối chảy dài phía bên trái quốc lộ 14, trong khi hai gunships bay hai bên và tác xạ trước vào các điểm nghi ngờ. Hơp đoàn còn lại bay theo phía sau xa. Anh bay thấp đến nỗi các hàng lau sậy nằm rạp xuống ngay dưới bụng máy bay, nước dưới suối bắn tung lên. Đã từng rất nhiều lần ngồi trên trực thăng, nhưng chưa bao giờ tôi bị “bay” rất nhanh với một độ thấp như thế. Mấy lần tôi suýt thét lên, khi chợt thấy phía trước là một cây cao hay một tảng đá, nhưng anh đã tài tình lách qua tránh khỏi. Tôi có cảm tưởng chiếc trực thăng như là một món đồ chơi nhỏ bé trong tay anh.

    Con suối khá dài, dẫn tới triền đồi Võ Định. Anh Trung tiếp tục bay sát theo ngọn đồi. Tôi có cảm giác như chiếc trực thăng đang bò lên căn cứ. Địch quân không hề hay biết. Nhưng khi anh bất ngờ đáp xuống, bụi mù bốc lên, địch mới phát hiện và pháo bắt đầu nổ. Cát, sạn, và có thể có cả mảnh đạn nữa, bay rào rào vào thân và kiếng phi cơ. Nắm chặt khẩu M-18, tôi chưa biết xử trí thế nào, thì thấy anh Trung bảo người co-pilot giữ cần lái, rồi mở cửa máy bay nhảy xuống. Tôi nhảy theo anh, chạy về hướng hầm chỉ huy đốc thúc, phụ lực khiêng và dìu thương binh ra phi cơ. Thương binh khá đông, có tới trên 10 người. Thiếu Tá Cang nhìn chúng tôi lo lắng, nhưng đại úy Trung rất bình tĩnh ra dấu cho tất cả lên máy bay. Đạn pháo vẫn tiếp tục rót xuống, một vài thương binh lại bị thêm ít mảnh đạn. Trung là người cuối cùng bước lên tàu khi anh co-pilot điều khiển cho phi cơ quay đầu lại và bay nhanh xuống đồi.

    Đáp xuống bãi đáp B-15. nhìn thấy trên thân và kiếng phi cơ lỗ chỗ nhiều vết đạn, Thiếu Tá Cang và tôi đã ôm chầm lấy Trung và người co-pilot. Giọt nước mắt biết ơn và cảm phục đã lăn xuống gò má của tất cả những người lính bộ binh vừa được Trung và phi hành đoàn bốc ra từ cõi chết.

    Trở về Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn ở căn cứ B-12, tôi gặp hai ông Đại tá Tư Lệnh Phó và TMT Sư Đoàn. Kể lại phi vụ đặc biệt của Phi Đoàn 235, tôi hết lời ngợi ca và xin đề nghị tưởng thưởng cho đại úy Trung một Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, và các anh còn lại của phi hành đoàn mỗi người một ngôi sao vàng. Hai ông đại tá hứa sẽ làm theo đề nghị của tôi( Nhưng không biết sau này kết quả ra sao). Một vị Trung tá KQ ngồi cạnh anh Sĩ Quan Không Trợ, mà khi vừa mới bước vào tôi không để ý, quay sang nhìn tôi cười:

    - Tay Trung này thì có tài và liều lĩnh lắm, nhưng cũng là một tay coi trời bằng vung. Nó đùa giỡn với chiếc máy bay như là một món đồ chơi. Thích biểu diễn kiểu nào là nó làm ngay, và dù có bị “ký củ” hơi nhiều, vẫn cứ cười tỉnh bơ. Vì vậy nên có thừa tài năng và can đảm, nắm Trưởng Phòng Hành Quân mà vẫn chưa mang Thiếu tá được!

    Tôi không còn nhớ rõ là đó là Trung Tá Quang hay Trung Tá Vĩnh Quốc. Nhưng tất cả mọi người trong TTHQ đều cười và thán phục. Sau này Thiếu Tá Cang nhận Trung là người anh em kết nghĩa. Sau một cuộc hành quân trở về, hai chàng lại gặp nhau, bù khú ngay trong căn cứ dã chiến của Tiểu Đoàn. Mùa hè 2010, gặp lại anh Cang trong Buổi Họp Mặt Khóa 17 VBĐL tôi báo cho anh biết là tôi vừa nói chuyện với Hàn Văn Trung trong điện thoại. Mắt anh Cang sáng lên. Mừng như sắp được gặp lại người tri kỹ.

    Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lHCMng. Địch quân khiếp sợ. Không có chiến tích nào mà thiếu sự tham dự của các chàng trai hào hoa ấy. Với những người lính bộ binh như chúng tôi, các Bạn luôn là những cứu tinh, là niềm hy vọng khi đơn vị bị lâm nguy, hay gặp khó khăn trên con đường tiến quân vào vùng địch. Các Bạn cũng là ân nhân của bao nhiêu thương binh và gia đình tử sĩ. Không có sự can trường, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy của các Bạn, có biết bao chiến binh đã phãi vĩnh viễn nằm lại tại chiến trường, ở một vùng núi rừng lạnh lùng vô danh nào đó. Tôi đã từng theo dõi những phi vụ tản thương của Phi Đoàn 243 Mãnh Sư, từ căn cứ Phù Cát đã phải bay lên Cao Nguyên trong những đêm khuya gió mưa tầm tã. Có chiếc lạc vào những đám sương mù dày đặc, và rớt trên đỉnh núi cùng với số thương binh của chính đơn vị tôi vừa mới được bốc lên. Tôi đã đứng nghiêm trong TTHQ để đưa tay chào vĩnh biệt!

    Các Bạn đúng là những cánh én đã từng mang lại bao mùa Xuân cho đồng đội, cho quê nhà. Những cánh én ấy, giờ đây, dù đã phải trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã, dù tan tác chia lìa khắp muôn phương, nhưng vẫn luôn khát khao vẫy vùng trên bầu trời xưa cũ. Tiếc rằng, chúng ta đã phải trải qua một mùa Đông quá dài. Dài hơn cả đoạn đời đẹp đẽ nhất, khi các Bạn còn bay bổng trong bầu trời xanh, trong lửa đạn, mà vẫn vui đùa trước lằn ranh sống-chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.
    Mãi mãi các Bạn vẫn là những cánh én hào hùng. Cho dù những cánh én ấy đang phải ẩn mình để chờ đợi một mùa Xuân.

    Phạm Tín An Ninh

  9. #79
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Những Cánh Én Giữa Mùa Đông
    Phạm Tín An Ninh


    Hải Việt lại nói thêm một chút về Đại Úy Phạm Vương Thục, anh là Trưởng Phòng Hành Quân của một phi đoàn trực thăng thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân. Sau ngày bào huynh của anh là Trung Tá Phạm Văn Thặng bị bắn rớt máy bay trong phi vụ hành quân, vì anh là con trai còn lại trong gia đình nên được Bộ Tư Lệnh Không Quân cứu xét đưa về làm việc tại BTL để tránh những ngày tháng chiến tranh đang nóng bỏng tại Vùng I Chiến Thuật, tự nhiên lại nghĩ đến phim Saving Private Ryan cũng có 3 anh em trai chết trong trận chiến World War II chỉ còn lại người em út đang chiến đấu ngoài mặt trận nên cấp trên muốn cứu anh Ryan để đưa về đoàn tụ với gia đình.








    Thời World War II giống như Chiến Tranh Việt Nam 1968 còn xài súng Garand M1 dài mà nặng với 8 viên nạp đạn, Carbin M1 bắn từng viên mãi sau này mới có Carbin M2 bắn tự động và M16, đặc biệt ông đại úy Miller được khẩu súng tự động Thompson với băng đạn 30 viên

    Nhìn cảnh bà mẹ của anh em nhà Ryan gục người xuống vì được tin 3 đứa con mình cùng tử trận, ôi có ai chia sẻ được nỗi đau tột cùng của cha mẹ, vợ con người lính trong hoàn cảnh đầy bi thảm mà bao nhiêu thanh niên Việt Nam 2 miền Nam Bắc đã hy sinh trong suốt cuộc chiến.








  10. #80
    Biệt Thự
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,854
    Anh Hải Việt và quý khách,
    Có bài viết về NT Phạm Vương Thục và Trần Lê Tiến để tưởng nhớ và thương tiếc.

    https://dongsongcu.wordpress.com/2017/05/22/ky-niem-voi-2-nien-truong-tran-le-tien-va-pham-vuong-thuc/

 

 

Similar Threads

  1. Mỗi trang là một bài thơ
    By sôngthương in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 2
    Last Post: 01-26-2016, 10:32 PM
  2. sang trang
    By n.c in forum Tùy Bút
    Replies: 5
    Last Post: 10-19-2014, 08:39 AM
  3. xin cho hỏi về trang...
    By visabelle in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 2
    Last Post: 04-04-2013, 01:34 AM
  4. Tỉa trái cây trang trí
    By lolem in forum Gia Chánh
    Replies: 1
    Last Post: 02-16-2013, 08:59 PM
  5. Sang trang
    By Hill in forum Không Gian Riêng
    Replies: 5
    Last Post: 06-03-2012, 03:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 11:04 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh