Register
Page 2 of 92 FirstFirst 12341252 ... LastLast
Results 11 to 20 of 920
  1. #11
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Lính Mủ Đỏ...bis

    Mời mọi người ghé đọc và để cảm nhận
    nước mắt đang tuôn về...buồng tim


    Trong "Truyện ngắn sưu tầm "
    Việt Hạo Nhiên
    trang 2 bài số 20


    https://dtphorum.com/pr4/showthread....l=1#post194705


    __Máu Lửa CHARLIE.......
    (Tác Giả: Thiếu Tá Nhảy Dù QLVNCH Đoàn Phương Hải)


    Phù hiệu
    Binh chủng Nhảy Dù
    QLVNCH

    ( Hình sưu tầm )



    TB:

    Vì phù hiệu Nhảy Dù tìm trên NET có nhiều màu khác nhau (trên cánh dù)
    nên xin các anh Mủ đỏ nếu thấy sai xin nhắc dùm, tui sẽ sữa cho đúng.
    Cám ơn.

    Cám ơn anh hoaivong đã nhắc, tui vừa đổi lại phù hiệu BCND
    (cánh dù màu xanh dương)


    …..

    Tết và Lính



    Các Binh chủng QLVNCH chúc Tết


    Ảnh Sưu tầm
    *Thiệp chúc Tết Xuân Mậu Thân 1968 – Binh chủng Biệt động quân:









    Bún Bò Huế – Trần Kiêm Đoàn

    August 21, 2020 by dongsongcu
    Trần Kiêm Đoàn


    Mạn đàm về “BÚN”
    Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch).
    Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế… mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương… Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.
    Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là “mình cảm thấy…” mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa…
    Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas. Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.
    Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên…” là đẹp nhất.
    Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.
    Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu nămcủa mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.
    Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm.. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.
    Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.
    Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.
    Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh… nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.
    Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:
    Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền… nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại… Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.
    Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc.
    Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.
    Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất.
    Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.
    Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.
    Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang… có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc.
    Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.
    Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.
    Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo.
    Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.
    Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc… Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò… và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.
    Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị… đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas.
    Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ân năn:
    – Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!
    Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:
    – Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!
    Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh… tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.
    Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, “bún bò Mụ Rớt”.

    “Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.
    Chừ ri hỉ…!
    Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.
    Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ… Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang “mả ông trạng” sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối “hữu xạ tự nhiên hương”, không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.
    Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:
    – Mấy o, mấy cậu thời bún chi?
    Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:
    – Dạ, cho mấy tô bún nước.
    Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.
    Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.
    Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng “gia vị bún bò bắc đẩu”, nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!
    Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen… là những biểu hiện thường tình trước tô bún.
    Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm… đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.
    Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.
    Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ… Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.
    Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.
    Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.
    Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.
    Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.
    Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.
    Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.
    Ngoài ra, rau hành, gia vị… thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn… mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.
    Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”.
    Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX – 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Chicken Fried của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu… đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

    Những huyền thoại quanh tô Bún Bò Huế
    Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh.
    Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu “càng cua”, cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.
    Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:
    – O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng…
    Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.
    Một lát sau o mới hỏi:
    – Ai ăn rứa?
    Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:
    – Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.
    Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:
    – Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!
    Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”… bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:
    – May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!
    Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.
    Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ… làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.
    Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:
    – Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!
    Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:
    – Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.
    Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.
    Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:
    – Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt.
    Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi… suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh… Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.
    Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần.
    Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.
    Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là “Đường Cơm Hến” và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là “Đại Lộ Bún Bò” vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ… Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.
    Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây “sên”, trong “ổ líp”. Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp… đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.
    Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe.. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
    – Ngó dữ chưa tề, dị chết!
    Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
    – Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!
    Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:
    – Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.
    Cái “ớn phát sợ” của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một “múi đũa” ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!
    Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng “thương con đường đi học”.. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới “xui” về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d’Arc để chuẩn bị đi Tây.
    Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: “Partir, c’est mourir un peu!… Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!”. Tôi là học trò ban B (Toán – Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.
    Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:
    Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương
    Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não
    Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão
    Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ…

    Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.
    Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh “thương bắt chết” vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món “bún bò Huế chính gốc”. Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:
    – Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!
    Tôi cười cười nhắc lại:
    -Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?
    Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư “nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm” và ánh lên màu kỷ niệm:
    – Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!
    Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:
    – Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!
    Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:
    – Thơ của ai rứa Hoàng?
    Hoàng trả lời “mần đày”:
    -Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!
    Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.
    Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.
    Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật… Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.
    Trần Kiêm Đoàn
    Nguồn: https://www.tvvn.org/bun-bo-hue-tran-kiem-doan/



    Nhìn ‘Bún Bò Huế’ Qua Khía Cạnh Dinh-Dưỡng

    September 1, 2020
    DS Trần Việt Hưng

    Ảnh minh họa của huehomestay.net
    Với người Việt tha phương, ra đi những vẫn nhớ đem theo quê-hương, nhất là những món ăn đặc biệt đã trở thành nổi tiếng tại khắp nơi trên thế giới.. như Phở, Chả giò.. Một món ăn khác, tuy chưa phổ biến bằng Phở, cũng có mặt trong thực-đơn của hầu hết các.tiệm ăn Việt Nam tại Hoa Kỳ ,..là Bún bò Huế..
    Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã viết một bài rất thú vị về Bún Bò Huế(1) mà trong phần kết luận Ông đã ghi lại như sau :’Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế, nấu bằng heo Mỹ, bò Anh (lúc chưa có bệnh Mad cow disease ), ruốc Tàu, bún Nhật..Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi ‘Bún bò Huế’, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại..
    Bún bò Huế, cứ như theo tên gọi, thì chỉ là Bún với thịt bò nấu theo kiểu Huế ! nhưng thật ra không đơn giản như..tên gọi ! vì trong tô Bún bò Huế.. bắt buộc phải có thêm thịt heo ! do đó khi muốn mô tả món ăn này cho người Hoa Kỳ, tô bún bò Huế đã được dịch thành ‘ Hue soup with Pork and Beef ‘.. vì đây là loại bún nước..chứ không phải bún khô như bún bò..xào.. Ngoài ra Bún bò Huế cũng không thể được hiểu là Bún với bò Huế theo kiểu như bún với Bò Omaha (Omaha Steak) vì Huế không có..bò (?) ..Tại Nam Việt Nam vùng nuôi bò..nổi tiếng lại là Nha Trang (Khánh Hòa)..
    Cứ theo Ông T K Đoàn thì Tô Bún bò Huế là một ‘biểu hiện của văn hóa Huế’, và vì người viết..không phải là người Huế nên không dám lạm bàn nhưng cũng có thể đồng ý với ở chỗ Ông cho rằng ‘Huế có..truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẫn..bò nấu thi teo, heo nấu thì nở.. thành một thể hài hòa ‘..
    Bún bò Huế, nguyên gốc(?) (original) tại ..Huế thì phải nấu với bún Vân Cù, cách Huế khoảng 10 cây số về phía Tây Bắc, Thịt bò phải là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với ‘mầu’. Thịt heo là một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Heo là giống heo cỏ, và giò là giò sau (Nãu giò sau, cho nhau giò trước..)
    Nước chan bún hay nước ‘lèo’ được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi..và thêm những gia vị quan trọng nhất là Sả tạo mùi hương, Ruốc tạo vị..mà công thức là những ‘bí quyết’.. quyết định ‘phẩm chất’ của tô bún.. Và với người Huế ‘chính gốc’ thì câu hỏi : ‘thế nào mới thật là bún bò Huế ? và bún bò ở ‘mô’ tại Huế ngon nhất?’..câu trả lời..chắc chắn sẽ là ‘Bún bò..Mụ Rớt ‘! .. và đây là một tiệm ăn, không bảng hiệu, không quảng cáo ..nằm trên đường Chi Lăng, dẫn về Gia Hội, trước khi đến đường Ngự Viên..
    Theo thời gian và có lẽ nhất là không gian..Bún bò Huế chỉ còn là một cái tên chung nhưng phẩm chất, mùi vị, và..’công thức’ đã hoàn toàn khác nhau : Ngay tại Huế,tô ‘bún bò Huế’ của An Hòa đã khác với An cựu vì có thể sẽ có thêm..miếng huyết, miếng chả..

    Ảnh minh họa của thebestvietnamesefood.
    Nhưng Bún bò Huế..khi ra khỏi Huế và tiến về phương Nam, chỉ cần vượt qua Đèo Hải Vân là đã đổi khác hẳn. Tại Đà Nẵng..quán Bún bò nổi tiếng trên đường Thống Nhất , gần Nhà Thờ Chánh Tòa..cũng mang tên..gần như ‘Mụ Rớt’..là ‘Bún bò O Rớt’.. Tô bún trở thành lớn hơn, nhiều thịt, gân và..nhiều mỡ hơn ; thịt heo đâu còn là heo cỏ nữa, mà là heo Yorshire lai tạo..Heo Thuộc Nhiêu của thời Quốc Gia Nông Tín, Hiệp Hội Nông Dân..! Khi đến Sàigòn..thì vẫn theo Ông TK Đoàn..tô bún bò Huế đã trở thành..tô ‘Phở Bún’! Thật ra tại Saigon, trước 1975 cũng có những tiệm chuyên bán Bún bò Huế nổi danh như Ngự Bình ở đường Cao Thắng và Hương Bình ở Phan Thanh Giản.. dĩ nhiên là ..tô bún thật lớn với thịt mỡ..chả Huế..và còn có thêm cả giá sống nữa! Tiệm bún bò Huế bình dân ở đường Trần quang Diệu, không cần quảng cáo nhưng ngày nào cũng chỉ cần bán từ 3 giờ chiều đến 6 giờ tối..là hết sạch.. Các biến thể theo kiểu ‘tự biên tự diễn’ này khiến Bún bò Huế ngày nay trở thành..thật xa lạ..với ngườI Huế chính gốc (?) Ngay như Nhà chuyên khảo món ăn Miền Trung, Ông Đinh Miện , khi bàn về Bún bò Huế tại Hoa Kỳ đã viết : ‘Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng‘ (Cơm Việt, Quê Người)
    Trên ‘Quê hương ‘ mới Hoa Kỳ này, Bún bò Huế..dĩ nhiên là ..mỗi Tiểu bang..một khác.. và ngay ở Cali thì bún bò Huế Little Saigon đã không giống với San José và đương nhiên ..khác xa Portland (Oregon) Tiêu chuẩn chắc chắn..chưa được FDA công nhận (!), nên khi nhìn Bún bò Huế qua khía cạnh dinh dưỡng thì đành phải dựa trên những sách nấu ăn Hoa Kỳ (tuy viết bằng tiếng Anh để ..cho người Mỹ đọc) ..
    Công thức của Bún bò Huế hay Hue soup with pork and beef được trích từ Simple Art of Vietnamese Cooking của các tác giả Binh Duong và Marcia Kiesel (Prentice Hall Press-1991)
    Công thức như sau : Dành cho 6 đến 8 người ăn
    – 1 pound 1/2 thịt heo nạc từ vai, lưng, mông..
    – 2 củ cà rốt lớn
    – 3 tép sả
    – 1 pound thịt bò bắp
    – Các gia vị như muối (1 thìa canh), dầu (2-3 thìa canh), hạt anatto,ớt bt
    – 1 củ hành to
    – 1/2 thìa cà phê mắm ruốc
    – 3 thìa canh nước mắm
    – 1 pound bún
    – Rau, gíá..tùy ý người ăn.

    Ảnh minh họa của res.cloudinary.com
    Để có thể tính ra số lượng Calories, chúng ta nên xét đến 3 thành phần chính : Bún, Thịt heo và Thịt bò :
    — Bún : Bún được làm từ gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm, sau đó được xay hay giã nhuyễn thành bột. Bột gạo được rây để lấy phần tinh chất, rồi tưới nước sôi để nhồi thành khối. Khối này được nấu sơ rồi trộn thêm bột mì tinh (hay bột lọc) theo tỷ lệ 20% để giúp tạo để dẻo và dai. Trộn đều và sau đó ép qua khuôn bún để sợi rơi xuống nồi nước sôi.. tạo thành bún. Tỷ lệ thông thường 1 kg gạo làm được 3 kg bún. Bún được chế tạo thành nhiều hình thức : Bún con, bún lá và Bún mớ.. Tại Hoa Kỳ..khó có thể tìm được..bún tươi chế biến theo phương pháp kể trên, đành phải dùng..bún khô, bún gói của Thái Lan, Trung Hoa…được bán tại các chợ dưới tên Rice vermicelli .
    Thành phần dinh dưỡng của gạo (trắng) :
    100g Gạo chứa : – Chất đạm : 6.7 gram
    – Carbohydrates : 80.4 gram
    – Calories : 362
    – Chất béo : 0.6 gram
    Tuy nhiên, nếu tính theo ‘Rice vermicelli’ mỗi gói 16 oz dùng cho 4 tô bún (servings) thì :
    4 oz ‘bún khô’ cho mỗi tô bún sẽ cung cấp 408 calories trong đó 10 calories từ chất béo ; 4 oz bún khô này chứa 92 gram Carbohydrate, 7.4 gram Chất đạm.
    — Giò heo :
    Như đã trình bày, giò heo trong Bún bò Huế là thường là giò sau, ít mỡ nhưng tại Hoa Kỳ sự lựa chọn này không phải lúc nào cũng theo tiêu chuẩn, và giò heo nhiều khi được thay thế bằng khoanh thịt đùi, do đó nếu tính trung bình thì mỗi tô sẽ chứa khoảng 150 gram giò heo (pig’s feet)
    Thành phần dinh dưỡng sẽ là :
    – Calories : 450
    – Chất béo : 28 gram
    gồm Chất béo bão hòa : 9.4 gram, Chất béo mono-unsaturated 11 gram, Chất béo poly-unsaturated 3 gram
    – Cholesterol : 190 mg
    – Sodium : 570 mg
    – Chất đạm : 25 gram
    Nếu tô bún bò Huế dùng..thịt ba chỉ thay vì giò heo thì lượng mỡ béo sẽ cao hơn, có thể lên đến 40 gram và Cholesterol cũng sẽ cao hơn : 230-250 mg.
    – Thịt bò :
    Thành phần thịt bò cũng thay đổi tùy theo địa phương, tuy tiêu chuẩn là bò bắp có cả gân lẫn thịt và viền mỡ dòn nhưng cũng có nơi dùng bò nạm, bò..gầu.. Mỗi tô chứa trung bình 100 gram thịt bò với thành phần dinh dưỡng như sau :
    – Calories : 206
    – Chất béo : 13 gram
    gồm : Chất béo bão hòa : 5 gram
    Chất béo mono-unsaturated 7 gram
    poly-unsaturated 0.5 gram
    Cholesterol : 79-100 mg
    – Sodium : 100 mg
    – Chất đạm : 25. 3 gram
    — Các phụ gia :
    Ngoài 3 thành phần trên.. Bún bò Huế dĩ nhiên phải cần đến nước lèo.. hay nước bún , được hầm từ xương heo, bò gà.. và thêm các gia vị kể cả ớt dầu… Nước bún cũng cung cấp một số lượng calories đáng kể, trung bình từ 200-300 calories, từ 20 đến 40 gram chất béo (tùy lượng dầu thêm vào) và khoảng 50 đến 60 mg cholesterol…
    Tóm lại : tính trung bình Một tô Bún bò Huế tại Hoa Kỳ có thể cung cấp từ 1000 đến 1200 calories, cùng với lượng chất béo từ 60-90 gram và Cholesterol từ 250-320 mg..
    Theo những kết quả trên thì Bún bò Huế không phải là một món ăn thích hợp với những người mắc bệnh tim mạch, cao cholesterol..hoặc những người cần giới hạn lượng calories. Tuy nhiên nếu thích ăn Bún bò Huế chúng ta có thể giới hạn bớt chất béo bằng cách bỏ bớt lớp mỡ quanh thịt heo, tránh bò nạm và nhất là mỡ gầu.. Nên ăn thêm rau, bông chuối, bắp cải sắt mỏng và tránh thêm ớt dầu nếu được..
    Cũng như bài viết trước đây về ‘Phở’..người viết không dám đề nghị quý vị..đừng ăn ‘Bún bò Huế’.. vì ‘..đã ăn Bún bò Huế thì chớ sợ chết vì Cholesterol ?’ vì Cholesterol là chuyện của Mẽo (?)..và nhất ẩm nhất trác..giai do tiền định !, nhưng nếu quý vị cứ nhìn quanh những người bị stroke vì cholesterol.. thì cũng nên..giới hạn..Bún bò Huế?
    DS Trần Việt Hưng 6/2001
    ______________________________
    Ghi chú : Các trị số dinh dưỡng được trích từ Geigy Scientific Tables (8th Edition) và Prevention Magazine’s Nutrition Advisor.
    (1) Chuyện Khảo về Huế – Bún bò
    Nguồn: http://www.trankiemdoan.net/thanhuu/...dinhduong.html
















    Quote Originally Posted by Triển View Post



    Quote Originally Posted by Triển View Post

    Cái cô Quành Quành này làm mình có hứng hát nhạc lính nhe....

    .


    Last edited by cuocsi; 01-08-2024 at 02:17 PM. Reason: thêm hình

  2. #12
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Quote Originally Posted by cuocsi View Post


    TB:

    Vì phù hiệu Nhảy Dù tìm trên NET có nhiều màu khác nhau (trên cánh dù)
    nên xin các anh Mủ đỏ nếu thấy sai xin nhắc dùm, tui sẽ sữa cho đúng.
    Cám ơn.



    Anh vào nhaydu.com sẽ thấy màu sắc đúng .

  3. #13
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Anh cuocsi , vậy là các con cọp nhận xong thiệp tết thì bỏ trong ba lô , vi xi nó đánh tứ tung , thời gian đâu mà gửi cho em gái hậu phương

  4. #14
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Tqlc

    Quote Originally Posted by hoài vọng View Post
    Anh cuocsi , vậy là các con cọp nhận xong thiệp tết thì bỏ trong ba lô , vi xi nó đánh tứ tung , thời gian đâu mà gửi cho em gái hậu phương
    Đúng vậy anh Hoài ơi,
    Thời điểm đó thì một lá thơ thường cũng hai ba tháng mới tới tay lính,
    thiệp Chúc Tết như vậy chắc chỉ có đám hậu cứ, văn phòng mới có. Tụi tui thì ...còn khuya !
    Tiện đây dán cái thiệp của Thuỷ Quân Lục Chiến ( TQLC ) trước rồi mới tới cánh Dù ôm gió sau nghen.


    *Thiệp chúc Tết –

    Tiểu đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến:






    *Thiệp chúc Tết Xuân Mậu Thân 1968

    Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến:












  5. #15
    Mãi tới hôm nay mới ghé thăm nhà anh cuocsi .

    Được anh nhắc lại một thời binh lửa trên quê hương bỗng cảm thấy như đang trở về cùng với biết bao kỷ niệm .

    O Mưa cũng có người yêu là lính , lại là chàng lính hào hoa của bình chủng KQ ngày nào .

    Tết đã qua nhưng ngày tháng trước mắt còn rất mới, xin chúc anh thật nhiều sức khỏe và nhiều niềm vui .




    https://app.box.com/s/z18l40teodv5yn0djxvw


    Nếu em không là người yêu của lính
    Em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh
    Em sẽ nhớ ai đêm sương lạnh lùng
    Và giữa chốn muôn trùng
    Ai viết tên em lên tay súng.
    Nếu em không là người yêu của lính
    Ai sẽ nhớ em chiều dừng hành quân
    Ai khẽ nhắc tên em muôn nghìn lần
    Để thấy cánh sao gần
    Không đẹp bằng hồ mắt giai nhân
    ĐK:
    Hỡi người em gái Gia Long ơi
    Hỡi người em chốn xa xôi
    Áo trinh thơm mùi giấy
    Có khi anh ngỡ là mình quen nhau từ kiếp trước
    Đến bây giờ mơ ước tròn tơ duyên
    Để má em thêm hồng
    Nếu em không là người yêu của lính
    Ai đem cánh hoa rừng về tặng em
    Ai băng gió sương cho em đợi chờ
    Và những lúc anh về
    Ai kể chuyện đời lính em nghe
    Hỡi người em gái Gia Long ơi
    Hỡi người em gái chốn xa xôi
    Áo trinh thơm mùi giấy
    Nhớ hôm em về
    Đường chiều nghiêng nghiêng cầu sắt đó
    Khiến cho lòng anh thấy nhiều lo âu
    Anh sợ má em phai màu
    Nếu em không là người yêu của lính
    Ai đem cánh hoa rừng về tặng em
    Ai băng gió sương cho em đợi chờ
    Và những lúc anh về
    Ai kể chuyện đời lính em nghe
    Last edited by MưaPhốNúi_; 01-31-2017 at 01:25 PM.

  6. #16
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Hởi người yêu Lính...



    Ai kể chuyện đời lính em nghe

    Nếu em không là người yêu của lính
    Ai đem cánh hoa rừng về tặng em
    Ai băng gió sương cho em đợi chờ
    Và những lúc anh về
    Ai kể chuyện đời lính em nghe



    Cám ơn Mưa còn nhớ lính...

    Một thời binh lửa

    Chuyện đời lính hay chi mà kể
    Xá gì những mảnh vụn đời trai
    Một thời binh lửa tan sông núi
    Thân trai chỉ là hạt bụi thôi
    Ai kia còn nhớ chuyện tình củ
    Xin hãy buông trôi câu hẹn thề
    Lính là dư âm còn ai nhắc
    Hay chỉ hương trầm Tổ quốc ghi



    cuocsi 2017-02-04



  7. #17
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Tết Mậu Thân 1968

    Thân chào anh chị và các bạn,
    Ngày đầu tuần với nắng ấm tuy ít ỏi nhưng cũng đem lại chút yêu đời sau những ngày mưa gió, mây mù che kín.
    Trong tinh thần chia sẻ để học, hiểu, Khoa xin được Hân hạnh gởi đến tất cả anh chị em và các bạn tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, một biên soạn khá đầy đủ của anh Xuyến (ký tên dưới bài).
    Trong chúng ta, ai là người hay gia đình mà không có sự liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp tới các Chiến sĩ Sĩ quan QLVNCH ? Có thể trong chúng ta lại có bạn chính là con em của các danh tướng, hay là các chiến sĩ đã hy sinh trận mạc, có bạn cũng đã từng là sĩ quan trong các quân binh chủng Hải, Lục, Không quân, Thiết giáp, Công binh, Quân cụ, Tiếp vận hay Quân y v.v...
    Mong các anh chị và các bạn đón nhận tài liệu để tham khảo và cũng là một hình thức tri ân cho các CHIẾN SĨ, những người đã một thời “Da ngựa bọc thây”, hy sinh xương máu cho nhiều người được sống trong Tự Do no ấm của miền Nam Việt Nam trước 1975 và còn tạo ra những hậu duệ sáng chói trên mọi bình diện trong nước và Hải ngoại.
    Mời đọc và chuyển tiếp.
    Thân mến.
    Khoa


    TB: Nếu có thể được thì xin các anh chị và các bạn đóng góp thêm phần hiểu biết của mỗi người để làm cho trang Quân sử thêm giàu đẹp.

    TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.

    ************************************************** *************

    * Phần Thứ Nhất : TỔNG QUÁT.
    - Thành lập tại Đập Đá, Huế năm 1948 với danh xưng " TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM " ( còn thường được gọi thêm với tên là Trường Sĩ Quan Đập Đá, Huế ), có nhiệm vụ đào tạo các SĨ QUAN HIỆN DỊCH ra trường với cấp bậc THIẾU ÚY HIỆN DỊCH và đảm nhận chức vụ TRUNG ĐỘI TRƯỞNG trong các ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI.
    - Kể từ khi được thành lập cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường đã trải qua 3 thời kỳ với những danh xưng khác nhau như sau :
    * Trường Sĩ Quan Việt Nam ( 1948 - 1950 ) tại Đập Đá, Huế và đào tạo được hai khóa ( khóa 1 và khóa 2 ).
    * Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt ( 1950 - 1959 ) tại Đà-Lạt và đào tạo từ khóa 3 đến khóa 13.
    * TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM ( 1959 - 1975 ) tại Đà-Lạt và đào tạo từ khóa 14 đến khóa 31.


    - Cuối tháng 3 năm 1975, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ( viết tắt là TVBQG/VN ) di tản về Trường Bộ Binh Long Thành ( Trường đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ) thuộc địa phận quận Long Thành của tỉnh Biên Hòa.
    - Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Trường VBQG/VN đã đào tạo được 31 khóa ( riêng khóa 22 được chia thành hai khóa là các khác 22A và 22B ).
    - Tổng số sĩ quan được đào tạo từ khóa 1 đến khóa 29 là 6053 sĩ quan ra trường với 6018 Thiếu Úy và 35 Chuẩn Úy.
    - Riêng hai khóa 30 và 31 chưa hoàn tất và có 463 Sinh Viên Sĩ Quan ( khóa 30 có 223 SVSQ và khóa 31 có 240 SVSQ ). Và những SVSQ nầy cũng đã cùng đồng đội anh dũng cầm súng chiến đấu chống Cộng cho đến những giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4 năm 1975.


    - Theo Nghị Định số 143 NĐ của Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký ngày 19 tháng 8 năm 1950, Trường Sĩ Quan Việt Nam được cải danh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt.
    - Theo Nghị Định số 317/QP/TT ngày 29.7.1959 của Bộ Quốc Phòng, Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt cải danh thành TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM với quy chế của một Trường Đại Học bậc Cao Đẳng Chuyên Nghiệp. Nhiệm vụ đào tạo cung cấp cho QL/VNCH các sĩ quan có căn bản quân sự vững chắc, với trình độ văn hóa bậc Đại Học và thời gian thụ huấn là 4 năm.
    - Theo Sắc Lệnh 221/DQT/HC ngày 8.2.1953 và Sắc Lệnh 2018/QP/ND, tuyên dương công trạng TVBQG/VN trước Quân Đội và ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
    - Theo Nghị Định 71/QP/CA ngày 21.11.1963 cho TVBQG/VN được mang " Dây Biểu Chương Màu Anh Dũng Bội Tinh ".
    - Trong ngày Lễ Mãn Khóa của khóa 27, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên dương công trạng TVBQG/VN trước Quân Đội và trao gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu cho Quân Kỳ của TVBQG/VN. ( ngày 27.12.1974 ).


    - Phương Châm của Sinh Viên Sĩ Quan : " TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY ". Đây là phương châm của người SVSQ và cũng là Kim Chỉ Nam của nghệ thuật chỉ huy. Hay nói cách khác, muốn chỉ huy thuộc cấp thì phải tự thắng mình trước đã.


    - HUY HIỆU của TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM :
    " Dân tộc Việt Nam, dòng giống Tiên Rồng, với khí phách anh dũng, với truyền thống tự cường, cương quyết gìn giữ giang sơn cẩm tú mà Tổ Tiên đã để lại. Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, nơi đào tạo những cán bộ đa năng đa hiệu, có nhiệm vụ kế tục sự nghiệp của Tổ Tiên, rèn luyện tài đức trong tinh thần " Tự Thắng ", quyết tâm tranh đấu cho Chính Nghĩa Tự Do, Nền Độc Lập của Tổ Quốc và Hạnh Phúc của Đồng Bào.


    ° Rồng vàng : Tục truyền Dân Tộc Việt Nam là dòng giống Tiên Rồng. Màu vàng chỉ sự trang nghiêm cao quý.
    ° Thanh kiếm : Biểu trưng sức chiến đấu dũng cảm và tinh thần bất khuất của dân tộc.
    ° Nước Việt Nam màu trắng trên nền xanh : Màu trắng biểu hiệu lòng liêm khiết, sáng suốt, thanh bạch của người cán bộ trong nhiệm vụ bảo vệ bờ cõi Việt Nam. Màu xanh chỉ sự bao la của biển cả trời xanh, hình nước Việt Nam nằm trên Thái Bình Dương ".


    - VÕ BỊ HÀNH KHÚC : ( Tân Khóa Sinh Lê Như Hùng, Khóa 14 ).


    Ta đoàn sinh viên Võ Bị Việt Nam,
    Đồng hát khúc ca quân hành.
    Đoàn sinh viên ta siết chặt dây thân ái,
    Gieo khắp đó đây những mầm sống vui.
    Đồng thanh ca ta vui hát lên,
    Dù gian nan qua bao khó khăn,
    Đoàn sinh viên ta vui bước lên. Đi lên, đi lên, đi.
    Ta đoàn sinh viên họp đoàn vui sống,
    Gieo khắp đó đây khúc ca thanh bình.
    * Phần Thứ Hai : CÁC KHÓA HUẤN LUYỆN CỦA TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.

    A. Các khóa Sĩ Quan Hiện Dịch chính thức của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam :
    1). Khóa 1 : Tên lúc đầu là khóa Bảo Đại và sau đổi tên là khóa Phan Bội Châu. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là ông Phan Văn Giáo, Thủ Hiến Trung Phần Việt Nam.
    - Nhập khóa tháng 10 năm 1948 và mãn khóa tháng 5 năm 1949. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 63 và tốt nghiệp là 56 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa là Thiếu Úy Nguyễn Hữu Có.


    2). Khóa 2 : Tên khóa là khóa Quang Trung. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Đại Tá Nguyễn Ngọc Lễ.
    - Nhập khóa ngày 01.09.1949 đến 07.01.1950. Thời gian thụ huấn là 10 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 109 và tốt nghiệp là 103 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hồ Văn Tố.


    3). Khóa 3 : Tên khóa là khóa Trần Hưng Đạo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 01.10.1950 đến 01.07.1951. Thời gian thụ huấn là 9 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 143 và tốt nghiệp là 135 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Bùi Dzinh.


    4). Khóa 4 : Tên khóa là khóa Lý Thường Kiệt. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 01.04.1951 đến 01.12.1951. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 120 và tốt nghiệp là 100 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy : Nguyễn Cao Albert.


    5). Khóa 5 : Tên khóa là Hoàng Diệu. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 25.7.1951 đến 20.4.1952. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 250 và tốt nghiệp là 246 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Dương Hiếu Nghĩa.


    6). Khóa 6 : Tên khóa là khóa Đinh Bộ Lĩnh. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 16.12.1951 đến 01.10.1952. Thời gian thụ huấn là 9 tháng và 15 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 200 và tốt nghiệp 184 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Lý Tòng Bá.


    7). Khóa 7 : Tên khóa là khóa Ngô Quyền. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 16.5.1952 đến 01.02.1953. Thời gian thụ huấn là 8 tháng và 15 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 130 và tốt nghiệp 128 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Trương Quang Ân.


    8). Khóa 8 : Tên khóa là khóa Hoàng Thúy Đồng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 27.10.1952 đến 28.6.1953. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 221 và tốt nghiệp 163 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Bá Thìn tự Long.


    9). Khóa 9 : Tên khóa là khóa Huỳnh Văn Louis. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
    - Nhập khóa ngày 01.03.1953 đến 01.08.1953. Thời gian thụ huấn là 5 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 180 và tốt nghiệp 150 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Thành Toại.


    10). Khóa 10 : Tên khóa là khóa Trần Bình Trọng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Bác Sĩ Phan Huy Quát, Bộ Trưởng Quốc Phòng của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam.
    - Nhập khóa ngà 01.10.1953 đến 01.6.1954. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 525 và tốt nghiệp 442 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Tấn Đạt.


    11). Khóa 11 : Tên khóa là khóa Phạm Công Quân. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt ( lúc bấy giờ Trung Tá Thiệu đang là Chỉ Huy Trưởng đương nhiệm tại trường ).
    - Nhập khóa ngày 01.10.1954 đến 01.5.1955. Thời gian thụ huấn là 7 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 188 và tốt nghiệp 162 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Ngô Văn Phát.


    12). Khóa 12 : Tên khóa là khóa Cộng Hòa. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 15.10.1955 đến 02.12.1956. Thời gian thụ huấn là 1 năm và 1 tháng + 20 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 163 và tốt nghiệp 147 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Phạm Phùng.


    13). Khóa 13 : Tên khóa là khóa Thống Nhất. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 24.4.1956 đến 13.4.1958. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 11 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 210 và tốt nghiệp 198 sĩ quan gồm 179 Thiếu Úy và 19 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn Bá.


    14). Khóa 14 : Tên khóa là khóa Nhân Vị. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Phó Tổng Thống VNCH Nguyễn Ngọc Thơ.
    - Nhập khóa ngày 04.02.1957 đến 17.01.1960. Thời gian thụ huấn là 3 năm thiếu 17 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa là 138 và tốt nghiệp 128 sĩ quan gồm 124 Thiếu Úy và 4 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Cao Đàm.


    15). Khóa 15 : Tên khóa là khóa Lê Lợi. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 05.04.1958 đến 03.06.1961. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 2 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 64 và tốt nghiệp 57 sĩ quan gồm 55 Thiếu Úy và 2 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Võ Trung Thứ.


    16). Khóa 16 : Tên khóa là khóa Ấp Chiến Lược. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 23.11.1959 đến 22.12.1962. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 1 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 326 và tốt nghiệp 226 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Bùi Quyền.


    17). Khóa 17 : Tên khóa là khóa Lê Lai. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 11.11.1960 đến 30.03.1963. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 4 tháng + 19 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 210 và tốt nghiệp 189 sĩ quan gồm 179 Thiếu Úy và 10 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Vĩnh Nhi.


    18). Khóa 18 : Tên khóa là khóa Bùi Ngươn Ngãi. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Trung Tướng Dương Văn Minh.
    - Nhập khóa ngày 26.11.1961 đến 28.11.1963. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 2 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 201 và tốt nghiệp 191 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Anh Vũ.


    19). Khóa 19 : Tên khóa là khóa Nguyễn Trải. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Đại Tướng Nguyễn Khánh.
    - Nhập khóa ngày 23.11.1962 đến 28.22.1964. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 5 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 413 và tốt nghiệp 390 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Võ Thành Kháng.


    20). Khóa 20 : Tên khóa là khóa Nguyễn Công Trứ. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 07.12.1963 đến 20.11.1965. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 17 ngyày.
    - Số ứng viên nhập khóa 425 và tốt nghiệp 407 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Quách Tinh Cần.


    21). Khóa 21 : Tên khóa là khóa Chiến Thắng Nông Thôn. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Chủ Tịch UBLĐ/QG Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 14.12.1964 đến 26.11.1966. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 18 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 249 và tốt nghiệp 235 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Mai Văn Hóa.


    22). Khóa 22 : Gồm hai khóa 22A và 22B.
    ° Khóa 22A : Tên khóa là khóa Huỳnh Văn Thảo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 06.12.1965 đến 02.12.1967. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 4 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 176 và tốt nghiệp 173 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn An.
    ° Khóa 22B : Tên khóa là khóa Trương Quang Ân. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 06.12.1965 đến 12.12.1969. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 6 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 100 và tốt nghiệp 92 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Đức Phống.


    23). Khóa 23 : Tên khóa là khóa Nguyễn Đức Phống. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 12.12.1966 đến 18.12.1970. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 6 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 282 và tốt nghiệp 241 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Trần Vĩnh Thuấn.


    24). Khóa 24 : Tên khóa là khóa Đỗ Cao Trí. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Thủ Tướng VNCH Trần Thiện Khiêm.
    - Nhập khóa ngày 07.12.1967 đến 17.12.1971. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 10 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 312 và tốt nghiệp 245 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Vũ Xuân Đức.


    25). Khóa 25 : Tên khóa là khóa Quyết Chiến Tất Thắng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
    - Nhập khóa ngày 10.12.1968 đến 15.12.1972. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 5 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 298 và tốt nghiệp 260 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Anh Dũng.


    26). Khóa 26 : Tên khóa là khóa Nguyễn Viết Thanh. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 24.12.1969 đến 18.01.1974. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 24 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 196 và tốt nghiệp 175 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn Lượng.


    27). Khóa 27 : Tên khóa là khóa Trương Hữu Đức. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 26.12.1970 đến 27.12.1974. Thời gian thụ huấn là 4 năm.
    - Số ứng viên nhập khóa 192 và tốt nghiệp 182 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hoàng Văn Nhuận và Thiếu Úy Lê Mạnh Kha.


    28). Khóa 28 : Tên khóa là khóa Nguyễn Đình Bảo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn Bộ Tổng TTM/QLVNCH.
    - Nhập khóa ngày 24.12.1971 đến 21.4.1975. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 4 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường 298 và tốt nghiệp 255 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hồ Thanh Sơn.


    29). Khóa 29 : Tên khóa là khóa Hoàng Lê Cường. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn Bộ TTM/QLVNCH.
    - Nhập khóa ngày 29.12.1972 đến 21.4.1975. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 5 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường 315 và tốt nghiệp 291 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Đào Công Hương.


    30). Khóa 30 : Nhập khóa ngày 28.1.1974 đến 30.4.1975 : 223 Sinh Viên Sĩ Quan. ( chưa hoàn tất ).
    31). Khóa 31 : Nhập khóa ngày 10.01.1975 đến 30.4.1975 : 24O SVSQ. ( chưa hoàn tất ).


    - Căn cứ theo thời gian thụ huấn của các khóa, xin phép được ghi nhận một cách tổng quát như sau :
    * Từ khóa 1 đến khóa 11 : đa số từ 7 tháng đến 10 tháng, chỉ có khóa 9 là khóa ngắn nhất là 5 tháng và cũng là khóa ngắn nhất của TVBQGVN.
    * Khoảng hơn 1 năm có khóa 12 ( 1 năm và 1 tháng +12 ngày ).
    * Khoảng trên, dưới 2 năm có các khóa : 13, 17, 18, 19, 20, 21, 22A và 29.
    * Khoảng trên, dưới 3 năm có các khóa 14, 15, 16 và 28.
    * Khoảng 4 năm hơn một ít có các khóa 22B, 23, 24, 25, 26 và 27.
    * Hai khóa 30 và 31 thì chưa hoàn tất.



    * GHI CHÚ ĐẶC BIỆT :
    - Theo Nghị Định số 317/QP/TT ngày 29.7.1959 của Bộ Quốc Phòng, Trường VBLQ Đà-Lạt được cải danh thành Trường VBQG/VN với quy chế của một Trường Đại Học Cao Đẳng Chuyên Nghiệp và chương trình huấn luyện 4 năm với Mùa Văn Hóa và Mùa Quân Sự cho mỗi năm.
    - Về phương diện huấn luyện, chương trình 4 năm được áp dụng cho khóa 15 ( khai giảng tháng 4 năm 1958 ). Đến năm 1961, tình hình khẩn trương của đất nước được ban hành vì cuộc chống Cộng ngày một gia tăng, sau khi Cộng Sản Bắc Việt cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( năm 1960 ), một tổ chức bù nhìn, tay sai trá hình của CS Bắc Việt. Theo đề nghị của Bộ TTM và được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chấp thuận, chương trình huấn luyện được rút ngắn lại còn 3 năm để kịp đáp ứng cho nhu cầu chiến trường và có 4 khóa được huấn luyện trong chương trình nầy là các khóa 14, 15, 16 và 17.
    - Sau đó, cũng vì tình hình chiến sự gia tăng ác liệt, chương trình lại rút ngắn còn 2 năm và kéo dài từ 1961 cho đến 1967 và được áp dụng cho các khóa 18, 19, 20, 21 và 22A.
    - Do Nghị Định số 2349/NĐ/QP của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ký ngày 13.12.1966, chương trình huấn luyện được CẢI TỔ TOÀN DIỆN, thời gian huấn luyện là 4 năm với quy chế của một TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT. Khóa đầu tiên hoàn tất chương trình 4 năm là khóa 22B và các khóa kế tiếp theo là các khóa 23, 24, 25, 26 và 27. Các khóa 22B, 23, 24 và 25 được cấp " VĂN BẰNG TỐT NGHIỆP TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM " có giá trị tương đương với VĂN BẰNG KỶ SƯ TỐT NGHIỆP từ các TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỶ THUẬT DÂN CHÍNH trong nước. Kể từ tháng 1 năm 1974, tức là khóa 26 và 27, Bộ Giáo Dục VNCH đã chính thức công nhận " VĂN BẰNG CỬ NHÂN KHOA HỌC ỨNG DỤNG " do Trường VBQG/VN cấp cho những sĩ quan tốt nghiệp. Các khóa 28 và 29 thì ra trường sớm hơn 4 năm và các khóa 30 và 31 thì chưa hoàn tất.


    - Cũng xin được nói thêm : Từ những khóa đầu, trường đã cung cấp sĩ quan cho cả 3 quân chủng Hải, Lục và Không Quân; một số ít SVSQ được chọn quân chủng trước ngày mãn khóa. Kể từ khóa 16, vào năm thứ hai, Bộ TTM cho trắc nghiệm tâm lý SVSQ để sau khi mãn khóa tại TVBQG/VN, những SVSQ thích hợp sẽ có thể được chuyển qua Hải Quân hoặc Không Quân. Từ tháng 12 năm 1970, TVBQG/VN thực sự thi hành nhiệm vụ huấn luyện các sĩ quan hiện dịch cho Hải, Lục và Không Quân ngay từ trong Trường. Chương trình HUẤN LUYỆN LIÊN QUÂN CHỦNG được áp dụng kể từ khóa 25 ( 1968 - 1972 ); trước khi sang năm thứ 3, SVSQ được qua một cuộc trắc nghiệm do Bộ TTM thực hiện để tuyển chọn theo học Hải Quân, Lục Quân hoặc Không Quân trong 2 năm cuối cùng.


    B. CÁC KHÓA ĐẶC BIỆT THỤ HUẤN QUÂN SỰ TẠI TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM :
    - Ngoài nhiệm vụ chính đào tạo các Sĩ Quan Hiện Dịch làm nòng cốt cho quân đội, Trường VBQG/VN còn huấn luyện các khóa sau đây :
    * Các khóa SĨ QUAN TRỪ BỊ :
    1). Khóa 3 Phụ Trừ Bị mang tên Khóa Đống Đa :
    - Nhập khóa ngày 11.9.1953 đến 16.3.1954.
    - Có 119 Thiếu Úy Trừ Bị tốt nghiệp và Thủ Khoa là Thiếu Úy Nguyễn Xuân Diệu.


    2). Khóa 4 Phụ Trừ Bị mang tên Khóa Cương Quyết :
    - Nhập khóa ngày 19.3.1954 đến 01.10.1954.
    - Có 300 Thiếu Úy Trừ Bị tốt nghiệp và Thủ Khoa là Thiếu Úy Ngô Văn Lợi
    *** Hai khóa Sĩ Quan Trừ Bị nầy thụ huấn quân sự tại Trường VBQG/VN và khi mãn khóa sẽ trở về làm Lễ Mãn Khóa tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ( tức là tại Trường Mẹ Thủ Đức ).


    * Các khóa ĐẶC BIỆT KHÁC :
    1). Khóa Cấp Tốc Trung Đội Trưởng Hiện Dịch :
    - Nhập khóa đầu tháng 6 năm 1954 và mãn khóa ngày 01.10.1954.
    - Có 210 Chuẩn Úy Hiện Dịch tốt nghiệp.
    2). Khóa Vưong Xuân Sỹ :
    - Nhập khóa giữa năm 1955 và mãn khóa tháng 11 năm 1955.
    - Có 200 Chuẩn Úy Hiện Dịch tốt nghiệp và Thủ Khoa là Chuẩn Úy Nguyễn Văn Ngà.
    3). Các khóa Sĩ Quan Quân Y.( Huấn luyện quân sự ).
    4). Khóa Huấn Luyện Viên.
    5). Khóa Đại Đội Trưởng.
    6). Huấn Luyện Quân Sự cho các khóa Quốc Gia Hành Chánh.
    7). Huấn Luyện Quân Sự cho các khóa Tuyên Úy Quân Đội.
    8). Các khóa Quân Sự Học Đường cho học sinh Trường Grand Lycée Yersin Dalat và sinh viên Viện Đại Học Đà-Lạt.


    * Phần Thứ Ba : CÁC VỊ CHỈ HUY TRƯỞNG CỦA TRƯỜNG VÕ VỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.


    - Ngoài những Chỉ Huy Trưởng người Pháp từ năm 1948 đến 1954, có 13 nhiệm kỳ Chỉ Huy Trưởng là những SÍ QUAN VIỆT NAM cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Những Chỉ Huy Trưởng Việt Nam gồm có ( Cấp bậc hiện tại trong chức vụ đương nhiệm ) :
    1). Trung Tá NGUYỄN VĂN CHUÂN, từ tháng 9 năm 1954 đến tháng 3 năm 1955.
    2). Trung Tá NGUYỄN VĂN THIỆU, từ tháng 3 năm 1955 đến tháng 7 năm 1957.
    3). Trung Tá HỒ VĂN TỐ, từ tháng 7 năm 1957 đến tháng 7 năm 1958.
    4). Trung Tá NGUYỄN VĂN THIỆU ( lần thứ hai ), từ tháng 7 năm 1958 đến tháng 2 năm 1959.
    5). Thiếu Tướng LÊ VĂN KIM, từ tháng 2 năm 1959 đến ngày 12.11.1960.
    6). Trung Tá TRẦN NGỌC HUYẾN, từ 12.11.1960 đến 05.01.1964.
    7). Thiếu Tướng TRẦN TỬ OAI, từ 05.01.1964 đến tháng 6 năm 1964.
    8). Đại Tá TRẦN VĂN TRUNG, từ tháng 6 năm 1964 đến tháng 12 năm 1964.
    9). Chuẩn Tướng NGUYỄN VĂN KIỂM, từ tháng 12 năm 1964 đến tháng 9 năm 1965.
    10). Đại Tá LÂM QUANG THƠ, từ tháng 9 năm 1965 đến 19.11.1966.
    11). Đại Tá ĐỖ NGỌC NHẬN, từ 19.11.1966 đến tháng 7 năm 1968.
    12). Thiếu Tướng LÂM QUANG THI, từ tháng 7 năm 1968 đến 14.4.1972. ( Trong thời gian đảm nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng, ông được thăng cấp Trung Tướng vào ngày 1.11.1971 ).
    13). Thiếu Tướng LÂM QUANG THƠ ( lần thứ hai ), từ 14.4.1972 đến 30.4.1975.


    * Phần Thứ Tư : CƠ CẤU TỔ CHỨC .
    - Cơ cấu tổ chức của Trường VBQG/VN thay đổi theo từng gia đoạn và nhu cầu huấn luyện. Ban đầu Trường còn đơn sơ, chỉ có một Chỉ Huy Trưởng, một số nhỏ sĩ quan huấn luyện viên và quân nhân yểm trợ.
    - Khi trường dời về Đà-Lạt, với số khóa sinh gia tăng và chương trình huấn luyện quy củ hơn, cơ cấu tổ chức cũng được thay đổi cho thích hợp.
    - Kể từ khi có chương trình huấn luyện văn hóa, trường tổ chức thành 4 khối :
    1). Khối Chỉ Huy & Tham Mưu sau đổi thành Bộ Chỉ Huy và Ban Tham Mưu.
    2). Khối Huấn Luyện Quân Sự, sau đổi thành Quân Sự Vụ.
    3). Khối Huấn Luyện Văn Hóa, sau đổi thành Văn Hóa Vụ.
    4). Khối Yểm Trợ và Công Vụ, sau đổi thành Tiểu Đoàn rồi Liên Đoàn Yểm Trợ.


    - Cả 4 khối nhầm vào mục đích duy nhất là huấn luyện và yẻm trợ Sinh Viên Sĩ Quan trong suốt thời gian thụ huấn tại trường. trong cơ cấu tổ chức, các đơn vị SVSQ trực thuộc khối Quân Sự Vụ.
    - Căn cứ vào những năm sau cùng và đặc biệt với " Chương Trình Huấn Luyện Đặc Biệt Cải Tổ Toàn Diện Đúng 4 Năm " cho các khóa 22B, 23, 24, 25, 26 và 27, xin được ghi lại một cách TỔNG QUÁT và CƠ BẢN về Cơ Cấu Tổ Chức của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam như sau :


    A. BỘ CHỈ HUY và THAM MƯU :
    - Đây là cơ quan đầu não trong trách nhiệm chỉ huy, đặt kế hoạch và kiểm soát tổng quát việc huấn luyện Sinh Viên Sĩ Quan.
    - Bộ Chỉ Huy và Tham Mưu gồm có : Chỉ Huy Trưởng, Chỉ Huy Phó, Tham Mưu Trưởng và Ban Tham Mưu.


    B. VĂN HÓA VỤ :
    - Gồm có Văn Hóa Vụ Trưởng, Văn Hóa Vụ Phó, một Phòng Điều Hành ( có vị Trưởng Phòng ), phụ trách Hành Chánh và các Khoa Trưởng của 9 Phân Khoa cùng các Giảng Viên cho các môn.
    - 9 Phân Khoa của Văn Hóa Vụ gồm có :
    1). Khoa Anh Văn.
    2). Khoa Cơ Khí.
    3). Khoa Công Chánh.
    4). Khoa Khoa Học.
    5). Khoa Khoa Học Xã Hội.
    6). Khoa Kỹ Thuật Điện.
    7). Khoa Kỹ Thuật Quân Sự.
    8). Khoa Nhân Văn.
    9). Khoa Toán.
    - Được biết rằng : Kể từ năm 1956 ( khóa 13 ) đến năm 1975 ( khóa 31 ), có 6 vị Văn Hóa Vụ Trưởng phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và có khoảng 30 giảng viên ( vào năm 1961 ), đã tăng lên 160 giảng viên vào năm 1975 đã giảng dạy tại Trường VBQG/VN.


    C. QUÂN SỰ VỤ :
    - Gồm có Quân Sự Vụ Trưởng, Quân Sự Vụ Phó, Trưởng Phòng Điều Hành Quân Sự Vụ ( bên dưới có Trưởng Ban Kế Hoạch, Quản Trị, Huấn Đạo và Hỏa Thực ), các Sĩ Quan Cán Bộ trông coi SVSQ theo từng Đại Đội và Tiểu Đoàn và Phòng Huấn Luyện Quân Sự.
    - Đặc biệt, Phòng Huấn Luyện Quân Sự ( do một Trưởng Phòng chỉ huy ), gồm có : Phòng Điều Hành ( đứng đầu là một Trưởng Phòng ) và 4 Khoa Huấn Luyện ( gồm Trưởng Khoa và các Huấn Luyện Viên ), và có thêm Khoa Thể Chất ( có Trưởng Khoa và các Huấn Luyện Viên ).
    - Các Khoa Huấn Luyện gồm có :
    1). Khoa Chiến Thuật.
    2). Khoa Vũ Khí - Tác Xạ.
    3). Khoa Tổng Quát : Địa Hình, Cứu Thương ...
    4). Khoa Binh Chủng : Công Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Thiết Giáp.
    5). Khoa Thể Chất : Thể Dục, Thể Thao, Kiếm Thuật, Kỵ Mã và Võ Thuật.
    - Ngoài ra, còn có thêm phần huấn luyện : Huấn Luyện Đạo Đức và Lãnh Đạo, Huấn Luyện Liên Quân Chủng.
    - Quân Sự Vụ Trưởng chịu trách nhiệm trước Chỉ Huy Trưởng về việc Huấn Luyện Quân Sự và Điều Hành Trung Đoàn SVSQ.


    - Song song với việc huấn luyện Quân Sự và Thể Chất là việc điều hành Liên Đoàn SVSQ. Tám ( 8 ) sĩ quan cán bộ đại đội trưởng được chỉ định trông coi 8 đại đội SVSQ thuộc 2 tiểu đoàn. Hai ( 2 ) sĩ quan cán bộ tiểu đoàn trưởng, mỗi vị phụ trách một tiểu đoàn. Từ năm 1971, khi có thêm chương trình huấn luyện SVSQ Hải Quân và Không Quân tại trường, Trung Đoàn SVSQ có thêm 1 đại đội Hải Quân và 1 đại đội Không Quân, nâng tổng số Sĩ Quan Cán Bộ thành 10 Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội Trưởng.


    - Bắt đầu từ khóa 22B, sau khi khóa 24 nhập học (tháng 12 năm 1967), trường có 3 khóa với số SVSQ khoảng 600 người. Liên Đoàn SVSQ được đổi thành Trung Đoàn SVSQ, vẫn gồm 2 Tiểu Đoàn với 4 Đại Đội SVSQ cho mỗi Tiểu Đoàn.
    - Từ khi khóa 25 nhập học (tháng 12 năm 1968), trường có luôn 4 khóa, Trung Đoàn SVSQ có 10 Đại Đội SVSQ với hơn 1000 người.SVSQ Cán Bộ Trung Đoàn Trưởng ( chịu trách nhiệm trước Quân Sự Vụ Trưởng ), và bên cạnh có thêm SVSQ Tham Mưu Trung Đoàn, gồm Ban 1, Ban 2, Ban 3, Ban 4 và Ban 5 tương tự như ở cấp Tiểu Đoàn.


    - Về HỆ THỐNG TỰ CHỈ HUY thì được biết rằng : Trong gia đoạn Trường có 2 danh xưng : Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt (từ khóa 12 đến khóa 14) và Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (từ khóa 14 đến khóa 31). Bắt đầu từ khóa 12, Hệ Thống Tự Chỉ Huy được thành lập. Theo thời gian, đơn vị SVSQ được thay đổi có :
    * Tiểu Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Tiểu Đội Trưởng chỉ huy.
    * Trung Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Trung Đội Trưởng chỉ huy.
    * Đại Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Đại Đội Trưởng chỉ huy và chịu trách nhiệm trước Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội Trưởng, và bên cạnh có thêm SVSQ Tham Mưu Ban 4 (Tiếp Liệu) của Đại Đội.
    * Tiểu Đoàn SVSQ do SVSQ Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng chỉ huy và chịu trách nhiệm trước một Sĩ Quan Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, và bên vạng có các SVSQ Tham Mưu Tiểu Đoàn : Ban 1 phụ trách Quân Số, Ban 3 lo Nghi Lễ, Ban 4 lo Tiếp Liệu và Ban 5 lo Văn Nghệ.


    - PHÙ HIỆU SINH VIÊN SĨ QUAN : Phù Hiệu của SVSQ được thực hiện từ khóa 12 cùng với bộ đại lễ mới với ý nghĩa :
    * Ngôi Sao : Tượng trưng cho sự lãnh đạo. Sĩ Quan xuất thân từ TVBQG/VN chẳng những là cấp chỉ huy quân sự thời chiến mà còn là một cán bộ xây dựng quốc gia trong thời bình. Ngôi Sao, soi sáng người SVSQ trên con đường binh nghiệp mà họ đã chọn phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc.
    * Ngọn Lửa : Biểu tượng cho bầu nhiệt huyết của người SVSQ, hăng say và dũng cảm trong nhiệm vụ.
    * Cành Trúc : Tiêu biẻu tiết tháo của người quân tử.
    * Cung Kiếm : Tượng trưng cho võ nghiệp, biểu thị tinh thần và ý chí của người SVSQ trong sứ mạng bảo vệ đất nước.
    * Hàng chữ TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY là phương châm của người SVSQ, mang ý nghĩa : Muốn chỉ huy người khác trước hết phải tự thắng bản thân


    - Phù Hiệu SVSQ được gắn trên mũ lưỡi trai (casquette) và được thêu trên mũ dạ (béret) của SVSQ. Phương châm " Tự Thắng Để Chỉ Huy " được xử dụng trên các văn thư và tài liệu của Trường, sau đó được ghi trên phù hiệu mũ lưỡi trai. Mũ lưỡi trai được dùng với các quân phục đại lễ, tiểu lễ và dạo phố. Mũ dạ được dùng với quân phục làm việc trong Mùa Văn Hóa. Trong Mùa Quân Sự, SVSQ dùng mũ tác chiến bằng vải, có cấp hiệu Alpha ở phía trước mũ.


    D. LIÊN ĐOÀN YỂM TRỢ :
    - Các đơn vị yểm trợ và công vụ phụ trách tất cả các phần hành yẻm trợ cho đời sống và việc học hành của SVSQ trong thời gian thụ huấn. Các thành phần nầy gồm : quân nhu, quân cụ, quân nhạc, an ninh và phụ tá huấn luyện tại các bãi tập quân sự.
    - Có 2 đại đội Địa Phương Quân để lo canh phòng an ninh và diễn tập trong việc huấn luyện quân sự tại trường.
    - Có một Đội Kỵ Mã do Trung Úy Nguyễn Văn Rồng (Thiết Giáp) phụ trách giảng dạy và thực tập vào mỗi chiều Thứ Bảy.


    * Phần Thứ Năm : CÁC TƯỚNG LÃNH QL/VNCH XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
    - Từ khi thành lập năm 1948 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường VBQG/VN với hơn 6000 sĩ quan tốt nghiệp và 463 SVSQ (của 2 khóa 30 và 31 chưa hoàn tất), đã cung ứng 61 vị Tướng Lãnh cho QLVNCH. Ngoài những vị Tướng Lãnh và 463 SVSQ, những sĩ quan tốt nghiệp còn lại đã mang những cấp bậc từ Thiếu Úy đến Đại Tá trong QL/VNCH.
    - Trong số 61 vị Tướng Lãnh (kể cả những vị Tướng Lãnh Truy Thăng), xin được ghi nhận như sau : Cấp Trung Tướng có 19 vị, cấp Thiếu Tướng có 18 vị và cấp Chuẩn Tướng có 24 vị.
    - Ghi nhận theo các khóa tốt nghiệp ( các khóa có Tướng Lãnh tốt nghiệp : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 12) :


    * Khóa 1: Có 9 vị gồm 5 Trung Tướng, 3 Thiếu Tướng và 1 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu : Tổng Thống VNCH (1967-1975).
    2). - Trần Văn Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Bộ TTM/QLVNCH. (1966-1975).
    3). - Đặng Văn Quang : Cố Vấn An Ninh Quốc Gia (1968-1975).
    4). - Nguyễn Hữu Có : Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng (28.4.1975).
    5). - Tôn Thất Đính : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 ( từ 9.4.1966 đến 15.5.1966).
    6) Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 (từ 13.3.1966 đến 8.4.1966).
    7). - Tôn Thất Xứng : Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học Quân Sự ( từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 11 năm 1966).
    8). - Bùi Đình Đạm : Tổng Giám Đốc Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng (1965 - 1975).
    9). Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận : Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ( từ 10.3.1966 đến 19.6.1966).


    * Khóa 2 : Có 10 vị gồm 3 Trung Tướng, 5 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Ngô Du : Trưởng Đoàn Quân Sự Ban LHQS 4 Bên Trung Ương (1973-1974).
    2). - Nguyễn Văn Mạnh : Tổng Tham Mưu Phó/An Ninh Phát Triển (1974-1975).
    3). - Trần Thanh Phong: Phụ Tá Thủ Tướng VNCH (16.10.1972-1.12.1972) &Truy Thăng.
    4). Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 (15.5.1966-30.5.1966).
    5). - Hoàng Văn Lạc : Tư Lệnh Phó Lãnh Thổ Quân Khu 1 (1972-1975).
    6). - Lê Ngọc Triển : Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ TTM (1972-1975).
    7). - Hồ Văn Tố : Chỉ Huy Trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức (27.7.1961- 19.5.1962).
    8). - Nguyễn Thanh Sằng : Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐ4, QK4 (1972 - 1973).
    9).Chuẩn Tướng Lê Trung Tường : Tham Mưu Trưởng QĐ3, QK3 ( tháng 4 năm 1975).
    10). - Nguyễn Thành Hoàng : Chánh Thanh Tra QĐ2, QK2 ( 1972 -1973).


    * Khóa 3 : Có 10 vị gồm 4 Trung Tướng, 2 Thiếu Tướng và 4 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm : Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng (1972 - 1975).
    2). - Lữ Lan : Tổng Thanh Tra Bộ TTM/QLVNCH (1970-1975).
    3) - Lâm Quang Thi : Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1, QK1 (1972 - 1975).
    4). - Nguyễn Xuân Thịnh : Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QL/VNCH ( 1972 - 1975 ).
    5). Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu : Tư Lệnh Phó QĐ3, QK3 ( 1973 - 1975 ).
    6). - Lâm Quang Thơ : Chỉ Huy Trưởng Trường VBQG/VN ( 1972 - 1975 ).
    7). Chuẳn Tướng Võ Dinh : Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân ( 1967 - 1975 ).
    8). - Lý Bá Hỷ : Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô ( 1968 - 1975 ).
    9). - Nguyễn Ngọc Oánh : Chỉ Huy Trưởng TTHL/ Không Quân Nha Trang ( 1969 - 1975 ).
    10). - Nguyễn Văn Phước : Phụ Tá Tư Lệnh QĐ4, QK4 ( 1965 - 1971 ). Truy Thăng.


    * Khóa 4 : Có 6 vị gồm 2 Trung Tướng, 3 Thiếu Tướng và 1 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Nguyễn Văn Minh: Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô ( tứ 24.3.1975 - 30.4.1975 ).
    2). - Nguyễn Viết Thanh : Tư Lệnh Vùng 4 & QĐ4, QK4 ( 1968 -1970 ) . Truy Thăng.
    3). Thiếu Tướng Đào Duy Ân : Tư Lệnh Phó QĐ3, QK3 ( 1970 - 1975 ).
    4). - Phan Đình Niệm : Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    5). - Nguyễn Cao Albert : Đổng Lý Văn Phòng QT Nguyễn Khánh ( 1964 - 1965 ).
    6). Chuẩn Tướng Đỗ Kiến Nhiễu : Đô Trưởng Sài-Gòn ( 1968 - 1975 ).




    * Khóa 5 : Có 11 vị gồm 5 Trung Tướng, 2 Thiếu Tướng và 4 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Phan Trọng Chinh : Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy & Tham Mưu ( 1974 - 1975 ).
    2). - Dư Quốc Đống : Tư Lệnh QĐ3 và QK3 ( 1.11.1974 - 5.1.1975 ).
    3). - Nguyễn Vĩnh Nghi : Tư Lệnh Tiền Phương QĐ3, QK3 ( 4.4.1975 - 30.4.1975 ).
    4). - Phạm Quốc Thuần : Chỉ Huy Trưởng Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang ( tháng 11 năm 1974 - 30.4.1975 ).
    5). - Nguyễn Văn Toàn : Tư Lệnh Vùng 3 CT & QĐ3, QK3 ( 2.11.1975 - 28.4.1975 ).
    6). Thiếu Tướng Trần Bá Di : Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung ( 1.11.1974 - 3O.4.1975 ).
    7). - Đỗ Kế Giai : Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân QL/VNCH ( tháng 8 năm 1972 đến 30.4.1975 ).
    8). Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quay ; Tham Mưu Trưởng QĐ4, QK4 ( tháng 6 năm 1973 đến 30.4.1975 ).
    9). - Trần Văn Cẩm : Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh QĐ2 ( tháng 1 năm 1975 đến 30.4.1975 ).
    10). - Lê Văn Tư : Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh ( 25.1.1972 đến 7.11.1973 ).
    11). - Lê Đức Đạt : Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh ( 1.3.1972 đến 24.4.1972 ). Truy Thăng.


    * Khóa 6 : Có 4 vị gồm 3 Chuẩn Tướng và 1 Phó Đề Đốc :
    1). Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá : Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh ( 1974 - 1975 ).
    2). - Trần Quang Khôi : Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ( 1973 - 1975 ).
    3). - Trần Đình Thọ : Trưởng Phòng 3 Bộ TTM:QLVNCH ( 1965 - 1975 ).
    4). Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy : Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân ( 1974 - 1975 ).


    * Khóa 7 : Có 3 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Trương Quang Ân : Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ( 1966 - 1968 ).
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Hai : Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ( 1974 - 1975 ).
    3). - Lê Văn Thân : Tư Lệnh Phó QK2 ( 1974 - 1975 ).


    * Khóa 8 : Có 3 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Phạm Văn Phú : Tư Lệnh Vùng 2 & QĐ2,QK2 ( 1974 - 1975 ).
    2). Chuẩn Tướng Huỳnh Thới Tây: Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia VNCH ( 1969 - 1975 ).
    3). - Lý Đức Quân : Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh ( 1971 -1973 ) .Truy Thăng.


    * Khóa 10 : Có 4 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 3 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Lê Minh Đão : Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt : Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    3). - Vũ Văn Giai : Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh ( 1971 - 1972 ).
    4). - Trương Hữu Đức : Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh ( 1971 - 1972 ).


    * Khóa 12 : Có 1 vị là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường : Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh ( tháng 11 năm 1974 - 30.4.1975 ).








    * Phần Thứ Sáu : TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM VỚI THIÊN ANH HÙNG CA ... VỊ QUỐC VONG THÂN.


    A. Những Sĩ Quan tốt nghiệp THỦ KHOA đã Anh Dũng Hy Sinh trên Chiến Trường:

    - Có 5 sĩ quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tốt nghiệp Thủ Khoa đã tình nguyện gia nhập các Đơn Vị Chiến Đấu và đã Anh Dũng hy sinh trên chiến trường. Trong số nầy có 4 sĩ quan đã tử trận rất sớm và có người là người chết đầu tiên của khóa mình.
    - Những sĩ quan đã hy sinh nầy gồm có :


    1). Cố Thiếu Tướng TRƯƠNG QUANG ÂN :
    - Thủ Khoa của khóa 7 ( Ngô Quyền ), ra trường ngày 01.02.1953.
    - Ngày 24.11.1966 : Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
    - Ngày 19.6.1968 : vinh thăng Chuẩn Tướng.
    - Ngày 8.9.1968 ( lúc 10 giờ 30 phút sáng ), cùng với Phu Nhân bị tử nạn công vụ trên trực thăng tại tỉnh Quảng Đức trên đường bay thăm viếng và ủy lạo các đơn vị đang hành quân và Ông được vinh thăng Thiếu Tướng.
    - Được biết Phu Nhân của Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân là Bà Dương Thị Kim Thanh. Bà nguyên là 1 trong 9 Nữ Quân Nhân đầu tiên của Binh Chủng Nhảy Dù QL/VNCH và Bà giải ngũ khi còn là Chuẩn Úy.


    2). Cố Trung Úy NGUYỄN ANH VŨ :
    - Thủ Khoa khóa 18 ( khóa Bùi Ngươn Ngãi ), ra trường ngày 23.11.1963 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, hy sinh tại chiến trường Miền Đông Nam Phần vào tháng 8 năm 1964, chỉ khoảng 6 tháng sau ngày ra trường và được vinh thăng Cố Trung Úy.


    3). Cố Trung Úy VÕ THÀNH KHÁNG :
    - Thủ Khoa khóa 19 ( khóa Nguyễn Trải ), ra trường ngày 28.11.1964 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, hy sinh tại chiến trường Bình Giã ( tỉnh Phước Tuy ) ngày 31.12.1964 cùng với Thiếu Úy Thủy Quân Lục Chiến NGUYỄN VĂN HÙNG ( cùng khóa 19 ).
    - Trước đó, ngày 28.12.1964, Thiếu Úy Biệt Động Quân NGUYỄN THÁI QUAN ( cùng khóa 19 ) cũng đã hy sinh tại chiến trường Bình Giã.
    - Cả 3 sĩ quan của khóa 19 đã hy sinh tại Bình Giã và được vinh thăng Cố Trung Úy. Đây là những sĩ quan hy sinh sốm nhất của khóa 19 ... chỉ khoảng hơn 1 tháng kể từ ngày ra trường.


    4). Cố Trung Úy NGUYỄN ĐỨC PHỐNG :
    - Thủ Khoa khóa 22B ( khóa Trương Quang Ân ), ra trường ngày 12.12.1969 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Binh Chủng Thiết Giáp và đã hy sinh trong năm 1970 tại chiến trường Campuchia và được vinh thăng Cố Trung Úy.


    5). Cố Trung Úy HOÀNG VĂN NHUẬN :
    - Thủ Khoa khóa 27 ( khóa Trương Hữu Đức ), ra trường ngày 27.12.1974.
    - Chọn đơn vị thuộc Binh Chủng Thiết Giáp và đang theo học tại Trường Thiết Giáp.
    - Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Việt Cộng tấn công vào trường Thiết Giáp, Thiếu Úy Hoàng Văn Nhuận đã anh dũng chiến đấu cùng đồng đội chống lại Cộng Quân và đã anh dũng hi sinh và được vinh thăng Cố Trung Úy.

    B. TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM VỚI BIẾN CỐ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 :


    - Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông Dương Văn Minh, vị Tổng Thống cuối cùng của VNCH tuyên bố ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN và ra lệnh cho tất cả các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa BUÔNG SÚNG TẠI CHỖ và BÀN GIAO ĐƠN VỊ LẠI CHO VIỆT CỘNG
    ( Ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống VNCH vì những áp lực chính trị hoàn toàn thất lợi và đầy oan khiên khổ đau cho miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa ).
    - Có một số đơn vị của QL/VNCH đã KHÔNG CHẤP NHẬN ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN, KHÔNG CHỊU BUÔNG SÚNG và tiếp tục CHIẾN ĐẤU ĐẾN NHỮNG VIÊN ĐẠN, ĐẾN NHỮNG GIỌT MẮU CUỐI CÙNG .
    - Đã có NHỮNG CHIẾN SĨ ANH HÙNG của QL/VNCH bị chết, hy sinh trên chiến trận, bị bắt và bị CS xử tử ... và có những người đã CAN ĐẢM TỰ SÁT để giữ tròn khí tiết anh hùng của QL/VNCH ... trong đó có NHỮNG SĨ QUAN XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
    - Xin được ghi lại một số Chiến Sỉ Anh Hùng của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ( chấc chắn còn nhiều thiếu sót ...) :


    1). Thiếu Tướng Phạm Văn Phú ( khóa 8 TVBQG/VN ) : Tư Lệnh Vùng 2 CT & QĐ2, QK2, tự sát ngày 30.4.1974 tại Sài-Gòn.
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (khóa 7) : Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB, tự sát tại Căn Cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho ) ngày 30.4. 1975.
    3). Thiếu Tá Nguyễn Văn Chúc (khóa 8) : Thuộc Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ TTM, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    4). Trung Tá Nguyễn Xuân Tiêu (khóa 8) : Tuẩn tiết tháng 4 năm 1975 tại tỉnh Bình Định.
    5). Đại Tá Phạm Tường Chinh (khóa 8) : Tuẩn tiết tại tư gia ở Sài-Gòn ngày 30.4.1975.
    6). Trung Tá Nguyễn Định Chi (khóa 10) : Phụ Tá Chánh Sở 3 An Ninh Quân Đội, tuẩn tiết ngày 30.4.1975.
    7). Đại Tá Nguyễn Bùi Quang (khóa 8) : Tự sát ngày 30.4.1975.
    8). Trung Tá Nguyễn Văn Đức ( khóa 11) : Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Giao Thông Công Lộ, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    9). Trung Tá Võ Văn Đường (khóa 11) : Chỉ Huy Trưởng CSQG tỉnh Chương Thiện, không đầu hàng, chiến đấu đến cùng, bị bắt và bị CS xử tử tại tỉnh Chương Thiện ngày 30.4.1975.
    10). Thiếu Tá Lê Vĩnh Xuân (khóa 10) : Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Quân Báo của Biệt Khu Thủ Đô, tự sát cùng vợ, con tại Sài- Gòn ngày 30.4.1975.
    11). Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (khóa 16) : Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 Sư Đoàn 22 BB, tự sát ngày 2.4.1975 tại Qui-Nhơn thuộc tỉnh Bình Định.
    12 Trung Tá). Phan Ngọc Lương (khóa 17) : Không trình diện CS sau 30.4.1975, tham gia các Tổ Chức Phục Quốc, chống Cộng, bị CS bắt và xử tử tại Huế ngày 9.9.1979.
    13). Thiếu Tá Phạm Văn Thái (khóa 20) : Tự sát tại tư gia ở tỉnh Ninh Thuận vào trưa ngày 2.4.1975 sau khi nghe tin tỉnh Khánh Hòa bị thất thủ.
    14). Thiếu Tá Huỳnh Túy Viên (khóa 20) : Quận Trưởng quận Đầm Dơi tỉnh An Xuyên (Cà-Mau), bị bắt và bị xử tử tại Sân Vận Động Cà-Mau ngày 30.4.1975. Anh đã can đảm không cho kẻ thù bịt mắt khi súng hướng về phía Anh và đã anh dũng hô to " Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm " khi bị xử bắn.
    15). Thiếu Tá Tôn Thất Trân (khóa 20) : Gốc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, là em trai của Đại Tá Tôn Thất Soạn, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Hậu Nghĩa. Thiếu Tá Trân là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Địa Phương Quân/ Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Không đằu hàng CS, chiến đấu đến cùng, bị bắt và bị xử tử ngày 30.4.1975 tại Hậu Nghĩa. Anh đã anh dũng chửi thẳng vào mặt kẻ thù CS " Chúng mày là bọn không có chính nghĩa " trước khi bị xử bắn.
    16). Đại Úy Hoàng Đình Đạt (khóa 20) :Trưởng Ban 4 của Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18BB, Anh đã có giấy nghỉ phép trong tay, nhưng trước tình hình chiến sự ác liệt của Mặt Trận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh, anh đã tình nguyện ở lại chiến đấu cùng đồng đội và đã hy sinh tại mặt trận vào ngày 30.4.1975.
    17). Đại Úy Trịnh Lan Phương (khóa 21) : Thuộc Phủ Tổng Thống VNCH, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    18). Đại Úy Hoàng Trọng Khuê (khóa 21) : Sau ngày 30.4.1975, không trình diện CS, tham gia các Tổ Chức Phục Quốc, chống Cộng, bị bắt năm 1978, rồi bị giam cầm, hành hạ dã man và bị xử bắn ngày 14.6.1980 tại Gò Cả tỉnh Quảng Nam.
    19). Trung Úy Quách Văn Sở (khóa 24) : Thuộc binh chủng Nhảy Dù, ngày 26.4.1975 có giấy nghỉ phép nhưng không đi, trở vào Trại Hoàng Hoa Thám Nhảy Dù, cùng đồng đội chiến đấu và hy sinh vào ngày 30.4.1975.
    20). Trung Úy Nguyễn Đình Giang (khóa 25) : Đại Đội Trưởng Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn 50, Sư Đoàn 25 BB, chiến đấu đến cùng và tự sát vào ngày 30.4.1975 tại Cầu Khởi tỉnh Tây Ninh.
    21).Trung Úy Vy Văn Đạt (khóa 25) : Đại Đội Trưởng Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân, bị thương và tự sát ngày 30.4.1975.
    22). Các Thiếu Úy Nguyễn Hữu Thành, Phạm Ngọc Châu, Lê Khán Chiến và Nguyễn Ngọc Lợi, là các Tân Sĩ Quan của khóa 28, đáo nhận đơn vị vào ngày 21.4.1975, họ đã cùng đồng đội anh dũng chiến đấu đến những viên đạn, giọt máu cuối cùng và đã hy sinh vào ngày 30.4.1975.
    Và còn rất nhiều sĩ quan khác nữa của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã bất khuất, anh hùng hy sinh trong ngày 30.4.1975.

    C. NHỮNG SĨ QUAN CỦA TRƯỜNG VÕ BỊ QUỚC GIA VIỆT NAM BỊ CỘNG SẢN SÁT HẠI, XỬ TỬ, HÀNH HẠ, ĐÀY ĐỌA DÃ MAN CHO ĐẾN CHẾT TRONG CÁC TRẠI TÙ KHỔ SAI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975.
    ( Xin được ghi nhận Tổng Quát và chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót ... ).


    1). Đại Tá Nguyễn Bá Thìn tự Long (khóa 8) : Chết tại trại tù Yên Bái năm 1976.
    2). Trung Tá Lồ Văn E (khóa 8) : Chết tại trại tù Gia Trung năm 1981.
    3). Đại Tá Ngô Hoàng (khóa 8) : Bị CS bắn chết tại trại tù Kỳ Sơn tỉnh Quảng Nam.
    4). Trung Tá Đoàn Minh Viêm (khóa 8) : Chết tại trại tù Suối Máu tháng 12 năm 1975.
    5). Năm (5) sĩ quan của khóa 14, bị CS sát hại trong các trại tù của CSVN gồm có : Nguyễn Thành Long (Suối Máu), Tôn Thất Luân (Vĩnh Quang), Lưu Văn Chuyền (Sơn La), Võ Tín (Hoàng Liên Sơn), và Nguyễn Đỗ Tước (Yên Bái).
    6). Nguyễn Văn Nhiều (khóa 14) : Sau 30.4.1975, bị giam và tự vận trên đường bị chuyển ra Bắc.
    7). Đại Tá Đặng Phương Thành (khóa 16) : Bị giam, trốn trại vượt ngục, bị bắt lại và bị hành hạ, tra tấn cho đến chết vào ngày 7.9.1979 tại trại tù Yên Bái.
    8). Trung Tá Võ Vàng (khóa 17) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Kỳ Sơn tỉnh Quảng Nam vào tháng 7 năm 1977.
    9). Thiếu Tá Phạm Văn Tư (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Suối Máu ngày 22.2.1976.
    10). Thiếu Tá Trần Văn Bé (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Suối Máu ngày 9.4.1976
    11). Thiếu Tá Trần Văn Khánh (khóa 19) : Bị giam tại trại tù Long Giao, trốn trại bị CS bắt và sát hại chết năm 1976.
    12). Thiếu Tá Trương Đình Phước (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Tiên Lãnh tỉnh Quảng Nam 15.12.1979.
    13). Đại Úy Lê Trọng Tài (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Bù Gia Mập năm 1977.
    14). Trung Tá Huỳnh Như Xuân (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tháng 12 năm 1979 tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam.
    15). Trung Tá Lê Văn Ngôn (khóa 21):Bị giam và bị CS hành hạ, đọa đày dã man và bị kiệt lực đến chết tại Yên Bái 19.7.1978.
    16). Đại Úy Nguyễn Thuận Cát (khóa 24) : Bị giam và bị CS sát hại chết trong trại tù của CSVN.
    17). Trung Úy TQLC Nguyễn Ngọc Bửu (khóa 25) : Bị giam, trốn trại và vượt thoát khỏi trại tù A.20 Xuân Phước tỉnh Quảng Nam ngày 13.11.1980, nhưng một thời gian ngắn sau đó bị bắt lại và bị xử tử.
    18). Hải Quân Trung Úy Hoàng Tân (khóa 25) : Bị giam và trốn thoát khỏi trại tù A.20 Xuân Phước tỉnh Quảng Nam, trốn về được Đà-Lạt, nhưng sau đó bị bắt và bị xử tử tại Đa Thiện, thành phố Đà-Lạt.
    19). Đại Úy Hoàng Văn Nghị (khóa 23) : Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 67 Biệt Động Quân, bị giam, vượt trại tù bị CS bắt lại và đem xử bắn.
    20). Thiếu Úy Trần Hữu Sơn (khóa 28) : Bị giam và bị CS tra tấn cho đến chết tại trại tù Bình Điền, Huế.
    21). Thiếu Úy Lưu Đức Sơn (khóa 28) : Bị giam, vượt ngục, trốn trại và bị CS bắn chết.
    22). Thiếu Úy Trần Duy Hiến (khóa 28) : Bị giam và bị CS hành hạ cho đến chết trong trại tù của CSVN.
    23). Và có một số sĩ quan thuộc khóa 28, có người tham gia các tổ chức Phục Quốc, hoặc có người trốn trại và biệt tích mà tính đến nay, KHÔNG CÓ TIN TỨC, KHÔNG BIẾT SỐ PHẬN CỦA HỌ RA SAO ? ( Ai cũng tin chắc rằng họ đã chết ). Đó là các Thiếu Úy : Trần Văn Danh, Trần Hữu Dược, Ngô Xuân, Phạm Văn Bê, Lương Đình Phong, Nguyễn Văn Sáng, Lê Chí Thành, Nguyễn Trần Bảo, Dương Hợp, Nguyễn Gia Lê, Nguyễn Văn Chọn và Trần Quang Tâm.
    ... Và chắc chắn còn nhiều chiến sĩ anh hùng của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ... bị CSVN sát hại chết hoặc xử tử ...


    E. NHỮNG TỬ SĨ ANH HÙNG CỦA TRƯỜNG VBQG/VN TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG.


    - Không chấp nhận và kiên cường chống lại mục tiêu bành trướng và thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản (mà CS Bắc Việt là tay sai) trên đất nước Việt Nam của những người Việt Nam yêu nước đã có từ trước, sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Đặc biệt là sau Hiệp Định Genève năm 1954, đất nước Việt Nam được chia ra thành 2 miền Nam, Bắc với 2 quốc gia theo hai thể chế chính trị khác nhau : Miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản, là tay sai đắc lực, ngoan cuồng cho CS Quốc Tế, tiếp tục mục tiêu xâm lăng và muốn Nhuộm Đỏ toàn cõi đất nước Việt Nam, và đã mở CUỘC XÂM LĂNG MIỀN NAM VN ... Miền Nam VN theo Chủ Nghĩa Quốc Gia Tự Do và thực hiện hai chế độ Đệ 1 và Đệ 2 Việt Nam Cộng Hòa với mục tiêu xây dựng đất nước theo LÝ TƯỞNG TỰ DO và CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA ... và tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CỘNG SẢN BẮC VIỆT.
    - Với mưu mô bịp bợm và thâm độc, CS Bắc Việt đã dựng lên một tổ chức tay sai, trá hình tại miền Nam VN mang tên Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam vào năm 1960, rồi cho quân từ miền Bắc xâm nhập vào Nam, mở những trận đánh trên quy mô lớn ... trận Ấp Bắc (năm 1960), trận Bình Giã (năm 1964), trận Đồng Xoài (năm 1965) ... Tổng Công Kích, Tổng Tấn Công vào Tết Mậu Thân (năm 1968), và tàn bạo, ác liệt vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 với những trận đánh An Lộc, Kontum, Bình Định, Quảng Trị ... và những chiến sĩ anh hùng của QL/VNCH đã kiên cường chống lại mọi cuộc tấn công của Cộng quân để bảo vệ từng tấc đất cho quê hương miền Nam thân yêu.
    - Rồi đến Hiệp Định Ba-Lê năm 1973, CS Bắc Việt lại vi phạm Hiệp Định và mở những cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ miền Nam, và ác liệt nhất từ đầu năm 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Trong cuộc chiến đấu chống Cộng vì Lý Tưởng Tự Do và Chính Nghĩa Quốc Gia, toàn thể Quân, Dân, Cán Chính VNCH đã làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình trong những hoàn cảnh cực kỳ cam go oan nghiệt nhưng vẫn luôn luôn thể hiện tinh thần anh dũng, không khiếp sợ trước quân thù CS.
    - Và điểm đặc biệt xin được ghi nhận riêng đối với những chiến sĩ anh hùng của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA (mà trong đó có những sĩ quan xuất thân từ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM ) ... đã có những người đã hy sinh mạng sống (tử sĩ), đã có những người đã bị thương (cả nặng lẫn nhẹ), đã có những người đã trở thành tàn phế (thương phế binh) ... và kể cả những người đã chết sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong các lao tù của CSVN ... và những người hiện nay đang còn sống tại Việt Nam cũng như khắp mọi nơi trên thế giới. Tất cả những người chiến sĩ của QL/VNCH nầy phải được Tổ Quốc và Người Dân Việt Nam ( đặc biệt là những người dân sống ở miền Nam VN), trang trọng dành cho một sự Vinh Danh, Tưởng Niệm, Thương Tiếc ( những người đã chết) và Tri Ân ... vì họ đã tạo nên một THIÊN ANH HÙNG CA CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM.
    - Trong phạm vi hạn chế của bài viết nầy, viết về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, người viết (trong khả năng hiểu biết hạn hẹp), xin phép được nêu tên một số TỬ SĨ ANH HÙNG ( đại diện cho toàn thể Tử Sĩ đã hy sinh) của các khóa của TVBQGVN), đã góp phần vào Thiên Anh Hùng Ca của TVBQG/VN và của QL/VNCH.

    - Từ ngày thành lập (năm 1948) cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường VBQG/VN ( danh xưng sau cùng) với 31 khóa, có hơn 6000 sĩ quan tốt nghiệp và 463 SVSQ, những Chiến Sĩ Anh Hùng nầy đã phục vụ trong toàn thể các đơn vị Hải, Lục và Không Quân của QL/VNCH và họ đã chiến đấu can trường và họ đã có người hy sinh trên mọi mặt trận cũng như hy sinh trong mọi nhiệm vụ, công tác mà QL/VNCH đã giao phó


    * KHÓA 1 : (ra trường năm 1949) : những anh hùng tử sĩ của khóa 1, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Văn Thản, tử trận vào cuối năm 1949 tại Bắc Việt, Cố Trung Úy Lê Văn Thông, tử trận năm 1949 tại Trung Việt, Cố Trung Úy Cao Hoàng Phiên, tử trận năm 1950 tại Nam Việt, và ...


    * KHÓA 2 : (ra trường năm 1950) : những anh hùng tử sĩ của khóa 2, trong đó có : Cố Trung Tướng Trần Thanh Phong, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 1.12.1972 tại tỉnh Phú Yên. Ông đã từng giữ các chức vụ : Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB (năm 1959), Tư Lệnh Sư Đoàn 1 BB (năm 1963), Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB (năm 1964), Tham Mưu Trưởng Liên Quân Bộ TTM (1967), Tổng Thanh Tra QL/VNCH (1969), Tổng Trưởng Xây Dựng Nông Thôn (1969), Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (1971) và sau cùng là Phụ Tá Đặc Biệt Thủ Tướng VNCH. và nhiều anh hùng tử sĩ khác nữa ...


    * KHÓA 3 : (ra trường năm 1951) : những anh hùng tử sĩ của khóa 3, trong đó có : Cố Trung Úy Hoàng Thúy Đồng, hy sinh năm 1951 tại Bắc Việt, Cố Trung Úy Huỳnh Văn Louis, hy sinh năm 1951 tại Bắc Việt, Cố Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Phước, Phụ Tá Tư Lệnh QĐ4, QK4, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 18.5.1971 tại QĐ4, QKK4, và ...


    * KHÓA 4 : (ra trường tháng 12 năm 1951) : những anh hùng tử sĩ của khóa 4, trong đó có : Cố Trung Úy Hà Phủ Kính, tử trận tại tỉnh Rạch Giá ngày 14.6.1952, Cố Trung Tá Lê Văn Ba, tử trận ngày 30.1.1965 tại tỉnh Vĩnh Long, Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh QĐ4, QK4, tử nạn phi cơ ngày 2.5.1970 tại Vùng 4 Chiến Thuật, vùng biên giới Việt Nam - Campuchia,và ...


    * KHÓA 5 : (ra trường tháng 4 năm 1952) : những anh hùng tử sĩ của khóa 5, trong đó có : Cố Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BBB, tử trận ngày 24.4.1972 tại Căn Cứ Tân Cảnh tỉnh Kontum, và ...


    * KHÓA 6 : (ra trường tháng 10 năm 1952) : những anh hùng tử sĩ của khóa 6, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Văn An, Cố Trung Úy Nguyễn Văn Cừ (cả 2 thuộc binh chủng Thiết Giáp và hy sinh tại chiến trường Bắc Việt năm 1953), Cố Trung Úy Hà Văn Đồng, hy sinh tại chiến trường Cao Nguyên, và ...


    * KHÓA 7 : (ra trường tháng 2 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 7, trong đó có : Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 8.9.1968 tại tỉnh Quảng Đức, và ...


    * KHÓA 8 : (ra trường tháng 6 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 8, trong đó có : Cố Chuẩn Tướng Lý Đức Quân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 BB, tử nạn phi cơ trên đường công tác tại tỉnh Bình Dương ngày 25.5.1973, và ...


    * KHÓA 9 : (ra trường tháng 8 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 9, trong đó có : Cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhâm, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, hy sinh tại quận Đồng Xoài (Phước Long), ngày 13.6.1965, và ...


    * KHÓA 10 : (ra trường tháng 6 năm 1954) : những anh hùng tử sĩ của khóa 10, trong đó có : Đỗ Hữu Hạnh (1955), Bùi Ngọc Danh (1960), Đỡ Văn Gấm (1963), Cố Chuẩn Tướng Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, tử nạn phi cơ trên đường công tác tại chiến trường An Lộc tháng 4 năm 1972, và ...


    * KHÓA 11 : (ra trường tháng 5 năm 1955) : những anh hùng tử sĩ của khóa 11, trong đó có : Trung Tá Nguyễn Văn Đức (1975), Trung Tá Võ Văn Đường (1975 tại tỉnh Chương Thiện), và ...


    * KHÓA 12 : (ra trường tháng 12 năm 1956) : những anh hùng tử sĩ của khóa 12, trong đó có : Phạm Tất Khắc (1962 tại Long Khánh), Đỗ Đằng Vân (1965 tại Lâm Đồng), Huỳnh Thanh Đời (1965 tại Kontum), và ...


    * KHÓA 13 : (ra trường tháng 4 năm 1958) : những anh hùng tử sĩ của khóa 13, trong đó có : Cố Đại Úy Phạm Thế Hiền, thuộc Sư Đoàn 5 BB, tử trận năm 1960 tại Chiến Khu D, Cố Thiếu Tá TQLC Trần Văn Hoán, tử trận năm 1963 tại Bình Giã, và ...


    * KHÓA 14 : (ra trường tháng 1 năm 1960) : những anh hùng tử sĩ của khóa 14, trong đó có : Vũ Văn Hậu, Trần Hữu Tạo, Vương Mộng Hồng, Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tử trận năm 1972 tại Vùng 2 CT, và .


    * KHÓA 15 : ( ra trường tháng 6 năm 1961) : những anh hùng tử sĩ của khóa 15, trong đó có : Hà Thúc Bằng, Lê Minh Hoàng, Lê Ngọc Túc, và ...


    * KHÓA 16 : (ra trường tháng 12 năm 1962) : những anh hùng tử sĩ của khóa 16, trong đó có : Nhữ Văn Hải, Cố Trung Tá Hoàng Lê Cường (năm 1972), Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (Sư Đoàn 22 BB, 1975), Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc (1975), Trung Tá Đỗ Hữu Tùng (1975), và ...


    * KHÓA 17 : (ra trường tháng 3 năm 1963) : những anh hùng tử sĩ của khóa 17, trong đó có : Cố Trung Úy Phan Tấn Trí (tại Quẳng Tín), Đại Tá Võ Toàn (năm 1975 tại Vùng 1 Chiến Thuật), và ...


    * KHÓA 18 : (ra trường tháng 11 năm 1963) : những anh hùng tử sĩ của khóa 18, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Anh Vũ (1963 tại miền Đông Nam Phần), Nguyễn Văn Úc (1968), Vữ Văn Thao (1967), Cố Đại Tá Lê Huấn (Chiến trường Hạ Lào 1971).


    * KHÓA 19 : (ra trường tháng 11 năm 1964) : có 98 anh hùng tử sĩ hy sinh (trong số 391 sĩ quan tốt nghiệp) , trong đó có : TQLC Võ Thành Kháng (1964, Cố Trung Úy), Cố Trung Tá Châu Minh Kiến (1969, Sư Đoàn 5 BB), Cố trung Tá Trằn Nghĩa Châu ( Sư Đoàn 22 BB, đầu năm 1975), Cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Phước, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 31, Sư Đoàn 21 BB , tử trận ngày 18.11.1969 tại tỉnh Chương Thiện, Cố Trung Úy Biệt Động Quân Nguyễn Thái Quan (1964, Bình Giã), và ...


    * KHÓA 20 : (ra trường ngày 20.11.1965) : có 123 anh hùng tử sĩ hy sinh (trong số 407 sĩ quan tốt nghiệp), trong đó có : Cố Trung Tá Nguyễn Văn Cội ( tử trận tháng 3 năm 1972 tại Đèo Phủ Cũ, Qui Nhơn ), Nguyễn Hữu Biên (Sư Đoàn 5 BB, cuối năm 1966 tại quận Chơn Thành tỉnh Bình Long), Lê Minh Châu (tại Vĩnh Long ngày 1.1.1966), Nguyễn Xuân Hòa (tháng 6 năm 1972 tại Phong Điền, Thừa Thiên, Huế), và ...


    * KHÓA 21 : (ra trường ngày 26.11.1966) : những anh hùng tử sĩ của khòa 21, trong đó có : Huỳnh Minh Trọng, Lê Đức Hoành, Đỗ Chí Thành, và ...


    * KHÓA 22A : (ra trường ngày 02.12.1967) + KHÓA 22B : (ra trường ngày 12.12.1969) : Với tổng số 265 sĩ quan tốt nghiệp của cả 2 khóa, đã có 66 anh hùng tử sĩ đã hy sinh, trong đó có : Nguyễn Đức Phống, Trần Trọng Quỳnh, Lê Tấn Đức, và ...


    * KhÓA 23 : (ra trường ngày 18.12.1970) : Với tổng số 241 sĩ quan tốt nghiệp, khóa 23 có 55 anh hùng tử sĩ hy sinh, trong đó có : Cố Trung Úy Lương Văn Của (TQLC, tử trận năm 1971 tại Ba Lòng, Quảng Trị), Cố Đại Úy Dương Hoàng Kỳ (Đại Đội Trưởng Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 36, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, tử trận tại Mật Khu Hố Bò tỉnh Bình Dương năm 1972), Cố Đại Úy Lý Văn Phúc (Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tử trận năm 1972 tại Căn Cứ Eva, Quảng Trị), và ...



    * KHÓA 24 : (ra trường ngày 17.12.1971) : Khóa 24 với 53 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 245 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có Trần Đại Chiến (Tiểu Đoàn 6 Nhẳy Dù, hy sinh năm 1972 tại chiến trường An Lộc), Phan Hữu Tại (Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, hy sinh năm 1972 tại chiến trường Quảng Trị), Phạm Đại Tá (TQLC, hy sinh năm 1972 tại chiến trường Quảng Trị), Quách Văn Sở (Thuộc binh chủng Nhảy Dù, ngày 26.4.1975 có giấy nghỉ phép, nhưng không đi phép mà trở lại Trại Hoàng Hoa Thám Nhảy Dù cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu và hy sinh ngày 30.4.1975), và ...


    * KHÓA 25 : (ra trường ngày 15.12.1972) : Khóa 25 với 41 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 260 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có : Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Hồng (HQ.5), hy sinh trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974, Trung Úy Nguyễn Đình Giang (Sư Đoàn 25 Bộ Binh, tự sát ngày 30.4.1975 tại Cầu Khởi tỉnh Tây Ninh), Trung Úy Vy Văn Đạt (Biệt Động Quân, tự sát ngày 30.4.1975 ), và ...

    * KHÓA 26 : (ra trường ngày 18.01.1974) : Khóa 26 với 29 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 175 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có : Lê Quang Quảng (Sư Đoàn 22 Bộ Binh, hy sinh, chỉ 23 ngày sau khi đáo nhậm đơn vị), Nguyễn Cảnh Hưng (Sư Đoàn 22 Bộ Binh), Tô Văn Nhị (Nhảy Dù), Lê Hải Bằng (Nhảy Dù), Diệp Thanh Xuân Phấn (Thủy Quân Lục Chiến), Lê Văn Cao (Thiết Giáp, hy sinh vào những giờ phút cuối cùng của trận chiến vào ngày 30.4.1975 tại Ấp Tân Bắc, Hố Nai tỉnh Biên Hòa, và ...


    * KHÓA 27 : (ra trường ngày 27.12.1974) : Những tử sĩ anh hùng của khóa 27, trong đó có : Hoàng Văn Nhuận (Thủ Khoa của khóa 27, ra trường, chọn binh chủng Thiết Giáp. Đang theo học tại Trường Thiết Giáp, những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Cộng Quân tấn công vào Trường Thiết Giáp, Thiếu Úy Nhuận đã cùng đồng đội chiến đấu chống Cộng đến cùng và đã hy sinh vào ngày 30.4.1975, Nguyễn Viết Hùng (Thủy Quân Lục Chiến), Tạ Tử Anh (Nhảy Dù), Trần Đức Bằng (Biệt Động Quân), Nguyễn Văn Nhành (Nhảy Dù), và ...


    * KHÓA 28 : (ra trường ngày 21.4.1975) : Những anh hùng tử sĩ của khóa 28 gồm có các Tân Sĩ Quan có tên sau đây :
    1). Thiếu Úy Nguyễn Hữu Thành (Thủy Quân Lục Chiến).
    2). Thiếu Úy Phạm Ngọc Châu (Nhảy Dù).
    3). Thiếu Úy Lê Khán Chiến (Sư Đoàn 22 Bộ Binh).
    4). Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Lợi ( hy sinh tại Thủ Đức).


    * PHẦN KÉT LUẬN :


    Kính thưa quý Niên Trưởng và quý Chiến Hữu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Kính thưa các Bậc Trưởng Thuong và các Đồng Hương Việt Nam.
    Kính thưa quý Anh Chị ( Bạn Bè và Thân Hữu ) và thưa Các Bạn Trẻ.


    - Để thực hiện bài viết về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, chúng tôi đã sưu tầm, tham khảo, tra cứu (thỉnh thoảng có phần trích đăng) những tài liệu, bài viết có liên quan đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (mà trong đó có Trường VBQG/VN) của nhiều tác giả khác nhau, của các tổ chức, hội đoàn, của các cơ quan truyền thông báo chí, các trang mạng Internet ...

    - Đồng thời, cũng có những tạp chí, sách, báo THẬT QUÝ BÁU và QUAN TRỌNG mà chúng tôi cũng tham khảo và tra cứu, trích đăng như : Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Giai Đoạn Hình Thành, 1946 - 1955 ( Bộ TTM/QL/VNCH ), Niên Giám Sĩ Quan (1971), Niên Giám Sĩ Quan (1974) của Bộ TTM/QL/VNCH, Huấn Thị Điều Hành Căn Bản (Bộ TTM/QL/VNCH năm 1971), Các đặc san Chiến Sĩ Cộng Hòa (Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QL/VNCH trước năm 1975), Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập (Nguyễn Đức Phương), Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Theo Dòng Lịch Sử (Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ,Thực Hiện năm 2017), Binh Chủng Nhảy Dù, 20 Năm Chiến Sử (Võ Trung Tín và Nguyẽn Hữu Viên), các Đặc San Đa Hiệu (Cơ Quan Ngôn Luận của Tổng Hội cựu SVSQ Trường VBQGVN), Embassy Of The United Of America Defense Attache Office FPO San Francisco 96620, Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Phạm Phong Dinh), các Đặc San Mũ Nâu ( Binh Chủng Biệt Động Quân), và nhiều tài liệu, sách báo khác nữa ...

    - Và đặc biệt, cá nhân chúng tôi đã có nhiều dịp liên lạc, trao đổi, học hỏi và tham khảo ý kiến với một số Sĩ Quan đã xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trong đó có :
    * Trung Tướng Trần Văn Trung (khóa 1) : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QL/VNCH.
    * Đại Tá Trần Công Liễu (khóa 8) : Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân QL/VNCH, Thị Trưởng kiêm Đặc Khu Trưởng Cam-Ranh thuộc Quân Đoàn 2, Quân Khu 2, Vùng 2 Chiến Thuật QL/VNCH.
    * Anh Hoàng Thụy Long (khóa 14) : Thiếu Tá, thuộc Binh Chủng Quân Cảnh QL/VNCH.
    * Anh Trần Viết Huấn (khóa 23) : Đại Úy, thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân QL/VNCH.
    * Anh Nguyễn Viết Ấn (khóa 24) : Đại Úy, thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh, QĐ1, QK1 của QL/VNCH.
    * Anh Trần Hữu Hạnh (khóa 27) : Thiếu Úy, thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, QĐ4, QK4 của QL/VNCH.


    - Với mục đích và ước mong là được góp một phần nhỏ (trong khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình) vào việc viết lại, ghi lại những Trang Sử Oai Hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến đấu chống Cộng vì Lý Tưởng Tự Do và Chính Nghĩa Quốc Gia (trước năm 1975), và cũng ước nguyện để cho CÁC THẾ HỆ CON, CHÁU VIỆT NAM MAI SAU HIỂU ĐƯỢC, BIẾT ĐƯỢC VÀ THẤY ĐƯỢC CÔNG LAO ANH DŨNG KIÊN CƯỜNG VÀ CUỘC CHIẾN ĐẤU THẬT HÀO HÙNG CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA, TRONG ĐÓ CÓ NHỮNG SĨ QUAN XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.


    - Chúng tôi cũng xin phép được XIN LỖI CHUNG và CÁM ƠN CHUNG đến các tác giả, các tổ chức, hội đoàn, các cơ quan truyền thông báo chí đã có những tài liệu, bài viết liên quan đến Trường VBQG/VN mà chúng tôi đã tham khảo, tra cứu, trích đăng ... và cũng xin chân thành cám ơn quý vị sĩ quan xuất thân từ TVBQG/VN mà chúng tôi đã nêu tên ở trên đã cho chúng tôi học hỏi và tham khảo ý kiến.


    - Và lời xin thưa sau cùng : Thời gian khá dài của năm tháng đã qua và chồng, chất, khả năng của người viết cũng rất hạn hẹp, bài viết nầy chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết và sai sót. Rất mong nhận được sự chỉ giáo, sửa chữa, bổ túc và sự cảm thông của tất cả mọi quý vị.
    CHÂN THÀNH CÁM ƠN.
    Ba-Lê, ngày 23 tháng 10 năm 2020.
    Nguyễn Vân Xuyên.
    Khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức QL/VNCH.



    THƯƠNG TIẾC
    CHIẾN SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA.
    ***
    Với mái đầu xanh giờ đã bạc
    Nhưng hồn chinh chiến vẫn trong tim
    Nhớ tháng Tư xưa lòng tan nát
    Nghe lệnh Đầu Hàng ngực buốc đau
    Hỡi người Lính cũ năm tháng ấy
    Buông súng tan hàng nay ở đâu ?
    THƯƠNG người chiến sĩ thời ngang dọc
    TIẾC mộng không thành nợ núi sông.
    ***
    Ba-Lê, 23.10.2020.
    Nguyễn Vân Xuyên.


    * BÀI ĐỌC THÊM .
    Kính thưa quý vị.
    - Cá nhân Tôi (Nguyễn Vân Xuyên), có theo học, có nghiên cứu và có thực hành môn LÝ SỐ HỌC. Khi thực hành, Tôi cũng thu được một số KÉT QUẢ KHẢ QUAN HẠN CHẾ. Thầy dạy cho Tôi môn Lý Số Học là một người thân (bà con họ hàng) trong gia đình bên Vợ của Tôi. Ông là một người gốc Trung Hoa nhưng ông sinh ra ở Việt Nam. Tổ phụ của ông là những người Trung Hoa đã di cư đến Việt Nam vào thời kỳ " Triều đại nhà Minh bên Trung Hoa bị sụp đổ và nước Trung Hoa bị cai trị bởi Mãn Thanh".
    - Ở Việt Nam, ông Thầy dạy Lý Số Học cho Tôi là một Thầy Thuốc Đông Y và đồng thời là một Thầy chuyên coi về Tử Vi và Lý Số Học và Tôi chỉ thụ huấn ở ông môn Lý Số Học mà thôi. Tôi theo học ông ở hải ngoại từ năm 1985 đến năm 1995 và sau đó thì tự nghiên cứu thêm và rút lấy kinh nghiệm qua thực hành và ở Pháp cũng đã có nhiều người nhờ Tôi coi dùm Lý Số và hoàn toàn MIỄN PHÍ vì Tôi là một người luôn luôn chủ trương : TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI ... trong cuộc sống, tình cảm là quan trọng, xã giao chỉ là một lời chào hỏi ... và một ly nước trà, một ly cà-phê mà thôi ...


    - Sau khi viết một bài về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, Tôi quyết định lấy một Lý Số cho TVBQG/VN và thấy có những CON SỐ ĐỊNH MỆNH 13 dành cho ngôi trường nầy ... Thật sự Tôi cảm thấy thật BUỒN và không thể ngờ là như thế được, thật quá sức tưởng tượng của cá nhân Tôi.
    - Tôi xin phép được thưa trước : Đây là phần nghiên cứu, chuẩn đoán và trình bày của CÁ NHÂN TÔI. Xin quý vị vui lòng và thông cảm đừng và không đặt ra vấn đề ĐÚNG hay SAI ... mà chỉ xem như quý vị đang đọc một bài viết trong đó có " NHỮNG TRÙNG HỢP TÌNH CỜ, HUYỀN BÍ VÀ ĐỊNH MỆNH " của cuộc đời. Xin đọc để giải trí cho vui mà thôi.


    *** NHỮNG CON SỐ 13 ĐỊNH MỆNH :
    1). Con số 13 Định Mệnh :
    - Năm 1948, Hoàng Đế, Quốc Trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân ký một sắc lệnh thành Lập Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Đập Đá, Huế, mà sau nầy là TVBQG/VN . Số 1948 theo Lý Số Học chia làm 2 vế : 19 và 48. Ghi nhận theo Lý Số Học cho kết quả : 19 + 48 = 67 và 6 +7 thành 13. Đúng là con số 13 Định Mệnh.
    - Hoàng Đế, Quốc Trưởng sinh năm 1913 ... con số sau cùng là con số 13 Định Mệnh.
    - Hoàng Đế Bảo Đại là vị Vua cuối cùng và thứ 13 của Triều Nguyễn ... cũng là con số 13 Định Mệnh.


    2). Con số 13 Định Mệnh :
    - Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có tất cả 13 nhiệm kỳ (tức 13 lần) Chỉ Huy Trưởng là người Việt Nam. Có tất cả 11 người, nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, mỗi người phụ trách 2 nhiệm kỳ (2 lần).
    - Tóm lại, có 13 nhiệm kỳ, tức có 13 lần. Con số 13 Định Mệnh.


    3). Con số 13 Định Mệnh :
    - Miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa có 4 vị Tổng Thống (trong đó có I vị Tổng Thống đã 2 lần làm Chỉ Huy Trưởng Trường VBQG/VN, đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ). Bốn (4) vị Tổng Thống VNCH, đó là :
    * Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901. Con số sau cùng là con số 1.
    * - Nguyễn Văn Thiệu, sinh năm 1923. Con số sau cùng là con số 3.
    * - Trần Văn Hương, sinh năm 1903. Con số sau cùng là con số 3.
    * - Dương Văn Minh, sinh năm 1916. Con số sau cùng là con số 6.
    - Ghi nhận theo Lý Số Học cho thấy : 1 + 3 + 3 + 6 = 13. Con số 13 Định Mệnh


    4). Con số 13 Định Mệnh :
    - Chính thể VNCH có 2 vị Tổng Thống do dân bầu qua một cuộc Bầu Cử Chính Thức, đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Trường VBQG/VN, từ khóa 1 đến khóa 29 có tổ chức 30 lần Lễ Mãn Khóa (khóa 22 có 2 lần : 22A và 22B).
    - TT Ngô Đình Diệm đã chủ tọa 5 lần Lễ Mãn Khóa, đó là các khóa : 12, 13, 15, 16 và 17. Con số 5.
    - TT Nguyễn Văn Thiệu đã chủ tọa 8 lần Lễ Mãn Khóa, đó là các khóa : 11, 20, 21, 22A, 22b, 23, 26 và 27. Con số 8.
    - Ghi nhận theo Lý Số Học, có được : 5 + 8 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    5). Con số 13 Định Mệnh :
    - Ngày 23.10.1955, tại miền Nam VN có một cuộc Trưng Cầu Dân Ý để truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Lúc bấy giờ, trong dân gian có câu Xanh bỏ giỏ, Đỏ bỏ thùng ". Lá phiếu màu Xanh tượng trưng cho QT Bảo Đại và lá phiếu màu Đỏ tượng trưng cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Kết quả là QT/Bảo Đại bị truất phế. Sau đó, tên của khóa 1 của TVBQG/VN (tên là khóa Bảo Đại) năm 1948 được chính thức thay đổi thành tên khóa Phan Bội Châu.
    - Xin được ghi nhận theo Lý Số Học như sau :
    * Ngày, tháng, năm truất phế QT/Bảo Đại : 23.10.1955 = 2 + 3 + 1 + 20 ( 1 + 9 + 5 + 5 ) = 26. Con số 26.
    * Tên khóa 1 năm 1948 thành khóa Phan Bội Châu : 1 + 19 + 48 = 68. Con số 68.
    * Xin được có kết quả : 26 + 68 = 94 tức là 9 + 4 = 13. Con sớ 13 Định Mệnh.


    6). Con số 13 Định Mệnh :
    - Cuộc Đảo Chánh ngày 1.11.1963 để lật đổ TT Ngô Đình Diệm. Yếu tố chính và quan trọng đưa đến chiến thắng sau cùng của cuộc Đảo Chánh là nhờ vào lực lượng của Sư Đoàn 5 BB dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu. (Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, xuất thân khóa 1 (con số 1) của TVBQG/VN
    - Xin được ghi nhận theo Lý Số Học như sau :
    * Khóa 1 (TVBQG/VN), con số 1 và ngày Đảo Chánh 1.11.1963 tức là : 1 + 1 +11 + 19 ( 1 + 9 + 6 + 3 ) = 32. Con số 32.
    * Năm 1963, TT Ngô Đình Diệm được 62 tuổi (ông sinh năm 1901). Con số 62.
    - Tóm lại, kết quả có được : 32 + 62 = 94 tức là 9 + 4 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    7). Con số 13 Định Mệnh :
    - Lúc xảy ra cuộc Đảo Chánh ngày 1.11.1963, lúc đó TT Ngô Đình Diện được 62 tuổi (ông sinh năm 1901). Con số 62. Người cầm đầu và lãnh đạo cuộc Đảo Chánh là Trung Tướng Dương Văn Minh, ông được 47 tuổi (ông sinh năm 1916). Con số 47.
    - Số tướng lãnh nồng cốt của cuộc Đảo Chánh là 8 người (xin chỉ ghi nhận những người đang mang cấp Tướng). Con số 8.
    1. Trung Tướng Dương Văn Minh.
    2. - Trần Văn Đôn.
    3. - Nguyễn Ngọc Lễ.
    4. Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm.
    5. - Tôn Thất Đính.
    6. - Lê Văn Kim.
    7. - Phạm Xuân Chiểu.
    8. - Mai Hữu Xuân.
    - Cuộc Đảo Chánh là ngày 1.11.1963 : 1 + 1 + 1 + 1 + 9 + 6 + 3 = 22. Con số 22.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học : 62 + 47 + 8 + 22 = 139 tức là 1 + 3 + 9 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    8). Con số 13 Định Mệnh :
    - Tổng Thống Dương Văn Minh, Tổng Thống VNCH sau cùng và chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 30.4.1975 và ông đã có đến chủ tọa Lễ Mãn Khóa 18 của TVBQG/VN (khóa Bùi Ngươn Ngãi) trên cương vị Quốc Trưởng năm 1963. Ông sinh ngày 19 tháng 2 năm 1916.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học :
    * Ngày, tháng, năm, sinh của QT/Dương Văn Minh : 19.2.1916 : 1 + 9 + 2 + 1 + 9 + 1 + 6 = 29. Con số 29.
    * Chấm dứt nhiệm vụ : 3O.4.1975 : 3 + 4 +1 + 9 + 7 + 5 : 29. Con số 29.
    - Kết quả cho thấy : 29 + 29 = 58 tức là 5 + 8 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    9). Con số 13 Định Mệnh :
    - Các vị lãnh đạo thuộc phe Quốc Gia Việt Nam, đã có 5 vị ( con số 5), đã đảm nhận vai trò Quốc Trưởng ( không phải là danh xưng Tổng Thống do dân bầu ra qua một Cuộc Bầu Cử Chính Thức). Đó là :
    * Quốc Trưởng Bảo Đại (1947, 1948), ông sinh năm 1913. Con số sau cùng 13.
    * QT. Dương Văn Minh (1963), ông sinh năm 1916. Con số sau cùng 16.
    * QT Nguyễn Khánh (1964), ông sinh năm 1927. Con số sau cùng 27.
    * QT Phan Khắc Sửu (1964), ông sinh năm 1901. Con số sau cùng 1.
    * Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu, ông sinh năm 1923. Con số sau cùng 23
    - Tất cả các vị trên (ngoại trừ QT Phan Khắc Sửu), đều đã đến chủ tọa Lễ Mãn Khóa của TVBQG/VN.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học : 5 (vị) + 13 + 16 + 27 + 1 + 23 = 85 tức là 8 + 5 = 13. Con số 13. Định Mệnh.

    Ba-Lê, ngày 23 tháng 10 năm 2020.
    Ghi lại với sự THẤT VỌNG và MỘT NỖI BUỒN THẬT LỚN.
    Nguyễn Vân Xuyên

    *** TB : Kính thưa quý vị,
    -Tôi đang nghiên cứu, chuẩn đoán và thiết lập các BẢN LÝ SỐ HỌC dành cho VIỆT NAM ( Việt Nam Quốc Nội tức CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ), còn Cộng Đồng Việt Nam tại Hải Ngoại thì chắc quý vị đã biết quá rõ, xin MIẼN BÀN, PHÁP QUỐC và HOA KỲ. Riêng Hoa Kỳ, theo lời yêu cầu của một số Bạn Bè, Thân Hữu ( họ thuộc cả 2 phe Dân Chủ và Cộng Hoà ), hỏi Tôi về KẾT QUẢ CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG HOA KỲ ( 2020 - 2024 ). Tôi là một người Việt Nam sinh sống tại Pháp, không quan tâm, không có ý kiến, không ủng hộ cá nhân hay đảng phái nào ở Hoa Kỳ ... Nhưng theo LÝ SỐ HỌC mà Tôi chuẩn đoán thì : TỔNG THỐNG HOA KỲ ĐƯƠNG NHIỆM
    D. TRUMP SẼ TÁI ĐẮC CỬ NHIỆM KỲ 2 ( 2020 - 2024 ). Điều nầy Tôi đã trả lời cho những Bạn Bè, Thân Hữu ở Hoa Kỳ thuộc cả 2 phe.
    - Phe ủng hộ Ông D.TRUMP nói với Tôi rằng : Nếu Ông D. TRUMP tái đắc cử Nhiệm Kỳ 2, sau khi TÌNH TRẠNG CORONA CHẤM DỨT, họ sẽ mời Tôi sang Hoa Kỳ du lịch và vui chơi trong vòng 1 tháng, sẽ đài thọ vé máy bay, ăn, ở và mọi việc vui chơi, du lịch ...
    - Kính thưa quý vị. Xin hẹn quý vị trong bài viết tới, với mọi chi tiết TỐT, XẤU theo chuẩn đoàn LÝ SỐ HỌC dành cho Việt Nam, Pháp Quốc và Hoa Kỳ.

    Trân trọng kính chào.

    Nguyễn Vân Xuyên.

    Last edited by cuocsi; 04-27-2023 at 03:01 PM. Reason: ghi tâm

  8. #18
    Biệt Thự
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    4,669
    Hành quân với BĐQ cũng nhiều ( Thiện Ngôn , Tống Lê Chân ) riêng TQLC thì cứ như Lạc Long Quân với Âu Cơ , năm 72 lấy quốc lộ 1 làm ranh giới ...vùng núi giao cho Dù , vùng bãi biển cho TQLC ...vùng nào thì cũng u đầu sứt trán đến lúc tới Cổ Thành thì Dù te tue phải chuyển cho TQLC dứt điểm .

  9. #19
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Đạn Né Mình ?

    *
    Quote Originally Posted by hoài vọng View Post
    Hành quân với BĐQ cũng nhiều ( Thiện Ngôn , Tống Lê Chân ) riêng TQLC thì cứ như Lạc Long Quân với Âu Cơ , năm 72 lấy quốc lộ 1 làm ranh giới ...vùng núi giao cho Dù , vùng bãi biển cho TQLC ...vùng nào thì cũng u đầu sứt trán đến lúc tới Cổ Thành thì Dù te tue phải chuyển cho TQLC dứt điểm .

    Lúc đó, cuốc tui còn là lính mới tò te, trên đường về đơn vị khi đi qua cầu Tha La đã bị thương, đầu quấn một cuộn băng to tướng không đội dược nón sắt...
    Tưởng cũng nên nhắc lại một chút về Tha La xóm đạo, một địa danh nhờ một bài hát đã đi vào lịch sử của những hung tàn Việt cộng....
    Sau đó, BĐQ đi giải vây quận Trảng Bàng ( tỉnh Hậu Nghỉa ) bị pháo và đánh đặc công gần tan nát, tụi VC chính quy này tham gia cuộc tấn công Sài gòn hôm Têt Mậu Thân, tiểu đoàn tui đi bộ từ khuya, chạy bộ thì đúng hơn, trời tối có thấy gì đâu, súng đạn thì đầy lưng, té phát nào đau phát nấy, kệ mầy, thằng kia cứ chạy...
    Đoạn đường mười mấy cây số mà tưởng chừng như lên trời, nhìn xa xa quận Trảng Bàng bốc lửa, ruột gan cồn cào. Tới nơi lúc hừng đông, tiếng súng đạn đã giảm nhiều vì tụi Vc thấy không nuốt được Sư đoàn 25 và Địa phương Quân nên chém về hướng Củ Chi, tính qua sông Vàm vể vùng 4, bị tụi này đuổi sát qua Rỗng Tượng quần một trận Thê thãm, lúc đó Trung tá Mả Thành Nhơn ( hay Đại Tá MÃ Sanh Nhơn, tui không nhớ rỏ lắm ), có đáp trực thăng tại mặt trận trong lúc đạn bắn xuyên hông , tụi này bị kẹt cứng không lên được, ông ta xuống và đi trước phất tay " Lên mấy em, LÊN ! " tụi này hăng máu hét :" XUNG PHONG ! .khúc đuờng trăm mét trở thành số KHÔNG .
    Sau đó tiếp tục dọn đẹp tàn quân tụi nó gần CỦ Chi, phối hợp với Thiết giáp và Sư đoàn 25 BB quánh cho tụi nó TAN HÀNG ", hết về Đức hoà, Hậu nghỉa.
    Kế tiếp, tụi tui được GMC chuyển qua mặt khác của Củ Chi, giải tỏa về hướng Trị Tâm, Dầu tiếng... Kỳ này mới biết chính xác hơn là mình đụng thứ thiệt chớ không phải tụi du kích vì tụi nó xài hỏa tiểu địa không SA7 bắn rớt 1 chiếc SKYRAIDER của không quân ( 1 trong hai chiếc ) đang từ Biên Hoà với cao độ thấp bay ngang Củ Chi về hướng Tây Ninh, hỏa tiển tầm nhiệt bay theo chiếc khu trục nổ ngay động cơ, máy bay tung từng miếng trên không, tụi này chứng kiến tận mắt cảnh này mà "Bó tay" nhưng vài phút sau khi đám khói trên không tan bớt, chợt thấy " một cánh dù màu cam đang ôm gió " lơ lửng và rớt dần xuống, thì ra chàng phi công đã kịp bay ra buồng lái trước khi bị trúng hỏa tiển... Vì ở xa không đến tiếp cưu được bằng đường bộ nhưng đã báo về Củ Chi, BCH Hành quân xin L19 bao vùng cũng bị SA7 nhưng phi công xà thấp xuống né được, hú hồn ! Ông Pilote này giỏi nghen ! Trực thăng từ căn cứ Củ Chi nhờ L19 hướng dẩn đã bốc được phi công khu trục về an toàn, riêng tui thì sau cú phục kích vài phút sau, B40 và Ak47 nổ tưng bừng, khi nhìn lại áo trận bị lủng một lổ bên hông trái từ trước ra sau lưng, không biết tại mình thiếu ăn áo rộng hay tại...ĐẠN NÓ NÉ MÌNH ? VUI THIỆT "


    Chúc mọi người vui buồn với Lính
    cuocsi 2017-02-09









    Thân chào anh chị và các bạn,
    Ngày đầu tuần với nắng ấm tuy ít ỏi nhưng cũng đem lại chút yêu đời sau những ngày mưa gió, mây mù che kín.
    Trong tinh thần chia sẻ để học, hiểu, Khoa xin được Hân hạnh gởi đến tất cả anh chị em và các bạn tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, một biên soạn khá đầy đủ của anh Xuyến (ký tên dưới bài).
    Trong chúng ta, ai là người hay gia đình mà không có sự liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp tới các Chiến sĩ Sĩ quan QLVNCH ? Có thể trong chúng ta lại có bạn chính là con em của các danh tướng, hay là các chiến sĩ đã hy sinh trận mạc, có bạn cũng đã từng là sĩ quan trong các quân binh chủng Hải, Lục, Không quân, Thiết giáp, Công binh, Quân cụ, Tiếp vận hay Quân y v.v...
    Mong các anh chị và các bạn đón nhận tài liệu để tham khảo và cũng là một hình thức tri ân cho các CHIẾN SĨ, những người đã một thời “Da ngựa bọc thây”, hy sinh xương máu cho nhiều người được sống trong Tự Do no ấm của miền Nam Việt Nam trước 1975 và còn tạo ra những hậu duệ sáng chói trên mọi bình diện trong nước và Hải ngoại.
    Mời đọc và chuyển tiếp.
    Thân mến.
    Khoa


    TB: Nếu có thể được thì xin các anh chị và các bạn đóng góp thêm phần hiểu biết của mỗi người để làm cho trang Quân sử thêm giàu đẹp.

    TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.

    ************************************************** *************

    * Phần Thứ Nhất : TỔNG QUÁT.
    - Thành lập tại Đập Đá, Huế năm 1948 với danh xưng " TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM " ( còn thường được gọi thêm với tên là Trường Sĩ Quan Đập Đá, Huế ), có nhiệm vụ đào tạo các SĨ QUAN HIỆN DỊCH ra trường với cấp bậc THIẾU ÚY HIỆN DỊCH và đảm nhận chức vụ TRUNG ĐỘI TRƯỞNG trong các ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI.
    - Kể từ khi được thành lập cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường đã trải qua 3 thời kỳ với những danh xưng khác nhau như sau :
    * Trường Sĩ Quan Việt Nam ( 1948 - 1950 ) tại Đập Đá, Huế và đào tạo được hai khóa ( khóa 1 và khóa 2 ).
    * Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt ( 1950 - 1959 ) tại Đà-Lạt và đào tạo từ khóa 3 đến khóa 13.
    * TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM ( 1959 - 1975 ) tại Đà-Lạt và đào tạo từ khóa 14 đến khóa 31.


    - Cuối tháng 3 năm 1975, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ( viết tắt là TVBQG/VN ) di tản về Trường Bộ Binh Long Thành ( Trường đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ) thuộc địa phận quận Long Thành của tỉnh Biên Hòa.
    - Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Trường VBQG/VN đã đào tạo được 31 khóa ( riêng khóa 22 được chia thành hai khóa là các khác 22A và 22B ).
    - Tổng số sĩ quan được đào tạo từ khóa 1 đến khóa 29 là 6053 sĩ quan ra trường với 6018 Thiếu Úy và 35 Chuẩn Úy.
    - Riêng hai khóa 30 và 31 chưa hoàn tất và có 463 Sinh Viên Sĩ Quan ( khóa 30 có 223 SVSQ và khóa 31 có 240 SVSQ ). Và những SVSQ nầy cũng đã cùng đồng đội anh dũng cầm súng chiến đấu chống Cộng cho đến những giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4 năm 1975.


    - Theo Nghị Định số 143 NĐ của Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký ngày 19 tháng 8 năm 1950, Trường Sĩ Quan Việt Nam được cải danh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt.
    - Theo Nghị Định số 317/QP/TT ngày 29.7.1959 của Bộ Quốc Phòng, Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt cải danh thành TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM với quy chế của một Trường Đại Học bậc Cao Đẳng Chuyên Nghiệp. Nhiệm vụ đào tạo cung cấp cho QL/VNCH các sĩ quan có căn bản quân sự vững chắc, với trình độ văn hóa bậc Đại Học và thời gian thụ huấn là 4 năm.
    - Theo Sắc Lệnh 221/DQT/HC ngày 8.2.1953 và Sắc Lệnh 2018/QP/ND, tuyên dương công trạng TVBQG/VN trước Quân Đội và ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.
    - Theo Nghị Định 71/QP/CA ngày 21.11.1963 cho TVBQG/VN được mang " Dây Biểu Chương Màu Anh Dũng Bội Tinh ".
    - Trong ngày Lễ Mãn Khóa của khóa 27, Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên dương công trạng TVBQG/VN trước Quân Đội và trao gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu cho Quân Kỳ của TVBQG/VN. ( ngày 27.12.1974 ).


    - Phương Châm của Sinh Viên Sĩ Quan : " TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY ". Đây là phương châm của người SVSQ và cũng là Kim Chỉ Nam của nghệ thuật chỉ huy. Hay nói cách khác, muốn chỉ huy thuộc cấp thì phải tự thắng mình trước đã.


    - HUY HIỆU của TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM :
    " Dân tộc Việt Nam, dòng giống Tiên Rồng, với khí phách anh dũng, với truyền thống tự cường, cương quyết gìn giữ giang sơn cẩm tú mà Tổ Tiên đã để lại. Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, nơi đào tạo những cán bộ đa năng đa hiệu, có nhiệm vụ kế tục sự nghiệp của Tổ Tiên, rèn luyện tài đức trong tinh thần " Tự Thắng ", quyết tâm tranh đấu cho Chính Nghĩa Tự Do, Nền Độc Lập của Tổ Quốc và Hạnh Phúc của Đồng Bào.


    ° Rồng vàng : Tục truyền Dân Tộc Việt Nam là dòng giống Tiên Rồng. Màu vàng chỉ sự trang nghiêm cao quý.
    ° Thanh kiếm : Biểu trưng sức chiến đấu dũng cảm và tinh thần bất khuất của dân tộc.
    ° Nước Việt Nam màu trắng trên nền xanh : Màu trắng biểu hiệu lòng liêm khiết, sáng suốt, thanh bạch của người cán bộ trong nhiệm vụ bảo vệ bờ cõi Việt Nam. Màu xanh chỉ sự bao la của biển cả trời xanh, hình nước Việt Nam nằm trên Thái Bình Dương ".


    - VÕ BỊ HÀNH KHÚC : ( Tân Khóa Sinh Lê Như Hùng, Khóa 14 ).


    Ta đoàn sinh viên Võ Bị Việt Nam,
    Đồng hát khúc ca quân hành.
    Đoàn sinh viên ta siết chặt dây thân ái,
    Gieo khắp đó đây những mầm sống vui.
    Đồng thanh ca ta vui hát lên,
    Dù gian nan qua bao khó khăn,
    Đoàn sinh viên ta vui bước lên. Đi lên, đi lên, đi.
    Ta đoàn sinh viên họp đoàn vui sống,
    Gieo khắp đó đây khúc ca thanh bình.
    * Phần Thứ Hai : CÁC KHÓA HUẤN LUYỆN CỦA TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.

    A. Các khóa Sĩ Quan Hiện Dịch chính thức của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam :
    1). Khóa 1 : Tên lúc đầu là khóa Bảo Đại và sau đổi tên là khóa Phan Bội Châu. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là ông Phan Văn Giáo, Thủ Hiến Trung Phần Việt Nam.
    - Nhập khóa tháng 10 năm 1948 và mãn khóa tháng 5 năm 1949. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 63 và tốt nghiệp là 56 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa là Thiếu Úy Nguyễn Hữu Có.


    2). Khóa 2 : Tên khóa là khóa Quang Trung. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Đại Tá Nguyễn Ngọc Lễ.
    - Nhập khóa ngày 01.09.1949 đến 07.01.1950. Thời gian thụ huấn là 10 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 109 và tốt nghiệp là 103 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hồ Văn Tố.


    3). Khóa 3 : Tên khóa là khóa Trần Hưng Đạo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 01.10.1950 đến 01.07.1951. Thời gian thụ huấn là 9 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 143 và tốt nghiệp là 135 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Bùi Dzinh.


    4). Khóa 4 : Tên khóa là khóa Lý Thường Kiệt. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 01.04.1951 đến 01.12.1951. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 120 và tốt nghiệp là 100 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy : Nguyễn Cao Albert.


    5). Khóa 5 : Tên khóa là Hoàng Diệu. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 25.7.1951 đến 20.4.1952. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 250 và tốt nghiệp là 246 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Dương Hiếu Nghĩa.


    6). Khóa 6 : Tên khóa là khóa Đinh Bộ Lĩnh. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 16.12.1951 đến 01.10.1952. Thời gian thụ huấn là 9 tháng và 15 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 200 và tốt nghiệp 184 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Lý Tòng Bá.


    7). Khóa 7 : Tên khóa là khóa Ngô Quyền. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 16.5.1952 đến 01.02.1953. Thời gian thụ huấn là 8 tháng và 15 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 130 và tốt nghiệp 128 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Trương Quang Ân.


    8). Khóa 8 : Tên khóa là khóa Hoàng Thúy Đồng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Bảo Đại.
    - Nhập khóa ngày 27.10.1952 đến 28.6.1953. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 221 và tốt nghiệp 163 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Bá Thìn tự Long.


    9). Khóa 9 : Tên khóa là khóa Huỳnh Văn Louis. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
    - Nhập khóa ngày 01.03.1953 đến 01.08.1953. Thời gian thụ huấn là 5 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 180 và tốt nghiệp 150 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Thành Toại.


    10). Khóa 10 : Tên khóa là khóa Trần Bình Trọng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Bác Sĩ Phan Huy Quát, Bộ Trưởng Quốc Phòng của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam.
    - Nhập khóa ngà 01.10.1953 đến 01.6.1954. Thời gian thụ huấn là 8 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 525 và tốt nghiệp 442 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Tấn Đạt.


    11). Khóa 11 : Tên khóa là khóa Phạm Công Quân. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu, Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt ( lúc bấy giờ Trung Tá Thiệu đang là Chỉ Huy Trưởng đương nhiệm tại trường ).
    - Nhập khóa ngày 01.10.1954 đến 01.5.1955. Thời gian thụ huấn là 7 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 188 và tốt nghiệp 162 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Ngô Văn Phát.


    12). Khóa 12 : Tên khóa là khóa Cộng Hòa. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 15.10.1955 đến 02.12.1956. Thời gian thụ huấn là 1 năm và 1 tháng + 20 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 163 và tốt nghiệp 147 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Phạm Phùng.


    13). Khóa 13 : Tên khóa là khóa Thống Nhất. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 24.4.1956 đến 13.4.1958. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 11 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 210 và tốt nghiệp 198 sĩ quan gồm 179 Thiếu Úy và 19 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn Bá.


    14). Khóa 14 : Tên khóa là khóa Nhân Vị. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Phó Tổng Thống VNCH Nguyễn Ngọc Thơ.
    - Nhập khóa ngày 04.02.1957 đến 17.01.1960. Thời gian thụ huấn là 3 năm thiếu 17 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa là 138 và tốt nghiệp 128 sĩ quan gồm 124 Thiếu Úy và 4 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Cao Đàm.


    15). Khóa 15 : Tên khóa là khóa Lê Lợi. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 05.04.1958 đến 03.06.1961. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 2 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 64 và tốt nghiệp 57 sĩ quan gồm 55 Thiếu Úy và 2 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Võ Trung Thứ.


    16). Khóa 16 : Tên khóa là khóa Ấp Chiến Lược. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 23.11.1959 đến 22.12.1962. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 1 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường là 326 và tốt nghiệp 226 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Bùi Quyền.


    17). Khóa 17 : Tên khóa là khóa Lê Lai. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    - Nhập khóa ngày 11.11.1960 đến 30.03.1963. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 4 tháng + 19 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường là 210 và tốt nghiệp 189 sĩ quan gồm 179 Thiếu Úy và 10 Chuẩn Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Vĩnh Nhi.


    18). Khóa 18 : Tên khóa là khóa Bùi Ngươn Ngãi. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Trung Tướng Dương Văn Minh.
    - Nhập khóa ngày 26.11.1961 đến 28.11.1963. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 2 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 201 và tốt nghiệp 191 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Anh Vũ.


    19). Khóa 19 : Tên khóa là khóa Nguyễn Trải. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Quốc Trưởng Đại Tướng Nguyễn Khánh.
    - Nhập khóa ngày 23.11.1962 đến 28.22.1964. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 5 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 413 và tốt nghiệp 390 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Võ Thành Kháng.


    20). Khóa 20 : Tên khóa là khóa Nguyễn Công Trứ. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 07.12.1963 đến 20.11.1965. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 17 ngyày.
    - Số ứng viên nhập khóa 425 và tốt nghiệp 407 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Quách Tinh Cần.


    21). Khóa 21 : Tên khóa là khóa Chiến Thắng Nông Thôn. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Chủ Tịch UBLĐ/QG Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 14.12.1964 đến 26.11.1966. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 18 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 249 và tốt nghiệp 235 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Mai Văn Hóa.


    22). Khóa 22 : Gồm hai khóa 22A và 22B.
    ° Khóa 22A : Tên khóa là khóa Huỳnh Văn Thảo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 06.12.1965 đến 02.12.1967. Thời gian thụ huấn là 2 năm thiếu 4 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 176 và tốt nghiệp 173 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn An.
    ° Khóa 22B : Tên khóa là khóa Trương Quang Ân. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 06.12.1965 đến 12.12.1969. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 6 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 100 và tốt nghiệp 92 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Đức Phống.


    23). Khóa 23 : Tên khóa là khóa Nguyễn Đức Phống. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 12.12.1966 đến 18.12.1970. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 6 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 282 và tốt nghiệp 241 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Trần Vĩnh Thuấn.


    24). Khóa 24 : Tên khóa là khóa Đỗ Cao Trí. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Thủ Tướng VNCH Trần Thiện Khiêm.
    - Nhập khóa ngày 07.12.1967 đến 17.12.1971. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 10 ngày.
    - Số ứng viên nhập khóa 312 và tốt nghiệp 245 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Vũ Xuân Đức.


    25). Khóa 25 : Tên khóa là khóa Quyết Chiến Tất Thắng. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
    - Nhập khóa ngày 10.12.1968 đến 15.12.1972. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 5 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 298 và tốt nghiệp 260 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Anh Dũng.


    26). Khóa 26 : Tên khóa là khóa Nguyễn Viết Thanh. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 24.12.1969 đến 18.01.1974. Thời gian thụ huấn là 4 năm và 24 ngày.
    - Số ứng viên nhập trường 196 và tốt nghiệp 175 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Nguyễn Văn Lượng.


    27). Khóa 27 : Tên khóa là khóa Trương Hữu Đức. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Nhập khóa ngày 26.12.1970 đến 27.12.1974. Thời gian thụ huấn là 4 năm.
    - Số ứng viên nhập khóa 192 và tốt nghiệp 182 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hoàng Văn Nhuận và Thiếu Úy Lê Mạnh Kha.


    28). Khóa 28 : Tên khóa là khóa Nguyễn Đình Bảo. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn Bộ Tổng TTM/QLVNCH.
    - Nhập khóa ngày 24.12.1971 đến 21.4.1975. Thời gian thụ huấn là 3 năm và 4 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường 298 và tốt nghiệp 255 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Hồ Thanh Sơn.


    29). Khóa 29 : Tên khóa là khóa Hoàng Lê Cường. Chủ tọa Lễ Mãn Khóa là Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Huấn Bộ TTM/QLVNCH.
    - Nhập khóa ngày 29.12.1972 đến 21.4.1975. Thời gian thụ huấn là 2 năm và 5 tháng.
    - Số ứng viên nhập trường 315 và tốt nghiệp 291 Thiếu Úy.
    - Thủ Khoa : Thiếu Úy Đào Công Hương.


    30). Khóa 30 : Nhập khóa ngày 28.1.1974 đến 30.4.1975 : 223 Sinh Viên Sĩ Quan. ( chưa hoàn tất ).
    31). Khóa 31 : Nhập khóa ngày 10.01.1975 đến 30.4.1975 : 24O SVSQ. ( chưa hoàn tất ).


    - Căn cứ theo thời gian thụ huấn của các khóa, xin phép được ghi nhận một cách tổng quát như sau :
    * Từ khóa 1 đến khóa 11 : đa số từ 7 tháng đến 10 tháng, chỉ có khóa 9 là khóa ngắn nhất là 5 tháng và cũng là khóa ngắn nhất của TVBQGVN.
    * Khoảng hơn 1 năm có khóa 12 ( 1 năm và 1 tháng +12 ngày ).
    * Khoảng trên, dưới 2 năm có các khóa : 13, 17, 18, 19, 20, 21, 22A và 29.
    * Khoảng trên, dưới 3 năm có các khóa 14, 15, 16 và 28.
    * Khoảng 4 năm hơn một ít có các khóa 22B, 23, 24, 25, 26 và 27.
    * Hai khóa 30 và 31 thì chưa hoàn tất.



    * GHI CHÚ ĐẶC BIỆT :
    - Theo Nghị Định số 317/QP/TT ngày 29.7.1959 của Bộ Quốc Phòng, Trường VBLQ Đà-Lạt được cải danh thành Trường VBQG/VN với quy chế của một Trường Đại Học Cao Đẳng Chuyên Nghiệp và chương trình huấn luyện 4 năm với Mùa Văn Hóa và Mùa Quân Sự cho mỗi năm.
    - Về phương diện huấn luyện, chương trình 4 năm được áp dụng cho khóa 15 ( khai giảng tháng 4 năm 1958 ). Đến năm 1961, tình hình khẩn trương của đất nước được ban hành vì cuộc chống Cộng ngày một gia tăng, sau khi Cộng Sản Bắc Việt cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( năm 1960 ), một tổ chức bù nhìn, tay sai trá hình của CS Bắc Việt. Theo đề nghị của Bộ TTM và được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chấp thuận, chương trình huấn luyện được rút ngắn lại còn 3 năm để kịp đáp ứng cho nhu cầu chiến trường và có 4 khóa được huấn luyện trong chương trình nầy là các khóa 14, 15, 16 và 17.
    - Sau đó, cũng vì tình hình chiến sự gia tăng ác liệt, chương trình lại rút ngắn còn 2 năm và kéo dài từ 1961 cho đến 1967 và được áp dụng cho các khóa 18, 19, 20, 21 và 22A.
    - Do Nghị Định số 2349/NĐ/QP của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ký ngày 13.12.1966, chương trình huấn luyện được CẢI TỔ TOÀN DIỆN, thời gian huấn luyện là 4 năm với quy chế của một TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT. Khóa đầu tiên hoàn tất chương trình 4 năm là khóa 22B và các khóa kế tiếp theo là các khóa 23, 24, 25, 26 và 27. Các khóa 22B, 23, 24 và 25 được cấp " VĂN BẰNG TỐT NGHIỆP TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM " có giá trị tương đương với VĂN BẰNG KỶ SƯ TỐT NGHIỆP từ các TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỶ THUẬT DÂN CHÍNH trong nước. Kể từ tháng 1 năm 1974, tức là khóa 26 và 27, Bộ Giáo Dục VNCH đã chính thức công nhận " VĂN BẰNG CỬ NHÂN KHOA HỌC ỨNG DỤNG " do Trường VBQG/VN cấp cho những sĩ quan tốt nghiệp. Các khóa 28 và 29 thì ra trường sớm hơn 4 năm và các khóa 30 và 31 thì chưa hoàn tất.


    - Cũng xin được nói thêm : Từ những khóa đầu, trường đã cung cấp sĩ quan cho cả 3 quân chủng Hải, Lục và Không Quân; một số ít SVSQ được chọn quân chủng trước ngày mãn khóa. Kể từ khóa 16, vào năm thứ hai, Bộ TTM cho trắc nghiệm tâm lý SVSQ để sau khi mãn khóa tại TVBQG/VN, những SVSQ thích hợp sẽ có thể được chuyển qua Hải Quân hoặc Không Quân. Từ tháng 12 năm 1970, TVBQG/VN thực sự thi hành nhiệm vụ huấn luyện các sĩ quan hiện dịch cho Hải, Lục và Không Quân ngay từ trong Trường. Chương trình HUẤN LUYỆN LIÊN QUÂN CHỦNG được áp dụng kể từ khóa 25 ( 1968 - 1972 ); trước khi sang năm thứ 3, SVSQ được qua một cuộc trắc nghiệm do Bộ TTM thực hiện để tuyển chọn theo học Hải Quân, Lục Quân hoặc Không Quân trong 2 năm cuối cùng.


    B. CÁC KHÓA ĐẶC BIỆT THỤ HUẤN QUÂN SỰ TẠI TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM :
    - Ngoài nhiệm vụ chính đào tạo các Sĩ Quan Hiện Dịch làm nòng cốt cho quân đội, Trường VBQG/VN còn huấn luyện các khóa sau đây :
    * Các khóa SĨ QUAN TRỪ BỊ :
    1). Khóa 3 Phụ Trừ Bị mang tên Khóa Đống Đa :
    - Nhập khóa ngày 11.9.1953 đến 16.3.1954.
    - Có 119 Thiếu Úy Trừ Bị tốt nghiệp và Thủ Khoa là Thiếu Úy Nguyễn Xuân Diệu.


    2). Khóa 4 Phụ Trừ Bị mang tên Khóa Cương Quyết :
    - Nhập khóa ngày 19.3.1954 đến 01.10.1954.
    - Có 300 Thiếu Úy Trừ Bị tốt nghiệp và Thủ Khoa là Thiếu Úy Ngô Văn Lợi
    *** Hai khóa Sĩ Quan Trừ Bị nầy thụ huấn quân sự tại Trường VBQG/VN và khi mãn khóa sẽ trở về làm Lễ Mãn Khóa tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ( tức là tại Trường Mẹ Thủ Đức ).


    * Các khóa ĐẶC BIỆT KHÁC :
    1). Khóa Cấp Tốc Trung Đội Trưởng Hiện Dịch :
    - Nhập khóa đầu tháng 6 năm 1954 và mãn khóa ngày 01.10.1954.
    - Có 210 Chuẩn Úy Hiện Dịch tốt nghiệp.
    2). Khóa Vưong Xuân Sỹ :
    - Nhập khóa giữa năm 1955 và mãn khóa tháng 11 năm 1955.
    - Có 200 Chuẩn Úy Hiện Dịch tốt nghiệp và Thủ Khoa là Chuẩn Úy Nguyễn Văn Ngà.
    3). Các khóa Sĩ Quan Quân Y.( Huấn luyện quân sự ).
    4). Khóa Huấn Luyện Viên.
    5). Khóa Đại Đội Trưởng.
    6). Huấn Luyện Quân Sự cho các khóa Quốc Gia Hành Chánh.
    7). Huấn Luyện Quân Sự cho các khóa Tuyên Úy Quân Đội.
    8). Các khóa Quân Sự Học Đường cho học sinh Trường Grand Lycée Yersin Dalat và sinh viên Viện Đại Học Đà-Lạt.


    * Phần Thứ Ba : CÁC VỊ CHỈ HUY TRƯỞNG CỦA TRƯỜNG VÕ VỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.


    - Ngoài những Chỉ Huy Trưởng người Pháp từ năm 1948 đến 1954, có 13 nhiệm kỳ Chỉ Huy Trưởng là những SÍ QUAN VIỆT NAM cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Những Chỉ Huy Trưởng Việt Nam gồm có ( Cấp bậc hiện tại trong chức vụ đương nhiệm ) :
    1). Trung Tá NGUYỄN VĂN CHUÂN, từ tháng 9 năm 1954 đến tháng 3 năm 1955.
    2). Trung Tá NGUYỄN VĂN THIỆU, từ tháng 3 năm 1955 đến tháng 7 năm 1957.
    3). Trung Tá HỒ VĂN TỐ, từ tháng 7 năm 1957 đến tháng 7 năm 1958.
    4). Trung Tá NGUYỄN VĂN THIỆU ( lần thứ hai ), từ tháng 7 năm 1958 đến tháng 2 năm 1959.
    5). Thiếu Tướng LÊ VĂN KIM, từ tháng 2 năm 1959 đến ngày 12.11.1960.
    6). Trung Tá TRẦN NGỌC HUYẾN, từ 12.11.1960 đến 05.01.1964.
    7). Thiếu Tướng TRẦN TỬ OAI, từ 05.01.1964 đến tháng 6 năm 1964.
    8). Đại Tá TRẦN VĂN TRUNG, từ tháng 6 năm 1964 đến tháng 12 năm 1964.
    9). Chuẩn Tướng NGUYỄN VĂN KIỂM, từ tháng 12 năm 1964 đến tháng 9 năm 1965.
    10). Đại Tá LÂM QUANG THƠ, từ tháng 9 năm 1965 đến 19.11.1966.
    11). Đại Tá ĐỖ NGỌC NHẬN, từ 19.11.1966 đến tháng 7 năm 1968.
    12). Thiếu Tướng LÂM QUANG THI, từ tháng 7 năm 1968 đến 14.4.1972. ( Trong thời gian đảm nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng, ông được thăng cấp Trung Tướng vào ngày 1.11.1971 ).
    13). Thiếu Tướng LÂM QUANG THƠ ( lần thứ hai ), từ 14.4.1972 đến 30.4.1975.


    * Phần Thứ Tư : CƠ CẤU TỔ CHỨC .
    - Cơ cấu tổ chức của Trường VBQG/VN thay đổi theo từng gia đoạn và nhu cầu huấn luyện. Ban đầu Trường còn đơn sơ, chỉ có một Chỉ Huy Trưởng, một số nhỏ sĩ quan huấn luyện viên và quân nhân yểm trợ.
    - Khi trường dời về Đà-Lạt, với số khóa sinh gia tăng và chương trình huấn luyện quy củ hơn, cơ cấu tổ chức cũng được thay đổi cho thích hợp.
    - Kể từ khi có chương trình huấn luyện văn hóa, trường tổ chức thành 4 khối :
    1). Khối Chỉ Huy & Tham Mưu sau đổi thành Bộ Chỉ Huy và Ban Tham Mưu.
    2). Khối Huấn Luyện Quân Sự, sau đổi thành Quân Sự Vụ.
    3). Khối Huấn Luyện Văn Hóa, sau đổi thành Văn Hóa Vụ.
    4). Khối Yểm Trợ và Công Vụ, sau đổi thành Tiểu Đoàn rồi Liên Đoàn Yểm Trợ.


    - Cả 4 khối nhầm vào mục đích duy nhất là huấn luyện và yẻm trợ Sinh Viên Sĩ Quan trong suốt thời gian thụ huấn tại trường. trong cơ cấu tổ chức, các đơn vị SVSQ trực thuộc khối Quân Sự Vụ.
    - Căn cứ vào những năm sau cùng và đặc biệt với " Chương Trình Huấn Luyện Đặc Biệt Cải Tổ Toàn Diện Đúng 4 Năm " cho các khóa 22B, 23, 24, 25, 26 và 27, xin được ghi lại một cách TỔNG QUÁT và CƠ BẢN về Cơ Cấu Tổ Chức của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam như sau :


    A. BỘ CHỈ HUY và THAM MƯU :
    - Đây là cơ quan đầu não trong trách nhiệm chỉ huy, đặt kế hoạch và kiểm soát tổng quát việc huấn luyện Sinh Viên Sĩ Quan.
    - Bộ Chỉ Huy và Tham Mưu gồm có : Chỉ Huy Trưởng, Chỉ Huy Phó, Tham Mưu Trưởng và Ban Tham Mưu.


    B. VĂN HÓA VỤ :
    - Gồm có Văn Hóa Vụ Trưởng, Văn Hóa Vụ Phó, một Phòng Điều Hành ( có vị Trưởng Phòng ), phụ trách Hành Chánh và các Khoa Trưởng của 9 Phân Khoa cùng các Giảng Viên cho các môn.
    - 9 Phân Khoa của Văn Hóa Vụ gồm có :
    1). Khoa Anh Văn.
    2). Khoa Cơ Khí.
    3). Khoa Công Chánh.
    4). Khoa Khoa Học.
    5). Khoa Khoa Học Xã Hội.
    6). Khoa Kỹ Thuật Điện.
    7). Khoa Kỹ Thuật Quân Sự.
    8). Khoa Nhân Văn.
    9). Khoa Toán.
    - Được biết rằng : Kể từ năm 1956 ( khóa 13 ) đến năm 1975 ( khóa 31 ), có 6 vị Văn Hóa Vụ Trưởng phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và có khoảng 30 giảng viên ( vào năm 1961 ), đã tăng lên 160 giảng viên vào năm 1975 đã giảng dạy tại Trường VBQG/VN.


    C. QUÂN SỰ VỤ :
    - Gồm có Quân Sự Vụ Trưởng, Quân Sự Vụ Phó, Trưởng Phòng Điều Hành Quân Sự Vụ ( bên dưới có Trưởng Ban Kế Hoạch, Quản Trị, Huấn Đạo và Hỏa Thực ), các Sĩ Quan Cán Bộ trông coi SVSQ theo từng Đại Đội và Tiểu Đoàn và Phòng Huấn Luyện Quân Sự.
    - Đặc biệt, Phòng Huấn Luyện Quân Sự ( do một Trưởng Phòng chỉ huy ), gồm có : Phòng Điều Hành ( đứng đầu là một Trưởng Phòng ) và 4 Khoa Huấn Luyện ( gồm Trưởng Khoa và các Huấn Luyện Viên ), và có thêm Khoa Thể Chất ( có Trưởng Khoa và các Huấn Luyện Viên ).
    - Các Khoa Huấn Luyện gồm có :
    1). Khoa Chiến Thuật.
    2). Khoa Vũ Khí - Tác Xạ.
    3). Khoa Tổng Quát : Địa Hình, Cứu Thương ...
    4). Khoa Binh Chủng : Công Binh, Truyền Tin, Pháo Binh, Thiết Giáp.
    5). Khoa Thể Chất : Thể Dục, Thể Thao, Kiếm Thuật, Kỵ Mã và Võ Thuật.
    - Ngoài ra, còn có thêm phần huấn luyện : Huấn Luyện Đạo Đức và Lãnh Đạo, Huấn Luyện Liên Quân Chủng.
    - Quân Sự Vụ Trưởng chịu trách nhiệm trước Chỉ Huy Trưởng về việc Huấn Luyện Quân Sự và Điều Hành Trung Đoàn SVSQ.


    - Song song với việc huấn luyện Quân Sự và Thể Chất là việc điều hành Liên Đoàn SVSQ. Tám ( 8 ) sĩ quan cán bộ đại đội trưởng được chỉ định trông coi 8 đại đội SVSQ thuộc 2 tiểu đoàn. Hai ( 2 ) sĩ quan cán bộ tiểu đoàn trưởng, mỗi vị phụ trách một tiểu đoàn. Từ năm 1971, khi có thêm chương trình huấn luyện SVSQ Hải Quân và Không Quân tại trường, Trung Đoàn SVSQ có thêm 1 đại đội Hải Quân và 1 đại đội Không Quân, nâng tổng số Sĩ Quan Cán Bộ thành 10 Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội Trưởng.


    - Bắt đầu từ khóa 22B, sau khi khóa 24 nhập học (tháng 12 năm 1967), trường có 3 khóa với số SVSQ khoảng 600 người. Liên Đoàn SVSQ được đổi thành Trung Đoàn SVSQ, vẫn gồm 2 Tiểu Đoàn với 4 Đại Đội SVSQ cho mỗi Tiểu Đoàn.
    - Từ khi khóa 25 nhập học (tháng 12 năm 1968), trường có luôn 4 khóa, Trung Đoàn SVSQ có 10 Đại Đội SVSQ với hơn 1000 người.SVSQ Cán Bộ Trung Đoàn Trưởng ( chịu trách nhiệm trước Quân Sự Vụ Trưởng ), và bên cạnh có thêm SVSQ Tham Mưu Trung Đoàn, gồm Ban 1, Ban 2, Ban 3, Ban 4 và Ban 5 tương tự như ở cấp Tiểu Đoàn.


    - Về HỆ THỐNG TỰ CHỈ HUY thì được biết rằng : Trong gia đoạn Trường có 2 danh xưng : Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt (từ khóa 12 đến khóa 14) và Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (từ khóa 14 đến khóa 31). Bắt đầu từ khóa 12, Hệ Thống Tự Chỉ Huy được thành lập. Theo thời gian, đơn vị SVSQ được thay đổi có :
    * Tiểu Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Tiểu Đội Trưởng chỉ huy.
    * Trung Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Trung Đội Trưởng chỉ huy.
    * Đại Đội SVSQ do SVSQ Cán Bộ Đại Đội Trưởng chỉ huy và chịu trách nhiệm trước Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội Trưởng, và bên cạnh có thêm SVSQ Tham Mưu Ban 4 (Tiếp Liệu) của Đại Đội.
    * Tiểu Đoàn SVSQ do SVSQ Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng chỉ huy và chịu trách nhiệm trước một Sĩ Quan Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, và bên vạng có các SVSQ Tham Mưu Tiểu Đoàn : Ban 1 phụ trách Quân Số, Ban 3 lo Nghi Lễ, Ban 4 lo Tiếp Liệu và Ban 5 lo Văn Nghệ.


    - PHÙ HIỆU SINH VIÊN SĨ QUAN : Phù Hiệu của SVSQ được thực hiện từ khóa 12 cùng với bộ đại lễ mới với ý nghĩa :
    * Ngôi Sao : Tượng trưng cho sự lãnh đạo. Sĩ Quan xuất thân từ TVBQG/VN chẳng những là cấp chỉ huy quân sự thời chiến mà còn là một cán bộ xây dựng quốc gia trong thời bình. Ngôi Sao, soi sáng người SVSQ trên con đường binh nghiệp mà họ đã chọn phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc.
    * Ngọn Lửa : Biểu tượng cho bầu nhiệt huyết của người SVSQ, hăng say và dũng cảm trong nhiệm vụ.
    * Cành Trúc : Tiêu biẻu tiết tháo của người quân tử.
    * Cung Kiếm : Tượng trưng cho võ nghiệp, biểu thị tinh thần và ý chí của người SVSQ trong sứ mạng bảo vệ đất nước.
    * Hàng chữ TỰ THẮNG ĐỂ CHỈ HUY là phương châm của người SVSQ, mang ý nghĩa : Muốn chỉ huy người khác trước hết phải tự thắng bản thân


    - Phù Hiệu SVSQ được gắn trên mũ lưỡi trai (casquette) và được thêu trên mũ dạ (béret) của SVSQ. Phương châm " Tự Thắng Để Chỉ Huy " được xử dụng trên các văn thư và tài liệu của Trường, sau đó được ghi trên phù hiệu mũ lưỡi trai. Mũ lưỡi trai được dùng với các quân phục đại lễ, tiểu lễ và dạo phố. Mũ dạ được dùng với quân phục làm việc trong Mùa Văn Hóa. Trong Mùa Quân Sự, SVSQ dùng mũ tác chiến bằng vải, có cấp hiệu Alpha ở phía trước mũ.


    D. LIÊN ĐOÀN YỂM TRỢ :
    - Các đơn vị yểm trợ và công vụ phụ trách tất cả các phần hành yẻm trợ cho đời sống và việc học hành của SVSQ trong thời gian thụ huấn. Các thành phần nầy gồm : quân nhu, quân cụ, quân nhạc, an ninh và phụ tá huấn luyện tại các bãi tập quân sự.
    - Có 2 đại đội Địa Phương Quân để lo canh phòng an ninh và diễn tập trong việc huấn luyện quân sự tại trường.
    - Có một Đội Kỵ Mã do Trung Úy Nguyễn Văn Rồng (Thiết Giáp) phụ trách giảng dạy và thực tập vào mỗi chiều Thứ Bảy.


    * Phần Thứ Năm : CÁC TƯỚNG LÃNH QL/VNCH XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
    - Từ khi thành lập năm 1948 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường VBQG/VN với hơn 6000 sĩ quan tốt nghiệp và 463 SVSQ (của 2 khóa 30 và 31 chưa hoàn tất), đã cung ứng 61 vị Tướng Lãnh cho QLVNCH. Ngoài những vị Tướng Lãnh và 463 SVSQ, những sĩ quan tốt nghiệp còn lại đã mang những cấp bậc từ Thiếu Úy đến Đại Tá trong QL/VNCH.
    - Trong số 61 vị Tướng Lãnh (kể cả những vị Tướng Lãnh Truy Thăng), xin được ghi nhận như sau : Cấp Trung Tướng có 19 vị, cấp Thiếu Tướng có 18 vị và cấp Chuẩn Tướng có 24 vị.
    - Ghi nhận theo các khóa tốt nghiệp ( các khóa có Tướng Lãnh tốt nghiệp : 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 12) :


    * Khóa 1: Có 9 vị gồm 5 Trung Tướng, 3 Thiếu Tướng và 1 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu : Tổng Thống VNCH (1967-1975).
    2). - Trần Văn Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Bộ TTM/QLVNCH. (1966-1975).
    3). - Đặng Văn Quang : Cố Vấn An Ninh Quốc Gia (1968-1975).
    4). - Nguyễn Hữu Có : Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng (28.4.1975).
    5). - Tôn Thất Đính : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 ( từ 9.4.1966 đến 15.5.1966).
    6) Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 (từ 13.3.1966 đến 8.4.1966).
    7). - Tôn Thất Xứng : Chỉ Huy Trưởng Trường Đại Học Quân Sự ( từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 11 năm 1966).
    8). - Bùi Đình Đạm : Tổng Giám Đốc Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng (1965 - 1975).
    9). Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận : Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ( từ 10.3.1966 đến 19.6.1966).


    * Khóa 2 : Có 10 vị gồm 3 Trung Tướng, 5 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Ngô Du : Trưởng Đoàn Quân Sự Ban LHQS 4 Bên Trung Ương (1973-1974).
    2). - Nguyễn Văn Mạnh : Tổng Tham Mưu Phó/An Ninh Phát Triển (1974-1975).
    3). - Trần Thanh Phong: Phụ Tá Thủ Tướng VNCH (16.10.1972-1.12.1972) &Truy Thăng.
    4). Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao : Tư Lệnh Vùng 1 & QĐ1, QK1 (15.5.1966-30.5.1966).
    5). - Hoàng Văn Lạc : Tư Lệnh Phó Lãnh Thổ Quân Khu 1 (1972-1975).
    6). - Lê Ngọc Triển : Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ TTM (1972-1975).
    7). - Hồ Văn Tố : Chỉ Huy Trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức (27.7.1961- 19.5.1962).
    8). - Nguyễn Thanh Sằng : Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Tiền Phương QĐ4, QK4 (1972 - 1973).
    9).Chuẩn Tướng Lê Trung Tường : Tham Mưu Trưởng QĐ3, QK3 ( tháng 4 năm 1975).
    10). - Nguyễn Thành Hoàng : Chánh Thanh Tra QĐ2, QK2 ( 1972 -1973).


    * Khóa 3 : Có 10 vị gồm 4 Trung Tướng, 2 Thiếu Tướng và 4 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm : Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng (1972 - 1975).
    2). - Lữ Lan : Tổng Thanh Tra Bộ TTM/QLVNCH (1970-1975).
    3) - Lâm Quang Thi : Tư Lệnh Tiền Phương QĐ1, QK1 (1972 - 1975).
    4). - Nguyễn Xuân Thịnh : Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QL/VNCH ( 1972 - 1975 ).
    5). Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu : Tư Lệnh Phó QĐ3, QK3 ( 1973 - 1975 ).
    6). - Lâm Quang Thơ : Chỉ Huy Trưởng Trường VBQG/VN ( 1972 - 1975 ).
    7). Chuẳn Tướng Võ Dinh : Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân ( 1967 - 1975 ).
    8). - Lý Bá Hỷ : Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô ( 1968 - 1975 ).
    9). - Nguyễn Ngọc Oánh : Chỉ Huy Trưởng TTHL/ Không Quân Nha Trang ( 1969 - 1975 ).
    10). - Nguyễn Văn Phước : Phụ Tá Tư Lệnh QĐ4, QK4 ( 1965 - 1971 ). Truy Thăng.


    * Khóa 4 : Có 6 vị gồm 2 Trung Tướng, 3 Thiếu Tướng và 1 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Nguyễn Văn Minh: Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô ( tứ 24.3.1975 - 30.4.1975 ).
    2). - Nguyễn Viết Thanh : Tư Lệnh Vùng 4 & QĐ4, QK4 ( 1968 -1970 ) . Truy Thăng.
    3). Thiếu Tướng Đào Duy Ân : Tư Lệnh Phó QĐ3, QK3 ( 1970 - 1975 ).
    4). - Phan Đình Niệm : Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    5). - Nguyễn Cao Albert : Đổng Lý Văn Phòng QT Nguyễn Khánh ( 1964 - 1965 ).
    6). Chuẩn Tướng Đỗ Kiến Nhiễu : Đô Trưởng Sài-Gòn ( 1968 - 1975 ).




    * Khóa 5 : Có 11 vị gồm 5 Trung Tướng, 2 Thiếu Tướng và 4 Chuẩn Tướng :
    1). Trung Tướng Phan Trọng Chinh : Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy & Tham Mưu ( 1974 - 1975 ).
    2). - Dư Quốc Đống : Tư Lệnh QĐ3 và QK3 ( 1.11.1974 - 5.1.1975 ).
    3). - Nguyễn Vĩnh Nghi : Tư Lệnh Tiền Phương QĐ3, QK3 ( 4.4.1975 - 30.4.1975 ).
    4). - Phạm Quốc Thuần : Chỉ Huy Trưởng Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang ( tháng 11 năm 1974 - 30.4.1975 ).
    5). - Nguyễn Văn Toàn : Tư Lệnh Vùng 3 CT & QĐ3, QK3 ( 2.11.1975 - 28.4.1975 ).
    6). Thiếu Tướng Trần Bá Di : Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung ( 1.11.1974 - 3O.4.1975 ).
    7). - Đỗ Kế Giai : Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân QL/VNCH ( tháng 8 năm 1972 đến 30.4.1975 ).
    8). Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quay ; Tham Mưu Trưởng QĐ4, QK4 ( tháng 6 năm 1973 đến 30.4.1975 ).
    9). - Trần Văn Cẩm : Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh QĐ2 ( tháng 1 năm 1975 đến 30.4.1975 ).
    10). - Lê Văn Tư : Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh ( 25.1.1972 đến 7.11.1973 ).
    11). - Lê Đức Đạt : Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh ( 1.3.1972 đến 24.4.1972 ). Truy Thăng.


    * Khóa 6 : Có 4 vị gồm 3 Chuẩn Tướng và 1 Phó Đề Đốc :
    1). Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá : Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh ( 1974 - 1975 ).
    2). - Trần Quang Khôi : Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ( 1973 - 1975 ).
    3). - Trần Đình Thọ : Trưởng Phòng 3 Bộ TTM:QLVNCH ( 1965 - 1975 ).
    4). Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy : Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân ( 1974 - 1975 ).


    * Khóa 7 : Có 3 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Trương Quang Ân : Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ( 1966 - 1968 ).
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Hai : Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh ( 1974 - 1975 ).
    3). - Lê Văn Thân : Tư Lệnh Phó QK2 ( 1974 - 1975 ).


    * Khóa 8 : Có 3 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 2 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Phạm Văn Phú : Tư Lệnh Vùng 2 & QĐ2,QK2 ( 1974 - 1975 ).
    2). Chuẩn Tướng Huỳnh Thới Tây: Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia VNCH ( 1969 - 1975 ).
    3). - Lý Đức Quân : Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh ( 1971 -1973 ) .Truy Thăng.


    * Khóa 10 : Có 4 vị gồm 1 Thiếu Tướng và 3 Chuẩn Tướng :
    1). Thiếu Tướng Lê Minh Đão : Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt : Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh ( 1972 - 1975 ).
    3). - Vũ Văn Giai : Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh ( 1971 - 1972 ).
    4). - Trương Hữu Đức : Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh ( 1971 - 1972 ).


    * Khóa 12 : Có 1 vị là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường : Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh ( tháng 11 năm 1974 - 30.4.1975 ).








    * Phần Thứ Sáu : TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM VỚI THIÊN ANH HÙNG CA ... VỊ QUỐC VONG THÂN.


    A. Những Sĩ Quan tốt nghiệp THỦ KHOA đã Anh Dũng Hy Sinh trên Chiến Trường:

    - Có 5 sĩ quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, tốt nghiệp Thủ Khoa đã tình nguyện gia nhập các Đơn Vị Chiến Đấu và đã Anh Dũng hy sinh trên chiến trường. Trong số nầy có 4 sĩ quan đã tử trận rất sớm và có người là người chết đầu tiên của khóa mình.
    - Những sĩ quan đã hy sinh nầy gồm có :


    1). Cố Thiếu Tướng TRƯƠNG QUANG ÂN :
    - Thủ Khoa của khóa 7 ( Ngô Quyền ), ra trường ngày 01.02.1953.
    - Ngày 24.11.1966 : Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
    - Ngày 19.6.1968 : vinh thăng Chuẩn Tướng.
    - Ngày 8.9.1968 ( lúc 10 giờ 30 phút sáng ), cùng với Phu Nhân bị tử nạn công vụ trên trực thăng tại tỉnh Quảng Đức trên đường bay thăm viếng và ủy lạo các đơn vị đang hành quân và Ông được vinh thăng Thiếu Tướng.
    - Được biết Phu Nhân của Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân là Bà Dương Thị Kim Thanh. Bà nguyên là 1 trong 9 Nữ Quân Nhân đầu tiên của Binh Chủng Nhảy Dù QL/VNCH và Bà giải ngũ khi còn là Chuẩn Úy.


    2). Cố Trung Úy NGUYỄN ANH VŨ :
    - Thủ Khoa khóa 18 ( khóa Bùi Ngươn Ngãi ), ra trường ngày 23.11.1963 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, hy sinh tại chiến trường Miền Đông Nam Phần vào tháng 8 năm 1964, chỉ khoảng 6 tháng sau ngày ra trường và được vinh thăng Cố Trung Úy.


    3). Cố Trung Úy VÕ THÀNH KHÁNG :
    - Thủ Khoa khóa 19 ( khóa Nguyễn Trải ), ra trường ngày 28.11.1964 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, hy sinh tại chiến trường Bình Giã ( tỉnh Phước Tuy ) ngày 31.12.1964 cùng với Thiếu Úy Thủy Quân Lục Chiến NGUYỄN VĂN HÙNG ( cùng khóa 19 ).
    - Trước đó, ngày 28.12.1964, Thiếu Úy Biệt Động Quân NGUYỄN THÁI QUAN ( cùng khóa 19 ) cũng đã hy sinh tại chiến trường Bình Giã.
    - Cả 3 sĩ quan của khóa 19 đã hy sinh tại Bình Giã và được vinh thăng Cố Trung Úy. Đây là những sĩ quan hy sinh sốm nhất của khóa 19 ... chỉ khoảng hơn 1 tháng kể từ ngày ra trường.


    4). Cố Trung Úy NGUYỄN ĐỨC PHỐNG :
    - Thủ Khoa khóa 22B ( khóa Trương Quang Ân ), ra trường ngày 12.12.1969 với cấp bậc Thiếu Úy.
    - Thuộc Binh Chủng Thiết Giáp và đã hy sinh trong năm 1970 tại chiến trường Campuchia và được vinh thăng Cố Trung Úy.


    5). Cố Trung Úy HOÀNG VĂN NHUẬN :
    - Thủ Khoa khóa 27 ( khóa Trương Hữu Đức ), ra trường ngày 27.12.1974.
    - Chọn đơn vị thuộc Binh Chủng Thiết Giáp và đang theo học tại Trường Thiết Giáp.
    - Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Việt Cộng tấn công vào trường Thiết Giáp, Thiếu Úy Hoàng Văn Nhuận đã anh dũng chiến đấu cùng đồng đội chống lại Cộng Quân và đã anh dũng hi sinh và được vinh thăng Cố Trung Úy.

    B. TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM VỚI BIẾN CỐ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 :


    - Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông Dương Văn Minh, vị Tổng Thống cuối cùng của VNCH tuyên bố ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN và ra lệnh cho tất cả các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa BUÔNG SÚNG TẠI CHỖ và BÀN GIAO ĐƠN VỊ LẠI CHO VIỆT CỘNG
    ( Ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống VNCH vì những áp lực chính trị hoàn toàn thất lợi và đầy oan khiên khổ đau cho miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa ).
    - Có một số đơn vị của QL/VNCH đã KHÔNG CHẤP NHẬN ĐẦU HÀNG CỘNG SẢN, KHÔNG CHỊU BUÔNG SÚNG và tiếp tục CHIẾN ĐẤU ĐẾN NHỮNG VIÊN ĐẠN, ĐẾN NHỮNG GIỌT MẮU CUỐI CÙNG .
    - Đã có NHỮNG CHIẾN SĨ ANH HÙNG của QL/VNCH bị chết, hy sinh trên chiến trận, bị bắt và bị CS xử tử ... và có những người đã CAN ĐẢM TỰ SÁT để giữ tròn khí tiết anh hùng của QL/VNCH ... trong đó có NHỮNG SĨ QUAN XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
    - Xin được ghi lại một số Chiến Sỉ Anh Hùng của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ( chấc chắn còn nhiều thiếu sót ...) :


    1). Thiếu Tướng Phạm Văn Phú ( khóa 8 TVBQG/VN ) : Tư Lệnh Vùng 2 CT & QĐ2, QK2, tự sát ngày 30.4.1974 tại Sài-Gòn.
    2). Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (khóa 7) : Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB, tự sát tại Căn Cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho ) ngày 30.4. 1975.
    3). Thiếu Tá Nguyễn Văn Chúc (khóa 8) : Thuộc Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ TTM, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    4). Trung Tá Nguyễn Xuân Tiêu (khóa 8) : Tuẩn tiết tháng 4 năm 1975 tại tỉnh Bình Định.
    5). Đại Tá Phạm Tường Chinh (khóa 8) : Tuẩn tiết tại tư gia ở Sài-Gòn ngày 30.4.1975.
    6). Trung Tá Nguyễn Định Chi (khóa 10) : Phụ Tá Chánh Sở 3 An Ninh Quân Đội, tuẩn tiết ngày 30.4.1975.
    7). Đại Tá Nguyễn Bùi Quang (khóa 8) : Tự sát ngày 30.4.1975.
    8). Trung Tá Nguyễn Văn Đức ( khóa 11) : Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Giao Thông Công Lộ, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    9). Trung Tá Võ Văn Đường (khóa 11) : Chỉ Huy Trưởng CSQG tỉnh Chương Thiện, không đầu hàng, chiến đấu đến cùng, bị bắt và bị CS xử tử tại tỉnh Chương Thiện ngày 30.4.1975.
    10). Thiếu Tá Lê Vĩnh Xuân (khóa 10) : Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Quân Báo của Biệt Khu Thủ Đô, tự sát cùng vợ, con tại Sài- Gòn ngày 30.4.1975.
    11). Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (khóa 16) : Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 Sư Đoàn 22 BB, tự sát ngày 2.4.1975 tại Qui-Nhơn thuộc tỉnh Bình Định.
    12 Trung Tá). Phan Ngọc Lương (khóa 17) : Không trình diện CS sau 30.4.1975, tham gia các Tổ Chức Phục Quốc, chống Cộng, bị CS bắt và xử tử tại Huế ngày 9.9.1979.
    13). Thiếu Tá Phạm Văn Thái (khóa 20) : Tự sát tại tư gia ở tỉnh Ninh Thuận vào trưa ngày 2.4.1975 sau khi nghe tin tỉnh Khánh Hòa bị thất thủ.
    14). Thiếu Tá Huỳnh Túy Viên (khóa 20) : Quận Trưởng quận Đầm Dơi tỉnh An Xuyên (Cà-Mau), bị bắt và bị xử tử tại Sân Vận Động Cà-Mau ngày 30.4.1975. Anh đã can đảm không cho kẻ thù bịt mắt khi súng hướng về phía Anh và đã anh dũng hô to " Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm " khi bị xử bắn.
    15). Thiếu Tá Tôn Thất Trân (khóa 20) : Gốc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, là em trai của Đại Tá Tôn Thất Soạn, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Hậu Nghĩa. Thiếu Tá Trân là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Địa Phương Quân/ Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Không đằu hàng CS, chiến đấu đến cùng, bị bắt và bị xử tử ngày 30.4.1975 tại Hậu Nghĩa. Anh đã anh dũng chửi thẳng vào mặt kẻ thù CS " Chúng mày là bọn không có chính nghĩa " trước khi bị xử bắn.
    16). Đại Úy Hoàng Đình Đạt (khóa 20) :Trưởng Ban 4 của Trung Đoàn 52 Sư Đoàn 18BB, Anh đã có giấy nghỉ phép trong tay, nhưng trước tình hình chiến sự ác liệt của Mặt Trận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh, anh đã tình nguyện ở lại chiến đấu cùng đồng đội và đã hy sinh tại mặt trận vào ngày 30.4.1975.
    17). Đại Úy Trịnh Lan Phương (khóa 21) : Thuộc Phủ Tổng Thống VNCH, tự sát ngày 30.4.1975 tại Sài-Gòn.
    18). Đại Úy Hoàng Trọng Khuê (khóa 21) : Sau ngày 30.4.1975, không trình diện CS, tham gia các Tổ Chức Phục Quốc, chống Cộng, bị bắt năm 1978, rồi bị giam cầm, hành hạ dã man và bị xử bắn ngày 14.6.1980 tại Gò Cả tỉnh Quảng Nam.
    19). Trung Úy Quách Văn Sở (khóa 24) : Thuộc binh chủng Nhảy Dù, ngày 26.4.1975 có giấy nghỉ phép nhưng không đi, trở vào Trại Hoàng Hoa Thám Nhảy Dù, cùng đồng đội chiến đấu và hy sinh vào ngày 30.4.1975.
    20). Trung Úy Nguyễn Đình Giang (khóa 25) : Đại Đội Trưởng Đại Đội Trinh Sát của Trung Đoàn 50, Sư Đoàn 25 BB, chiến đấu đến cùng và tự sát vào ngày 30.4.1975 tại Cầu Khởi tỉnh Tây Ninh.
    21).Trung Úy Vy Văn Đạt (khóa 25) : Đại Đội Trưởng Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân, bị thương và tự sát ngày 30.4.1975.
    22). Các Thiếu Úy Nguyễn Hữu Thành, Phạm Ngọc Châu, Lê Khán Chiến và Nguyễn Ngọc Lợi, là các Tân Sĩ Quan của khóa 28, đáo nhận đơn vị vào ngày 21.4.1975, họ đã cùng đồng đội anh dũng chiến đấu đến những viên đạn, giọt máu cuối cùng và đã hy sinh vào ngày 30.4.1975.
    Và còn rất nhiều sĩ quan khác nữa của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã bất khuất, anh hùng hy sinh trong ngày 30.4.1975.

    C. NHỮNG SĨ QUAN CỦA TRƯỜNG VÕ BỊ QUỚC GIA VIỆT NAM BỊ CỘNG SẢN SÁT HẠI, XỬ TỬ, HÀNH HẠ, ĐÀY ĐỌA DÃ MAN CHO ĐẾN CHẾT TRONG CÁC TRẠI TÙ KHỔ SAI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975.
    ( Xin được ghi nhận Tổng Quát và chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót ... ).


    1). Đại Tá Nguyễn Bá Thìn tự Long (khóa 8) : Chết tại trại tù Yên Bái năm 1976.
    2). Trung Tá Lồ Văn E (khóa 8) : Chết tại trại tù Gia Trung năm 1981.
    3). Đại Tá Ngô Hoàng (khóa 8) : Bị CS bắn chết tại trại tù Kỳ Sơn tỉnh Quảng Nam.
    4). Trung Tá Đoàn Minh Viêm (khóa 8) : Chết tại trại tù Suối Máu tháng 12 năm 1975.
    5). Năm (5) sĩ quan của khóa 14, bị CS sát hại trong các trại tù của CSVN gồm có : Nguyễn Thành Long (Suối Máu), Tôn Thất Luân (Vĩnh Quang), Lưu Văn Chuyền (Sơn La), Võ Tín (Hoàng Liên Sơn), và Nguyễn Đỗ Tước (Yên Bái).
    6). Nguyễn Văn Nhiều (khóa 14) : Sau 30.4.1975, bị giam và tự vận trên đường bị chuyển ra Bắc.
    7). Đại Tá Đặng Phương Thành (khóa 16) : Bị giam, trốn trại vượt ngục, bị bắt lại và bị hành hạ, tra tấn cho đến chết vào ngày 7.9.1979 tại trại tù Yên Bái.
    8). Trung Tá Võ Vàng (khóa 17) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Kỳ Sơn tỉnh Quảng Nam vào tháng 7 năm 1977.
    9). Thiếu Tá Phạm Văn Tư (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Suối Máu ngày 22.2.1976.
    10). Thiếu Tá Trần Văn Bé (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Suối Máu ngày 9.4.1976
    11). Thiếu Tá Trần Văn Khánh (khóa 19) : Bị giam tại trại tù Long Giao, trốn trại bị CS bắt và sát hại chết năm 1976.
    12). Thiếu Tá Trương Đình Phước (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Tiên Lãnh tỉnh Quảng Nam 15.12.1979.
    13). Đại Úy Lê Trọng Tài (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tại trại tù Bù Gia Mập năm 1977.
    14). Trung Tá Huỳnh Như Xuân (khóa 19) : Bị giam và bị CS sát hại chết tháng 12 năm 1979 tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam.
    15). Trung Tá Lê Văn Ngôn (khóa 21):Bị giam và bị CS hành hạ, đọa đày dã man và bị kiệt lực đến chết tại Yên Bái 19.7.1978.
    16). Đại Úy Nguyễn Thuận Cát (khóa 24) : Bị giam và bị CS sát hại chết trong trại tù của CSVN.
    17). Trung Úy TQLC Nguyễn Ngọc Bửu (khóa 25) : Bị giam, trốn trại và vượt thoát khỏi trại tù A.20 Xuân Phước tỉnh Quảng Nam ngày 13.11.1980, nhưng một thời gian ngắn sau đó bị bắt lại và bị xử tử.
    18). Hải Quân Trung Úy Hoàng Tân (khóa 25) : Bị giam và trốn thoát khỏi trại tù A.20 Xuân Phước tỉnh Quảng Nam, trốn về được Đà-Lạt, nhưng sau đó bị bắt và bị xử tử tại Đa Thiện, thành phố Đà-Lạt.
    19). Đại Úy Hoàng Văn Nghị (khóa 23) : Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 67 Biệt Động Quân, bị giam, vượt trại tù bị CS bắt lại và đem xử bắn.
    20). Thiếu Úy Trần Hữu Sơn (khóa 28) : Bị giam và bị CS tra tấn cho đến chết tại trại tù Bình Điền, Huế.
    21). Thiếu Úy Lưu Đức Sơn (khóa 28) : Bị giam, vượt ngục, trốn trại và bị CS bắn chết.
    22). Thiếu Úy Trần Duy Hiến (khóa 28) : Bị giam và bị CS hành hạ cho đến chết trong trại tù của CSVN.
    23). Và có một số sĩ quan thuộc khóa 28, có người tham gia các tổ chức Phục Quốc, hoặc có người trốn trại và biệt tích mà tính đến nay, KHÔNG CÓ TIN TỨC, KHÔNG BIẾT SỐ PHẬN CỦA HỌ RA SAO ? ( Ai cũng tin chắc rằng họ đã chết ). Đó là các Thiếu Úy : Trần Văn Danh, Trần Hữu Dược, Ngô Xuân, Phạm Văn Bê, Lương Đình Phong, Nguyễn Văn Sáng, Lê Chí Thành, Nguyễn Trần Bảo, Dương Hợp, Nguyễn Gia Lê, Nguyễn Văn Chọn và Trần Quang Tâm.
    ... Và chắc chắn còn nhiều chiến sĩ anh hùng của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ... bị CSVN sát hại chết hoặc xử tử ...


    E. NHỮNG TỬ SĨ ANH HÙNG CỦA TRƯỜNG VBQG/VN TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG.


    - Không chấp nhận và kiên cường chống lại mục tiêu bành trướng và thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản (mà CS Bắc Việt là tay sai) trên đất nước Việt Nam của những người Việt Nam yêu nước đã có từ trước, sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Đặc biệt là sau Hiệp Định Genève năm 1954, đất nước Việt Nam được chia ra thành 2 miền Nam, Bắc với 2 quốc gia theo hai thể chế chính trị khác nhau : Miền Bắc theo Chủ Nghĩa Cộng Sản, là tay sai đắc lực, ngoan cuồng cho CS Quốc Tế, tiếp tục mục tiêu xâm lăng và muốn Nhuộm Đỏ toàn cõi đất nước Việt Nam, và đã mở CUỘC XÂM LĂNG MIỀN NAM VN ... Miền Nam VN theo Chủ Nghĩa Quốc Gia Tự Do và thực hiện hai chế độ Đệ 1 và Đệ 2 Việt Nam Cộng Hòa với mục tiêu xây dựng đất nước theo LÝ TƯỞNG TỰ DO và CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA ... và tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CỘNG SẢN BẮC VIỆT.
    - Với mưu mô bịp bợm và thâm độc, CS Bắc Việt đã dựng lên một tổ chức tay sai, trá hình tại miền Nam VN mang tên Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam vào năm 1960, rồi cho quân từ miền Bắc xâm nhập vào Nam, mở những trận đánh trên quy mô lớn ... trận Ấp Bắc (năm 1960), trận Bình Giã (năm 1964), trận Đồng Xoài (năm 1965) ... Tổng Công Kích, Tổng Tấn Công vào Tết Mậu Thân (năm 1968), và tàn bạo, ác liệt vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 với những trận đánh An Lộc, Kontum, Bình Định, Quảng Trị ... và những chiến sĩ anh hùng của QL/VNCH đã kiên cường chống lại mọi cuộc tấn công của Cộng quân để bảo vệ từng tấc đất cho quê hương miền Nam thân yêu.
    - Rồi đến Hiệp Định Ba-Lê năm 1973, CS Bắc Việt lại vi phạm Hiệp Định và mở những cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ miền Nam, và ác liệt nhất từ đầu năm 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
    - Trong cuộc chiến đấu chống Cộng vì Lý Tưởng Tự Do và Chính Nghĩa Quốc Gia, toàn thể Quân, Dân, Cán Chính VNCH đã làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình trong những hoàn cảnh cực kỳ cam go oan nghiệt nhưng vẫn luôn luôn thể hiện tinh thần anh dũng, không khiếp sợ trước quân thù CS.
    - Và điểm đặc biệt xin được ghi nhận riêng đối với những chiến sĩ anh hùng của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA (mà trong đó có những sĩ quan xuất thân từ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM ) ... đã có những người đã hy sinh mạng sống (tử sĩ), đã có những người đã bị thương (cả nặng lẫn nhẹ), đã có những người đã trở thành tàn phế (thương phế binh) ... và kể cả những người đã chết sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong các lao tù của CSVN ... và những người hiện nay đang còn sống tại Việt Nam cũng như khắp mọi nơi trên thế giới. Tất cả những người chiến sĩ của QL/VNCH nầy phải được Tổ Quốc và Người Dân Việt Nam ( đặc biệt là những người dân sống ở miền Nam VN), trang trọng dành cho một sự Vinh Danh, Tưởng Niệm, Thương Tiếc ( những người đã chết) và Tri Ân ... vì họ đã tạo nên một THIÊN ANH HÙNG CA CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM.
    - Trong phạm vi hạn chế của bài viết nầy, viết về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, người viết (trong khả năng hiểu biết hạn hẹp), xin phép được nêu tên một số TỬ SĨ ANH HÙNG ( đại diện cho toàn thể Tử Sĩ đã hy sinh) của các khóa của TVBQGVN), đã góp phần vào Thiên Anh Hùng Ca của TVBQG/VN và của QL/VNCH.

    - Từ ngày thành lập (năm 1948) cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trường VBQG/VN ( danh xưng sau cùng) với 31 khóa, có hơn 6000 sĩ quan tốt nghiệp và 463 SVSQ, những Chiến Sĩ Anh Hùng nầy đã phục vụ trong toàn thể các đơn vị Hải, Lục và Không Quân của QL/VNCH và họ đã chiến đấu can trường và họ đã có người hy sinh trên mọi mặt trận cũng như hy sinh trong mọi nhiệm vụ, công tác mà QL/VNCH đã giao phó


    * KHÓA 1 : (ra trường năm 1949) : những anh hùng tử sĩ của khóa 1, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Văn Thản, tử trận vào cuối năm 1949 tại Bắc Việt, Cố Trung Úy Lê Văn Thông, tử trận năm 1949 tại Trung Việt, Cố Trung Úy Cao Hoàng Phiên, tử trận năm 1950 tại Nam Việt, và ...


    * KHÓA 2 : (ra trường năm 1950) : những anh hùng tử sĩ của khóa 2, trong đó có : Cố Trung Tướng Trần Thanh Phong, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 1.12.1972 tại tỉnh Phú Yên. Ông đã từng giữ các chức vụ : Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB (năm 1959), Tư Lệnh Sư Đoàn 1 BB (năm 1963), Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB (năm 1964), Tham Mưu Trưởng Liên Quân Bộ TTM (1967), Tổng Thanh Tra QL/VNCH (1969), Tổng Trưởng Xây Dựng Nông Thôn (1969), Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (1971) và sau cùng là Phụ Tá Đặc Biệt Thủ Tướng VNCH. và nhiều anh hùng tử sĩ khác nữa ...


    * KHÓA 3 : (ra trường năm 1951) : những anh hùng tử sĩ của khóa 3, trong đó có : Cố Trung Úy Hoàng Thúy Đồng, hy sinh năm 1951 tại Bắc Việt, Cố Trung Úy Huỳnh Văn Louis, hy sinh năm 1951 tại Bắc Việt, Cố Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Phước, Phụ Tá Tư Lệnh QĐ4, QK4, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 18.5.1971 tại QĐ4, QKK4, và ...


    * KHÓA 4 : (ra trường tháng 12 năm 1951) : những anh hùng tử sĩ của khóa 4, trong đó có : Cố Trung Úy Hà Phủ Kính, tử trận tại tỉnh Rạch Giá ngày 14.6.1952, Cố Trung Tá Lê Văn Ba, tử trận ngày 30.1.1965 tại tỉnh Vĩnh Long, Cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh QĐ4, QK4, tử nạn phi cơ ngày 2.5.1970 tại Vùng 4 Chiến Thuật, vùng biên giới Việt Nam - Campuchia,và ...


    * KHÓA 5 : (ra trường tháng 4 năm 1952) : những anh hùng tử sĩ của khóa 5, trong đó có : Cố Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BBB, tử trận ngày 24.4.1972 tại Căn Cứ Tân Cảnh tỉnh Kontum, và ...


    * KHÓA 6 : (ra trường tháng 10 năm 1952) : những anh hùng tử sĩ của khóa 6, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Văn An, Cố Trung Úy Nguyễn Văn Cừ (cả 2 thuộc binh chủng Thiết Giáp và hy sinh tại chiến trường Bắc Việt năm 1953), Cố Trung Úy Hà Văn Đồng, hy sinh tại chiến trường Cao Nguyên, và ...


    * KHÓA 7 : (ra trường tháng 2 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 7, trong đó có : Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB, tử nạn phi cơ trên đường công tác ngày 8.9.1968 tại tỉnh Quảng Đức, và ...


    * KHÓA 8 : (ra trường tháng 6 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 8, trong đó có : Cố Chuẩn Tướng Lý Đức Quân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 7, Sư Đoàn 5 BB, tử nạn phi cơ trên đường công tác tại tỉnh Bình Dương ngày 25.5.1973, và ...


    * KHÓA 9 : (ra trường tháng 8 năm 1953) : những anh hùng tử sĩ của khóa 9, trong đó có : Cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhâm, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, hy sinh tại quận Đồng Xoài (Phước Long), ngày 13.6.1965, và ...


    * KHÓA 10 : (ra trường tháng 6 năm 1954) : những anh hùng tử sĩ của khóa 10, trong đó có : Đỗ Hữu Hạnh (1955), Bùi Ngọc Danh (1960), Đỡ Văn Gấm (1963), Cố Chuẩn Tướng Trương Hữu Đức, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, tử nạn phi cơ trên đường công tác tại chiến trường An Lộc tháng 4 năm 1972, và ...


    * KHÓA 11 : (ra trường tháng 5 năm 1955) : những anh hùng tử sĩ của khóa 11, trong đó có : Trung Tá Nguyễn Văn Đức (1975), Trung Tá Võ Văn Đường (1975 tại tỉnh Chương Thiện), và ...


    * KHÓA 12 : (ra trường tháng 12 năm 1956) : những anh hùng tử sĩ của khóa 12, trong đó có : Phạm Tất Khắc (1962 tại Long Khánh), Đỗ Đằng Vân (1965 tại Lâm Đồng), Huỳnh Thanh Đời (1965 tại Kontum), và ...


    * KHÓA 13 : (ra trường tháng 4 năm 1958) : những anh hùng tử sĩ của khóa 13, trong đó có : Cố Đại Úy Phạm Thế Hiền, thuộc Sư Đoàn 5 BB, tử trận năm 1960 tại Chiến Khu D, Cố Thiếu Tá TQLC Trần Văn Hoán, tử trận năm 1963 tại Bình Giã, và ...


    * KHÓA 14 : (ra trường tháng 1 năm 1960) : những anh hùng tử sĩ của khóa 14, trong đó có : Vũ Văn Hậu, Trần Hữu Tạo, Vương Mộng Hồng, Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tử trận năm 1972 tại Vùng 2 CT, và .


    * KHÓA 15 : ( ra trường tháng 6 năm 1961) : những anh hùng tử sĩ của khóa 15, trong đó có : Hà Thúc Bằng, Lê Minh Hoàng, Lê Ngọc Túc, và ...


    * KHÓA 16 : (ra trường tháng 12 năm 1962) : những anh hùng tử sĩ của khóa 16, trong đó có : Nhữ Văn Hải, Cố Trung Tá Hoàng Lê Cường (năm 1972), Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (Sư Đoàn 22 BB, 1975), Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc (1975), Trung Tá Đỗ Hữu Tùng (1975), và ...


    * KHÓA 17 : (ra trường tháng 3 năm 1963) : những anh hùng tử sĩ của khóa 17, trong đó có : Cố Trung Úy Phan Tấn Trí (tại Quẳng Tín), Đại Tá Võ Toàn (năm 1975 tại Vùng 1 Chiến Thuật), và ...


    * KHÓA 18 : (ra trường tháng 11 năm 1963) : những anh hùng tử sĩ của khóa 18, trong đó có : Cố Trung Úy Nguyễn Anh Vũ (1963 tại miền Đông Nam Phần), Nguyễn Văn Úc (1968), Vữ Văn Thao (1967), Cố Đại Tá Lê Huấn (Chiến trường Hạ Lào 1971).


    * KHÓA 19 : (ra trường tháng 11 năm 1964) : có 98 anh hùng tử sĩ hy sinh (trong số 391 sĩ quan tốt nghiệp) , trong đó có : TQLC Võ Thành Kháng (1964, Cố Trung Úy), Cố Trung Tá Châu Minh Kiến (1969, Sư Đoàn 5 BB), Cố trung Tá Trằn Nghĩa Châu ( Sư Đoàn 22 BB, đầu năm 1975), Cố Thiếu Tá Nguyễn Văn Phước, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 31, Sư Đoàn 21 BB , tử trận ngày 18.11.1969 tại tỉnh Chương Thiện, Cố Trung Úy Biệt Động Quân Nguyễn Thái Quan (1964, Bình Giã), và ...


    * KHÓA 20 : (ra trường ngày 20.11.1965) : có 123 anh hùng tử sĩ hy sinh (trong số 407 sĩ quan tốt nghiệp), trong đó có : Cố Trung Tá Nguyễn Văn Cội ( tử trận tháng 3 năm 1972 tại Đèo Phủ Cũ, Qui Nhơn ), Nguyễn Hữu Biên (Sư Đoàn 5 BB, cuối năm 1966 tại quận Chơn Thành tỉnh Bình Long), Lê Minh Châu (tại Vĩnh Long ngày 1.1.1966), Nguyễn Xuân Hòa (tháng 6 năm 1972 tại Phong Điền, Thừa Thiên, Huế), và ...


    * KHÓA 21 : (ra trường ngày 26.11.1966) : những anh hùng tử sĩ của khòa 21, trong đó có : Huỳnh Minh Trọng, Lê Đức Hoành, Đỗ Chí Thành, và ...


    * KHÓA 22A : (ra trường ngày 02.12.1967) + KHÓA 22B : (ra trường ngày 12.12.1969) : Với tổng số 265 sĩ quan tốt nghiệp của cả 2 khóa, đã có 66 anh hùng tử sĩ đã hy sinh, trong đó có : Nguyễn Đức Phống, Trần Trọng Quỳnh, Lê Tấn Đức, và ...


    * KhÓA 23 : (ra trường ngày 18.12.1970) : Với tổng số 241 sĩ quan tốt nghiệp, khóa 23 có 55 anh hùng tử sĩ hy sinh, trong đó có : Cố Trung Úy Lương Văn Của (TQLC, tử trận năm 1971 tại Ba Lòng, Quảng Trị), Cố Đại Úy Dương Hoàng Kỳ (Đại Đội Trưởng Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 36, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, tử trận tại Mật Khu Hố Bò tỉnh Bình Dương năm 1972), Cố Đại Úy Lý Văn Phúc (Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tử trận năm 1972 tại Căn Cứ Eva, Quảng Trị), và ...



    * KHÓA 24 : (ra trường ngày 17.12.1971) : Khóa 24 với 53 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 245 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có Trần Đại Chiến (Tiểu Đoàn 6 Nhẳy Dù, hy sinh năm 1972 tại chiến trường An Lộc), Phan Hữu Tại (Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, hy sinh năm 1972 tại chiến trường Quảng Trị), Phạm Đại Tá (TQLC, hy sinh năm 1972 tại chiến trường Quảng Trị), Quách Văn Sở (Thuộc binh chủng Nhảy Dù, ngày 26.4.1975 có giấy nghỉ phép, nhưng không đi phép mà trở lại Trại Hoàng Hoa Thám Nhảy Dù cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu và hy sinh ngày 30.4.1975), và ...


    * KHÓA 25 : (ra trường ngày 15.12.1972) : Khóa 25 với 41 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 260 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có : Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Hồng (HQ.5), hy sinh trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974, Trung Úy Nguyễn Đình Giang (Sư Đoàn 25 Bộ Binh, tự sát ngày 30.4.1975 tại Cầu Khởi tỉnh Tây Ninh), Trung Úy Vy Văn Đạt (Biệt Động Quân, tự sát ngày 30.4.1975 ), và ...

    * KHÓA 26 : (ra trường ngày 18.01.1974) : Khóa 26 với 29 anh hùng tử sĩ hy sinh trong số 175 sĩ quan tốt nghiệp, trong đó có : Lê Quang Quảng (Sư Đoàn 22 Bộ Binh, hy sinh, chỉ 23 ngày sau khi đáo nhậm đơn vị), Nguyễn Cảnh Hưng (Sư Đoàn 22 Bộ Binh), Tô Văn Nhị (Nhảy Dù), Lê Hải Bằng (Nhảy Dù), Diệp Thanh Xuân Phấn (Thủy Quân Lục Chiến), Lê Văn Cao (Thiết Giáp, hy sinh vào những giờ phút cuối cùng của trận chiến vào ngày 30.4.1975 tại Ấp Tân Bắc, Hố Nai tỉnh Biên Hòa, và ...


    * KHÓA 27 : (ra trường ngày 27.12.1974) : Những tử sĩ anh hùng của khóa 27, trong đó có : Hoàng Văn Nhuận (Thủ Khoa của khóa 27, ra trường, chọn binh chủng Thiết Giáp. Đang theo học tại Trường Thiết Giáp, những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Cộng Quân tấn công vào Trường Thiết Giáp, Thiếu Úy Nhuận đã cùng đồng đội chiến đấu chống Cộng đến cùng và đã hy sinh vào ngày 30.4.1975, Nguyễn Viết Hùng (Thủy Quân Lục Chiến), Tạ Tử Anh (Nhảy Dù), Trần Đức Bằng (Biệt Động Quân), Nguyễn Văn Nhành (Nhảy Dù), và ...


    * KHÓA 28 : (ra trường ngày 21.4.1975) : Những anh hùng tử sĩ của khóa 28 gồm có các Tân Sĩ Quan có tên sau đây :
    1). Thiếu Úy Nguyễn Hữu Thành (Thủy Quân Lục Chiến).
    2). Thiếu Úy Phạm Ngọc Châu (Nhảy Dù).
    3). Thiếu Úy Lê Khán Chiến (Sư Đoàn 22 Bộ Binh).
    4). Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Lợi ( hy sinh tại Thủ Đức).


    * PHẦN KÉT LUẬN :


    Kính thưa quý Niên Trưởng và quý Chiến Hữu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Kính thưa các Bậc Trưởng Thuong và các Đồng Hương Việt Nam.
    Kính thưa quý Anh Chị ( Bạn Bè và Thân Hữu ) và thưa Các Bạn Trẻ.


    - Để thực hiện bài viết về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, chúng tôi đã sưu tầm, tham khảo, tra cứu (thỉnh thoảng có phần trích đăng) những tài liệu, bài viết có liên quan đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (mà trong đó có Trường VBQG/VN) của nhiều tác giả khác nhau, của các tổ chức, hội đoàn, của các cơ quan truyền thông báo chí, các trang mạng Internet ...

    - Đồng thời, cũng có những tạp chí, sách, báo THẬT QUÝ BÁU và QUAN TRỌNG mà chúng tôi cũng tham khảo và tra cứu, trích đăng như : Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Giai Đoạn Hình Thành, 1946 - 1955 ( Bộ TTM/QL/VNCH ), Niên Giám Sĩ Quan (1971), Niên Giám Sĩ Quan (1974) của Bộ TTM/QL/VNCH, Huấn Thị Điều Hành Căn Bản (Bộ TTM/QL/VNCH năm 1971), Các đặc san Chiến Sĩ Cộng Hòa (Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QL/VNCH trước năm 1975), Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập (Nguyễn Đức Phương), Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Theo Dòng Lịch Sử (Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ,Thực Hiện năm 2017), Binh Chủng Nhảy Dù, 20 Năm Chiến Sử (Võ Trung Tín và Nguyẽn Hữu Viên), các Đặc San Đa Hiệu (Cơ Quan Ngôn Luận của Tổng Hội cựu SVSQ Trường VBQGVN), Embassy Of The United Of America Defense Attache Office FPO San Francisco 96620, Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Phạm Phong Dinh), các Đặc San Mũ Nâu ( Binh Chủng Biệt Động Quân), và nhiều tài liệu, sách báo khác nữa ...

    - Và đặc biệt, cá nhân chúng tôi đã có nhiều dịp liên lạc, trao đổi, học hỏi và tham khảo ý kiến với một số Sĩ Quan đã xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trong đó có :
    * Trung Tướng Trần Văn Trung (khóa 1) : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QL/VNCH.
    * Đại Tá Trần Công Liễu (khóa 8) : Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân QL/VNCH, Thị Trưởng kiêm Đặc Khu Trưởng Cam-Ranh thuộc Quân Đoàn 2, Quân Khu 2, Vùng 2 Chiến Thuật QL/VNCH.
    * Anh Hoàng Thụy Long (khóa 14) : Thiếu Tá, thuộc Binh Chủng Quân Cảnh QL/VNCH.
    * Anh Trần Viết Huấn (khóa 23) : Đại Úy, thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân QL/VNCH.
    * Anh Nguyễn Viết Ấn (khóa 24) : Đại Úy, thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh, QĐ1, QK1 của QL/VNCH.
    * Anh Trần Hữu Hạnh (khóa 27) : Thiếu Úy, thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, QĐ4, QK4 của QL/VNCH.


    - Với mục đích và ước mong là được góp một phần nhỏ (trong khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình) vào việc viết lại, ghi lại những Trang Sử Oai Hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến đấu chống Cộng vì Lý Tưởng Tự Do và Chính Nghĩa Quốc Gia (trước năm 1975), và cũng ước nguyện để cho CÁC THẾ HỆ CON, CHÁU VIỆT NAM MAI SAU HIỂU ĐƯỢC, BIẾT ĐƯỢC VÀ THẤY ĐƯỢC CÔNG LAO ANH DŨNG KIÊN CƯỜNG VÀ CUỘC CHIẾN ĐẤU THẬT HÀO HÙNG CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA, TRONG ĐÓ CÓ NHỮNG SĨ QUAN XUẤT THÂN TỪ TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.


    - Chúng tôi cũng xin phép được XIN LỖI CHUNG và CÁM ƠN CHUNG đến các tác giả, các tổ chức, hội đoàn, các cơ quan truyền thông báo chí đã có những tài liệu, bài viết liên quan đến Trường VBQG/VN mà chúng tôi đã tham khảo, tra cứu, trích đăng ... và cũng xin chân thành cám ơn quý vị sĩ quan xuất thân từ TVBQG/VN mà chúng tôi đã nêu tên ở trên đã cho chúng tôi học hỏi và tham khảo ý kiến.


    - Và lời xin thưa sau cùng : Thời gian khá dài của năm tháng đã qua và chồng, chất, khả năng của người viết cũng rất hạn hẹp, bài viết nầy chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết và sai sót. Rất mong nhận được sự chỉ giáo, sửa chữa, bổ túc và sự cảm thông của tất cả mọi quý vị.
    CHÂN THÀNH CÁM ƠN.
    Ba-Lê, ngày 23 tháng 10 năm 2020.
    Nguyễn Vân Xuyên.
    Khóa 26 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức QL/VNCH.



    THƯƠNG TIẾC
    CHIẾN SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA.
    ***
    Với mái đầu xanh giờ đã bạc
    Nhưng hồn chinh chiến vẫn trong tim
    Nhớ tháng Tư xưa lòng tan nát
    Nghe lệnh Đầu Hàng ngực buốc đau
    Hỡi người Lính cũ năm tháng ấy
    Buông súng tan hàng nay ở đâu ?
    THƯƠNG người chiến sĩ thời ngang dọc
    TIẾC mộng không thành nợ núi sông.
    ***
    Ba-Lê, 23.10.2020.
    Nguyễn Vân Xuyên.


    * BÀI ĐỌC THÊM .
    Kính thưa quý vị.
    - Cá nhân Tôi (Nguyễn Vân Xuyên), có theo học, có nghiên cứu và có thực hành môn LÝ SỐ HỌC. Khi thực hành, Tôi cũng thu được một số KÉT QUẢ KHẢ QUAN HẠN CHẾ. Thầy dạy cho Tôi môn Lý Số Học là một người thân (bà con họ hàng) trong gia đình bên Vợ của Tôi. Ông là một người gốc Trung Hoa nhưng ông sinh ra ở Việt Nam. Tổ phụ của ông là những người Trung Hoa đã di cư đến Việt Nam vào thời kỳ " Triều đại nhà Minh bên Trung Hoa bị sụp đổ và nước Trung Hoa bị cai trị bởi Mãn Thanh".
    - Ở Việt Nam, ông Thầy dạy Lý Số Học cho Tôi là một Thầy Thuốc Đông Y và đồng thời là một Thầy chuyên coi về Tử Vi và Lý Số Học và Tôi chỉ thụ huấn ở ông môn Lý Số Học mà thôi. Tôi theo học ông ở hải ngoại từ năm 1985 đến năm 1995 và sau đó thì tự nghiên cứu thêm và rút lấy kinh nghiệm qua thực hành và ở Pháp cũng đã có nhiều người nhờ Tôi coi dùm Lý Số và hoàn toàn MIỄN PHÍ vì Tôi là một người luôn luôn chủ trương : TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI ... trong cuộc sống, tình cảm là quan trọng, xã giao chỉ là một lời chào hỏi ... và một ly nước trà, một ly cà-phê mà thôi ...


    - Sau khi viết một bài về TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM, Tôi quyết định lấy một Lý Số cho TVBQG/VN và thấy có những CON SỐ ĐỊNH MỆNH 13 dành cho ngôi trường nầy ... Thật sự Tôi cảm thấy thật BUỒN và không thể ngờ là như thế được, thật quá sức tưởng tượng của cá nhân Tôi.
    - Tôi xin phép được thưa trước : Đây là phần nghiên cứu, chuẩn đoán và trình bày của CÁ NHÂN TÔI. Xin quý vị vui lòng và thông cảm đừng và không đặt ra vấn đề ĐÚNG hay SAI ... mà chỉ xem như quý vị đang đọc một bài viết trong đó có " NHỮNG TRÙNG HỢP TÌNH CỜ, HUYỀN BÍ VÀ ĐỊNH MỆNH " của cuộc đời. Xin đọc để giải trí cho vui mà thôi.


    *** NHỮNG CON SỐ 13 ĐỊNH MỆNH :
    1). Con số 13 Định Mệnh :
    - Năm 1948, Hoàng Đế, Quốc Trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân ký một sắc lệnh thành Lập Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Đập Đá, Huế, mà sau nầy là TVBQG/VN . Số 1948 theo Lý Số Học chia làm 2 vế : 19 và 48. Ghi nhận theo Lý Số Học cho kết quả : 19 + 48 = 67 và 6 +7 thành 13. Đúng là con số 13 Định Mệnh.
    - Hoàng Đế, Quốc Trưởng sinh năm 1913 ... con số sau cùng là con số 13 Định Mệnh.
    - Hoàng Đế Bảo Đại là vị Vua cuối cùng và thứ 13 của Triều Nguyễn ... cũng là con số 13 Định Mệnh.


    2). Con số 13 Định Mệnh :
    - Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có tất cả 13 nhiệm kỳ (tức 13 lần) Chỉ Huy Trưởng là người Việt Nam. Có tất cả 11 người, nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ, mỗi người phụ trách 2 nhiệm kỳ (2 lần).
    - Tóm lại, có 13 nhiệm kỳ, tức có 13 lần. Con số 13 Định Mệnh.


    3). Con số 13 Định Mệnh :
    - Miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa có 4 vị Tổng Thống (trong đó có I vị Tổng Thống đã 2 lần làm Chỉ Huy Trưởng Trường VBQG/VN, đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ). Bốn (4) vị Tổng Thống VNCH, đó là :
    * Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901. Con số sau cùng là con số 1.
    * - Nguyễn Văn Thiệu, sinh năm 1923. Con số sau cùng là con số 3.
    * - Trần Văn Hương, sinh năm 1903. Con số sau cùng là con số 3.
    * - Dương Văn Minh, sinh năm 1916. Con số sau cùng là con số 6.
    - Ghi nhận theo Lý Số Học cho thấy : 1 + 3 + 3 + 6 = 13. Con số 13 Định Mệnh


    4). Con số 13 Định Mệnh :
    - Chính thể VNCH có 2 vị Tổng Thống do dân bầu qua một cuộc Bầu Cử Chính Thức, đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
    - Trường VBQG/VN, từ khóa 1 đến khóa 29 có tổ chức 30 lần Lễ Mãn Khóa (khóa 22 có 2 lần : 22A và 22B).
    - TT Ngô Đình Diệm đã chủ tọa 5 lần Lễ Mãn Khóa, đó là các khóa : 12, 13, 15, 16 và 17. Con số 5.
    - TT Nguyễn Văn Thiệu đã chủ tọa 8 lần Lễ Mãn Khóa, đó là các khóa : 11, 20, 21, 22A, 22b, 23, 26 và 27. Con số 8.
    - Ghi nhận theo Lý Số Học, có được : 5 + 8 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    5). Con số 13 Định Mệnh :
    - Ngày 23.10.1955, tại miền Nam VN có một cuộc Trưng Cầu Dân Ý để truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Lúc bấy giờ, trong dân gian có câu Xanh bỏ giỏ, Đỏ bỏ thùng ". Lá phiếu màu Xanh tượng trưng cho QT Bảo Đại và lá phiếu màu Đỏ tượng trưng cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Kết quả là QT/Bảo Đại bị truất phế. Sau đó, tên của khóa 1 của TVBQG/VN (tên là khóa Bảo Đại) năm 1948 được chính thức thay đổi thành tên khóa Phan Bội Châu.
    - Xin được ghi nhận theo Lý Số Học như sau :
    * Ngày, tháng, năm truất phế QT/Bảo Đại : 23.10.1955 = 2 + 3 + 1 + 20 ( 1 + 9 + 5 + 5 ) = 26. Con số 26.
    * Tên khóa 1 năm 1948 thành khóa Phan Bội Châu : 1 + 19 + 48 = 68. Con số 68.
    * Xin được có kết quả : 26 + 68 = 94 tức là 9 + 4 = 13. Con sớ 13 Định Mệnh.


    6). Con số 13 Định Mệnh :
    - Cuộc Đảo Chánh ngày 1.11.1963 để lật đổ TT Ngô Đình Diệm. Yếu tố chính và quan trọng đưa đến chiến thắng sau cùng của cuộc Đảo Chánh là nhờ vào lực lượng của Sư Đoàn 5 BB dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu. (Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, xuất thân khóa 1 (con số 1) của TVBQG/VN
    - Xin được ghi nhận theo Lý Số Học như sau :
    * Khóa 1 (TVBQG/VN), con số 1 và ngày Đảo Chánh 1.11.1963 tức là : 1 + 1 +11 + 19 ( 1 + 9 + 6 + 3 ) = 32. Con số 32.
    * Năm 1963, TT Ngô Đình Diệm được 62 tuổi (ông sinh năm 1901). Con số 62.
    - Tóm lại, kết quả có được : 32 + 62 = 94 tức là 9 + 4 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    7). Con số 13 Định Mệnh :
    - Lúc xảy ra cuộc Đảo Chánh ngày 1.11.1963, lúc đó TT Ngô Đình Diện được 62 tuổi (ông sinh năm 1901). Con số 62. Người cầm đầu và lãnh đạo cuộc Đảo Chánh là Trung Tướng Dương Văn Minh, ông được 47 tuổi (ông sinh năm 1916). Con số 47.
    - Số tướng lãnh nồng cốt của cuộc Đảo Chánh là 8 người (xin chỉ ghi nhận những người đang mang cấp Tướng). Con số 8.
    1. Trung Tướng Dương Văn Minh.
    2. - Trần Văn Đôn.
    3. - Nguyễn Ngọc Lễ.
    4. Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm.
    5. - Tôn Thất Đính.
    6. - Lê Văn Kim.
    7. - Phạm Xuân Chiểu.
    8. - Mai Hữu Xuân.
    - Cuộc Đảo Chánh là ngày 1.11.1963 : 1 + 1 + 1 + 1 + 9 + 6 + 3 = 22. Con số 22.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học : 62 + 47 + 8 + 22 = 139 tức là 1 + 3 + 9 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    8). Con số 13 Định Mệnh :
    - Tổng Thống Dương Văn Minh, Tổng Thống VNCH sau cùng và chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 30.4.1975 và ông đã có đến chủ tọa Lễ Mãn Khóa 18 của TVBQG/VN (khóa Bùi Ngươn Ngãi) trên cương vị Quốc Trưởng năm 1963. Ông sinh ngày 19 tháng 2 năm 1916.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học :
    * Ngày, tháng, năm, sinh của QT/Dương Văn Minh : 19.2.1916 : 1 + 9 + 2 + 1 + 9 + 1 + 6 = 29. Con số 29.
    * Chấm dứt nhiệm vụ : 3O.4.1975 : 3 + 4 +1 + 9 + 7 + 5 : 29. Con số 29.
    - Kết quả cho thấy : 29 + 29 = 58 tức là 5 + 8 = 13. Con số 13 Định Mệnh.


    9). Con số 13 Định Mệnh :
    - Các vị lãnh đạo thuộc phe Quốc Gia Việt Nam, đã có 5 vị ( con số 5), đã đảm nhận vai trò Quốc Trưởng ( không phải là danh xưng Tổng Thống do dân bầu ra qua một Cuộc Bầu Cử Chính Thức). Đó là :
    * Quốc Trưởng Bảo Đại (1947, 1948), ông sinh năm 1913. Con số sau cùng 13.
    * QT. Dương Văn Minh (1963), ông sinh năm 1916. Con số sau cùng 16.
    * QT Nguyễn Khánh (1964), ông sinh năm 1927. Con số sau cùng 27.
    * QT Phan Khắc Sửu (1964), ông sinh năm 1901. Con số sau cùng 1.
    * Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu, ông sinh năm 1923. Con số sau cùng 23
    - Tất cả các vị trên (ngoại trừ QT Phan Khắc Sửu), đều đã đến chủ tọa Lễ Mãn Khóa của TVBQG/VN.
    - Xin ghi nhận theo Lý Số Học : 5 (vị) + 13 + 16 + 27 + 1 + 23 = 85 tức là 8 + 5 = 13. Con số 13. Định Mệnh.

    Ba-Lê, ngày 23 tháng 10 năm 2020.
    Ghi lại với sự THẤT VỌNG và MỘT NỖI BUỒN THẬT LỚN.
    Nguyễn Vân Xuyên

    *** TB : Kính thưa quý vị,
    -Tôi đang nghiên cứu, chuẩn đoán và thiết lập các BẢN LÝ SỐ HỌC dành cho VIỆT NAM ( Việt Nam Quốc Nội tức CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ), còn Cộng Đồng Việt Nam tại Hải Ngoại thì chắc quý vị đã biết quá rõ, xin MIẼN BÀN, PHÁP QUỐC và HOA KỲ. Riêng Hoa Kỳ, theo lời yêu cầu của một số Bạn Bè, Thân Hữu ( họ thuộc cả 2 phe Dân Chủ và Cộng Hoà ), hỏi Tôi về KẾT QUẢ CUỘC BẦU CỬ TỔNG THỐNG HOA KỲ ( 2020 - 2024 ). Tôi là một người Việt Nam sinh sống tại Pháp, không quan tâm, không có ý kiến, không ủng hộ cá nhân hay đảng phái nào ở Hoa Kỳ ... Nhưng theo LÝ SỐ HỌC mà Tôi chuẩn đoán thì : TỔNG THỐNG HOA KỲ ĐƯƠNG NHIỆM
    D. TRUMP SẼ TÁI ĐẮC CỬ NHIỆM KỲ 2 ( 2020 - 2024 ). Điều nầy Tôi đã trả lời cho những Bạn Bè, Thân Hữu ở Hoa Kỳ thuộc cả 2 phe.
    - Phe ủng hộ Ông D.TRUMP nói với Tôi rằng : Nếu Ông D. TRUMP tái đắc cử Nhiệm Kỳ 2, sau khi TÌNH TRẠNG CORONA CHẤM DỨT, họ sẽ mời Tôi sang Hoa Kỳ du lịch và vui chơi trong vòng 1 tháng, sẽ đài thọ vé máy bay, ăn, ở và mọi việc vui chơi, du lịch ...
    - Kính thưa quý vị. Xin hẹn quý vị trong bài viết tới, với mọi chi tiết TỐT, XẤU theo chuẩn đoàn LÝ SỐ HỌC dành cho Việt Nam, Pháp Quốc và Hoa Kỳ.

    Trân trọng kính chào.

    Nguyễn Vân Xuyên.
    Last edited by cuocsi; 04-27-2023 at 12:41 PM.

  10. #20
    Biệt Thự cuocsi's Avatar
    Join Date
    Sep 2016
    Location
    Paris có gì lạ
    Posts
    1,619

    Lá Cờ Vàng



    Lá Cờ Vàng và Ông Đại Sứ
    Tác giả: Anthony Hưng Cao
    Bài số 3607-17--30197vb3082515

    Tác giả là một bác sĩ Nha Khoa, hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2007, ông đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả Xuất Sắc 2010, với hồi ký “My Life,” bài viết chia sẻ kinh nghiệm học tập của ông. Ngoài nghiệp Y Khoa, từ nhiều năm qua Hưng Cao còn là người soạn nhạc và là chủ tịch câu lạc bộ Tình Nghệ Sĩ. Sau đây là bài viết của ông.

    * * *

    Gần 30 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ cái cảm xúc khi tôi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ lúc tôi vừa bước vào trại chuyển tiếp của người tị nạn ở Battaan vào tháng 6 năm 1988.

    Lúc đó, tôi còn là cậu thanh niên mới bước vào tuổi mười chín và đã trải qua đến 13 năm sống dưới chế độ cộng sản từ sau cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Tôi nhớ một cảm xúc rất khó tả, vừa lạ lẫm, vừa tò mò xen lẫn ngạc nhiên khi lần đầu tiên nhìn thấy lá cờ. Thật ra cảm xúc đó cũng dễ hiểu đối với những thanh niên cùng trang lứa với tôi lúc đó. Cũng như bao nhiêu thanh niên khác sau năm 1975 ở Việt Nam, chúng tôi ít khi có dịp nhìn thấy hình ảnh của lá cờ vàng ba sọc đỏ.

    Hình ảnh lá cờ vàng có chăng chỉ qua những bài học nhồi nhét lòng căm thù về ý thức hệ và những câu chuyện bịa đặt xấu xa mà chúng tôi bắt buộc phải học từ những lớp vỡ lòng về "chế độ cũ" hay chế độ "Mỹ ngụy".
    Tôi có cái may mắn là được ba của tôi, người đã trải qua những năm tháng phục vụ trong ngành quân y của Việt Nam Cộng Hoà, thỉnh thoảng thì thầm kể lại những chiến tích oai hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hoà mà ông được chứng kiến, cũng như những việc làm đầy nghĩa cử của các toán quân y Mỹ và những người lính Việt Nam Cộng Hoà giúp đỡ chăm sóc cho người dân. Tuy nhiên, những câu chuyện hiếm hoi đó chỉ thỉnh thoảng ông mới dám kể vì khắp nơi trong xã hội lúc đó là tình trạng "tai vách mạch rừng", đầy dẫy những tên công an khu vực cộng khai và trá hình.

    Năm 1975, tôi chỉ mới vừa 6 tuổi để có một kỷ niệm hay một ý thức nào về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Các bạn trẻ lớp sau tôi chắc chắn còn hoàn toàn mù tịt hơn về hình ảnh lá cờ ấy, nhất là tệ hại hơn khi chế độ cộng sản đã cố tình dùng đủ mọi cách để bóp méo và xuyên tạc lá cờ biểu tượng của nền dân chủ tự do dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà.

    Khi trưởng thành, bước vào ngưỡng cửa trung học, một số chúng tôi bắt đầu có ý thức hơn về những điều bất công trong xã hội chung quanh và đã có những tư tưởng chống đối hay phản kháng, nhưng tuyệt nhiên, hình ảnh của lá cờ vàng trong những năm tháng đó hoàn toàn không là một hình ảnh mà chúng tôi dựa vào để nung nấu ý chí hay lấy đó làm biểu tượng để đấu tranh.
    Đó là lý do tôi có cảm xúc khá lạ lẫm khi lần đầu được nhìn lá cờ vàng tung bay trong gió trong một ngày hè nóng nực lúc chúng tôi vừa bước chân vào trại tị nạn Battaan. Tôi nhớ tôi đã đứng sựng lại vài giây để nhìn lá cờ cho đến khi mẹ tôi giục mau đi theo gia đình về ngôi nhà cất tạm trong trại để tạm trú trong thời gian chúng tôi ở lại trại.

    Những căn nhà nho nhỏ được dựng lên sơ sài bằng gỗ sát vách với nhau. Những buổi chiều mùa hè, sau khi xong buổi cơm chiều, mọi người trong trại thường kéo nhau ra ngồi trước căn nhà để tránh cái nóng vẫn còn hầm hập từ mái tôn toả xuống.

    Hàng xóm sát bên nhà của tôi lúc đó là một gia đình gồm 2 vợ chồng và một người con trạc tuổi tôi. Thấy chú hàng xóm hiền lành và thường vẫy tay chào mỗi lần gặp tôi, tôi lân la làm quen và trò chuyện với chú vào những buổi chiều khi ngồi hóng mát. Tôi được chú kể cho biết là chú đã từng phục vụ trong Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Sau khi ra khỏi trại "cải tạo", gia đình chú vượt biên và may mắn đi thoát. Khi bắt đầu quen với tôi hơn, chú thường cao hứng kể lại những trận đánh mà đơn vị của chú đã từng chạm trán với quân đội cộng sản. Chú kể về trận chiến ác liệt khi tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị với sự tham dự của đơn vị Thủy Quân Lục Chiến của chú.

    Qua câu chuyện của chú, tôi đã hình dung được niềm vui và những giọt nước mắt của những người lính khi nhìn thấy lá cờ vàng được phất phới tung bay trên cột cờ của Cổ Thành sau khi được quân ta chiếm lại. Giọng kể của chú thật hào hùng và tràn đầy cảm xúc, dường như những kỷ niệm năm xưa trên chiến trường bên cạnh những người đồng đội đang sống lại trong lòng của chú. Tôi chợt nhớ lại những câu chuyện kể của ba tôi trước đây, tuy nhiên trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác hẳn vì lúc đó chúng tôi đang sống trong nhà tù lớn của cộng sản, nên giọng kể của ông chỉ thì thầm đủ cho tôi nghe, khác với giọng nói hùng dũng của người lính Thủy Quân Lục Chiến vì chúng tôi đang được đứng trên mảnh đất tự do.

    Tôi còn nhớ một buổi chiều, sau khi kể thêm một vài câu chuyện về quãng đời quân ngũ của chú xưa kia, chú bảo tôi ngồi đợi chú một lúc để chú cho tôi xem một món đồ "rất quý giá". Chú bước vào bên trong nhà và sau đó trở ra với một món đồ gì đó được gói cẩn thận trong những tờ báo cũ. Tôi tò mò muốn biết chú cất món đồ gì trong đó. Đôi tay chú run run thận trọng mở từng tờ giấy báo. Khi tờ giấy báo cuối cùng được bốc ra, một lá cờ vàng cũ với nhiều vết cháy xém đen hiện ra trước mắt tôi.

    Giọng chú chợt nghẹn ngào, với ánh mắt rưng rưng:

    "Đây là lá cờ mà chú đã gìn giữ từ sau cuộc chiến ở Cổ Thành Quảng Trị cho đến nay. Lá cờ này đã thấm máu người bạn thân nhất của chú trong trận đánh chiếm lại Cổ Thành".

    Vợ của chú đã giúp cất giấu lá cờ trong những năm tháng chú bị bắt đi tù cải tạo. Trong chuyến vượt biên, chú nhất quyết mang theo vì chú nghĩ linh hồn của người bạn đồng đội sẽ phù hộ gia đình chú vượt qua những sóng gió trên biển. Những ngày đói khát trên biển, chú đã ôm lá cờ vào ngực để chống chọi với cơn khát, cái đói cho đến khi tàu được vớt đưa vào trại tị nạn..."

    Đôi vai chú chợt run run khi nhắc lại câu chuyện vượt biển với những ký ức kinh hoàng. Mắt chú rưng rưng ngấn lệ. Tôi rụt rè đưa tay vuốt nhẹ lên lá cờ vàng. Tôi cảm thấy như có một luồng điện chuyền qua tay tôi từ lá cờ cũ đã phai màu. Đó là lần đầu tiên trong đời sau 13 năm, tay tôi được chạm vào lá cờ vàng ba sọc đỏ. Một cảm xúc thật bồi hồi khó tả, vừa tự hào, vừa trân quý, vừa hãnh diện với những gì mà tôi được nghe từ những câu chuyện của người lính Thủ Quân Lục Chiến mà tôi tình cờ được quen biết trong trại tị nạn Battaan. Tuy chú không nói, nhưng tôi biết chắc chú đang ôm ấp một niềm mong ước một ngày được trở về Cổ Thành Quảng Trị để dựng lại ngọn cờ vàng ba sọc đỏ như trong một buổi chiều năm xưa trong trận chiến năm 1972.

    Từ khi ra khỏi trại, tôi không có dịp gặp lại chú nữa. Không biết bây giờ chú đang định cư ở đâu, còn sống hay đã mất. Tôi mong có phép nhiệm mầu nếu chú đọc được câu chuyện này để tôi có dịp gặp lại chú, người đã giúp mang lại cho tôi sự kính trọng và yêu mến lá cờ thiêng liêng chỉ sau một thời gian ngắn ngủi, mặc dầu tôi đã trải qua 13 năm sống dưới những sự xuyên tạc bịa đặt của chế độ cộng sản về lá cờ vàng.

    *

    Chúng tôi đến định cư ở Hoa Kỳ vào cuối tháng 9, khi trời bắt đầu vào Thu với tiết trời se se lạnh.

    Hình ảnh của lá cờ vàng mà tôi được thấy lần đầu tiên ở Hoa Kỳ được treo trong khu nhà hàng phở Nguyễn Huệ, trên đường Bolsa, gần góc đường Ward. Kể từ đó đến nay, lá cờ vàng ba sọc đỏ đã trở nên quen thuộc trong những cuộc biểu tình, những đêm văn nghệ đấu tranh. v.v.. Sau này, khi thành lập ban hợp ca Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, chúng tôi thường tổ chức hay tham gia những buổi văn nghệ đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho quê hương Việt Nam. Hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng xuất hiện trong một số màn trình diễn của chúng tôi, mỗi khi chúng tôi trình diễn các bản nhạc đấu tranh như "Vùng Lên Cứu Nước", "Người Việt Nam", "Hẹn Ngày Về", v.v. Những lá cờ vàng được chúng tôi tự hào cầm trên tay và phất cao. Trong những giây phút đó, tôi vẫn thỉnh thoảng chợt nhớ đến hình ảnh lá cờ vàng trong trại tị nạn Battaan mà tôi có dịp chạm tay vào.

    Tháng Bẩy năm nay, khi vị đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là ông Ted Osius đến gặp gỡ cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở ngay thủ phủ Little Saigon. Vì bận việc phải đi xa, nên tôi không có mặt trong buổi tiếp tân hôm đó. Tuy nhiên, khi đọc những bài báo về cách hành xử của vị đại sứ này đối với lá cờ vàng, tôi hết sức phẫn nộ. Tôi cố tìm xem lý do gì mà một vị đại sứ Hợp Chủng Quốc như ông, vốn luôn tự hào là công dân một quốc gia yêu chuộng Tự Do và Công Lý, lại có một thái độ như vậy đối với một biểu tượng Tự Do của hơn 2 triệu người Việt tị nạn cộng sản.

    Sự bào chữa của ông Osius khi ông cho là đứng chụp hình chung với lá cờ vàng ba sọc đỏ sẽ gây dẫn đến sự khó khăn trong “việc làm” của ông khi ông trở lại Việt Nam giúp xây dựng và phát triển sự hợp tác của hai quốc gia và hy vọng sẽ dẫn đến nền dân chủ, công bình cho Việt Nam, v.v. và v.v. Tệ hại hơn, vị đại sứ còn than thở rằng ông có thể “bị mất việc” nếu đứng chụp hình với lá cờ vàng ba sọc đỏ. Hiểu nôm na là việc ông ta chụp hình với lá cờ vàng có thể làm mấy ông cộng sản ở Hà Nội mất lòng và vì vậy ông ta có cơ bị mất việc.

    Ô hay. Hà Nội hay Việt Nam đúng là nhiệm sở ngoại giao của ông, nhưng ông chủ của ông đâu phải là ông chủ của ông đám vua quan hay cái chế độ độc tài độc đảng ở đó. Ông chủ đích thực của ông -nếu muốn ví von với ông boss, ông xếp theo kiểu “bị mất việc”- là nước Mỹ, dân Mỹ. Hình như ông quên ông là vị đại sứ Hoa Kỳ, có nghĩa là người đại diện của cả nước Mỹ, dân Mỹ, trong đó có hàng triệu binh sĩ Mỹ đã chiến đấu bên lá cờ vàng ở Việt Nam để bảo vệ tự do dân chủ. Đúng là cuộc chiến đấu ấy đã qua 40 năm, nhưng đừng quên trên 58,000 tử sĩ Mỹ cùng biết bao huy chương cao quí của nước Mỹ còn mãi mãi giá trị. Và đừng quên tại đất nước tự do dân chủ này, lá cờ vàng của cộng đồng người Việt đã là một biểu tượng hợp pháp, được các chính quyền dân cử nhiều địa phương nhìn nhận.

    Ông Đại sứ có khoe ông là người bảo vệ nhân quyền. Chắc chắn ông thừa biết những cảnh bắt bớ, tra tấn, giam cầm và thủ tiêu các nhà đầu tranh dân chủ trong nước Việt Nam hiện nay. Công việc bảo về nhân quyền ông đang làm là do nước Mỹ, dân Mỹ giao phó cho vị đại sứ của họ chứ không hề do việc giỏi lấy lòng bọn trùm cộng sản mà có.

    Ông Đại Sứ thường cho thấy là ông am hiểu ngôn ngữ, văn hóa Việt. Tôi mong ông sẽ có dịp hiểu biết thấu đáo hơn về lịch sử, văn hóa và lòng người để hành xử xứng đáng với vị trí của một vị Đại sứ Hoa Kỳ.

    *

    Lá cờ vàng ba sọc đỏ với chiều dài của lịch sử Việt Nam đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, vinh quang lẫn tủi nhục, nhưng mãi mãi là niềm tự hào của người dân Việt Nam yêu Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền.

    Dù đã 40 năm bị chế độ cộng sản cấm đoán, đàn áp, nhưng nay trong nước Việt Nam hiện nay, lá cờ ấy vẫn là một niềm tin. Mới đây, anh Nguyễn Viết Dũng, dù đang sống trong chế độ cộng sản, nhưng anh vẫn công khai treo lá cờ vàng ba sọc đỏ ngay trước nhà của mình ở Nghệ An? Thái độ và việc làm của anh Dũng đã làm cho chế độ cộng sản phải run sợ và ra tay bắt giam anh.

    Như những người Việt tự do tại hải ngoại vẫn ngày càng đông hơn, mạnh hơn, tôi tin rằng một ngày mai không xa, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại có dịp ngạo nghễ tung bay phất phới trên quê hương Việt Nam. Biết đâu chừng ngày đó, tôi sẽ có dịp thấy lại lá cờ vàng với những vết tích của cuộc chiến trên Cổ Thành Quảng Trị năm nào và được ôm lá cờ thân yêu vào lòng.

    Anthony Hưng Cao
















 

 

Similar Threads

  1. Lính bà
    By Triển in forum Tiếu Lâm
    Replies: 0
    Last Post: 04-03-2015, 04:08 AM
  2. Người Lính Già Bạn Tôi
    By Lưu Vĩnh Hạ in forum Thơ
    Replies: 1
    Last Post: 07-15-2013, 06:21 PM
  3. Thư Bộ đội cụ Hồ gửi Anh Lính Miền Nam
    By NgụyXưa in forum Lượm Lặt Khắp Nơi
    Replies: 0
    Last Post: 04-15-2013, 05:31 PM
  4. Nhạc Lính Cộng Hoà
    By ngocdam66 in forum Phê Bình Văn Học Nghệ Thuật
    Replies: 10
    Last Post: 07-13-2012, 09:00 PM
  5. Lính mới tò te
    By Hương-Trầm in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 21
    Last Post: 02-16-2012, 05:45 PM

Tags for this Thread

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:35 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh