Register
Page 9 of 15 FirstFirst ... 7891011 ... LastLast
Results 81 to 90 of 143

Thread: Coi chùa

  1. #81
    Biệt Thự Triển's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    27,365



    Đừng Tranh Cãi Vô Ích


    http://dtphorum.com/pr4/signaturepics/sigpic726_7.gif Puck Futin

  2. #82
    VÀI CHÚ GIẢI VỀ THIỀN ĐỐN NGỘ
    Nguyên Giác Phan Tấn Hải

    Bài này để chú giải bài thơ "Ảnh Trầm Hàn Thủy" của Thiền Sư Hương Hải, thuộc Thiền Phái Trúc Lâm, trong một pháp thoại với vua Lê Dụ Tông. Riêng cũng để trả lời cho câu hỏi của một người bạn cách nay nhiều năm, mà lúc đó chưa thể nói hết ý, vì thứ nhất là khó giải bày những hình ảnh Thiền cho người bạn Thiên Chúa giáo, thứ nhì là câu hỏi đó do trước là một hiếu kỳ văn học, sau là một tò mò về Thiền, chứ không để tâm về chỗ thực tham thực ngộ, dù vậy nay cũng có lời để cảm ơn tri ngộ. Nếu có lời nào trong bài này hợp ý Tổ thì đó là nhờ ơn sâu day dỗ của Thiền Sư Trạm Nhiên Tịch Chiếu, chùa Tây Tạng (Bình Dương, Việt Nam); nếu có lời nào chưa phải, xin trọn lòng sám hối trước ba đời chư Phật.

    Bấy giờ Thiền Sư Hương Hải đã 78 tuổi, được vua Lê Dụ Tông mời vào nội điện lập đàn cầu tự vì hiếm con. Vua hỏi Sư:

    - Trẫm nghe Lão Sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão Sư thuyết pháp cho Trẫm nghe để Trẫm được liễu ngộ.

    Sư đáp:

    - Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu 4 câu kệ này:

    Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
    Thẩm sát tư duy tử tế khan
    Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
    Tương lai diện thượng đổ sư nhan.

    Thượng Tọa Thanh Từ dịch là:

    Hằng ngày quán lại chính nơi mình
    Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
    Trong mộng tìm chi người tri thức
    Mặt Thầy sẽ thấy trên mặt mình.

    Qua cách đặt câu hỏi của một người nào đó, chúng ta có thể xét định được tầm nhìn, tầm hiểu của người hỏi. Ở đây ta thấy vua Lê tìm Sư là do ý định cầu tự tìm con trai, chứ khởi tâm không có ý định cầu pháp giải thoát. Người xưa muốn hiểu đạo phải trèo núi vượt sông, tìm đủ thiện tri thức, không tiếc thân mệnh mình, chứ có đâu quan liêu thoải mái như ông vua này. Ta thấy ngay động cơ tìm nhau đã là chưa ổn rồi. Nhưng vì lòng từ bi, Thiền Sư cũng mượn phương tiện thiện xảo, giở trò phù thủy lập đàn cầu tự, để tìm cơ hội hóa đạo.

    Vua nói: "...Lão Sư học rộng nhớ nhiều..." Thế là hỏng, không có câu nào phỉ báng một Thiền Sư hay ho đến như vậy. Nói câu này với một Giảng Sư, Pháp Sư hay Luận Sư thì thật là tuyệt diệu, không lời khen ngợi nào hơn. Nhưng tai hại thay, người trước mặt lại là một Thiền Sư, thật là hỏng bét. Nhắm ngay một người chủ trương bất lập văn tự mà không chịu hỏi chỗ không lời mà nói, không tâm mà nắm, không ý mà truyền, lại khen rằng sao đầu Thầy nhồi nhét lắm chữ thế... Không gì nhảm hơn. Ngay câu đầu mở miệng, vua đã hiện tướng chồn hoang rồi, biết tới kiếp nào mới thành sư tử.

    Kế tiếp, vua nói "... để Trẫm liễu ngộ." Vậy là cũng có hùng tâm lắm, can đảm lắm, dám đòi ngộ ngay sau một bài pháp. Nhưng căn bản đã sai rồi, nếu bài pháp này do chỗ "học rộng nhớ nhiều" thì không thể nào có một Thiền Sư đứng trước mặt như vậy và cũng không thể nào vua liễu ngộ sau một lời được. Một bài pháp thích đáng phải là do chỗ không có gì để học và cũng không có gì để nhớ.

    Đối với mỗi căn cơ, các Thiền Sư sẽ có những cách dạy khác nhau. Ngay cả đối với hàng căn cơ cực cao, các Sư cũng phải chuẩn bị mọi chuyện thuần thục rồi mới nói chuyện tới. Ở đây, ta thấy Sư Hương Hải đã dùng nhiều lời cho thích hợp với ông vua hỏng kiểu này.

    Ý của Sư qua 4 câu đó là, mỗi giây phút trong đời, vua phải quán sát, nghe ngóng tâm mình. Mình đang ở trong một giấc mộng lớn (ý là cuộc đời như huyễn này) này đâu cần phải tìm chi thiện tri thức (cũng là người mộng trong giấc mộng này thôi). Cứ quán sát tự tâm như vậy hoài tới một lúc sẽ thấy được khuôn mặt của Thầy (ý là mặt Phật) trên khuôn mặt của mình. Rõ ràng ở đây chẳng có gì là bí hiểm cả, cũng chẳng có đánh đập la hét gì cho có Thiền vị cả. Câu chuyện chỉ là cứ việc theo dõi các niệm trong tâm liên tục như vậy, tới một lúc sẽ thấy mặt Thầy (hay mặt Phật, Tánh Phật hay Tâm Phật) trên mặt mình (hay tự tâm).

    Từ phản văn tự kỷ cho tới thẩm sát tư duy vẫn chưa đúng là Thiền Đốn Ngộ. Hay nói đúng hơn, đó mới chỉ là Như Lai Thiền chứ chưa thực là Tổ Sư Thiền. Trước khi phân biệt hai thứ Thiền này, chúng ta nên nói thêm về cách trả lời của các Thiền Sư. Giáo pháp của đức Phật được ví như ngón tay chỉ mặt trăng. Các Thiền Sư thường không ưa nói về ngón tay mà thường chặt phăng ngón tay để nói thẳng tới mặt trăng. Bởi vì cái con đường có giá trị nhất phải là cái con đường không có đường, cánh cửa vào nhà Tổ trực tiếp nhất phải là cửa không cửa. Có gì đâu phải loanh quanh đi tìm đường lên Niết Bàn hay cửa vào nhà Tổ, trong khi chỉ cần chớp mắt cho rụng tí bụi đã thấy ngay ta vẫn hằng ngồi yên trong Thanh Tịnh Pháp Thân. Mà vốn thật có chi gọi là bụi đâu mà phải chớp mắt nhướng mày hay là lau sạch đài gương.

    Hai cách gọi Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền thường ít được dùng vì thật sự cả hai đều từ một gốc mà ra. Nhưng sự phân biệt chỉ là để nhấn mạnh hơn một nghĩa khác biệt. Như Lai Thiền là những pháp môn Thiền do từ lời dạy của đức Phật. Tổ Sư Thiền là pháp môn Thiền không do từ lời dạy mà do từ cử chỉ của Phật khi cầm đóa hoa đưa lên và mỉm cười. Bấy giờ chỉ duy có ngài Ca Diếp hiểu được và nhận truyền thừa. Các Tổ truyền đăng pháp nay qua nhiều đời, tới khi gặp những cơ may của đời sau mới phát triển rộng ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản... Tổ Sư Thiền còn nhiều tên gọi khác để chỉ như là Đốn Ngộ Thiền, Trực Chỉ Thiền, Phật Tâm Tông, Tâm Tông... Quan niệm của Như Lai Thiền là phải huân tập từ từ (tiệm) đầy đủ giới, định, huệ mới thành Phật được. Quan niệm của Tổ Sư Thiền là đốn, là ngay tức khắc, là một nhảy liền vào đất Như Lai như cách nói của Thiền Sư Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca:

    Đốn giác liễu Như Lai Thiền.
    (Nếu đốn ngộ được thì là hoàn thành hết cả Như Lai Thiền)

    Bởi vì Trong Tự Tánh đã sẵn đủ giới, định, huệ. Vả lại, giới, định, huệ do sự tu tập làm sao bằng được giới, định, huệ của Thanh Tịnh Pháp Thân. Vấn đề chỉ còn là làm sao nhảy được vào đất Như Lai. Cách tốt nhất vẫn là tìm cho được một vị thầy có bản sắc của Tông môn.

    Bốn câu kệ trên của Sư Hương Hải vẫn còn dựa vào Như Lai Thiền. Những gì là phản văn với thường quan với thẩm sát tư duy chưa có gì là trực chỉ hết. Đây vẫn còn là ngón tay chứ chưa là mặt trăng, vẫn là con đường có đường và cánh cửa có cửa. Sư có thương vua Lê cũng không thể nói khác hơn được vì ông vua này mới mở miệng đã bốc mùi chồn hoang rồi, chưa được chuẩn bị để húc đầu vào vách bạc tường sắt. Ngay cả câu cuối, nói sẽ thấy mặt Phật trên mặt mình cũng chỉ mới là Như Lai Thiền. Cái chữ tương lai đầu câu bốn đã làm hỏng cả những kiểu nói của Huệ Năng, Huyền Giác... Làm sao nhảy được vào đất Như Lai với cặp nạng của phản văn với thẩm sát nhỉ. Đây là chỗ không một tâm có thể nắm bắt được thì lấy tâm nào là tâm tương lai để thấy được tâm Phật trong tâm mình. Cốt yếu của Tổ Sư Thiền còn ở chỗ này: Còn thấy được tâm Phật trong tâm mình vẫn chưa là thực ngộ.

    Vua Lê Dụ Tông vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác. Cái này là đương nhiên, có đánh thêm ba mươi gậy vẫn còn là hỏng kiểu. Vua lại hỏi thêm:

    - Thế nào là ý của Phật?

    Sư đáp:

    Nhạn quá trường không
    Ảnh trầm hàn thủy
    Nhạn vô di tích chi ý
    Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

    Thượng Tọa Thanh Từ dịch nghĩa:

    Nhạn bay trên không
    Bóng chìm đáy nước
    Nhạn không có ý để dấu
    Nước không có tâm lưu bóng.

    Một lần nữa, chúng ta phải lắc đầu đến nản vì ông vua này. Lần đầu phải gọi là chồn hoang, lần này không biết gọi là gì cho đáng. Đứng trước mặt một người dạy Tổ Sư Thiền mà hỏi ý của Phật là nhảm nhí không gì bằng. Muốn biết ý Phật cứ việc lật kinh điển ra đọc là đủ. Phật đã nói hết cả, đâu có giấu gì đâu. Duy có điều không nói được là không nói được mới đáng hỏi chứ. Câu đáng lý ra phải hỏi là "Ý của Tổ Sư là gì?" vẫn được các Thiền sinh thắc mắc từ đời này qua đời nọ. Để cho có vẻ chính quy sách vở hơn thì là như hà thị Tổ Sư Tây lai ý, ý của Tổ Sư (Bồ Đề Đạt Ma) từ phương Tây tới là gì. Đầu thai ba mươi kiếp nữa biết Lê Dụ Tông có thấm nỗi trận đòn này chưa, khổ quá, hỏng không gì bằng, chỉ mệt cho người đời sau phải lôi pháp thoại này ra chú giải.

    Sau khi nghe bài thơ của Sư, vua khen ngợi:

    - Lão Sư thông suốt thay.

    Khổ quá, hiểu không nổi, hỏi không xuôi, mà lại khen như thầy người ta ấy, như thể vừa cố tâm bắt bí học trò. Nào có biết đâu Lão Sư vừa mới bắt bí đến cả mấy chục đời sau. Nắm được diệu nghĩa của mấy câu này cũng đủ để đi hiên ngang giữa dòng đời bất tuyệt mà không dính một tí bụi vào thân.

    Chúng ta có thể thấy thứ tự câu chuyện như vầy. Đầu tiên vua khen Sư học rộng nhớ nhiều rồi xin nghe một bài pháp để được liễu ngộ. Sư tặng cho bốn câu chỉ pháp Như Lai Thiền. Bốn câu này dễ hiểu quá, Trời ơi, vua tưởng bở thừa thắng xông lên, hỏi thêm một câu trật chìa nữa. Sư vẫn rất mực từ bi, phơi mở tận cõi lòng, tặng thêm bốn câu chỉ pháp Tổ Sư Thiền. Tới đây vua mới choáng váng mặt mày, biết là khó ăn, mới khen một lời, ý là để xin thôi.

    Ta thấy bài này để chỉ pháp cho hàng thượng căn, chỉ ngay cảnh giới của chư Phật. Ở đây Sư đã rất mực từ bi, vua hỏi ý của Phật, Sư chỉ ngay cảnh giới chư Phật, nào có khó tính như các Sư khác. Đúng ra nhằm một câu hỏi trật cách Tông môn như vậy, câu trả lời đáng là bảo vua về lật kinh điển mà tìm ý của Phật. Hiểu được ý của Phật chưa chắc đã hiểu được lời của các Thiền Sư. Nhưng hiểu được lời của các Thiền Sư chắc chắn hiểu được ý Phật.

    Cánh chim nhạn bay trên không. Ảnh của chim hiện trong nước. Ảnh chỉ hiện đúng được khi sóng (niệm) lặng. Chim nhạn (hay vật, hay cảnh, hay là pháp) không có ý lưu dấu (đây là chỗ mây rồi sẽ bay qua đi, sóng rồi sẽ lặng xuống, bụi vốn không thật là bụi, niệm vốn thật vô tự tánh).

    Nước (hay là Tánh của Tâm, đây là chỗ Thức đã chuyển thành Trí) cũng không có tâm (đây là tâm vô tâm, hay tâm của kẻ giác ngộ, gọi khác là tâm đã không còn một hiện tượng) lưu bóng chim nhạn (đây là chỗ cảnh tự trụ cảnh, niệm cứ việc khởi, bụi cứ việc bay, nhưng gương Trí đã sáng, sự thật là vốn hằng sáng, thì lấy đâu là nơi cho niệm lưu, cho bụi bám). Sư đã rất mực từ bi, bài toán này không thích hợp cho ông vua đa tình hiếm con này.

    Đây là cảnh giới của vô tâm, nhưng Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện Hán (như cách gọi của Sư Lâm Tế).

    Cánh chim nhạn (hay là cảnh, hay pháp) thấy được là không (pháp vốn tự tánh) rồi, và nước (khi bặt sóng, hay tâm vô tâm, hay Tánh của Tâm, hay tánh vô tự tánh của tâm) đương nhiên hiện ảnh (nhạn đến thì hiện nhạn) mà không hề khởi tâm (tâm đã không thì lấy gì để khởi), mà cũng không có tâm lưu ảnh (thấy được tánh của pháp là vô tự tánh, tánh của niệm là vô tự tánh, vào nơi vô niệm mà niệm vẫn hằng sinh, hay ở nơi niệm mà vẫn hằng vô niệm - tâm của kẻ giác ngộ - thì lấy tâm nào để mà lưu ảnh).

    Nhưng lấy đâu làm viên gạch dộng cửa để vào nhà Tổ đây, lấy gì làm trớn để một nhảy liền vào đất Như Lai, đứng thẳng ở cảnh giới này? Đối với hàng thượng căn, mọi chuyện thầy đã chuẩn bị thuần thục, thì bốn câu này là đủ. Ngoài ra thì hoàn toàn không có viên gạch nào dộng cửa trong bốn câu này cả, không một phương tiện thiện xảo nào để vin lấy mà đi cả. Cánh cửa đã mở rộng tới hư không thì biết đâu là cửa để mà vào, quan ải đã quét sạch (trong 4 câu này) tận hư không thì làm sao người Thiền sinh biết chỗ mà một đao qua ải?

    Một khi đã thấy pháp (hay cảnh, hay nhạn) vốn vô tự tánh (không ý lưu bóng) và nước (tâm) vốn vô tự tánh (nên không tâm lưu ảnh) thì đã vượt qua cả cảnh giới tâm cảnh nhất như (cảnh giới thứ ba của Tứ Liệu Giản, pháp không và tâm không). Đây là cảnh giới thứ tư của Tứ Liệu Giản, tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh; pháp và tâm đã không (vô) tự tánh được rồi lại tới đây (trong 4 câu này) ngay đến cái không (vô) đó cũng không dựng lập lên thì lấy đâu mà không với có nữa. Bấy giờ là cảnh giới niệm khởi mặc niệm mà tâm vẫn hằng vô niệm, lấy gì mà dựng lập Niết Bàn với sinh tử, thiên đường hay địa ngục.

    Nói trở lại, tâm đã không và pháp đã không thì hiện tướng tâm cảnh nhất như, chỉ còn một cái thấy biết mình người không cách nhau tới một sợi tóc, thấy tính bình đẳng của vạn pháp (phạm trù thứ ba nhắc trên). Nhưng trong bốn câu này, cái đa (mình người, tâm pháp, nước và nhạn) đương nhiên đã không dựng lập (vốn không ý không tâm thì lấy gì mà dựng với lập), mà ngay đến cái nhất (mình người, tâm pháp vô phân biệt) cũng không hề có (cái vô phân biệt cũng không hề dựng lập) thì lấy gì mà gọi nhất như với như nhất nữa. Nói trở lại lần nữa cho rõ hơn, không thấy cái đa thù (phân biệt) thì thấy cái nhất như (tính bình đẳng hay tâm vô phân biệt), nhưng ở đây (bốn câu của Sư Hương Hải) trong cảnh giới này ngay đến cái như ấy còn không dựng lập thì còn chỗ đâu mà đa với nhất, mà gọi là phân biệt hay vô phân biệt. Nói cho đúng thuật ngữ nhà chùa là, ở chỗ này, lấy gì để mà đoạt với bất đoạt.

    Trong bốn cảnh giới thấy tánh vô tự tánh của Tứ Liệu Giản, Thiền Sư Hương Hải lại lấy ngay cảnh giới thứ tư chỉ cho vua Lê Dụ Tông thì làm sao ông vua đa tình hiếm con này liễu ngộ được. Khổ quá, ai bảo đòi biết ý Phật làm chi. Cái tướng đa thù đã không còn mà ngay đến cái tướng nhất như cũng không thấy nữa, ngay đến cũng không thấy các đẳng đâu để hiện tướng bình nữa thì lấy đâu cửa mà vào. Còn như nếu vua trở lại bốn câu Như Lai Thiền (Phản văn...) để tìm cửa vào thì tới kiếp nào mới thành sư tử. Như vậy, vấn đề của vua Lê cũng như của chúng ta hôm nay là phải đi tìm chìa khóa (hay viên gạch dộng cửa) để vào nhà Tổ.

    Theo quan niệm của chư Tổ là nói nhiều về viên gạch dộng cửa thực sự không có lợi cho người muốn thực tham thực ngộ. Riêng bốn câu thơ Ảnh Trầm Hàn Thủy cũng đã quá đủ rồi, đi lối bặt đường chim không phải là đã à. Còn muốn chi tiết hơn, đó là vấn đề của các dòng Lâm Tế, Tào Động, Tây Tạng...

    Nếu bài này có chút gì sai hay ngã mạn với vua Lê, xin trọn lòng sám hối. Nếu có chút gì công đức, xin biến cùng tận pháp giới đưa tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo.

  3. #83
    https://images-na.ssl-images-amazon....1h765-GjYL.jpg

    Năm Ngày Ở Tu Viện Mộc Lan
    Hoàng Hưng

    Namo Avalokiteshvara… Không lần nào nghe bài tụng hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát của tăng thân Làng Mai mà tôi không rớm lệ. Cả vũ trụ bao la tình bi mẫn. Và sao cứ hiện về hình ảnh lần nghe đầu tiên, các sư em và thiền sinh tu viện Bát Nhã năm nào ngồi xếp bằng tụng ca tên Mẹ trước bầy người hung hãn đợi lệnh xông vào. Gương mặt họ sáng lên một ánh sáng lạ kỳ, còn mình thì cứ chảy nước mắt…

    Gần mười năm rồi. Tối nay cũng lại bài tụng ấy mở đầu khóa tu “Tâm an, thế giới an” 5 ngày ở Tu viện Mộc Lan (Magnolia Monastery), bang Mississipi Hoa Kỳ. Lại gặp những gương mặt thuở ấy, nay đã rắn rỏi trong cương vị điều hành hay giáo thọ của một Trung tâm Thiền xa quê hương vạn dặm: Sư cô Hỷ Nghiêm, Sư cô Khải Nghiêm, các thầy Pháp Hội, Pháp Sĩ, Pháp Tịnh…

    Vẫn cứ bất ngờ, như đã từng bất ngờ ở Làng Mai bên Pháp năm nào, trước sức thu hút của một sư em Việt nhỏ xíu trẻ măng, với một giọng Mỹ đầy truyền cảm, dẫn dắt gần 200 thiền sinh người nước ngoài từ các bang Hoa Kỳ, cả từ nước khác nhân qua Hoa Kỳ thăm con gặp khóa tu cũng tới dự, với sự dí dỏm khiến những ông Tây bà đầm mái đầu bạc phơ chốc chốc lại cười vui như con trẻ.

    Phải, đã là nếp sống của Làng Mai ở bất cứ đâu: đến với Làng, học hay tu, thiền hành hay rửa bát, đều là tiếng cười, đều là thực tập “pháp môn hạnh phúc”.

    Thiền đường lớn, quá lộng lẫy trong sự giản dị tối đa của gỗ thông vàng ươm, có sức chứa trên 1000 người. Những công trình xây dựng ở đây đều do cư sĩ người Mỹ được gọi tên thân yêu là Uncle Rick chỉ huy, với bàn tay lao động của sư cô, sư thầy, Phật tử. Thật khó mà tưởng tượng cảnh các cô ngồi trong chiếc thùng được cần cẩu đưa lên cao để tự tay đóng những tấm ván gỗ thông vào trần nhà, như lời kể của anh Lê Văn Trạch ở Memphis, thân phụ của hai sư cô trẻ. Những tiểu phẩm xinh xắn rất Việt Nam như những cây đèn hoa sen, những bài thơ, lời dạy, nét bút mềm như liễu của Thầy khắc trên đá do một sư cô tạo tác. Những hàng mộc lan, tường vi, liễu, trúc, những vườn hồng, cúc, ao sen… do bàn tay tăng thân tạo dựng. Sau hơn 10 năm, 118 acres (gần 40 ha) đất đồi, nguyên là trang trại nuôi bò, do ba gia đình Phật tử người Việt gốc An Bằng (Huế) mua để cúng dường Sư Ông Làng Mai, đã thành một trung tâm thiền tập lớn, tiện nghi và ấm cúng. Dẫn tôi đi thăm quanh khu đồi Tu viện, anh Hồ Thanh Bình, nguyên là huynh trưởng gia đình Phật tử vượt biên sang đây, một thành viên của nhóm thiện nguyện đầu tiên tạo nên cơ sở Mộc Lan, không muốn nói đến số tiền bạc gom góp từ những tháng ngày vất vả kiếm sống trên quê người. Anh kể: “Sau ngày “Đi bộ vì hòa bình” (Peace Walk) năm 2003 ở Memphis có Sư Ông qua dẫn dắt, nhóm đã phát tâm tìm mua đất cúng dường. Năm 2005, Sư Ông cùng tăng thân Làng Mai qua nhận đất, nhưng Sư Ông dạy: ‘Cứ tu tập đi, rồi mọi việc tốt lành sẽ tới’. Anh em vâng lời Thầy, tu tập thành tâm, và từ từ xây cất. Phải đến sau pháp nạn Bát Nhã, tháng 03/2010 có 6 sư cô từ Làng Mai Pháp đến, Làng Mai mới chính thức có chúng xuất sĩ thường trú để bắt đầu hình thành Tu viện Mộc Lan, bảo lãnh quý sư thầy, sư cô từ tu viện Bát Nhã sang tiếp tục tu học.

    Tiếp nhận thiền sinh người việt tới dự khóa tu là Sư cô Khải Nghiêm. Sư cô qua Mộc Lan từ 2015. Nguyên là một cô giáo ở Cam Ranh, cô đã lặng lẽ từ chối vào Đảng Cộng Sản để xuất gia. Sau khi cô bị buộc phải rời Bát Nhã về lại chùa ở quê, an ninh tới tận chùa chất vấn: - Cô đi tu là trốn tránh trách nhiệm xã hội, sao cô không tiếp tục làm một cô giáo để cống hiến? Cô trả lời: - Tôi đi tu trước hết để bản thân mình trở thành một con người tốt. Một con người tốt sẽ truyền cái hạnh tốt cho những người khác. Những người ấy lại truyền cái hạnh tốt ra khắp xã hội. Đó chính là đóng góp của những người xuất gia như tôi”.

    Nhắc lại những kỷ niệm đau buồn, cô không sao quên được cái lúc đặt chân xuống sân bay Charles de Gaulle khi phải rời Việt Nam, nỗi tủi thân thắt lòng đứa con đang đầy hy vọng đóng góp cho quê hương mà bị thẳng thừng từ chối.

    Cô tâm sự: “Sang đây, lại gặp một vùng quê nghèo của nước Mỹ, rất đông con cháu của người nô lệ da đen xưa. Tu viện đã mở cửa đón các cháu sinh hoạt những ngày cuối tuần, đã chia sẻ thực phẩm cho những gia đình nghèo. Nhìn các cháu mà lòng con không nguôi nghĩ về Việt Nam”. Nỗi niềm của cô Khải Nghiêm phần nào được an ủi vì số Phật tử gốc Việt từ khắp nước Mỹ bắt đầu quy tụ về, mỗi năm một đông. Khóa tu 2017 này có 80 người.

    Ngày khai mạc khóa tu năm nay (11/10) lại trùng vào Sinh nhật (mà tăng thân gọi là ngày “tiếp nối”) lần thứ 91 của Sư Ông. Sư cô Hỷ Nghiêm vừa từ Trung tâm Làng Mai Quốc tế Thái Lan trở về, báo tin vui là sức khỏe Sư Ông đã tăng tiến nhiều. Cô chia sẻ tấm ảnh chụp Sư Ông ngồi tiếp đại chúng mừng sinh nhật, và truyền lá thư “Ngày tiếp nối của Thầy”, với lời nhắn nhủ đầu tiên: “Con xin buông bỏ hết những bực mình giận ghét người nầy, chê trách những lỗi lầm của người kia. Con xin quay về thủ hộ ý, từ bi và buông nhẹ những đau buồn trách móc”. Nghe, bỗng tự hỏi: Mình có giận ai không nhỉ? Có đấy. Đang giận một người. Phải tìm cách hóa giải. Lạ thật, ở tuổi gần đất xa trời, sức bảo thủ lớn quá chứ, ở nhà vợ con có trách cứ sự gì là lập tức xù lông nhím: - Đến tuổi này chỉ có thế thôi. Đợi kiếp sau sửa nhé! Thế mà sao những lần dự khóa tu của Làng Mai, mình cứ luôn giật mình “tự kiểm” khi có một lời nhắc nhở chung, dù chỉ từ một sư em tuổi con mình? Có lẽ đó cũng là bí quyết thành công của Làng Mai. Chẳng truyền dạy điều gì cao siêu, chỉ nhắc ta tập sống vui, tập lắng nghe, tập buông bỏ, tập trở về chính mình, và quan trọng nhất… tập thở! “Thở vào tâm tĩnh lặng/ Thở ra miệng mỉm cười”. Dễ nhỉ, mà sao khó! Đúng như Sư thầy Pháp Hội nói trong buổi pháp thoại: “Chỉ cần nhắc lại những lời rất quen thuộc của Thầy, nhưng với niềm tin vững vàng, là đã có sức mạnh”.

    Buổi sáng, Sư cô Hoa Nghiêm kết thúc bài pháp thoại “Tâm yên” bằng một món quà. Đó là bài hát mà cô phổ thơ của Sư Ông: “Lòng không bận về”. Cô nhờ thầy Pháp Tịnh ca. Một khúc thiền ca hay hiếm có! Giọng hát hay quá! Và nhạc chở được ý thơ, một trong số ít bài thơ thiền hiện đại mà tôi tâm đắc.

    Xin chép lại bài thơ ở đây:

    Ngồi đây lắng tiếng chim bay
    Ba ngàn thế giới không đầy tấc gang
    Phương tây vừa khuất quạ vàng
    Phương đông thỏ ngọc đã ngang đỉnh đồi

    Trước sau có một mình tôi
    Nghe như có tiếng đất trời gọi nhau
    Xuất thiền lặng lẽ giây lâu
    Lá lay cánh liếp bên lầu sáng trăng
    Sông xưa giờ đã thuận dòng
    Gió đi khắp chốn lòng không bận về

    Cùng một cảm xúc vũ trụ của bậc hành giả, nhưng Không Lộ thiền sư mười thế kỷ trước muốn hét lên một tiếng lạnh cả thái hư “nhất khiếu trường thanh hàn thái hư”, còn Nhất Hạnh thiền sư hôm nay lại lặng lẽ nghe tiếng đất trời gọi nhau; người trước gửi chí vào câu thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán, người nay trải lòng qua nhịp lục bát Việt dịu mềm.

    Buổi chiều lại có duyên tình cờ dự pháp đàm tại cốc giành cho Thầy những khi về đây.

    Tấm đá lớn chỉ lối vào, khắc 4 câu thơ:

    Về đi lữ khách đường xa lắm
    Cát bụi sầu thương vướng đã nhiều
    Thanh thản ngủ trong lòng đạo cả
    Cho hồn thơ ấu được nâng niu

    Một nếp nhà đơn sơ bên sườn đồi còn nguyên rừng cây. Một chiếc bàn lớn nguyên gốc gỗ sồi mà Thầy bảo Thầy đếm từng vân gỗ biết nó đã được 105 tuổi, và vẫn luôn áp bàn tay lên mặt để được tiếp sức từ Mẹ Thiên nhiên. Thầy bảo sư cô Hỷ Nghiêm đặt tên là “Cốc chịu chơi”. Tại sao có tên ấy? Xem hồi sau sẽ rõ.

    Năm ngày đêm trôi qua rất nhanh, với những sinh hoạt mà tôi cũng đã quen ở Làng Mai bên Pháp, ở Viện Phật giáo ứng dụng bên Đức: ngồi thiền buổi sớm và buổi tối, thiền hành, pháp thoại, pháp đàm, thiền làm bếp, cả thiền buông thư (ngủ trưa trong lời dẫn và giọng ca của một nhà sư, sướng thật!)…

    Tất cả đều dung dị, nhẹ nhàng. Nhưng buổi chót là nghi thức thật trang nghiêm, xúc động, lần đầu tiên tôi tham dự: nghi thức truyền 14 giới Tiếp hiện (Inter-being). Thật ấn tượng cảnh gần 20 người Mỹ, nam và nữ, có người phải chống gậy, nghiêm cẩn trong trang phục nâu sồng chùa Việt truyền thống, thành kính đọc những lời nguyện rất “hôm nay” mà Sư Ông soạn: “Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức người khác vâng theo cái thấy của mình, con nguyện không ép buộc bất cứ một ai, kể cả trẻ em, đi theo quan điểm của mình, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, mua chuộc, dọa nạt, tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và quyền tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải sử dụng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp”, v.v. (chỉ ví dụ Giới thứ Tư, rất gần gũi nghề văn nghề báo của bản thân!)

    Bà Bobbie Perkins, vừa nhận pháp danh Tiếp hiện là “Chân Truyền Tâm” (True Transmission of Mind), cho biết: bà biết đến Thầy là từ khi đọc cuốn sách “Miracle of Mindfulness” (Phép lạ của Chánh niệm) vào năm 1976. Những người chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo ở Dallas (Texas) dần dà tập họp nhau, lập ra Trung tâm Thiền Dallas (Dallas Meditation Center) mà bà làm giám đốc. Sau khi dự hai khóa tu 2011 và 2013 ở Tu viện Mộc Lan, bà ngày càng tin theo pháp môn Làng Mai, rồi hôm nay trở thành thành viên gia đình Tiếp hiện.

    Chuyện kể của một Sư cô

    Ghi lại chuyện kể của Sư cô Hỷ Nghiêm, người được Thầy cử sang xây dựng Tu viện Mộc Lan từ những ngày đầu.

    Ngay từ chuyến đầu tiên từ Mỹ sang dự khóa tu mùa đông 5 tuần tại Làng Mai bên Pháp năm 1995, cô gái trẻ đã cảm nhận: Đây đúng là nơi mình sẽ đến! Ngay lập tức cô bị thu hút vào một tập thể sống bình dị, vui vẻ yêu thương trong cảnh nghèo như ở một làng quê Việt. Những dòng thơ trào lên trong lòng cô: “… Ôi tuyệt diệu tình thương vô ngã/ Đến với tôi tất cả niềm tin”.

    Thực tình trước đó, cô đã có vài lần thổ lộ ước nguyện xuất gia, nhưng lần nào cũng gặp phản ứng bất lợi từ ba mẹ. Cha cô tha thiết: “Cha đã trải qua bao cực khổ, tù đầy, qua đây chỉ gắng sức mong cho con học hành nên người, sao con nỡ bỏ cha mẹ mà đi!” Nhưng khi cô từ Làng Mai trở về, mẹ cô đọc được điều gì trên gương mặt và ánh mắt con, đã thốt lên: “Thôi chuyến này thì nó xuất gia thật rồi, không cản được nó đâu!”

    Tháng 6 năm 1996 cô quay lại Làng Mai, xuống tóc.

    “Cái duyên với Làng Mai thật ra đã khởi từ lâu”, Sư cô chia sẻ. Năm 1993, khi cô ra phi trường bay qua Mỹ cùng cả nhà, một sư thầy thân quý đã cho cô một tập sách in lậu, với tựa đề “Con đường chuyển hoá” không có tên tác giả, và gần một năm sau có một thầy khác dặn: ‘Muốn hiểu sâu về Đạo thì cứ đọc CĐCH’. Cô hơi gợn thắc mắc: CĐCH là cái gì? Nhưng không kịp hỏi. Mặc dù những ngày tháng bận rộn làm quen với cuộc sống mới, cô vẫn thao thức câu hỏi CĐCH là gì. Mãi đến một ngày gặp cuốn sách tiếng Anh của Thầy Thích Nhất Hạnh “Transformation & Healing”, cô mới Ồ, thì ra trong tay mình bao lâu đã có cuốn tiếng Việt, CĐCH tức là “Con đường chuyển hóa”.

    “Chú có biết cái duyên ấy còn tiếp tục đến bây giờ? Chú đợi một chút, Hỷ Nghiêm cho chú xem cái này”. Sư cô đi về “cốc”, lát sau mang ra cho tôi một tập vở dày, ngoài bìa có dòng chữ nhỏ “Bản thảo CON ĐƯỜNG CHUYỂN HÓA…”, bên trong là những trang dày đặc chữ màu xanh, nhiều chỗ sửa chữa, ghi chú…”. Tháng 10/ 2016 vừa rồi về Việt Nam, Hỷ Nghiêm đã được tặng bản thảo hơn 40 năm trước của Thầy”.

    “Con đường chuyển hóa” đã là bảo bối giúp sư cô trẻ tuổi vượt qua bao thử thách trên đường tu tập và truyền đạo mười mấy năm qua.

    Năm 2001, sư cô được Thầy cử vào nhóm 10 đệ tử lần đầu tiên trở về nước, trong đó có các sư thầy sư cô Tây phương. Thầy nói: “Các con là những hoa trái tốt đẹp mà Thầy chọn dâng lên bàn thờ Tiên Tổ”. Câu nói ấy đã là ánh lửa cho cô trong nhiều lần trở về, dò dẫm trong đêm tối, chuẩn bị cho Thầy về với quê mẹ, rồi cùng các sư chị sư em xây dựng nên Tu viện Bát Nhã lừng danh, cho đến ngày bị xua đuổi.

    “Thực lòng sau sự cố đau lòng ấy, Hỷ Nghiêm chỉ muốn được ở lại Làng Mai ‘thanh thản ngủ trong lòng đạo cả, cho hồn thơ ấu được nâng niu’. Nhưng chẳng bao lâu, Sư Ông lại cử qua Mộc Lan để đón nhận các chị em từ Bát Nhã”.

    Không quên được ngày đầu tiên đặt chân lên vùng đồi heo hút miền Trung Nam nước Mỹ, thỉnh thoảng văng vẳng câu nói của một sư thầy người Mỹ không giấu được sự lo âu nói với Hỷ Nghiêm trước khi về Mộc Lan: “Tại sao mình lại đặt Tu viện ở một vùng mà sự bảo thủ, kỳ thị chủng tộc, tình trạng bạo lực, sexual abuse [lạm dụng tình dục] vào loại nhất, và cũng nghèo vào hạng nhất nước Mỹ?”

    “Hỷ Nghiêm im lặng giây lâu, rồi nhìn vào sư thầy, nói: ‘Chính vì thế mà chúng ta có mặt’. Nhưng quả thực, ngay từ giây phút bước lên khu đất này, Hỷ Nghiêm như nghe thấy tiếng thì thầm: Tổ tiên đất đai ở đây đã sắp đặt cho mình chỗ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ngày đầu tiên ra chợ, những cư dân người da đen quay lại nhìn và hỏi: Cô từ đâu đến, trang phục của cô là theo tôn giáo nào? Hỷ Nghiêm chắp tay xá họ, trả lời với nụ cười trên môi: Tôi là người Việt sống trên đất Mỹ, tôn giáo của tôi là Đạo Bụt Dấn Thân [engaged Buddhism], thì họ cười thân thiện”. Quả nhiên, Tu viện Mộc Lan được sự đón nhận, mở lòng của cư dân và chính quyền địa phương trong suốt quá trình xây dựng và phát triển.

    Năm 2011, khóa tu lớn đầu tiên ở Mộc Lan, phải mướn một chiếc lều lớn cho khoảng 1000 thiền sinh về dự. Xong khoá tu, Sư Ông dẫn Hỷ Nghiêm đi chọn chỗ xây thiền đường và gác chuông. Thầy bảo: “Con, mọi chuyện Chư Bụt Tổ đã sắp đặt hết, mình không thể cưỡng lại sự sắp đặt của Tổ Tiên”. Đến năm 2013, khi dựng nếp nhà cho Sư Ông ở, Thầy cười bảo: “Đặt tên là ‘Cốc chịu chơi’. Con có hiểu ‘chịu chơi’ nghĩa là sao không? Chịu chơi nghĩa là khi có khó khăn thì không bỏ cuộc, cứ vững vàng đi tới”. Nước mắt sư cô trẻ tuôn trào. Cô tâm sự: “Thầy đã hiểu hết những khó khăn của đệ tử. Thầy là Thầy nhưng cũng là Người tri kỷ. Cũng như khi đặt pháp danh cho con là Hỷ Nghiêm, Thầy đã muốn con vượt lên bản tính hay lo âu của mình. Thú thật là thời gian đầu lắm lúc Hỷ Nghiêm cũng chùng bước trước những trọng trách lớn lao, muốn… xách va li chạy trốn. Nhưng ngay sau đó thì xác định dứt khoát: chỉ khi nào Mộc Lan thật yên ổn, và thấy lòng mình thật yên ổn thì mới rời chốn này”.

    Năm 2013, sau khi thiền đường lớn và tháp chuông xây xong, Sư Ông tiên đoán: “Mộc Lan sẽ là trung tâm quan trọng của Làng Mai ở Tây bán cầu”.

    Sau 7 năm, Tu viện Mộc Lan đã định hình với những khóa tu thường kỳ 2 năm một khóa lớn, trại hè mỗi năm cho thanh thiếu niên gia đình Phật tử gốc Việt, với những tăng thân rải rác từ Atlanta, Alabama, Arkansas, New Orleans, Dallas, Houston… Một số trường học quanh vùng như Ole Miss University, Southern Mississipi University, Warren Easton High School thường đưa học sinh sinh viên tới thực tập thiền.

    15/10 chia tay khóa tu “Tâm an thế giới an” cho thiền sinh, các Sư thầy Sư cô Mộc Lan lại bắt tay chuẩn bị đón một trăm mấy chục xuất sĩ từ các Trung tâm Làng Mai trên đất Mỹ tập trung về tu tập.

    Riêng tôi, ngày chia tay Mộc Lan cũng là ngày kết thêm nhiều bạn mới, mà thú vị sao lại là bạn Thơ. Tối qua, trong buổi liên hoan chia tay [Be-in] tôi có đóng góp hai bài thơ viết về Thầy (Bậc Thầy – The Master) và về trải nghiệm tu tập ở Làng Mai (Mười cảnh thiền bất chợt – Ten Zen Scenes caught then and there). Cô thiền sinh rất trẻ Thanh Nhàn giúp tôi đọc bản tiếng Anh. Khá nhiều người Mỹ gặp tôi, cảm ơn, chia sẻ về Thơ. Jim Tillman, thành viên tổ chức Thich Nhat Hanh Foundation cười cười nhắc câu thơ: “Cuckoo, cuckoo…/the practitioner/ wakens” và bình “Yes, it’s zen!”. Vợ chồng Nguyễn Đạt, ông thầy vẫn dạy khí công mỗi sáng cho khóa tu, nhờ thơ mà nhận ra tôi là tác giả những bài viết về Bát Nhã năm nào. Anh Lê Văn Trạch, người đã tham gia tổ chức sự kiện đi bộ vì hòa bình ở Memphis, là cái duyên khởi phát để thành Mộc Lan, tâm đắc với “Bậc Thầy: Thầy vào như hơi gió, Tăng đoàn rạng rỡ tuệ quang…”; anh tình nguyện chở vợ chồng tôi về Memphis, đi thăm nơi Mục sư Luther King bị tên phân biệt chủng tộc ám sát năm 1966. Mục sư chính là người đã kết bạn với chàng tu sĩ trẻ Thích Nhất Hạnh thuở nào qua Mỹ vận động hòa bình. Ồ, tất cả cứ móc với nhau như một cái duyên tiền định.

    Cái duyên lành đưa đẩy để hôm nay, văn hóa Việt được truyền bá ra thế giới từ những trung tâm Làng Mai như Mộc Lan ở Mỹ.

    Tu viện Mộc Lan 11-15/10/2017

    H.H.

  4. #84
    Philip Kapleau (P. K.) là phóng viên toà án thời Đệ II thế chiến. Ông tham dự các phiên toà xử tội phạm chiến tranh ở Đức và Nhật. Trở lại Nhật năm 1953, ông tu tập ở đó theo cả 2 phái Tào Động và Lâm Tế trong 13 năm, giác ngộ và được thầy là thiền sư Hakuun Yasutani (Bạch Vân) ấn chứng. Trở về Mỹ ông thành lập thiền viện Rochester Zen Center ở New York. The Three Pillars of Zen: Teaching, Practice, and Enlightenment là tác phẩm đầu tiên viết về Zen của người Tây Phương.

    Bản dịch Ba Trụ Thiền: Giáo Lý – Tu Tập – Giác Ngộ của Đỗ Đình Đồng. Trong ấn bản đầu tiên (1985), “Mu” được dịch là “Vô”. Theo đề nghị của thiền sư, trong lần hiệu đính sau này (2011), “Mu” được để nguyên.

    https://images-na.ssl-images-amazon.com/images/I/91FEAw8-G-L.jpg


    GIÁC NGỘ - Các Kinh Nghiệm

    Ông P. K., Cựu Doanh Nhân Mỹ, 46 tuổi (trích nhật ký)

    Nữu Ước 01-04-1953
    Bụng đau nhức suốt tuần, bác sĩ bảo các ung nhọt trở nên tệ hại hơn...Dị ứng cũng nổi lên... Không thuốc không ngủ được. Thật khốn khổ, ước gì có can đảm chấm dứt tất cả.

    20-04-1953
    Hôm nay nghe diễn thuyết của S. về Thiền như thường lệ, chỉ có chút ít ý nghĩa. Tại sao mình lại cứ tiếp tục đi nghe những buổi diễn thuyết này? Có bao giờ mình có thể ngộ (satori) khi lắng nghe những giải thích triết học về Trí Bát-nhã (Prajna) và Bi tâm (Karuna), tại sao A không phải là A, và tất cả những thứ còn lại? Ngộ là cái quái gì? Ngay cả sau bốn quyển sách và hàng tá các bài diễn thuyết của S., vẫn không biết gì hết. Mình phải ngu ngốc lắm. Nhưng mình biết điều này. Triết lý Thiền không loại bỏ được đau đớn hay bất an hay cảm giác “không có gì hết” khả ố của mình.

    Chỉ tuần vừa qua, một bạn thân phàn nàn: “Lúc nào mày cũng phun toàn triết lý Thiền mà mày không bình tĩnh và thận trọng hơn chút nào từ lúc mày nghiên cứu đến giờ. Nó không làm mày kiêu căng hay khiêm tốn hơn chút nào cả.”

    01-06-1953
    Nói chuyện với K. về Thiền và Nhật bản đến 2 giờ sáng’... Giống như S., anh ta cũng là người Nhật và đã tu tập Thiền, nhưng nói chung hai người hơi khác nhau. Trước khi gặp K., mình cứ tưởng những người giác ngộ đều giống như S., bây giờ mình thấy ngộ không quá đơn giản, nó có vẻ có nhiều khía cạnh và mức độ. Tại sao mình lại cứ bám theo ngộ?...

    Truy kích K. liên tiếp suốt đêm: “Nếu tôi đến Nhật để tu Thiền, anh có thể bảo đảm rằng tôi có thể tìm thấy ý nghĩa nào trong cuộc sống không? Tôi sẽ loại bỏ được tất cả ung nhọt, dị ứng và mất ngủ không? Hai năm tôi đã theo dự những bài diễn thuyết ở Nữu Ước đã không làm giảm được chút nào sự thất bại liên tục, nếu tôi tin các bạn của tôi, cũng không giảm thiểu được sụ lừa dối của trí thức.”

    K. cứ lặp lại: “Thiền không phải là triết lý, nó là một lối sống lành mạnh!... Nếu anh thực sự muốn đến Nhật để học Phật giáo và không chỉ nói về nó, thì toàn bộ cuộc sống của anh sẽ thay đổi. Nó sẽ không dễ, nhưng anh có thể tin điều này: một khi anh đã bước chân vào Con Đường của Phật, với chân thành và nhiệt tâm, chư Bồ-tát sẽ hiện ra khắp nơi để giúp anh. Nhưng anh phải có dũng khí và lòng tin, phải quyết tâm nhận ra sức mạnh giải thoát của Phật tánh dù cho phải đau khổ và hy sinh đến đâu.”

    Điểm này truyền cho mình sự dũng cảm mà mình cần.

    03-09-1953
    Bỏ việc kinh doanh, bán đồ đạc trong nhà và xe hơi. Bạn bè đồng thanh phê phán: “Mày có điên mới ném cả chục ngàn một năm để mua bánh trên trời!” Có thể, hoặc có thể bọn họ điên cũng nên, chồng chất của cải, ung nhọt, và bịnh tim. Mình ngờ vài người trong bọn họ còn ganh tị với mình nữa là khác. Nếu không cần, mình đâu có làm thế này, mình chủ động làm như thế mà, nhưng mình cũng hơi sợ, hy vọng nó đúng với cuộc đời ở tuổi bốn mươi. Đã mua vé đi Nhật.

    06-10-1953
    Bộ mặt và khí sắc của Nhật bản đã thay đổi biết bao trong bảy năm qua! Những khuôn mặt đổ nát và tuyệt vọng một cách ma quái đã thực sự biến mất. Cũng khá là lần trở lại như một kẻ tìm cầu thay vì như một tên mang mền với cuộc xâm chiếm. Thực ra, cái gì đưa mình trở lại đây? Có phải là sự cao quí của người dân Nhật, sự nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ không thể nói được đã làm mình kinh ngạc? Có phải là niềm im lặng phi thế gian của chùa Viên Giác (Engaku-ji) và sự bình an sâu xa xuất hiện bên trong mà bất cứ khi nào mình dạo bước qua các khu vườn hay những hàng cây trắc bá khổng lồ của chùa?

    01-11-1953
    Giờ đây đã sống ở Kyoto ngót một tháng. P., giáo sư người Mỹ đã gặp tại trong những buổi diễn thuyết của S. ở Nữu Ước, đang dạy lịch sử triết học tại một đại học Nhật bản.. .Anh ta và mình đã viếng năm sáu Thiền sư và những người có thẩm quyền…, nói, nói, nói. Một vài Thiền nhân này nói dông dài và tò mò về một lời dạy ba hoa về việc tâm truyền tâm và sự khả ố của tư niệm. Giáo sư M., khi nhắc đến điều này, nói: “Bắt đầu ông lợi dụng ý niệm để loại bỏ ý niệm.” Đây giống như chữa lửa bằng dầu. Lại cảm thấy bất an... Cả ngày hôm qua đi dạo quanh các tiệm bán những cửa hàng bán đồ hiếm có để mua sản phẩm mỹ nghệ. Có phải mình trở lại Nhật bản chỉ vì vậy không?

    02-11-1953
    Hôm nay có thư của Lão sư Trung Xuyên (Nakagawa-roshi), trụ trì chùa Long Trạch (Ryutaku-ji), đến trả lời chấp nhận, P. và mình có thể ở lại đó hai ngày. Một chuyến du hành như thế có thể có kết quả ư? S. và các giáo sư Thiền ở Kyoto không đúng sao? “Các Thiền viện đều quá cổ hủ và hách dịch đối với những người hiện đại có đầu óc trí thức.” Dẫu sao nói chuyện với một lão sư bằng tiếng Anh cũng là một kinh nghiệm tiểu thuyết và không chừng lại hóa ra một ngày nghỉ ngơi thích thú. Vợ P. chất đầy lên P. và mình những tấm chăn dày và một lô thức ăn Mỹ. Người bạn Nhật của vợ P. bảo các chùa Thiền lạnh và khắc nghiệt lắm đấy. Ở trong chùa rồi biết làm sao?

    03-11-1953
    Đến chùa vào lúc xẩm tối. Trên tàu lửa sáu tiếng rưỡi đồng hồ, P. và mình bận rộn chuẩn bị những câu hỏi để trắc nghiệm sự hiểu biết triết học của vị lão sư về Thiền. “Nếu ông ấy am hiểu thông minh về Thiền,” chúng tôi quyết định. “và không phải là một kẻ cuồng tín, chúng tôi sẽ ở lại trọn hai ngày, nếu không chúng tôi sẽ từ giã vào ngày mai...”

    Lão sư Trung Xuyên (Nakagawa-roshi) tiếp chúng tôi trong một căn phòng giản dị, đơn sơ. Trông ông còn trẻ lắm, không giống như ông Tổ sư đầy râu ria trong trí tưởng tượng của chúng tôi. rất nhiệt tình và khiêm tốn, tự tay ông pha cho chúng tôi trà xanh nóng đã đánh sẵn, thơm ngon và xoa dịu, và còn nói chuyện khôi hài với chúng tôi bằng tiếng Anh hay đến độ đáng ngạc nhiên.

    “Đi xe lửa lần đầu tiên chắc mệt mỏi, các ông có thích nằm nghỉ không?.” “Dạ không, chúng tôi chỉ hơi mệt chút thôi, nhưng nếu thầy không chấp, chúng tôi đã chuẩn bị một số câu hỏi về Thiền, chúng tôi muốn hỏi thầy.”

    “Nếu các ông không cần nghỉ ngơi, người phục vụ sẽ đưa các ông vào chánh điện, ở đó các ông có thể ngồi thiền cho đến khi tôi sắp xếp xong vài việc cần thiết, sau đó chúng ta sẽ nói chuyện, nếu các ông thích.”

    “Nhưng trong đời chúng tôi chưa bao giờ thiền định cả. Chúng tôi chưa biết ngồi xếp chân như thế nào.” “Các ông có thể ngồi bất cứ cách nào tùy ý nhưng không nên nói chuyện. Ông tăng phục vụ sẽ cung cấp tọa cụ và chỉ chỗ cho các ông ngồi, ông ấy sẽ gọi các ông khi nào tôi có thể gặp lại các ông được.”

    Ngồi - không, vặn vẹo - không nói suốt hai giờ khốn khổ trong chánh điện u tối bên cạnh P. ... không thể tập trung được, ý nghĩ rượt đuổi nhau như một bầy khỉ. Đau dữ dội ở chân, lưng, và cổ. Tuyệt vọng, muốn bỏ cuộc, nhưng nếu bỏ cuộc trước P., anh ta sẽ không bao giờ ngừng châm chọc mình, và vị lão sư ấy sẽ không có quan niệm tốt về nghị lực của người Mỹ. Cuối cùng, ông tăng phục vụ đến và thì thầm một cách ái ngại: “Bây giờ các ông có thể gặp lão sư được rồi đấy.”

    Nhìn đông hồ: 9 giờ 30.

    Đi cà nhắc vào phòng lão sư, được ông đón chào bằng cái mỉm cười bí mật và một tô cơm lớn với dưa chua. Ông chăm chú nhìn chúng tôi trong khi chúng tôi nuốt lấy nuốt để thức ăn, rồi tử tế hỏi: “Bây giờ các ông muốn biết gì về Thiền?”. Quá kiệt sức đến nỗi chúng tôi chỉ có thể trả lời một cách yếu ớt: “Không muốn gì hết.” “Thế thì bây giờ các ông nên đi ngủ là hơn, bởi vì chúng ta sẽ thức dậy lúc 3 giờ rưỡi sáng. Chúc mộng đẹp.”

    04-11-1953
    “Dậy! Dậy đi! Đã 3 giờ 45 rồi! Các ông không nghe chuông, thanh la, không nghe trống và tụng kinh ư?...Làm ơn gấp gấp cho.”

    Ôi là một cảnh tượng kỳ lạ của pháp thuật phù thủy và sùng bái ngẫu tượng điêu luyện, những nhà sư đầu cạo trọc, áo dài thâm ngồi bất động tụng thần chú hòa nhịp với cái trống gỗ lớn, phát ra âm thanh của một thế giới khác, trong khi vị lão sư, giống như một lão thầy thuốc có tà thuật mặc áo quan tòa lịch sử nào đó, đang diễn các trò ma thuật và thỉnh thoảng lại lạy trước một bàn thờ lởm chởm những ngẫu tượng và hình ảnh. Đây là Thiền của Đan Hà (Tanka)(19), người đã ném tượng Phật vào lửa ư? Đây là Thiền của Lâm Tế (Rinzai), người đã hét: “ Gặp Phật giết Phật” ư?(20) Các giáo sư và S. cuối cùng đã đúng.

    Sau bữa ăn sáng, lão sư đưa chúng tôi đi tham quan một vòng tự viện, nằm trên một vùng đồi chạy vòng theo hình móng ngựa trong niềm im lặng rung động của khu rừng thông, bách hương và trúc, được chăm sóc cẩn thận và điểm xuyết bằng một ao sen tuyệt vời - một cảnh Bồng lai thực sự của Nhật bản. Và ôi là cảnh núi Phú sĩ (Fuji), người canh giữ hùng vĩ bầu trời! Nếu ông ta không làm hỏng tất cả bằng cách cố ý bảo chúng tôi cúi đầu làm lễ trước những bức tượng trong các căn phòng.

    Ôi linh hồn tiên tri của tôi! Ông ấy đưa chúng tôi vào căn phòng của người sáng lập, ông ấy thắp nhang và sốt sắng quì lạy trước pho tượng Bạch Ân (Hakuin) kỳ dị. “Các ông cũng có thể thắp nhang và tỏ lòng kính trọng đối với Bạch Ân.” P. nhìn tôi và tôi nhìn P.. Rồi P. châm ngòi nổ: “Các Thiền sư Trung hoa ngày xưa đã đốt cháy, khạc nhổ vào tượng Phật, tại sao thầy lại cúi đầu trước những thứ ấy?”

    Lão sư nhìn chúng tôi trầm trọng nhưng không giận. “Nếu các ông thích khạc nhổ, cứ khạc nhổ, tôi thích cúi đầu làm lễ hơn.” Chúng tôi không khạc nhổ cũng không cúi đầu.(21)

    06-11-1953
    Hôm nay P. từ giã để đi Kyoto và lão sư mời tôi ở lại. Vì tất cả sự cuồng tín và tâm hồn phi triết học của ông, ông là người nồng hậu và tiết độ nên tôi thích ông. Mặc dù không tự mê muội một cách vô ích, thức dậy lúc 3 giờ 30 sáng, trong không khí lạnh lẽo, sống đạm bạc với gạo là chủ yếu và ngồi xếp chân trầm tư mặc tưởng cũng là thô kệch. Tôi có thể làm được như thế không? Tôi có muốn không?... Dù sao tôi cũng vui lòng vì tôi đã được ông mời ở lại và tôi đã nhận lời.

    08-11-1953
    Lão sư bảo tôi có thể thiền định một mình trong phòng của người sáng lập thay vì ở thiền đường lạnh lẽo. Tôi có thể ngồi hay quì gối theo kiểu người Nhật hay dùng ghế và mặc nhiều áo quần tùy ý nếu bị lạnh. Mặc dù không có ý niệm về thiền định như thế nào. Khi tôi nói với lão sư điều này, ông kín đáo khuyên: “Hãy đặt tâm ở đáy bụng, ở đó có một ông Phật mù, hãy làm cho ông ấy thấy!...” Thiền định chỉ có thế thôi ư? Hay ông lão sư này cẩn thận cho mình “đền tội”?... Hôm nay quan sát kỹ bộ mặt Bạch Ân, thấy nó ít kỳ dị hơn, còn có vẻ hơi hấp dẫn nữa là khác.

    10-11-1953
    Mỗi buổi sang đều leo lên ngọn đồi phía sau chánh điện để nhìn quang cảnh rộng rãi của núi Phú-sĩ. Hôm nay bỏ thiền định vì bị nhức đầu. Núi Phú-sĩ có vẻ u ám và vô sinh khí...

    Hôm nay, sau hai giờ thiền định tốt, nó lại to lớn và bay lượn. Một khám phá đáng chú ý: “Tôi có sức sống và chết vượt hẳn núi Phú sĩ. ”

    23-11-1953
    Hôm nay trong lúc uống trà với lão sư trong phòng ông, bỗng nhiên ông hỏi: “Sao, ông có thích dự tuần nhiếp tâm Lạp bát (Rohatsu: mồng tám tháng chạp) ở chùa của Lão sư Đại Vân không? Trong tuần nhiếp tâm ấy, kỷ luật đặc biệt nghiêm túc, nhưng ông ấy là một lão sư nổi tiếng, một bậc thầy cho ông tốt hơn tôi nhiều.” “Nếu thầy nghĩ như thế thì hẳn rồi, tại sao lại không?” “Nhưng bổn sư của tôi(22), người mà ông đã gặp hôm kia, thì phản đối việc này, ông ta không tán thành các phương pháp dẫn ngộ của Lão sư Đại Vân. Ông ta cho rằng một thiền sinh sẽ từ từ chín muồi, rồi giống như trái từ trên cây rụng xuống khi đã chín muồi, tự nhiên đến giác ngộ. Hãy để tôi suy nghĩ thêm đã.”

    25-11-1953
    Sáng nay đến viếng chùa có hai vị khách đáng chú ý, một là một vị sư gọi là Bạch Vân (Hakuun), người kia là một cư sĩ tên là Yamada, môn sinh của vị sư, nói là anh ta đã tu Thiền tám năm. Muốn hỏi anh ta đã ngộ chưa, nhưng quyết định rằng việc ấy có thể gây bối rối.

    Hỏi Lão sư Bạch Vân xem ông ấy có nghĩ mình có thể đạt ngộ (satori) trong vòng một tuần nhiếp tâm không?...” “Ông có thể đạt ngộ chỉ trong một ngày nhiếp tâm thôi, nếu ông thực có quyết tâm và buông bỏ tất cả tư niệm.”

    27-11-1953
    “Sao, việc thiền định của ông đến đâu rồi?” hôm nay lão sư bỗng nhiên hỏi tôi. “Ông Phật trong bụng tôi vẫn mù vô hy vọng.” “Sự thật ông ấy có mù đâu, ông ấy chỉ có vẻ như vậy thôi, bởi vì ông ấy ngủ khỏe lắm. Này, ông có muốn thử công án Mu không?” “Vâng, nếu thầy nghĩ thế tôi sẽ thử, nhưng tôi phải làm gì nào?” “Tôi nghĩ ông đã biết bối cảnh của nó.” “Vâng.” “Thế thì chỉ cần tập trung vào lời đáp của Triệu Châu cho đến khi nào ông trực nhận ra ý nghĩa của nó.” “Thế thì tôi sẽ giác ngộ ư?” “Phải, nếu cái hiểu của ông không chỉ có tánh cách lý thuyết.” “Nhưng tôi tập trung cách nào?” “Hãy đặt tâm ông ở hara (vùng bụng) và chỉ tập trung vào Mu thôi.”

    28-11-1953
    Sáng nay lão sư gọi tôi vào phòng ông và ra dấu bảo tôi theo ông đến trước cái bàn thờ nhỏ ở phía sau. “Ông có thấy bức thư tôi đặt nơi bàn tay đức Quan Âm không? Ông trở thành có duyên với người viết bức thư này. Chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn đức Quan Âm.” Tôi chắp tay không suy nghĩ, hỏi nhanh: Bức thư ấy nói gì? Thầy bảo có duyên có nghĩa là gì?...” Lão sư bề ngoài trang nghiêm nhưng bên trong sống động, chỉ nói: “Hãy đến phòng tôi, tôi sẽ giải thích.”

    Với vẻ dễ mến thường lệ, ông quì gối theo kiểu người Nhật, đặt chiếc ấm lên lò than để pha trà, rồi tuyên bố một cách cương quyết: “Tôi quyết định đưa ông đến dự tuần nhiếp tâm Lạp bát ở chùa Phát Tâm. Bức thư này đã quyết định cho tôi.” “Hãy cho tôi biết tất cả sự vụ như thế nào.” “Ông có nhớ ông Yamada, người đàn ông đã đến đây ngày hôm kia với Lão sư Bạch Vân không? Thư từ ông ấy đến đấy. Ông ấy đã có kinh nghiệm ngộ thâm sâu ngay sau khi ông ta từ giã vào ngày hôm ấy và đã kể lại việc ấy trong bức thư này.” [Xem kinh nghiệm số 1].

    “Thầy bảo ông ấy đã ngộ rồi ư? Làm ơn dịch nó hộ tôi ngay bây giờ đi!” “Không còn thì giờ nữa. Chùa Phát Tâm cách đây xa lắm, tận trên bờ biển Nhật bản và chúng ta phải sẵn sàng để mai đi, tôi sẽ dịch nó cho ông trên xe lửa.”

    29-11-1953
    Khi chuyến xe lửa hạng ba tiến tới trong đêm, lão sư từ từ, cẩn thận dịch bức thư của Yamada.

    “.Ôi một kinh nghiệm linh hoạt, kích động biết bao và ông ta không phải là một tăng nhân mà là một cư sĩ!” “Thầy có tin rằng tôi có thể đạt ngộ trong tuần nhiếp tâm này không?” “Dĩ nhiên. miễn là ông hoàn toàn quên mình.” “Nhưng ngộ là cái gì nào? Tôi muốn nói.” “Thôi!” Lão sư vung bàn tay lên, thoáng mỉm cười bí mật. “Khi nào ông ngộ, ông sẽ biết, bây giờ xin làm ơn đừng hỏi nữa, chúng ta hãy tọa thiền và rồi cố gắng ngủ đi một tí trước khi đến chùa Phát Tâm.”

    30-11-1953
    Đến chùa Phát Tâm lúc trời đã chiều, đói và kiệt sức. Bầu trời màu chì, không khí nặng và ẩm ướt.Nhưng Lão sư Đại Vân (Daiun-roshi) nhiệt tình và nồng hậu, đưa cả hai tay ra chào tôi. Sau đó ông giới thiệu tôi với vị lão sư phụ tá và bốn vị tăng đầu chúng. Mặt dù ít nói, họ sáng ngời ngọn lửa nội tâm mãnh liệt.

    Lão sư [Trung Xuyên] và tôi rút vào một căn phòng nhỏ mà chúng tôi chia nhau. “Tốt hơn ông nên nghỉ một chút trước khi cuộc chiến đấu bắt đầu.” “Chiến đấu?...” “Phải, chiến đấu với cái chết bằng sức mạnh vô minh của ông. Tôi sẽ gọi ông khi nào mọi người tập hợp ở chánh điện để nghe huấn thị sau cùng của Lão sư Đại Vân, khoảng một tiếng đồng hồ.”

    Tựa như các chú tôm hùm trong ngày hội kín, Lão sư Đại Vân, lão sư phụ tá, bốn vị tăng đầu chúng trong những chiếc áo gấm thêu màu điều và những chiếc mũ lễ hình cánh cung, ngồi trên những chiếc tọa cụ bọc lụa trong khi bốn ông tăng trẻ mỗi người một chiếc khay sơn mài màu đen đựng những cái tách màu vàng ánh, đứng yên ở đàng kia sẵn sàng phục vụ. Xen vào giữa những hàng người đối diện nhau, ngang qua căn phòng khoảng năm chục người thường, trông đầy cương nghị đang quì gối mặc những chiếc áo dài màu thâm cổ truyền. Mắt họ dán xuống nền nhà phía trước họ, và không một ai, trừ tôi, động tia mắt nhìn Lão sư Đại Vân khi ông nói ...

    Tại sao mọi người rất căng thẳng và cương nghị đến thế? Tại sao tất cả bọn họ trông như đã hóa thép để chịu sự thử tội khủng khiếp nào đó? Lão sư đã bảo đây sẽ là một cuộc chiến đấu, nhưng chắc chắn ấy chỉ là hình ảnh ví von của lời nói - người ta chiến đấu với tâm mình như thế nào? Thiền không phải là vô vi, không gắng sức ư? Phật tánh bao trùm tất cả không phải là sở hữu chung của chúng ta ư?

    Tại sao phải gắng sức để đạt những gì mà chúng ta đã có sẵn? Phải hỏi Lão sư Đại Vân điều này ngay cơ hội đầu tiên mình có được.

    Trở về phòng, Lão sư tóm tắt huấn thị của Lão sư Đại Vân.

    1. Quí vị không nên nói chuyện hay tắm hay cạo râu tóc hay bỏ chỗ ở, trong suốt tuần.
    2. Quí vị chỉ nên tập trung vào sự thực hành của mình và không xao lãng vì bất cứ lý do gì.
    3. Quí vị dù là người mới bắt đầu hay là tay cựu thủ cũng đều có cơ hội đạt ngộ trong suốt tuần nhiếp tâm này.

    Và lão sư thêm một cách ngắn gọn như châm ngôn: “Nhưng ông phải làm việc khó nhọc, khó nhọc kinh khủng. ”

    01-12-1953
    Mưa không ngớt, thiền đường lạnh và ẩm ướt một cách khó chịu. Mặc quần lót dài phủ mắt cá, áo sơ mi len, hai chiếc áo ấm, chiếc áo choàng bằng len, hai đôi bít tất len nhưng không hết run. Tiếng gầm thét của người godo còn làm phân tâm hơn là cây kích trượng vung múa, đau nhức ở chân và lưng. ... Ý nghĩ phóng chạy điên cuồng. Thay đổi lia lịa từ agura (23) sang seiza [túc tọa] đến hanka [bán già], điều chỉnh ba cái tọa cụ theo mọi cách có thể nghĩ ra, nhưng không thoát khỏi đau.

    Vào độc tham lần đầu tiên, Lão sư Đại Vân vẽ một vòng tròn với một chấm ở giữa: “Cái chấm này là ông, và vòng tròn này là vũ trụ; thật ra ông bao hàm cả vũ trụ, nhưng vì ông tự thấy mình như cái chấm này, một mảnh nhỏ bé biệt lập, nên ông không kinh nghiệm vũ trụ này không thể tách rời với mình. Ông phải phá vỡ sự tự nhốt tù mình, phải quên triết học và mọi thứ khác, phải đặt tâm ở hara và chỉ hít thở Mu. Tâm của vũ trụ là cái hốc bụng của ông!...”

    “Mu là thanh kiếm khiến ông có thể cắt đứt hết mọi tư niệm tận trong vùng cội nguồn của tư tưởng và tình cảm. Nhưng Mu không phải chỉ là phương tiện để đạt ngộ mà nó chính là ngộ. Tự chứng ngộ không phải là việc tiến từng bước mà là kết quả của một cái nhảy vọt. Trừ phi tâm ông thanh tịnh thì ông không thể thực hiện cái nhảy vọt này.”.

    “Thầy muốn nói gì qua chữ ‘thanh tịnh’?”

    “Trống rỗng không một tư niệm nào hết.”

    “Nhưng tại sao cần phải chiến đấu để giác ngộ nếu chúng ta có sẵn Phật tánh đã giác ngộ?”

    “Ông có thể chỉ cho tôi xem cái tánh đã giác ngộ của ông không?”

    “À không, tôi không thể chỉ ra được nhưng kinh bảo chúng ta vốn có cái tánh ấy phải không?”

    “Kinh không phải là kinh nghiệm của ông, đó là kinh nghiệm của Phật Thích-ca Mâu-ni. Nếu ông nhận ra Phật Tâm mình thì chính ông là Phật.”

    02-12-1953
    Lúc độc tham vào năm giờ sáng, nói với Lão sư Đại Vân chân đau nhức quá: “Tôi không thể tiếp tục được.”. “Ông muốn dùng ghế không?” ông nhìn tôi khẩn trương.

    “Không, tôi sẽ không bao giờ dùng ghế dù cho chân tôi có rụng mất!”. “Tốt, với tinh thần ấy, ông sắp ngộ rồi!”

    Tiếng vụt khủng khiếp của kích trượng ngay lúc sự tập trung của tôi bắt đầu đông đặc lại và tôi rời ra.dịch vật cái tên godo ấy! “Thẳng lưng lên, ngồi cho vững nó, tập trung sức vào đan điền!”. hắn hét vang. Nhưng chỉ có quỉ chứ tôi làm sao đưa sức vào đan điền được? Khi tôi rán sức thì lưng tôi như bị dao đâm. Phải hỏi lão sư Đại Vân về cái vụ này mới được.

    Suốt một thời ngồi, tư tưởng của tôi đã kết lại nơi các bức tranh của Mục Khê(24) mà tôi đã thấy trưng bày ở chùa Đại Đức (Daitoku-ji) trong tháng vừa qua. Cái con hạc ấy cứ như quỉ ám, toàn bộ bí mật của kiếp người nằm trong đôi mắt nó. Nó đang tự tạo, nó đang hiện ra từ vô hình đến hữu hình. Tôi phải đảo ngược quá trình ấy, lại lặn vào vô hình, vô thời gian, tôi phải chết để được tái sinh. Vâng, đó là ý nghĩa của Mu.

    Keng! Keng! Chuông độc tham. Lão sư Đại Vân kiên nhẫn lắng nghe, rồi gầm lên: “Đừng nghĩ đến con hạc của Mục Khê, đừng nghĩ đến vô hình hay hữu hình hay bất cứ cái gì khác. Chỉ nghĩ đến Mu thôi. Đó là cái mà ông cần phải ở đây!”

    03-12-1953
    Chân đau không chịu nổi. Tại sao mình không bỏ? Chỉ có ngu mới ngồi với chân đau ghê gớm này và nhận những cái quất vô nghĩa của kích trượng, cộng thêm sự la hét không lành mạnh của gã godo, ấy chỉ là lấy đau đớn làm khoái lạc thuần túy và đơn giản. Tại sao mình bỏ chùa Long Trạch, tại sao mình đã từng bỏ Hoa kỳ?. Nhưng bây giờ lại không thể bỏ được… mình sẽ làm gì?... mình phải đạt ngộ, mình phải...

    Mu là cái quái gì? Nó có thể là cái gì? Dĩ nhiên nó là lời cầu nguyện tuyệt đối của cái ta cầu nguyện chính nó. Khi còn là sinh viên, mình đã thường muốn cầu nguyện biết bao nhưng dường như luôn luôn không tập trung, và ngay cả ngu xuẩn thế nào ấy về sự cầu nguyện đức chúa Trời ban cho sức mạnh để đương đầu với những nguy nan mà Ngài toàn trí toàn năng đã cho hiện ra ở vị trí đầu tiên.

    Nước mắt trào lên, hạnh phúc thay cầu nguyện chỉ vì cầu nguyện thôi!... Những giọt nước mắt này có nghĩa là gì? Chúng là dấu hiệu không có sự trợ giúp, sự ngầm chấp nhận rằng lý trí, bản ngã của của mình đã đi đến giới hạn năng lực của nó. Vâng, nước mắt là phúc lành của tự nhiên, nó cố gắng gột rửa sự nhơ nhớp của bản ngã và làm dịu bớt những nét bề ngoài khắc nghiệt của nhân cách chúng ta đã trở nên khô cằn căng thẳng vì tin tưởng vị kỷ rằng lý trí không thể khuất phục được.

    Ôi! Những nội kiến kỳ diệu! Mình cảm thấy chúng rất tốt. Tôi biết mình đã tiến bộ. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu ngộ ập đến tôi đêm nay.

    Bộp! Bộp! “Thôi mơ mộng đi! Chỉ Mu thôi!” Người godo gầm lên, đánh tôi một trận.

    Độc tham!... “Hãy tống khứ những ý nghĩ ấy đi! Ngộ không phải tiến bộ hay thoái bộ gì hết, tôi đã không nói với ông nó là cái nhảy vọt ư? Ông phải làm như thế này chỉ và chỉ như thế này thôi! Hãy đặt tâm ở đáy bụng và hít thở Mu. Thế có rõ ràng không?” Tại sao bỗng nhiên ông quá nghiêm khắc như thế? Ngay mấy con chim ưng trên bức rèm phía sau ông cũng tỏ vẻ giận tôi.

    04-12-1953
    Chúa ơi! Phật ơi! Một cái ghế đang đứng ở chỗ tôi! Tôi rất biết ơn! Lão sư [Trung Xuyên] đến và thì thầm: “Lão sư Đại Vân ra lệnh ông tăng đầu chúng cho ông cái ghế vì cảm thấy ông sẽ không bao giờ đạt ngộ với cái lưng cong và liên tục thay đổi tư thế. Bây giờ không còn chướng ngại nào nữa, vì thế hãy tập trung vào Mu bằng tất cả tâm ông.” Sự tập trung căng lên nhanh chóng, tư niệm đột nhiên biến mất. Ôi một cảm giác kỳ diệu cái trống không bồng bềnh này!...

    Bỗng nhiên mặt trời tuôn chảy vào cái cửa sổ phía trước tôi. Mưa đã ngừng! Trời trở nên ấm hơn! Cuối cùng các thần đã ở bên tôi. Bây giờ tôi không thể để sẩy ngộ nữa. Mu! Mu! Mu!... Lão sư nghiêng qua nhưng chỉ thì thầm: “ Ông mệt lả và làm phiền người khác, hãy cố gắng thở im lặng.”. Nhưng tôi không thể ngừng được. Tim tôi đập cuồng loạn. Tôi run lẩy bẩy từ đầu đến chân, nước mắt chảy xuống không thể kiềm chế được. Người godo đánh tôi, nhưng tôi không cảm thấy gì hết. Ông ta đánh người bên cạnh và tôi bỗng nghĩ: “Tại sao ông ta lại hèn hạ đến thế, ông ta đả thương người ấy.”. Lại nước mắt nữa. Người godo quay trở lại và thỉnh thoảng cú tôi, hét lên: “Hãy làm cho tâm ông trống rỗng mọi tư niệm, trở nên giống như một em bé. Chỉ Mu, Mu thôi ngay tại đáy lòng ông!” Bịch! Bịch! Bịch!

    Đột nhiên tôi mất sự kiểm soát thân, song vẫn còn ý thức, và sụ ra một đống. Người godo và lão sư vực tôi lên, khiêng tôi vào phòng và đặt tôi lên giường. Tôi vẫn mệt lả và run rẩy. Lão sư nhìn mặt tôi, lo lắng hỏi: “Ông có cảm thấy đỡ không? Ông cần bác sĩ không?” “Không, tôi đỡ rồi, tôi đoán thế.”. “Trước kia ông có bao giờ thế này không?” “Không, chưa bao giờ.”. “Tôi mừng cho ông.”. “Tại sao, tôi ngộ rồi ư?”... “Không, tôi mừng cho ông, chỉ thế thôi.”. Lão sư mang cho tôi bình trà, tôi uống năm tách.

    Ngay khi ông ta vừa bỏ đi, tôi đột nhiên cảm thấy chân tay mình bị một sức mạnh nắm chặt và bị khóa lại trong một cái bàn kẹp to tướng đang bắt đầu khép lại từ từ.Những cơn co giật tra tấn giống như những tia điện phóng qua người, tôi vặn vẹo mình mẩy vì đau đớn. Tôi cảm thấy dường như tôi đang chuộc tội cho chính mình và tất cả loài người.Tôi đang chết hay đang trở nên giác ngộ. Mồ hôi tuôn ra từ mọi lỗ chân lông và tôi phải thay đồ lót hai lần.

    Cuối cùng, tôi rơi vào giấc ngủ say.

    Thức dậy thấy cơm, canh và đậu hũ kế bên tấm nệm tôi nằm ngủ. Ăn ngấu nghiến, mặc quần áo, vào thiền đường. Trong đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhàng, mở rộng và trong suốt như thế, hoàn toàn sạch sẽ và không tì vết như thế. Trong lúc kinh hành, không phải bước đi mà bập bềnh như cái nút chai điên điển trên mặt nước. Không thể chống lại việc nhìn ra cây cối bông hoa, linh hoạt, sáng ngời và hòa nhịp với cuộc sống!... Làn gió rì rào thổi qua cây lá là khúc nhạc đáng yêu nhất đời!... Khói nhang thơm tho dịu ngọt làm sao!...

    Sau đó, lúc độc tham Lão sư Đại Vân nói: “Sự run rẩy đến với ông, bởi vì ông đang bắt đầu vứt bỏ các mê hoặc của mình, ấy là dấu hiệu tốt. Nhưng chớ dừng lại để tự mừng mình mà hãy tập trung vào Mu kịch liệt hơn nữa.”

    05-12-1953
    Vẫn sáng ngời. Giờ đây ngộ sẽ ập đến mình bất cứ lúc nào, tôi biết thế, tôi cảm thấy điều ấy đến tận xương tủy. Các bạn Thiền của tôi ở Hoa kỳ sẽ không ganh tỵ khi tôi viết tôi đã ngộ ư?... Đừng nghĩ đến ngộ, đồ ngu! Chỉ nghĩ đến Mu thôi! Vâng. Mu! Mu! Mu!... Đồ dịch vật, tôi mất nó rồi! Sự kích động vì ngộ của tôi đã bóp cò cho hàng trăm tư niệm. Nó để lại cho tôi thất vọng. Vô ích, ngộ ở bên kia tôi.

    06-12-1953
    Sáng nay thân mệt nhưng tâm sắc bén và trong sáng. Mu vang động trong vườn chùa suốt đêm không ngủ. Lạnh, khốn khổ. Thức mãi chỉ vì lúc độc tham Lão sư Đại Vân khiển trách: “Ông sẽ không bao giờ đạt ngộ được trừ phi ông phát triển sức mạnh và quyết tâm tọa thiền suốt đêm. Một vài người ngồi đêm nào cũng thức để tọa thiền.”

    Khoảng nửa đêm, tự quì lạy trước tượng Phật ở chánh điện và cầu nguyện một cách tuyệt vọng: “Chúa ơi! Phật ơi! Xin ban cho con ngộ và con sẽ khiêm cung, ngay cả tự nguyện cúi đầu trức các Ngài nữa.” Nhưng không có gì xảy ra, không có ngộ nào cả. Bây giờ tôi thấy Con Chồn Già đang lừa phỉnh tôi, có lẽ đang dụ tôi buông lơi sự trói buộc vào giấc ngủ.

    Sự la hét và đánh đập của người godo và các trợ thủ của ông càng lúc càng trở nên dữ dội hơn. Sự ồn ào, huyên náo của ba đêm cuối cùng không thể tin được. Tất cả cái nhóm hơn năm mươi người đều rống: “Mu” liên tục suốt nửa tiếng đồng hồ cuối cùng trong khi các vị tăng đầu chúng trách họ, hét: “Hãy nói Mu từ đan điền, không phải từ phổi!” Và tiếp sau là tiếng rống “Mu-u-u...” vang dội qua đêm trong nghĩa trang và vùng đồi như tiếng kêu của súc vật đang chuẩn bị sẵn sàng cho lò sát sinh. Tôi cá là nó làm cho toàn thể vùng quê thức mãi...Sự đánh đập ấy không làm cho tôi linh hoạt chút nào. Người godo đã phải cú tôi suốt mười lăm phút, nhưng chỉ tạo ra cái lưng đau và những ý nghĩ chua chát. Tại sao mình không tóm lấy cây gậy và tặng hắn một liều thuốc của hắn? Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu tôi làm thế?...

    Lúc độc tham nói với Lão sư Đại Vân: “Phiền ở chỗ là tôi không thể quên mình, tôi luôn ý thức về tôi như là chủ thể đối lập với Mu là khách thể. Tôi tập trung vào Mu và khi nào tôi bám được vào nó là tôi nghĩ: “Tốt, bây giờ mi đã được nó rồi, đừng để mất nó!” Rồi tôi tự nhủ: “Không, mi không nên nghĩ ‘Tốt,’ mi chỉ nghĩ Mu thôi!” Vì thế tôi siết chặt hai bàn tay, dằn xuống với mọi gân cốt, và bỗng nhiên có cái gì đó lách cách, tôi biết là tôi đã đạt đến một tầng mức tâm thức sâu hơn, bởi vì tôi không còn biết trong hay ngoài, trước hay sau, phấn khởi tôi nghĩ: “Bây giờ mình đang tiến đến gần ngộ, mọi tư niệm biến mất, ngộ sẽ ập đế mình bất cứ lúc nào. Nhưng rồi tôi lại nhận ra tôi không thể tiến gần ngộ chừng nào tôi còn nghĩ đến ngộ. Vì thế tôi chán nản, sự nắm giữ Mu lơi ra và Mu lại vuột mất.”

    Rồi còn vấn đề nay nữa. Thầy bảo tôi làm cho tâm trơ trụi, không còn ý niệm chấp trước nào như tâm đứa trẻ thơ không có ý chí tự kỷ hay bản ngã. Nhưng làm sao tôi có thể giải thoát được bản ngã khi người godo đánh tôi dữ dội và giục tôi càng lúc càng mạnh hơn và tiến tới Mu nhanh hơn? Sự gắng sức đầy mục đích như thế, về phần tôi, ấy không phải là biểu hiện của bản ngã ư? Thay vì tống khứ nó đi, tôi lại bênh vực nó.”

    “Tâm bản ngã và tâm Thanh Tịnh là hai mặt của một thực tại. Đừng nghĩ đây là bản ngã, kia không phải là bản ngã. Chỉ tập trung vào Mu thôi. Đây là cách nhận ra Tâm Thanh Tịnh. Giống như một người sắp chết vì đói, y không nghĩ mình đang đói, mình phải ăn. Hoàn toàn mất hút trong cơn đói như thế, y ăn bất cứ thứ gì y tìm được, không suy nghĩ. Nếu tự ý thức, ông suy nghĩ ông muốn ngộ, tôi phải ngộ, ông sẽ không bao giờ ngộ cả. Nhưng khi nào tận đáy lòng ông có khát vọng sâu xa muốn nhận ra Tự Tánh, ngộ sẽ đến. Ông sẽ hoàn toàn thấm nhập được Mu nếu ông tập trung nơi đan điền. Mu phải chiếm trọn vẹn tâm ông, vang động ở đan điền ông. Đừng cố đoán trước ngộ, nó đến một cách bất ngờ. Khi tâm ông trống rỗng mọi tư niệm và hình ảnh, bất cứ cái gì cũng có thể làm nó ngộ được: tiếng người nói, tiếng chim kêu. Nhưng ông phải có lòng tin mạnh hơn. Ông phải tin ông có khả năng đạt Tự chứng ngộ và ông hãy tin những gì tôi đang nói là thực và sẽ đưa ông đến cái mà ông đang tìm.”

    Độc tham với Lão Sư tử luôn luôn là một kích động lớn. Vì thế, một lần nữa tôi lại nhập vào Mu, năng lực kiệt quệ nhanh chóng, và con đê tư niệm chứ không phải ngộ ập đến, tôi bị chận lại. Nếu cực nhọc sấn tới tôi sẽ sớm bị mệt, thân và tâm tàn lụi. Nhưng không lăn vào thì người godo sẽ đánh, lôi tôi ra khỏi chỗ và tống cổ tôi vào độc tham. Khi tôi xuất hiện trước Lão sư Đại Vân, ông ấy hỏi: “Tại sao ông đến đây khi ông không thể chỉ Mu cho tôi?” hoặc trách tôi không hết lòng. Họ đang cố gắng đẩy tư niệm ra khỏi tâm tôi hay đẩy tôi ra khỏi tâm tôi? Họ đang thận trọng tạo ra một chứng thần kinh loạn giả tạo, tại sao tôi không bỏ đi?

    Rắc! Beng! Cả thiền đường rung chuyển, cái gì thế?... Tôi không sao, chỉ quay đầu lại xem. Lão Sư tử vừa bẻ gãy cây gậy dài nhất trong thiền đường, ngang phía sau chiếc rương thánh tích của Bồ-tát Văn Thù. “Các ông đều lười biếng cả!” Ông hét lên: “Bên trong các ông đều có khả năng nắm bắt được kinh nghiệm quí giá nhất thế gian, song các ông lại ngồi mơ mộng. Hãy tỉnh mộng đi và lao mình vào cuộc chiến đấu, nếu không ngộ sẽ lẩn tránh các ông mãi mãi.” Ôi là sức mạnh tinh thần, ôi là năng lực trong tấm thân 84 tuổi, mảnh khảnh, cao một mét năm mươi lăm.

    07-12-1953
    Quá kiệt lực khi ngồi chung với những người khác đêm qua, sức khỏe vừa mới bình phục mặc dù tiếng “Mu-u- u” của họ khàn khàn suốt đêm khiến tôi thức mãi. Lão sư bảo ngày cuối cùng có tính cách sinh tử và không được yếu kém, nhưng tinh thần sống chết của tôi đã ra đi, cuộc chạy đua đã qua và tôi là một kẻ cũng có chạy.

    Nhìn buồn bã và ganh tỵ khi ba “người thắng cuộc” đi quanh thiền đường, cúi đầu trước Lão sư Đại Vân, Lão sư phụ tá và các vị tăng đầu chúng để tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Một trong những người may mắn ấy là người ngồi kế bên tôi. Anh ta bị đánh nhiều lần và khóc sướt mướt suốt cả ngày hôm qua và hôm nay. Rõ ràng anh ta đã khóc vì vui thực sự trong khi tôi lại tưởng anh ta khóc vì đau đớn.

    08-12-1953
    Cùng với Lão sư Trung Xuyên uống trà với Lão sư Đại Vân sau tuần nhiếp tâm. Phong thái khó chịu trong lúc nhiếp tâm của ông không còn nữa, ông hiền từ và sáng ngời như mặt trời.Sau cuộc chuyện trò vui vẻ, ông mời tôi ở lại dự buổi lễ chính thức tưởng niệm sự Giác Ngộ của đức Phật vào chiều hôm ấy.

    Nhìn không dứt khi Lão sư Đại Vân, Lão sư phụ tá, mười vị tăng trưởng lão mặc lễ phục thỉnh thoảng quì lạy trước tượng Phật, tụng kinh, tung những quyển kinh lên không, đánh trống, rung chuông, đánh chiêng và đi vòng quanh chánh điện theo một loạt các nghi thức tôn vinh Phật Thích-ca Mâu-ni và tán dương sự Giác Ngộ bất tử của Ngài... Những nghi thức này sáng ngời Chân lý sống động mà tất cả những tăng nhân này đã kinh nghiệm ở một mức độ nào đó. Vâng, qua những nghi thức này, họ tái khẳng định cái mắt xích của họ với truyền thống Phật giáo vĩ đại, làm nó phong phú và để nó làm họ phong phú, như thế họ có thể nối dài sợi xích vào tương lai. Ước gì mình được bao gồm trong truyền thống ấy, tôi có thể luyện mình thành mắt xích nối kết với Phật giáo và các phương tiện phi thường của nó để làm cho tâm người giác ngộ. Giờ đây tôi biết tại sao tôi chóng nhàm chán các lễ chế của các giáo đường và giáo hội ở Hoa kỳ. Các linh mục, các giáo sĩ đạo Do thái, và các mục sư không có được sự kinh nghiệm thân mật với Thượng đế mà họ rao giảng rất trôi chảy, đây là lý do tại sao các bài giảng và nghi lễ của họ nhàm chán và vô sinh khí.

    09-01-1954
    Trở lại Kyoto, mệt mỏi, tê cóng và đau nhức nhưng bên trong thì sống lại.

    20-01-1954
    Tốt là trở lại chùa Long Trạch. Ở Kyoto. P. và tôi chỉ nói chuyện Thiền với nhau và với các giáo sư, ở đây tôi thực hành Thiền. Dù có đau đớn nhưng thực hành Thiền làm tôi trẻ lại.. .Tâm tôi là một đầm lầy ứ đọng những quan niệm, lý thuyết, ấn tượng, hình ảnh. Tôi đọc và suy nghĩ quá nhiều, kinh nghiệm không một cảm giác. Tôi lấy lại sự tươi mát của tính nhạy cảm đã tàn tạ, đối mặt với chính mình một cách trung thực, trần truồng và đây là điều tôi có thể làm được tốt nhất qua tọa thiền ở tự viện.

    08-04-1954
    Tuần nhiếp tâm thứ nhì của tôi ở chùa Phát Tâm đã qua. Lão sư Đại Vân bảo ông sẽ nhận tôi làm môn đệ nếu tôi ở lại như một cư sĩ ở chùa ông. “Nếu ông có thể chịu đựng đời sống chùa chiền và đạt ngộ, ông sẽ là chủ nhân của đời ông thay vì làm nô lệ của nó.”

    01-10-1956
    Đúng ba năm hai tháng đã trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi đến chùa Phát Tâm, bao nhiêu nước chảy dưới cầu hay nên nói bao nhiêu cầu trôi trên nước bất động. Cùng chịu cực với tăng nhân trong mùa hè nóng bức, và run rẩy với họ trong tuyết giá khất thực (25), chặt cây, trồng lúa, chăm sóc vườn, làm sạch nhà ngoài và làm việc nhà bếp với họ. Tôi đã chia xẻ với họ những giây phút hào hùng, dâng hiến, đã dự vào những âm mưu nhỏ bé của họ.

    Ngồi, ngồi, ngồi hết tuần nhiếp này đến tuần nhiếp tâm khác với đau đớn, rồi còn tọa thiền nữa, hết sáng này đến sáng khác, hết đêm này đến đêm khác, và từ tối đến sáng. Những nội kiến sáng ngời và những thị kiến quyến rũ đã diễn hành qua tâm tôi, nhưng sự chiếu sáng đích thực là ngộ vẫn lẩn tránh tôi. Tangen-san, người bạn thông minh, vị tăng dẫn dắt kiêm thông dịch của tôi long trọng bảo đảm với tôi rằng chỉ có toàn tâm tọa thiền mỗi ngày là đem lại phần thưởng to lớn trong tịch tĩnh, trong sáng và thanh tịnh hơn là đạt kiến tánh nhanh chóng mà không được tọa thiền thêm nữa nuôi dưỡng. Đây có phải là phần thưởng an ủi hay là một nghịch lý khác của Thiền mà cần phải có kinh nghiệm ngộ cá nhân mới hiểu được?... Anh ta cả quyết rằng tôi đã đạt được nghị lực và thanh tịnh, mặc dù tôi thấy rất ít bằng chứng.

    Mọi chứng dị ứng của tôi đã biến mất, thỉnh thoảng chỉ còn những cơn đau bao tử, tôi ngủ ngon. Những nỗi sợ hãi đen tối trước kia thường ám ảnh tôi, những mộng tưởng và hy vọng mà tôi thường hằng ấp ủ, tất cả đã tàn lụi, cho tôi nhẹ nhàng hơn, và cảm giác rõ ràng hơn về cái thực. Nhưng tôi vẫn còn là con chó đói bên thùng mỡ đang sôi là ngộ [satori]: Tôi không thể nếm được mà cũng không thể bỏ đi.

    15-11-1956
    Có đáng chiến đấu hay không với cái lạnh và những món ăn ít oi qua một mùa đông dài nữa để chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi? Một số bạn hữu, những tăng nhân trang nghiêm lớn tuổi hơn sẽ sớm từ giã để về chùa riêng của họ. Tôi phải tìm một bậc thầy mà tôi có thể cảm thông một cách dễ dàng hơn bên ngoài bầu không khí căng thẳng của tự viện. Những trực giác như thế đã một lần cho tôi biết cần phải ở lại chùa Phát Tâm, giờ đây cũng báo cho tôi biết đã đến lúc phải từ giã.

    23-11-1956
    Hôm nay rời chùa Phát Tâm mang theo đủ thứ quà tặng và lời khuyên làm tôi mất một thời gian khá lâu. Những lời từ giã ấm lòng làm tiêu tan bất cứ cái lạnh buốt nào còn rơi rớt lại của những mùa đông Obama băng giá ấy.

    25-11-1956
    Lão sư Trung Xuyên dắt tôi đến Lão sư Bạch Vân. “Ông ấy sẽ là một ông thầy tốt cho ông, ông ấy thuộc dòng Lão sư Đại Vân, môn sinh thì chủ yếu là cư sĩ, ông không cần ở lại trong chùa mà có thể ở Kamakura và theo dự các tuần nhiếp tâm của ông ấy ở khu vực Tokyo.”

    03-12-1956
    Dự khóa nhiếp tâm đầu tiên ở ngôi chùa trên núi của Lão sư Bạch Vân. Một địa điểm tọa thiền lý tưởng, xây tổ cao trên vùng đồi cách xa thành phố ồn ào. Một nhóm ít ỏi tám người tham dự, có lẽ vì khóa nhiếp tâm này chỉ có ba ngày và khó mà đạt. Bầu không khí thật đầm ấm tự nhiên. Lão sư cùng ăn với chúng tôi theo kiểu gia đình và thật là một phong cách hấp dẫn: vị godo là một sư cô 68 tuổi, người nấu ăn và chỉ huy tụng kinh là một sư cô 65 tuổi. Họ chia nhau quản lý toàn bộ khóa nhiếp tâm. Mỗi người ngồi và hành động giống như một vị Phật từ bi và trí tuệ.

    Ôi nhẹ nhàng biết bao, không phải bị cây kích trượng dã man thúc đẩy hoặc bị lão sư dùng ngôn ngữ quần cho trong lúc độc tham, việc làm tay chân sau bữa ăn sáng đang kích thích và lần tắm vào buổi chiều thanh thản vô cùng. Hoàn toàn thoải mái với Lão sư Bạch Vân. Phong cách của ông hiền từ nhưng hiểu biết sâu sắc, dễ cười và hay cười.

    Lúc độc tham, ông bảo: “Muốn giác ngộ, ông phải có lòng tin sâu xa, ông phải tin một cách thâm sâu những gì Phật và Tổ tuyên bố từ kinh nghiệm đầu tiên của các Ngài là thực, nghĩa là mọi sự vật, kể cả chúng ta, vốn là Phật tánh; tựa như cái vòng tròn không thể thêm hay bớt, Tự Tánh này không thiếu cái gì hết, nó đầy đủ, hoàn toàn.

    Bây giờ, nếu chúng ta có Phật tánh không tỳ vết này thì tại sao chúng ta lại không biết nó? Nếu mọi sự vật trong thể tánh là trí tuệ và thanh tịnh, tại sao lại có nhiều vô minh và đau khổ ở thế gian?

    Đây là cái khối nghi phải được giải trừ. Nếu ông chỉ tin sâu xa rằng Phật không mê hoặc cũng không lừa dối khi Ngài khẳng định rằng tất cả chúng ta vốn toàn hảo và tự đủ thì ông có thể dò tìm tâm mình một cách không mệt mỏi lời giải đáp cho nghịch lý này.”.

    “Có điều làm tôi bối rối không dứt: ‘Tại sao tôi không đạt được kiến tánh sau ba năm nỗ lực gãy lưng trong khi đó có những người khác lao lực không bao lâu cũng không khó nhọc lại đạt được? Tôi biết một vài người đạt kiến tánh ngay từ buổi nhiếp tâm đầu tiên mà rất ít hay không có tọa thiền gì cả. ’”

    “Có một vài người tâm họ thanh tịnh đến độ họ có thể đạt được chân ngộ mà không có tọa thiền gì cả. Tổ sư thứ sáu, Huệ Năng, là một người như thế. Tổ đã ngộ ngay từ lần đầu tiên nghe tụng kinh Kim Cang và Lão sư Đại Vân có kể lại trường hợp của một thiếu nữ, môn sinh của ông ấy, đã đạt kiến tánh trong lúc nghe các bài giảng nhập môn ngay khi ông ấy vẽ một vòng tròn và tuyên bố vũ trụ là Một, không thể phân ly. Nhưng đại đa số phải tọa thiền không mệt mỏi mới thắng được ngộ.”

    “Bây giờ đừng lo lắng gì về ngộ, vì lo lắng như thế có thể trở thành chướng ngại thực sự. Khi bước vào thế giới của kiến tánh, ông mang theo - có thể nói ví như vậy - thành quả của tất cả những nỗ lực của mình và điều ấy sẽ quyết định phẩm chất của nó, do đó sự kiến tánh của ông do tọa thiền đem lại sẽ sâu rộng hơn.Trong đa số các trường hợp, kiến tánh đạt được nhanh chóng thường nông cạn.. .Hãy nhiệt tâm tọa thiền và Tự chứng ngộ sẽ tự chăm sóc nó.”

    Một lần khác ông dạy: “Phật giáo Thiền đặt căn bản trên giáo lý vô thượng của Phật Thích-ca Mâu-ni. Ở Ân độ chính nơi sinh của đức Phật, thực tế Thiền không còn hiện hữu nữa, và như chúng ta đã biết nó cũng đã tắt hẳn ở Trung quốc, nơi nó được Bồ-đề Đạt-ma mang từ Ân độ đến. Chỉ ở Nhật bản là nó vẫn còn sống, mặc dù nó đang trên đà từ từ xuống dốc. Ngày nay, có lẽ không có đến mười bậc chân sư trên toàn nước Nhật. Giáo lý có một không hai này không nên để mất hẳn, nó phải được truyền sang phương Tây. Những tâm hồn lớn ở Hoa kỳ và châu Âu đã quan tâm đến Phật giáo vì không những nó kêu gọi trái tim mà nó còn kêu gọi cả khối óc nữa. Phật giáo là một tôn giáo hợp lý nổi bật.”

    “Thiền mà ông biết bằng kinh nghiệm riêng của ông không phải dễ, nhưng những phần thưởng nó đem lại tương xứng với những khó khăn ấy. Hãy nhớ Bồ-đề Đạt-ma đã phải trải qua hết khó nhọc này đến khó nhọc khác, và cả Vinh Tây lẫn Đạo Nguyên, những người mang Thiền từ Trung quốc về Nhật bản, cũng đã vượt qua vô số chướng ngại. Mọi sự vật có giá trị đều có giá cao. Định mệnh của ông là mang Thiền về phương Tây. Đừng lùi bước hay bỏ cuộc dù đau đớn hay khó nhọc.”

    27-07-1958
    Mùng một tháng tám là ngày khai đại chiến của tôi, khởi đầu tuần nhiếp tâm mùa hạ lần thứ hai mươi của tôi với Lão sư Bạch Vân. Tháng này ngồi hai khóa nhiếp tâm, một tại chùa Lão sư Bạch Vân và một tại chùa Long Trạch, ngoài ra còn ngày đêm tọa thiền ở phòng riêng, chuẩn bị cho cái Đẩy Lớn này. Tâm tôi có sự rõ ràng và sắc bén hiếm có. Tôi phải, tôi sẽ chọc thủng.Lần đầu tiên tôi tin mình có thể.

    01-08-1958
    Nhiếp tâm đang tiến tới! Sự tập trung của tôi nhanh chóng lên cao mạnh mẽ. Nhập vào Mu, chỉ nghĩ Mu, thở Mu.

    03-08-1958
    Hai ngày đầu qua nhanh, bình thường.

    04-08-1958
    Hôm nay đạt đến độ nóng bốc khói trắng. Các vị trưởng tràng thỉnh thoảng đánh tôi. Cây gậy đầy sức mạnh của họ vung lên không còn là sự quấy rầy nữa mà là sự thúc giục. Chạy đua với từng tiếng chuông độc tham để là người đầu tiên gặp lão sư. Khó mà thấy đau ở chân. Quá hăng hái đối mặt với lão sư đến nỗi đã một hai lần xông vào phòng độc tham không chờ báo hiệu. Khi ông bảo tôi chỉ Mu, tức khắc tôi cầm lấy chiếc quạt của ông phe phẩy quạt mình, nhặt lấy cái chuông tay của ông rung lên rồi bỏ đi.

    Đến lúc độc tham lần kế, Lão sư lại hỏi về Mu. Lập túc tôi giơ tay lên như sắp tát ông. Sự thực không có ý định đánh ông, nhưng lão sư không nắm được cơ hội, né tránh. Ôi sống động làm sao những cử động không suy nghĩ trước này, trong sáng và tự do..

    Lão sư linh hoạt cảnh cáo: “Bây giờ ông đang đối mặt với cửa ải cuối cùng và kiên cố nhất giữa ông và Tự chứng ngộ. Đây là lúc người ta cảm thấy, nói theo một bậc sư ngày xưa, mình như con muỗi tấn công con trâu sắt. Nhưng ông phải đục khoét, đục khoét không mệt mỏi... Dù gì đi nữa, cũng đừng để mất Mu. Hãy tọa thiền suốt đêm nếu cảm thấy mình có thể mất Mu trong giấc ngủ.”

    “Mu âm vang” lặng lẽ trong vườn chùa cho đến khi đồng hồ điểm một giờ. Đứng lên tập thể dục cho chân bớt cứng đơ và đau, đi cà nhắc đến hàng rào kế bên. Bỗng nhiên tôi nhận ra hàng rào và tôi là một cái Mu bằng gỗ và thịt vô hình. Dĩ nhiên!... Nhờ vậy mà năng lực vô biên. Tiếp tục đẩy tới cho đến khi có tiếng chuông bốn giờ sáng.

    05-08-1958
    Không có ý định nói với lão sư về nội kiến của mình, nhưng ngay khi vừa đến trước ông, ông liền hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra tối hôm qua?” Trong khi tôi nói, đôi mắt sắc bén của ông chiếu quang tuyến X từng chút một nơi người tôi, rồi ông từ từ hạch hỏi: “Ông thấy Mu ở đâu? Ông thấy Mu thế nào? Mu bao nhiêu tuổi? Mu có màu gì? Mu có âm thanh gì? Mu cân nặng bao nhiêu?...”

    Một vài câu đáp của tôi đến một cách nhanh chóng, một vài câu ngập ngừng, một vài lần lão sư mỉm cười, nhưng hầu hết ông im lặng lắng nghe.

    Rồi ông bảo: “Có một vài lão sư có thể ấn chứng cho một cái nếm ở chót lưỡi như thế là kiến tánh, nhưng ---” “Tôi sẽ không chấp nhận sự ấn chứng cho một kinh nghiệm nửa xu như thế dù cho thầy có muốn ban cho. Có phải công phu khó nhọc như núi của tôi trong năm năm nay chỉ đem lại con chuột nhắt này? Tôi sẽ tiếp tục!”

    “Tốt, tôi kính trọng tinh thần của ông.”

    Lao mình vào Mu chín tiếng đồng hồ nữa với sự thấm nhập trọn vẹn đến độ tôi hoàn toàn biến mất. Tôi không ăn sáng, Mu ăn. Tôi không ăn trưa, Mu ăn. Một vài lần ý nghĩ về ngộ bắt đầu ngóc dậy, nhưng Mu lập tức chém ngay.

    Thỉnh thoảng các vị trưởng tràng đánh tôi, la lên: “Chiến thắng là của ông, nếu ông không để mất Mu!”

    Độc tham chiều! Như con chim ưng, lão sư quan sát tôi rất kỹ khi tôi vừa bước vào phòng tiến về phía ông, quì lạy và ngồi trước ông với tâm cảnh trực và phấn khởi.

    “Vũ trụ là Một,” ông bắt đầu, mỗi tiếng ông nói phóng vào tâm tôi như một viên đạn. “Mặt trăng Chân lý.” thình lình Lão sư, căn phòng, mọi sự vật biến mất trong một dòng ánh sáng chói ngời và tôi thấy mình tắm trong trong niềm hân hoan dịu ngọt, không thể nói được.

    Trong vĩnh cửu thoáng hiện; tôi độc hữu.Rồi lão sư bơi vào trong thị kiến. Mắt chúng tôi gặp nhau, chảy vào nhau, rồi chúng tôi phá ra cười...

    “Tôi có nó. Tôi biết! Không có gì, tuyệt đối không có gì! Tôi là mọi vật và mọi vật không là gì hết!” tôi kêu lên với chính mình hơn là với lão sư và đứng dậy bước ra.

    Lúc độc tham tối, lão sư lại đưa ra một số câu hỏi cũ và thêm vài câu mới: “Ông sinh ở đâu? Nếu phải chết bây giờ, ông sẽ làm gì?...” Lần này những câu trả lời của tôi rõ ràng làm ông hài lòng vì ông thường mỉm cười, nhưng tôi không chú ý vì bây giờ tôi đã biết.”

    “Mặc dù sự kiến tánh của ông đã rõ ràng - lão sư giảng giải - ông có thể phát triển nó sâu rộng đến vô cùng.”

    “Có nhiều mức độ kiến tánh. Hãy lấy thí dụ hai người cùng nhìn một con bò, một người đứng ở đằng xa và một người đứng gần bên. Người đứng xa nói: “Tôi biết nó là con bò, nhưng tôi không biết nó màu gì.” Người đứng gần nói một cách rành mạch: “Tôi biết nó là con bò nâu.”

    “Do đó, việc ông tiến tới các công án sẽ khác nhau,” lão sư nói và giảng giải cách tu tập sắp tới cho tôi.

    Trở lại chánh điện. Khi tôi lén trở về chỗ ngồi, Bà lão Yamaguchi, vị godo bán-thời-gian của chúng tôi, rón rén tới bên tôi với đôi mắt sáng ngời, thì thầm: “Kỳ diệu lắm, phải không? Tôi rất sung sướng vì ông!” Tôi bắt đầu tọa thiền trở lại, cười, khóc và thì thầm với chính mình: “Xưa nay nó vẫn ngay trước mình, song mình phải mất năm năm mới thấy nó.”

    Một câu nói mà Tangen-san đã có lần trích dẫn giờ đây vang lên bên tai tôi: “Đôi khi người ta có thể tìm thấy nước trong cái hang khô rốc nhất.”

    09-08-1958
    Cảm thấy tự do như con cá đang bơi trong đại dương nước trong mát sau khi bị dính chặt trong thùng keo. Và rất biết ơn.

    Biết ơn mọi sự đã xảy đến với tôi, biết ơn mọi người đã khuyến khích và chịu đựng tôi bất chấp nhân cách ấu trĩ và tính bướng bỉnh của tôi.

    Nhưng hơn hết là biết ơn hình hài con người của tôi, vì nhờ ưu thế là con người mà biết được Niềm Vui này, không giống như những loài khác.


    (19) Đan Hà (Tanka - 824), một Thiền sư đời nhà Đường, là môn đệ của Mã Tổ, câu chuyện bất ngờ về việc sư chẻ tượng Phật bằng gỗ dùng làm củi để sưởi ấm khi trời tuyết lạnh đã được trích dẫn rộng rãi và thường bị hiểu lầm.
    (20) Làm cho hết ý niệm về Phật như là đối lập với phàm nhân, tự loại bỏ ý tưởng cho rằng Phật là Thượng đế hay siêu nhân, phá sạch ngã mạn vi tế phát xuất từ kiến tánh và đưa người ta đến chỗ nghĩ rằng: “Giờ đây ta là Phật.” Đây gọi là giết Phật.
    (21) “Hãy súc miệng ngay khi vừa nói chữ Phật,” là một câu nói khác của Thiền cũng bị hiểu lầm rất nhiều. Nó phát xuất từ trường hợp thứ 30 của Vô Môn Quan, trong lời bình của Vô Môn: “Người thật hiểu sẽ súc miệng ba ngày khi thốt ra tiếng Phật.” Điều này không liên hệ gì đến con người của Phật Thích-ca Mâu-ni mà chỉ liên hệ đến Phật tánh hay Phật tâm. Mọi sự vật tự nó đầy đủ và toàn hảo. Cây gậy là cây gậy, cái xẻng là cái xẻng, cứ dùng cái xẻng tức khắc bạn sẽ biết cái tính xúc của nó theo lối trực tiếp và cơ bản. Nhưng bảo nó là Phật hay Phật tâm, và bạn không cần “làm mất phẩm giá của nó,” tức là bạn thêm vào tiếng “xẻng” một ý niệm nữa.
    (22) Lão sư Gempo Yamamoto, lúc ấy đã về hưu.
    (23) Agura: từ tiếng Nhật, chỉ tư thế ngồi xếp chân không chặt [ngồi xếp bằng], không phải bán già hay kiết già. Seiza: túc tọa, tư thế ngồi cổ truyền Nhật bản, lưng thẳng và mông đặt trên hai gót chân. Hanka: từ tiếng Nhật chỉ tư thế bán già.
    (24) Mục Khê (Nh. Mokkei, H. Mu-chi) là một Thiền tăng họa sĩ vĩ đại Trung quốc sống vào thế kỷ thứ 10. Đa số các họa phẩm cửa ông ở Nhật bản là bảo vật quốc gia.
    (25) Takuhatsu, từ tiếng Nhật, tức thác bát: bưng bát xin ăn. Một hình thức tọa thiền di động.
    Last edited by chieclavotinh; 08-15-2021 at 03:31 AM.

  5. #85
    https://vietbao.com/images/file/Bd4i...book-cover.jpg

    Đọc The Way of Zen in Vietnam (Thiền Tông Việt Nam) của Nguyên Giác
    Thiện Quả Đào Văn Bình

    Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang.

    Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.

    Nếu chúng ta chỉ viết bằng tiếng Việt thì chỉ có người Việt Nam đọc mà thôi. Thậm chí giới trẻ hải ngoại ở tuổi bốn mươi, năm mươi (sinh năm 1975 và sau đó) đều không đọc được tiếng Việt. Ngay con gái tôi sinh năm 1973, nói tiếng Việt rất rành, nhưng khi khi muốn nhắn gì bằng chữ qua điện thoại hoặc viết thư thì phải viết bằng tiếng Anh. Sách Phật cũng phải cho cháu sách tiếng Anh. Sự thực nó tức cười như vậy đó. Trong một gia đình mà phải sử dụng hai ngôn ngữ. Đó là lý do tại sao chúng ta có cả mấy trăm ngôi chùa ở hải ngoại nhưng không thu nạp được Phật tử Hoa Kỳ chỉ vì các tăng/ni không có khả năng viết sách hoặc thuyết pháp bằng tiếng Anh.

    Một trong những luận điểm mà tôi rất tán đồng trong cuốn sách này khi cư sĩ Tâm Diệu viết trong phần giới thiệu, “Thiền tông Việt Nam chiếm một vai trò trọng yếu trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam nói riêng và trong lịch sử nước nhà nói chung, là một sự thật mà ai nấy đều công nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có người nói tư tưởng Thiền tông Việt Nam thoát thai từ tư tưởng Thiền tông Trung Hoa, nhưng khi qua Việt Nam, Thiền tông Việt Nam hòa đồng với văn hóa Việt và đồng hành cùng dân tộc việt, tạo nên một sắc thái riêng rất Việt Nam. Thế nhưng theo nghiên cứu của GS. Lê Mạnh Thát, Phật Giáo được truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ hai và thứ ba từ Ấn Độ rất sớm, trước cả Trung Hoa với các thiền sư Mâu Tử và Khương Tăng Hội. Mãi cho đến thế kỷ thứ sáu Thiền tông Trung Hoa mới được truyền sang Việt Nam với thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi.”

    Quả thật vậy. Những câu nói như “cửa Thiền”, “Thiền môn”, “mùi vị Thiền” trong dân gian, lưu truyền trong văn chương cho thấy Thiền đã đi vào đời sống tâm linh của các nhà tu hành đã đành, mà cả các bậc sĩ phu của dân tộc nữa. Dưới thời Đinh-Lê, Lý, Trần và Hậu Lê các vị tu hành đều được gọi là Thiền Sư.

    Tác giả chia sách này ra làm 10 phần. Mỗi phần đưa ra một số Thiền sư tiêu biểu và một số nét đặc thù của vị Thiền sư này. Dưới các bài kệ tụng, tác giả đều có lời chú giải, trích dẫn kinh điển Nam-Bắc truyền và lời bình chú của chư tổ Trung Hoa liên hệ đến sinh mệnh của Thiền, nhưng khiêm tốn nói rằng đó chỉ là “ghi nhận”. Để có đầy đủ tài liệu tham khảo, tác giả đã bày tỏ lòng cám ơn tới các vị như Thiền Sư Thích Thanh Từ, GS. Lê Mạnh Thát, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, tỳ kheo Nguyễn Thế Đăng (huynh đệ với tác giả). Hầu hết các bài kệ đều trích dẫn từ sách của HT. Thích Thanh Từ.

    Phần I:

    Tác giả nói về Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), Trần Nhân Tông ((1258-1308), Khương Tăng Hội (???-280), Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (???-594), Vô Ngôn Thông (???-826), Ni Sư Diệu Nhân (1041-1113), Vạn Hạnh (938 - 1018), Viên Chiếu ((999-1090) và Định Hương (???-1051).

    Vì mỗi Thiền sư đều để lại một số bài kệ tụng bày tỏ sự chứng ngộ của mình cho nên do giới hạn của bài viết tôi không thể hài ra tất cả mà chỉ trích dẫn một số kệ tụng nổi tiếng và cũng để xem khả năng dịch thuật Anh Ngữ của tác giả:

    Advising People To Enter The Way
    (Khuyên Đạo Vào Đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ)
    Then spring now autumn, the four seasons revolve.
    Then young now old, you see the hair turn white.
    Then wealth and nobility, now a long dream.
    Years and months go by, carrying ten thousand pecks of sorrow.
    In the path of suffering, the wheel of rebirth rolls endlessly.
    In the river of passion, we swim like bubbles forming and popping.
    Now coming to the right place to learn the Way,
    why don’t you touch your nose?
    See that this is your very good chance of a million lifetimes.

    Và bài kệ nổi tiếng của Trần Nhân Tông và cũng là tiêu biểu cho Thiền Phái Trúc Lâm

    The Treasure
    (Kho Báu)
    Living in the world, happy with the Way, you should let all things take their course.
    When hungry, just eat; when tired, just sleep.
    The treasure is in your house; don’t search anymore.
    Face the scenes, and have no thoughts; then you don’t need to ask for Zen.
    (Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)

    Rise And Decline
    (Thịnh Suy của Vạn Hạnh)
    The human body is like a lightning flash, appearing then disappearing.
    All trees bloom in the spring, then decay in the autumn.
    Live accordingly with this rise and decline, and have no fear.
    The rise and decline – just like a drop of dew on a blade of grass.
    (Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)

    Phần II

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Đạo Hạnh (???-1115), Thuần Chân (???-1101), Huệ Sinh (??? – 1063), Ngộ Ấn (1019- 1088), Mãn Giác (1052-1096), Ỷ Lan (1073-1117), Giới Không (Khoảng Thế Kỷ XII), Đạo Huệ (??? – 1172) và Bảo Giám (???-1173)

    Sau đây tôi xin trích ra một vài bài kệ tụng nổi tiếng.

    Existance and Nonexistence
    (Hữu-Không của Đạo Hạnh)
    Existence – there you see all things existing.
    Nonexistence – there you see all things vanishing.
    Existence and nonexistence are just like the underwater moon.
    Cling to neither existence nor nonexistence.
    (Hữu không như thủy nguyệt. Vật trước hữu không không).

    Trong bước đường tu hành, khi nào hành giả không trụ vào Có (hữu) mà cũng không trụ vào Không (không có) thì đắc quả. Thấy một sự kiện mà mình nói “Có đó” hoặc “Có gì đâu?” thì rớt ngay vào vô minh và sinh tử luân hồi. Theo Viên Giác, muôn vật (vạn pháp) đua nhau xuất hiện, loạn sinh ra rồi loạn diệt mất do vô minh và do duyên khởi, do đó không thể nói Có và cũng không thể nói Không. Khi không chấp Có, không chấp Không thì tâm an trụ hay định, đó là chỗ chứng đắc của Thiền sư.

    The Spring
    (Mùa Xuân của Mãn Giác)
    When spring goes, all flowers die.
    When spring comes, all flowers smile.
    In front of the eyes, all things flow endlessly.
    Old age comes already over my head.
    Don’t say that with the spring gone, all flowers fall.
    Last night, in the front yard, a branch of mai.
    (Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Tiền đình tạc dạ nhất chi mai).

    Bài thơ này được các nhà bình luận cho rằng cái thi vị của Thiền ở chỗ chẳng có gì đáng tiếc hay đáng buồn. Vạn sự rong ruổi qua đi, chẳng có cái gì diệt mất, hãy nhìn nó như thế và hãy vui.

    Wisdom
    (Trí Tuệ của Bảo Giám)
    To learn the way of Buddha, you must have zeal;
    to become a Buddha, you need wisdom.
    To shoot a target with an arrow from more than a hundred steps away, you must be strong;
    to hit the mark, you need more than strength.

    Lời dạy đáng ghi nhớ của Thiền sư ở đây là,”Muốn thành Phật phải dùng trí tuệ”. Xa lìa trí tuệ thì đừng mong thành Phật.

    Phần III

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Bổn Tịnh (1100 – 1176), Khương Tăng Hội (???-280), Thiền Sư Trí (Khoảng thế kỷ thứ X hay XI), Tịnh Lực (1112 – 1175), Hương Hải (1628 – 1715), Quảng Trí (Khoảng thế kỷ XVIII) và Khương Tăng Hội (???-280).

    Sau đây tôi xin trích ra một vài bài kệ tụng nổi tiếng.

    Breathing
    (Thở của Khương Tăng Hội)
    Breathing in, you feel you are breathing in;
    breathing out, you feel you are breathing out.
    Breathing in, you know you are breathing in;
    breathing out, you know you are breathing out.
    While you breathe, you feel; then, you know.

    Thở
    Hơi thở ra, hơi thở vào tự hiểu,
    hơi thở ra, hơi thở vào tự biết.
    Đương lúc ấy là hiểu, về sau là biết.
    Hiểu là hiểu hơi thở dài ngắn.
    Biết là biết hơi thở sinh diệt thô tế chậm nhanh.
    (Bản dịch TT. Trí Siêu Lê Mạnh Thát).

    Trong phần Ghi Nhận, tác giả nói rằng, “Pháp thiền niệm hơi thở giúp tịnh tâm dễ dàng; nó cũng là một phần của thiền quán niệm.”

    Watchfull
    (Thẩm Sát của Hương Hải)
    Watch yourself every day, constantly.
    Watch yourself, be mindful, be alert.
    In this dream world, don’t search for a Dharma counselor;
    Watch yourself, and see the Buddha’s face on your face.

    Đã từ lâu, có lẽ từ 1980, tôi rất thích thú với bốn câu kệ này:

    Phản văn tự kỷ mỗi thường quan.
    Thẩm sát tư duy tử tế khan.
    Mạc giáo mộng trung tầm tri thức.
    Tương lai diện thượng đổ sư nhan.

    Đừng mơ mộng rồi chạy lung tung để tìm Phật. Hãy trực chỉ nhân tâm mà suy nghĩ rồi sẽ thấy ông thầy (ông Phật) hiện ra ngay trên đầu mình.

    Bạn Đạo (Dharma Friend)

    Ai nói rằng tu hành không cần bạn đạo, không cần tăng/ni đoàn và có thể tu một mình xin hãy đọc kệ tụng của Thiền sư Quảng Trí (khoảng thế kỷ XVIII).

    Vì vậy tu hành cần có bạn, mới phân biệt rõ ràng sạch và dơ.
    Một là bạn bè ở chốn rừng núi an nhàn thì có thể giúp làm ngưng cái tâm nóng nảy.
    Hai là bạn nghiêm trì giới luật thì có thể làm phai nhạt ngũ dục.
    Ba là bạn có trí tuệ rộng lớn mới có thể giúp ra khỏi bến mê.
    Bốn là học hành uyên bác mới có thể giải quyết những điều khó khăn nghi ngại.
    Năm là bạn trầm tĩnh, mặc nhiên mới giúp thanh thản, tiến thủ được.
    Sáu là hạng khiêm tốn, nhẫn nhục thì giúp tiêu trừ ngã mạn.
    Bảy là hạng bạn lòng thẳng, nói ngay mới có thể ức chế được các lỗi lầm.
    Tám là bạn đồng dũng mãnh, tinh tấn, mới giúp thành được đạo quả.
    Chín là hạng xem thường của cải, thích bố thí mới giúp phá được tính keo kiệt, bỏn xẻn.
    Mười là bạn nhân từ che chở cho muôn vật mới giúp đuổi trừ được sự chấp ta chấp người.
    (Bản dịch Cư sĩ Trần Đình Sơn)

    Present (Hiện tại, ngay bây giờ) của Khương Tăng Hội)

    Kệ tụng này được GS. Lê Mạnh Thát phiên dịch và tác giả đã chú giải như sau,” Có ba thời-quá khứ, hiện tại và tương lai; tuy nhiên, thời gian không hiện hữu với người chứng đắc Niết bàn, bước qua khỏi vòng sinh và tử. Thời gian hiện hữu cho người bơi trong dòng sông của tham, sân, si. Thời gian không hiện hữu cho người nhìn thấy không có một tự ngã nào trong bất kỳ hiện tượng nào, người ngày và đêm nhận ra rằng họ chỉ là một tập hợp rỗng đang trôi chảy bao gồm sắc thân, cảm thọ, tưởng, hành và thức. Buông bỏ mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và vị lai, bạn sẽ thấy toàn thân và tâm chỉ là rỗng không vô tự tánh, và thời gian sẽ biến mất.

    Not Two Things (Không Hai Pháp) của Thiền sư Cứu Chỉ (Khoảng thế kỷ XI)

    Khi bắt đầu tu tập, bắt đầu nhập môn thì thấy có phiền não-bồ đề, thấy có Phật-chúng sinh, đúng-sai, phải-trái, thấy có sinh-diệt, thấy có trước-sau, pháp và phi pháp…Nhưng khi chứng đắc rồi thì tất cả chỉ là Một (bất nhị).

    Phần IV

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Trí Huyền (Thế kỷ XII), Thông Biện (???-1134), Khuông Việt (933 - 1011), Chân Không (1045-1100) và Bảo Giác (khoảng thế kỷ XII),

    Sau đây là một kệ tụng của Thiền sư Khuông Việt:

    Fire
    There is the fire in the wood.
    The fire is there, then the fire is born.
    If you say the wood has no fire,
    how could you make fire by friction?

    Trong cây sẵn có lửa,
    Có lửa, lửa lại sanh.
    Nếu bảo cây không lửa,
    Cọ xát làm sao sanh?

    Theo tác giả, “Trí tuệ nhận ra Tánh Không trong tất cả các pháp được gọi là Phật Tánh hay còn gọi là lửa trong gỗ, như các Thiền sư thường gọi.”

    Phần V

    Trong phần này tác giả nói tới Thiền sư Giác Hải (Thế kỷ 11-12), Minh Trí (???-1196), Nguyện Học (???-1174), Quảng Nghiêm (1121-1190), Thường Chiếu (???-1203), Y Sơn (??? - 1213), Khánh Hỷ (1066-1142), Hiện Quang (???-1221), Huyền Quang (1254-1334) và Thông Vinh (Thế kỷ 19),

    Trong phần này tôi xin trích dẫn một bài kệ thật ghê gớm của Thiền Sư Quảng Nghiêm:

    After arising from the cessation state, you can discuss the cessation.
    After attaining the unborn state, you can speak about the unborn.
    Being a human being, you should have a firm resolve as high as the sky;
    Don’t step on the old footprints of the Buddha.

    Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt,
    Được vô sanh, sau nói vô sanh.
    Làm trai có chí xông trời thẳm,
    Chớ giẫm Như Lai vết đã qua.

    Bài kệ này Thiền sư muốn nói rằng mình làm trai ý chí nghiêng trời đất thì phải tu thành Phật chứ tại sao lại cứ đi theo Phật, thờ Phật mãi? Có lẽ Thiền sư đã thành Phật rồi cho nên mới dám nói như thế này.

    Phần VI

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726), Thông Thiền (???-1228), Như Trừng Lân Giác (1696- 1733), Tường Quang (1741-1830), Thạch Liêm (khoảng thế kỷ 17), Phổ Tịnh (khoảng thế kỷ 19), Tịnh Không (???-1170) và Đạo Huệ (khoảng 1190),

    Trong phần này tôi xin trích dẫn một bài kệ của Thiền Sư Tường Quang lượng giá việc tu hành.

    The Highest
    The highest person practices the unconditioned dharmas.
    The second-ranked person cultivates both merit and wisdom.
    The third-ranked person does good and avoids evil.
    The fourth-ranked person is a superior scholar of the Three Baskets of Buddhist Scriptures.

    Người bậc nhất tu pháp vô vi
    Người bậc nhì phước tuệ đầy đủ
    Người bậc ba làm thiện chừa ác
    Người bậc tư tam tạng tinh thông

    Theo như Thiền sư thì thông hiểu kinh điển, thuyết giảng, phát hành cả trăm băng đĩa nhưng vẫn chỉ là “hạng tư” còn thua cả người tu phước làm lành lánh dữ.

    Phần VII

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Tín Học (???-1190), Trần Thái Tông (1218 - 1277), Hải Quýnh (1728 - 1811), Đại Xả (1120 - 1180) và Tông Diễn (1640 - 1711).

    Tôi xin trích dẫn một vài kệ tụng của các Thiền sư:

    Not For Profit
    (Không Vì Lợi của Thiền sư Tín Học)
    To make a profit leads to implanting a desire.
    To have a desire leads to craving a profit.
    A bodhisattva doesn’t do anything for profit or for desire.
    Not for profit and not for desire, the bodhisattvas act.

    Có lợi ắt có nhiễm, có nhiễm ắt có lợi;
    có lợi có nhiễm Bồ-tát chẳng làm;
    không lợi không nhiễm, Bồ-tát mới làm.

    Khi tâm mình bị nhiễm ô thì mình làm việc vì lợi kể cả làm việc thiện. Khi tâm mình trong trắng thì làm việc vô vị lợi.

    Còn về Trấn Thái Tông, tác giả trích dẫn sách sử kể rằng trong khi đọc tới dòng chữ "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ Kinh Kim Cương, Trần Thái Tông hốt nhiên hiểu về Thiền Đạo. Về sau, Trần Thái Tông dùng công án Thiền để dạy môn đệ. Sách "Khóa Hư Lục" của ngài có một chương, trong đó liệt kê 43 công án với chú giải riêng (niêm và tụng) để hướng dẫn Thiền sinh về cách học, thực tập và đốn nhập vào cửa không cửa (Vô Môn Quan).

    Nothing Attainable
    (Vô Sở Đắc của Thiền sư Hải Quýnh)
    All things are formless,
    unborn, undying.
    Thus, there is nothing attainable.
    Thus, truly the Buddha spoke.

    Các pháp không tướng
    Chẳng sanh chẳng diệt
    Bởi không chỗ được (đắc)
    Là thật Phật nói.

    Bài kệ này nói đúng lời dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh “Vô trí diệc vô đắc”.

    Về Thiền sư Tông Diễn, theo tài liệu của Thiền Viện Thường Chiếu, “Vào năm 1678, Vua Lê Hy Tông vì không hiểu Đạo Phật đã cho đày tất cả tăng ni vào rừng núi. Sư rất đau lòng, quyết tâm về kinh đô thuyết phục vua. Sau bao gian khổ và mưu trí tuyệt vời, Thiền sư đã gặp được vua và dâng lên hòn ngọc quý. Hòn ngọc quý này là tờ biểu tấu giấu trong chiếc hộp kín. Sau khi đọc xong tờ biểu, vua chợt hiểu về Đạo Phật rồi phán, “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.”

    Sau đó vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung Sứ đến nói với vua thỉnh Sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe thấu hiểu đạo lý, liền ban cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chánh pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để Tăng Ni tự ý trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa. Đề bày tỏ sự hối hận của mình vua cho tạc bức tượng bằng gỗ Phật ngồi trên lưng vua hiện còn trưng bày tại Chùa Hòe Nhai.

    Thiền sư Tông Diễn đúng là vị thánh tăng hy hữu, có một không hai. Ngài chính là Tự Tại Vương Bồ Tát hóa thân.

    Phần VIII

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Tịnh Giới (??? - 1207), Pháp Loa (1284 - 1330), Tính Tuyền (1674- 1744), Thanh Đàm (Thế kỷ 19), Nguyện Học (???-1174), Đại Xả (1120 - 1180), Trường Nguyên (1110 - 1165) và Thủy Nguyệt (1637 - 1704).

    Sau đây là một bài kệ của Thiền sư Tính Tuyền:

    Dharma Heir
    One who understands that the Great Way has no words,
    will enter the gate of non-duality,
    and complete the countless teachings.
    Who will be that future dharma heir?

    Đạo cả không lời
    Vào cửa chẳng hai
    Pháp môn vô lượng
    Ai là kẻ sau.
    (Bản dịch của HT. Thích Thanh Từ)

    Khi bạn không còn gì để nói nữa, khi tâm bạn trống không giống như tác giả luận bàn, “Bạn biết bầu trời mênh mông bao trùm cả hai trạng thái Có và Không Có. Và bạn biết bầu trời đó, vốn là cái Không mênh mông, vẫn bất động bất kể mây hiện và tan. Bầu trời luôn luôn ở trạng thái bất nhị. Bầu trời biểu tượng cho tâm bạn, và các đám mây biểu tượng các trạng thái ý thức.” thì bạn chính là kẻ nối pháp, tiếp dòng sinh mệnh của Thiền.

    Phần IX

    Trong phần này tác giả nói về Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334), Liễu Quán (??? - 1743), Y Sơn (???- 1213), Viên Học (1073 - 1136) và Nguyên Thiều.

    Dưới đây là một kệ tụng của Thiền Sư Huyền Quang:

    Mountain Temple
    (Chùa Núi/Sơn Tự)
    The night is calm, and an autumn wind breezes by the veranda.
    The mountain temple leans quietly on tree shadows.
    Zen is done, and the mind becomes the oneness.
    The crickets chirp; for whom is the sound?

    Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài
    Chùa núi im lìm gối cỏ may
    Đã được thành thiền tâm một khối
    Rè rè tiếng dế gọi kêu ai?

    Qua bài kệ này chúng ta thấy đời sống của sư như một ông Tiên hay Bồ Tát ẩn tu.

    Rồi một bài kệ của Thiền sư Nguyên Thiều:

    The Serene Mirror
    (Gương Lặng Lẽ)
    Serene, serene – that mirror has no shades.
    Luminous, luminous – that diamond has no features.
    Clearly, clearly – it is something, and it is not anything.
    Tranquil, tranquil – it is emptiness, and it is not emptiness.

    Lặng lẽ gương không bóng
    Rỡ rỡ châu chẳng hình
    Rõ ràng vật phi vật
    Vắng vẻ không chẳng không.

    Bài kệ này làm hiển lộ lý Sắc-Không. Gương có hình mà chẳng có hình. Hạt minh châu chiếu muôn vẻ nhưng có chứa gì đâu?

    Phần X

    Trong phần này tác giả nói về:

    Zen (Thiền)
    Bodhi (Bồ Đề) của Thiền sư Pháp Loa
    The Great Way (Đại Đạo) của Thiền sư Pháp Loa
    Song Of The Buddha Mind (Phật Tâm Ca) của Tuệ Trung Thượng Sĩ
    Living Amid Dust And Enjoying The Way (Cư Trần Lạc Đạo) của Trần Nhân Tông.

    Thay Lời Kết:

    Thiền làm cho Phật giáo sống động, cho thấy Phật Giáo là gì qua hình ảnh của các Thiền sư, khác biệt với những tôn giáo khác chỉ trụ vào cầu nguyện và nghi thức cúng tế. Thiền Việt Nam là linh hồn, là hình ảnh thực của Phật Giáo Việt Nam ít nhất 16 thế kỷ qua. Thiền vượt lên trên ngôn từ, kinh điển nhưng không có kinh điển nào qua Thiền. Thiền gom tất cả kinh điển vào mình nhưng không hề nói một câu, một chữ trong kinh.

    Thú thực, tìm hiểu về Thiền lúc tôi nào cũng cảm thấy thong dong, thích thú. Hầu hết các tôn giáo đều bị trói buộc trong tín điều, lễ nghi, cung kính và nhiểu khi sợ hãi. Thế nhưng lạc vào Thiền chúng ta thấy có chút thi vị, thích thú, không câu nệ, giản dị. Khi nói về Thiền tôi luôn luôn kính trọng các Thiền sư, nhất là chư Tổ.

    Đây là cuốn sách vô cùng quý báu mà tác giả đã bỏ bao công sức nghiên cứu, tổng hợp, bình chú rồi phiên dịch qua Anh Ngữ không ngoài mục đích để giới thiệu dòng Thiền Việt Nam, qua đó thế giới có thể biết về Phật Giáo Việt Nam thay vì họ chỉ biết đến Phật Giáo Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện…Nghe nói tác giả đã gửi biếu 35 cuốn sách tới các nhà chuyên môn điểm sách Hoa Kỳ với hy vọng họ sẽ đọc và giới thiệu tới độc giả hoặc các đại học. Xin quý thiện tri thức tiếp tay phổ biến cuốn sách này.

    Quý vị có thể đọc sách tại Thư Viện Hoa Sen hay đặt mua tại Amazon hoặc liên lạc với tác giả qua địa chỉ điện thư: nguyengiac@gmail.com . Xin trân trọng giới thiệu.

    Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát,

    Thiện Quả Đào Văn Bình
    Last edited by chieclavotinh; 10-24-2021 at 02:43 AM.

  6. #86
    Biệt Thự Triển's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    27,365


    Khiếm khuyết duy nhất trong vấn đề vệ sinh thời nay ở cái khẩu trang.
    Quý Phật tử làm công quả ở chùa đeo "thủ trang", nhưng khẩu trang
    thì không đeo. Khi nấu ăn, đứng trước các món ăn, nói chuyện phun phèo
    phèo vào đồ ăn thấy hơi ngại.

    Ban trị sự các chùa nên lưu ý, đừng khiến chùa chiền bỗng nhiên trở thành .... ổ dịch,
    thì việc hoằng dương đạo pháp, Phật sự mới có được "sự lợi lạc".



    http://dtphorum.com/pr4/signaturepics/sigpic726_7.gif Puck Futin

  7. #87
    Nhà Lầu
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    371
    Hy vọng chùa loại bỏ các món ăn có trứng. Một năm kia khi tôi tới chùa trong một chuyến hành hương, chùa nấu một nồi trứng kho tàu cho khách thập phương ăn. Hỏi vì sao lại ăn trứng. Câu trả lời đơn giản...trứng công nghiệp mà...các thầy cũng ăn trứng mà
    Nhu cầu ăn uống đã làm mờ cái lý do vì sao không nên ăn trứng.

  8. #88
    Biệt Thự Triển's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    27,365


    Họ lý luận là trứng nuôi theo kiểu công nghiệp thì không có trống.
    Trên lý thuyết là họ đúng. Nhưng Hành - Hẹ - Tỏi - Nén cũng không
    có trống nhưng họ không ăn. Sự ăn chay có cái gì đó mất đi ý nghĩa.
    Tui cũng có nghe ông Pháp Hòa, một vị sư khá có tiếng tăm ở Canada
    do ổng giảng pháp dễ hiểu và gần gũi, cũng giải thích như vậy và thòng
    thêm câu là các vị sư tu theo Nam Tông, Phật giáo nguyên thỉ hay còn
    gọi là phái khất thực được cho gì ăn nấy, không ăn chay.

    Trên lý thuyết, ông này cũng đúng khi ông so sánh với giáo phái Nam Tông.
    Thôi thì chị cũng đừng bận tâm quá nhiều, cởi bỏ khúc mắc này đi để tu
    tập tinh tấn. Đạo Phật cũng hay ở chỗ là chỉ đường cho mọi người đi,
    nhưng sự lựa chọn tu tập là do ở mình. Muốn tu ra sao cũng là do mình.
    http://dtphorum.com/pr4/signaturepics/sigpic726_7.gif Puck Futin

  9. #89
    Cánh Đồng Bắp Ngô Đồng's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Location
    Milpitas, California, United States
    Posts
    2,199
    Tonka ơi! Giữ Sức khỏe nha - Thân Mến

  10. #90
    Biệt Thự Co may's Avatar
    Join Date
    Sep 2011
    Posts
    921
    Quote Originally Posted by Triển View Post


    Khiếm khuyết duy nhất trong vấn đề vệ sinh thời nay ở cái khẩu trang.
    Quý Phật tử làm công quả ở chùa đeo "thủ trang", nhưng khẩu trang
    thì không đeo. Khi nấu ăn, đứng trước các món ăn, nói chuyện phun phèo
    phèo vào đồ ăn thấy hơi ngại.

    Ban trị sự các chùa nên lưu ý, đừng khiến chùa chiền bỗng nhiên trở thành .... ổ dịch,
    thì việc hoằng dương đạo pháp, Phật sự mới có được "sự lợi lạc".



    Cỏ cũng nghĩ quý Phật tử nên đeo khẩu trang.
    Last edited by Co may; 12-28-2021 at 09:54 PM.
    "Giả vờ làm thứ cỏ cây nhỏ bé...cũng là xạo ke luôn..."

 

 

Similar Threads

  1. Vào chùa Việt
    By Dân in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 1
    Last Post: 11-20-2013, 05:50 AM
  2. Học chùa
    By Triển in forum Giáo Dục
    Replies: 2
    Last Post: 06-29-2013, 10:11 PM
  3. Các Ni sư tự xây chùa Ni Viên Thông Tự ở Houston, Texas
    By Mây Hồng in forum Lượm Lặt Khắp Nơi
    Replies: 2
    Last Post: 10-07-2012, 10:29 AM
  4. Lên chùa cúng sao
    By Triển in forum Khoa Huyền Bí Học
    Replies: 69
    Last Post: 03-16-2012, 10:46 AM
  5. Con sãi ở chùa lại quét lá đa
    By Triển in forum Quê Hương Tôi
    Replies: 2
    Last Post: 11-15-2011, 10:25 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 02:33 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh