Register
Results 1 to 1 of 1
  1. #1
    Nhà Lầu
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    351

    Quê hương ngày trở lại -Thuỵ Khuê

    [SIZEQuê hương ngày trở lại

    Thuỵ Khuê

    Về Sài Gòn tôi bị lạc. Tình trạng lạc hướng kéo dài trên taxi, xe ôm, đi một mình hay cùng gia đình, bè bạn, tôi thường lẩm nhẩm trong đầu: đường này Gia Long, Tự Do đây, chắc là Lê Văn Duyệt...Nhưng khi ra đến Hà Nội, lại tịnh không có sự lẩm nhẩm nào.

    Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đã hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi. Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nhìn mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp.

    Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy.

    Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đã trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ. Sài Gòn, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đã lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc lòng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc?

    Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, còn ba lần sau, lần nào cũng lạc.

    Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài Gòn đều của tôi, chúng đã tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài Gòn thời lớn, bởi vì đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo.

    Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhã nhặn trụ vòng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử.

    Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba mươi sáu phố phường, nhờ quyết định hợp lý và cận nhân tình của những người tiếp thu Hà Nội sau 1954. Quang Trung sau khi diệt Trịnh, cũng chỉ dám đổi Thăng Long ra Bắc Thành, vậy mà Thanh Quan cũng đã giận lắm, nhiều năm sau, bà còn viết Thăng Long thành hoài cổ để lại như một chúc thư. Bởi vì con người luôn luôn gắn bó với đất nước, và đất nước của mỗi người không chỉ là nơi sinh và nơi lớn, mà còn là tiếng nói, là tên gọi những chốn thân yêu ấy nữa.

    Không thiếu văn nghệ sĩ đã lấy tên làng, tên tỉnh của mình, làm bút hiệu.

    Sự đổi tên một con đường, một thành phố, vô tình đã đụng đến ký ức xương thịt, ký ức tâm hồn của một người, của nhiều người, của một vùng, một phương, kéo theo những bi thương, phẫn nộ, vô ích.
    Tại sao không tránh ?



    Cái bè,Tranh sơn dầu, Hoạ sĩ bên đường, không rõ tên

    Chúng tôi về tới Sài Gòn sáng sớm ngày 2/11/2017. Vậy là hơn 20 năm xa cách (lần chót tôi rời Sài Gòn cuối tháng 9 năm 1997).

    Cảm tưởng lạc đưa đến sự từ chối thành phố trong mấy hôm đầu, khiến tôi không nhận được quê hương ngày trở lại, đã từng có thứ nắng thật lãng mạn, nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.

    Tôi thực thụ gặp lại quê hương qua chuyến đi Sài Gòn-Châu Đốc-Hà Tiên, do một công ty du lịch tổ chức riêng cho hai Việt kiều: Cái Bè là điểm hẹn đầu tiên với sông nước Tiền Giang. Phải đến đây mới cảm đượcCửu Long Giang bát ngát của Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh bốc khói trên chiều về bên sôngnhư giọng thuỷ thần cất lên từ đáy nước. Chúng tôi lên thuyền nhỏ đi vào sông lạch, ở đây cách Rạch Gầm Xoài Mút không xa, nhưng tôi không dám hỏi cô lái đò "điạ chỉ" vì chắc cô cũng chẳng biết việc Nguyễn Huệ phá quân Xiêm (1785 quá xa vời), hỏi thêm lẩn thẩn.

    Sông lạch miền Nam vô cùng quyến rũ, tôi nghĩ chắc hai chị em Hàn Mặc Tử đi thuyền trên sông trăng Sa Huỳnh ngày trước cũng chỉ tương tự thế này, ta thay ánh trăng bằng dừa nước, bằng tất cả những thứ cây sà xuống nước mà tôi không biết tên; lòng tôi chĩu trong đáy nước.

    Nước tôi. Chúng tôi ăn bữa cơm trưa đầy thi vị bên con cá chiên xù, trong khung cảnh thơ mộng của ngôi nhà cổ Anh Kiệt, không xa Rạch Gầm Xoài Mút của Nguyễn Huệ.

    Cá Chiên Xù.

    Buổi trưa hôm ấy mưa như trút nước, khiến tôi nhớ lại thứ mưa đặc biệt miền Nam, mưa rồi tạnh ngay, trời lại nắng, như lời chào thân ái của vùng đất miệt vườn với đứa nhỏ di cư, mười tuổi, năm năm mươi tư.

    Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Sa-Đéc, thăm ngôi trường cũ mà bà mẹ Marguerite Duras đã dạy học, trước khi đến căn nhà cổ của gia đình Huỳnh Thủy Lê, người tình của Duras, trở thành nổi tiếng vì phim Người tình (L'Amant) của Jean-Jacques Annaud. Căn nhà cũ gợi cảnh vàng son của cái đẹp ánh lên những gợn sóng xà cừ toả ra từ bộ trường kỷ, giường, sập gụ, tủ kinh, một chất xưa lắm, nay không còn nữa, đọng lại một mối tình sôi bỏng trong không gian, không mầu, nhưng tồn tại.

    Trời lại mưa.

    Mưa theo chân chúng tôi đến tận vùng đất cũ, tôi biết tên nhưng chưa bao giờ đến: Châu Đốc.


    Chúng tôi ở một khách sạn trên đồi cao, nằm cheo leo sườn núi Sam. Nhìn những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn Châu Đốc chiếu lên khung cảnh tuyệt vời, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hãnh diện vì quê hương,một cảm tưởng gần như đã biến mất trong tôi từ nhiều năm tháng: bởi đây là lần đầu tiên tôi được ở một khách sạn tại vùng đèo heo gió hút, do người mình xây, có kiến trúc đẹp, những căn nhà nhỏ thơ mộng lẩn trong bụi cây, có mỹ thuật và tôn trọng môi trường, đầy đủ tiện nghi, khó tìm thấy trên đất Pháp cái gì tương tự.

    Tôi không khỏi bồi hồi cảm động, trong bụng nẩy lên một niềm tự hào dân tộc sâu xa: hai mươi bốn năm trước, tôi cũng tá túc tại một khách sạn sang ở Huế, nhưng phòng tắm đầy gián, chuột; đêm ấy, tôi không sao ngủ được, nghĩ bụng không biết khi nào dân mình mới thoát vòng nhược tiểu, mới có khả năng xây dựng một căn nhà.

    Thế mà nay, những người Âu đến đây, cũng như chúng tôi, họ ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi: từ kiến trúc, bài trí, đến cách tiếp đãi lịch sự, nồng hậu, món ăn, tất cả đều top,giá lại phải chăng, chỉ bằng 1/4 giá một khách sạn tương đương như thế ở Pháp. Khó tìm thấy khung cảnh nào thần tiên hơn.

    Hoa Ty Gôn Châu Đốc.


    Sự tiếp xúc với Châu Đốc sâu hơn, ngày hôm sau, nhờ thiếu nữ hướng dẫn thật sự yêu nghề, yêu đất nước. Em rành từ tên cây, tên cỏ, đến tên đất của vùng quê em, ngõ nào em cũng biết, em kể về quá khứ xa, gần: nội em xưa làm công chức cao cấp trong chính quyền cũ, bị án tử hình.


    Ôi quê hương yêu quý, đâu đâu cũng thấy dấu vết tương tàn, nỗi buồn làm tắt niềm vui.
    Em dẫn chúng tôi đi thăm Trà Sư, điểm lạ của miền đất có âm thanh Châu Đốc gióng lên như tiếng trống, thúc giục ta tiến sâu vào vùng sông nước, cây cỏ, hòa một, độc nhất vô nhị này. Trà Sư là rừng tràm bí mật và thơ mộng mà tôi đã nghe tiếng từ lâu, vì không hiểu rõ, nên vẫn đồng hoá với Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc. Nhưng không phải: Trà Sư là rừng tràm mọc trên nước, mênh mông, bất tận, mở ra, mở ra mãi...

    Thuyền đi, thuyền đi, rẽ lối trên bèo, đi sâu, sâu hơn, sâu mãi, thuyền đến đâu bèo mở ra đến đấy rồi vội vàng khép lại sau lưng thành một cánh thảm xanh tuyệt vời, có lẽ vì vậy mà người miền Nam gọi bèo tây là lục bình.

    Mộ Thoại Ngọc Hầu.


    Châu Đốc còn là quê hương của Thoại Ngọc Hầu, vì Hầu mà chúng tôi đến đây: Thoại Ngọc Hầu hôm nay nằm trong dinh bên cạnh những ngôi mộ đá hình trái soan trắng, là mộ của gia nhân, tùy tướng. Hầu vẫn nhăm nhăm tay thương, tay kiếm, oai phong trấn giữ mảnh đất quan ải.

    Tôi giật mình, vừa yên tâm, vừa sợ.

    Châu Đốc trong trí tôi ngày trước là vùng địa đầu, rắn .rít, nước độc, bây giờ là đất Trà Sư mênh mông đẹp rộng như rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, có Thoại Ngọc Hầu sừng sững bảo vệ. Muôn đời.

    Trà Sư.


    Từ Châu Đốc, chúng tôi theo con kinh Vĩnh Tế của Hầu để về Hà Tiên. Anh lái xe cho đi con đường dọc sát biên giới Miên Việt, bên kia núi là đất Miên, bên này đất Việt, anh guide bảo: mạ bên mình lá xanh hơn mạ bên kia, cô ạ. Ý anh muốn nói, mạ mình xanh hơn mạ Miên, tôi mỉm cười thầm nghĩ: Người mình chủ quan thật.

    Con đường đi dọc kinh Vĩnh Tế, mộc mạc, không trang điểm, còn làđường mộchôn bao nhiêu nhân công đào kinh mở nước, họ đã nằm xuống đây. Phải đến mới cảm thấy thấm thía công lao của người trước: vừa chống trả với "quân xâm lăng" (xâm lăng hay đòi đất? Vì mình chiếm đất của người ta!), vừa làm công việc dẫn thuỷ nhập điền cho dân cư cả một vùng đèo heo gió hút.

    Đến Hà Tiên, quang cảnh khác hẳn, như thể ta bước sang một "nước" khác.

    Nước của họ Mạc. Gia trang Đông Hồ-Mộng Tuyết tựa ở cửa ngoài. Thi sĩ Đông Hồ bị lạc lõng trong vùng đất này, dù đó là quê hương ông. Bởi ông đã "phản bội" quê hương, văn chương Đông Hồ quá chải chuốt, quá Hà Nội, quá tỉnh thành, không hợp với đất Hà Tiên, có lẽ vì thế mà ông chỉ ở ngoại thành. Hà Tiên là của dòng họ Mạc, cha con người Triều Châu.

    Mạc Cửu phá hoang, xây dựng, rồi dâng chúa Nguyễn. Mạc Thiên Tích, con trai ông, nhà thơ tướng quân, đã mở rộng Hà Tiên thành đất văn học. Tôi biết Hà Tiên qua vài truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trong Nhốt gió,nói về người Triều Châu lưu lạc sang ta. Đặc biệt chú Yều, mẹ Việt, có ông cố lưu lạc sang đây, lập làng đồ gốm Chòm Sao, nhưng chú ương bướng chủ trương "bất cộng tác" không chịu "hội nhập", cứ nói, hát tiếng Triều. Nhưng rồi dần dần, chú Yều cũng "đầu hàng", chú trở thành... người Việt. Tôi không biết trong số những người Triều Châu này, có bao nhiêu Trịnh Hoài Đức?
    Bao nhiêu Hồ Dzếnh?

    Di tích còn lại của họ Mạc ở Hà Tiên là những nấm mồ trên núi Bình San: cả dòng họ Mạc đã sống, chết, bảo vệ mảnh đất này, cả dòng họ Mạc nằm đó, nhìn xuống vịnh Hà Tiên, vẫn một lòng trung với Chúa, đã ba trăm năm.

    .
    Cột biên giới.

    Anh guide và anh tài dẫn chúng tôi ra tận biên giới Miên-Việt. Đứng bên cột mốc phân chia lãnh địa, bình an, một mối xúc động không tên dấy lên như thể qua bao nhiêu trận chiến tàn khốc, hồn người nằm xuống đã bảo an cho thời hiện tại trong không gian đầy nắng này.


    Tối đó anh guide dẫn chúng tôi tới một quán nhậu, ăn ghẹ luộc Hà Tiên, bất hủ. Sáng sớm hôm sau đi mũi Hòn Chông, phía nam Hà Tiên, thăm Hòn Phụ Tử. Tiếc thay núi cha đã bị gẫy đôi vì một trận bão, nhưng phong cảnh vùng ráng tiên vẫn tuyệt vời.

    Chẳng biết có phải Mạc Cửu chọn tên Hà Tiên vì khu này có người tiên hay ra vào trên sông nước? Với tôi, ông đã chọn nghiã ráng tiên, bởi khi đứng trên Hòn Chông buổi sớm, mặt trời vừa mọc, dưới biển nhấp nhô bao đảo nhỏ chen chúc, trên trời ráng tiên múa hát vạn sắc màu, cho nên Mạc Cửu đã bình trị vùng đất hoang sơ tuyệt đẹp này rồi dâng chúa Nguyễn với tên Hà Tiên.

    Mộ Mạc Cửu


    Hà Tiên gói trọn lịch sử về tình người, về lòng chung thuỷ, vượt trên mọi tranh chấp quốc gia, kỳ thị chủng tộc. Hà Tiên nhắc nhở thời điểm lịch sử mà hai dân tộc Việt-Hoa chung sống yên bình, chia nhau, không chỉ một mảnh đất, mà cả linh hồn mảnh đất ấy.

    Trên đường trở lại Sài Gòn, chúng tôi ngủ đêm tại một khách sạn ở Cần Thơ, trên bến Ninh Kiều: dòng Hậu Giang hiện ra trước mắt, vẫn Cửu Long Giang và Phạm Duy cùng trổi dậy, cuồn cuộn, dưới chân cầu Cần Thơ, uyển chuyển, thanh nhã, nổi lên trong ráng chiều.

    Một lần nữa tôi cảm thấy hãnh diện vì những kỹ sư, kiến trúc sư trẻ của quê hương, đã dựng lên một kiến trúc hiện đại xứng đáng bắc ngang Sông Hậu. (Cái gì đẹp thì lại có người bảo Đại Hàn hay Nhật xây đấy, nhưng tôi chắc họ không đem "thợ" sang đâu!).
    Từ Cần Thơ, chúng tôi trở lên Vĩnh Long, rồi xuôi xuống Mỏ Cầy gần Bến Tre thăm gia đình trước khi về lại Sài Gòn.

    Trở lại Sài Gòn, tôi bắt đầu để ý đến ngôn ngữ của người miền Nam, đặc biệt những người lái taxi. Chỉ cần một câu hỏi: cô chú ở đâu về? là biết chắc chúng tôi Việt kiều, họ bắt đầu tâm sự.

    Một cái tên được nhắc nhở khá nhiều trong những câu chuyện taxi là Võ Thị Sáu; có lẽ vì cô này chết trẻ. Sau này tôi còn gặp lại cô ở Côn Đảo.

    Người taxi phân trần: Cô coi, mấy đứa nhỏ phải học trường Võ Thị Sáu, thiếu gì tên hổng xài, lấy tên con nhỏ vô học đặt cho trường học, tui hổng cho đi, tui cho chúng học tư, tốn kém mấy thây kệ. Một người taxi trẻ đưa chúng tôi từ quận Bình Thạnh về quận Nhất, qua một khu sang trọng, nhà cửa mới tinh, tuồng của các đại gia, văng tục: ĐM, chiếm đất đấy, dám xuống trỏng (miệt vườn) mà chiếm, có mà chúng chặt đầu!

    Tôi rợn người, chừng máu cô Quờn (ngày xưa chém chồng 36 nhát dao) đang chảy trong huyết quản anh taxi vạm vỡ này.
    Bấy giờ tôi mới cảm thấy những đợt sóng ngầm. Nguy hiểm.

    Taxi vào vùng Thủ Thiêm, sự khác biệt còn dữ dội hơn: một quần thể biệt thự sang trọng, đường phố toàn tên cách mạng mà vắng tanh, hiềm gì bác tài không dọa: Tuichở cô zô đây, chớ đây đâu phải đất "người mình".
    Tôi lạnh gáy. Việc hòa hợp dân tộc xem chừng không dễ dàng. Về phiá người Bắc vào Nam, các cháu tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp, cũng than: Lúc đầu đi mua hàng họ không bán bác ạ, họ bảo hết rồi, họ đuổi đi. Bây giờ đã khá hơn nhiều. T

    Tôi nhớ lại những ngày năm tư, lũ lỏi Bắc kỳ di cư chúng tôi, chín mười tuổi học chung trường với lũ lỏi Nam kỳ. Bọn di cư học buổi trưa, khi trường trống, còn sáng và chiều dành cho học trò Nam. Ngày nào hai bên cũng viết thư "gây chiến" để lại hộc bàn, lời lẽ con nít Bắc Kỳ ăn cá rô cây; cuộc chiến âm ỷ tới hết thời tiểu học. Lên trung học, mấy con người đẹp Bình Dương chủ trương hoà hoãn với đứa di cư lạc lõng một mình trong trường đại nữ học Gia Long, chúng đình chiến, chúng thương xót, xử huề.

    Thế là tôi trở thành gián điệp nằm vùng, nhiệm vụ dò thám tình hình địch Trưng Vương (của mấy bà chị): năm nay lễ Hai Bà bên đó ai cưỡi voi, ai đóng Trưng Trắc? (Thời bà Nhu rất dân chủ: hai trường chia nhau luân phiên đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị, vì không trường nào chịu làm em).

    Tình hình "nội chiến" những năm xa xôi ấy trở lại trong tôi, lúc này; nhưng hôm nay, bây giờ, không phải là lũ trẻ ranh mà là người lớn với nhau, âm thầm, đáng ngại.

    Điểm văn hoá cuốn hút tôi ở Sài Gòn là Đường Sách, một con đường rất ngắn nằm ngang hông nhà thờ Đức Bà, ít ai nhớ tên thật, thường gọi Đường Sách.


    Tôi chưa thấy ở đâu có quang cảnh như thế, từ thời phồn vinh của Sài Gòn ngày trước với hai nhà sách lớn Khai Trí, Xuân Thu, hay Paris ngày nay, với nhà sách Joseph Gilbert trên đại lộ Saint Michel và siêu thị Sách-Vidéo Fnac ở Montparnasse.

    Đường Sách, chen lẫn giữa những cửa hàng sách là những quán cà phê, bạn mua sách rồi ra đó trao đổi với bạn bè hoặc với những độc giả khác. Hoặc bạn là tác giả, ra đó ký sách cho người đọc, trả lời những câu hỏi của họ. Hoặc chỉ đơn thuần bạn thích ngồi cà phê, nhìn ngắm những cặp vợ chồng trẻ, tung tăng dẫn con đi chơi, mua sách hình... tất cả gợi lên một không khí thanh bình, một sức sống mãnh liệt đang lên của dân tộc, tôi không biết ở dưới có giấu những ngu dốt, tham ô, tham nhũng nào không, nhưng tôi tin vào sức sống và sự an nhiên tự tại của những người trẻ đang làm sách và đọc sách ở đây, phần lớn họ đều sinh sau bẩy lăm cả.

    Đường sách chứng tỏ Sài Gòn ngày nay đã khác nhiều với Sài Gòn hôm qua, không chỉ với những cao ốc, những tiện nghi, tân tiến của một thành phố thế kỷ XXI, mà Sài Gòn còn đang phục hồi phần linh hồn, tức là phần chữ nghiã, tư tưởng, đã một thời bị dập xoá.


    Không chỉ những sách miền Nam cũ dần dần được in lại, như những sách về tư tưởng, triết học của Nghiêm Xuân Hồng, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung... mà còn có cả sách in chui, mà còn có cả những sách hiện đại của Tây phương dịch sang tiếng Việt, cống hiến cho người đọc, ngoài Internet, một cái nhìn sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài.

    Tôi không đọc những sách này, nhưng cũng đoán, tất nhiên là không thể hoàn hảo, còn nhiều lỗ hổng, có chỗ dịch sai, có chỗ bị kiểm duyệt, nhưng đây là bước đầu, rồi ta sẽ dịch hay hơn, rồi sự kiểm duyệt sẽ bớt đi, theo đà dân chủ hoá của đất nước.

    Người Pháp đã phải bỏ ra ba mươi năm mới có bộ sách dịch toàn thể tác phẩm của Kawabata tương đối hoàn chỉnh. Còn Dante, qua bao nhiêu thế kỷ vẫn chưa có được bản dịch Pháp văn đáng giá. Chỉ cần nhìn giới trẻ trên Đường Sách,từ người bán đến người mua đều trẻ cả, họ bán sách cũ mới, sách dịch đủ loại; có thể còn dịch sai, nhưng lần sau tái bản sẽ sửa cho đúng hơn, điều cần thiết là phải bắt đầu, và những người bạn trẻ này đã bắt đầu.

    Chúng tôi đi thăm mộ Phạm Duy.

    Mộ Phạm Duy


    Duy Cường dẫn chúng tôi đi thăm mộ cha. Ông ở Bình Dương, trên một vùng đất đẹp. Trong Vườn Phạm Duy, thực hiện theo ý tưởng của Duy Cường, bên cạnh ông là mộ Thái Hằng và bia Duy Quang. Trên tượng bán thân bằng đồng đen, khắc theo ảnh chụp của Phong Quang, do điêu khắc gia Nguyễn Văn An thiết kế và Đoàn Tấn Huệ đúc đồng, ông sừng sững như còn tại thế. Trên mộ ghi Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi! bằng chính chữ của Phạm Duy.

    Ông đã vĩnh viễn trở về với đất nước với tiếng nói và con người.



    Vườn Phạm Duy: Mộ Phạm Duy, Thái Hằng,
    bia
    Duy Quang.


    Khi tôi ra đời cách đây 75 năm đã có Phạm Duy. Năm tôi lên bốn, Phạm Duy về làng với những tiếng quân hành bộ đội tràn vào sân nhà những đêm trăng sáng một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt, bừng ngàn tiếng thanh niên tung gông phá xiềng.
    Đoàn người trai ra đi miệng hô lớn quyết chiến! Quyết chiến! Chân oai nghiêm đều tiến!

    Tôi "theo" kháng chiến từ giây phút ấy, trong vô thức chưa định hình của đứa bé lên bốn, với Khởi hành, với Đường Lạng Sơn, với Việt Bắc, với Ngọn trào quay súng, với Tiếng hát trên sông Lô...
    Bao thanh niên đã lên đường như thế theo tiếng nhạc tuổi xanh.
    Nếu không có Phạm Duy, Văn Cao... chắc gì cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công.

    Nhưng Phạm Duy cũng đã sớm thấy sự tàn phá của chiến tranh, người nghệ sĩ ấy đã nghiêng mình xuống Những người thương binh, Mùa đông chiến sĩ... ông ngậm ngùi Nhớ người ra đi, thương tiếc những đồng lúa ngập vàng trong ánh hoàng hôn trên Nương chiều. Rồi Phạm Duy xuôi Trung trong những tháng ngày 1948, xót thương quê hương tan nát với những bà mẹ rách vai, với tiếng o nghèo thở dàivới những chiều khô nước mắt... trong Quê nghèo, Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh...


    Tháng 5 năm 1951, Phạm Duy cùng gia đình vào thành, sự nghiệp văn nghệ của Phạm Duy sang một bước ngoặt lịch sử: từ nay chúng ta sẽ có ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh Thái Hằng Hoài Trung Hoài Bắc, và Thái Thanh sẽ trở thành tiếng hát vượt thời gian đem nhạc Phạm Duy trải dài trên nền đất nước, thấm vào lòng người.

    Vào miền Nam, 1952 Phạm Duy bắt đầu một thiên tình sử mới với quê hương qua những bản tình ca bất hủ Tình hoài hương, Tình ca, Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam...


    Ở Phạm Duy tình ca, tình người và tình yêu quy thành một mối, một khối, một trái tim. Chúng ta gặp lại công chúa Huyền Trân qua nhạc Phạm Duy, chúng ta đi xuyên Việt qua nhạc Phạm Duy, chúng ta biết yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, qua nhạc Phạm Duy.

    Chúng ta yêu nhau cũng với Phạm Duy: ngày đó có em đi nhẹ vào đời,
    chúng ta cưới nhau cũng có Phạm Duy: nhìn trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới...

    Chúng ta giã biệt nhau cũng với Phạm Duy: ngày ấy có em ra khỏi đời rồi...

    Chúng ta van xin nhau cũng có Phạm Duy: Đừng xa nhau, đừng quên nhau, đừng rẽ khúc tình nghèo...Đừng cho không gian đụng thời gian... Mỗi gây phút thiêng liêng, hạnh phúc, xót xa... trong đời ta đều có Phạm Duy.
    Ngoài Nguyễn Du, chưa một nhà thơ, một nghệ sĩ nào đi sâu vào tâm hồn người Việt đến thế.


    Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, ta di tản, vẫn cùng Phạm Duy: Một ngày năm bốn, cha rời quê xa...Một ngày bẩy lăm đứng ở cuối đường... Ở hải ngoại, Phạm Duy hát cho Bầy chim bỏ xứ, Phạm Duy dựng lại thi ca Hàn Mặc Tử, làm sống lại Kiều trong âm nhạc.

    Người ta trách Phạm Duy, khi ông bỏ kháng chiến về thành là phản bội cách mạng.

    Người ta trách Phạm Duy khi ông bỏ hải ngoại về nước là phản bội miền Nam. Nhưng người ta quên Phạm Duy là Người. Người Tự Do. Phạm Duy không có bổn phận với ai, trừ với chính mình. Phạm Duy không phải là chiến sĩ: Chiến sĩ đấu tranh dưới một ngọn cờ. Phạm Duy không phải là kẻ sĩ: Kẻ sĩ trung quân ái quốc. Phạm Duy không phải là chí sĩ: Chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, muốn dìu dắt dân tộc ra khỏi ách nô lệ, đoạ đầy.

    Phạm Duy là người Nghệ Sĩ:Nghệ sĩ cần tự do như khí trời để thở, để sáng tác. Nghệ sĩ cần khán thính giả, nếu không có khán thính giả, sẽ không còn nghệ sĩ. Không nên buộc Phạm Duy phải làm giống ta, bởi ta chưa sáng tạo được một tác phẩm nào, một lời ca nào, cho quê hương, đất nước, con người.

    Đứng trước mộ Phạm Duy, ai đã đo được tầm vóc vĩ đại của người Nhạc sĩ số một của đất nước, năm lần ba-lô xuyên Việt, để lại bao nhiêu kiệt tác cho dân tộc cùng với sự vô ơn vĩ đại của lớp quần chúng bạc như dân đã chôn sống ông vì vài ba tiểu tiết, khi ông còn tại thế ?

    Paris tháng 4/2019

    Thụy Khuê


    ************************************************** **********************

    Hà Nội Gió Posted on 2 Tháng Ba 2016


    Gió mùa đông bắc làm em khóc
    Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)


    Tôi trở về nhà sau một chuyến bay dài đỏ mắt. Không biết ai là người đầu tiên đặt tên cho những chuyến bay đêm là ‘đỏ mắt’ thật là hay. Chập chờn giữa thức và ngủ cả mười ba, mười bốn tiếng thì chắc chắn mắt xanh như cô Kiều của cụ Nguyễn Du cũng thành mắt đỏ. Chữ nghĩa mang ảnh hưởng đến đời sống tình cảm của ta rất nhiều, có những chữ mình không thể nào thay bằng chữ khác được.

    Mỗi lần đi, về giữa Việt Nam và Mỹ tôi vẫn lúng túng giữa về Mỹ, hay về Việt Nam . Việt Nam là quê hương của mình thì mình về là đúng rồi, nhưng ở Mỹ có một mái nhà, mảnh vườn, cái bếp của mình thì mình nói là về đâu có sai. Nhưng sao lúc từ giã Việt Nam, chào những người thân quen, nói tiếng trở về Mỹ lòng vừa ấm áp vừa thấy buồn buồn.

    Ba mươi năm sống ở Mỹ mà vẫn chưa mờ nỗi nhớ quê hương, vẫn bất chợt một hôm nào đó, không cần phải là có nắng thu hay có mưa đông, chỉ là một buổi chiều như tất cả mọi buổi chiều, đang ngồi uốạng ly trà bỗng khựng lại nhớ về một buổi chiều nào rất xa xôi ở quê nhà thăm thẳm, về cái xóm cũ, về cái ngõ vào nhà, về cái vũng nước đọng ở cái ổ gà đâu đó, về cây trứng cá, về cái bể nước mưa.
    Rồi lan man nhớ về trường cũ, về buổi hẹn hò đầu tiên, người yêu thứ nhất, người tình thứ hai.
    Chao ôi, nhớ ơi là nhớ!
    Nước mắt ứa ra, bỗng thèm được về quê ngay lập tức. Thế mà về Việt Nam đến tuần lễ thứ ba là bắt đầu nhớ về cái nhà ở Mỹ.
    Không biết mấy chậu cây có ai tưới hộ không?
    Mùa Ðông này tuyết có rơi không?
    Nhớ về mấy người thân, mấy người bạn đang mong mình về, rồi lại nhớ về cái sạch sẽ, cái tiện nghi và chỉ ước gì được về ngay để ngủ trên cái giường của mình thay vì phải ngủ ở khách sạn.

    Chao ôi! chỉ một chữ về mà có trăm điều muốn nói.
    Anh Sơn, ông anh họ của tôi, du học từ thập niên 60. Bây giờ ngoài 60 tuổi, anh đã đi du lịch khắp nơi trên thế giới, anh nói:
    – Bao giờ về Việt Nam tôi vẫn thích nhất.
    Tôi nói :
    – Tại vì Việt Nam là quê hương của mình, nên tự nhiên mình yêu. Thế thôi!
    Anh bảo:
    -Ðúng vậy!

    Chúng ta chắc ai cũng yêu quê hương của mình, tự nhiên như yêu cha mẹ, con, cháu hay yêu chính bàn tay, bàn chân mình. Thế thôi! Thật là giản dị.
    Thế là anh em rủ nhau thu xếp về Việt Nam .
    Về Việt Nam vào dịp cuối năm, vào dịp thiên hạ kéo nhau ‘về quê ăn tết’ rất là đông nên phải mua vé từ tháng sáu.

    Tôi cứ tính tới tính lui xem phải đem những gì? Vì lần này đem theo cả chồng con, sẽ dự tính đi nhiều nơi nên không thể đem theo những thùng quần áo lạnh về Bắc cho họ hàng ở quê được. Thôi đành giữ lại chờ dịp sau. Cứ cách hai, ba năm tôi về thăm Việt Nam một lần. Mỗi lần về lại thấy một Việt Nam đổi khác, nghe những câu chuyện khác về Việt Nam . Hai cậu con trai của tôi mới về lần thứ nhất, đã thấy xôn xao rủ nhau cuối năm trở lại không có bố mẹ đi theo. Chắc trong máu hai cậu, những giọt nào thuộc về mẹỳ cho mình đang dành chỗ đứng.

    Chúng tôi đi trong một Hà Nội đầy gió, người Hà Nội đặt tên cho gió này là Gió Mùa Ðông Bắc. Có không biết bao nhiêu thi sĩ, bao nhiêu nhạc sĩ đã xúc động về những cơn gió này và viết ra bao nhiêu tác phẩm làm thăng hoa đời sống con người để ngay cả khi đang sống trong một hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn tìm ra cái đẹp của nơi mình đang sống. Khí hậu của tháng Mười Một và tháng Chạp âm lịch là khí hậu lạnh và đẹp nhất trong năm của miền Bắc. Gió hay trở lạnh đột ngột như một người đi xa bỗng trở về không báo trước. Có thể mới buổi sáng trời còn rất ấm không có gì báo hiệu là một ngày lạnh, nhưng đến trưa gió ở đâu bỗng kéo về chật phố. Gió chen chúc vào đám đông đang đi trên đường, gõ cửa những ngôi nhà, hàng quán, ngồi sát vào những người buôn bán hai bên vỉa hè rất là hồn nhiên.

    Chẳng cần nói năng gì cả. Chỉ cần có mặt, tôi đến, tôi ngồi xuống và tôi ở lại. Giống như Caesar ngày trước I came, I saw, I conquered. Thế là mọi người chạy ùa đi mua áo ấm để ngồi chung với gió.

    Chúng tôi đã được đi, được ngồi chung với Gió Mùa Ðông Bắc trong suốt mười ngày ở Hà Nội.
    Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.

    Suốt từ Sài Gòn, đi xe ca theo tour Tiền Giang, Hậu Giang, Phan Thiết, Nha Trang, Hà Nội rồi bay ra Phú Quốc, ta nhìn thấy sự phồn thịnh luôn luôn đi bên cạnh nghèo đói một cách rất rõ ràng.

    Miền Bắc, miền Trung ở quê vẫn còn khổ và nhiều người rất nghèo trong khi ở thành phố Sài Gòn, Hà Nội, hàng đêm người ta đổ xô ra phố tiêu tiền (không biết tiền ở đâu ra mà nhiều thế!) Ở những nhà hàng, những quán ăn thì người trong nước tiêu phung phí hơn Việt Kiều. Thử vào một chỗ ăn chơi như vào bar chẳng hạn, thì có thể chỉ nhìn chai rượu gọi sẽ nhận ngay ra ai là Việt Kiều ai là Việt Việt (chữ một cậu cháu tôi dùng để gọi người trong nước).

    Việt Kiều xài sang gọi chai rượu 150 mỹ kim, trong khi đó Việt Việt gọi chai rượu 1.500 mỹ kim. Tôi quê mùa, hỏi cháu:
    – Chai rượu gì mà đắt vậy?
    – Con không biết, nhưng thấy họ trả 1.500 mỹ kim cho chai rượu; họ đi năm, sáu người tiêu một buổi tối năm ngàn đô là chuyện nhỏ.

    Nghe nói một tối tiêu năm ngàn đô là chuyện nhỏ thì chắc ai cũng biết cái xuất xứ của những số tiền nhỏ đó thật là mù mịt.

    Ăn uống ở các tiệm bây giờ cũng đắt hơn gấp năm sáu lần của ba năm trước và không ngon. Trung bình chúng tôi ăn một bữa cho một người là từ ba cho đến bẩy mỹ kim. So với ở Mỹ thì rẻ, nhưng với tiền lương của một người trung bình là 700.000 đồngViệt- khoảng hơn 40.00 mỹ kim một tháng- thì làm sao trả được.

    Tôi tự hỏi, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.
    Lương của một công chức không biết con số thật là bao nhiêu?

    Tôi có một người em họ xa ở Hà Nội, làm phó giám đốc một công ty nhà nước gì không rõ mà anh đi xe BMW, khi chúng tôi tới thì vợ đang du lịch ở Singapore, con thì đi du học ở Mỹ, một năm hết ba mươi ngàn Mỹ Kim tiền học, chưa kể chi phí ăn ở. Nghe mà giật mình.

    Theo cách anh nói chuyện thì ở Việt Nam bây giờ du học tự túc ở Pháp và Ðức như một phong trào cho các con ông lớn. Học giỏi hay không thì chưa rõ, nhưng mà đã là con của những ông lớn thì phải xuất ngoại, phải du học. Sang bên đó không học được thì ở chơi một thời gian, may mắn kiếm được người lấy thì ở lại, không thì về.

    Nghe anh nói, tôi nhớ đến một ca làm việc của mình ở Mỹ. Khi tôi đến thăm tại gia cho một sản phụ được hưởng Phiếu Y Tế (Medical Coupon) tôi mới biết đó là một sinh viên Việt Nam du học tự túc, có bầu và ở lại. Cô là sinh viên du học mà không nói được một câu Anh Ngữ nào. Căn nhà cô ở thuê là một apartment water front. Tôi hỏi tiền đâu mà cô trả tiền nhà thì được cô ạ cho biết căn apt. này cha mẹ cô chuyển tiền sang mua, trả bằng tiền mặt, cho một người bà con có quốc tịch Mỹ đứng tên. Nghe mà giật mình, vì tôi biết căn apartermen đó ở Seattle ít nhất là 400.000 Mỹ kim, bởi gần sát mặt hồ.

    Khi có những người giầu không rõ xuất xứ lợi tức như thế thì người nghèo có xuất xứ rất rõ ràng. Họ sống bằng những món tiền kiếm được hàng ngày rất khiêm tốn. Nếu đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm ta sẽ luôn luôn bắt gặp những người (một cụ già, hay một đứa trẻ đang tuổi đi học) bán vé số, hoặc nước trà. Bán vé số thì lấy vé của nhà nước đi bán lại mỗi vé số giá có hai ngàn, không biết lời được bao nhiêu?
    Trong khi đó giá một gói xôi khoảng bốn ngàn đồng- một Mỹ kim bằng 20.900 đồng

    Vốn liếng của người bán nước trà tất cả chắc chưa đến ba Mỹ kim: Một cái ấm ủ trong cái khăn cũ kỹ, vài cái ly thủy tinh nhỏ, năm ba cái kẹo lạc, kẹo vừng. Họ ôm cái gia sản bán buôn đó trong vòng tay gầy guộc, mời khách bên hồ. Hy vọng họ kiếm đủ cơm ăn cho một ngày hôm đó.

    Ngay ở trong khu phố có tấp nập khách du lịch, thỉnh thoảng ta vẫn thấy một người gánh hai cái thúng hầu như chẳng có gì trong đó, chỉ có vài ba mớ hành, mấy củ su-hào, mấy quả chanh đem đi bán. Chắc đây là những thứ kiếm được trong vườn nhà. Tiền thu về may ra đủ cho một gói xôi, hay hai chiếc bánh mì không nhân.

    Có cô bé lên năm cầm từng chiếc kẹo cao su lẻ bán cho du khách, cô bé nhỏ xíu, đen thui, ốm nhách mà cái mặt tươi như một bông hoa Mười Giờ chạy theo con gái tôi, đưa cái kẹo ra mặc cả bằng thứ tiếng Mỹ ngô ngọng, thấy vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Cô con gái tôi trêu cho em cười bằng cách nói tiếng Việt cũng ngô ngọng với em và gần như muốn bế em lên, vì em bé xinh quá!

    Ôi tuổi thơ Việt Nam ! Khi em lớn lên, em sẽ có ước vọng gì?

    Ði càng về miền quê càng thấy những người nghèo. Ở những nơi ruộng nước như lối vào Tam Cốc, Bích Ðộng ở Ninh Bình hay Suối Trong, Suối Ðục ở Chùa Hương thì những người dân quê vẫn ngâm một nửa người trong nước nguyên ngày mò ốc, lưới tép kiếm ăn.. Một kí tép khoảng hai chục ngàn, ngâm nước nguyên ngày được khoảng ba đến năm kí, kiếm được 60.000 -100.000 đồng cho nguyên một gia đình bốn năm người, trong đó có cả tiền học cho con.

    Trẻ con đi học cho biết đọc, biết viết rồi nghỉ vì không có tiền trả tiếp, lại đi ngâm mình dưới nước giống cha mẹ thôi. Suốt một đời họ ngâm dưới nước. Người chèo thuyền chỉ cho chúng tôi xem một vài nấm mộ chôn một nửa chìm dưới nước, nói là mộ của những ông bà cụ già suốt đời mò cua, xúc tép ở đây, họ muốn con cháu họ chôn mình như thế, vì họ đã có câu: ‘Sống ngâm da, chết ngâm xương’ để chỉ đời sống gắn liền với nỗi vất vả này.

    Du khách Âu Châu đổ vào Việt Nam một ngày một đông hơn, sau sau vụ khủng bố11/9/2001. Cả nước sống về nguồn lợi thu nhập được của du khách. Du khách nước ngoài vào, mang theo bao sự thay đổi. Việt Kiều đóng một vai trò không nhỏ trong môi trường này.

    Mỗi người đem một ít về cho thân nhân, giúp vốn buôn bán, xây lại nhà cửa, mai mối cho lấy chồng nước ngoài. Cho nên ta thấy có những con hẻm lầy lội, nghèo nàn tự nhiên mọc lên một cái nhà hai ba, thậm chí bốn từng. Cửa kính, cửa sắt đứng cô đơn như một anh hề sau khi vãn hát. Những cô gái được tân trang từ đầu đến chân để lấy chồng nước ngoài, trông như những con búp bế vô hồn. Ðã có một số cô bằng lòng lấy bất cứ ai, dù đó là anh cắt cỏ hay rửa chén bên Mỹ, bên Úc. Ngay cả một anh ăn tiền tàn tật cũng vẫn lấy. Cứ lấy để đi đã, sang đó không ở được thì bỏ. Những câu chuyện đó bây giờ không có gì là mới lạ nữa, chỉ có sang bên đó mà sau năm năm không bỏ chồng thì mới gọi là ‘Lạ’.

    Người không có thân nhân lo cho thì sẽ rơi vào bất cứ một bàn tay không lương thiện nào đó, và đã xẩy ra bao nhiêu thảm kịch. Ban đầu thì còn là chuyện thương tâm, sau đi đến nỗi quốc nhục.

    Nhiều cô gái quê lớn lên trong cảnh nghèo sẽ làm bất cứ điều gì, không đắn đo để được thoát ra cảnh mò ốc, bắt cua, làm ruộng. Cô ở tỉnh thì chạy theo những nhu cầu vật chất và cũng một phần muốn có một cuộc sống nhàn nhã, không phải vật lộn với đời sống xã hội khó khăn hiện tại, nên họ không ngần ngại làm gái bao cho những người nước ngoài.

    Chúng tôi đã gặp trên con đường từ Bắc vào Trung, ra Nam một vài cô rất trẻ, khoảng 17 đến 22 đi cặp đôi với những người đàn ông luống tuổi nước ngoài như Thụy Sĩ, Ðức, Pháp, Ðại Hàn, Ðài Loan.v.v. Trên bãi biển Phú Quốc nơi chúng tôi tắm, một lúc chúng tôi gặp ba người Ðức độ ngoài sáu mươi tuổi cùng tắm với ba cô gái Việt rất trẻ. Họ ngồi ngay ở mấy cái võng, và bàn ăn dưới gốc dừa cạnh chúng tôi. Họ nói tiếng Anh với mấy cô, mấy cô nói rất ít, ngoài lắc, gật và cười ròn rã. Một lúc sau có thêm một người nữa dắt một cô đến, họ làm quen và nhập bọn với nhau. Họ ngồi ngay cạnh chúng tôi, nên dù không chú ý cũng nghe rõ tiếng những người đàn ông nói với nhau:

    – Gái ở đây hiền và dễ bảo hơn gái Sàigòn.
    – Sống ở đây, cần bao nhiêu một tháng, kể cả tiền trả cho mấy cô này?
    – Rẻ lắm, chỉ độ năm trăm mỹ kim thôi.
    Hình ảnh mấy ông già da nhăn nheo đó đùa rỡn dưới biển với mấy cô má hồng còn lấm tấm mấy cái mụn dậy thì, trông chẳng khác gì cảnh ông nội, ông ngoại ra bơi với cháu. Thật đáng buồn!




    Tôi nhìn sang con gái tôi, cô đang nằm phơi nắng trong bộ áo tắm, cuốn tiểu thuyết The memoirs of a Geisha úp trên mặt, tôi thấy cô thật là may mắn biết bao! Cô được đi học, côạ có việc làm tử tế, cô kiếm sống được bằng kiến thức và lòng tự trọng. Nếu cô chẳng may sinh ra và lớn lên trong một cái làng, cái tỉnh nghèo nàn nào đó Việt Nam, không được đi học đến nơi, đến chốn, thì có gì bảo đảm cô sẽ không là một trong những cô gái đang bơi lội dưới kia? Cái nghèo khó luôn luôn kéo theo cái bất hạnh.

    Giữa mênh mông sóng biển, nhìn những cô gái trẻ đang bơi trong nước, bỗng những cành đào Nhật Tân hiện ra trong trí tôi. Những cành đào hiếm hoi còn sót lại năm nay ở làng này vì người ta đang cào xới đất để xây những cao ốc trên đó. Rồi những cô gái làng này không còn hoa đào để bán, không còn đất để trồng cúc, trồng lay-ơn, trồng hoa hồng nữa. Họ sẽ đi đâu và sẽ làm gì để sống? Họ sẽ lại ra những bãi biển với những người đàn ông già như ông nội hay sao?

    Khu đất cổ truyền trồng hoa, nổi tiếng về hoa đào Nhật Tân còn không cứu được, còn bị san bằng để xây cao ốc thì những cô gái Nhật Tân có ai cần để ý tới là họ sẽ trôi ra biển hay đi về đâu!

    Người thanh niên hai mươi tám hướng dẫn tour cho chúng tôi than:

    – Tụi con bây giờ, những người lợi tức thấp, khó kiếm vợ và kiếm bồ lắm. Họ cặp với người nước ngoài hết rồi côạ ơi!’
    Tôi hỏi.:
    – Nhưng các cô ở miền quê như Phú Quốc này, thì làm sao gặp được những người du khác ở xa đến, trong khi họ lại không biết ngoại ngữ?
    – Dễ lắm cô ạ. Cứ cô nào đi trước kiếm được một người thì lại chỉ dẫn giới thiệu cho cô sau. Mấy ông du khách đó lại giới thiệu cho nhau.

    Cứ cái đà này thì con gái Phú Quốc chẳng còn ai cho tụi thanh niên chúng con ở đây nữa. Mấy tỉnh miền Tây bây giờ cũng thế hết, con gái họ bỏ đi Sàigòn kiếm sống bằng cách làm gái bao cả

    Anh ta nói như một tiếng than. Tôi ngồi im nghe không biết nên an ủi thế nào.

    Ở Sàigòn thì gặp mấy người chạy taxi kể lể:
    – Cô ơi! Mấy thằng cha Ðại Hàn bây giờ nó khôn lắm. Nó sang đây giành giật của Việt Nam vừa đàn bà vừa tiền. Nó không cần biết tiếngViệt, nó bỏ tiền ra thuê một cái mặt bằng, thuê bao luôn một cô vợ ở đây đứng trông tiệm (bán đồ cho khách du lịch) làm người ở và làm vợ tạm thời cho nó.. Cô ta được trả vài ba trăm đô một tháng là mừng lắm rồi. Làm ăn một thời gian vài ba năm thôi, hết hạn, nó trả tiệm lại, trả cô nhà quê ra đường, ôm tiền về nước. Mấy thằng Ðài Loan cũng vậy.

    – Còn mấy ông già Việt Kiều nữa cô ơi! Ðến tuổi hưu trí rồi, về Việt Nam kiếm một cô bồ chỉ bằng tuổi con gái, con dâu mình. Giữ đấy, như một thứ vợ nhỏ, cho một tháng hai ba trăm đô la. Mỗi năm đi, về hai, ba lần hưởng thụ.. Cơm bưng, tình bưng đến tận miệng. Trong khi ổng không có ở đây thì các cô muốn làm gì thì làm, khi ổng qua thì các cô phải hoàn toàn phụng sự ổng là được rồi.

    Anh nói thêm:
    – Chuyện này đều đều từ nhiều năm nay rồi. Các cô rủ nhau, dắt mối cho nhau, Ðại Hàn giới thiệu cho Ðại Hàn, Ðài Loan giới thiệu cho Ðài Loan,Việt Kiều giới thiệu cho Việt Kiều. Mỗi người một tiêu chuẩn, một dịch vụ khác nhau. Ai cũng vui vẻ hài lòng cả.

    Tôi nghe, mà lòng buồn ruời ruợi. Có lẽ những phụ nữ chọn cuộc sống này họ thấy còn hơn là phải sang Ðài Loan làm nô lệ cho cả một gia đình, hay bị bán vào những nơi họ không hề lựa chọn. Tôi nhớ đến một bản tin đọc được ở báo trong nước về một người đàn bà Việt Nam muốn sang Ðài Loan kiếm tiền giúp gia đình. Hai vợ chồng vay mượn một số tiền mười ngàn mỹ kim để được sang bên đó làm công nhân, hay ở mướn gì đó qua trung gian môi giới. Không biết vì một lý do đau thương, tủi nhục nào, người vợ đã không cho chồng biết, âm thầm chịu đựng rồi đi đến chỗ tự tử chết. Người chồng vừa đau đớn vừa bị món nợ mười ngàn mỹ kim hối thúc, tự tử chết theo vợ, để lại mấy đứa con thơ.

    Thử hỏi có bản tin nào đau thương hơn bản tin này!

    Trong khi đó thì ở một mặt khác của xã hội, những cô gái của cả Sài Gòn, Hà Nội bây giờ sống rất là thời thượng. Họ đi làm những công việc văn phòng chỉ để lấy danh nghĩa đi làm, họ có một nguồn lợi tức ở đâu đó cung cấp chuyện tiêu pha ăn, mặc hàng ngày cho họ mình không biết. Họ rất giỏi về lãnh vực tìm bạn Việt Kiều trên mạng. Mỗi tối ngồi hàng giờ để chat với một ai đó, rồi đưa đến hò hẹn. Một cậu Việt Kiều ở Mỹ hay Úc, trước khi về Việt Nam, có thể tìm trên mạng cho mình một cô bồ ra tận phi trường đón. Cô ta nói tiếng Anh tương đối, hướng dẫn các dịch vụ ăn chơi, cô chỉ bảo tận tình và cho cậu cái cảm tưởng là cô không đến vì tiền của cậu (cô có tiền rồi!) cô sẵn sàng mời cậu về nơi cô ở thay vì ở khách sạn (tình cho không, biếu không), cô hiền lành, chiều chuông hết mình, rồi cô cho cậu biết cha mẹ cô là những người có địa vị trong xã hội, cô mời cậu ra Bắc hay lên Ðà Lạt, hoặc Nha Trang gặp họ.

    Trong khi chuyện trò, cô thường nói là ‘Em không thích sống ở Mỹ’, cô cho cậu cái cảm tưởng cậu là người may mắn, gặp được một cô không giống những cô mà trước đây cậu thường nghe tả. Có thể cậu Việt Kiều này sẽ gặp ông bố của cô bồ là một Kỹ Sư nhà nước hay một ông bác sĩ thật (Một bác sĩ xuất thân là y tá và được thăng bác sĩ nhờ tuổi đảng thâm niên). Và cô ‘không thích sống ở Mỹ đâu’ chỉ có nghĩa là cậu lấy cô rồi cậu sẽ ở lại Việt Nam , và cô có cơ hội vào quốc tịch Mỹ. Có trời mà biết những gì sẽ sẩy ra sau tấm màn sân khấu này.

    Những vở kịch này hiện nay đang diễn ra thường xuyên ở Việt Nam . Những người thân quen ở Việt Nam chỉ biết dặn dò:
    – Cháu coi chừng đấy, gái Việt bây giờ có cả ngàn chiêu, không biết đường nào mà đỡ đâu.

    Tôi được nghe kể, còn một phương cách kiếm chồng nước ngoài cao hơn thế nữa là các cô con ông lớn thứ thiệt, có đăng ký tên trong những cái bar sang trọng. Khi chủ nhân thấy có một đám khách Việt Kiều trẻ nào, thuộc loại mặt mũi sáng sủa, lịch sự, học thức, ăn xài sang vào bar là lập tức họ thu dọn chiến trường, dẹp hết những cô tầm thường đang làm việc ở đó, gọi những cô gái con các ông lớn trong danh sách đến. Các cô ăn nói lịch sự, có học đến làm quen chuyện trò với khách, và sau một buổi tối, nhiều cậu đã được mời về nhà, giới thiệu với gia đình. Nhà sang trọng, có xe hơi, và tài xế riêng, cha mẹ niềm nở đón tiếp. Hỏi ra thì được biết cha mẹ các cô toàn là những nhân viên cao cấp của chính quyền cả. Những cậu được mời này, chắc chắn sẽ quay lại và kết thân cùng cô gái. Mọi việc kế tiếp thì chỉ có Trời mới biết là sẽ được xếp đặt như thế nào.

    Ôi! Những chuyện quê nhà thì nói sao cho hết. Chuyện vui thì qua mau, chuyện buồn thì ở lại. Mỗi lần về là một lần xót xa. Cứ nhủ lòng thôi không về nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại thu xếp quay về.

    Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió Mùa Ðông Bắc. Thanh niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, áo dạ, những mơ ước lãng mạn của mình. Họ khoác tay nhau ngồi xuống những quán ăn đơn sơ ngay ở vỉa hè. Chuyền tay nhau những chén lục tào xá, bánh trôi, bánh chay. Họ ăn bằng mơ mộng của tuổi trẻ, ăn bằng hoang mang của những ngày cuối năm, ăn bằng nôn nao của mùa xuân đang tới. Gió lãng mạn, gió phiêu du, gió làm gầy những con phố, làm trái tim đập dịu dàng và làm những bài thơ bỗng nghiêng xuống, nằm sát vào những chiếc lá cuối đông.
    Bây giờ ngồi đây nhớ Gió Mùa Ðông Bắc, muốn khóc.

    Về Sài Gòn để được chen lách giữa những đám xe cộ, nhất là xe gắn máy. Ðể nhìn khói bụi mù đường, nghe những tiếng gọi nhau ơi ới, những tiếng rao hàng, hòa vào giữa tiếng xe nổ, tiếng còi xe inh ỏi. Ðể trong lúc chen lấn giữa dòng người, dòng xe, thỉnh thoảng lại nhìn cái bảng tên đường lạ hoắc, cố đoán ra trước đây là đường gì?
    Rồi chợt nghe đau nhói trong ngực về một kỷ niệạm thân yêu cũ ở con đường mình đang đi.

    Nước mắt ứa ra, hình dung lại một buổi chiều êm ả đã xa lắm rồi.

    Tình đã quan san từ đáy mắt (Ðinh Hùng)

    Về để lại đi xuồng máy nguyên ngày trên Tiền Giang, ghé vào những rạch, chỗ người dân làm bánh tráng, làm kẹo dừa, đan võng, đan giỏ, để được ngắm những người dân miềm Nam giản dị, chất phác, nhìn những vất vả của người mẹ, người cha:


    Quê hương là cây cầu khỉ
    khẳng khiu như cánh tay cha
    quê hương gánh hàng nặng trĩu
    mẹ về tất tả chợ xa
    quê hương áo bà ba trắng

    khăn lau lệ mẹ vắt vai
    quê hương mồ hôi cha đổ
    cho con miếng ngọt miếng bùi. (tmt)

    Về để đi ra Bắc, lên tận Yên Bái, đến ngôi nhà sát bên sông Hồng của người anh họ, được soi mặt trong thau nước múc lên ở lòng sông, có phù sa lắng hồng đáy chậu. Ðược ngồi trong một cái bếp còn đun củi, bám đầy bồ hóng, được dùng gáo múc nước, được ăn măng trúc, măng mai. Nhớ về câu thơ cũ trong bài Trấn Thủ Lưu Ðồn:
    Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
    Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
    Miệng ăn măng trúc, măng mai
    Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng

    Về để được chen chân đi trong phố cổ Hà Nội nhỏ hẹp, có rác và cống trên từng bước đi, được đi trong nắng, trong gió Hà Nội nhớ lại thủa ấu thơ, ngơ ngác đi qua nhà thờ xưa như đứa bé tan Lễ ra, lạc mẹ:

    Lâu lắm em mới về Hà Nội
    đi trên viên gạch tuổi thơ ngây
    gió mùa đông bắc làm em khóc
    Hà Nội, anh ơi phố rất gầy! (tmt)

    Mấy ngày hôm nay Hà Nội lạnh, Hà Nội vào Tết, Hà Nội chạy ùa ra phố mua áo ấm, gió mùa đông bắc thổi vạt áo bay tung, hai mẹ con đi sát vào nhau, chen chân trong khu chợ đêm trong phố cổ. Cảm tưởng hương vị của một ngày cuối đông đang tan trong cổ mình như những câu thơ:
    Hà Nội rủ nhau mua áo ấm
    gió mùa đông bắc thổi qua len
    khăn san quàng vội vào cổ gió
    trên vai một chiếc lá rơi nghiêng (tmt)

    Người, xe, hàng quà hai bên vệ đường cùng đan vào nhau, gần như dẫm lên chân nhau. Hàng Ðào với những cửa tiệm sang trọng bán quần áo tơ lụa cho du khách, Hàng Bạc lấp lánh những vòng vàng những xuyến bạc, và kiềng trạm, Hàng Mã một mầu đỏ đến căng từng mạch máu của đèn lồng, giây pháo giả, vàng mã. Người ta đổ xô đi mua về để đốt cho ông Táo lên trời. Cứ thế đi theo dòng người, hai mẹ con bập bềnh trôi.

    Xin chào nhau giữa con đường
    Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
    (Bùi Giáng)

    Ðúng là mùa xuân đang về trước mặt cho con gái và sau lưng là cả một giấc miên trường của đời sống mà người mẹ đã đi qua.

    Hoàng Trần chuyển bài

    ************************************************** *************************


    TRĂNG LÀ GÌ ?
    - Truyện ngắn của Tạ Thị Ngọc Thảo



    Trên thương trường, chị nổi tiếng là một chủ địa ốc bản lĩnh. Trong văn trường, cái tên Tạ Thị Ngọc Thảo (T.T.N.T) là nhà báo, nhà văn sắc sảo. Thậm chí, nhiều giáo sư uy tín đã gọi chị là một nữ trí thức, một doanh nhân mẫu.


    Nhà văn Tạ Thị Ngọc Thảo
    TRĂNG LÀ GÌ ?

    Truyện ngắn của Tạ Thị Ngọc Thảo

    Gia đình tôi với gia đình “hắn” là chỗ thân tình!

    Cách đây khoảng chục năm, nhân dịp tôi đến khám mắt tại bệnh viện hắn làm việc, hắn say sưa khoe với tôi về nguồn thu nhập hậu hĩnh kiếm thêm từ việc khám và giải phẫu mắt ngoài giờ của mình. Bất ngờ, tôi đặt ra một câu hỏi, chẳng ăn nhập gì đến câu chuyện hắn say sưa: “Có bao giờ ông dành thời-gian ngắm trăng với vợ, con không? Đến lượt tôi bất ngờ vì câu trả lời của hắn: 'Trăng là gì?'”.

    Về nghề nghiệp hắn là bậc cao thủ trong làng chuyên khoa mắt của Sài-Gòn. Bệnh nhân của hắn thuộc loại “thứ dữ”. Hắn có nhiều mối quan hệ xã hội “có số, có má”. Do vậy đồng nghiệp và Ban giám đốc bệnh viện, nơi hắn làm việc, nể hắn một phép! Tên tuổi của hắn đã giúp bệnh viện ăn nên làm ra, chuyên khoa mắt lúc nào cũng chật cứng người chờ đợi!!!
    Ai muốn được hắn trực tiếp khám và mổ, phải đăng ký trước, rất lâu. Số tiền chi ra cho những lần khám hoặc mổ đó, so với mặt bằng giá ở các bệnh viện khác, cao hơn rất nhiều! Thế nhưng lịch khám của hắn lúc nào cũng dày đặc!!!
    Người ta nói với nhau, “được bác sĩ (hắn) đụng tay vào thì dù mắt đang không thấy đường cũng sáng lại!!!”.

    Hồi còn đi học phổ thông, tôi với hắn ở chung một quận, quận Nhì. Sau Giải phóng, khu vực này sát nhập vào quận Nhất. Tôi với hắn bằng tuổi nhau, nhưng hắn sanh sau tôi tám tháng, vì vậy sau này khi hắn lập gia đình và có con, hắn dạy tụi nhỏ gọi tôi bằng bác, bác gái. Nhưng trong giao tiếp hắn gọi tôi bằng “bà”, tôi gọi hắn bằng “ông” và chúng tôi xưng “tui” với nhau!!!

    Tôi quen hắn và vợ hắn lúc chúng tôi cùng sinh hoạt trong Ban liên lạc học sinh cùng lớp, hắn làm trưởng ban, tôi làm phó ban, vợ hắn (lúc bấy giờ hắn chưa quen) là một trong những thành viên. Sáng thứ bảy nào Ban liên lạc của chúng tôi cũng gặp nhau tại một nhà hàng cà phê trên đường Điện-Biên-Phủ, quận Ba. Chủ nhà hàng này cũng là thành viên trong Ban liên lạc, nhờ vậy chúng tôi ăn uống ít khi phải trả tiền, nếu trả cũng chỉ là tượng trưng!!!

    Cô gái (mà sau này là vợ hắn) đẹp một cách mong manh, vì vậy chúng tôi đặt tên là “cô gái mong-manh”. Cô là con gái duy nhất của một gia đình công chức thường thường bậc trung, nhà ở quận Nhất. Cô gái hay đi họp Ban liên lạc bằng cách ngồi trên chiếc xích lô đạp cho người ta chở, thân mình lúc nào cũng diện bộ áo dài lụa màu nhạt, lung linh như mây khói (cho tăng thêm phần mong-manh?). Gái Sài-Gòn chúng tôi có thói quen đi lại trên chiếc xích lô (5 năm sau ngày giải-phóng vẫn giữ thói quen này). Khi ngồi trên xe chúng tôi chú ý giữ cho người thẳng bằng cách lưng không tựa vào thành ghế, tóc buông xõa và tay không giữ tà áo, cố ý để gió luồn vào thổi tung bay. Hình ảnh ấy góp phần làm phố xá mỹ miều. Tại sao gái Sài-Gòn không đi bộ hoặc đạp xe đi học như quý cô nương khác trên cả nước? Có lẽ do diện tích Sài-Gòn rộng, đi bộ không tới, đi xe đạp ngại mỏi chân. Nhưng còn một lý do tế nhị khác mà chỉ có gái Sài-Gòn mới hiểu, ngồi xe xích lô cho người ta chở mới là tiểu thư chính hiệu!!!

    Hắn là con của ông bà chủ hãng xuất nhập khẩu. Nhà hắn có ba anh em trai, cả ba học cùng trường với chúng tôi, chỉ có lớp là khác. Khi đi học, ba anh em hắn có tài xế đưa đón, học xong là về nhà, không la cà phố xá. Những lần hắn tổ chức sinh nhật mời Ban liên lạc tới nhà, tôi thấy gia đình hắn, nhất là bà Má, nề nếp qui củ lắm! Trong lớp, chúng tôi bầu hắn làm lớp trưởng vì hắn uy tín, học giỏi và tác phong nghiêm túc. Trong sinh hoạt tập thể hắn luôn là ngọn cờ dẫn dắt chúng tôi! Về ngoại hình thì khỏi chê, chúng tôi hay gọi hắn là “Alain Delon” (tài-tử lừng-danh của Pháp thời 1950-1980) nhưng nếu muốn hắn nổi sung thì thêm chữ “beng” (A-len đờ-lông beng) đằng sau nữa. Nhiều tiểu thư nhà giàu đạt danh hiệu hoa khôi trường này trường khác mết hắn lắm, nhưng hắn chẳng thèm để ý đến cô nào!!!

    Tới giờ tôi cũng không sao nhớ ra, bằng cách nào cô gái mong manh “lọt” được vào Ban liên lạc của lớp, nơi quy tụ những người “xuất-chúng”. Về sắc diện, hình thức, học lực, tài vặt, thành phần xã hội, so với những tiểu thư trong trường, cô thuộc loại trung bình! Về công việc tập thể, Ban liên lạc giao cô phụ trách, cô thực hiện lúc được, lúc không. Nói chung, ngoài cái khoản mong manh làm người ta động lòng, còn thì cô chẳng tạo được một dấu ấn gì cho Ban liên lạc ghi nhớ sự hiện diện của cô! Thế mà đùng một cái, chúng tôi thấy cô gái không đi họp bằng xe xích lô nữa mà ngồi trên chiếc xe Vespa Sprint màu xanh da trời, loại 150 phân khối do hắn chở!!!

    Thời đó, chỉ có công tử nhà giàu mới sắm nổi chiếc xe hách-xì-xằng như vậy! Chẳng bao lâu sau Ban liên lạc nhận được thiệp hồng. Ngày hai người cưới nhau tôi thấy hạnh phúc đầy tràn trong mắt tân lang và giai nhân. Khách tới dự tiệc cưới chúc vợ chồng hắn trăm năm hạnh phúc; tôi nghĩ, phải chúc ngàn năm hạnh phúc mới xứng! Thế mà, chỉ hơn hai mươi năm sau đó, vợ chồng hắn rẽ thúy chia uyên!!!

    Lần gặp khoảng chục năm trước, mặc cho bệnh nhân chờ, hắn luôn miệng kể lể với tôi, đã có với cô gái mong manh hai mặt con, một trai một gái, cả hai theo nghề của cha, học chuyên khoa mắt bên Mỹ! Hắn nói, “Tụi nhỏ đứa nào cũng đẹp, học giỏi, thông minh, tụi Tây mết lắm, giống tui ngày xưa vậy!”; nói xong hắn cười sang sảng. Tôi hỏi: “Cuộc sống của ông bây giờ thế nào?”. Chỉ chờ có vậy hắn huyên thuyên: “Sáng trước khi tới bệnh viện (Nhà nước), tui mổ hai ca, nếu mổ một con mắt thì hai mươi triệu, nếu mổ hai con mắt thì bốn mươi triệu, sau đó mới đi làm; trưa, tui tranh thủ làm một hoặc hai ca nữa; chiều, khám bệnh ngoài giờ ở dưỡng đường do tui làm chủ, đến tối mịt mới về nhà!!!”.

    Còn bà xã thì sao? Tôi hỏi tiếp, hắn trả lời: “Tui xây cho bả ba cái dưỡng đường, mổ xong, tui chuyển cho bả chăm sóc. Chưa kể tiền thuốc, khám sau mổ, chỉ tiền phòng không thôi bả cũng thu được năm triệu một người/ngày. Bả bây giờ trẻ, đẹp hơn xưa. Đó là nhờ tui cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Mỗi ngày bà chỉ có việc ngồi trên chiếc xe đời mới nhất (xe cũ tui thay liền) cho tài xế lái đi từ dưỡng đường này qua dưỡng đường khác, xem sổ sách, thu tiền, là hết việc! Chung quanh bả lúc nào cũng có hàng chục người hầu hạ, sung sướng như bà hoàng!!!”.

    Đúng đoạn hào hứng này tôi hỏi hắn “chuyện ngắm trăng”. Và tôi nhận được câu hỏi lại của hắn “Trăng là gì?”, kèm theo một nụ cười ngạo nghễ.
    ……
    Hôm rồi cửa sổ tâm hồn của tôi lại trở chứng, nhìn xa bị mờ, nhìn gần mờ hơn nhìn xa. Thấy vậy, bạn bè người khuyên đi mổ, người can ngăn. Tôi chợt nhớ đến hắn, liền đến gặp, tôi cần ở hắn một lời khuyên!

    Lần gặp lại này, nếu hắn không chủ động chào tôi trước, tôi sẽ không nhận ra! Trước mắt tôi là ông bác sĩ già khọm, tóc bạc trắng, mặt buồn rười rượi, nước da tối sạm. Đâu mất rồi một ông bạn có gương mặt phơi phới, hình thức lịch lãm và nụ cười ngạo nghễ?
    Thấy vậy tôi quên mất mục đích đến là để khám mắt, vội hỏi,
    “Làm ăn that-bát hả?”.
    Hắn im lặng rất lâu rồi nói một câu chẳng ăn nhập gì đến câu tôi hỏi: “Cô gái mong manh đã bỏ tôi đi lấy chồng khác rồi! Bỏ vội vã đến nỗi không thèm chia gia tài bà ạ!”.
    Tôi giật mình: “Bỏ luôn ba cái dưỡng đường to đùng sao?”.
    Hắn nghẹn ngào: “Ừ, bỏ luôn, thế mới điên!!!”.

    Tôi nhẹ nhàng ngồi bên cạnh, cầm tay hắn, im lặng.
    Hắn bắt đầu chia sẻ: “Bà có nhớ cái thằng cù lần trong lớp mình không? Cái thằng hâm hâm đi học bằng chiếc Mô-bi-lết (Mobylette) cà tàng, con của ông già sửa xe đầu đường gần trường tụi mình học đó”. Hắn nói tiếp, mắt hắn như có nước: “Thằng đó coi vậy mà học giỏi, tụi mình không nhằm gì với nó đâu, bây giờ nó làm giáo sư của một số trường Đại học. Nghe nói, tình duyên nó trục trặc sao đó (không chừng hồi nhỏ nó thương thầm vợ tui à nghen) nó ở vậy luôn cho đến giờ. Hôm rồi làm thủ tục ly dị với tui xong, bả kết hôn với nó liền! Thằng đó nghèo rớt mồng tơi, lương thầy giáo nuôi bả gì nổi!!! Hiện nay bả phải nhận may quần áo thêm cho khách, hai người mới đủ sống. Vậy mà gặp lại tui mặt bả tươi rói, chưa bao giờ ở với tui mà mặt bả tươi rói như vậy”.
    Rồi hắn nói, như nói với chính mình:
    “Đàn bà nhiều người kỳ cục lắm, chồng cung phụng cho đủ thứ, nuông chìu hết mực mà vẫn đành lòng bỏ đi lấy người không bằng một góc của chồng mình! Thật không thể hiểu nổi…”.

    Chờ hắn vơi bớt nỗi ấm ức tôi hỏi thăm hai đứa nhỏ.
    Tôi nghe từ hắn một giọng thiểu não hơn:
    “Tưởng hai đứa nối nghiệp cha, ngờ đâu, từ lâu tụi nó đã chuyển qua học nghề khác, đứa học thiết kế thời trang, đứa học phóng viên báo chí. Đã thế tui gọi về để giao tài sản mà chẳng đứa nào chịu về. Tụi nó nói 'Ba mê tài sản hơn Má và chúng con thì Ba cứ giữ lấy!'”.
    Tôi động lòng thương cảm, hỏi:
    “Bây giờ ông sống như thế nào?”.
    Hắn nói, “Tui ở luôn trong bệnh viện, về nhà ở một mình, buồn lắm!”. Không thể không hỏi thêm:
    “Thế căn nhà lớn ở quận Nhất và ba cái dưỡng đường ai ở, ai trông coi?”.
    Hắn nói, giọng nhẹ như gió thoảng:
    “Lâu lắm rồi tui chẳng ghé về nhà, còn ba cái dưỡng đường đang treo bảng bán hoặc cho thuê”.
    Thói quen nghề nghiệp, tôi đánh giá:
    “Ba cái dưỡng đường đó, bán cũng bộn tiền ông ạ”.
    Hắn ngẩng lên nhìn tôi, mắt hắn sâu thăm thẳm:
    “Của đó vô thường lắm, không có thật đâu bà!”.

    Giá mà, mười năm trước hắn nhận ra sự vô thường đó, thì đoạn kết của đời hắn đâu đến nỗi buồn như bây giờ?

    Tự nhiên tôi nhớ gương mặt phơi phới với nụ cười ngạo nghễ khi hắn hỏi ngược lại tôi “Trăng là gì?”.
    Trăng là gì ư?
    Trăng là ly nước mát của vợ trao tận tay mà hắn quên uống!
    Trăng là cái bình hoa vợ chăm chút cắm mong chồng để mắt tới, thế mà hắn đành lòng không màng!
    Trăng là tiếng cười reo của hai đứa con đón hắn sau những giờ làm việc nhưng vì mệt, hắn đã cằn nhằn, quạu quọ!
    Trăng là những bữa cơm nóng mà khi hắn về thì đã nguội lạnh, rồi cả nhà nhịn ăn theo hắn!!!

    Trăng còn là cái nắm tay âu yếm mà từ rất lâu hắn quên trao cho vợ! Trăng còn là những đêm vì sợ con lạnh, hắn rón rén bước qua phòng kéo mền đắp cho con mà sau này vì mệt mỏi, ngủ vùi, hắn quên!

    Trăng còn là tất cả những mây và gió, những hương và hoa trong cuộc sống mà do tâm không an, thân không lạc cho nên hắn không thể cảm nhận được!!!

    Trăng là gì nữa?
    Là người vợ đã bỏ chồng giàu đi lấy chồng nghèo!
    Là những đứa con thà kiếm tiền từ sức lao động và trí tuệ của mình, chớ không nhận tài sản của người Cha để lại!
    Trăng còn là kết cục của đời hắn, bỏ mặc căn nhà lớn ở quận Nhất và đóng cửa ba cái dưỡng đường to đùng vào ở trong bệnh viện, vì ở một mình buồn lắm!
    Những người chồng bận rộn ơi, nhớ dành thời gian ngắm trăng với vợ và con, đừng để trăng lặn mất, rồi tiếc như hắn! Bạn của tôi!!!


    Tạ Thị Ngọc Thảo
    *************************************************



    MÀU XUÂN

    Màu xuân, với đôi mắt trong veo của thời thơ dại là sắc màu xanh đỏ của áo mới, của phong bao lì xì và vị thơm phức của bánh mứt ngọt ngào.
    Màu xuân, với đôi mắt bâng khuâng của thời trẻ tuổi là sắc màu tím nhạt của mộng mơ và chờ đợi một đêm ba mươi nào đó… anh nói với người phu quét đường… xin chiếc lá vàng làm bằng chứng…

    Màu xuân, với đôi mắt hoài niệm trưởng thành, là màu khói lam chiều rưng rưng thương nhớ…đường về quê xa lắc lê thê…

    Màu xuân của tôi.Thuở nhỏ,mỗi năm tôi thường được về quê ăn tết, đó là những ngày hội hè tôi không thể nào quên.Xứ Huế, xứ của công dung ngôn hạnh, xứ của vàng son một thuở, để những phong tục, lễ nghi tồn tại qua nhiều thế hệ. Một con bé 3, 4 tuổi như tôi biết khoanh tay chúc tết, biết đắn đo lựa chọn giữa bánh măng, bánh mận, bánh hạt sen, bánh ngũ sắc chưng trên những quả bồng với các kiểu gói kỳ công xinh đẹp…

    Tôi mê đắm cái vỏ rực rỡ trước khi mở ra nếm các loại bánh khác nhau.
    Vườn nhà rộng thênh thang với nhiều loại hoa rực rỡ. Trong sân, mấy cây Mãn Đình Hồng cao vút như cây thông với những bông hoa xếp lớp màu hồng đậm. Cúc Đại Đóa vươn cao mạnh mẽ đầy kiêu hãnh. Cúc Mâm Xôi tròn xoáy một vòng vàng tươi, những chậu Cúc Kim nhỏ bé thơm phức mùi thuốc bắc…

    Trên lối đi, những cây hoa hồng nhung đỏ thẫm và hai cây Lão Mai rạng rỡ bung những hoa vàng thoang thoảng mùi hương thanh khiết.Ngoài vườn tre trúc rì rào, những cây chanh , cây ổi , vải và nhãn thơm lừng là nơi bầy dơi trú ngụ ban đêm và các loài chim lãnh lót ban ngày…

    Về Huế, lúc nào tiền lì xì của tôi cũng đầy nhóc, Đỏm dáng như một cô công chúa, áo dài gấm xanh, hài thêu gấm đỏ… ông nội dắt tôi đi long rong quanh xóm, tôi hỏi:
    -Răng nhà ni nhỏ rứa, không có hồ cá thả sen như nhà mình?
    -Tại họ nghèo
    -Rứa nhà mình giàu phải không ông?

    -Nhà mình không giàu, nhưng ba con học giỏi, ba con làm lớn đem tiền về cho ông nội. Mai mốt con cũng phải học giỏi như rứa nghe không!

    Tôi dạ, có lẽ đó là mối bận tâm đầu tiên ray rứt nhất của tôi: nếu học dốt thì sẽ nghèo!

    Ai nói con nít không có những suy tư?

    Có buổi trưa thức dậy, cả nhà ngồi chơi bài trên trường kỷ, không thấy ông nội đâu, tôi chạy ra vườn tìm, ông nội đứng hút thuốc bên hồ cá, tôi hỏi:
    -Răng ông nội không chơi đánh bài?
    -Ông nội không có tiền, họ không cho ông nội
    Tòa lên khóc nức nở vì thương ông nội, ông nội hoảng, ôm chặt tôi vào lòng, dỗ:

    -Ông nội nói chơi thôi, ông nội nhiều tiền lắm, nhưng ông nội ngồi lâu mỏi lưng không chơi nữa.Tôi không có bà nội, tôi không thích bà dì, bà dì có mùi dầu cù là mà bà cứ bôi lên mắt để khóc khi ba mạ tôi về Huế, bà kể lể ông nội khó khăn hay hạch xách này kia…

    Mạ kéo bà vào phòng cho tiền, đưa riêng quà cáp vì sợ mấy cô thấy. Mạ nói với ba:

    kệ, để bà săn sóc cho ông nội vui và mấy cô đỡ khổ.tôi cũng không thích bà dì ôm hôn tôi, vì mùi dầu cù là làm tôi cay mắt, bà cứ ngắt vào hai má tôi bầu bĩnh:

    -Con ni trắng tươi, mắt mí lót, tóc bum bê như Nhựt Bổn.

    Tôi chỉ thích mùi ông nội, mùi khói thuốc nồng nồng thơm phức và những ngọn khói bay bay, mùi long não ấm áp và mịn màng êm mát của bộ áo lụa trắng ông hay mặc, tôi dụi đầu vào đó để ông đong đưa ru ngủ bằng thơ Đường.

    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
    Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
    Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

    Tôi yêu cổ thi từ đó.
    Hạnh phúc tôi, phần lớn mang sắc màu cổ kính của mùa xuân xứ Huế.

    Rồi ông nội mất, Tết Huế của tôi cũng mất biệt luôn dù hàng năm các cô chú cũng gởi về đủ thứ trái cây bánh mứt của nhà làm. Tôi chảy nước mắt khi cô Khánh mở gói mứt mít sấy khô : “Cây mít ni ông nội trồng mà chưa ăn kịp miếng mô!”.

    Rồi cô la mà cô cũng rưng rưng nước mắt:
    – Con khỉ con, nước mắt chi mà nhiều rứa. Cái đồ giòn cười tươi khóc!

    Tuổi thơ tôi bắt đầu nhuốm màu u ám khi ba về nhà với những vệt máu lấm lem trên vai áo vào ngày mùng một Tết Mậu Thân, chiến tranh đã bắt đầu tràn về thành phố. Tôi úp mặt vào hai bàn tay xót xa thương khóc với đứa bạn nhỏ vừa mất cha trong một ngày xuân . Màu xuân của tôi từ đó phải chăng đã nhuốm một màu nhợt nhạt u buồn…

    Ngày ấy, trường nằm cạnh nhà xác và Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Cuối tuần, các Soeurs dẫn cả lớp vào đọc kinh cầu nguyện cho các thương binh hoặc các tử sĩ. Tôi đứng lấp ló ngoài cửa, sợ hãi cái không khí u ám ở những nơi này, lần nào Soeur Hiệu Trưởng cũng nghiêm khắc nhìn cho đến khi tôi lặng lẽ bước vào. Anh Thu thường nắm tay tôi. Cả tay nó và tay tôi đều lạnh ngắt.
    Tôi nhớ, những giọt nước mắt đau đớn của cô bạn xinh đẹp giỏi giang nhất lớp, như mưa, tiễn một thiên thần vào cõi hư vô, đã cuốn hết đi trong tôi bất kỳ một hạnh ngộ nào vì tôi quá sợ một ngày tàn phai…

    Nhiều năm sau, trên con đường nhỏ của một thành phố cao nguyên lồng lộng gió vào một ngày cuối năm âm lịch.

    Người cảnh sát trẻ tuổi ngừng chiếc mô tô và gõ lên cửa kính của một chiếc Toyota đỏ thắm dừng đã rất lâu bên đường, người đàn bà trong xe ngẩng lên nhìn
    -Are you OK?
    – Yes, I’m OK.

    Người cảnh sát nhìn thấy một đôi mắt phương đông ngập tràn nước mắt. Ông ngập ngừng:
    -May I help you?
    – No Thanks, I’m OK

    Ông nhìn theo ánh mắt ấy, phía bìa rừng, một cây cổ thụ với những đóa hoa vàng chi chít rực lên trong chiều hanh hao.Ông hỏi:
    – Today is the last day of the lunar year. Are you Vietnamese?

    Người đàn bà gạt ngang giòng nước mắt :
    -You too?

    Bên ngoài khung cửa kính, người cảnh sát gật đầu nói giọng miền Nam đặc sệt, ân cần:
    – Dạ, con là người Việt Nam, và chúng ta hãy can đảm mà sống tiếp nghe cô.

    Chiều lên, hay chiều xuống ? Giữa một phố núi hắt hiu buồn, gió từ đỉnh Big Bear mang về mùi gỗ mục, thơm như khói của nồi bánh chưng bánh tét nào năm xưa ở quê nhà. Hai người Việt Nam nhìn về một hướng, cây mai vàng bỗng rực lên những tia nắng cuối và nhạt nhòa trong chập choạng chiều buông…

    Bỗng nhớ :
    Hỏi em: em xa xứ
    Hỏi anh: anh xa nhà
    Mời nhau vào quán vắng
    Uống thêm màu mây xa… ( Trần Hoài Thư)

    màu- mây- xa!

    Tôn Nữ Thu Dung
    Last edited by SP500 SPY; 06-01-2019 at 06:31 PM.

 

 

Similar Threads

  1. Bài của Thuỵ Khanh
    By đất in forum Nhân Văn
    Replies: 46
    Last Post: 03-04-2017, 12:07 PM
  2. THEO TRAI (Đoàn Khuê)
    By hongnguyen in forum Truyện
    Replies: 0
    Last Post: 05-17-2015, 11:23 PM
  3. CÔ BẮC - Đoàn Khuê Canada
    By hongnguyen in forum Truyện
    Replies: 0
    Last Post: 05-17-2015, 11:12 PM
  4. NGƯỜI VIỆT TÔI (Nhà Văn Đoàn Khuê, Canada)
    By hongnguyen in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 04-20-2015, 08:02 PM
  5. Quê hương
    By Triển in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 09-09-2012, 01:21 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 05:14 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh