......"

Cô giáo của tôi và lòng yêu nước

Dấu ấn 40 năm Ts. Nguyễn Đình ThắngNgày 29 tháng 12, 2015


Ở tuổi 16, tôi có một cô giáo dạy Anh văn rất đặc biệt. Cô đã thổi vào tâm hồn của người thiếu niên năm nào ý thức về quê hương, lòng yêu nước, và bổn phận công dân khi đất nước lâm nguy. Những điều ấy đã định hướng cuộc đời của tôi trên 40 năm qua. Tôi luôn nghĩ đến Cô với tất cả niềm kính trọng và biết ơn. Cô tên Vinh.

Sau khi tốt nghiệp trường dược, Cô du học Anh quốc, ngành văn chương Anh. Về nước, Cô khởi đầu chức nghiệp giáo viên với lớp của chúng tôi. Năm ấy tôi làm trưởng lớp. Cô Vinh lúc ấy ở độ tuổi 25, 26.

Ngày đầu nhập học, lũ học sinh chúng tôi, trai và gái, đều ngạc nhiên một cách thích thú khi Cô Vinh bước vào lớp. Cô còn trẻ lắm, trông không lớn hơn chúng tôi là bao nhiêu. Vóc người nhỏ nhắn, thon thả và tính tình nhanh nhẩu, tươi tắn làm cho Cô trông lại càng trẻ, tưởng chừng như cô gái vừa xong trung học.

Mặc dù theo Tây học, Cô lại giữ nề nếp truyền thống Việt Nam. Đặc điểm của Cô Vinh là luôn luôn mặc áo dài thướt tha, trong khi các cô giáo khác ở trường tôi hay mặc đồ đầm.

Để làm cho lớp sinh động, Cô hay chơi trò đố chữ. Vừa bước vào lớp, Cô xướng ngay một chữ tiếng Anh và đố học sinh cho chữ tiếng Anh đồng nghĩa, và có khi nghịch nghĩa. Rồi Cô lại bồi thêm chữ nữa, rồi chữ nữa... Vì biết Anh văn từ tiểu học, tôi đối đáp nhanh và không chịu thua chữ nào, làm cho Cô lắm khi phải bật cười.

Ngày qua ngày, đám học sinh chúng tôi cảm thấy Cô Vinh là một người chị gần gũi, thân tình. Các cậu con trai thường hay hỏi thăm Cô về tâm lý nữ giới và Cô rất tự nhiên “tư vấn” cách làm quen và cư xử với bạn gái. Các cô bạn cùng lớp với tôi thì hay hỏi han Cô Vinh về kinh nghiệm trang điểm, trang phục, xử thế ở đời.

Vì là trưởng lớp nên tôi giao du thân mật với các bạn ở trong lớp và khá thân với các thầy cô. Thầy giáo người Pháp dậy môn sử trong lớp của chúng tôi có cảm tình với Cô Vinh, nhưng chỉ âm thầm thôi. Có hôm đang giảng bài trên lớp, thấy Cô Vinh mặc áo dài mầu hồng đi ngang qua, thầy giáo bỏ dở câu nói và đắm đuối nhìn theo. Tôi ngồi ở hàng ghế đầu nên thấy tất cả. Có lần thầy giáo người Pháp bảnh trai này mời Cô Vinh đi xem văn nghệ, nhưng Cô từ chối.

Cô Vinh đã trao con tim cho một bác sĩ quân y người Việt, rất hiền từ và ít nói. Và tên của Thầy, chúng tôi gọi là “Thầy", cũng hiền từ như tâm tính. Những hôm về phép, Thầy đậu xe gắn máy dưới hàng cây phượng vỹ bên kia đường đối diện cổng trường để đón Cô.

Đôi khi, bắt gặp Thầy đang đậu xe chờ Cô, tôi đến chào và hỏi thăm thì Thầy ấp úng như thể đang trồng cây si mà bị bắt “quả tang”.
Tôi đoán ra ngay rằng Thầy thuộc diện “con nhà lành.”

Có lần tôi rủ đám bạn trong lớp đến thăm Cô Vinh ở nhà. Cô sống với Bố Mẹ và anh chị em nơi căn nhà nhỏ thuộc vùng ngoại ô Sàigòn. Thấy chúng tôi đi xe đạp đến, Bố của Cô Vinh bảo: “Mời mấy anh vào nhà ngồi chơi. Để tôi gọi con Vinh ra.”
Chúng tôi ngạc nhiên lắm về cách xưng hô ấy: Bác ấy gọi chúng tôi bằng “anh” còn cô giáo của chúng tôi thì bị gọi là “con Vinh”.

Trong khi các bạn của tôi gần với Cô Vinh vì những tâm sự con trai con gái ở tuổi mới lớn, tôi lại để ý đến những lời tâm tình của Cô về đất nước.
Thỉnh thoảng giữa bài giảng, Cô Vinh lại chêm vào một ít chi tiết về gia cảnh, thân thế. Cô kể rằng Bố của Cô chủ trương gởi con cái đi du học để nên người hữu dụng và học xong thì phải về giúp nước. Mỗi lần chỉ một người con được ra ngoại quốc; người ấy về nước rồi thì người khác mới được xuất ngoại. Như vậy, người con nào học xong cũng cảm thấy trách nhiệm phải về nước để không cản trở việc du học của các anh chị em trong nhà.

“Chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước. Những người được ăn học mà không có lòng phục vụ, thì đất nước còn ra gì? Em trai của Cô du học về thì lập tức lên đường nhập ngũ, đang ở chiến trường miền Trung.”

Cô Vinh còn nói nhiều nữa về quê hương, về cuộc chiến, về nghĩa vụ công dân, về trách nhiệm lịch sử. Tôi say mê nghe những lời tâm sự đứt quãng, mỗi ngày một ít, ấy. Tôi có cảm giác Cô đang nói ra những suy tư và lời tự vấn cho chính mình trước vận nước. Lúc ấy miền Trung đang chịu các mũi tấn công của bộ đội Bắc Việt.

Ít lâu sau các tỉnh miền Trung thất thủ. Tình hình chiến sự căng thẳng và vòng đai bảo vệ Sàigòn ngày càng hẹp lại. Một hôm, bạn bè gọi điện thoại cho tôi báo tin về một vị tướng VNCH vừa tự sát; con gái của Ông thuộc đám bạn của chúng tôi. Sự hồn nhiên vô tư lự của tuổi mới lớn mỗi ngày lại nhuốm thêm mầu u ám. Đám mây đen của nỗi hoang mang và bất ổn bao phủ dần lớp học của chúng tôi.
Vào những ngày cận kề cuối tháng tư, Toà Đại Sứ Pháp ngỏ ý đưa Cô Vinh di tản khỏi Việt Nam. Cô từ khước vì người em trai ở miền Trung đang mất tích.

“Cô là người khuyên em trai về nước và nhập ngũ. Cô không thể bỏ rơi nó,” Cô Vinh tâm sự với lũ học sinh dớn dác và chỉ còn phân nửa -- ngày càng nhiều đứa nghỉ học để theo gia đình đi di tản.

Khi cộng quân đang tiến sát Sàigòn thì Cô Vinh liều lĩnh một thân một mình đi ngược ra miền Trung để tìm em. Cô thuê xe “honda ôm” để vượt từng chặng đường một, băng qua những thôn làng hẻo lánh. Cô đeo hàng chục chiếc đồng hồ “hiệu” khắp hai cánh tay và mặc áo dài tay để che đi. Đến mỗi trạm canh dọc đường cô “tặng” cán bộ chỉ huy một chiếc đồng hồ làm quà mãi lộ. Cuối cùng Cô tìm ra người em trai, đã bị bắt làm tù binh.

Khi Cô về lại thì Sàigòn đã thất thủ.
“Ít ra Cô yên tâm là cậu ấy còn sống,” Cô Vinh tâm sự với tôi.

Nước da vốn ngăm đen của Cô đã trở thành đen sậm. Cô gầy dộc đi.

Chẳng bao lâu sau, chồng mới cưới của Cô, vị bác sĩ quân y hiền từ và ít nói, phải đi tù cải tạo.

Được tin, tôi đến thăm Cô Vinh tại căn chung cư mà Cô đang thuê tạm, ở ngay Quận 1. Bạn bè trong lớp đều đã tứ tán, nên chỉ có mình tôi.
Tôi gõ cửa. Cô Vinh mở cửa mời tôi vào. Sắc mặt và dáng điệu của Cô không còn nét tươi tắn, tháo vát và hồn nhiên ngày nào.
Cô dẫn tôi vào căn phòng khách tù mù, dù ngoài trời đang nắng ban trưa chói chang. Mọi cửa sổ đều đóng kín, chỉ có ngọn đèn mờ.

Cô không nói nhiều. Tôi hỏi thăm về Thầy – chồng của Cô, rồi người em trai, rồi gia đình... Cô chỉ trả lời lấy lệ cho xong.

Tôi không ngạc nhiên lắm vì quanh tôi, đâu đâu cũng vậy:
sự e dè, nghi kỵ và hãi sợ đã thay thế bản chất tin người, hiếu khách và vồn vã của xã hội miền Nam.
Niềm tin, là chất keo sơn gắn bó đồng bào với nhau qua bao thăng trầm của lịch sử, chỉ qua một đêm bị chế độ mới xoá sạch, không còn gì.

Tôi ra về mà lòng buồn man mác, buồn cho Cô giáo trẻ mới hôm nào tràn đầy nhựa sống và lý tưởng, buồn cho lớp bạn trai và gái mất tuổi hồn nhiên và đang tản mác bốn phương trời, và buồn cho đất nước đắm chìm trong bóng tối của một chủ nghĩa man rợ.
Đó là lần cuối tôi gặp Cô Vinh.

Bốn năm trôi qua. Bố mẹ tôi đã dắt díu tôi và hai đứa em vượt biển đến Mã Lai rồi 7 tháng sau thì đến Hoa Kỳ định cư, vào mùa hè 1979.
Năm 1983 tôi đang theo chương trình tiến sĩ thì một hôm bất chợt gặp lại Cô Vinh... trong giấc mơ lạ. Trong giấc mơ, Cô nhắc lại lời nói năm xưa: “Chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước. Những người được ăn học mà không có lòng phục vụ, thì đất nước còn ra gì?”
Mặt Cô nghiêm nghị như tỏ vẻ trách mắng.

Thức dậy, tôi vã mồ hôi, và tư lự nhiều ngày sau đó về lời nhắc nhở từ quá khứ vọng đến.

Tuần sau, một người bạn ở xa báo tin là Cô Tường, một cô giáo năm xưa và quen với Cô Vinh, vừa đến định cư ở Texas, và cho tôi địa chỉ. Tôi viết thư ngay cho Cô Tường để chúc mừng Cô và gia đình đến được bến bờ tự do. Tôi cũng hỏi thăm về Cô Vinh và kể về giấc mơ.
“Cô ạ, tuần rồi em vừa nằm mơ thấy Cô Vinh. Thông điệp đến từ Cô Vinh là, liệu có thể yên tâm ăn học khi dân tộc đang lầm than và đất nước đang điêu linh? Ở tuổi 16, em đã học được từ Cô Vinh tình yêu tổ quốc nên biết rõ mình phải làm gì. Dù Cô Vinh hiện ở chân trời góc biển nào, em vẫn mang ơn Cô Vinh đã cho em ý thức sống cho nên người.”

Cô Tường cho biết là chính cô cũng nhiều năm dò hỏi mà vẫn chưa tìm ra tăm hơi về Cô Vinh.

Ngày tháng trôi qua, tôi mất liên lạc với Cô Tường; không biết giờ này Cô ra sao.

Cách đây mấy năm, tại một buổi họp bạn trường cũ, có người cho biết là đã liên lạc được với Cô Vinh và Cô hiện đang làm việc ở một Toà Đại Sứ Pháp bên Phi Châu. Tôi chưa viết lời nào thăm Cô vì không dám chắc Cô còn nhớ cậu học trò trưởng lớp năm xưa, ở thế kỷ trước.
Nếu do một tình cờ nào mà Cô Vinh đọc được những giòng chữ này thì xin Cô hiểu rằng, những lời tâm tình ngẫu nhiên của Cô năm xưa đã để lại dấu ấn sâu đậm lên một cậu học trò ở tuổi 16 sang 17.

Các người bạn trong lớp của tôi có thể quý Cô vì sự bình dị và thân tình như người chị lớn.

Còn với riêng tôi thì Cô là người đã chỉ ra ánh sao Bắc Đẩu giữa cơn gió bụi của cuộc đời, khi mọi ngả đường bỗng trở nên mịt mù vô định.
Lời Cô nhắn nhủ mà tôi ghi tạc: Dù trong hoàn cảnh nào, hãy lấy tình yêu quê hương và bổn phận với đất nước để định hướng đường đời.

Ở tuổi niên thiếu, có những thầy, cô đã ảnh hưởng lên tư duy của lũ học sinh chúng tôi.

Cô giáo Tường dậy cho tôi truyền thống văn hoá của tổ tiên.
Thầy giáo Cửu tạo cho tôi niềm đam mê văn chương Việt ngữ.
Cô giáo Villeneuve dẫn tôi đến các nền văn hoá của nhân loại.
Thầy giáo Louis mở rộng kiến thức cho tôi về lịch sử thế giới.
Còn Cô Vinh, cảm ơn Cô đã cho em lòng yêu nước.


Viết từ Edmonton, Canada vào một ngày cuối năm




****************************************
Lòng Khoan Dung

Tôi còn nhớ năm tôi học lớp nhất, 11 tuổi. Ngày đầu niên học cô nói: “Các em ngoan ráng học, em nào cô cũng thương như nhau!”

Một hôm tôi bị cô giáo đánh vì tội đánh lộn với những đứa trẻ khác. Tính tôi ít nói cũng là một điều thiệt thòi, hai đứa kia nói là tôi đánh chúng trước nhưng thật sự là chúng đánh tôi trước, tôi cãi không lại. Cô biết tôi là đứa thường hay đánh lộn vì tính ít nói. Thế là cô đánh tôi mười roi, roi mây. Tôi ráng cắn răng không khóc trước bạn bè, nhất là mấy đứa con gái, nhưng vì đau quá cuối cùng tôi khóc !


Một tuần sau đó, cô giáo bị cơn đau tim hoành hành rất nặng và được đưa vào bệnh viện, ông Hiệu Trưởng vào dạy thế. Chiều hôm đó, sau khi tan học tôi đạp xe từ nhà ở Chợ Lớn ra mũi tàu, Phú Lâm. Sau khi dấu chiếc xe đạp trong đống rơm, tôi lấy bao ra hái trộm cam, quít và chuối. Thật sự tôi cũng không muốn làm chuyện này, nhưng vì không tiền mua. Ông chủ vườn bắt gặp, cột tôi vào cây.

Trong lúc ông chủ vườn trở vào nhà nấu nước pha trà, bà chủ vườn ra mở trói và nói: “Sao con hái trộm vậy?”
Tôi nói: “Cô giáo con đang nằm ở bệnh viện, con muốn đi thăm mà không có tiền mua gì cho cô!”
Bà đưa luôn cho tôi bịt trái cây và nói: "Ông đang nấu nước pha trà, chạy mau lên !"


Tôi mang bao trái cây vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm cô.
Cô giáo ôm tôi khóc và cầm bao trái cây lên nói: "Cô không muốn em làm chuyện này nữa."
Tôi nói: "Dạ !"
Cô nói tiếp trong nước mắt nghẹn ngào: “Tuần rồi em đánh lộn, cô đánh hơi nặng tay, em có giận cô không?”
Tôi nói: “Dạ không!”
Cô nói: “Từ nay em ráng lo học, đừng đánh lộn nữa.”
Tôi nói: “Dạ !”


Từ đó về sau, tôi nghe lời cô, không đánh lộn nữa, mặc dù những đứa khác vẫn kiếm chuyện, nhưng tôi nhịn chúng. Tôi hay ở lại hỏi cô những gì tôi không hiểu trong bài học, cô vui vẻ giãi thích cho tôi. Tháng nào tên tôi cũng ở trên bảng danh dự của lớp. Đám học sinh thường kiếm chuyện cũng bắt đầu làm hòa với tôi. Cuối năm đó tôi được lãnh phần thưởng ưu hạng, và đậu vào lớp Đệ Thất.

Sau nhiều năm xa cách, tôi trở về thăm cô. Cô bây giờ già nhiều, tóc bạc hết mái đầu.
Cô nói: "Bao giờ về Mỹ con đến đây cô có quà cho con."
Tôi trở lại, cô đưa cho tôi một bao trái cây cam, quít và chuối. Tôi ôm cô thật chặt và khóc trên vai cô.


Năm 1994 tôi trở về thăm, cô không còn nữa. Người cháu gái dẫn tôi ra thăm mộ. Tôi mua một đĩa trái cây cam, quít và chuối đến cúng cô, tôi nói: "Ngày xưa cũng những trái cây này con đã ăn cắp, cô nhận, bây giờ con mua bằng tiền con làm ra mà cô không còn nữa để nhận. Cô ơi! Trong câu truyện này cô khóc chỉ một lần, mà con phải khóc tới 3 lần. Thôi, cô yên nghĩ, con sẽ thương cô cho tới ngày con nhắm mắt!"

Tôi trở về, những tia nắng chiều xuyên qua kẽ lá. Nhìn lên bầy chim sẻ đang tung tăng nhảy múa, vui hót trên cành không giận hờn, không trách móc, không oán hận.

Hieunguyen11

************************************************** ****************
Tôi là một học sinh không dạy nổi





Tôi là một học sinh… không dạy nổi. Tất cả các thầy cô giáo đã dạy tôi đều nhận xét như vậy với ba mẹ tôi.
Chưa có lớp học nào chịu thu nhận tôi quá một tháng.
Mẹ tôi khóc. Bố thở dài: thằng này vậy là coi như xong...

Chuyển qua trường mới. Nhìn sơ qua học bạ, thầy hiệu trưởng đã muốn đuổi tôi đi nhưng nể tiếng ngoại tôi là giám đốc ty giáo dục cũ, thầy đành nhận. “Tôi sẽ xếp em vào lớp thầy Tiến”.

Thầy dạy lớp tập hợp toàn học sinh cá biệt của trường. Ngày đầu tiên vào lớp, bố đích thân dẫn tôi đến “trao tận tay thầy”. Tôi lén quan sát “đối thủ” của mình. Thầy gầy gò, mang cặp kính gọng đen nặng trịch, mắt nhướng lên nhìn sát mặt tôi “A, con trai, để xem thầy làm được gì cho con không, khá đây”. Thầy xếp tôi ngồi với một con nhóc tóc tém mặt mũi lanh lẹ. Nó khẽ hích vào vai tôi giành chỗ ngồi rộng hơn. Tôi đành chịu vậy, chưa bao giờ tôi đánh con gái cả. Thầy thắng tôi 1-0 rồi.

“Thầy biết tại sao em dây mực vào áo bạn”, thầy nói với tôi khi Tú còm mếu máo mách chuyện.

Sao ông ấy lại biết nhỉ? Mình đã khai gì đâu. Trước đây, mỗi lần tôi dây mực vào hầu hết các trò trong lớp các cô đều hỏi tại sao, các thầy thì ngay lập tức thi hành hình phạt. Bao giờ tôi cũng bịa ra một chuyện mà mình là nạn nhân. Tôi mặc sức bịa dù chẳng ai tin. Tôi cũng chẳng quan tâm hình phạt là gì và có ai tin hay không.
Vậy mà hôm nay thầy bảo là thầy biết. Ngạc nhiên hơn là thầy chẳng phạt tôi gì cả.

Thầy chỉ nhỏ nhẹ bảo tôi: “Lần sau em nhớ cẩn thận hơn”.
Mấy hôm sau nữa tôi lại vẩy mực lên áo 3 nạn nhân nữa.
Thầy vẫn bảo biết rồi và không phạt. Tôi đâm chán trò vẩy mực cũ rích chẳng ấn tượng này.

Thời ấy chúng tôi đứa nào cũng mang kè kè tấm bảng và mấy mẩu phấn. Ra chơi, tôi gom hết phấn ném vào lũ con gái nhảy dây trước sân. Hết buổi học tôi xô lũ bạn ngã dúi dụi, chạy ngay ra cổng trước.
Đứa nào xấu số đi qua chỗ tôi đều bị tịch thu hết phấn thừa. Hôm sau thầy gọi tôi lên phòng họp.
Thầy mở tủ ra, ấn vào tay tôi hộp phấn to đùng mà không nói gì. Tôi xấu hổ quay mặt đi tránh ánh nhìn của thầy. Tôi nhớ mình đã lì mặt ra như thế nào khi cô giáo cũ mắng tôi, hôm sau tôi càng lấy phấn nhiều hơn nữa. Vậy mà khi cầm hộp phấn thầy cho trong tay, tôi thấy xấu hổ quá chừng.

Ôm hộp phấn lên trả cho thầy, tôi lí nhí: “Lần sau em không làm thế nữa”.

Thầy mỉm cười bảo: “Em ngoan lắm!”.

Lần đầu tiên tôi được người lớn khen ngoan. Tôi nằm nghĩ cả đêm.
Từ nay mình sẽ ngoan mãi, để không ai mắng mình nữa.

Nhưng ngoan chưa chắc đã giỏi. Quả thật tôi đúng với trường hợp ấy. Tôi có thể bắn bi, chơi bắn bàng cả ngày không chán. Nhưng hễ cứ ngồi vào bàn học là tôi chán ngay. Ba mẹ có đánh, có mắng thế nào cũng chịu.
Môn toán còn đỡ, có tí gì dính đến văn chương là tôi mù tịt.

Vào học được một tháng, tôi thấy thầy đạp xe qua nhà. Chiếc xe của thầy chẳng biết trước đây sơn màu gì, giờ chỉ còn trơ ra màu gỉ sét xấu xí. Thầy vào nhà, ba mẹ tôi đều đi vắng cả. Ngó qua căn nhà tồi tàn của tôi, thầy hẹn ngày mai quay lại. Tôi lo hết cả một ngày. Chẳng biết mình làm gì sai. Hôm sau thầy đến.
Thầy đứng luôn ngoài sân “bàn chuyện” với ba tôi.

Thầy bảo cần một người đọc và ghi chép lại tài liệu giúp thầy. Nhất thiết phải là chữ trẻ con.
Thầy đang nghiên cứu gì đó. Ba mẹ tôi mừng rỡ vì không phải khản cổ quản tôi nửa ngày không đến trường.
Tôi vùng vằng mãi mới chịu đến nhà thầy. Thầy ở một mình. Ngoài giá sách ra cũng chẳng có gì đáng giá.
Mỗi ngày một buổi, tôi gò lưng ghi chép lại những gì đọc được.

Thầy bắt tôi viết những dòng cảm nhận ngắn sau mỗi tác phẩm.
Sau đó tôi đọc to lên và thầy chỉnh sửa những điều tôi nghĩ lệch lạc, thêm vào một số ý.
Thỉnh thoảng thầy bảo tôi dừng ghi, chuyển qua tính toán giúp thầy vài việc.
Tôi về nhà cố luyện cách tính toán sao cho nhanh nhất để không bị mất mặt trước thầy.
Dần dần, kiến thức “tự nhiên” đến với tôi lúc nào không biết.
Lần đầu tiên cầm tờ giấy khen của tôi trên tay, mẹ tôi đã khóc, khóc to hơn lúc tôi bị đuổi học.
Ba tôi thì chẳng nói gì, chỉ gật gù cười.

Năm học qua đi nhanh chóng. Tôi nghỉ hè vẫn không quên đọc và ghi chép lại một chồng sách cao ngất ngưởng thầy giao trước khi nghỉ học. Ngày khai trường, tôi tìm mãi vẫn không thấy thầy đâu.
Linh tính điều không hay, tôi bỏ cả buổi lễ chạy đến nhà thầy. Căn nhà trống hoác.

Bác hàng xóm nghe chó sủa ran chạy sang xem xét. “Cậu là Phong hử?”. “Dạ”.
“Thầy Tiến gửi cái này cho cậu. Thầy ấy bảo chuyển vào Nam ở với con trai”.
Tôi vội vàng mở ra, bức thư rất ngắn.
“Thầy mong em cố gắng học thật tốt. Em luôn là học trò ngoan của thầy”.

Mười năm qua đi, tôi mới hiểu hết những gì thầy muốn nhắn.
Có những điều không hay nhưng không thể thay đổi bằng sự giận dữ.
Tình yêu thương và sự sáng tạo mới là thứ giúp bạn thay đổi mình, thay đổi mọi người.

Cảm ơn thầy với phương pháp dạy đặc biệt đã giúp em trưởng thành.
Cám ơn Thầy của em!


*******************************************




ÔNG THẦY DẠY SỬ


Vương Mộng Long


Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).


So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học. Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.


Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.


Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,

“Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.

Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,

– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở, – Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.

Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, – Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.


Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng-Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam.


Họ đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,

– Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.

Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,

– Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,

– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,

“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”

Tôi cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.


Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.


Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,“Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

– Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,

“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”


Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,

-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?

– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!


– Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,

– Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”

Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,

“Long! I’m proud of you!”

Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,

“My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.


Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.




Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,

“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”



Seattle tháng 7 năm 2011 Vương Mộng Long-K20


************************************************** ********************
Cổ tích mùa xuân

Cổ tích mùa xuân được viết dựa theo một câu chuyện có thật. Khi nhà bảo vệ thú rừng nổi tiếng Lawrence Antony (1950-2012), tác giả của cuốn sách bestseller The Elephant Whisperer, từ trần ngày 7 tháng 3 năm 2012, 2 ngày sau, gia đình ông ngạc nhiên chứng kiến cảnh nhiều voi được dẫn đầu bởi hai voi mẹ, nối đuôi nhau đi hàng dặm đến viếng tang trước nhà ông. Chúng lưu lại trước nhà như để tang, hai ngày không ăn uống rồi im lặng ra đi. Cả thế giới kinh ngạc trước trực giác tâm linh, năng khiếu siêu nhiên cũng như bản tính trung thành của loài voi.


Theo truyền thuyết voi tượng trưng cho sự cao quý và thịnh vượng của mùa xuân, của tin mừng đản sanh như cơn mộng của hoàng hậu Maya thấy voi trắng sáu ngà trước khi hạ sinh Đức Phật. Câu chuyện thật cho thấy một trong những đức tín cao đẹp là nhớ ơn người vun trồng sự sống, đức tính bẩm sinh của loài voi, như một điều kiện sinh tồn.
Cổ tích mùa xuân được viết trong lúc chờ đợi sự ra đời của cháu ngoại, thân tặng các em thiếu nhi (Thái Kim Lan)






26/01/2016 10:43 -


Từ xa vọng về tiếng chuông; ngân rền rĩ, A Nan nghe trong gió tiếng cười ấm áp rất quen thuộc đối với A Nan. Trong đời A Nan, chỉ có tiếng cười ấy đọng lại mãi trong trái tim vô ưu, hồn nhiên của mình. Mỗi khi nghe tiếng cười ấy, A Nan thấy mọi cơn giận dữ biến mất, nghe mình tự tại trong thân xác, cảm thấy niềm vui và an bình hạnh phúc như khi ăn khúc mía lau ngọt bùi.

A Nan choàng dậy từ một giấc mơ lạ lùng, thấy chân mình hẫng đất như có ai nâng lên rồi thả xuống bất ngờ, A Nan hoảng hốt đạp bốn chân loạn xạ, để đừng rơi, vừa may như có bàn tay nào đó kịp đỡ lấy tấm thân khổng lồ rồi đặt xuống nhẹ nhàng cùng với tiếng cười khà khà.

A Nan nghe tim hồi hộp, xao xuyến, linh tính có điều gì khác lạ xảy ra. Đưa cái vòi dài ngoằng ra khỏi ổ cỏ ấm, A Nan, voi đầu đàn xứ Sa Na Nam Phi, đứng lên, chậm rãi đi vào trong sương mù, mắt nhắm, theo trực giác của bốn chân chắc nịch, theo hương thơm của cây lá dẫn đường.

Rừng Sa na chìm trong sương mai, hơi lạnh còn ôm đồi núi chập chùng, chưa để mặt trời ló dạng. Hoa lá cỏ cây im lìm mê ngủ.
Khi mở mắt ra A Nan thấy mình đang đứng trong vùng mía lau rậm rạp. Bỗng dưng nước mắt ràn rụa, A Nan khóc.
Có điều gì đây, sao bỗng dưng chân ta bước đến đây, và nước mắt ta chảy?

A Nan hít một hơi, phóng vòi lên không,rồi kinh ngạc hạ vòi, hắt hơi. Hương mía lau quen thuộc hôm nay phảng phất mùi úa tàn, tựa mùi lá chết. A Nan nhìn quanh, quả nhiên cánh đồng lau hôm nay như đang gục đầu, màu lá vàng tả tơi, xơ xác chứ không tươi mát như mọi ngày. Không gian u tịch bỗng run rẩy trong khí lạnh từ xa đưa tới. Mây đen một dải vắt ngang trời, hắt một vài giọt mưa lạnh trên vành tai rộng như cánh quạt. A Nan lắng nghe… và nhớ…

Từ xa vọng về tiếng chuông ngân rền rĩ, A Nan nghe trong gió tiếng cười ấm áp rất quen thuộc đối với A Nan. Trong đời A Nan, chỉ có tiếng cười ấy đọng lại mãi trong trái tim vô ưu, hồn nhiên của mình. Mỗi khi nghe tiếng cười ấy, A Nan thấy mọi cơn giận dữ biến mất, nghe mình tự tại trong thân xác, cảm thấy niềm vui và an bình hạnh phúc như khi ăn khúc mía lau ngọt bùi. Nhớ tiếng cười vang trong vành tai, lập tức A Nan thấy rõ khuôn mặt hiền hậu của vị ân nhân.

Tiếng cười và vị ngọt đã chữa lành vết thương chí tử của A Nan khi A Nan bị thương và chạy lạc vì đoàn người đi săn man rợ và hung hãn truy đuổi, đánh bắt đoàn voi. A Nan lúc ấy còn là cô voi mới lớn, đang mang em bé trong bụng, chạy trốn vào hốc đá và ngất xỉu, cho đến khi một nắm mía ngọt được đưa vào miệng. Mở hé đôi mắt, A Nan thấy hàm răng trắng đang phô lấp lánh trong nắng, và tiếng khà khà vui mừng từ một gương mặt trắng, nhiều râu, hơi giống bộ lạc Tều Ông trên đỉnh núi, nhưng sáng sủa và đẹp hơn.

A Nan ở lại khu rừng mía lau này và lập đàn, với sự giúp đỡ tận tình của An Tôn, vị cứu tinh. Đoàn voi gọi ông thuở thanh niên là chàng râu vàng, thân thiết. Râu Vàng đã tự tay trồng thêm mía trong rừng lau mỗi khi đến thăm A Nan cùng với đoàn voi, chăm sóc A Nan, đem thuốc men và vỗ về, cứu chữa cho từng con voi mỗi khi cần. Từ đó trong lòng A Nan, An Tôn và tiếng cười luôn luôn hiện diện, hơi thở của An Tôn, dù xa xôi mấy A Nan cũng cảm nghe như cảm nghe chính sức sống của mình.

Hôm nay mía của An Tôn ủ rũ và A Nan nghe chất đắng trên lưỡi khi chạm vào. Trong gió, A Phi ngửi và thấy thiếu hương thơm hơi thở mía lau của An Tôn, chỉ nghe hơi lạnh chuyền đi trên từng đám lau đến run mình.

Bỗng như chợt nhận ra tín hiệu, A Nan rống lên thảm thiết: "Bạn ta, người ân của ta hết thở rồi!”.
A Nan khuỵu chân, quỳ xuống, cong vòi khóc nức nở.

Có tiếng thở dài và một cái hôn vòi nhẹ trên đầu, Fi Fi đã lặng lẽ theo A Nan ngay từ lúc A Nan bước đi trong cơn mơ, đã đứng đó bên cạnh, bởi vì chính Fi Fi cũng như A Nan đã nghe tim mình nhắn nhủ rằng người bạn họ thương quý không còn nữa. Phi Phi làm sao quên được bàn tay hiền dịu của An Tôn ngày sinh bé Fi Anh. Chính bàn tay ấy đã đỡ Fi Anh và lau sạch vết thương bị chó sói vồ trước khi hạ sinh bé. Nếu không có ông, Fi Fi đã mất đứa con trên đường. Đêm hôm qua, Fi Fi cũng nằm mơ mình đang rơi, đang rơi vào một nơi xa lạ, lạnh buốt bụng và chân.

A Nan và Fi Fi chụm đầu vào nhau, dìu nhau đi. Vòi chúng kéo lê lết trên đất, như tìm vết chân của An Tôn đã từng dẫm nơi chốn này, những hòn sỏi lăn theo nghe cũng như khóc, cả hai đến bên bệ đá ở bờ sông, nơi An Tôn thường ngồi nhìn đàn voi tắm nắng và cười sảng khoái những khi Fi Anh phun vòi nước vào ông đòi ông tắm cùng.
Họ đứng đó nhìn về phia mặt trời mọc, cung kính, lặng lẽ chịu đựng như từ bao giờ.

Khi đôi bạn trở về đàn, tiếng rầm rì thảng thốt tưởng như không dứt. Thì ra tin ngài Râu vàng An Tôn không còn thở trên cõi thế, đàn voi đã truyền nhau, đúng hơn, đã cùng biết một lúc. Cả đoàn voi chụm vòi lại với nhau trong một cuộc hội đàm cảm thông, tiếng thút thít nhè nhẹ. An Đô, trưởng lão dòng Yô Gi, được An Tôn cứu sống trong trận địa chấn Nam Ấn, lên tiếng trước:

"thế là chúng ta mất người anh cả thân yêu nhất, đã hơn một năm nay chúng ta không có dịp gặp nhau.
Thế mà người không còn thở nữa."

Vòi của Ân Đô lòng thòng nước mũi, đến thương. Ga Ga vợ của ông vội vàng đưa vòi lên hút rồi đấm vào lưng nhè nhẹ để bớt ho.
Cả đoàn đứng tụm vào nhau, vòi đong đưa buồn bã. Hồi lâu A Nan lên tiếng:

"ngày mai ta lên đường lúc canh ba, đến viếng người bạn thân yêu"


A Lao, bác voi hiền nhất trong đám, chống gậy tiến lên, chân bác bị thương trong rừng rậm xứ Lào, khi dẫm phải một hầm chông. Thuở ấy bác là chú voi con kháu khỉnh nhất rừng sâu, bác bị chụp lưới siết chặt, May sao cứu tinh An Tôn xuất hiện, cùng với phái đoàn bảo vệ súc vật, và A Lao được khiêng về trạm xá cứu thương, sau đó được An Tôn dẫn theo cho đến Nam Phi. A Lao vốn ít nói nhưng khi lên tiếng thì rừng cây rung chuyển, làm cho chim chóc đều giật mình, bay loạn cả lên kháo nhau sắp có chuyện lớn:

"đúng quá, tôi sẽ đi cùng với các con của tôi. Chúng tôi mang ơn An Tôn đã cứu mạng và đem lại tự do cho chúng tôi".
"bố ơi tự do là gì hở bố?", A Lan vừa chúi đầu vào mẹ Ga ga, ngước vòi hỏi.

"ờ, tự do của voi là được ở trong rừng sâu, là không bị con người ác bắt về làm nô lệ, là… là khi đi, khi đứng đều là voi, ung dung như bố, tự tại như mẹ"

A Lan hiểu ngay mẹ:
"ông An Tôn là người tốt, vì ông cho voi nhà mình tự do bố hả?"
"ừ đúng rồi, ông là con người thật tốt, ông là ân nhân cứu sống cả đoàn voi chúng ta"

"ông cho con cục đường và tiêm thuốc trừ bệnh cho con", A Lan xinh xắn nhớ giỏi, không quên một điều gì khi nghe cha mẹ dạy bảo.

Nghe những lời ấy, cả đoàn voi dồn lại gần nhau hơn vì xúc động. Bấy giờ I Ri, chú voi của đoàn xiếc một thời nổi tiếng ở thành Bá Đa, đưa vòi chặm nước mắt chảy đầy cả mặt. Còn nhớ ngày ấy ông An Tôn cứu cả vườn bách thú ở thành Bá Đa, trong đó có bố mẹ I Ri, trước khi trận ném bom khủng khiếp nhất thế kỷ xảy ra. I Ri rất hay khóc mỗi khi có chuyện vui hay buồn, lắc lư vòi, I Ri nói:
"ông An Tôn ơi, cháu nhớ ông, cháu thương ông"

Cả đoàn voi, từ già đến bé đều nhớ bàn tay chăm sóc của An Tôn, từng xoa dịu vết đau trên thân thể, nhớ tiếng nói ôn hòa ngọt ngào làm cho voi an lành, yên ổn, từng đem vui đến với tiếng cười rộng lượng vang trong tai. Đoàn voi đứng như thế hàng giờ, cho đến khi mặt trời lên quá ngọn tre.

Thế rồi I Ri chợt nhớ ra một ý. Chú ngoắc Phi Anh và A Lan, dẫn hai đứa nhỏ ra bờ suối, vớt hoa tươi từ suối núi chảy về. I Ri nhớ lời An Tôn chỉ bảo không được đốn cây, bẻ cành, ngắt hoa, không phá phách rừng, để cây cỏ bình an, chỉ nên lượm hoa trên núi mỗi khi gió đùa. Những lúc ấy có vô số hoa, lượm mãi không hết.

Khi Tu Tu, chú thỏ láng giềng được mẹ cho chạy chơi sau buổi ăn sáng đến tìm Fi An và A Lan ở bờ suối, Tu Tu trố mắt trước vô số hoa rừng trên bãi cỏ, còn Fi Anh và A Lan thì đang dùng vòi tiếp tục vớt hoa đang trôi theo dòng, trông rất ngộ nghĩnh mà cũng rất tài tình như khi Tu Tu đi coi đàn xiếc Tều Ông. Hai chú voi con quăng vòi ra xa như khi người ta ném cần câu cá, hút hoa vào vòi rồi phun ra trên bãi cỏ. Phì phì, vù vù.

Tu Tu nhảy quanh và hỏi:
"hai bạn ơi, vớt hoa làm gì nhiều thế?"
"để làm vòng hoa bạn ạ", A Lan dành trả lời
"tại sao làm vòng hoa, có đám cưới hả?"

Fi Anh nói:
"không, để tặng!"
"quà sinh nhật hả??"
"không, kết hoa, vì ông An Tôn không còn nữa"
"Ồ ông An Tôn, ông hay cho kẹo Tu Tu và cả củ cải ngọt, lại tiêm thuốc sốt cho em Tu Ti, vì sao ông không còn?"
"vì ông không thở nữa, đàn voi không nghe và không ngửi hơi thở của ông nữa"
"thế là sao, có phải ông chết không? Như con chồn hôm nọ bị cọp vồ, nó cũng không thở nữa, mẹ nói nó chết!"
"A Lan không biết đâu, em voi chỉ biết ông không thở và ông sẽ không đến thăm voi A Lan và Phi Anh nữa"
"Khuya nay đoàn voi đi đến nhà ông An Tôn, Tu Tu đi không?" A Lan nhanh nhảu
"nhưng đoàn không cho ai xen vào…" Fi Anh thật tình bảo.

Tu Tu toan nhảy đi thì chú I Ri đến bảo:
"Tu Tu qua bên bác Nhện Như Ý mua dây về kết hoa nhé, dây bác Nhện kéo rất bóng, kết hoa đẹp"


Bác Nhện nổi tiếng xe dây chuối tước từ thân cây chuối, phơi khô, chuốt bóng, rồi cẩn thận lấy màn nhện xe lại bọc ngoài dây một lớp, còn đẹp hơn cả dây ni lông ở phố chợ. I Ri đã từng làm xiệc đu dây, nhưng chưa thấy có sợi dây nào đẹp bằng sợi dây của nhà Nhện Như Ý xứ Sa Na. Ngài An Tôn cũng đã từng khen ngợi loại dây này, hôm nay kết vòng hoa bằng dây này, chắc ông sẽ cười khà.

Tu Tu vui vẻ vâng lời, vì Tu Tu bụng bảo dạ là khuya nay sẽ theo đoàn voi, sẽ báo với Tễu nhi, chú khỉ con cùng lứa, và cả Trảo Nhi, cô chim nhiều màu, đang lắng tai nghe cuộc đối thoại trên cành, sớm mai thức dậy đi theo…

Trăng còn chiếu xuyên ngọn tre khi đàn voi thức dậy lên đường. Mỗi voi đeo một vòng hoa mà I Ri đã cùng với các mẹ voi tự xâu lấy.
Trước khi đi, A Nan từ tốn căn dặn đàn voi, cuộc đàm thoại không bằng tiếng mà bằng vòi, thật ra A Nan cũng không cần căn dặn, vì voi nào cũng thương mến An Tôn. Voi đi vì thương, vì nhớ ơn nên bước chân đi.

A Nan đi đến từng voi một, thoa nhẹ vòi mình với vòi bạn thân thiết:
"Mình như thế nào thì đi đứng như thế ấy, không làm điệu bộ vẽ vời rắn rít nhé. Yên lặng, thương mến. Tưởng nhớ An Tôn là như thế , là VOI từ trong tim"

Những lời ấy mọi voi đều hiểu, thế nào là voi, thì voi là voi.
"Bố ơi, con đi như thế này được không bố"

Bu Ti bé voi nhỏ nhất bước ra, hai vai khuỳnh khuỳnh, vòi cong, lưng tròn lúc, mắt ngước lên, đầu cúi xuống , bước vài bước cho tất cả xem, một bước, hai bước, ngây thơ, ngoan lành, đúng là em voi con thiệt dễ thương. Nhưng A Lan nheo mắt bảo:

"Đuôi của em cụp vào là em sợ, em không sợ, em thong thả mà đi như ngày thường." A Lan nhỏng đuôi của mình ra làm kiểu, thế này này.
Và đoàn voi đứng vào hàng một cách tự nhiên, voi lớn đi trước, voi mẹ theo sau, voi con bên voi mẹ, hàng chục nhà voi sắp theo hàng một, không lộn xộn hàng hai!

Voi sau nối vòi với đuôi voi trước, từ tốn, nghiêm chỉnh, hiền hòa, như nhiên, không hích nhau, không chèn nhau.

A Nan và An Đô bước lên dẫn đầu. Và cả đoàn im lặng tiến bước. Mỗi bước là mỗi nhớ, này khóm cây, này ngọn đồi, con đường đã đi từ lúc gặp nhau, giúp nhau. Nhớ là sống, không nhớ, voi sẽ lạc đường, voi sẽ không sống còn, sẽ không tự cứu mình và cứu đàn.
Biết bao lần thoát nạn nhờ tìm đến được An Tôn kịp thời. Voi thuộc con đường đến nhà người ân nhân, quãng đường dài mấy mươi dặm, mỗi bước voi đi là đi với An Tôn trong tưởng nhớ, trong tri ân.

Đoàn voi vừa cất bước, khu rừng Sa Na đã náo động.

Mẹ gấu bồng con ra khỏi hang, nhìn theo chép miệng: "gớm, đúng là voi!"

Chú Cáo trong bụi nhìn ra, lẩm bẩm: "không biết được thưởng cái gì mà đi thế nhỉ!"

Ông hổ vươn vai: "ôi loài ăn cỏ là như thế!”, ông định nói "đần độn" nhưng bỗng ngượng mồm, và bỗng thấy nể sợ đoàn voi hùng hậu đang tiến bước.

Bà phù thủy Trăn từ trên cây nhìn xuống đàn voi, the lưỡi thèm thuồng: "sẽ có một ngày ta quàng khăn quyến rũ bé Bu Ti và nuốt vào lòng…" Bà bỗng rụt lưỡi như vừa nhìn thấy đôi mắt nghiêm khắc của An Tôn chiếu nhìn mình.

Lão Cú lừng danh giỏi chữ, nhìn theo, thông thái, gật gù: "hình như một nếp văn minh mới bắt đầu?"

Chuyến hành hương của đàn voi nhớ ơn đã làm kinh ngạc thế giới con người trong thế kỷ 21, báo chí khắp hoàn cầu đã tường thuật chuyện đàn voi biết ơn.
Nhưng họ quên một chi tiết mà phóng viên bí mật thỏ Tu Tu đã ghi lại trong nhật ký:

Trong 2 ngày 2 đêm, đàn voi đã im lặng chịu tang trong mặc niệm, không ăn uống. Khi chúng rời khỏi khu vườn, vườn cây vẫn y nguyên không bị giẫm đạp và có rất nhiều chuổi hoa tươi treo trên cành, như cảnh tượng mùa xuân mà An Tôn đã đem lại cho đàn voi.

Bangkok tháng 11/ 2013


Cây dù




Chuyện này từng xảy ra mấy chục năm, nhưng nghĩ lại, trong lòng tôi cảm thấy đau đớn, và luôn tự trách bản thân.
Lúc đó tôi 30 tuổi. Vào một buổi chiều mùa hè, tôi thấy một cậu bé giao báo trú mưa ở trước mái hiên nhà mình. Mưa ngày càng lớn, vì không muốn những tờ báo của mình bị ướt, cậu bé khom lưng để che những tờ báo đó.

Cậu bé mặc một bộ quần áo cũ. Xem ra, cậu sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Vì giúp đỡ gia đình mà cậu cực nhọc làm việc. Vào lúc đó nước Nhật chưa phát triển, giao báo là nghề chỉ dành cho những đứa trẻ nghèo khổ.
Tôi rất muốn cho cậu bé muộn cây dù nhưng trong lòng luôn bất an.

Mang cây dù cho đứa trẻ nghèo như vậy mượn, cậu ấy có trả lại không?
Cho nên, tôi đã cho cậu ta mượn cây dù đã bị hỏng mà gia đình không sử dụng.

Qua ngày sau, đứa bé đó đến nhà tôi và nói: “Dì ơi! Cám ơn dì rất nhiều.”

Tôi định phơi khô cây dù nên đã mở ra. Tôi đã rất bất ngờ vì những chỗ rách được cậu bé vá lại rất đẹp và trở thành một cây dù tốt…

Tôi thật sự rất xúc động và hối hận, nước mắt không ngừng chảy ra. T
Tuy không sinh trưởng trong một gia đình giàu có, nhưng cậu bé giao báo được giáo dục rất tốt, sỡ hữu một trái tim nhân hậu và một tâm hồn cao quý.