Register
Results 1 to 1 of 1
  1. #1
    Nhà Lầu
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    351

    Thái thanh 1934-2020 – thế bây giờ … bà đã đi xa.. (mạnh kim)

    THÁI THANH 1934-2020 – THẾ BÂY GIỜ … BÀ ĐÃ ĐI XA.. (MẠNH KIM)

    Tháng 3 19, 2020

    ‘…Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ…’



    Thái Thanh dưới nét vẽ của họa sĩ Đinh Trường Chinh
    Nhạc sĩ Bảo Chấn kể với tôi một chuyện về Thái Thanh. Lần đó, Bảo Chấn – một nhạc sĩ trẻ vừa tốt nghiệp khoa dương cầm Nhạc viện Sài Gòn hạng xuất sắc – còn rất “hăng”.

    Khi đệm cho ca sĩ, ông thường nổi hứng “phăng” những đoạn gian tấu lả lướt bất tận. Lần đệm cho đàn chị Thái Thanh cũng vậy. Ông cũng vuốt miên man như mây trôi gió thoảng trên phím. Đợi nhạc sĩ Bảo Chấn dứt, rồi với phong cách nhẹ nhàng và kiêu kỳ đúng “kiểu… Thái Thanh”, bà quay sang hỏi, “Thế bây giờ… anh đàn hay tôi hát nhỉ”...

    Thái Thanh là vậy. Khi hát, bà không chỉ hát. Đúng ra chỉ cần nghe bà hát. Không cần đệm. Không cần đàn. Bà không phải là ca sĩ. Bà kể chuyện bằng giai điệu.
    Bà ẻo lả.- Bà điệu đàng.- Bà đùa cợt.- Bà khóc than. -Bà tỉ tê. -Bà vuốt ve.- Bà mơn trớn.- Bà hờn dỗi. -Bà tươi vui. -Bà tự sự. -Bà là kịch sĩ xuất chúng diễn bằng phong cách hát có một không hai.

    Chưa hề có phiên bản Thái Thanh thứ hai trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Bà là duy nhất. Và có lẽ chưa có ai hát tiếng Việt đẹp bằng bà. Chưa ca sĩ nào phát âm tiếng Việt chính xác bằng Thái Thanh. Hãy nghe thật kỹ và thật chậm những từ dấu hỏi và ngã được phát ra từ bà. Như Phạm Duy, con người Thái Thanh là kết hợp của tinh túy văn hóa Việt Nam. Có lẽ chưa có ca sĩ nào vừa sang trọng kiêu kỳ vừa đậm nét chân quê hồn Việt bằng Thái Thanh.

    Năm 1971, khi giới thiệu cuốn số bốn băng Tơ Vàng với giọng hát Thái Thanh do nhạc sĩ Văn Phụng thực hiện, nhà văn Mai Thảo viết:
    “Hát, với Thái Thanh, là một tình yêu muốn cháy đỏ một đời, phải được làm mới từng ngày. Lối hát, cách hát, từ kỹ thuật trình bày một ca khúc đến cái khó nhận thức hơn, vì ở bên trong, nhưng không phải là không thấy được, là trạng thái tâm hồn…

    Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận định về tiếng hát Thái Thanh như một giọng ca không có tuổi. Táng láng, hồng tươi, không quá khứ. Nhận định này chỉ nói đến một sự thực hiển nhiên. Tốt tươi và phơi phới, bay bổng và cao vút, tiếng hát Thái Thanh hai mươi năm nay là một hơi thở bình minh, ở đó không có một dấu vết nhỏ của tháng năm và quá khứ đè nặng. Đã là một giòng sông đầy, nó vẫn còn là cái thánh thót, cái trong vắt của một giòng suối, nước reo thủy tinh, sỏi lăn trắng muốt. Như một bông hoa không nở và tàn trong một buổi sáng, mà hoa đã mãn khai, vẻ hàm tiếu vẫn còn. Tiếng hát trẻ trung vĩnh viễn, không tuổi, không quá khứ là vì nó tạo mãi được cho người nghe cái cảm giác mát tươi đầu mùa như vậy”.
    …..
    Bà là ca sĩ duy nhất trước 1975 tại Sài Gòn, nơi có vô số ca sĩ tài năng đỉnh cao, được mệnh danh là “Tiếng hát vượt thời gian” (do một hãng đĩa đặt). Điều khiến tiếng hát của bà vượt thời gian, thậm chí không gian, là khả năng thiên phú cộng với tài năng truyền cảm cảm xúc của bà. Cũng với một nốt ấy, bà biến nó thành một “nốt riêng của Thái Thanh”, như thể bà muốn hỏi (hãy phát âm chữ “hỏi” theo giọng Thái Thanh):
    “Thế bây giờ tôi hát như thế quý vị nghe có được chưa?”.

    Bà hát “nghe có được chưa” mà không cần học qua bất kỳ trường lớp thanh nhạc nào. Nhạc lý và xướng âm bà học từ các sách mà anh của bà, nhạc sĩ Phạm Đình Chương, đặt mua từ Pháp. Bà miệt mài tự học và tự tìm cách nâng cao chất giọng đặc biệt của mình. Và để trở thành một Thái Thanh không có phiên bản thứ hai, bà từng nói:

    “Điều đầu tiên tôi muốn nói là người ca sĩ phải biết yêu tiếng nói của nước mình, phải yêu tiếng Việt của mình. Người ca sĩ còn phải yêu đất nước mình nữa. Khi trong bài hát có nói đến những xứ sở, những vùng nào đó trên đất nước mình, thì mình cũng phải cảm thấy yêu cả những địa danh đó nữa, miền Trung, miền Nam, miền Bắc. Đặc biệt tôi sinh ra ở Hà Nội thì khi đọc đến hai chữ Hà Nội tôi cảm thấy một tình cảm yêu mến vô bờ. Nếu mình không yêu chữ của nước mình thì giống như mình hát một bài hát ngoại quốc vậy.
    Thí dụ đọc đến chữ “em bé quê” là mình cảm thấy dào dạt tình thương yêu các em nhỏ sống ở những vùng quê nghèo nàn, tôi nói yêu chữ nước mình là vậy. Còn một chuyện nữa là tôi yêu người nghe, luôn luôn tôn trọng khán thính giả. Tôi rất thận trọng khi hát”.

    Nhà văn Thụy Khuê viết về Thái Thanh: “Chúng ta có nhiều nghệ sĩ sáng tác những nhạc khúc tuyệt vời với ngôn ngữ thi ca, nhưng chúng ta có ít ca sĩ thấm được hồn thơ trong nhạc bản. Đạt tới tuyệt đỉnh trong ngành trình diễn, Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ. Giữa những phôi pha của cuộc đời, tàn phai của năm tháng, giọng hát Thái Thanh vang vọng trong bầu trời thơ diễm tuyệt, ở đó đau thương và hạnh phúc quyện lẫn với nhau, người ta cho nhau cả bốn trùng dương và mặc tàn phai, mặc tháng năm, tiếng hát vẫn bay bổng ở chốn trần gian hoặc ở chốn vô hình”…

    Cách đây không lâu, một người bạn vừa qua Mỹ vài năm kể với tôi rằng, một hôm, vì nhớ nhà quá, vợ chồng anh mở YouTube tìm nghe nhạc Việt xưa. Vừa bật lên thì gặp ngay ca khúc “Gánh lúa” của Phạm Duy được hát với tiếng hát lảnh lót Thái Thanh. “Mênh mông, mênh mông, sóng lúa mênh mông/ Lúc trời mà rạng đông rạng đông… Ðêm qua trăng mơ sáng khắp thôn quê/ Hỡi chàng mà chàng ơi, chàng ơi… Gánh gánh gánh, gánh thóc về/ Gánh về! Gánh về!”… Bất giác, không thể kìm được, cô vợ rơi nước mắt; còn anh chồng thì mắt đỏ hoe. Có ca khúc quê hương nào đẹp bằng “Gánh lúa” của Phạm Duy?
    Cũng chắc hiếm ai thổn thức trải một tấm lòng mênh mông hồn quê hương bằng cái cách mà Thái Thanh “gánh” lên đôi vai nhỏ của bà hai chữ “quê tôi”.

    Lâu nay bà đã rời sân khấu, để lại một cái nheo mắt hóm hỉnh duyên dáng rất “Thái Thanh”.
    Giờ thì bà đã đi rất xa. Thế bây giờ có ai còn muốn nghe lại “tiếng hát Việt Nam” của bà?
    Sao lại không! Từ thuở còn nằm nôi, chúng ta đã biết “tôi yêu tiếng nước tôi” là như thế nào…

    Mạnh Kim
    Nguồn: facebook.com/nguyen.manhkim/posts/10159064189144796
    ********************************



    Nhac sỹ Nguyễn Văn Đông, mời đọc bài này để biết thêm về Ông

    Ai người yêu mến những nhạc phẩm của nhạc sỹ Nguyễn Văn Đông, mời đọc bài này để biết thêm về Ông



    " data-inlineimagemanipulating="true" style="max-width: 400px; width: 324.5px;">


























    +5







    “CHIỀU NAY THẤY HOA CƯỜI CHỢT NHỚ MỘT NGƯỜI…”





    (Nhớ một chiều xuân – NS Nguyễn Văn Đông)


    Cách đây đúng 1 năm, ngày 11 tháng Giêng âm lịch, cũng một buổi chiều xuân, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đang trong bệnh viện, nhờ cô cháu ở cùng nhà mua nước mía, dặn dò: "Đừng bỏ đá uống nhạt" và uống khen ngon.

    Quê nhà ở xã biên giới Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, Tây Ninh - vốn khô cằn nhưng mía Tây Ninh lại ngọt nổi tiếng. Liệu những vườn mía quê xưa có khiến vị nhạc sĩ này thích uống nước mía hơn các loại nước uống khác?

    Đó là ly nước mía - vị ngọt quê nhà Tây Ninh cuối cùng của ông, vì chỉ ít phút sau thì ông ra đi - 19g30 ngày 26-2-2018 (11 tháng Giêng năm Mậu Tuất) ở Bệnh viện Chợ Rẫy, TP.HCM.
    Chuyện ẩm thực mỗi người thiệt ra cũng khó nói. Chỉ biết chắc rằng tâm hồn, tính cách vị nhạc sĩ "Chiều mưa biên giới" ấy như cây mía Tây Ninh quê ông, khô quắt bên ngoài nhưng bên trong ngọt lịm; ngọt như những dòng nhạc ông viết. Từ nhạc lính (VNCH) cho đến nhạc đạo (dù ông theo đạo Phật): Chiều mưa biên giới, Vạn dặm sơn khê, Phiên gác đêm xuân, Bến đò Biên giới, Về mái nhà xưa, Niềm đau dĩ vãng, Hải ngoại thương ca, Khi đã yêu, Bóng nhỏ giáo đường, Tình người ngoại đạo, Ave Maria (lời Việt từ nhạc Franz Schubert), Đêm thánh huy hoàng (nguyên tác Stille Nacht của Franz Xaver Gruber; bài này có một lời Việt khác là "Đêm thánh vô cùng" do Hùng Lân soạn), Hồi chuông nửa đêm (Nguyên tác Jingle Bells của James Lord Pierpont)...

    Vì vậy, sau khi ông ra đi, có nhà thờ ở Bến Tre đã tổ chức lễ cầu nguyện cho ông nhân 49 ngày - theo đúng thông lệ những người theo đạo Phật (người Công giáo thường "xin lễ" khi đủ 100 ngày).

    Ngoài Nguyễn Văn Đông, ông còn ký tên Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử...

    Ông sinh 15-3-1932 ở Bến Cầu, Tây Ninh; theo binh nghiệp từ năm 14 tuổi (1946) ở Trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu và chức vụ cuối cùng trong Quân lực VNCH là đại tá Chánh văn phòng Tổng tham mưu phó Quân lực VNCH.

    Khi trong Thiếu sinh quân, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp; thành viên Ban Quân nhạc Thiếu sinh quân, sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ và 16 tuổi đã có những sáng tác đầu tay: Thiếu sinh quân hành khúc, Tạm biệt mùa hè...

    Trước 1975, tên tuổi của ông lừng lẫy một cách đằm thắm - như tính cách của ông, không phải bằng binh nghiệp (dù tướng Dương Văn Minh từng bắt tay ngưỡng mộ ông trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu) mà là những tác phẩm âm nhạc.

    Tính cách nhẹ nhàng, yêu quê hương da diết của nhạc sĩ cũng khiến ông không chỉ viết tân nhạc mà còn cả cổ nhạc: viết nhạc, đạo diễn trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước 75 như: Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng…
    Thập niên 1950, ở tuổi đôi mươi, ông là Trưởng ban (văn nghệ) Vì Dân; 26 tuổi (1958), ông là Trưởng ban (ca nhạc) Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn. Ông từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia do đích thân bà Trần Lệ Xuân, phu nhân cố vấn Ngô Đình Nhu trao.

    Phía sau cuộc sống khói lửa binh nghiệp thời chiến, phía sau ánh đèn sân khấu, dù là đại tá Chánh văn phòng Tổng tham mưu phó Quân lực VNCH, ông lui về ngôi nhà nhỏ trên đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) vốn gần khu vực những ngôi nhà bị dân chiếm của khu trồng trọt cây giống và ở cho đến lúc ra đi. Nhà ông mặt tiền cách nhà của nhà thơ Bùi Chí Vinh trong hẻm - cũng dân "ngoại ô" Ông Tạ - vài bước chân. Sống lặng lẽ từ trước 75, sau 75 và cả khi cải tạo về năm 1985 cho đến lúc ra đi...

    Ông đạo Phật, con trai duy nhất một gia đình điền chủ vừa vừa ở Tây Ninh, gần nơi có xóm đạo Tha La bao phen binh lửa (nhưng ông sinh ra và học ở quận Nhứt, Sài Gòn). Rồi sau đó sống ở vùng "ngoại ô" khu "thủ phủ" Bắc di cư Công giáo Ông Tạ, thuộc khu nhà thờ Ba Chuông (Đa Minh) nên có nhiều nhạc phẩm Công giáo rất nổi tiếng: Bóng nhỏ giáo đường, Màu xanh Noel, Mùa sao sáng, Tình người ngoại đạo... Và viết lời Việt cho một số bản nhạc cổ điển, nhạc ngoại: Ave Maria, Đêm thánh vô cùng (Stille Nacht), Hồi chuông nửa đêm (Jingle Bells)...

    Tất cả đều là những giai điệu êm ả, nhẹ nhàng - như tính cách của ông: khi hành quân ở Đồng Tháp, lính tráng thời chiến thường đi săn bắn ở vùng biên giới lúc đó còn hoang sơ, ông thú thiệt "săn một con vật về cũng thương, ăn không được". Cô cháu ở cùng nhà bảo: "Chưa bao giờ thấy ông la ai một tiếng".

    Theo binh nghiệp cả đời nhưng nhạc của ông không hề hứng thú với chiến tranh, thậm chí tác phẩm nổi tiếng "Chiều mưa biên giới" (cùng với "Mấy dặm sơn khê" của ông và 15 ca khúc khác) có lúc bị Bộ Thông tin của Chính quyền VNCH yêu cầu Đài phát thanh Sài Gòn không thu âm và phổ biến vì hơi hướng phản chiến, với ca từ bắt đầu trong hoang mang của một anh lính: "Chiều mưa biên giới anh đi về đâu - Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu..." (những năm 1955 - 1956, ông đóng quân ở khu biên giới Đồng Tháp Mười).

    Nhạc phẩm này thoạt đầu do ca sĩ Trần Văn Trạch (em nhạc sĩ Trần Văn Khê) hát với giọng miền Tây, cụ thể là giọng Mỹ Tho rặt; s/x, ch/tr... rành mạch. Sau do ca sĩ Hà Thanh, người Huế nhưng hát với giọng Hà Nội xưa - trong trẻo, tròn vành rõ tiếng rất sang trọng chứ không uốn éo, ma mị như một vài ca sĩ Hà Nội hiện nay. Khác hoàn toàn giọng, nhưng cả hai ca sĩ đều hát với giọng ca rung động lòng người khi ấy và cả hôm nay.

    Tôi quen và là "khách ruột" mua giò chả, phômai... mấy chục năm nay ở cửa hàng của vợ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cô Nguyệt Thu. Cô Thu cùng quê Gò Công với Hoàng hậu Nam Phương (nhưng như chú, quê Tây Ninh nhưng cả hai vợ chồng đều sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn) và nét mặt cũng hao hao: mặt thon dài, trắng trẻo, mắt một mí lót, hơi xếch; vốn là quản lý Hãng dĩa hát Continental mà ông là giám đốc nghệ thuật. Cô Nguyệt Thu về với ông năm 1968, ở nhà mướn khu cư xá Đô Thành.

    Hai năm sau, năm 1970, hai vợ chồng trẻ mới gom góp tiền mua ngôi nhà nhỏ gần góc đường Nguyễn Minh Chiếu - đại lộ Cách Mạng 1-11 (nay là Nguyễn Văn Trỗi) lúc đó còn rất vắng vẻ, nhưng gần nơi chú làm việc là trụ sở Bộ Tổng tham mưu VNCH.

    Thực sự nhiều người ngạc nhiên khi lúc đó ông là sĩ quan cấp tá Bộ Tổng tham mưu VNCH, rồi là giám đốc 3 công ty băng dĩa thuộc hàng lớn nhất Sài Gòn lúc đó mà lại mua ngôi nhà nhỏ ở khu vực nhà cửa khi ấy khá lụp xụp như vậy (ở sát khu vực vốn là đất trồng cây giống của Sở Bảo vệ mùa màng VNCH bị thương phế binh VNCH chiếm). Thời điểm đó, cách vài bước chân là ra đại lộ Cách Mạng 1-11 có rất nhiều ngôi nhà lớn, biệt thự của sĩ quan VNCH chức vụ và cấp bậc còn dưới ông.

    Niềm vui hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ chỉ được vài năm. Sau 75, ông đi cải tạo. Cải tạo về năm 1985 với nhiều bịnh; cô phải bồng bế ông, chăm sóc từng chút. Ông không chịu định cư ở Mỹ theo diện HO do nhiều lý do. Cô Nguyệt Thu vẫn lặng lẽ một cách sang trọng chăm sóc chồng, từ cửa hàng ban đầu bán cám gà, chuối... rồi mới thành tiệm bán thịt nguội, tạp hóa nhỏ Nhiên Hương mà tôi đi qua hàng ngày, ghé mua hàng ngày và tết nào cô cũng lì xì tôi: khi hộp bánh, khi gói lạp xưởng...

    Cửa hàng tên Nhiên Hương phải chăng là suy nghĩ của hai vợ chồng: "Hữu xạ tự nhiên hương", không cần phải gồng mình, lớn tiếng khẳng định? Và cả hai vợ chồng đều sống lặng lẽ, lặng lẽ đến mức khi ông ra đi, nhiều người hàng xóm và khách mua hàng mới biết ông là tác giả nhiều nhạc phẩm họ yêu thích...

    Riêng nhạc sĩ không hề phát biểu gì sau khi cải tạo về. Lãnh sự quán Mỹ liên hệ kêu đi HO (đại tá VNCH, đi cải tạo 7 năm mà, đi không khó), chú cũng từ chối. Nhà thơ Bùi Chí Vinh nổi tiếng sống trong hẻm sát cạnh đó, mua đồ ở tiệm mấy chục năm cũng không hề biết; khi chú ra đi mới sửng sốt, ra thắp nhang tiễn đưa.

    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sống lặng lẽ như khi còn trong Trại cải tạo Suối Máu (Biên Hòa, Đồng Nai), ông nằm lắng nghe tiếng xe lửa chạy xình xịch cách trại không xa và viết nhạc phẩm không lời "Tiếng chim hót trong lồng". Lặng lẽ nhớ Sài Gòn, nơi ông sinh ra, lớn lên cho một nhạc phẩm có lời: "Sài Gòn trong trái tim tôi": "Cho nhớ thương vời vợi… Sài Gòn luôn trong trái tim tôi…”...

    Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ra đi sau giao thừa thứ 87 của đời mình và chỉ hơn nửa tháng nữa là sinh nhật ông. Thế là hết những "Phiên gác đêm xuân": "Đón giao thừa một phiên gác đêm...". Đến ngôi nhà nhỏ (chiều ngang khoảng 3m; do vợ chồng ông gom góp mua từ năm 1970, sau hai năm về với nhau) thắp nhang, cô Nguyệt Thu gương mặt vẫn sang trọng nhưng đôi mắt đỏ hoe: "50 năm cô chú đã đi cùng nhau và 48 năm ở ngôi nhà nhỏ này...".
    Và những ngày sau đó, cô Thu gầy sụp đến 4 -5kg - trong khi cô vốn gầy yếu; lơ thơ đi lại, sống với ngôi nhà ngập tràn kỷ niệm xưa. Người thân hoảng. Ngày 5-8-2018, cô kêu tôi tới nhà tặng đĩa nhạc tưởng niệm chú do chương trình Thúy Nga tổ chức ở Mỹ. Thấy cô gầy sọp mà không cầm nổi nước mắt...

    Trong cơn buồn đau, cô còn có ý định đốt bỏ hết những tư liệu, di cảo âm nhạc của chú; bán ngôi nhà kỷ niệm, mang bàn thờ chú, ba mẹ chú về quê cô ở Gò Công thờ. Sao không mang về Bến Cầu? "Cả chục ha đất quê sau 75 không còn..." - cô bảo. Tôi cầm bàn tay trơ xương của cô xin cô bình tĩnh, ăn uống cho lại sức. Khi bớt đau, tính gì thì tính chứ giờ chắc chắc cô chưa tỉnh đâu.

    Hôm tết, cô nằng nặc bắt tôi phải nhận đòn chả lụa và tấm bánh chưng Bắc "chú cho về cúng mẹ".

    Hôm nay 11 tháng Giêng là đúng giỗ đầu của ông. Nhưng thật ra, cô đã tổ chức giỗ chú từ hôm qua, 10 tháng Giêng vì mẹ chú đi 10 tháng Giêng năm 1948, khi chú 16 tuổi. Giỗ chung hai mẹ con.

    "Hồi trước, Công tới mua đồ hàng ngày. Chú ngồi trên phòng cứ hỏi thăm. Giờ chú về dặn nấu xôi chè, gởi Công đó..." - cô Thu đỏ hoe mắt khi kêu tôi tới nhận xôi chè cô nấu...
    Với tôi, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, đó là một trong ba nhạc sĩ lớn nhất miền Nam trước 1975 cùng Phạm Duy, Trịnh Công Sơn.

    Nhạc sĩ Phạm Duy viết nhạc đa dạng, gần gũi mọi lứa tuổi; có cuộc sống sôi động dù không phải không có ít nhiều điều tiếng trong sinh hoạt riêng tư. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết nhạc với những hợp âm đơn giản nhưng ca từ sâu sắc; trong cuộc sống riêng, cũng có ý kiến ít nhiều lăn tăn, đặt vấn đề về thái độ thật với cuộc sống của vị nhạc sĩ này.

    Nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thì có một vẻ khác biệt rất rõ: sang trọng một cách nhẹ nhàng, sâu lắng và đẫm yêu thương. Và ông sống với một nhân cách sống của kẻ sĩ miền Đông Nam bộ trong thời tao loạn: hiền lành nhưng cứng cỏi giữ tiết tháo, không thay đổi cả trong lúc khó khăn đến tận cùng.

    Và như tính cách của ông, mùa xuân trong nhạc ông sao mà sâu lắng và buồn quá, buồn mênh mông cả trong ca từ lẫn nhịp nhạc...

    Năm nay, lập xuân ngày 30 tháng Chạp (4-2-2019). 11 tháng Giêng hôm nay (15-2-2019) vẫn còn lập xuân. Hoa xuân vẫn còn tươi trước cửa nhiều nhà.

    Không hiểu sao lúc nào tới nhà cô chú cũng gặp hoa cúc vàng - một loài hoa của mùa xuân miền Nam. "Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người..."...





    Last edited by SP500 SPY; 06-10-2020 at 09:07 PM.

 

 

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 11-10-2017, 04:56 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 05-31-2015, 08:06 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 08-09-2014, 11:32 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 10-20-2013, 02:30 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 11:31 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh