Register
Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 14
  1. #1
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787

    Nước Mỹ Phiền Lắm

    Xin đăng lại những bài viết của mình trên phố rùm cũ (1, 2, 3), ở đây. Gọi là “để nhớ một thời ta đã“... rùm.

    Đậu Lạc Tây

    (Đậu - Phi Lạc - Tây Độc)
    Đỗ thành Đậu

  2. #2
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    Tình Yêu Cũng Phiền.


    Nơi tôi ở, vào những năm đầu của thập niên 80, kiếm được một người đồng hương gần nhà để tán gẫu đã là chuyện hiếm hoi, nói chi đến chuyện tình yêu trai gái. Ông nào có vợ hẳn hoi thì quý vợ hết biết. Anh nào còn độc thân thì phải nhanh chân lẹ miệng kiếm cho được một người yêu, nếu không muốn buồn suốt đời. Ngày đó không có chuyện một ông hai bà, vợ nhớn vợ nhỏ. Mà ông nào cũng sống rất mực đứng đắn, ra dáng một anh chồng gương mẫu lắm.

    Các cô sống ở đây, thành phố tôi ở, chọn bồ rất kỹ: nghề nghiệp vững chắc, chưa vợ chưa con, có nhà càng tốt. Không thấy nói gì về chuyện đẹp trai cả. Những anh mới tới Mỹ, như tôi, thì đừng mơ tưởng đến chuyện các cô yêu nhầm. Không có chuyện đó đâu.

    Những ngày cuối tuần hay lễ nghỉ, nếu buồn, tôi tới nhà mấy anh bạn làm cùng hãng để lai rai. Nếu thấy vui, thì tôi đi dạo cả ngày trong các Malls, Trung tâm buôn bán, cho giãn gân cốt. Tối về nhà ngủ thẳng cẳng. Khỏi phải mộng mị lôi thôi.

    Và như thế, tôi sống ở đó gần 2 năm. Ngày hai buổi nắng mưa đi về mình ên.

    Bỗng một hôm, có người bạn ở miền đất lạnh viết thư dụ tôi về chỗ anh đang sinh sống. Anh ta viết: "ở đây, xứ lạnh, tình nồng. Chú em qua đây thì sẽ không sợ ế." Tôi thích câu "xứ lạnh, tình nồng". Nghe cứ như thơ ấy nên đã hăng hái khăn gói quả mướp lên đường tìm tình yêu. Trước khi đi, tôi gọi phone dọa anh là nếu tôi bị ế thì anh phải bồi thường. Tôi nói thế, vì tôi biết anh có hai cô em vợ xinh đáo để.

    Và tôi dọn tới thành phố mới, nơi anh bạn tôi ở, vào những ngày tàn Thu. Để cho tình đồng hương thêm đậm đà, tôi mướn một studio trong cùng building với anh. Gia đình bên vợ của anh, gồm ba má và hai cô em gái cũng sống trong building này. Thật là may mắn, cả ba gia đình cùng ở chung một tầng của building.

    Hai ông bà cụ rất tốt, coi tôi như con cháu trong nhà. Mỗi khi có món ăn ngon, hai cụ đều gọi tôi qua ăn chung cho vui. Còn hai cô em gái đi học ở một University gần nhà. Họ ăn nói có duyên và họat bát lắm. Cả hai đều thích văn nghệ văn gừng. Thỉnh thoảng, khi có dịp, tôi đệm đàn cho họ hát. Có lần, một trong hai cô nói với tôi: "Nhiều tối, nghe tiếng đàn từ phòng anh vọng qua, tụi em ngủ không được." Tôi hỏi “sao thế?” Cô em nói là ồn lắm rồi cả hai chị em phá ra cười làm tôi xấu hổ chín cả người. Tôi nghĩ bụng “Nếu được một trong hai cô thương thầm thì đời tôi đỡ khổ biết bao?” Tôi nghĩ thế thôi, chứ người ta học cao như thế, tôi với sao đến!

    Sau khi sống ở đây qua một mùa đông, tôi thực sự thấm thía câu "xứ lạnh, tình nồng". Mùa đông ở đây lạnh lắm, tuyết rơi nhiều. Hình như ngày nào tuyết cũng rơi. Nếu không có chuyện cần phải đi ra ngoài thì ai cũng ở trong nhà. Còn phụ nữ, khi phải đi ra ngoài, mặc hai ba lớp áo quần cho ấm. Nhiều khi trời quá lạnh, họ trùm kín cả đầu cổ, chỉ trừ hai con mắt. Người ta khó biết nhan sắc họ ra sao?

    Những ngày lễ lớn, anh bạn đưa tôi đến những nơi sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Ở nơi đó, tôi thấy rất nhiều bóng hồng. Nhưng bên cạnh những bóng hồng đó còn có những bóng đen của chồng họ nữa.

    Thế là hỏng, "xứ lạnh, tình nồng" chỉ đúng cho anh bạn của tôi và những người có gia đình ở đây thôi. Con giai còn độc thân như tôi thì chỉ có nước chết rét. Điệu này, tôi bị ế là cái chắc. Lắm lúc, tôi tự hỏi lòng mình là có nên trở về chốn cũ? Hoặc là bắt thường anh bạn tôi?

    Tưởng rằng đời tôi đã tàn nơi xứ lạnh. Nhưng Giời còn thương tôi, đời vẫn chưa quên tôi nên một ngày kia đã xui khiến một người con gái yêu tôi.

    oOo

    Chuyện bắt đầu vào một buổi tối. Khi anh Kỳ, tên anh bạn, muốn tôi giúp cho anh ta một chuyện.

    Từ ngày tôi dọn về đây, chưa lần nào anh Kỳ nhờ tôi làm việc gì cả, ngoài chuyện nhậu lai rai với anh. Anh hẹn tôi ra quán cà phê gần nhà. Điều này làm tôi cảm thấy lo lắng. Có thật là anh Kỳ muốn tôi giúp đỡ? Hay là tôi đã làm gì phật lòng anh và anh muốn mắng vốn tôi? Tôi biết anh Kỳ là người kín đáo nên có làm chuyện này thì anh cũng lựa nơi chốn thích hợp. Thôi chết. Không biết tôi đã làm điều gì sai khuấy?

    Sau khi anh Kỳ nói xong chuyện muốn tôi giúp, tôi thở phào nhẹ nhỏm. Chuyện đó không liên quan gì đến tôi hay hai cô em vợ của anh ấy nhưng lại liên quan đến vợ anh.

    Số là, vợ chồng anh Kỳ làm chủ một quán cà phê trên dẫy phố Việt Nam. Gọi là dẫy phố cho sang, thật ra cửa tiệm Việt Nam ở đây cũng chẳng nhiều, khoảng hơn mười tiệm. Để lôi cuốn khách cho quán, vợ chồng anh có sáng kiến là vào mỗi cuối tuần, quán đều có chương trình đặc biệt: tối thứ Sáu có chương trình độc tấu Dương Cầm, tối thứ Bẩy có ban nhạc sống.

    Vào hai tối đặc biệt này, quán cà phê của vợ chồng anh rất đông khách. Có khi, khách ngồi chung bàn mà không biết tên nhau. Còn khách tới trễ thì phải đứng nghe nhạc. Vậy mà chẳng có ai than phiền cả. Thời gian đó, người Việt ở Mỹ phần đông là thanh niên hay đàn ông độc thân tại chỗ. Những ngày cuối tuần, nếu không phải đi làm thêm, họ sợ ở nhà một mình. Ai cũng có nỗi buồn riêng tư cần người tâm sự nên họ tìm đến nhau để khuây khoả. Quán cà phê của vợ chồng anh Kỳ đông khách là vậy. Nhiều tuần, hai cô em vợ của anh cũng phải đến giúp quán.

    Anh Kỳ giúp vợ trông coi quán ban ngày, buổi chiều anh đi làm. Anh Kỳ đi làm để có bảo hiểm cho cả gia đình. Anh nói “nếu chỉ trông cậy vào quán này thì có ngày vỡ nợ. Ở Mỹ, sợ nhất là tiền bệnh viện. Nếu không có insurance thì không nên bệnh.” Thỉnh thoảng, anh Kỳ đi làm thêm ngày thứ Bẩy, tuỳ theo nhu cầu nhân viên của hãng. Và gần đây, anh Kỳ đi làm ngày thứ Bẩy thường hơn nên mới có chuyện không hay cho quán cà phê của anh.

    Chuyện là. Đã hai tuần nay, có một người đàn ông "hắc ám" (chữ anh Kỳ dùng) đến quán của anh vào cả hai tối thứ Sáu và thứ Bẩy. Gã ngồi hàng giờ bên ly cà phê đã nguội ngắt lặng nhìn "bà chủ" mà không nói một câu. Chẳng biết hắn có mưu toan gì, mà thỉnh thoảng cười một mình. Con người nom bí ẩn như hắn, có lẽ, phải đề phòng mới được.

    Anh Kỳ nói với tôi thế, nhưng tôi biết "tỏng" là anh ấy sợ "thằng chả" tán tỉnh vợ mình. Tôi thông cảm nỗi sợ hãi ấy của anh Kỳ nên nhận lời làm gián điệp không lương cho anh. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: theo dõi "địch" và báo cáo kịp thời cho anh Kỳ để có định liệu. Tôi không biết anh Kỳ có kế hoạch gì nếu người đàn ông hắc ám đó tán tỉnh vợ anh thật?

    Lần đầu tiên gặp hắn, tôi thấy anh Kỳ lo ngại là phải. Hắn trẻ hơn anh Kỳ, đẹp tự nhiên, lại có thêm bộ râu mép rất bảnh. Anh Kỳ, nếu có sửa soạn kỹ lưỡng cũng chưa chắc ăn đứt hắn. Tự nhiên, tôi thấy gần gũi với anh Kỳ hơn. Có lẽ, tại tôi và anh Kỳ giống nhau ở điểm là không đẹp trai mấy. Biết làm sao, trời cho thanh cao mới được phần thanh cao mà.

    Nhìn hắn ngồi buồn bên ly cà phê, tôi tự hỏi “Hắn là ai, từ đâu tới, làm nghề ngỗng gì, tới đây có mục đích gì?” Chỉ có mình hắn mới có thể giải đáp các thắc mắc này của tôi. Có khi, tình cờ tôi ngồi gần hắn cả buổi mà vẫn không nghe hắn mở miệng. Người gì đâu mà ít nói thế. Tôi phải làm sao bây giờ? Những gì anh Kỳ nói với tôi về hắn rất đúng: lầm lì, ít nói, thích nhìn bà chủ. Không biết anh Kỳ lấy tin tức ở đâu mà chính xác thế. Từ hai cô em vợ chăng?

    oOo

    Nhìn “tên tình địch bí ẩn” của anh Kỳ mãi, tôi cũng chán nên tôi nhìn các nhạc sĩ, ca sĩ trên sân khấu cho đỡ buồn. Ban nhạc sống, trình diễn tối thứ Bẩy, gồm các nhạc sĩ phái đực rựa, nên tôi chẳng thèm nhìn họ. Ban nhạc có hai nữ ca sĩ, nhan sắc "coi được", nhưng nghe nói họ đã có chồng rồi nên tôi cũng không thèm tìm hiểu chồng họ là ai cả.

    Người đàn dương cầm tối thứ Sáu là một cô gái tuổi đôi mươi, tóc dài ngang vai. Mỗi khi nhìn cô say sưa trên phím đàn, tôi thấy cô đẹp như tiên. Tôi không biết nhiều về Nhạc Cổ Điển Tây Phương, nhưng chỉ cần nhìn cô ngồi đàn tôi "cũng đủ lãng quên đời." Nghe chị Hà, vợ anh bạn tôi, nói cô ta người miền Bắc, chưa lập gia đình. Tôi không hỏi thêm vì sợ chị Hà hiểu lầm.

    Mà chị Hà hiểu lầm tôi thật. Chị thấy tôi xuất hiện ở quán vào tối Thứ Sáu và Thứ Bẩy hằng tuần nên nghĩ là tôi phải lòng với một trong hai cô em của chị. Chị thường nói với tôi là nếu tôi cần thì chị ấy sẽ nói thêm cho. Tôi hiểu điều chị Hà muốn nói, nhưng mục đích tôi đến đây là làm thám tử chứ không phải ... chuyện kia. Nhưng vì tôi không tiện giải thích nên chỉ ậm ừ cho qua. Chị Hà thì không thể cho qua dễ dàng thế. Chị "sai bảo" tôi rất thiệt tình mỗi khi chị cần tôi giúp việc gì trong quán. Bao giờ chị cũng khuyến khích tôi bằng câu "chị sẽ nói thêm cho". Còn tôi thì chỉ còn biết cười cho đời đỡ khổ.

    Sau hai tuần làm việc tôi thấy mệt mỏi vì siêng năng quá. Tôi phải có mặt ở quán trước khi “tên tình địch bí ẩn” xuất hiện, và trong thời gian hắn ở trong quán. Có đêm, tôi phải chờ cho hắn lái xe ra khỏi chỗ đậu, tôi mới yên tâm ra về. Trong lúc làm việc, tôi phải để ý mọi hành động của hắn, nên ít khi được nghe một bản nhạc cho trọn vẹn. Chưa kể là lúc quán đông khách quá, tôi phải làm Waitor, Busboy nữa. Nhưng tôi không lấy thế làm phiền. Giúp người thì phải giúp tới nơi, tôi nghĩ thế.

    Anh Kỳ, sau những báo cáo của tôi về hắn, tôi thấy anh có vẻ bớt lo lắng một chút. Anh ta bớt lo lắng, thì tôi cũng bớt vất vã. Chỉ vì hắn mà tôi phải đầu tắt mặt tối. Tôi mong một ngày nào đó, hắn tự nhiên biến mất trên thế gian này.

    oOo

    Một tối thứ Sáu, chị Hà nhờ tôi làm tài xế đưa một người về, sau khi quán đóng cửa. Chị nói vì bận việc đột xuất nên chị mới nhờ tôi. Thôi rồi, cuộc đời tôi thêm vất vả. Tôi làm thám tử, làm Waitor, làm Busboy. Bây giờ kiêm thêm nghề tài xế. Khổ thiệt khổ. Tôi nhủ thầm trong bụng như thế, nhưng vẫn phải toét miệng ra cười. Chị Hà thấy tôi cười thì nghĩ là tôi đã bằng lòng. Chị cám ơn tôi rối rít và không quên động viên tôi bằng câu "để chị nói thêm cho" như mọi khi.

    Tôi hỏi chị Hà: chị muốn em đưa ai về? Chị Hà nói: cô Nga, người đàn dương cầm đấy. À, cái cô Bắc Kỳ đàn dương cầm tên Nga. Tôi muốn reo lên và cám ơn chị Hà thật nhiều. Chúa ơi, vậy mà tôi đã nghĩ xấu về chị! Từ lâu, tôi vẫn ước mơ được làm tài xế cho cô Bắc Kỳ. Có đôi khi tôi muốn nhờ chị Hà giúp chuyện này, nhưng chị Hà cứ đòi "để chị nói thêm cho" nên tôi chẳng dám.

    Sau khi lái xe ra khỏi chỗ đậu, cô Bắc Kỳ tự giới thiệu về mình. Giọng nói của cô ngọt như đường phèn.

    - Em tên Nga. Còn anh tên gì cơ?

    Thiệt đúng như lời Bố tôi dặn, trước khi tôi đi vượt biên, rằng: “con gái Hà Nội ăn nói ngọt ngào lắm. Con phải cẩn thận. Đừng để cho họ bắt nạt.” Lòng dạ tôi luôn ghi nhớ lời Bố dặn, nên bấy giờ tôi đã giữ linh hồn thật chặt để không bị sa chước cám dỗ.

    Tôi trả lời rất tỉnh:

    - Bond. James Bond.

    Cô Bắc Kỳ cười:

    - Không! Tên thật của anh cơ ?

    Lại "cơ" nữa! Tôi cười cười:

    - Phong. Âu Dương Phong.

    Cô Bắc Kỳ cười nữa:

    - Tên anh giống như tên của một nhân vật trong truyện chưởng. Mà sao anh có tên nghe dữ thế cơ ?

    Lại "cơ" nữa ! Tôi giải thích cho cô Bắc Kỳ:

    - Khi tôi mới lọt lòng mẹ, tôi khóc rất lớn và dai như đỉa. Ai dỗ, tôi cũng không chịu nín. Bố tôi thấy thế mới nói: sau này chắc tôi là đứa hiền lành. Sẽ bị người khác ăn hiếp thường xuyên nên ông đặt cho tôi tên Âu Dương Phong. Bố tôi còn bảo cái tên đó tuy nghe dữ dằn nhưng sẽ giúp tôi đỡ nhiều, sau này.

    Cô Bắc Kỳ cười nữa:

    - Giời ơi, ai mà bắt nạt được anh. Anh bắt nạt người ta thì có!

    Nghe cô Bắc Kỳ khen, tôi mát từng khúc ruột. Từ nhỏ, trong số năm anh em trai trong nhà, tôi là đứa cù lần nhất. Mấy anh tôi cho tôi là đứa to đầu mà dại, chẳng làm nên tích sự gì. Tôi nhớ, khi còn ở bậc tiểu học, tôi đi học phải mang theo hai cái bút lá tre, hai bình mực tím, hai tờ giấy thấm v.v... Không phải tôi có tính lo xa từ nhỏ đâu. Tôi mang dư những thứ đó là để cho mấy thằng bạn xài ké. Mấy thằng này lúc mới quen tôi, tụi nó không dám bắt nạt tôi vì cái tên dữ dằn của tôi. Nhưng lâu ngày, tụi nó biết là tôi hiền như cục bột, bèn thẳng tay đàn áp. Tôi vốn chuộng bạn bè, nên dù tôi có bị thua thiệt chút cũng chẳng ăn nhằm gì, miễn vui là được rồi.

    Lớn hơn chút nữa, khi tôi bắt đầu biết mơ mộng, tôi yêu nhiều người lắm nhưng không ai yêu lại. Cũng chẳng lạ gì vì tôi nhát gái quá. Mỗi khi thấy "người tôi yêu" từ xa là đầu cổ tôi nóng bừng và tìm chỗ trốn. Chắc tại vì lúc còn bé, tôi không có dịp chơi với con gái nên lớn lên mới sợ họ dữ thần vậy?

    Lần lượt mấy người anh của tôi thi nhau lập gia đình, trong khi tôi vẫn ì ra đó. Vẫn chưa có cô nào phải lòng tôi hết. Đến khi người anh kế của tôi lấy vợ, lúc đó tôi đã hai mươi hai tuổi, thì Mẹ tôi sốt ruột dùm tôi nên trong một buổi cơm tối, nhân lúc Bố tôi kể chuyện ngày ông còn trai trẻ, Mẹ tôi mới nói:

    - Sao ông không dậy cho thằng Phong cách tìm bạn gái? Ngữ này, chắc ông với tôi phải nuôi nó suốt đời rồi!

    Người anh kế của tôi nói:

    - Thôi Mẹ ơi, Bố có dậy nó đến ... tết Congo, nó cũng như vậy thôi !

    Bố tôi vốn thương tôi nhất nhà mới binh tôi:

    - Bà chỉ khéo lo, con nhà tông không giống lông thì cũng giống cánh. Thằng Phong có số đào hoa, nhưng chưa đến kỳ phát tiết thôi. Bà cứ yên tâm, con của bà thế nào cũng có khối đứa mê. Tôi sợ lúc đó tôi với bà lại nhức đầu với nó đấy?

    Sau mấy năm rời ... vú mẹ đi giang hồ trên đất Mỹ, bị đời ngược đãi nhiều phen, tôi học được lắm điều hay và cái tính nhát gái của tôi cũng biến mất tiêu.

    Đêm ấy, ngồi bên cô Bắc Kỳ, tôi ba hoa chích choè đủ chuyện. Và lần đầu tiên trong đời, tôi thấy con gái dễ thương thật. Tôi nghe hồn mình lâng lâng theo giọng nói ngọt như mật của cô.

    - Hai cụ là người ở đâu thế?

    À, cô Bắc Kỳ bắt đầu điều tra lý lịch của tôi đây.

    - Bố mẹ tôi người Lưu Phương Ninh Bình.

    Giọng cô Bắc Kỳ nghe mừng rỡ:

    - Bố em cũng là người Lưu Phương Ninh Bình. Còn Mẹ em là người Hà Nội. Bố em vào Hà Nội để học rồi gặp mẹ em.

    Tôi mừng quá, như thế tôi với cô là người cùng làng. Và cũng vì thế, tôi nghĩ là phải đổi cách xưng hô cho thân mật một chút:

    - Anh thấy là người Lưu Phương Ninh Bình, ai cũng tốt số cả. Đều lấy được vợ đẹp và tài giỏi!

    Cô Bắc Kỳ hỏi:

    - Sao anh biết cơ?

    - Em đẹp và đàn dương cầm "cừ" như thế, thì mẹ của em cũng phải đẹp và tài giỏi lắm?

    Cô bắc Kỳ cười duyên:

    - Anh chỉ được cái nước nịnh.

    Cũng chẳng mấy khi, trên đất người xứ lạ mà gặp được người "cùng làng," nên tôi kể cho cô nghe về tôi, về những nơi tôi đã sống và những nghề tôi đã làm. Nhưng tôi không dám cho cô biết cái lý do khiến tôi dọn nhà đến thành phố này.

    Cô Bắc Kỳ hiền thật, chịu khó nghe tôi nói, thỉnh thoảng hỏi lại tôi: "thế à" hay "sao cơ". Nghe dễ thương chi lạ! Tôi bắt đầu nghi ngờ những bài hát về người con gái Bắc của mấy ông nhạc sĩ thất tình. Mấy ông này chỉ giỏi trả thù vặt, vơ đũa cả nắm. Con gái Bắc cũng có người này người khác chứ.

    Khi tôi dừng xe trước cửa nhà cô Bắc Kỳ, tôi vẫn còn khối chuyện để kể cho cô nghe. Tôi hẹn cô lần sau.

    Cô Bắc Kỳ cười như một hứa hẹn:

    - Để xem sao đã?

    Tôi về đến nhà thì trời đã khuya. Trước khi đi ngủ, tôi cẩn thận bỏ băng nhạc vô máy hát và chọn bài "Giáng Ngọc". Trong tiếng hát của người nữ ca sĩ, tôi lờ mờ nhìn thấy cô Bắc Kỳ ngồi đàn dương cầm.

    oOo

    Ở đời, ít khi những chuyện vui xẩy ra liên tiếp. Ấy thế mà đã xẩy ra cho tôi đấy. Buổi tối, sau đêm đưa cô Bắc Kỳ về lần đầu, thì ban nhạc của quán có chuyện. Anh chơi đàn Bass, sau khi nghe phone của người nhà gọi, thì phải về nhà gấp vì vợ đẻ. Ở Mỹ, chuyện vợ đẻ không thể nhẩn nha được nên anh ta phải vội vàng chạy về đưa vợ đi đẻ.

    Ban nhạc chới với, mỗi người mỗi ý. Có người vớ vẩn trách vợ anh chơi đàn Bass không coi ngày đi đẻ nữa. Còn chị Hà thì lo lắng ra mặt. Lúc này mới 8 giờ tối, không thể chấm dứt chương trình Văn nghệ được. Khách yêu văn nghệ đã ngồi chật cả nhà hàng, và ly cà phê của họ đã được tính gấp đôi so với ngày thường. Bây giờ chị nói ngưng ngang hông, ai mà chịu được.

    Trong lúc hốt hoảng, chi Hà nhớ đến tài đàn địch của tôi và nhờ tôi thế chỗ anh đàn Bass. Chúa ơi, thế này thì chết con rồi. Nếu con leo lên sân khấu để "xập xình" với ban nhạc thì làm sao con có thể theo dõi “tên tình địch bí ẩn” của anh Kỳ được nữa? Tôi không biết tính sao cho trọn: một bên là anh Kỳ với nhiệm vụ cao cả và tối mật, còn bên kia là chị Hà với buổi tối buồn trước mắt.

    Nhưng khi nhìn chị Hà lo lắng quá sức, tôi chịu không được nên đã nhận lời. Sau phút bốc đồng, thì tới phiên tôi lo sợ. Từ khi chào đời đến giờ, tôi chưa chơi với ban nhạc lần nào cả. Tôi chỉ biết đàn nhạc Guitar cổ điển. Thỉnh thoảng, tôi hứng chí thì đệm cho người khác hát hỏng một chút cho vui. Tôi cũng có học sơ qua về đàn Bass, nhưng chẳng tới đâu cả. Giờ đây tôi phải chơi đàn Bass, phải ăn nhịp với các anh trong ban nhạc. Lòng dạ tôi lo lắng lắm luôn. Nhỡ có gì, người ta "chửi" mình chết.

    Mấy anh trong ban nhạc khi biết tôi thay thế người bạn của họ, nhìn tôi nghi ngờ. Không biết thằng cu này là ai, có biết "chơi" không đó? Nhưng có lệnh của "bà chủ" nên mấy anh không thể từ chối sự có mặt của tôi trên sân khấu được. Lo thì cứ lo, nhưng vẫn phải chơi nhạc như thường. Họ vừa chơi, vừa nhìn tôi và vừa rung. Chỉ sợ tôi lọt tuốt luốt phiá sau.

    Tội nghiệp hai cô ca sĩ trong ban nhạc. Họ nhìn tôi như họ đang cầu xin chúa cho tôi đừng rớt nhịp, lợ "tông". Tôi chạy theo mấy anh trong ban nhạc bở mồ hôi tai. Sau khi qua được mấy bài, như đã quen với cây đàn nên tôi đỡ vất vả một chút. Mấy anh trong ban nhạc, lúc này có vẻ hơi an tâm. Tới bài "Giáng Ngọc" thì tôi chơi ngọt xớt. Các anh ngạc nhiên vì tôi chơi đúng y chang như trong băng nhạc. Đó là bài tủ của tôi mà. Từ lâu, tôi khoái bài hát này nên nghe bài này rất nhiều lần. Nghe đến nổi thuộc luôn lời và phần nhạc đệm.

    Nhờ Trời thương, đêm đó cũng qua đi trong yên bình. Từ đó tôi thêm phần bận rộn: Tôi phải thay anh đàn Bass mỗi tối thứ Bẩy, trong thời gian anh ở nhà chăm sóc vợ đẻ. Các anh trong ban nhạc thấy tôi "chơi" cũng được, và họ không còn cách nào khác nên tạm thời chấp nhận giải pháp nàỵ (Sau này anh đàn Bass đòi ở nhà chơi với vợ con, không thèm chơi nhạc nữa nên tôi thay thế anh luôn.)

    Vậy là ngoài tối thứ Sáu, tối thứ Bẩy tôi mắc kẹt trên sân khấu nên không thể nhòm chừng “tên tình địch bí ẩn” của anh Kỳ được. (Thú thật là tôi thích làm nghệ sĩ hơn làm thám tử.) Tôi trình bầy với anh Kỳ về việc này, anh thở dài: "nếu chị đã định như vậy thì anh không có ý kiến, thỉnh thoảng nhòm chừng cho anh thôi."

    oOo

    Từ ngày làm "nghệ sĩ", cái số đào hoa của tôi bắt đầu phát tiết. Bắt đầu vào một tối thứ Bẩy, khi tôi nhận ra cô Bắc Kỳ trong số những người khách của quán. Sự xuất hiện đột ngột của cô làm tôi xấu hổ. Xấu hổ là phải, vì tôi đã dấu cô chuyện tôi "đàn địch" cho quán, mặc dù giữa tôi và cô đã có sự thân mật hơn. Chúng tôi đã kể cho nhau nghe nhiều chuyện tương đối là riêng tư, nhưng nếu phải khoe với cô chuyện "đàn địch" thì tôi mắc cở. Vì cái tài đàn địch của tôi so với cô chẳng thấm vào đâu cả.

    Buổi tối hôm ấy, trong lúc ban nhạc nghỉ giải lao, tôi nói với cô chuyện này. Cô chẳng buồn về tôi một tí nào cả. Cô còn khen tôi "chơi" hay nữa. Việc này khiến tôi như được nước. Trong phần sau của chương trình, tôi đã chơi hết ga hết sức.

    Và sau tối ấy, tôi đến đón cô mỗi tối thứ Bẩy để đến quán nghe tôi "xèng xèng". Hai ngày cuối tuần của tôi, bấy giờ, thật bận rộn. Tối thứ Sáu, tôi đến quán để làm khán giả của cô Bắc Kỳ. Tối Thứ Bẩy, cô Bắc Kỳ làm khán giả của tôi.

    Cũng từ ngày đó, tôi quên luôn cái nhiệm vụ anh Kỳ giao phó cho tôi. Đôi khi, anh Kỳ hỏi tới “tên tình địch bí ẩn”, thì tôi nói: cũng thế, chưa có chuyện gì lạ. Đến khi chuyện lạ xẩy ra thì tôi xém nữa chết đứng.

    Một đêm thứ Bẩy, sau khi quán đóng cửa để dọn dẹp, tôi thấy “tên tình địch bí ẩn” còn ngồi thù lù ra đó. Chị Hà đứng kế bên, nói chuyện với hắn ra vẻ thân thiện lắm. Tôi chưa biết phải làm sao, thì chị Hà lôi tôi tới bàn hắn và giới thiệu:

    - Đây là anh Nguyễn, con người Bác của chị.

    Giới thiệu xong, chị bỏ mặc tôi đứng xớ rớ ở đó. Chị tiếp tục nói chuyện với ông anh họ. Thoạt đầu, nghe hai người nói chuyện tôi chẳng hiểu gì sốt! Sau một hồi lâu lắng nghe, xếp đặt lại, tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện như thế này.

    Anh Nguyễn là anh họ của chị Hà, gọi Bố Mẹ chị Hà là Chú Thím. Anh qua Mỹ du học trước năm 1975 rồi bị kẹt lạị. Anh ở tiểu bang khác, mới dọn qua thành phố này ba tháng nay vì nhu cầu công việc của hãng. Anh Nguyễn biết là có gia đình người chú hiện đang sinh sống ở đây. Anh đã ra sức tìm kiếm nhưng không gặp.

    Lần đầu tiên, khi vào quán của vợ chồng anh Kỳ thì anh Nguyễn thấy chị Hà "quen lắm". Như anh đã gặp nhiều lần ở đâu rồi nhưng lại không tiện hỏi. Chắc anh Nguyễn thuộc típ ngươi nhát gái nên tới lui quán hoài mà vẫn chưa dám mở lời? Anh viết thơ về Việt Nam hỏi gia đình anh về người chú ở Mỹ và họ đã gửi hình ảnh qua cho anh.

    Chị Hà đưa tôi xem một tấm hình, tôi nhận ra chị Hà, Bố mẹ chị và cả “hắn” nữa trong tấm hình chụp đông người đó. Anh Nguyễn nói: hình này chụp vào dịp tết trước khi anh đi du học, cách đây hơn chục năm rồi.

    oOo

    Gần hai mươi năm qua, ở đây đã có nhiều thay đổi. Người đến thì đông, người đi thì ít. Hàng quán Việt Nam cũng vì thế mà mọc lên như mấm. Quán cà phê cũ, nơi tôi gặp cô Bắc Kỳ, bây giờ là tiệm buôn bán vàng. Chủ nhân ông chính là vợ chồng anh Kỳ. Hai cô em vợ của anh, sau khi ra trường, đi làm một thời gian rồi cũng lấy chồng luôn. Anh em trong ban nhạc, sau khi lấy vợ thì ai về nhà nấy. Còn cô Bắc Kỳ, vì ham nghe tôi kể chuyện đời xưa nên dọn về ở chung với tôi để nghe cho đã tai.

    Vợ chồng tôi, đôi khi ngồi kể chuyện xưa rồi cười khúc khích. Chúng tôi có hai đứa con: một trai một gáị Đứa con gái, 14 tuổi giống mẹ nó như đúc: đẹp và tài giỏi. Thằng con trai, 15 tuổi, thì giống tôi: trông cù lần bỏ xừ. Tôi lo nó về sau sẽ vất vả với tình duyên nên cho nó đi học đàn để phòng thân. Bà xã tôi khi biết chuyện này, bèn trấn an tôi.

    - Ông chỉ khéo lo. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.

    Ừ nhỉ, sao tôi khéo lo thế ? Ngày xưa, Mẹ tôi cũng sốt ruột nhiều cho tôi. Rồi tôi cũng có vợ con đàng hoàng như ai. Tuy biết vậy, nhưng tôi đâu có chịu thua dễ dàng thế.

    - Bà nói cũng đúng, nhưng nếu nó có "nghề" thì vẫn hơn.

    Cô Bắc Kỳ cười, lắc đầu nhè nhẹ.

    - Thôi, tôi chịu thua ông. Nói chuyện với ông lâu… đến phiền./.

    Tây Độc (2004)
    Đỗ thành Đậu

  3. #3
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    ++

    Mời nghe nhạc cho đỡ buồn, trong khi chờ mình sắp chử bản in cho bài kế tiếp.

    Đỗ thành Đậu

  4. #4
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    Hàng Xóm Phiền Ghê.


    Ở Việt Nam, tình hàng xóm láng giềng vốn được xem trọng. Chẳng vậy mà các cụ hay bảo: “Bán họ hàng xa, mua láng giềng gần.” Người xưa nói thế thì chả có nhẽ nào sai được. Rồi trong thời đại ca hát, người ta còn thấy “Cô Láng Giềng, “Cô Hàng Xóm” cũng đã làm trái tim của nhiều anh giai tan vỡ. Nhà em đầu ngõ, nhà anh cuối xóm. Sáng chiều đi về ngó nhau. Cái tình cái ý, nhiều anh giai còn chưa dám nói thành câu thành lời. Thì bỗng một ngày kia, người em gái ôm bó bông to đùng lên xe hoa về nhà người khác xóm. Hỏi thế sao không buồn cho đặng?

    Nhà chung ấp, chung xóm không thân bằng nhà chung vách. Tình nhân vì thế mà nhân lên gấp bội, gấp ba hoặc gấp bốn. Mà nhiều khi hai nhà “sát vách” giở thành “thông gia”, cũng không chừng? Cái câu “tối lửa tắt đèn có nhau” chắc là biểu đồ cường độ của mức thân thiện ở mức tối cao rồi? Thì sách cũng có chép: “nhất cự ly, nhì cường độ” mà.

    Đấy là chuyện đời xưa, chuyện ở phía bên kia quả đất. Chứ ở Mỹ, hai nhà chung vách thì chả khéo lại không hay. Có khi đưa đến việc giận hờn rồi dọn nhà đi chỗ khác, chứ chả chơi.

    Tôi vẫn nghe người ta bảo “Nước Mỹ là nơi đất lành chim đậu.” Chim đậu chán thì bay xa, như loài chim Đa Đa thích lấy chồng xa. Nói thì nói thế, chứ nước Mỹ rộng bao la, cò bay thẳng cánh nên cái lành cũng tùy nơi mà gia giảm vậy. Có nơi lành nhiều, lại có chỗ lành ít. Có chỗ chả nên đụng vào. Nơi nào đời sống dễ dàng, công ăn việc làm dễ kiếm, làm giầu nhanh chóng thì mình nên dọn tới chỗ đó ngay. Chậm chân thì chỉ thiệt vào thân mình.

    Thì biết vậy, nhưng không thể nói dọn là dọn ngay được. Phải hội đủ “Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa” thì mới nên chuyện được! Gớm, sao lại to chuyện thế ? Xin thưa rằng: Phải có Thiên Thờì vì nhẽ nhiều khi đang dọn nhà mà trời đổ mưa hay rơi tuyết thì hỏng. Lại cần có Điạ Lợi vì nhiều người ở lầu 3 lầu 4 của một building không có thang máy hoặc bữa đó tự nhiên nó hỏng đi. Dọn nhà kiểu này cũng chết dở. Thế còn Nhân Hoà? Thưa, vì dọn nhà mình ên oải lắm. Phải có bạn bè, bà con giúp sức thì việc mới mau xong và tiết kiệm được tiền bạc chứ.

    Trong sách xưa có chuyện kể về thầy Tử Lộ. Mẹ của ông đã nhiều lần dọn nhà đặng ông được sống trong một môi trường tốt. Người ta bảo “Một lần dọn nhà, già đi mười tuổi”. Cứ thế mà nhân lên thì khi mẹ của thầy Tử Lộ chọn được nơi tốt cho con, chắc chắn, trông bà già lắm. Và bà phải là người giầu có vì đã phải dọn nhà nhiều lần. Mà sức phụ nữ không thể dọn nhà mình ên được. Có lẽ, bà đã thuê người khác dọn nhà hộ chăng?

    Cho nên nghèo như tôi, ít bạn bè như tôi thì phải biết thân biết phận. Chớ dại nghĩ đến chuyện dọn nhà dọn cửa.

    Ấy thế mà tránh né cũng chả được!

    oOo

    Khi mới tới Mỹ, gia đình người em trai tốt bụng mướn hộ cho gia đình tôi một căn nhà nhỏ ở một nơi buồn hiu hắt. Kế nhà tôi, bên phải, là nhà của ông bà Smith. Hai ông bà đã về hưu từ khuya. Hàng ngày không có chuyện gì làm, họ rủ nhau ra ngồi ghế xích đu trước hiên nhà nhìn trời nhìn đất. Mà lạ lắm, họ ngồi bên nhau hằng giờ mà chả nói với nhau nhời nào. Chả hiểu tại sao? Có lẽ, vì "Người Mỹ Trầm Lặng" chăng? Mỗi khi gặp họ, tôi chào “Hello, How are you?” và thế nào cũng nghe họ giả nhời “Fine. Thank you”. Trăm lần như một, chả sai tí nào. Cũng ít khi, tôi thấy có người đến thăm hai ông bà. Cũng lạ thật!

    Bên trái là nhà của vợ chồng người Mễ. Gia đình này có tất cả 8 người; Hai vợ chồng và 6 người con. Trai gái đề huề. Đứa con lớn nhất của họ, có lẽ, 15 hoặc 16 tuổi. Còn đứa nhỏ nhất khoảng 5 tuổi. Người chồng rất hiền, ít nói, thích uống bia. Nhưng bà vợ của anh ta thì hết xẩy!

    Phụ nữ Mễ thường đẹp ở lúc còn son trẻ. Lấy chồng, sinh một hai đứa con là thân thể tự do phát triển ở những chỗ không nên. Bởi thế, về nhan sắc của chị ta thì tôi xin miễn bàn nhưng phải nói về cái nết của chị ta một chút.

    Chị ta nói suốt ngày với đám con. Tôi không biết tiếng Mễ nên chả hiểu chị ta nói gì. Có lẽ, chị ta đang dạy con chăng? Những lúc tôi ở nhà, hai tai tôi phải làm việc liên tục. Thỉnh thoảng cũng được nghỉ giải lao dăm ba phút nhưng chả thấm vào đâu cả. Tôi than phiền với vợ tôi về chuyện này thì được trả lời “Gớm, chăn một lúc 6 đứa con mà không có bản lĩnh như thế thì có nước loạn mất.” Với lý do tốt như thế thì cũng được đi nên tôi không viết về chị ta nữa.

    Một buổi sáng mùa thu, tôi không thấy Ông Bà Smith ngồi ghế xích đu như thường lệ. Vợ tôi nói: “Họ vào nhà thương dưỡng già hôm qua rồi, ông ơi.” Tôi nghĩ bụng “Đúng là đàn bà giỏi về ngoại giao thật. Chuyện mới xẩy ra sốt sột mà cũng biết.”

    Cả mấy tuần sau đó, tôi thấy buồn buồn mà không hiểu vì sao!

    Hơn một năm sống kế nhà ông bà Smith, hình như chỉ có một lần họ làm phiền tôi thì phải? Hôm đó là ngày lễ nghỉ, tôi mời hai ông bạn vàng đến nhà chơi cho vui cửa vui nhà. Chứ nhà có hai vợ chồng, cả ngày ra vào nhìn mặt nhau thì cũng chán. Mà đi shopping thì tốn nhiều tiền. Hai vợ chồng tôi thích vui vẻ nhưng lại sợ tốn nhiều tiền nên chọn cách tốn vừa là mời người quen tới nhà chơi mỗi ngày lễ.

    Hai ông bạn này tính tình vui vẻ, khóai lai rai và hát hỏng ra gì. Một ông, trời bắt có giọng nhỏ nhẹ như con gái. Mỗi lần giận ai, hoặc có việc cậy đến miệng mồm, nhìn ông lên giọng đến là tội. Còn ông kia ăn to nói nhớn, giọng rè rè như cái chuông bể. Mỗi khi đến nhà tôi chơi, ông chả cần bấm chuông cửa gì sốt. Cứ đứng ngòai đường réo gọi là tôi biết bổn phận ra mở cửa cho ông rồi.

    Hôm ấy, sau khi làm một hai lon bia cho máu văn nghệ dâng cao, hai ông kia quay qua hát Karaoke. Cái thú hát karaoke lạ lắm: âm thanh nhỏ hát nghe không đã. Thì như làm vậy, tôi mới mở âm thanh hơi nhớn để chiều lòng quý khách đang có nhu cầu thả giàn tâm sự. Hai ông kia hát một chặp thì bảo nghe không đã tai, hát không đã miệng. Thế là tôi phải tăng âm thanh lên nữa. Rồi lại nghe chưa đã. Thì tôi lại tăng âm thanh. Rồi lại lần nữa. Và lần nữa.

    Khi hai ông kia vừa lòng với cường độ âm thanh thì tôi bị khốn khó vì nó. Ông bà Smith, nhà kế bên, sang gõ cửa nhà tôi. Gõ đến mấy lần mà tôi có nghe đâu. Chắc tại âm thanh của giàn Karaoke nhớn quá. Sau dăm bận gõ và vài phút đứng tần ngần trước cửa nhà tôi, Ông Smith quay về nhà mình và gọi phone cho Cảnh Sát. Thế là phiền rồi đấy, chứ còn gì nữa?

    Sau việc này, tôi giận Ông Bà Smith đến mấy ngày. Gặp họ, tôi chả thèm “Hello, How are you?” gì sốt.

    oOo
    Đỗ thành Đậu

  5. #5
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    Nhưng buồn nào rồi chẳng mau phai. Ngay khi căn nhà của ông Smith có chủ mới thì tôi hết cả buồn.

    Hai vợ chồng ông Mỹ đen, tên là Brown, to như bồ tượng và hai đứa con của họ là hàng xóm mới của tôi. Họ làm tôi hết buồn bằng những bản nhạc ráp riếc rần trời, nghe rất nhộn nhịp. Còn nữa, cả bốn người họ đều thích loại nhạc này nhưng mỗi người lại thích nghe bản nhạc riêng của họ. Thế mới chết chứ. Nhiều khi tôi phải nghe một lúc hai ba bản nhạc khác nhau. Một bản nhạc phát ra từ trong nhà của họ. Một bản nhạc tư ngoài hiên. Một bản nhạc nữa từ vườn sau vọng đến.

    Từ ngày có nhà anh Brown này dọn đến, cả khu phố rộn hẳn lên. Chẳng còn ai than phiền về chị người Mễ nói luôn miệng kia nữa. Và cũng từ dạo ấy, chuyện lạ đã xẩy ra cho tôi.

    Chuyện thứ nhất là tôi, tự nhiên, có cái tài đoán giờ giấc rất giỏi. Ban đêm, trước khi đi ngủ tôi chẳng cần “sét” cái đồng hồ báo thức gì cả. Cứ ngủ thẳng cẳng. Khi nào có tiếng nhạc phát ra từ nhà anh Brown là tôi biết đến giờ dậy đi làm. Buổi tối, hễ tiếng nhạc chấm dứt thì cả nhà tôi đều đi ngủ. Cứ thế, chẳng sai vào đâu hết.

    Chuyện thứ hai là, tự nhiên, giọng nói của tôi thay đổi. Từ nhỏ nhẹ, êm dịu đến to lớn rộn ràng. Vợ tôi than phiền là tôi không còn như trước, đã mất hẳn giọng trầm buồn. Thật là oan cho tôi. Tôi có muốn thế đâu. Chỉ tại nhà anh Brown thôi. Tôi luôn phải đánh vật với cái âm thanh rần trời phát ra từ nhà anh. Tôi nói nhỏ thì vợ không nghe được. Mà nói lớn thì bị cho là không dịu dàng. Chết thật! Nếu tôi cứ làm bạn hàng xóm với nhà anh Brown kia thì có ngày cả hai vợ chồng tôi đều to tiếng thì...mất tình tứ đi.

    Cái gì tôi cũng chịu được nhưng làm mất lòng vợ thì tôi không dám. Cho nên, một tối mùa xuân, tôi mạnh dạn đệ trình kế hoạch dọn nhà với vợ tôi. Không cần thảo luận gì hết, vợ tôi bằng lòng ngay,

    Đêm đó, tôi mơ thấy anh Brown nhìn tôi buồn không nói. Và lần đầu tiên, từ ngày anh Brown dọn đến đây, trong giấc mộng của tôi không có tiếng nhạc ráp riếc.

    oOo

    Một tháng sau, gia đình tôi dọn vô một apartment ở lầu 2, trong một building 3 tầng, cách căn nhà cũ 4 block đường. Trước khi dọn tới đây, nhiều lần tôi và vợ tôi đã cẩn thận đi quan sát khu vực chung quanh của building. Chúng tôi sợ họ hàng của anh Brown sống gần chỗ này thì lại phải dọn nữa. May mắn là chung quanh không có nhiều và trong building thì tuyệt vời: không có mạng nào cả. Thế là a lê hấp, chúng tôi dọn vô ngay. Kẻo lỡ dịp may.

    Thời gian đầu ở đây, gia đình tôi sống rất thoải mái. Tính ga lăng bẩm sinh của tôi đã phục hồi nhanh chóng. Mặc dù tôi mất đi cái tài "bói" giờ, nhưng chẳng sao! Miễn vui cửa vui nhà là được rồi. Dọn về đây được một tháng thì vợ tôi có việc làm. Đúng là “Song Hỷ Lâm Môn.” Vui hết biết.

    Vợ tôi làm cho một hãng xưởng gần nhà. Lái xe khoảng 20 phút. Vì nhát gan nên vợ tôi, lúc đó, chưa có bằng lái. Lúc đi làm, vợ tôi đón xe Bus. Còn buổi tối, khi vợ tôi về làm, tôi đi đón. Chúng tôi ăn mừng chuyện vui này bằng cách khiêng về nhà cái TV mới, 32 inches, để xem cho đã mắt và phù hợp với phong thuỷ trong nhà. Vợ tôi không nói gì, nghiã là đồng ý với tôi rồi. Thiệt là thời đã tới thì làm việc gì cũng thuận lợi cả.

    Mùa hè năm sau, có một chàng trai trẻ người Mễ dọn vào building. Hắn ta ở căn phòng đối diện với apartment của chúng tôi. Mỗi ngày, khi tôi ra khỏi nhà đi làm đều thấy hắn ngồi trên bậc thăng dắt vào building. Hắn ngồi đó uống bia, nghe nhạc và đuà giỡn với mấy cô gái Mễ sống gần đó.

    Tôi chả hiểu tại sao hắn thích ngồi đó? Giữa trưa trời nóng muốn phát tiết, cũng thấy hắn. Có lẽ, phòng hắn không có máy lạnh nên phải ra ngoài hóng gió chăng? Tôi cũng không biết hắn làm nghề ngỗng gì mà rảnh rỗi thế?

    Mà thôi, chuyện thiên hạ, hơi đâu mà thắc mắc cho mệt xác. Tôi nghĩ thế và không thèm để ý đến hắn nữa.

    Bẳng đi một thời gian, tôi lại có dịp để nghĩ về hắn. Lần này, không những nghĩ tới hắn mà tôi còn tìm hiểu kỹ về hắn nữa. Lý do là hắn khen vợ tôi đẹp nhiều lần khi có mặt tôi bên cạnh. Hắn gan cùng mình. Dám coi tôi không ra gì. Thế có tức mình không cơ chứ?

    Chuyện vợ tôi đẹp thì tôi biết từ khuya, không cần hắn nhắc nhở. Hắn, nếu có khen, thì cũng chỉ nên khen một lần là đủ. Mà hắn phải nói với tôi kìa, chứ nói với vợ tôi thì tôi không bằng lòng. Tôi thấy có vấn đề với anh này rồi.

    Để giải quyết vấn đề cho nhanh gọn, tôi chỉ có hai lưạ chọn: một là hắn đi, hai là tôi phải giả từ nơi đây.

    Tôi chọn cách thứ nhất, vì sau lần dọn nhà vừa rôi tôi đâm ra sợ dọn nhà; Nhất là lúc này trong nhà lại có cái TV lớn quá khổ nữa.

    Tôi bắt đầu nghiên cứu các kế sách trong cuốn "Tôn Tử Binh Pháp". Tôi đọc hết cuốn này mà vẫn không chọn ra được một kế nào khả dĩ thi hành được. Trong sách, kế nào cũng hay, cũng độc điạ chết người được. Tôi thì không muốn dính dáng tới pháp luật làm chi cho phiền nên phải tự mình ên nghĩ kế.

    Mấy ngày sau, tôi cũng chưa nghĩ ra được kế nào cho ra hồn cả. Buồn quá, tôi đưa vợ tôi đi chợ thì khi đi ngang qua khu văn phòng phẩm tôi, tự nhiên, nghĩ ra được một kế. Thật là ông Giời có mắt, chả bao giờ phụ người có lòng.

    oOo
    Last edited by Đậu; 12-19-2020 at 09:08 AM.
    Đỗ thành Đậu

  6. #6
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    Để nắm chắc phần thắng khi thi hành độc kế, trước hết, tôi phải biết thời khóa biểu trong ngày của hắn. Giờ nào hắn ở trong phòng, giờ nào hắn hóng gió ngoài hiên. Nếu hắn đi ra phố, khoảng bao lâu thì quay trở về. Những chi tiết này rất quan trọng cho kế hoạch nên tôi cẩn thận ghi vào cuốn sổ tay và phối kiểm vào cuối ngày. Chuyện này tôi âm thầm tiến hành, vợ tôi chẳng hay biết gì.

    Ba tuần sau, tôi đã có đầy đủ chi tiết về thời gian và quyết định ngày "D day" là ngày thứ Sáu, lúc 10 giờ đêm.

    Tới ngày D, tôi cẩn thận xem xét kế hoạch một lần nữa cho chắc. Tôi biết là nếu thất bại thì không có cơ hội thứ hai. Cả ngày hôm đó, tôi sốt ruột chờ trời tối.

    Đúng 9 giờ đêm, tôi bỏ đồ nghề vào trong túi áo rồi ngồi xem TV chờ hắn ra khỏi nhà. Khi tôi nghe tiếng chân ngoài hành lang, tôi biết giờ G. đã đến. Tôi đứng dậy tắt TV rồi ra khỏi nhà. Tôi đi theo hắn, cố giữ quảng cách giữa hắn và tôi vừa phải. Hắn không biết đang bị tôi theo dõi nên huýt gió luôn miệng, ra vẻ yêu đời lắm. Cứ yêu đời đi, đêm nay ông cho mày biết tay.

    Tôi ngồi trên bậc thang trước building để chờ hắn đi khuất. Tôi biết hôm nay hắn đi ra phố và sẽ về lúc nữa đêm. Tôi có hai tiếng đồng hồ để làm chuyện tôi muốn làm, không cần phải vội vàng.

    Mười lăm phút sau, khi chắc chắn là hắn đã đi thật xạ, tôi đứng dậy và đi vào building.

    Tôi dừng lại trước phòng hắn, cẩn thận đảo mắt một vòng xem có ai chung quanh không. Tôi biết giờ này mọi người sửa soạn đi ngủ, chẳng có ma nào ở ngoài hành lang cả nhưng cẩn thận vẫn hơn.

    Không có ai cả. Hành lang vắng lặng. Tôi nhẹ nhàng lấy ống Super Glue ra khỏi túi áo rồi cẩn thận bơm vào các lỗ ổ khóa của cánh cửa phòng hắn.

    Mỗi lổ ổ khoá tôi bơm hai lần cho chắc ăn. Sau đó, tôi vòng ra sau nhà, tìm cửa sau của phòng hắn và bơm nữa. Lần này, tôi bơm kỹ hơn một chút vì phải xài cho hết ống Super Glue.

    Xong chuyện, tôi trở lại apartment của tôi và thưởng cho mình một ly Seven Up rồi mới đi đón vợ tôi tan sở, như thường lệ. Trên đường đi, tôi phi tang cái ống Super Glue đã xài hết. Mọi việc đều gọn gàng, sạch sẽ.

    oOo

    Ăn xong bữa cơm tối, tôi mở TV ra xem chờ hắn về. Tôi lơ đãng theo dõi cuốn phim đang chiếu và lười biếng đổi đài mỗi khi họ quảng cáo, như tôi vẫn làm. Ruột gan tôi nóng như lò lửa. Chả như ai kia trong câu thơ “Thủa chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm”. Tôi nghĩ là có sự nhầm lẫn gì đây? Vì tôi chỉ nghe người ta nói “chờ sốt cả ruột”, chứ chưa bao giờ nghe “chờ rét cả ruột” cả!

    Vợ tôi nhờ tôi đi lấy hộ miếng nước, tôi cứ ngồi ì ra. Chưa bao giờ tôi làm thế cả. Thế là vợ tôi nhận ra vẻ bất thường của tôi. Với vẻ lo lắng, có lẽ nghĩ là tôi bị yếu trong người, vợ tôi hỏi tôi có sao không? Tôi vừa coi đồng hồ, vừa trả lời: “Anh không có sao, nhưng một chút xíu nữa sẽ có "màn" hay lắm.” Có nhẽ, vợ tôi nghĩ là TV sắp chiếu phim hay nên cũng ráng ngồi chờ.

    Khoảng 20 phút sau thì hắn về. Nghe tiếng chân nặng nề, xiêu vẹo của hắn ngòai hành lang, tim tôi đập mạnh, mém bị hụt nhịp. Đêm nay, bước chân của hắn không còn âm thầm như mọi khi. Mà vang dội, ngân nga ngòai hành lang như cái chuông đứt giây rơi từ trên tháp cao xuống đất.

    Khi tiếng chân im bặt, tôi đưa tay ra dấu cho vợ tôi im lặng và tắt âm thanh của TV. Vợ tôi chưa kịp hỏi thì ngòai kia tiếng ai đó rền vang trên sóng. Và rồi, cả building bị đánh thức bởi anh chàng Mễ đi chơi về khuya đang cáu sườn la hét om xòm ngoài hàng lang.

    Tôi nghe hắn la hét mà chả hiểu gì sốt. Chắc là hắn đang chửi thề bằng tiếng Mễ? Tôi không hiểu tiếng Mễ nên coi như "pha". Mặc xác hắn với mớ tiếng Mễ xì xồ xì xào kia.

    Lúc này, vợ tôi như hiểu "cái màn hay lắm" mà tôi đã quảng cáo nên nhìn tôi cười khúc khích. Tôi nhe răng ra cười đáp lại.

    oOo

    Sau khi bị tôi chơi "vố" này, hắm đâm ra "rét". Tối ngày ở trong phòng. Không ra ngoài hóng gió nữa. Hắn hiền lành như thế được hai tuần lễ, rồi lại ra ngồi ở bậc thềm trước cửa vào building. Lại khen vợ tôi đẹp, mỗi khi có dịp. Thế có tức không cơ chứ? Còn tôi, tôi chả dại gì mà làm màn “bít cửa” thêm lần nữa! Cho nó bắt tại trận à!?

    Sách có câu “Tránh voi chẳng xấu mặt” nên một lần nữa tôi phải đệ trình “Đơn Xin Dọn Nhà” cho vợ tôi duyệt xét. Phiền ghê!


    Tây Độc (2004)
    Đỗ thành Đậu

  7. #7
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    ++

    Kinh Kha 2010

    Hồi Một.

    Mùa thu năm 2010 sau công nguyên, thái tử Đan bầy tiệc tiễn đưa Kinh Kha ở bờ sông Dị Thủy. Mọi sự thế gian cần thiết cho chuyến đi lịch sử này đều do chính tay thái tử Đan lo toan. Từ cái bàn chải đánh răng cho đến đôi bí tất đều là hàng hiệu. Cả mầu sắc của cái T-shirt Kinh Kha đang mặc cũng là do thái tử Đan chọn. Kinh Kha là ai mà được thái tử Đan cưng chiều đến thế?

    Bấy giờ, Tần Vương mang quân thôn tính các nước Hàn, Triệu và chiếm được một mớ đất của nước Yến. Thái tử Đan nước Yến thấy sự thế gian như làm vậy thời trong lòng lấy làm lo lắng lắm. Chả biết cái quân Tần to nhớn khỏe mạnh, lại được vũ trang hiện đại đến cặp quần, khi nào tiến vào thủ đô đặng ăn gỏi nước mình? Lo thì lo vậy nhưng việc nhà binh không thể một sớm một chiều mà quyết đặng. Phải có thời gian đặng bàn đi tính lại. Xem nhẽ thiệt nằm nơi mô. Phần lợi ở chỗ nào.

    Muốn dụng binh thời phải có binh sỹ. Muốn dậy cho quân Tần một bài học thời quân Yến phải được vũ khí đến tận kẽ răng. Nhiều lần thái tử Đan bấm tay tính nhẩm thì thấy quân số của đại quân nhà mình ngày càng giảm. Chả biết nguồn cội từ đâu ra? Cứ cái đà này mà triển khai thì chẳng bao lâu thái tử Đan không còn một người lính đặng sai bảo việc trong nhà. Và theo lý thuyết dụng binh cơ bản là nếu không có quân sỹ thời mua súng ống mần chi. Chẳng nhẽ phát cho dân bắn chim bắn cò?

    Việc binh bị, đánh đấm với quân Tần chắc là hổng xong? Mà chả nhẽ ngồi chờ quân nước Tần vào giải giới phe ta? Thái tử Đan càng nghĩ càng rầu thúi ruột gìa nên chả bao lâu sau thì bị bệnh hôi mồm.

    Ngày ấy, đương lúc lo lắng như làm vậy thì có người tiến cử Kinh Kha. Thái tử Đan nhòm thấy ngiười này khí phách hiên ngang, cử chỉ phi phàm thì trong bụng lấy làm mừng rỡ, liền bái làm thượng khách và thuê khách sạn 5 sao cho ở. Cùng là bây tiệc khỏan đãi Kinh Kha rất hậu. Cứ ba ngày một tiệc nhỏ. Bẩy ngày một tiệc nhớn. Dĩ nhiên tiệc tùng này nọ thì không thể thiếu phần văn nghệ văn gừng được. Ăn uống chỉ là thú vui nhất thời còn văn nghệ mới là niềm vui lâu dài. Thì như làm vậy thái tử Đan mới sắm giàn karaoke sịn và mời các ca sỹ nổi tiếng của nước Yến về hát hằng đêm.

    Mấy tuần sau, cái đầu máy karaoke bị hư vì bị xử dụng quá tải. Thái tử Đan bực mình bực mẩy, chưa biết xử lý ra răng thì nhòm thấy cái mác “Made in China” dán trên đầu máy hát. Hèn chi mau hỏng như thế. Đúng là đồ mã. Chưa đụng vào đã rã như cám lợn. Thái tử Đan cằm rằm như thế và vội vàng đặt mua online cái khác cho kịp buổi party tối nay. Lần này, rút kinh nghiệm thê lương của lần trước, thái tử mua đồ “Made in USA”.

    Chuyện mua sắm online là chuyện nhỏ. Chuyện nhớn là liệu người ta có giao hàng kịp thời hạn vào tối nay không? Chứ ca sỹ đã búc rồi. Giờ không có đầu máy thì hỏng to. Nhạc nền ở đâu đặng cho ca sỹ hát? Chẳng nhẽ đệm đàn guitar cho các cô các cậu ấy? Một lần thái tử Đan qua nước Việt nhòm thấy anh ca sỹ gì đó ôm đàn guitar hát trên sân khấu đèn mờ. Thái tử mắc cười thấy mồ và từ đó không thèm động tay đến cây đàn guitar hiệu Yamaha nữa. Hỏi nguyên nhân ra răng, thái tử cười buồn mà chả đáp nhời chi? Cũng trong tour du lịch đó, thái tử Đan có biết đến hai câu thơ của một thi sỹ nước Việt. Thơ rằng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó.
    Có chở trăng về kịp tối nay”.

    Bữa đó, trong tâm trạng của một người trông chờ tin vui, ngóng trông một người, thi sỹ thái tử Đan tức cảnh mượn thơ người mà rằng:

    “Tầu ai như của U P S.
    Có chở đồ về về kịp tối nay”.

    Chuyện đời thường hay trái ý. Thế gian là vạn nẻo sầu. Bởi vậy, cái đầu máy karaoke, bữa đó, hổng về bến kịp. Là vì thái tử Đan đặt mua hàng vào ngày Chủ Nhật. Là ngày nghỉ của thế giơi tư bản chủ nghĩa. Thì như làm vậy, dù thái tử Đan đã cẩn thận gạch đít hàng chữ “Same day Shipping” trong đơn đặt mua hàng, mà cái máy vẫn còn nằm nơi phương trời khác, trong nhà kho của nơi cung cấp dịch vụ mua sắm này. Chuyện này dễ hiểu và không có gì huyền bí cả. Thái tử Đan đã nhận khuyết điểm và có đề ra phương hướng khắc phục cụ thể cho những lần giao dịch tới.

    Đó là chuyện tương lai xa vời. Nói trước mất hay. Vấn đề ở đây, lúc này, là phải giải quyết cấp bách các vướng mắc về khâu văn nghệ trong buổi tiệc đêm đó. Sau khi hội chẩn với Kinh Kha, thái tử Đan hủy bỏ buổi ca hát và xin bồi thường tổn phí cho các cô các cậu ca sỹ.

    Nhạc sống không được, thì phải lo nhạc chín. Chứ trong buổi tiệc, chủ khách cùng là nam nhi mà nhòm nhau hòai thì nom sao đặng? Chả khéo có đứa thắc mắc về giới tính của thái tử và Kinh Kha thì lại mất thời giờ giải thích lôi thôi. Thì như làm vậy, để tránh việc xấu có khả năng rất là cao xẩy ra, thái tử Đan chỉ đạo cho người DJ, chuyên lo việc kèn trống cho tiệc tùng trong triều, gấp rút lo phần nhạc chín.

    Khá khen cho người DJ của nước Yến. Chỉ trong một thời gian thật ngắn mà đã thu mua gom góp đầy đủ các dĩa CD nhạc nhẹo đang thời thịnh. Chủ yếu là nhạc giao hưởng nước ngòai. Còn người bếp trưởng, khi nghe buổi tiệc được thay đổi theo chiều hướng tây phương thì bèn đề nghị đưa món Bò bít-tất vào phần ẩm thực. Thái tử Đan không chịu. Bảo rằng như thế là tây hóa từ miệng lên đến tai. Thiên hạ khi biết chuyện sẽ cho ta là lai căng. Kinh Kha cũng gật đầu, cho là phải và rất khâm phục thái tử Đan có tính dân tộc cao.

    Vì những sự thay đổi như làm vậy, thành ra buổi tiệc đêm đó mang âm hưởng tây phương nhưng vẫn đậm nét văn hóa ăn uống Á đông. Chủ khách quất rượu Đế Gò Đen, lai rai với thịt Nai đông quê.

    Đây nói vê phần nhạc nhẹo trong buổi tiệc. Nhạc giao hưởng tây phương có khuyết điểm là hay làm người nghe giật mình ở những quãng nhạc có cường độ mạnh mẽ như tiếng đại bác nổ. Lại có khi dắt người ta vào cõi mơ huyền bằng những khỏang êm như tiếng chân nai dẫm trên đám lá vàng khô. Nói chung là nó đưa ngươi ta lên non xuống biển. Chả cần tầu bay hay tầu thủy gì hết.

    Thì như làm vậy, khi ngươi DJ đi bài “sonata ánh trăng” của ông Bi-thô được một lúc, thì thái tử Đan đã đi vào thế giới thứ hai thứ ba nào đó. Thế giới có nàng công chúa nuớc Hàn tên là Huyền Huê và những ngày tháng không thể quên được. Bấy giờ, Hai con mắt của thái tử Đan lờ đờ như hai con thằn lằn say thuốc lào. Chúng mở thao láo. Mở mãi mà chả chớp chớp gì hết. Kinh Kha nhòm thấy vậy thì đóan thái tử Đan đã tới bến, bèn ra ngòai hút thuốc.

    Nói về thái tử Đan, lúc nhỏ, bị đưa sang Tần làm con tin thì cuộc đời coi như đi vào ngõ thê lương. Cái ăn cái uống cái mặc đã thiếu thốn mà cái đầu của thái tử cũng không được rảnh rang. Phải lo đối phó với những âm mưu thù nghịch của bọn công an khu vực và bọn mật thám ác ôn luôn rình rập trước nhà đặng giám sát sanh họat hàng ngày của chàng. Ngòai ra, thái tử phải trình diện phường vào buổi sáng, rồi chiều thì báo cáo công an khu vực về sự có mặt thường xuyên của mình trong phạm vi đăng ký tạm trú. Nói chung là khổ cực mọi bề.

    “Rồi ngày qua đi, qua đi”. Khi thái tử khôn lớn thì cũng là lúc căn nhà kế bên có người dọn vào. Người này phận nữ nhi, là công chúa của nước Hàn, tên là Huyền Huê. Hàn công chúa Huyền Huê bị đưa qua nước Tần mần con tin. Nàng giỏi đàn piano. Chả hiểu khi còn ở nước Hàn, nàng theo học thầy nào, nơi mô mà giỏi ơi là giỏi. Mỗi đêm, tiếng đàn của nàng vượt không gian, leo qua giàn mồng tơi ngăn cách hai nhà mà ru thái tử Đan vào giấc ngủ. Nàng giỏi đàn quá khiến thái tử Đan, từ đấy, không dám đàn địch gì cả. Cây đàn Yamaha, từ lâu là bạn nối khố của thái tử, được cấp giấy phép đi vào dĩ vãng.

    Vì cùng là phận con tin nên hai tâm hồn dù cách xa nhau bằng cái giậu mồng tơi mà vẫn thấy gần kề. “Rồi thư đi tin lại”, chả mấy chốc họ phải lòng nhau. Yêu nhau. Rồi hẹn thề non nước. Từ đó, cuộc đời làm con tin bắt đầu có những lúc dễ thương.

    Rồi ngày lại qua đi, lại qua đi. Hàn công chúa Huyền Huê hết hạn mần con tim. Được giao trả về cố quận. Được tin dữ, thái tử Đan khóc mấy ngày, mấy đêm. Muốn gặp Hàn công chúa để trút bầu tâm sự người ở lại mà không được phép của tên công an khu vực. Lòng dạ chàng tan nát như tương đen.

    Mấy tuần sau, từ ngày Hàn công chúa Huyền Huê về nước Hàn, thì thái tử Đan nhận được bồ câu đưa thư. Báo tin nàng về bên ấy bình an. Chàng mừng rỡ, thảo mấy hàng chữ cho nàng hay là mọi sự nơi đây vũ như cẩn. “Em ra đi, nơi này vẫn thế.”

    Sẩy ra có đứa bắt được con chim đưa thư. Đọc được hàng chữ “em ra đi, nơi này vẫn thế” thì thấy ghét, bèn giết phắt con chim bồ câu rồi treo xác nó lên hàng giậu mồng tơi nhà chàng. Thái tử Đan nhòm thấy sự thế gian này thì lo ngại Hàn công chúa Huyền Huê sẽ cho chàng là thủ phạm và nếu như chàng không gặp được Huyền Huê để phân giải ngọn ngành thì, có thể, từ đây hai người sẽ “nghìn trùng xa cách”, “chuyện tình Lan và Điệp” đến hồi cắt đứt giây chuông rồi.

    Thế là thái tử lên kế họach đào thóat khỏi nước Tần.

    oOo
    Đỗ thành Đậu

  8. #8
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    ++

    Kinh Kha 2010

    Hồi Hai.


    Nhắc lại, thái tử Đan vì lo sợ tình yêu của chàng và Hàn công chúa Huyền Huê tan vỡ như bọt xà phòng nên tìm cách trốn ra khỏi nước Tần. Rồi sau đó sẽ qua Hàn tìm gặp Huyền Huê mà giải bầy tâm sự.

    Đầu đuôi cũng tại con chim bồ câu đưa thư của Huyền Huê bị tử thương trong khi thi hành nhiệm vụ giao liên. Chả biết thằng khỉ gió nào đã lấy mảnh sành đâm nó chết.

    Ở nước Hàn xa xôi, Huyền Huê chờ mãi mà chả thấy cánh nhạn bay về thì lòng bồn chồn lắm. Lại sực nhớ thái tử Đan khóai món Bồ câu chiên dòn thì dạ càng nóng hổi. Linh tính của nàng vội lên tiếng báo động một điềm chả lành. Huyền Huê bèn sai mật thám sang nước Yến dò thám thì mới hay con chim của mình đã chết thê chết thảm. Chết không có chỗ chôn. Lòng buồn bực mà sanh ra giận hờn khiến Huyền Huê ném lược xuống đất mà thề nếu chưa tìm ra cái đứa giết chim thì từ nay không thèm soi gương nữa. Ấy, thương thay. Mà cũng éo le thay.

    Phần thái tử Đan, từ ngày tính chuyện vượt biên thì phải lo toan việc trong chuyện ngòai mà mình mẩy xanh xao vàng vọt. Ai nhòm cũng thấy thương tâm, bất nhẫn. Nhưng biết mần răng bi chừ ngòai việc thêm nhời cầu nguyện.

    Sách xưa có câu “đất Tần vào dễ khó ra” quả là đúng lắm. Qua mấy chục lần thất bại, sau rốt thái tử Đan cũng trốn thoát khỏi nước Tần, về lại nước Yến bình yên.

    Tin Thái tử Đan vượt thóat khỏi nước Tần làm cả nước Yến phấn khởi. Các đảng phái chính trị nước Yến mời chàng diễn thuyết, báo cáo tình hình kinh tế chính trị của Tần. Lúc đầu chỉ có một vài đảng phái nhớn, rồi thì sau này cả đảng phái nhỏ cũng mời. Khiến thái tử bận rộn cả ngày, đầu tắt mặt tối.

    Khởi đầu thái tử không lấy tiền thù lao cho những buổi diễn thuyết. Chỉ yêu cầu được cung cấp nơi ăn chốn ở và vé máy bay khứ hồi mà thôi. Về sau, thái tử thấy nhiều đảng phái mời qúa thì mệt mỏi nên nghĩ cách từ chối khéo. Bèn ra giá biểu cho buổi diễn thuyết dựa vào tình hình địa lý, nhân văn nơi có nhu cầu tìm hiểu. Chả hạn nơi đó cách xa nhà thái tử quá, thì phải có máy bay 747 đưa đón. Chả hạn như chỗ nói chuyện tòan là dân có máu mặt thời giá biểu phải tăng cho phù hợp với giai cấp của người tham dự. Nói chung là thái tử Đan cũng vất vả lắm, khi phải tìm cách từ chối lời mời.

    Trong các buổi diễn thuyết về tình hình nước Tần, thái tử thường gặp những câu hỏi nặng cân có giá trị cao về chánh trị quốc phòng. Thái tử Đan trả nhời ron rót. Chả vấp váp chỗ nào. Khiến những người tham dự bán tín bán nghi. Chả nhẽ một con tin bị quản thúc tại gia mà biết được những việc xẩy ra trong cung đình nhà Tần? Khó tin quá sức nhẽ mình. Thế là các thủ lãnh đảng phái này nọ mới bí mật sai thám tử sang Tần do thám. Sau khi nghe thám tử về báo thì họ thấy những điều thái tử Đan nói hoàn toàn trùng khớp.

    Bấy giờ, mọi người tin thái tử Đan là người tài giỏi. Họ nghĩ thái tử Đan cài người vào cung đình ngồi tham chánh với Tần Vương. Rồi thì các đảng phái nước Yến tự nguyện sát nhập lại với nhau thành một đảng duy nhất và mời cho được thái tử Đan làm lãnh tụ tối cao của họ. Gọi là Thủ lãnh.

    Việc làm thủ lãnh các đảng phái chính trị nằm ngoài dự đóan của thái tử Đan nên nhất thời chưa biết xử lý ra răng. Sau khi đọc sách xưa, thấy có thơ rằng “khiêm tốn chẳng qua vâng nhời” và câu “khiêm tốn bằng bốn lần kiêu ngạo” thì thái tử Đan mới nhận nhời thỉnh cầu của các đại bang mà làm thủ lãnh. Lại đặt tên cho tổ chức này là “Mặt trận chống Tần cứu Yến.”

    Lúc mới về nước, thái tử Đan muốn cấp bách qua Hàn gặp Huyền Huê mà cởi mở tấm lòng chân chính của mình ra cho nàng nom cho tỏ. Nhưng rồi thấy dân Yến coi trọng mình, mời mọc diễn thuyết này nọ thì nguội dần ước muốn qua Hàn. Nay được mời vào chức vụ tối cao, chỉ huy cuộc chiến chống Tần cứu Yến thì thái tử Đan đành cất việc riêng mà lo việc chung.

    Nói về nước Yến thì từ lâu nay, tiền bạc dùng cho việc quốc phòng là rất ít. Vì nhẽ nước Yến nhỏ, dân số ít mà lại không có mỏ kim cương hoặc mỏ dầu. Giả như có những tài nguyên thiên nhiên này thì hay biết bao. Thì bán chúng cho giới tư bản rồi lấy số tiền đó mà mua vũ khí hiện đại của mấy nước bên tân thế giới cùng tích trữ lương thảo mà nuôi quân sỹ cho khỏe mạnh.

    Thôi, nếu cậy Giời không được thời dân nước Yến phải tự cậy vào sức mình thôi. Phải gấp rút nghĩ ra cách có thật nhiều tiền để mua võ khí. Nói thì dễ, làm mới khó. Thái tử Đan chả biết bắt đầu từ chỗ mô.

    Thái tử Đan quyết định là không phát động phong trào “tuần lễ vàng”, kêu gọi dân chúng đóng góp vàng bạc châu báu này nọ, mặc dù có nhiều mưu sỹ đưa ra đề án này. Thái tử Đan bảo là nhận vàng của dân thì phải nghe nhời dân. Mà việc quân cơ thì dân đâu có rành rọt mà bàn ra tán vào. Nghe theo nhời dân thì không đặng. Mà chả nghe thì lại mang tiếng là mân việc thiếu tinh thần dân chủ. Người ta ủng hộ, nghĩa là sẽ có ngày họ đòi lại. Nói giả dụ, nhỡ khi đó “mặt trận chống Tần cứu Yến” giải thế thời làm răng mà biết ai cho bao nhiêu mà giả lại vì nhẽ là đã không ghi những chi tiết này vào sổ sách.

    Ngày kia, thái tử Đan ngồi trong lều Sóai mần việc quân mà quên cả việc ăn uống. Mãi đến chiều tối thì mệt mỏi quá sức, bụng lại đói meo, nên ngủ thiếp đi. Bỗng có người mang đồ ăn vào lều, rồi đánh thức thái tử Đan dậy. Người này mặc đồ dân sự. Không phải là binh sỹ dưới quyền chỉ huy của thái tử Đan. Chả hiểu làm răng mà người này lọt vào được lều Soái?

    Thái tử Đan sực nghe mùi thơm từ món đồ ăn vừa mang đến thì mừng hết lớn bèn nhanh nhẹn cầm đủa ăn ngay. Chẳng cần biết món ăn đó từ đâu đến. Có bị tẩm độc hay không? Trộm nghĩ, cái sự đói làm người ta dễ đánh mất cảnh giác nhiều lắm.

    Chừng khi dùng xong, thái tử Đan tỉnh người, tỉnh trí thì phát hiện người đưa đồ ăn là kẻ lạ mặt. Bèn quát tháo quân sĩ nhào vào bắt đoạn mang xuống phòng an ninh để tra xét.

    Sau khi hạch hỏi theo các câu hỏi có sẵn trong quá trình điều tra, gọi là bài bản gì đó, thì thái tử Đan mới hay người đó thuộc về cõi trên, là thần tiên. Lại hỏi thần tiên tên chi? Thì hóa ra đây là ông Thần Khẩu, chuyên lo phần ẩm thực cho thế gian.

    Bữa đó, nhân lúc rảnh rỗi, tiên ông đáp mây đi lang thang theo gió thì thấy thái tử Đan đói sắp lã người ra thì vội vàng hạ cánh. Cùng mang theo thức ăn ngon bổ đặng bồi dưỡng thể xác và tinh thần cho thái tử Đan. Món này xuất xứ từ nước Việt, gọi là Phở. Món Phở có tiếng là thơm, ngon, bổ, béo. Cách chế biến cũng giản đơn nhưng lại mang nhiều biến tấu ở giai đọan chót. Đấy là nhờ vào các phụ gia như Tái, Nạm, Gầu, Gân, Sách, Chín.

    Bấy giờ, Thái tử Đan mới dùng xong món phở, mùi vị còn đọng ở kẽ răng, nên cũng nhất trí với ông Thần Khẩu về khỏan thơm ngon bổ béo của nó. Chứng của thái tử Đan là chứng thật, là cái không thể tranh cãi đặng.

    Chả mấy khi người phàm gặp tiên, lại được nếm món ngon, nên thái tử hỏi tiên ông cách chế biến món phở. Tiên ông, lúc đầu, định từ chối vì món phở là quốc thực, là vật trấn quốc của xứ Việt. Không đặng tiết lộ lung tung mà vi phạm luật Kinh tế. Có thể bị thưa ra tòa vì phạm tội đánh cắp thương hiệu. Nhưng thấy Thái tử Đan năn nỉ quá sức nhẽ minh thì tiên ông siêu lòng. Bảo mang giấy bút ra đặng ông viết xuống cho. Chứ nói miệng thời mần răng mà nhớ cho trọn bộ.

    Ấy, cái phương thức chế biến món phở là phải chi tiết cụ thể và đầy đủ như vậy. Chứ phiên phiến này nọ là không được. Nhất định là không được đâu đấy.

    Viết xong cái công thức chế biến phở, tiên ông trao lại cho thái tử Đan và bảo “ta thăng đây”. Tức thì có một ngọn gió nhớn nổi lên cuốn tiên ông mất hút vào rặng mây dầy đặc trên trời.

    Thái tử Đan đứng nhòm theo một chặp, rồi quay vào lều.

    oOo
    Đỗ thành Đậu

  9. #9
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    ++

    Kinh Kha 2010

    Hồi Ba.


    Nhắc lại hồi trước. Thái tử Đan được tiên ông giao cho công thức chế biến phở thì mừng lắm. Định bụng mời Thần Khẩu ở lại thế gian chơi vài bữa đặng hỏi han cách diệt Tần nhưng tiên ông có việc phải về Giời gấp. Không thể ở nán lại.

    Đêm ấy, tiên ông bay lên giời dưới ánh trăng chưa được vàng mấy. Thái tử Đan đứng nhòm theo bóng tiên ông một chặp, rồi quay vào lều. Bất ngờ mất thăng bằng, té lăn ra đất. Đầu đụng phải cục đá chảy máu. Thái tử Đan vội đưa vật cầm trong tay lên để cầm máu thì nhận ra đó là miếng giấy ghi lại cách thức nấu phở.

    Hóa ra, thái tử Đan không mơ ngủ. Những việc xẩy ra trước đó đều dó thực.

    Sáng ngày sau, thái tử Đan muốn khoe với triều đình về chuyện tiên ông ghé thăm bèn chỉ đạo cho bếp trưởng nấu món phở theo đúng điều lượng, gia vị ghi trong tờ giấy của tiên ông trao lại. Thái tử Đan đích thân kiểm soát chất lượng của các công đoạn trong quá trình chế biến phở. Ngay cả việc nêm nếm nồi nước lèo, thái tử Đan cũng mần luôn.

    Khi nấu xong nồi phở, thái tử Đan đánh kẻng mời mọi người trong triều dùng thử. Và đi đến từng người xin ý kiến đặng sau này nấu tốt hơn. Mặn ngọt ra răng? Béo lạt chỗ nào? Rau cỏ có hòa hợp? Thịt thà cân xứng? Mọi người đều bảo rằng không còn chỗ nào chê. Rằng mọi thứ được phối hợp rất ăn khớp. Điều lượng cân đong đo đếm cũng rất hợp lý.

    Trong đám thực khách ấy, có người góp ý rằng thái tử Đan có hoa tay nấu bếp. Giá như mở tiệm phở thì chả mấy chốc mà giầu nhớn. Bấy giờ, trong thực khách có một mưu sỹ nghe được nhời bình mang mầu sắc kinh tế này thì bàn với thái tử Đan về việc mở tiệm phở, nghĩa là làm kinh tài đặng lấy tiền lo việc binh bị.

    Người ấy bàn rằng: nếu mần đặng tiệm phở thì tránh được việc kêu gọi dân ủng hộ vàng bạc châu báu. Ấy là một điều lợi. Tiền ta mần ra thì muốn tiêu pha thế nào cũng đặng. Ấy là hai điều lợi. Khi ta đã có tiền thì chả cần xin viện trợ từ các nước chư hầu khác. Ấy là ba điều lợi.

    Thái tử Đan nghe xong nhời bàn thì đắc ý lắm. Bèn lên kế họach chi tiết cụ thể cho việc mở tiệm phở. Chọn chữ “Huề” đặt tên cho tiệm. Lại sai người quảng bá rầm rộ mục đích chính của mặt trận qua việc kinh doanh phở.

    Cái tên Huề của tiệm phở xem ra có chút vấn đề. Nó tạo ra hai luồng tư duy đối nghịch song hành trong hàng ngũ lãnh đạo. Mém một chút nữa là đẩy nội bộ mặt trận đi vào nơi chia rẽ.

    Nhóm chống đối thì cho là cái tên Huề không nâng cao khí thế đấu tranh. Mà hạ thấp sức chiến đấu của quân ta. Hỏi tại sao chỉ đòi huề? Đánh đấm mà chỉ cầu huề thì đánh đấm mần chi cho mỏi tay mỏi cẳng. Hỏi ai vào Casino bài bạc mà chả mong thắng lớn? Ai buôn bán gần xa mà không muốn một vốn bốn lời, luôn thắng quả đậm? Vậy muốn có chiều hướng đi lên thì tiệm phở, nơi kinh tài và cũng là một phần mặt mũi của mặt trận, phải đặt tên có chữ “Thắng”. Thắng có nghĩa là đạt phần lợi về phía mình. Chả hạn như “Thắng Lợi”, “Quyết Thắng” hoặc “Chiến thắng”. Chứ không phải “thắng” là “phanh” là stop đâu.

    Nhóm chủ “huề” cũng có tư duy riêng. Rằng trong giai đọan hiện thời, quân địch mạnh quân ta yếu, thì giữ được thế cân bằng, nghĩa là huề, là quý lắm rồi. Muốn được vậy thời quân số của ta phải bằng quân số địch và vũ khí cũng phải ngang cơ với địch. Thì như làm vậy, vấn đề mũi nhọn hiện nay của ta là mần răng có tiền. Càng nhiều càng tốt đặng mộ thêm quân và mua thêm súng đạn. Cái tên “Huề” thiệt là hợp tình thế, hợp lý lẽ hết sức.

    Riêng thái tử Đan thì có ý riêng tây khi đặt tên cho tiệm là “Huề”. Là vì thái tử “nhớ người yêu”, là Hàn công chúa Huyền Huê nên đảo ngược hai chữ “Huyền Huê” ra “Huê Huyền.” Mà Huê huyền thì là Huề, chứ còn răng cỏ gì nữa. Giản đơn là vậy. Chứ có nội dung đấu tranh đấu gạo gì đâu.

    Chuyện đời có lắm lúc vui vẻ như thế.

    Dân nước Yến ủng hộ phở Huề rất đông và rất mạnh. Vượt ra ngoài dự đoán và mong đợi của thái tử Đan. Chả riêng gì cánh đàn ông mà cả bên phụ nữ cũng hăng say ra trò. Có thể nói mà chả sợ nhầm là người người ăn phở, nhà nhà ăn phở. Ngõ liền ngõ, sông liền sông, đi đến đâu cũng nghe nói về phở.

    Mùi phở đã tan vào không khí đấu tranh của dân nước Yến. Mần ăn buôn bán mà phải đãi đằng thì kéo nhau ra tiệm phở. Trai gái tỏ tình với nhau cũng vào tiệm phở. Vợ chồng bất hòa thì mua tô phở làm lành. Phở mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà. Phở đi vào sanh họat hằng ngày của dân nước Yến. Có nhẽ, ngày ấy, dân nước Yến thích ăn phở hơn ăn cơm?

    Nhưng lòng người tham lam vô hạn. Được năm thì lại muốn mười. Thì như làm vậy, để tăng thêm khí thế sôi sục chống Tần và mức độ thu nhập kim ngân, nhiều cơ sở của tổ chức đã mở ra những cuộc thi Hoa hậu và được người dân ủng hộ hết sức hết mình. Có khi chủ đề cuộc thi là “Hoa hậu phở Huề”. Có lúc, lại là “Hoa hậu Kháng chiến”. Nhiều bà sồn sồn cũng tự đứng ra làm chủ cuộc thi “Hoa hậu quý bà phở Huề” đặng giành cái giải nhứt về cho mình hoặc cho bà bạn hàng xóm.

    Nói chung, là nước Yến được mùa Hoa hậu. Thời kỳ này, có nhiều người nói đùa là ra ngõ phải hết sức cẩn thận. Kẻo đụng phải mấy nàng Hoa hậu thì khổ vào thân. Chả khéo thì bị gán cho cái tội “gián điệp Tần phá hoại thành quả kháng chiến” thì bỏ bu.

    “Rồi ngày qua đi, qua đi”. Đã hai mùa thu lá vàng rơi rụng. Việc kinh tài phở rất phất. Tiền bạc vào như nước. Phở Huề đã đi đến vùng sâu, vùng xa và vùng cao của nước Yến. Cái tên Huề được cầu chứng tại tòa, trở thành sỡ hữu trí tuệ của mặt trận. Tiệm phở nào trên toàn lãnh thổ đất Yến mà có tên “Huề” thì liền bị phú lít hỏi giấy phép, lai sần mở tiệm liền tù tì. Còn ai muốn mở chi nhánh phở “Huề” là phải làm đơn này nọ. Chứ chả phải chuyện cỏn con.

    “Mặt trận chống Tần cứu Yến”, bấy giờ, có riêng một ban trông nom việc kinh doanh phở. Gọi là Ban Kinh tế Phở Huề. Cái tên nghe rất chói tai, kỳ cục nhưng muốn được làm thành viên của ban này thì là điều vất vả lắm.

    Đấy là những chuyện bề mặt mà người ta nhòm thấy, còn về tài chánh thì như thế này. Lúc đầu, khi mới mở tiệm, thái tử Đan gửi tiền thu được hằng ngày vào nhà băng gần tiệm phở. Rồi chả mấy chốc, khi việc làm ăn phất lên, thì chuyển sang nhà băng quận, nhà băng huyện. Rồi thì chuyển sang nhà băng trung ương. Sau này, khi phở Huề trở thành thương hiệu nhớn, có chi nhánh vệ tinh con trên 4 vùng chiến thuật, thời tiền bạc được máy bay chở sang nhà băng Thụy sỹ gửi cho chắc cú.

    Một ngày kia, nhân đọc sách cổ xưa, thái thử Đan đắc ý câu “đập rắn đập đằng đầu, bắt giặc phải trói chủ tướng trước”. Thái tử Đan nghĩ là giặc Tần mạnh là vì các luật lệ nghiêm khắc do Tần vương ban xuống được thi hành triệt để. Không có ngoại lệ gì sốt. Thì như làm vậy, muốn giặc Tần suy yếu thời phải làm mất các thứ luật ác ôn đó đi. Lúc ấy, ta chả cần binh tướng, chả cần súng ống mà cũng đạt thắng lợi sau cùng.

    Cách tốt nhất để vĩnh viễn không còn những luật lệ đó nữa là giết Tần vương. Là ám sát Tần Thủy Hòang.

    Nghĩ đọan, thái tử Đan, một mặt, đình chỉ việc mộ thêm quân. Cùng hõan việc mua thêm máy bay xe tăng. Mặt khác thì chỉ đạo xuống ban ngành các cấp tìm kiếm nhân tuyển thích hợp cho việc ám sát Tần vương. Người được chọn phải gan dạ khác thường, võ nghệ phi phàm và phải kín miệng triệt để.

    Mấy tháng sau, từ ngày thông cáo báo chí này đưa ra, vẫn chưa chọn được người đủ tiêu chuẩn. Trong lúc giặc Tần thì hăm he ngòai cửa ngõ. Chỉ chờ lệnh Tần vương là xung phong, xung phong làm cỏ nước Yến ngay.

    Thì nhẽ làm vậy, khi găp được Kinh Kha, thái tử Đan rất mừng. Xét về tiêu chuẩn gan dạ, võ nghệ, kín miệng thì Kinh Kha vượt chỉ tiêu rất xa. Rất vừa lòng thái tử Đan. Duy còn hai điều vẫn làm thái tử Đan lo nghĩ là tìm ra cơ hội thuận tiện để nói với Kinh Kha về việc ám sát Tần vương. Rồi liệu Kinh Kha có nhận lãnh công tác khó khăn này không?

    Đêm nay, nghe bài “Sonata ánh trăng” của Bi-thô thì bao nhiêu chuyện xa gần trở về, lòng thái tử Đan lại lên cơn rầu. Bất giác, thở dài đánh sượt một cái rõ to. Bấy giờ cũng là lúc Kinh Kha từ ngoài trở lại bàn tiệc.

    Liiệu Kinh Kha có nghe được tiếng thở dài trong đêm của thái tử Đan?

    oOo
    Đỗ thành Đậu

  10. #10
    James Đậu Đậu's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    1,787
    ++

    Kinh Kha 2010

    Hồi Bốn.

    Nhắc lại hồi trước. Thái tử Đan nhớ chuyện xưa mà sanh rầu rĩ trong ruột. Bất giác, thở dài một cái rõ to thì đúng lúc Kinh Kha từ ngòai cửa bước trở lại bàn tiệc, sau khi đã hút hết dăm điếu thuốc lá.

    Đây nói về Kinh Kha. Một kiếm khách tiếng tăm lừng lẫy trên giang hồ. Khắp bốn vùng chiến thuật, hai lộ hắc bạch đều muốn giao lưu. Thì như làm vậy, võ công của Kinh Kha rất cao cường. Một con kiến trong tổ chui ra đi dạo mát, Kinh Kha chỉ cần nghe tiếng chân của nó di động trên mặt đất là biết con kiến đó có mấy chân! Huống gì cái thở dài của Thái tử còn nghe to hơn những bước chân âm thầm của loài kiến cỏn con kia?

    Kinh Kha, hổm rầy, được Thái tử Đan nghênh tiếp thật trọng đại. Ngày lại ngày ăn nhậu khôn ngơi mà Kinh Kha chưa có rịp đáp trả. Bụng dạ chàng vẫn chờ đợi một cơ hội. Nay nghe Thái tử Đan thở dài thì Kinh Kha mừng rỡ lắm. Nghĩ thầm, hôm nay Thái tử Đan không được khoe giọng của mình qua dòng nhạc karaoke thì chắc là buồn thiệt gồi. Mình phải mần cái gì để Thái tử Đan quên cơn sầu bi.

    Nghĩ đọan, Kinh Kha bèn tuốt kiếm dài đeo bên hông, phi thân lên sân khấu và cùng lúc chỉ đạo cho người DJ chơi bài “Symphony số 5”, cũng của ông Bi-Thô.

    “Teng teng teng tèng.” Bốn nốt nhạc khởi đầu nổ to như đạn đại bác vừa dứt thì Kinh Kha đã hạ cánh an tòan trên sân khấu được trang trí hòanh tráng. Đèn mầu đèn mờ treo khắp nẻo.

    “Teng teng teng tèng” lần thứ hai thì Kinh Kha bắt đầu múa minh họa bằng thanh kiếm trên tay.

    “Teng teng teng tèng” lần thứ ba thì người Kinh Kha đã được muôn vòng kiếm khí vây qiuanh. Che phủ từ đầu đến chân. Tạo ra khối hình trụ muôn mầu muôn sắc nom rất lạ mắt.

    Dưới không gian mờ tối, cái khối mầu sắc ấy di động không ngừng như được điều khiển bằng cái remote control hiện đại. Lúc bên tả. Khi bên hữu. Có lúc lên cao. Cũng có khi thấp tè. Cảnh tượng thật hòanh tráng. Không mần răng tả siết đặng.

    Chừng tàn nửa cây nhang, chợt thấy Kinh Kha phóng cây kiếm lên trần nhà. Cái khối mầu sắc ma quái bao quanh người Kinh Kha tức thời biến mất. Còn thanh kiếm thì cắm ngập vào trần nhà hơn chục phân ta. Chuôi kiếm lắc lư trong gió một hồi lâu rồi mới đứng yên. Đủ thấy công lực thâm hậu của Kinh Kha đã về thuộc đẳng cấp quốc tế.

    Rồi như máu văn nghệ đang ở mức cao trào, Kinh Kha nhanh như cắt rút con dao găm dấu nơi cặp quần ra múa tiếp. Khác với lần trước. Lần này Kinh Kha múa chậm rãi như người đang tập luyện tai-chi mặc dù bản nhạc “Symphony số 5” đang ở chỗ vội vàng.

    Con dao găm khi giao lưu với ánh đèn thì phát ra muôn triệu mầu sắc khác nhau. Lung linh và sống động quá sức nhẽ mình. Tưởng cái chức năng phát mầu của lọai TV Plasma hiện đại cũng chưa đạt đến đỉnh cao này vậy.

    Thái tử Đan thấy cảnh tượng hòanh tráng như làm vậy thì vội đứng bật lên và tiến về phía sân khấu. Cùng khóac tay ra hiệu cho người DJ ngừng phát sóng bài “Symphony số 5”. Hai con mắt dán chặt vào con dao găm đang ở trong tay Kinh Kha, nét mặt thái tử Đan vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ như tình cờ gặp lại người quen sau nhiều năm xa cách.

    Phần Kinh Kha đang ở điểm cao của bài múa minh họa, định bụng chơi một vài biến tấu nữa thì giòng nhạc bị cắt ngang. Không có nhạc làm nền thì mần răng múa máy. Nghỉ cho khỏe thân. Nghĩ đọan, Kinh Kha bèn đút con dao găm vào chỗ cũ rồi định vị thân người. Từ từ dẫn tản khí chạy về tim đặng ổn định hơi thở.

    Nói thì dài giòng chứ bằng ấy việc chỉ diễn ra trong chớp mắt mà thôi.

    Rồi Kinh Kha dõi mắt về phía người DJ đang ngồi điều khiển máy đặng nắm bắt tình hình thực tế nơi đó. Bắt gặp ánh mắt của Kinh Kha nhòm mình, người DJ bèn trỏ tay sang phía thái tử Đan. Kinh Kha gấp rút chuyển hướng họat động của con mắt thì vưa đúng lúc thái tử Đan lên tiếng chỉ đạo cho nhân viên các phòng ban có mặt trong buổi tiệc giải tán. Ai về nhà nấy. Chờ khi có klệnh mới. Chỉ có mình Kinh Kha là được ở lại.

    Thấy không khí bỗng dưng khẩn trương, Kinh Kha không có cơ sở cơ bản nào đặng đóan điếc mà chỉ chờ nom sự thế gian nào sắp xẩy ra.

    Khi chỉ còn lại hai người trong căn phòng tiệc to đùng, thái tử Đan cùng Kinh Kha ngồi trở lại bàn tiệc. Thái tử Đan tự tay rót rượu mời Kinh Kha. Cùng ngõ nhời muốn nom lại con dao găm mà Kinh Kha dùng múa minh họa lúc nãy. Kinh Kha không chút ngần ngại trao con dao găm kỳ lạ ấy cho Thái tử Đan.

    Bấy giờ, đèn đóm trong phòng tiệc sáng choang như ban ngày, Kinh Kha nhòm thấy hai tay thái tử Đan run rẩy khi nhận lấy con dao găm. Cầm chưa kịp nóng tay, Thái tử Đan vội hỏi:

    - Kinh Huynh có thể cho biết lai lịch của con dao này không?

    Hỏi xong, chả chờ Kinh Kha trả nhời, Thái tử Đan làm luôn một mạch kể lễ ngọn nguồn về con dao găm.

    Thì ra đó là con dao Bổ Đào, nguyên là vật trên Thiên đình. Nó được làm từ một khối kim cương nặng mấy nghìn cà ra, hòan tòan tinh khiết. Không một chút pha tạp nên nước nôi của nó thì là tuyệt vời. Mà góc cạnh cũng hòan hảo nữa. Không chê chỗ mô được vì được một người thợ bạc giỏi nhất thiên đình chế tác.

    Ngày ấy, Ngọc Hòang đem con dao này tặng cho Vương Mẫu nhơn ngày Mother Day. Vương Mẫu quý dao Bổ Đào lắm. Chỉ dùng vào việc bổ gọt đào tiên. Nghĩ rằng đào tiên phải dùng dao quý bổ gọt. Chứ dùng dao bình thường thời cái ngon cái ngọt của đào tiên sẽ phại nhạt ít nhiều. Thì bởi vậy, Vương Mẫu mới đặt cho con dao cái tên ấn tượng là “Bổ Đào”.

    Một ngày kia, Tôn Ngộ Không lên thiên đình đại náo thì con dao Bổ Đào rớt khỏi bàn tiệc rồi rơi tự do trong chân không trong một thời gian khá dài. Sau rốt thì con dao Bổ Đào chạm mặt đất chốn trần gian.

    Sau khi dẹp được loạn Tôn ngộ không, Thiên đình sai người xuống trần thế tìm kiếm dao “Bổ Đào” khắp nơi nhưng không có kết quả gì sốt.

    Ngày dài tháng rộng cứ trôi qua mà thông tin về dao Bổ Đào cứ biền biệt nơi mô khiến Vương Mẫu buồn lắm và bỏ ăn đào một thời gian khá dài. Và cũng từ đấy, ở trển, công việc bổ đào được gọi là “cắt đào” đặng tránh né “niềm đau chôn dấu” của Vương Mẫu.

    Mấy nghìn năm sau. Một người nước Hàn, tên là Hàn Phong, nhặt được dao Bổ Đào trong khi cuốc đất trồng khoai. Thấy con dao quý giá dường vậy thì bèn mang ra nhà băng thế chấp đặng lấy vốn cho việc kinh doanh bất động sản. Nhờ Giời thương nên việc làm ăn rất phất. Chỉ vài năm sau là Hàn Phong chuộc lại được dao Bổ Đào và sau đó thì dặn con cháu phải nom nó là vật gia bảo. Cấm chỉ bán buôn hoặc cầm gửi.

    Hàn Phong sống ở nước Hàn thêm vài năm nữa thì cả gia đình dọn qua nước Triệu và đổi tên là Triệu Đồng.

    Mùa xuân năm Quý Mão, quân Tần chiếm đóng nước Triệu. Chúng thiết lập một guồng máy cai tri tàn ác. Bọn chúng giết người tập thể một cách tinh vi và dã man dưới chiêu bài “học tập cải tạo.” Lại cướp tài sản của dân chúng một cách trắng trợn qua những đợt “đánh tư sản mại bản.” Tiếng than khóc của dân nước Triệu động đến trời cao.

    Triệu phú Triệu Đồng trải qua mấy lần bị giặc Tần “đánh” thì của cải trong nhà mất sạch. Chỉ còn sót lại con dao Bổ Đào vì được chôn dưới cây trứng cá sau nhà.

    Một ngày kia, có người lén báo cho Triệu Đồng hay một hung tin. Là gia đình Triệu Đồng sẽ bị đầy đến khu xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Nghe được tin dữ, Triêu Đồng cùng gia đình lên đường đào thóat, ngay trong đêm đó. Chứ nếu không tìm cách trốn thóat thì hệ lụy sau này chưa biết ra sao?

    Rạng sáng ngày sau thì giặc Tần mới hay vụ việc gia đình Triệu Đồng trốn thóat. Chúng khẩn trương rốt ráo huy động lực lượng hùng hậu đuổi theo. Lại gọi điện nhờ các đơn vị trú đóng trên tuyến đường mà Triệu Đồng có thể chạy qua hổ trợ nữa. Chúng hạ quyết tâm cao bắt cho kỳ được gia đình Triệu Đồng và sẽ xử phạt thật nặng đặng răn đe người dân nước Triệu.

    Lúc ấy gia đình Triệu Đồng sắp đến biên giới nước Triệu và Yến thì Triệu Đồng hay tin giặc Tần bố trí rất chặt chẽ các con đường nhớn dẫn đến cửa khẩu. Triệu Đồng chỉ còn cách băng qua cánh rừng ngăn cách Tần-Yến để đến nơi mình muốn đến.
    Triệu Đồng không có kinh nghiệm đi rừng, lại bị cây cối rậm rạp che phủ đường đi, lại chả có la bàn la ghế gì cả nên loay hoay mãi mà chưa ra được phía bên kia bìa rừng. Đi quanh đi quẩn một hồi thì lại về chốn cũ. Là bìa rừng thuộc về nước Triệu.

    Bấy giờ quân Tần đuổi theo rất gắt. Triệu Đồng, khi biết mình khó tránh khỏi tai kiếp, bèn đào một cái hố ở sát bìa rừng rồi chôn con dao Bổ Đào xuống. Lại lấy bẩy hòn đá mà xếp thành hình kim tự tháp đặng làm dấu. Mong sau này con cháu tìm ra vật gia bảo.

    Rốt cuộc, khi quân Tần bắt được Triệu Đồng và gia đình thì đầy họ ra khu xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Chả bao lâu sau, Triệu Đồng và gia đình đều chết thảm.

    Thái tử Đan ngừng kể, nhòm qua Kinh Kha đặng thăm dò phản ứng. Thì một việc lạ xẩy ra. Kinh Kha nước mắt đang lưng tròng. Giả như Thái tử Đan kể tiếp thì có thể Kinh Kha đã bật ra tiếng khóc rồi.

    Thái tử Đan thấy thế làm lạ. Một kiếm khách tài ba, mặt lạnh như tiền, sống trên lưỡi kiếm đường gươm, mà có một con tim đa sầu đa cảm đến thế sao?

    Chả nhẽ, trong việc này còn khúc mắc nào khác chăng?

    oOo
    Đỗ thành Đậu

 

 

Similar Threads

  1. Tiếng Nước Tôi
    By 008 in forum Ngôn ngữ học
    Replies: 25
    Last Post: 06-07-2019, 11:09 AM
  2. Nước
    By Triển in forum Tiếu Lâm
    Replies: 106
    Last Post: 08-29-2017, 01:04 AM
  3. Non Nước Hữu Tình
    By conmuanho in forum Thơ
    Replies: 24
    Last Post: 09-03-2015, 11:55 AM
  4. Khóc Cười Theo Mệnh Nước Nổi Trôi, Nước Ơi
    By Hàn Sinh in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 28
    Last Post: 12-22-2013, 09:23 PM
  5. Bìm Bịp Kêu Nước Lớn
    By BB.Phan in forum Âm Nhạc
    Replies: 2
    Last Post: 05-15-2013, 03:09 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 09:00 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh