Register
Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 42
  1. #21
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431

    (To my mentor)

    2010-2021

    Thoáng chốc, mà đã hơn mười Thu rồi Chú nhỉ
    Chỉ mới ngày nào một sáng Thứ Năm
    Hải Điểu "N_A" ngậm ngùi lià tổ ấm
    Bỏ lại sau lưng một kiếp thăng trầm

    .................... Giờ,
    ...... chốn non cao, Chú có về thăm lại
    Tổ Quốc - Đại Dương của thuở anh hùng
    Của Linh Kiếm,
    Của "can trường trong chiến bại"
    Của tung hoành nơi Rừng Sát năm xưa

    Của những Kinh Kha một chiều mưa biển Bắc
    biết ngày đi nhưng không hẹn ngày về

    Vâng! ...
    Con đã được bao lần nghe Chú kể
    Chuyện làm trai trong binh lửa điêu tàn
    Chuyện quê nhà, chuyện đất tổ lầm than
    và lời dạy: "Sống cho tròn đạo nghĩa."

    Mới đó...
    mà đã qua một đời, Chú nhỉ
    Mấy mươi năm xong một kiếp con người
    Vinh nhục, đau thương, hận thù, yêu ghét
    Nhắm mắt rồi thì cũng thế mà thôi...

    "Thiên-Địa-Nhân" một phận người, ba Mệnh
    Đứng dậy với đời hay cúi mặt chịu làm tôi
    Sắc áo năm xưa phút nhắm mắt, không rời...
    Quân Kỳ đó, đâu đã thành chiến bại!

    Hai chữ "được__thua" trên ân tình để lại
    Người mất đi, bao kẻ nhớ thương hoài
    Chết thân xác nhưng tình người vẫn sống
    Thế, còn hơn...
    ........... những thằng sống (mà) như đã chết từ lâu.

    (XXG__)

    * Linh Kiếm: Trợ Chiến Hạm LSSL HQ226 (Landing Ship Support Large). Sau đổi tên là Lê Trọng Đàm.


  2. #22
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431

    ___Lời Trần Tình Tháng Tư___
    (Nguyễn Trần Diệu Hương__4/2019)

    Em và Tháng Tư cùng thương tích
    xoa mãi cho nhau những vết bầm
    (Trần Mộng Tú/Đêm Tháng Tư)

    Đã 44 năm trôi qua kể từ ngày mặt mũi của tôi luôn bị tô màu đen, hoặc đỏ tùy theo vị trí của phía Bắc hay phía Nam.

    Không phải tự nhiên mà tôi bị như thế. Lẽ ra màu sắc của tôi phải là màu xanh mơn mởn của hoa lá mùa Xuân, phải là màu sắc xanh , hồng, vàng, trắng... của những quả trứng mùa phục sinh, như truyền thống lễ Easter ở Mỹ.

    Em có biết tại sao không? Em sinh sau chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia vĩ tuyến 17, chắc là chưa ai giải thích cho em một cách tương đối khách quan tại sao tôi chỉ được tô đen, hoặc đỏ, mà không có được màu sắc của tháng thứ tư trong năm, lúc mùa Xuân đang ở độ đương thì, người ta đã có thể diện những cái váy mùa hè thay cho những chiếc áo khoác, khăn quàng cổ chống cái lạnh buốt giá của mùa Đông.

    Ngày đó khi em chưa ra đời, tôi mới bước vào ngày thứ 2 trong chu kỳ 30 ngày hiện diện hàng năm thì thành phố Nha Trang cát trắng hiền hòa bị đổi chủ. Chủ cũ phải bỏ đi trong tức tưởi, nghẹn ngào. Người Nha Trang cũng ùn ùn tháo chạy, bỏ hết nhà cửa, cơ ngơi, và bỏ cả biển xanh còn nguyên vẻ đẹp thiên nhiên để chạy vào Saigon. Rồi không biết phải làm gì nữa, chỉ biết là làn sóng đỏ đang tràn về thì chạy. Người ta nhớ chuyện di cư tháng 7 năm 1954 của gần hai triệu người miền Bắc, họ cuống cuồng, gồng gánh chạy vào Nam, bỏ lại mồ mả, nhà cửa, ruộng vườn; vào miền đất mới, họ sống bình an đã 21 năm, đôi lúc cũng có hoài vọng cố hương, nhưng sống bình an, tự do, thành công ở miền Nam, chưa có ai ân hận về quyết định di cư của mình.

    Cả 30 ngày của tôi hiện diện năm đó (1975) không có màu sắc của mùa Xuân, chỉ có sự hoảng loạn, và nước mắt. Và cả hai bên vĩ tuyến 17 đều tưởng mình đang trong một cơn mơ dài. Phía Bắc có mộng lành, phía Nam có ác mộng.

    Quân đội miền Nam với những người lính luôn mang trên vai những từ "tổ quốc, danh dự, trách nhiệm" như truyền thống kỷ luật của quân đội, vừa rút quân, vừa không hiểu tại sao mình phải làm như vậy? Súng thì còn, nhưng đạn không có! Không lẽ phải đánh nhau bằng cờ lau như thời vua Đinh Tiên Hoàng còn là em bé mục đồng Đinh Bộ Lĩnh?

    Quân đội miền Bắc ngơ ngơ ngáo ngáo, cứ tưởng mình nằm mơ, ra khỏi Trường Sơn cứ một mực thẳng tiến trên quốc lộ 1, không còn phải sợ "sinh Bắc tử Nam". Họ ngước mắt nhìn những cao ốc bỏ trống của miền Nam, trong nỗi mừng tưởng chỉ có trong những cơn mơ, chợt nhận ra mình đã "giải phóng" đồng bào miền Nam không cơ cực, không bị bóc lột chút nào!

    Dân thì càng không hiểu tại sao, cứ thấy quân đội miền Nam rút, là gồng gánh chạy theo.

    Cứ như thế khi "ông Tổng thống hai ngày" đọc lệnh đầu hàng thì tôi đang sắp bàn giao phận sự đếm tháng ngày cho tháng Năm. Phải chi quân đội miền Bắc vào Saigon chậm hơn một ngày, thì không phải tôi mà tháng Năm mới là tháng bị tô đen .

    Khác với 11 tháng còn lại, từ dạo đó, tôi phải cùng hơn 20 triệu đồng bào miền Nam gánh chịu oan khiên cùng vận nước.
    o0o

    Người Lưu Vong Lúc Còn Trong Bụng Mẹ

    Những em bé Việt Nam chào đời trong trại tỵ nạn, hay trên xứ người thấy mình được đến trường học bằng ngôn ngữ không giống ngôn ngữ cha mẹ nói ở nhà. Cha mẹ thì lúc nào cũng buồn lo, nhớ những người thân còn ở một xứ sở xa tít bên kia bờ đại dương, được gọi là quê nhà.

    Một vài em không may, chào đời trong một bệnh viện tiện nghi của Mỹ, mà không có cha. Lớn lên chỉ nghe mẹ kể là cha vẫn còn bị tù trong "trại cải tạo ở bên nhà" như câu hát "ngày con ra đời, núi rừng cha sống lưu đày".

    Phải gần 20 năm sau, khi em lớn lên, mới gặp được cha gầy gò, khắc khổ, đen sạm, qua Mỹ theo chương trình định cư nhân đạo, dành cho những cựu tù nhân chính trị, những người vô tội bị lao động khổ sai trong tù mà không hề có án. Em sinh ra ở Mỹ, nên chỉ hiểu tiếng mẹ đẻ loáng thoáng, nhưng nhờ liên hệ huyết thống nên cha con rồi cũng hiểu nhau.

    Em nhận ra là cứ hàng năm đến tháng 4, khi nước Mỹ rộn ràng đón lễ Phục sinh đầy màu sắc, cha chỉ mặc đồ màu đen và trắng. Dù tháng tư với những mầm sống của mùa Xuân vươn lên, những đồi hoa dại màu vàng nở rộ khắp nơi, những thảm hoa poppy màu cam ở California rực rỡ vẫn không át được màu đen trên áo quần của cha, những áng mây buồn trong mắt của mẹ .

    Cả nhà không ai nói với ai cả ngày cuối tháng tư, chỉ có âm thanh trầm buồn từ TV của những cuốn phim tài liệu đen trắng nhạt nhòa về ngày 30 tháng tư năm 1975 khi em đang nằm trong bụng Mẹ. Không biết nỗi "hồ hởi, phấn khởi" của "bên thắng cuộc" có còn nguyên vẹn sau hơn 40 năm? Nhưng đau buồn của "bên thua cuộc" từ đời cha qua đời con vẫn còn đó, buốt nhói lên mỗi độ tháng tư.
    o0o

    Tháng Tư cũng là mùa lễ Phục sinh ở Mỹ. Lúc còn nhỏ, em được cô giáo dẫn đi tìm trứng (eggs hunt) ở công viên gần trường. Người ta làm hình quả trứng bằng nhựa đủ màu:

    - Màu vàng là màu nắng ấm áp của mùa Xuân, biểu tượng niềm vui, và hạnh phúc.

    - Màu xanh lá cây là màu của cỏ, và lá non, biểu tượng cho hy vọng, sức sống đang lên.

    - Màu cam nhạt biểu tượng bình minh, và khởi đầu.

    - Màu xanh dương là màu của bầu trời, màu của nước, biểu tượng của hòa bình và sự hòa hợp. Trời trong xanh sau một cơn mưa là nguồn nuôi mầm sống mới.

    - Màu tím nhạt biểu tượng cho một điều gì đó rất đặc biệt .

    Thời nhỏ dại, không có khái niệm về những biểu tượng của màu sắc, tụi con trai thích vỏ trứng nhựa màu xanh dương, tụi con gái thích vỏ trứng màu hồng, dù bên trong là cùng một loại kẹo hình hạt đậu (jelly bean) đủ màu. Nhưng cứ tìm được quả trứng nào là mừng như tìm được vàng, mặc dù không phải là màu mình thích .

    Lớn hơn một chút, vào trường Trung học thì cả con trai, lẫn con gái đều thích tìm những quả trứng nhựa màu tím nhạt để tặng cho "ai đó rất đặc biệt", crush đầu đời của mình.

    Màu sắc tươi sáng của những quả trứng mùa phục sinh theo em đến lúc trưởng thành. Rồi em lập gia đình, dẫn con đi tìm trứng (eggs hunt) hàng năm, lòng ngậm ngùi hơn khi thấy cha mẹ mình càng lúc càng cao tuổi, sức khỏe hao mòn, nhưng nỗi buồn tháng tư vẫn còn nguyên vẹn. Em tò mò tìm đọc tài liệu về chiến tranh Việt Nam, tìm hiểu về lịch sử cận đại. Càng đọc, càng hiểu, càng thương cha mẹ, và cũng bần thần, không cười trọn nụ mỗi tháng tư.

    Mùa Phục sinh năm nay, em phải luộc một quả trứng gà, tô đen vỏ trứng sau khi luộc, và đem chôn ở một góc khuất của vườn nhà. Sẽ không có ai đi tìm trứng ở đó. Rồi quả trứng vỏ đen sẽ phân hủy cùng đất. Cầu mong mọi nguyên nhân làm đất nước Việt Nam thụt lùi, thiếu đạo đức, suy đồi sẽ phân hủy như quả trứng đen trong lòng đất. Hy vọng màu đen trong ký ức của thế hệ ông bà, cha mẹ sẽ biến mất. Cầu mong quê cha đất tổ của em ở bên kia bờ đại dương rồi sẽ có tự do dân chủ, có đủ màu sắc của vỏ trứng nhựa mùa phục sinh.

    Phải có một ngày quê cha đất tổ của em phục sinh. Và tháng tư sẽ không bị tô đen trên lịch, trong lòng của cả triệu người Việt Nam phải sống đời lưu lạc.


    ________o0o________
    (Nguyễn Trần Diệu Hương)
    Easter April 2019


    Last edited by XXG; 05-04-2021 at 10:09 PM.

  3. #23
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431


    __Những Trận Đánh Cuối Cùng và Chân Dung Người Lính VNCH__


    (Tác giả Sơn Tùng. Tháng Tư 2015)

    Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo

    Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.

    Tuyên truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng – vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải buông súng.

    Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà dược hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH ?

    Năm 1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.

    Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.

    Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai.

    Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.

    Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.

    Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau:

    “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…

    Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương…Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta . Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”.

    Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bộị Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.

    Trong cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.

    Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.

    Tác giả Mỹ Louis Ạ Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam): “Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiềụ Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.

    Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do” không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người không có ý chí để tự bảo vệ!”

    Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.

    Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:

    “Thứ Hai 28/4/75.
    Saigon sáng nay yên tĩnh...

    Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.

    Ông trả lời:


    – Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.

    Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:

    “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết”.

    Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”

    Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:

    – Các anh có biết là sắp bị giết chết không?

    Một thiếu úy trả lời:

    – Chúng tôi biết chứ.

    – Vì sao?

    – Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

    “…Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát.

    Đến chiều tối, 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”

    Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

    Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.

    Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:

    “…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liê lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.

    Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:

    “…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót…Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.

    Ông ta còn đích thân đi quan sát tiền tuyến nữạ. Ông ta đã bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, vì kẻ ấy nhất định đòi đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái lệnh của tướng nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam thì tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng võ trang đuổi theo, rồi bắn chìm chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.

    Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấỵ Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết ngay tại chỗ.”

    Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong dó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.

    Và đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:

    “Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.

    Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:

    “Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặt cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”

    Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt…không còn được ai nhắc tới, biết tới. Những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.

    Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH?
    __o0o___
    (Tác giả: Sơn Tùng. 4/2015)


    Last edited by XXG; 05-05-2021 at 10:07 PM.

  4. #24
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431


    "Số 11 Nguyễn Bỉnh Khiêm"...


    ___Tặng anh HV, anh THN, anh SĐ phút 1:01 của clip video dưới đây.



  5. #25
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431

    ___Những tờ lịch cũ....


    Thứ Sáu tuần trước là ngày "30/4."

    Hôm nay cũng Thứ Sáu, nhưng lão Thời Gian đã đếm được 7 lần chữ "ngày" của Tháng Năm dương lịch...


    Lại thêm một tờ lịch tháng đã được gỡ xuống. Và vâng, ”tháng" cũng là đơn vị đo thời gian dài nhất trên cuốn lịch. Trong đời người, có những tờ lịch cho dù đã được gỡ xuống rồi nhưng vẫn mãi mãi nằm trong tiềm thức của mình như một tờ lịch mới.

    Mới, cho đến khi mình đang đưa tay gỡ đi những tờ lịch cuối cùng của cuộc đời...


    ............ Mới, cho đến khi tờ lịch cuối cùng được gỡ xuống.


    "NHỚ"

    Nhớ thời thơ ấu - nhớ gì không?
    Nhớ tuổi thơ qua - có xót không?
    Nhớ bóng Cha già nay đã khuất
    Nhớ vòng tay Mẹ
    ............... có buồn không?
    __________o0o_________


    "BUỒN"

    Buồn, đếm thời gian - có hết không?
    Buồn, nhìn hoa tuyết - có vơi không?
    Buồn về một chốn tên Quê Mẹ
    Buồn giữa màn đêm
    ........................ có khác không?
    ___________o0o__________


    "ĐỔI"

    Đổi áo cho tim, đổi được không?
    Đổi vùng kỷ niệm lấy hư không?
    Đổi bao nhung nhớ thành vô vọng
    Đổi vết thời gian có dễ không?
    __________o0o____________


    "THAY" & "XOÁ"

    Thay áo cho tim có khác không?
    Xoá vùng kỷ niệm có quên không?
    Thay bao lưu luyến sao còn nhớ?
    Xoá vết thời gian.............
    ............. sống mãi không?
    __________o0o_________
    (XXG__)


    Như một cái chớp mắt mà đã 46 lần Tháng Tư. Một tờ lịch Tháng Tư khác lại được gỡ xuống từ cuốn lịch của năm 2021. Để rồi năm sau (2022) và những năm sau nữa, chúng sẽ trở thành "những tờ lịch cũ"... nhưng lời Bố dạy thì vẫn (và sẽ) mãi mãi "mới" như hôm nào:

    - "Đừng bao giờ trở về chốn ấy cho tới khi nào ngọn cờ Máu không còn hiện hữu trên quê hương. Đừng bao giờ hạ mình đứng dưới ngọn cờ khốn nạn đó..."

    Last edited by XXG; 05-07-2021 at 08:41 PM.

  6. #26
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431
    .

    (Bài thơ không đề tựa)


    tháng Tư hộc máu . quay cuồng gió
    trời đất tanh ngòm cả tứ phương
    lịch sử chết rồi . chưa kịp táng
    dòm nhau an ủi . điệu kèn tang

    cười cợt . nhe răng bầy dã thú
    quây quỷ quần ma chễm chệ ngồi
    có một tháng Tư . tờ lịch cũ
    gỡ rồi . dán lại . phất phơ bay...


    ___(Thăng Trầm)__

  7. #27
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431
    .
    Cho Tao Chửi Mày Một Tiếng___


    “Đ M!" cho tao chửi mày một tiếng
    Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
    Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
    Đảng của Mầy, chết mẹ… đảng tào lao.

    Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
    Cầm súng làm gì chẳng lẽ hiếp dân
    Tao không tin lính lại hèn đến thế
    Lại rụng rời trước ách ngoại xâm.

    Mầy vỗ ngực "Anh hùng đầy trước ngõ"
    Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin?
    Môi liền răng,
    ....... à thì ra vậy đó!
    Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh.

    Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
    Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
    Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
    Hà cớ gì… mầy hèn đến thế sao.

    Chuyện mầy làm toàn dân đau như thiến
    Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn
    Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
    Cứ đà nầy… chết tiệt còn sướng hơn.

    Đàn gảy tai trâu… xem chừng vô ích
    Giờ mầy nghe tao chửi còn hơn không

    __(Trạch Gầm)__

  8. #28
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431


    Vỗ Tay Trong Tù


    Ta viết bài thơ không ngày không tháng
    Vì ở đây không tháng cũng không ngày
    Giả khùng điên ta lần qua cửa ải
    Ải hận thù xiềng xích cả đắng cay

    Còn hơi thở, ta còn nghe nói láo
    Mỗi một câu nghe đến trăm ngàn lần
    Thằng nói láo không biết mình nói láo
    Đầu không khùng ta chết mất phải không

    Tội của ta – với nó – không bao giờ xiết
    Bút, tre Trường Sơn. Mực, nước Biển Đông
    Nó ngồi viết… từ đời ông tổ nó
    Giấy kể tội ta dài hơn Cửu Long

    Kệ mẹ nó, nó nói gì nó nói
    Ở tù lâu – chai – ta lại thấy vui
    Thằng Phạm Tuân nằm trên mây phục kích
    Chờ giặc Mỹ vào nhào xuống. Vỗ tay!

    Hồi mới vào tù nó vỗ tay trước
    Ta vỗ tay sau… góp vốn góp lời
    Được vài năm quen…ta vỗ tay trước
    Nó vỗ tay sau… mới thật tức cười

    Cứ như thế… ta không ngày không tháng
    Biết ngày biết đêm…

    .......... nhờ có mặt trời

    __(Trạch Gầm)_

  9. #29
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431
    Theo mưa đến thăm cà phê lính...

    Giọt mưa Cali rớt vào ký ức
    Lăn hồn ta về với núi với rừng
    Gặp lại anh em tháng ngày thao thức
    Hể hả cười, cùng khói lửa rưng rưng

    Một ngày Phước Long có thằng gào thét
    Đánh đấm cả đời mất mẹ Quê Hương
    Một ngày Dakto có thằng bật khóc
    Thương đám bạn bè trắng núi phơi xương

    Lịch sử sang trang lật bằng nước mắt
    Thương giọt mồ hôi nhỏ xuống quân trường
    Nơi đã bàn giao tám tuần huấn nhục
    Đâu có giao ngày mất nước tan thương

    Giọt mưa Cali rơi vào quán lính
    Vẹt gót tha phương hôn gót phong trần
    Thằng Anh thằng Em một trời lận đận
    Khẩu lệnh "Tan Hàng, Cố Gắng!"... nhớ không ?

    Làm lính một ngày, thằng nào cũng nhớ
    Có đứa cả đời giờ lại muốn quên
    Xoay giọt Cà Phê vòng Tăng Nhơn Phú
    Có bài học nào…

    ............ lủi trốn Anh Em

    (Trạch Gầm__Ngày mưa 30.11.14)

  10. #30
    Banned
    Join Date
    Jan 2017
    Posts
    1,431


    Tâm Sự Cùng Con
    (Viết thay cho Cao Sơn SĐ5)

    Ngày cha dẫn con đi, bỏ Nước

    Cha an ủi mình, lý lẽ nhỏ nhoi
    Cuộc đời cha – ừ vứt đi cũng được
    Mong cho con – tìm thấy được tương lai

    Thế hệ cha…
    ........... tưởng chừng không tồn tại

    Tuổi hai mươi đã đứng giữa chiến trường
    Dao chủ nghĩa chặt đôi bờ Bến Hải
    Lũ vô thần tắm máu cả quê hương

    Con thôi nôi, cha mờ trời An Lộc
    Đọc nhớ thương giữa xác chết bạn bè
    Nước mắt mẹ nhạt nhòa trang thư viết
    Túy ngọa sa trường...
    Lắm lúc tái tê


    Khi con vừa biết đòi nghe kể chuyện
    Cha lại vào tù…
    ............ ôn chuyện đau thương

    Nước mất, nhà tan,
    ........ nghiền đời chinh chiến

    Giữa chợ đời…
    Mẹ trả nợ máu xương


    Giờ con đã có dư thừa mơ ước
    Cha chỉ mong con ghi nhớ một điều
    Con chẳng bao giờ thay màu da được
    Màu da vàng của nước Việt mến yêu


    __(Trạch Gầm)__

 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 12:10 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh