Register
Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 34
  1. #11
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    11- Câu Truyện Ông Dần




    Đoàn khách hành hương từ các nơi tới tập họp ở phi trường Kennedy, New York để đi Do Thái thăm Thánh Địa. Trước khi chuẩn bị giấy tờ thông hành lấy vé lên tầu, trong khi chờ đợi, chúng tôi đi làm quen, tìm bạn đồng hành để giúp nhau khi cần có việc gì xẩy ra. Nhất là ngồi lâu giờ trên phi cơ xem sách xem báo mãi cũng chán, có người ngồi nói truyện cho nghe thật là thích thú, mau qua thì giờ.

    Tôi nhìn sang hai bên ghế trước ghế sau, các bạn mới quen đều ngồi cách xa chỗ tôi. Còn bên phải là ông Dần trong số bạn vừa quen. Ông ta trạc ngoài 50 tuổi, da ngâm đen, vẻ mặt chất phác. Sau một giấc ngủ dài, vừa tỉnh dậy ngơ ngác nhìn sang tôi ông hỏi: “Này bạn giờ là mấy giờ?”, “5 giờ, giờ Nữu Ước”, tôi đáp. Sau mấy câu hỏi thăm nhau về quê quán trước khi ở Việt Nam, ông Dần kể tôi nghe về đời của ông.

    Quê tôi ở Thái Bình, nơi đất hẹp người đông, tôi sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo nàn, không được đi học, dù mơ ước của cha mẹ tôi chỉ muốn các con biết đọc biết viết cũng đã mãn nguyện rồi. Hồi còn nhỏ mỗi khi đi ngang qua trường học ở phố phủ bao giờ tôi cũng đứng lại nghe tiếng học trò đọc bài, nghe thầy giáo giảng nghĩa: nào là hiếu cha mẹ, rồi học trò đọc: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Để đối anh em như câu: “Nhường anh nhường chị lại nhường người trên”, nghĩa đối với bạn vè với câu: “Duyên phải duyên kim cải, nghĩa phải nghĩa giao hòa”. Tôi nhớ hết những câu ca dao ấy và lấy làm hay.

    Dạo đó tôi phải đi ở đợ để trừ nợ cho bố mẹ. Nhưng lúc đi ngang trường học tôi thường đứng ngoài nghe tiếng thấy giảng. Về nhà muộn là bị chủ la mắng, có khi bị đánh đập. Tôi phải làm việc luôn tay luôn chân. Có lúc nhớ mẹ trốn về lại bị bố mẹ la mắng, dẫn lại nhà chủ xin lỗi. Bị nhục nhã, đánh mắng vì miếng cơm, manh áo, đem sức lao động ra làm cho chủ được bao nhiêu chủ giữ lại trừ nợ mà bố mẹ tôi đã mượn trước. Đến năm 18 tuổi làng cấp điền lại, tôi được chia cho năm sào ruộng công điền. Thật là sung sướng cho tôi và cả gia đình, đã bao năm nay bây giờ chúng tôi lại được làm chủ năm sào ruộng.

    Trước kia bố tôi cũng có phần công điền như tôi bây giờ, mà lại còn nhiều hơn, những sáu sào lận. Bố tôi được nhiều hơn tôi bây giờ là vì số người được chia còn ít. Bố mẹ tôi làm chủ số ruộng này được vài năm thì xẩy ra biến cố: ông nội tôi rồi đến bà nội tôi được mồ yên mả đẹp, cũng là lúc bố mẹ tôi phải đem phần ruộng làng chia bán đứt cho người ta để trả nợ. Bố mẹ tôi thường nói buồn vì bán mất phần ruộng, lại hả hê đã giữ trọn bổn phận hiếu thảo với ông bà tôi.

    Còn tôi khi nhận phần ruộng xong tôi cũng xin tùy bố mẹ định đoạt. Bố tôi nhìn tôi nói: “Con đã lớn đủ sức vác cầy làm ruộng, hãy ở nhà cùng với bố tự cầy cấy lấy phần ruộng của mình, và đi làm thuê cho người ta cũng đủ sống. Mà gia đình tôi, từ bố mẹ đến tôi là khôn lớn hơn cả có bao giờ nghĩ đến làm giầu, chỉ mong sao được ngày hai bữa ăn no, có đủ áo ấm mặc về mùa đông là mãn nguyện rồi.

    Cứ đến bữa ăn ngồi quây quầy chung quanh mâm cơm bố tôi thường nói: “Các con hãy nhớ: ‘Đói cho sạch rách cho thơm’ đừng bao giờ nói dối, nói xấu ai, đừng tham lam lấy của ai, của phi nghĩa không giữ được lâu đâu. Làm được có đồng tiền, bát gạo phải khó nhọc, đổ mồ hôi xót con mắt. Người không làm tìm đủ cách cướp lấy của người ta đấy là bọn đạo tặc, vô lại, tham nhũng.

    Gia đình tôi sống an phận, cái nghèo vẫn không tha. Tới khi bố tôi chết gia đình thiếu một tay lao động. Lại gặp năm 1944 mất mùa, người Nhật thu mua lúa gạo, làm thuê không ai mướn, quá tháng 10 hết ngày mùa, gần hết cả miền tôi, chúng tôi đều đói, bữa ăn bữa nhịn. Tôi là con lớn ngồi nhìn mẹ và các em đói, không thể chịu được tôi đem đồ đạc có thể bán được, tôi bán tất cả phần ruộng công điển. Gom được số tiền tôi tính cứ ngồi ăn, không được bao nhiêu ngày sẽ chết đói nếu không tìm được việc làm.

    Tôi bàn với mẹ tôi còn chút tiền để làm lộ phí ra nơi tỉnh thành may ra tìm được việc làm sống qua ngày. Tới Hà Nội cũng thấy người đói đi lang thang xin ăn đầy đường, đêm nằm vỉa hè hay quán chợ gầm cầu, chúng tôi bỏ Hà Nội đi lần tới Tuyên Quang, tương đối còn có công việc làm, có khoai có sắn hay vào rừng đào củ mài cũng còn có chỗ để sống. Nhưng lúc cùng quẫn tôi đã có ý nghĩ phải biết nói dối, lường gạt nếu muốn sung sướng, như tôi đã từng gặp nhiều người quen có, lạ có mà có sao đâu, nhiều lúc tôi nói hở ra, mẹ tôi biết ý xấu manh nha trong lòng tôi, tôi thấy mẹ tôi buồn lắm, cứ hay nói khi bố còn sống vẫn dặn các con phải ăn ngay ở lành đừng có quên lời bố dặn.

    Qua mấy tháng chịu rét và đói ở Tuyên Quang, mẹ tôi đòi về làng quê Thái Bình, vả lại nay đã gần đến mùa gặt chúng tôi có thể trở về làng đi gặt thuê được. Tôi thu xếp đưa mẹ và các em tôi tới Hà Nội, mẹ tôi bị sốt thương hàn chết không kịp về tới quê, tôi đành chôn cất mẹ ở nghĩa trang Khương Thượng. Trước khi chết mẹ tôi nắm lấy tay tôi mà nói: “Hãy nghe mẹ, nhớ lời bố con đã nói: Đói cho sạch, rách cho thơm. Đừng bao giờ nói dối, lừa gạt, ăn cắp, ăn cướp, của phi nghĩa, không bền đâu con, giữ được lòng ngay thẳng, rồi con sẽ được sung sướng.” Khi nói mẹ tôi ứa hai hàng nước mắt và tôi đã hứa để mẹ yên lòng nhắm mắt.

    Khi về tới quê tôi, một cảnh thương tâm, nhiều nhà bị rỡ đi bán làm củi, nhiều người đã chết, có gia đình chết hết. Mùa lúa đã chín người gặt thì thiếu. Anh em tôi lần hồi làm ăn khá giả, năm 54 bỏ hết mọi thứ vào Nam nơi đất tốt người thưa tôi làm ăn phấn chấn, rồi tới 75 lại bỏ lại hết, di tản tới đất nước người. Chúng tôi lại làm lại từ đầu. Cứ tuần tự nhi tiến có nhà có xe, con cái học hành thi đâu đỗ đấy. Đúng như lời mẹ tôi căn dặn trước khi chết “giữ được lòng ngay và những lời bố dậy kia rồi con sẽ được sung sướng”. Nếu muốn nghe thêm tôi xin kể thêm câu truyện của người em họ tôi.

    Chôn cất mẹ xong anh em tôi trở về quê biết chắc đã đến mùa gặt sẵn việc làm, về tới nơi không còn nhà vi cột kèo thứ tối đã đem bán, còn lại làm củi đốt hết, trơ đám đất cỏ mọc, việc đầu tiên anh em tôi chia nhau đi tìm họ hàng quen biết, tìm chỗ trú ngụ qua ít ngày sẽ cắt túp lều cư ngụ. Đang xớ rớ đứng nhìn mảnh đất hoang tàn, nghe tiếng em tôi từ xa gọi, lại đi bên một người đàn ông, đến gần nhận rõ người đàn ông chính là em họ: Hiền con bà cô tôi. Hai anh em ôm nhau khóc kể về gia cảnh, em tôi bị thảm hơn tôi, cũng như mẹ tôi, cô tôi kiếm được củ khoai miếng sắn cũng nhịn bớt cho con nên chóng chết, khi chết chỉ có manh chiếu để bọc đem chôn: Ôm nhau một lúc cho lắng đọng bi thương, rồi Hiển đưa anh em tôi lại nhà Hiển, nhà chú em tôi chỉ là một cái lều.

    Hiển nói với tôi: “Anh ạ, em cũng mới về được năm ngày nay, trước khi về vợ em đã đi nhặt được mấy cành cây mấy tấm ván xấu gỗ mục, người ta vất đi để sẵn, lúc em về hai vợ chồng em đã dựng túp lều tạm này lấy chỗ che mưa đụt nắng. Rồi Hiển kể tiếp: “Sau khi mẹ em chết (tức bà cô tôi) em vừa đói vừa lo buồn lấy gì mà ăn cầm hơi sống cho ngày mùa. Vợ em đi ăn mày cũng không ai cho, phải đi hái các thứ lá cây về luộc ăn cho đầy bụng đến nỗi em vốn là thanh niên khỏe mạnh, bây giờ đi không nổi, em cũng cố lần ra tới đường làng thấy có một đám đông người đứng bao quanh một người thanh niên trẻ tuổi và ông lý trưởng ở làng.

    Em vừa tới nơi là lúc người thanh niên bỏ giấy vào cặp, cậu thanh niên vừa trông thấy em, cậu ta liền hỏi tên em là gì và bảo: tôi nhận thêm anh này nữa. Nói rồi, cậu ta kêu mọi người có tên theo cậu về trại. Tới nơi chúng tôi biết đây là trại cứu đói. Bắt đầu, chúng tôi được ăn ngay mỗi người một bát cháo loãng, bữa tới bát cháo đặc hơn dần dần. Sau ba ngày, chúng tôi mới được ăn cơm, sau này tôi mới biết nếu những người đói quá như chúng tôi lại kiệt sức, không thể ăn cơm hay cháo đặc ngay được, phải ăn từ từ là thế, khi đã lại sức, chúng tôi được tập thể dục ban sáng, được phân công làm việc tùy khả năng, khi vợ tôi biết tôi đã được nhận vào trại cứu đói cứ đến bữa ăn, tôi giấu được một nắm cơm tìm cách đưa cho vợ nên cả hai vợ chồng được cứu sống đến bây giờ.

    Ngừng một lát ông Dần thở dài nói tiếp: Chú Hiển em tôi là người có nghĩa biết nhớ ơn, mỗi khi nhớ đến cậu thanh niên đã nhận mình về trại khỏi chết đói, trong khi còn bao nhiêu người chết đói vì không được nhận, chỉ vì trại không đủ sức nuôi. Chú em tôi nói muốn gặp cám ơn cậu thanh niên mà không biết làm thế nào; khi tôi vào trại được ít lâu, một hôm có toán lính Nhật đến bao vây trại tìm bắt cậu, rất may cậu ta trốn thoát.

    Rồi người Nhật đưa một khác đến làm trại trưởng thay chỗ cậu thanh niên. Khi chia đôi đất nước, di cư vào Nam chú Hiền làm trại trưởng một trại tiếp cư ở Cà Mau. Một hôm đi phố chú Hiền đã gặp lại cậu thanh niên trại trưởng trại cứu đói cách đây 11 năm, chú nói em mừng quá em quỳ xuống giữa đường tạ ơn cậu đã cứu đói khỏi chết, cậu ta nâng em đứng lên chỉ cười hỏi thăm mấy câu.

    Ý em muốn mời cậu về nhà nhưng cậu nói thế là quá đủ rồi từ giã vì có việc cần phải đi, từ đấy không bao giờ gặp được cậu ta để cám ơn cậu vì bấy giờ em làm ăn khá giả muốn có vật gì làm quà gọi là để cám ơn. Cho đến bây giờ chú em tôi vẫn thường cầu nguyện xin ơn trên phù hộ cho người đã làm ơn cho mình.

    Nghe xong câu chuyện của ông Dần, một người nhà quê chất phác, cả quãng đời thiếu niên không được học hành, chịu thiếu thốn, đói khát lao khổ, vẫn giữ được giá trị con người, giữ được lòng hiếu thảo biết vâng lời cha mẹ, khi cùng quẫn đã nghĩ đến nói dối, lường gạt nhưng thấy mẹ buồn và câu nói của mẹ “phải ăn ngay ở lành”, “đói cho sạch rách cho thơm” của bố đã làm cho ông tin tưởng bỏ được tà tâm. Đến như chú Hiển trong câu truyện đúng là người “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” tuy không trả ơn bằng vật chất được, trả ơn bằng ý cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho người đã cứu mình khỏi chết đói. Và người thanh niên khi nhận Hiền vào trại không nghĩ có ngày Hiền tìm đến cám ơn.

    Khi làm việc thiện là tận dụng làm cho trọn, không đòi hỏi mục đích gì, thành hay bại, mang lại danh tiếng hay không, miễn sao giúp được người yếu, kẻ thiếu thốn.

  2. #12
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    12- Một Mẩu Ký Ức




    Cuối thu vào đông gió Bắc thổi xuống miền đồng bằng bắt đầu rét lạnh lại thêm giời mưa lất phất cộng lại càng lạnh hơn. Cũng là lúc mùa màng gặt hái đã hết, lúa, rơm, rạ được phơi khô, lúa vào cốt, rơm rạ lên đống gọn ghẽ. Trong những ngày mùa rất nhiều việc, những cụ già cũng phải giúp đỡ con cháu các việc nhẹ, không ai bình tâm đứng nhìn con cháu quá vất vả mà không ra tay giúp việc.

    Bây giờ không còn việc nhẹ cần đến các cụ nên có nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi chơi sắm sửa hay đi thăm họ hàng, bạn bè, để tỏ tình liên ái dù xa xôi cũng tới nhà bạn ở có khi đôi ba ngày mới về.

    Làng Liên Quy, Hiếu Nghĩa, thuộc miền Nga Sơn là đất bồi bãi biển, người ta phá lác trồng cói ở ngoài còn nước mặn độ vài ba năm, trời mưa xuống đã rửa hết nước mặn, người ta lại đưa gốc cói ra trồng bên ngoài là những đất phù sa do lượng nước sông Hồng Hà và sông Đáy bồi lên. Những ruộng cói cũ đã thành ruộng lúa, người ở các vùng đông dân kéo nhau đến ở lập nghiệp, đất tốt, chim trời cá nước rất nhiều vì gần bờ bể.

    Người ta sống rất thanh bình, tình lưu luyến hiếu khách rất cao. Nhớ đến người bạn già ở Liên Quy, cụ Huân chiều hôm trước đã ngỏ ý cho bà cụ biết sáng sớm mai cụ sẽ đi thăm bạn cụ An Hòa, và ở lại chơi mấy ngày. Sáng hôm sau cụ dậy sớm đưa xe đạp ra sân nắn lại hai bánh xe xem có rắn chắc, tay lái, đĩa răng cưa có đầy đủ dầu mỡ. Chiều hôm qua cậu con trai khi nghe bố nói đi chơi đã tự động xem lại xe cẩn thận.

    Phương tiện giao thông ở nhà quê đi xe đạp rất phổ thông, khi không cần mang đồ nhiều quá, một vài bộ quần áo, ít quà để biếu bạn, xếp trên porte-bagage rất tiện. Vả lại con đường từ nhà cụ Huân tới Liên Quy nơi cư ngụ nhà cụ An Hòa xa chừng 20 cây số. Nhà cụ Huân ở thuộc Bắc Kỳ, nhà cụ An Hòa thuộc Trung Kỳ. Thời Pháp thuộc chia ranh giới hai miền là con sông Điển Hộ, một cây cầu bắc qua cho dân hai miền giao thông.

    Từ khi quân phiệt Nhật tràn vào Đông Dương không bảo nhau nhưng cùng một ý hướng giống thực dân Pháp, đã lũng đoạn hết cách làm cho dân Việt Nam một cổ hai tròng khốn khổ về kinh tế, cấm cách giao thông tắc nghẽn, có ý cho dân đói khổ không còn ý chí quật khởi chống lại bọn chúng, nên chúng đặt ra những luật lệ rất vô lý.

    Bọn Pháp chia nước mình ra ba kỳ như ba nước cho dễ cai trị, mỗi kỳ có luật riêng không giống nhau. Những nhà buôn vải từ Sàigòn về Hà Nội bán cũng bị cấm mỗi khi xe lửa dừng ở ga nào thuộc địa phận nào bọn cẩm phú lít ào lên khám xét toa chở hành lý hàng hóa dù nhà buôn xuất trình biên lai của nhà hàng ở Sàigòn… Đây thuộc đất Trung Kỳ không được phép đưa vải, len, sợi v.v.. qua đây. Bị tịch thu quan Tây bắt không chỗ kêu ca đành mất.

    Những nhà buôn Việt Nam mình khôn lanh hơn, họ chạy khắp các toa xe tìm một ông Nhật nào, chẳng biết chức vụ lớn nhỏ, nhờ ông can thiệp lấy lại hàng ngay tức khắc. Không biết tiếng Nhật nhưng với cử động bằng tay ra dấu kéo ông tới toa hàng, thế là hiểu ngay, đế tránh xẩy ra lôi thôi nhà buôn tìm cách giao thiệp để hàng hóa vào toa có người Nhật, không một ông Tây nào dám đột nhập khám xét.

    Trước thập niên 40, xứ Bắc Kỳ nền nông nghiệp tuy thô sơ vẫn không thiếu gạo mà còn thừa để xuất cảng qua cửa bể Hải Phòng, bằng chứng các phủ huyện thuộc miền duyên hải chỗ nào cũng có cửa hàng cân gạo của khách trú người Trung Hoa mua gạo để xuất cảng do những người nhà quê xay lúa giã gạo bằng tay đem tới bán. Vì chính sách tàn độc của bọn Pháp Nhật bắt phá lúa trồng đay tích trữ lương thực để cho dân thiếu gạo, các nhà buôn quay về tỉnh Thanh Hóa nhờ được chương trình nông giang cách đây ít năm đắp đập Bái Thượng khơi sông ngòi dẩn thủy nhập điền, mới có câu được mùa “Nông cống thì sống mọi nơi”.

    Bị cấm phải tìm kẽ hở các nhà buôn gạo chở gạo tới hải phận gần Điền Hộ chờ đêm tối mới vượt biển vào Tân Hải thế là thoát, đã vào tới đất Bắc kỳ tự do chở đi các nơi tùy ý. Có khi thuyền đang lênh đênh ngoài biển gặp bọn tuần duyên thuyền chỉ việc quay đầu trở lại đất Trung kỳ cách mấy chục thước cũng thoát nạn tịch thu.

    Trong mấy ngày ở nhà các cụ trò chuyện ăn uống muốn đổi không khí các cụ đưa nhau ra bãi biển, nghe nói có vài thuyền buôn đậu ở ngoài biển cách bờ không xa. Vì tò mò hai cụ tìm chiếc thuyền nhỏ thẳng đường chèo tới thuyền buôn mà các cụ đã trông thấy khi đi trên bờ. Tới nơi các cụ biết là bất đồng ngôn ngữ. Cũng chẳng sao, người ta đã đưa giấy để bút đàm và cho biết họ là người Trung Hoa mà người ta thường gọi là Tầu ô, cả hai cụ đều là người hiểu Hán học, rồi họ đưa các cụ đi xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ sứ như bát đĩa v.v… các thứ như thuốc bắc, đồ tơ lụa của Trung Hoa. Mục đích đi chơi, các cụ chỉ xem cho biết chớ không mua gì. Sau khi họ đãi một chầu nước trà các cụ cảm hơn rủ nhau ra về.

    Vừa bước chân lên bờ, hai cụ đã được du kích trong làng rước với nghi vệ giao găm, lựu đạn nội hóa đeo chung quanh lưng, trên vai, tòng teng kiếm hay gươm cùn, họ đưa các cụ về trụ sở ủy ban kháng chiến đặt ở đầu làng. Thật ngỡ ngàng, các cụ đưa ra lý do đi chơi, cụ An Hòa xin ủy ban xét tình người làng đưa bạn đi chơi.

    Chủ tịch ủy ban phán rằng có ống viển kính đã trông thấy các cụ lên thuyền thông đồng với người ngoại quốc tức làm gián điệp, là Việt gian. Vào cuối năm 1946 chiến tranh bộc phát, quân Pháp định đổ bộ nhiều nơi đã tung gián điệp khắp chỗ, nên ta phải đề cao cảnh giác. Cụ An Hòa còn có thể châm chước, nhưng cụ Huân là người lạ, là người xứ Bắc kỳ theo đạo Công giáo rất đáng nghi ngờ. Đã buộc là gián điệp chẳng cần xét xử, không phải điều tra, cứ việc đưa thẳng lên lao Thành Tín giam vào trại Lý Bá Sơ cũng như trại Đầm Đùn, không cần tả lại ai ai cũng có thể hình dung ra được những cực hình dã man đối với tù nhân.

    Người nhà cụ An Hòa đưa tin cho gia đình cụ Huân biết cả hai cụ bị bắt, cũng không biết người ta đưa các cụ đi đâu, hỏi thăm ở đâu cũng chối không biết. Cụ bà Huân ốm yếu mấy người con còn nhỏ chưa quen đi xa ít biết giao thiệp ứng đối, khi được tin mấy người cháu lớn tuổi của cụ Huân tự động đến họp với đại gia đình tìm cách cứu cụ Huân. Việc đầu tiên là hãy dò la cho biết chỗ giam cụ Huân ở đâu mới có cớ đích xác để tìm cơ quan can thiệp; với Cộng sản lại đang thời kỳ chống Pháp làm gì có luật sư có tòa án mà kêu ca.

    Rồi họ phản công. Đang lúc chiến tranh chỗ nào cũng có canh gác, có du kích hơi khả nghi người ta bắt giữ lại để xét hỏi, đàn bà đi lại còn dễ hơn, nên người cháu dâu được đề nghị giả làm người buôn bán, chị đi mua được vài chục bánh thuốc lào để bán lẻ vì hầu hết đàn ông nhà quê thích hút thuốc lào, từ thị xã Thanh Hóa chị lân la hết nơi này đến nơi kia hỏi thăm, chị đã tìm ra nhà lao Thành Tín trại Lý Bá Sơ là nơi giam cụ Huân.

    Sau một hồi bàn đi tính lại không dùng tiền, không dùng lý được, cụ bà Huân và các con tìm về Phát Diệm, nơi ở của Cố vấn Giám mục Lê Hữu Từ kể hết tự sự, một lợi điểm cụ Huân đang giữ chức chánh trương hàng xứ là người Công giáo tốt. Giám mục Lê Hữu Từ sau mấy câu yên ủi gia đình cụ Huân, bảo người thơ ký thảo công văn bảo đảm xin tha cho cụ Huân, sau khi ký tên cố vấn Lê Hữu Từ đã cho người cầm tay đưa tới ông Đặng Thái Mai, chủ tịch hành kháng tỉnh Thanh Hóa.

    Sau ít lâu chờ đợi không kết quả, cố vấn Lê Hữu Từ phải gửi thư tới Hồ chủ tịch nhờ can thiệp, tạm thời bỏ chính sách giết nhầm hơn tha nhầm. Bấy giờ Đặng Thái Mai mới báo cho Đức cha cố vấn biết ngày cụ được tha. Được tin bà cụ Huân lại họp gia đình cắt cử ai là người có thể đi đón cụ Huân từ nhà lao vì đường xa không có đường xe hơi, chỉ có cách đi xe đạp đón cụ về.

    Một người cháu trai xung phong xin đi với chiếc xe đạp, anh đã đạp hơn một trăm cây số đường trường khúc khuỷu, ổ gà. Nhiều chỗ đắp mộ ngăn quân giặc phải đi bộ dắt xe. Lúc về anh nhường xe để cụ Huân đi xe đạp, anh chạy bộ theo sau và đun xe cho cụ đi đỡ mệt. Quá mừng mong cho chóng tới nhà, nhiều lúc cụ cố đạp nhanh, quên người cháu chạy theo sau dù mệt cũng cố chạy theo cho kịp.

    Về tới nhà sau mấy lời thăm hỏi vợ con, cụ Huân chỉ vào người cháu trai và người cháu dâu, cụ nói vì tình gia tộc các cháu đã chẳng ngại nguy hiểm khó nhọc, bỏ công ăn việc làm giúp đưa cụ về tới nhà, nói với các con phải biết ơn hai người cháu.

    Thực là một gương sáng thể hiện tình gia tộc thắm thiết của thời quốc gia.

  3. #13
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    13- Một Truyện Xưa: Tình Gia Tộc




    Một buổi sáng về mùa đông trong không khí êm đềm, im lặng, mấy người lớn, cha mẹ các anh các chị tôi đã có người thức nhưng vì thời tiết khá lạnh, chưa ai muốn tung mền ra khỏi giường trừ chị giúp việc phải dậy sớm nấu nước dưới bếp.

    Bất thần một âm thanh vang vọng như thúc giục mọi người phải dậy. Tất cả nhà ai cũng giật mình đều tung mền ra khỏi giường, vội khoác áo dầy mở tung cửa để xem việc gì quan trọng đã xẩy ra. Tôi cũng vội vã mặc thêm áo ấm theo chân các chị tôi ra khỏi nhà.

    Một đám người vừa đàn ông, đàn bà cả trẻ nít từ phía nghĩa địa trở về khu xóm vừa đi vừa kêu la chửi rủa… đứa nào đã đào trộm mất mả tổ của chi họ… Nhưng lời bâng quơ bóng gió ám chỉ bác Hai đứng đầu một chi họ.

    Bác Hai là người giầu có nhất làng, hiền lành hào hiệp hay giúp đỡ người nghèo túng nhưng tính cương trực dễ làm mất lòng những kẻ thích xu nịnh. Bác đã là nạn nhân của mấy người chức dịch trong làng ở thôn quê nôm na gọi là bọn cường hào ác bá. Bọn họ chú ý đến nhà bác Hai. Cứ đến xin một hai con gà, mai đến mượn tạm ít tiền, mốt tới vay ít lúa hẹn sẽ trả sau. Thấy dễ ăn chúng làm tới nhiều lần nhưng nếu ai không chịu được lối làm tiền trắng trợn, vô lý đó và tìm cách từ chối chúng sẽ tìm cách trả thù.

    Rồi một hôm tối trời chúng đào một lỗ huyệt để sẵn mấy tấm ván thôi, là thứ gỗ quan tài cũ lấy từ một bờ bụi trước kia có người vứt đi khi cải táng các ngôi mộ. Lúc đó mấy người đàn ông thuộc chi họ mất mả tổ kéo nhau tới hội đồng xã đưa cau rượu mời hương chức tới nghĩa địa xin chứng kiến để họ đi kiện. Bọn đàn bà và trẻ con đi rêu rao chửi bới cả chi họ bác Hai từ đầu làng cuối xóm bằng lời tục tĩu bóng gió. Hết mọi người đều nghe biết, làm cho những người họ hàng đều hiểu câu chuyện thuộc gia tộc mình, họ tự động kéo nhau tới nhà bác Hai, từ người người ruột thịt đến những người có họ xa tới hàng cháu chú cháu bác cháu cô cháu cậu những người mang cùng tên họ, thậm chí những bà cô đi lấy chồng các làng bên cạnh được tin cũng đưa theo các con mình tới nhà trưởng tộc để hỗ trợ.

    Mẹ tôi khi nghe biết sự việc trong họ đã đốc thúc tất cả mọi người bỏ việc nhà kéo tới nhà bác Hai. Trong nhà bác đầy người, kẻ đứng người ngồi ra tới ngoài hiên, để nghe các ông bà trưởng thượng bàn nhau xong, tức khắc phản công: một nhóm trai trẻ đi theo vài ông tới nghĩa trang trước, nhóm đàn bà con gái theo sau. Bác Hai gái dẫn đầu làm áp lực đối phương, cũng vừa đi vừa la hét chửi không đích danh những người bất lương vu oan giá họa cho giòng họ này.

    Khi hai bên đều kéo tới nghĩa trang theo hương lý chứng kiến để làm biên bản, bên nguyên, một người đại diện đứng ra trình bày là ngôi mộ tổ bị mất trộm hài cốt, sẽ làm cho cả họ ăn không ngon ngủ không yên, cả họ mắc tội với tổ tiên, làm thiệt hại cho trong họ, nhiều người phải bỏ công ăn việc làm đi tìm hài cốt.

    Khi được hỏi bên nguyên có nghi cho ai là thủ phạm, một người bên đó đứng ra trả lời: có hồ nghi cho ông Trần Văn Hai là thủ phạm vì ông này có tính đố kỵ, thấy họ chúng tôi có nhiều người khá giả có uy tín ở làng nên ông ta đào trộm mộ tổ của chúng tôi để trong họ chúng tôi sẽ làm ăn lụn bại không ngóc đầu lên được.

    Bên ông Hai một người đàn bà đại diện rẽ đám đông đi ra, bà ta xắn tay áo chỉ mặt đối phương hỏi:

    -Anh nhận chỗ này là ngôi mộ tổ của anh bị đào vậy anh có dấu vết gì làm bằng, chỗ này trước kia không là ngôi mộ, bằng cớ những cây lúa đã nhổ lên còn vất tung tóe chung quanh. Đây chỉ là một đám ruộng được đào lên rồi chôn xuống mấy mảnh ván thôi. Nếu muốn đào mộ lấy cổ quan tài dài rộng như ta thường thấy, thì ít nhất phải đào đất dài rộng hơn cỗ quan tài mới moi được quan tài lên khỏi mặt đất. Chỗ ruộng này phải sày xéo rộng gấp 5, 7 lần chỗ này mới đúng, mà dấu vết đào nào có lớn gì, chỉ đủ chôn con chó chết. Thế mà anh dám nhận đấy là mộ tổ nhà anh sao? Còn bảo rằng chúng tôi đào trộm mộ tổ nhà anh lấy hài cốt về để bón vườn chăng?

    Với những lời cay độc làm cho đối phương nổi sùng, hai bên như đã dàn thành thế trận, bọn hương lý đã phải huy động tuần tráng giữ trật tự. Tiếp sau là bao nhiêu cái miệng các bà các cô đôi bên chửi nhau bằng tất cả những danh từ thật xấu xa.

    Bên nguyên nhiều người trong họ nhận thấy sự bất chính dã man vu oan cho người khác, họ bỏ về, rất ít người theo. Nhận thấy bên bị cả gia tộc cố kết hỗ trợ nhau, quá ức nhiều người định xông tới đối phương dùng võ lực muốn ăn thua đủ, bên nguyên cảm thấy thế yếu không chống nổi đành hạ màn rút lui. Thấy đối phương đã rút nên cả đại gia tộc cho là đã làm xong nhiệm vụ bênh vực cho người trong họ cũng tự động giải tán. Còn lại mấy ông bà có địa vị trong gia tộc ở lại nhà bác Hai bàn về hậu quả sau khi hương chức đã đưa nội vụ lên phủ.

    Mục đích mất mộ tổ chỉ là dụng ý của bọn tiểu nhân muốn kiếm món tiền nếu khổ chủ chịu điều đình, thấy không sơ múi gì cả hai bên yêu cầu hương lý để biên bản về phủ dường. Theo luật, tội đào trộm mộ của người khác là một trọng tội. Vụ án mơ hồ không đủ chứng cớ buộc tội, lục sự sơ thẩm phải đệ hồ sơ về tỉnh, thấy vụ án cứ kéo dài mất thời giờ tổn phí đi lại lên tỉnh xuống phủ mỗi lần cứ bị bọn nha lại làm khó dễ nếu không chi tiền cho chúng, phần nhiều quan lại tham nhũng chỉ trông vào người có khả năng chi tiền bác Hai đành phải bỏ ra món tiền để vụ án chóng kết liễu dù bản án không đủ chứng cớ buộc tội.

    Với tình gia tộc mọi người đều cho là có bổn phận giúp nhau khi hữu sự, không ai có hậu ý được hưởng lợi lộc gì. Trong họ hàng người nghèo khi cần đến vay người giàu vẫn trả lời, thuê ruộng vẫn nộp tô, mua lại đồ dùng, súc vật vẫn trả tiền, thuận ý cả đôi bên tình lý phân biệt. Nhưng khi cần hỗ trợ nhau, họ sẵn lòng bỏ công việc nhà, đồng áng, đến giúp nhau, không kể sự thiệt thòi về vật chất.

    Người mình xem trọng tình gia đình, nghĩa gia tộc. Đó là một sợi dây thiêng liêng nối kết từng đại gia đình với nhau. Đây không phải là một điểm son trong văn hóa Việt hay sao?

  4. #14
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    14- Bất Mãn




    Mùa thu gió nhè nhẹ thổi làm cho những đám lá vàng rụng rơi từng hàng cây hai bên đường bay theo chiều gió đưa đám lá tản mạn khắp hè phố. Tính đi làm về đậu xe trước cửa, vừa ra khỏi xe đã bị lá bay vào mặt, vào cổ, như gây thêm sự bực bội trong lòng từ lúc gặp Côn, người bạn đồng hương, đồng học khi xưa.

    Nhà Côn và nhà Tính cùng ở một con đường, mỗi buổi sáng, Côn, Tính cùng rủ nhau đi học, đồng tuổi, cùng trường, rất thân nhau, chia nhau từng chiếc kẹo, học bài chung với nhau. Ngày nghỉ hai đứa thường rủ nhau đi bắt chim, đi câu, đi đá bóng, học hết tiểu học, lên trung học, càng lớn cá tính con người mỗi ngày một rõ: nhà Tính khá giả ít anh em, được cha mẹ chiều chuộng, được ăn ngon mặc đẹp theo ý muốn, vì vậy học hành không cố gắng, mỗi khi đi học có bộ đồ mới, chàng có vẻ tự kiêu với các bạn đồng học, lười học không làm được bài lại nhờ bạn, mượn bạn để chép, rồi cũng cố gắng học xong cho hết trung học, vì thấy các bạn mình đã bỏ xa, lên đại học từ lâu gần hết.

    Cảm thấy mình học kém, ham chơi, không muốn học, vả lại cha mẹ Tính một ngày một già, lợi tức kém, trong nhà sa sút. Tính phải xin đi làm để giúp đỡ cha me. Không có nghề chuyên môn, chàng không tìm được việc làm có đồng lương cao, sinh ra bất mãn, hằn học những sự không đâu, bạn cùng sở làm khá được tăng lương, cũng làm cho Tính bực tức, kèn cựa, gặp dịp là nói móc, hay chê bai người khác.

    Ngược lại đi nịnh hót cấp trên, tìm dịp nói xấu người khác, gieo vào đầu người nghe làm cho người ta phân tâm, nghi ngờ, cốt ý hại người, vì người ta hơn mình. Với cái dã tâm ghen tị, Tính đi làm ở đâu cũng không được lâu vì những đồng nghiệp bị chạm tới nhân phẩm, quyền lợi, họ liên kết loại phần tử xấu tính. Tính cũng tham gia các hội đoàn lấy vui, nay hội mai họp bạn bè kéo nhau đi ăn uống. Chàng biết chàng không đủ tài làm được việc gì để người chú ý, nhưng không thể ngồi yên được, sáng kiến hay thì không có, sáng kiến đi dèm pha đặt điều nói xấu thì dễ quá.

    Mỗi khi có ai làm được việc gì lại là dịp cho chàng phát huy “ghen tị” bằng đủ mọi cách, kéo bè kéo cánh để hạ đối thủ, rỉ tai, nói xấu, với chủ trương không được ăn được tiếng thì đạp đổ, mới hả tấm lòng ti tiện. Tự cao tự đại, tự mãn quá ư tự tin, chả làm được tích sự gì, nhưng gia nhập hội đoàn nào cũng chỉ chăm chú đòi hỏi “đi đầu, đứng trước”, bởi vậy không ai muốn để Tính vào danh sách của hội mình.

    Côn từ ngày lên trung học cũng nhận thấy Tính hay khoe khoang, phách lối, chàng không lấy thế làm phiền, tính hồn nhiên hay giúp đỡ, nếu thấy các bạn nào chưa hiểu bài học hay chưa tìm được đáp số cho bài toán, chàng sẵn lòng cắt nghĩa chỉ dùm. Chàng thanh thản tiến theo trong đường học vấn, đi vào chuyên nghiệp, và ra trường với bằng kỹ sư, được các công ty danh tiếng mời làm với lương bổng nhiều, xứng đáng lúc thức khuya dậy sớm đi học.

    Có tiền tài danh vọng nhưng Côn không bao giờ biểu lộ ra ngoài với bất cứ ai, khoe khoang, hợm mình, lúc nào cũng vui vẻ hòa nhã; nếu ai cần giúp đỡ chàng mau mắn không từ chối ai, không tự mãn có thì giờ lại tìm tòi học hỏi thêm trau dồi kiến thức. Người bạn đường là người đã cùng học với nhau từ trung học, họ hiểu nhau gây dựng một gia đình hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, họ tham gia, giúp đỡ những công tác xã hội, không nề hà bất cứ một việc nào có thể làm được.

    Quả đất tròn, giờ đây Côn, Tính không hẹn lại gặp nhau cùng ở một thành phố, ở các nơi hội họp công cộng. Côn rất vui vẻ khi gặp lại bạn cũ, mời Tính về nhà chơi cho biết nhà và giới thiệu với vợ con cho thêm thân mật.

    Từ ngày gặp lại Côn, Tính đã biết rõ địa vị nghề nghiệp gia cảnh của Côn hơn mình về mọi phương diện càng làm cho Tính xốn con mắt mỗi khi gặp Côn không còn nghĩ đến tình bạn, lòng ghen tị quái ác dâng lên. Tính tìm hết cách nói xấu phá Côn nhưng ngoài mặt lại ra vẻ thân tình, tâng bốc quá đáng khen ngợi vô lý làm cho Côn phải cảnh giác về những lời khen không chính đáng.

    Có nhiều người được khen thấy lòng tự ái được ve vuốt bắt đầu thấy ngượng rằng mình chưa làm được điều người ta nói, hay không thể làm được, nhưng nghe đi nghe lại mãi lời tâng bốc nhiều lần “tự kỷ ám thị” cho là mình đáng được tôn quý. Người nghe lời sàm nịnh là người thiếu tinh thần tự chủ, giống như người cộng sản họ có cả một chương trính láo khoét, họ kiên nhẫn cứ ra rả nói đi nói lại ngày này sang ngày khác, lâu dần dân chúng tin theo cho đến lúc họ chụp được lưới lên đầu dân chúng.

    Bậc chính nhân khi nghe lời khen không lấy làm hồ hởi mà còn xét xem mình có đáng nhận lời người ta khen hay không, chẳng tụ ti mà cũng chẳng tự đắc. Ở đời chỉ những người không biết phục thiện tự làm khổ mình mới đáng cho người chê trách. Hãy sống an vui tự tại bằng lòng với những gì mình có thể làm được, chẳng nên bất mãn cuộc đời.

  5. #15
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    15- Lỗi Tại Ai? Đổ Lỗi Cho Ai?




    Khi rời bỏ quê cha đất tổ, ngay khi vào Nam cũng như nay sống lưu vong trên đất khách quê người, phần mộ tổ tiên không thể mang theo được, nhưng lề thói phong tục tốt cũng như xấu đã mang theo và đã ăn sâu vào đầu óc mà phần lời người Việt đều mắc phải cái bảo thủ cổ hủ của một số nhà Nho “nửa mùa” rồi gieo rắc vào đầu dân chúng, chỉ sợ người khác hơn mình, cái gì ở nơi mình cũng nhất, cũng hơn thiên hạ.

    Ở nhà thường đem thuyết “ngày xưa các cụ”, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, “phu xướng phụ tủy”. Cách xử thế “cá vú lấp miệng em” giữa con người với nhau cho đó là luân lý, đạo đức thánh hiền. Đã là đạo đức, luân lý thì phải dựa trên căn bản luân lý, sự thật công bình bác ái. “Phu xướng phụ tủy” cũng phải tùy theo loại phu, loại chuyên môn ăn hiếp, hơi một tí quát tháo, chửi bới, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh vợ chửi con, khi ra ngoài thì mắt la mày liếc, tán cô nọ theo bà kia, rồi về nhà phụ phải tủy hay sao?

    Mỉa mai thay hiện nay vẫn còn những người khư khư ôm thói tục này và cho đó là kho tàng đạo đức thánh hiền để lại. Đã là người, ở địa vị hay tuổi tác nào cũng có lúc lầm lỡ, “nhân vô thập toàn”. Ai cũng có cái hay cái dở, nên học hỏi, bổ túc cho nhau trong tình yêu thuơng, kính trọng lẫn nhau.

    Trước 75 cũng có nhiều đôi trong tình trạng gia đình nệ cổ, độc đoán bị “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cậu hay cô không bằng lòng, phản đối thì bị mắng chửi, quá nữa còn bị đòn, bất kể phạm đến nhân phẩm, tự do của các con. Đôi bên cha mẹ cứ việc mai mối định ngày vu quy, nghênh hôn bất kể nỗi lòng đau khổ của con với một câu của cha mẹ an ủi: “Bây giờ chưa yêu, rồi sau khi cưới sẽ yêu nhau, không sao đâu”.

    Một số gia đình thiếu căn bản giáo dục từ trước, tới đất tự do đầy cám dỗ chóa mắt với nhiều mới lạ, lao đầu vào chốn ăn chơi, say mê ánh đèn mầu như những con thiêu thân tự cho mình biết ăn chơi văn minh chẳng kém ai. Về đến nhà gặp chồng hay vợ mình thiếu lời ngọt ngào tâng bốc vuốt ve, chỉ cắm cúi đi làm, thu vén nhà cửa săn sóc các con để dành tiền mua nhà hay để khi các con lớn lên ăn học sau này tốn kém.

    Ông chồng bà vợ chân chỉ đạo đức đã không chịu chiều theo thị hiếu của bọn suy đồi đã mắt căn tính, gia đình đối với bọn họ giờ đây là nơi tù đầy giam hãm họ, làm cho họ khổ, khi phải đối diện với vợ hay chồng cho rằng cổ hủ không còn chút khả ái nào như khi mới lấy nhau, là chướng ngại cản mũi họ bằng bổn phận bằng lời khuyên. Họ chán ngán gia đình chỉ tìm cách gây sự chống đối để lấy cớ xa gia đình “ma đưa lối quỷ dẫn đường”, bao giờ cũng vẫn sẵn những đồng chí như họ đang chờ đợi họ bên ngoài ngưỡng cửa gia đình.

    Những kẻ phản bội tận cùng lương tâm đôi khi cũng lóe sáng nhận biết tội lỗi, nhưng không đủ can đảm dứt khoát. Hồi đầu khi có thân quyến khuyến bảo, họ chỉ biết đưa ra luận cứ lỏng lẻo bào chữa tội bằng cách đổ cho cha mẹ trước kia đã ép duyên, đánh chửi bắt họ phải lấy chồng lấy vợ, người mà họ không hề yêu, họ đã phải khổ trong mười mấy năm trời nay, sống với nhau chỉ như cái xác không hồn. Một lối ngụy biện nguy hiểm ấu trĩ cho những người nghe đồng bệnh tương lân.

    Thảm cảnh gia đình họ Vũ vừa mới xảy ra cách đây không lâu tại Houston, Texas, năm mạng người chết một cách tức tưởi, hỏi ai đã gây nên tội? Người cha quá tức tối người vợ và tình địch đã trút hận thù vào lũ con vô tội, bắn chết 4 đứa con rồi quay súng tự sát. Để tránh đau khổ nhục nhã cho gia đình, người chồng đã không đủ can đảm, nhẫn nhục chờ thời gian hàn gắn lại. Thường tình người vợ và tình địch phải nhận hậu quả tội lỗi do họ gây nên mới đúng.

    Làm vợ làm mẹ thời gian dài, quá đủ kinh nghiệm gìn giữ gia đình, còn đổ lỗi cho cha mẹ sao được. Không còn yêu chồng, yêu vợ cũng còn bổn phận đối với con cái, không còn chút tình thương nào đủ hy sinh cho con cái nữa sao? Đang tâm dứt tình mẫu tử, phụ tử để hệ lụy ảnh hưởng xấu suốt đời cho các con, Những kẻ phản bội là hạng người ích kỷ, chỉ biết tìm khoái cảm cho mình, khi chán người này lại tìm kẻ khác. Bọn người thiếu bổn phận làm cha mẹ không biết thương con, biết bao những trẻ con thiếu cha thiếu mẹ, mồ côi sống trong cảnh bi đát đã không lung lay nổi những con người trụy lạc.

    Xin những bậc làm cha làm mẹ hãy nghĩ đến đàn con thơ đang sống trong vòng tay cha mẹ nỡ lòng nào hất đổ hy vọng các con mình đã sinh ra, đang tâm xô chúng xuống vực thẳm hay sao? Chỉ vì tính ích kỷ, tìm khoái cảm nhất thời đến nỗi tan vỡ hạnh phúc để khổ lụy đến đàn con. Ít khi có trường hợp bị lỡ làng duyên phận một cách chính đáng.

    Nhiều đôi đã lấy câu “duyên số” an ủi lẫn nhau, đôi bên thông cảm tạo dựng gia đình hướng về tương lai, dồn tình yêu bổn phận cho con cái và đặt nền tảng thăng tiến cho xã hội. Dù sống ở đâu cũng hội nhập, thu nhận lấy mỹ tục của người nhưng vẫn giữ trọn văn hóa gốc Việt.

  6. #16
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    16- Dạy Con Từ Thuở Còn Thơ




    Như thường lệ 5 giờ sáng tôi đã dậy, sau khi làm mấy động tác về thể dục cho dãn gân cốt, nhìn trời mây, cây cỏ còn đọng sương mai, vũ trụ bao la, huyền diệu, kỳ công xếp đặt lớp lang, vẻ đẹp thiên nhiên thấm nhuần trong tâm não, tinh thần sảng khoái, tôi thầm cảm ơn đấng Tạo Hóa đã dựng nên muôn loài, chỉ đặt để có loài người được thay quyền Tạo Hóa hưởng dùng, có quyền trên các loài thụ tạo khác. Thế mà nhiều người vẫn chưa vừa lòng, vẫn oán trách đấng Tạo Hóa.

    Giòng tư tưởng chợt bị cắt ngang do nhiều tiếng động loảng xoảng như nhiều đồ bằng sứ bị ném xuống đất. Những tiếng động đó xuất phát từ bên kia đường, trước mặt nhà tôi là nhà ông bà Giáp. Tiếp theo tiếng động là tiếng bà Giáp the thé như xé vải:

    -Cứ ngồi đấy mà chờ, nay bố muốn đổi cái Tivi mầu lớn hơn, mai đổi bộ salon, mốt đổi bộ bàn ăn, rồi khuyến khích, rồi tâng bốc nó tài, nó giỏi, thậm chí nó đưa hết con mèo này đến con mèo khác về cũng không dám nói động đến nó, ăn tiêu như phá, không hỏi nó lấy tiền ở đâu ra, nó biết in tiền hay sao? Bây giờ nó vào tù, khốn nạn một mình nó phải chịu đã đành, còn mình là bố mẹ nó còn dám ngẩng mặt nhìn ai.

    Tiếng ông Giáp:

    -Im cái miệng lại, còn đổ lỗi tại ai, quen ăn gian nói dối từ hồi nào đến giờ, có nói ra chỉ ầm cửa ầm nhà, mồm loa mép giải, nó có gan ăn cướp, có gan chịu đòn, còn phàn nàn nỗi gì. Hãy trách mình trước, nay kêu thiếu, mai kêu túng, nó có đem tiền đem đồ gì về nhà cho, thì lấy làm hả hê lắm, có biết những người mất tiền mất của vì nó, người ta khổ sở thế nào không?

    Đã quen tai về những tiếng động bên nhà láng giềng bởi mấy cô cậu tuổi trẻ thường mở nhạc kích động, cười nói ầm ĩ, hay chửi nhau to tiếng bất chợt đã làm phiền hàng xóm khó chịu, phải nghe những lời thô bỉ. Nhưng lần này làm tôi chú ý vì tiếng ông bà Giáp cãi cọ trách móc nhau vào buổi sáng sớm, hẳn ông bà đang lo lắng cho cậu Ất mới bị bắt mấy bữa nay về tội ăn cướp.


    ***

    Khổ chủ là một bà già hơn 70 tuổi, gầy gò, mắt kém sáng mà cụ không chịu đeo kính lão. Biến cố đại nạn xảy ra năm 75, cụ may mắn theo đoàn người tỵ nạn. Cụ không có con, được người bảo trợ giúp đỡ đưa cụ đến ở một phòng trong chung cư, có vài người cháu thỉnh thoảng đến thăm viếng hay lối xóm các bà quen biết cũng đưa cụ đi chợ đi chùa.

    Vào một buổi sáng khoảng 7 giờ, có tiếng gõ cửa, cụ yên trí một người quen nào đến thăm, cụ ra mở cửa thì một thanh niên khoảng 19, 20 tuổi chực sẵn ở ngoài. Nó cài cửa lại, đẩy cụ vào xó nhà, đe dọa bắt cụ ngồi yên. Nó lục soát lấy hết tư trang, tiền bạc cụ để dành từ trước, rồi còn đe dọa nếu đi thưa cảnh sát nó sẽ trở lại trả thù. Vì cụ đã nhận ra nó là người trong chung cư gần căn nhà cụ ở. Khoảng hai giờ đồng hồ sau, một người đàn ông đến cho cụ biết tên cướp nhà cụ là em vợ y, nếu cụ đi nói cho ai biết, gia đình tên cướp sẽ trả thù.

    Theo như người viết tìm hiểu về gia đình này, ông bố trước kia là một công chức đưa được cả gia đình đi tỵ nạn, ông chăm chỉ đi làm, gia đình không phải thiếu thốn, tính tình chất phác, cuối tháng đưa đủ lương về để cho bà vợ chi tiêu mua sắm, cho các con có đủ tiền ăn học. Ông cho như vậy là đủ bổn phận đối với vợ con trong gia đình. Ông không hay để ý đến hạnh kiểm, sức học các con có tiến bộ không, cho đến khi có giấy lệnh truy nã con, ông mới sửng sốt kêu trời.

    Bà Giáp chẳng hơn gì ông, đồng tiền đối với bà rất quý, dè sẻn tính toán làm sao để có nhiều tiền làm giầu như người ta. Các con bà ngày một lớn, phải có nhu cầu theo tuổi, theo ý bà miễn là nuôi chúng ăn no mặc ấm, có sách vở đi học thế là quý rồi, còn đòi hỏi chi nữa.

    Trẻ con đến trường, ngoài giờ học ra, lúc ra chơi, khi tan trường, chúng có bạn bè chơi với nhau, nói truyện với nhau, nhìn nhau, rồi khoe nhau có đồ chơi mới, có áo mới, nay bạn này có cái nọ, mai bạn kia có cái khác.

    Trẻ con, em nào cũng như em nào, đều thèm muốn những cái mới lạ, ao ước sao cho được có. Những em con nhà nghèo hiểu rằng bố mẹ không có tiền không dám xin, hay có xin bố mẹ nói không có tiền mua cho con được, chúng hiểu rồi thôi. Nhưng trường hợp con ông bà Giáp lại khác, các em muốn thứ này thứ nọ về xin không được bố mẹ đáp ứng, bao giờ bố mẹ cũng kêu không có tiền.

    Chúng biết rõ bố mẹ có tiền mà không muốn cho chúng, chỉ tìm cách nói dối quanh để từ chối. Có khi các em đưa bài vở về khoe bố mẹ mong bố mẹ thưởng cho đồ chơi, đi xem phim v.v… bố mẹ cũng hứa “cuội”. Ở nhà chúng hay chứng kiến bố mẹ thiếu thành thực đối với họ hàng, bạn bè khi những người này cần giúp đỡ về tiền, về công việc, thất hứa từ việc lớn đến việc nhỏ.

    Ảnh hưởng đó trực tiếp tác động trong gia đình ông bà Giáp. Ất đi học là một trò thông minh lanh lợi, nó thấy bạn bè có đồ chơi mà nó thích, đã tìm cách lấy chơi bằng được, hỏi mượn nếu bạn nó quên không đòi mà có đòi nó nói dối đã làm mất hay hỏng rồi. Có khi nó bỏ học rủ bạn đi các chợ tìm cách ăn cắp đồ ăn hay đồ dùng.

    Dần dà tính xấu ăn sâu vào tâm trí nó, nhiều lần nó đưa đồ ăn cắp về nhà cho cha mẹ, ông bà Giáp đã không hỏi nó về của xuất xứ để tìm khuyên bảo ngăn chặn, coi như của tự nhiên mà có, nhất là bà Giáp vui vẻ như thừa nhận con mình khôn ngoan lanh lẹ, như khuyến khích nó đi sâu vào vòng tội lỗi. Bây giờ hai ông bà thương con trách móc đổ lỗi cho nhau đã không biết dạy con. Muốn con nên người đức hạnh mình hãy làm gương tốt cho các con noi theo. Cha mẹ hay ăn gian nói dối lừa đảo người ta tất nhiên con cái sẽ thành ăn cắp ăn cướp, đi băng đảng phá hoại xã hội.

    Chứng kiến về vụ con ông bà Giáp sa lầy mất tương lai, một bà mẹ trẻ hàng xóm đã nói:

    -Tôi rất chú trọng về giáo dục con cái, mỗi buổi sáng đưa cháu đi học, cháu được 7 tuổi tôi cứ cắt nghĩa nhiều làn như thế nào là nói dối, nói dối là sự xấu ai cũng ghét người nói dối, rồi một hôm cháu gọi tôi: Mẹ ơi em bé nói dối, em có tội đấy. Tôi hỏi: Em nói dối như thế nào? Nó trả lời: Em lấy đồ chơi của con. Con hỏi thì em nói không lấy.

    Tôi hỏi em nó: “Đồ chơi của anh đâu?” Bé chỉ ra sân với vẻ mặt ngơ ngác. Tôi phải cắt nghĩa cho thằng anh hiểu, em chưa biết nói dối và con phải hỏi em là đồ chơi của anh để ở đâu đi tìm cho anh.

    “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Trẻ con như tờ giấy trắng. Nhưng gương tối, lời nói phải, như in vào tâm trí chúng, khi lớn lên có tác dụng suốt đời. Thời Nghiêu, Thuấn dân chúng đi đường có trông thấy của rơi giữa đường cũng không ai lấy, cho rằng của người nào đã vô ý để rơi, rồi khi biết, người chủ sẽ trở lại tìm lấy. Dù nhiều ít không ai lấy của ai. Người người đã giữ được đức thật thà, không tham lam, nói dối, về đêm nhà nhà không ai phải cài cửa ngỏ, tôn trọng chủ quyền tư hữu là đời thịnh trị, ngàn năm sau vẫn còn nhắc nhở ca ngợi người xưa.

  7. #17
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    17- Đời Người Con Gái Chỉ Có Một Thời




    Dậy dỗ con cái là bổn phận tự nhiên của cha mẹ, đến tuổi trưởng thành dựng vợ gả chồng. Vẫn theo tục lệ, con trai do cha mẹ đi tìm xem tông xem giống để kén vợ cho con, con gái cũng do cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, họa hiếm mới xẩy ra một hai vụ tai tiếng, “tiền dâm hậu thú” hay cãi lời cha me, cho tới khi các con đã thành gia thất ở riêng, tự lập, bấy giờ cha mẹ mới yên tâm phần nào. Lúc đó các cụ nói rằng: “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”, thế hệ này tới thế hệ khác nối tiếp dòng giống, giữ gìn gia phong.

    Từ khi người mình tiếp xúc với văn minh Âu Tây, có óc phóng khoáng cởi mở, tự do, cầu tiến, bậc cha mẹ không còn giữ được ý niệm xưa và cũng không nên giữ một hủ tục không hợp thời. Nhưng rất tai hại thay, một số giới trẻ đã vượt ra ngoài vòng tự do giới hạn, bỏ lại truyền thống lễ giáo, đạo đức đáng bảo tồn.

    Hãy nói về tâm trạng của các cô đến tuổi mơ mộng, biết e thẹn, khi đi qua chỗ nào có bóng nam giới tất nhiên họ nhìn, liếc, mỉm cười đôi khi quay lại, có anh chàng lẽo đẽo theo sau, khen cô đẹp, duyên dáng muốn làm quen hỏi chuyện vu vơ, xin một cái hẹn, mời đi ăn chơi, tặng quà v.v…

    Những cử chỉ trên đã vuốt trúng tim cô. Với tâm trạng hân hoan bồng bột cô về soi gương, thâm tâm tự cho mình đẹp, có duyên làm người để ý theo tán. Cô quên không nghĩ tới cái đẹp của cô chỉ hợp với từng người, không phải ai nhìn cô cũng cho là đẹp. Nếu cô thiếu những đức tính cao quý, lòng vị tha, vui vẻ, hiền lành, lễ độ dù vẻ đẹp chim sa cá lặn cũng chẳng ai quý trọng.

    Hết năm này tới năm khác qua đi vẫn cảnh trên tái diễn mơn trớn lòng cô, một ngày kia cô nhận ra những người con trai theo tán cô cứ ít dần đi, vì họ đã tìm được cô khác hợp ý, họ đã cưới vợ có khi mời cô đến chia vui với họ.

    Ngược dòng thời gian cô mới nhớ biết bao dịp cô bỏ lỡ cơ hội, có người cô chê, anh chàng ít nói cù lần, anh này học kém, anh kia xí trai, anh nọ không hào hoa hay dốt ăn dốt mặc. Những chàng cho là hào hoa phong nhã, có thể chấm được, cũng vì cô tỏ ra kênh kiệu, bắt cá hai tay vì thế nên vuột tầm tay hết. Rồi cô đi đến thái độ tiêu cực bất cần đời, tự nghĩ mình vẫn đẹp, có công ăn việc làm, có tiền sống tự do, đến đâu hay đến đó, có tiền bao cho bạn bè nên vẫn có người quý mến, cho rằng ở với cha mẹ hay anh em hay ở một mình trong khu apartment cũng vẫn ấm cúng đủ.

    Nếu cô thực tế hơn hãy nghĩ về tương lai khi cô đau yếu, gặp tai nạn, sức khỏe kém, tuổi 50, 60 về già, nhìn vào cảnh các bà già cô độc, bắc ghế ra trước cửa ngồi trông trời trông đất, trông mây bóng hoàng hôn cuộc đời về chiều, sẽ hối tiếc, không có cảnh nào đầm ấm bằng cảnh gia đình có con có cháu, chỉ có ruột thịt thâm tình mới bền bĩ, ngoài ra vì lòng thương xót của lối xóm, bạn bè, thăm nom giúp đỡ cũng chỉ qua lần. “Có âm dương có vợ chồng, dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê”.

    Câu chuyện cô Nhường dưới đây là một trường hợp diển hình. Cách đây năm năm, khi cô Nhường bước vào tuổi 30, mặc dù vẫn còn nhiều người theo đuổi nhưng chạnh nghĩ đến cảnh già, đến sắc đẹp sẽ tàn tạ theo thời gian nên cô nhất định chọn lựa trong số người theo đuổi cô để kết hôn, cô không biết chọn lựa thế nào là người chung tình thật lòng, người nào cũng nói yêu cô, tặng quà mời đi ăn, mời đi chơi, khéo nói, khoe khoang giầu có bằng cấp v.v..

    Ngày nghỉ cô không đi ăn với anh này, lại đi chơi với anh kia, buổi tối hết anh này gọi đến cậu kia kêu điện thoại lấy hẹn. Cha mẹ cô không chấp nhận được hành vi cử chỉ của cô. Nhưng cô Nhường vẫn cho rằng cách sống của cô là đúng, là hợp thời trang. Và cũng chính vì thế cô vẫn mãi không chọn lựa được ai.

    Cô tới vấn kế bà hàng xóm trẻ, bà hàng xóm mau mắn trả lời. Nếu cô tin tôi là người bạn giúp cô ý kiến chọn ý trung nhân, cô hãy nói rẽ cho tôi biết hiện giờ cô có để ý tìm hiểu người nào trong số những người cô quen biết không?

    Cô Nhường trả lời:

    -Em để ý hai người cũng dễ thương như nhau, nhưng trái ngược nhau về tính tình. Anh An trầm lặng ít nói, có vẻ thực thà đơn giản, mỗi lần điện thoại lại xin nói truyện tại nhà, anh cũng ít tặng quà, ngày nghỉ đi đâu anh vẫn nói cho em biết, cũng như hôm nay anh điện thoại hỏi thăm em và nói cho em biết ngày mai anh phải đi ăn cưới người bạn rất thân dù đau yếu cũng phải đi.

    Còn anh Ba, rất đẹp trai có bằng cấp, mở văn phòng luật sư, nói khéo biết đón ý em hay mời em đi ăn đi chơi, đã tặng em nhiều món quà có giá trị, anh có vẻ giao thiệp rộng rãi, có nhiều bạn bè trai cũng như gái và anh nói có nhiều cô muốn lấy anh. Em rất phân vân trong hai người này ai là người chung tình, có thể tin cậy để gửi cả cuộc đời mình vào tay họ.

    Sau nghĩ một lúc bà hàng xóm trẻ đưa ý kiến:

    -Như Nhường vừa nói anh An ngày mai đi ăn cưới người bạn rất thân, nhân dịp này hãy đo tình yêu của anh ta đối với Nhường. Anh An có nói 10 giờ sáng mai ra đi vậy vào lúc 7, 8 giờ Nhường hãy kêu điện thoại mời anh An lại nhà để cùng đi chơi, nếu anh An nhận lời, bỏ không đi ăn cưới người bạn thân, tôi tin rằng anh ấy là người thật lòng yêu cô, cô nên tiến tới đừng để lỡ cơ hội.

    Nhường phàn nàn:

    -Anh Ba đã tặng em nhiều quà, em muốn trả lại nhưng lần nào anh ta cũng từ chối không chịu nhận, em đã nói với anh ta có nhiều bạn nên tặng lại các bạn khác, em muốn dứt khoát trả hết tặng vật lại cho anh ta.

    -Muốn trả lại có khó gì, Nhường gói hết tặng vật từ trước đến giờ rồi đưa ra bưu điện gửi về địa chỉ anh ta là xong.


    ***


    Một tháng sau, chọn được ngày lành tháng tốt đám cưới Nhường – An được tổ chức theo nghi lể cổ truyền hợp với ý ba mẹ Nhường.

    Bây giờ đi đâu Nhường thường dẩn theo ba con nhỏ xinh đẹp, gặp bà bạn, Nhường chỉ vào các con, cám ơn bà đã giúp ý kiến nên ngày nay Nhường mới có gia đình hạnh phúc bên người chồng có tư cách mà nàng kính phục. Nhường hay ái ngại thương mấy cô bạn đồng trang lứa, vẫn còn lận đận đã bỏ lỡ cơ hội bởi vì đời người con gái chỉ có một thời.

  8. #18
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    18- Thiếu Công Bằng Đối Với Con Cái




    Bà Dậu ngồi trước chiếc bàn rộng, trên đầy sổ sách, đang dò tìm những phiếu đặt hàng của các cửa tiệm gửi về, kèm vào chỗ thì chê phẩm chất hàng kỳ này kém, chỗ thì trách hàng giao chậm, thiếu hay thừa hàng, đổi trả lại hàng xấu, yêu cầu cải tiến theo nhu cầu của khách hàng.

    Ông Dậu không ngẩng mặt lên, hai tay ấn máy chữ, nghe bà Dậu đọc con số ít đi, mặt nhăn lại mỗi khi hai ông bà trao đổi phàn nàn số thương vụ kỳ này trụt xuống trông thấy.

    Kể từ hôm Lan, con gái ông bà đi lấy chồng, cả hai ông bà vất vả mà công việc vẫn không chạy được như khi Lan còn ở nhà. Nhất là bà Dậu, bà luôn phàn nàn với ông, mọi khi có Lan, bà không phải lo nghĩ làm gì, mọi việc đã có Lan quán xuyến đâu vào đấy.

    Bây giờ cả hai ông thầm khen và phục con mình có tài tháo vát biết buôn bán, trong cửa tiệm có trục trặc điều gì Lan giải quyết rất nhanh, chả trách hết người này đến người khác tìm đến mai mối, không lẽ cứ giữ con ở nhà mãi sao. Trước sau rồi cũng phải lo liệu cho trai có vợ, cho gái có chồng. Lập gia đình phải ở riêng là lẽ thường. Nếu như Lan lấy chồng ở gần thì những lúc gặp nhiều việc khó khăn, Lan đến giúp bố mẹ cũng đỡ khổ.

    Giòng tư tưởng của bà Dậu vừa lo lắng vừa nghĩ đến con, tiếc thương, phàn nàn công việc nhiều, bà nghĩ rất nhiều mà không tập trung vào một việc gì. Vừa lúc đó thì có tiếng xe hơi dừng trước cửa, rồi Mai, Cúc, Trúc gọi nhau ơi ới “Chị Lan đã về”. Lan hiện ra trước mặt ông bà Dậu làm cho ông bà mừng như bắt được vàng, như có cứu tinh đến với ông bà. Chưa kịp hỏi han, ông Dậu đã nhận thấy mặt con có nét buồn. Còn bà Dậu thì quá mừng, bà nghĩ đến công việc đang cần Lan nên bà vội nói:

    -Con ở chơi lâu được không, bố mẹ cần con ở lại giúp bố mẹ mấy ngày được không?

    Lan sốt sắng trả lời:
    -Con ở nhà luôn với bố mẹ, và con không đi đâu nữa.


    ***


    Lan, Đức đều là phù dâu phù rể của bạn mình trong một đám cưới, họ quen nhau do cô dâu chú rể giới thiệu. Tiến những cuộc đi chơi gặp gỡ tìm hiểu nhau kéo dài cả năm. Đức là một kỹ sư khỏe mạnh, có nghị lực, có xu hướng cầu tiến. Lan là một thiếu nữ tốt nghiệp về thương mại, sẵn cha mẹ có cửa tiệm nên thôi học ở nhà giúp cha mẹ trong việc kinh doanh. Nàng có óc bén nhậy, tháo vát, đi vào thương trường rất hợp với khả năng, giúp đỡ cửa tiệm cho cha mẹ.

    Là những người có học vấn, có óc suy xét, họ nhận thấy hai tâm hồn hòa hợp liên kết, lập gia đình sẽ hưởng được hạnh phúc bền vững và đã được đôi bên cha mẹ nhận thấy đủ điều kiện môn đăng hộ đối, hai gia đình đều là nhà buôn có cửa tiệm.

    Tuy cha mẹ Lan biết thiếu Lan ông bà sẽ vất vả hơn trong công việc làm ăn, nhưng cũng chấp nhận vì nghĩ rằng khi cần, Lan vẫn có thể về giúp đỡ được.

    Cha mẹ Đức, ông bà Phúc, biết Lan là người hiền, đẹp, có tài buôn bán, ông bà hết sức hân hoan chỉ mong cho chóng đến ngày cưới được Lan về làm dâu. Tất cả những lễ nghi phong tục được đôi bên tổ chức đám cưới rất linh đình phần nhiều theo ý xếp đặt của cô dâu, vừa có tiền vừa có tài, ai cũng phải khen là một đám cưới vui vẻ hoàn hảo.

    Qua tuần trăng mật, ông bà Phúc gọi hai vợ chồng Đức Lan và bảo:

    -Cha mẹ đã già cũng muốn nghỉ ngơi nhưng hoàn cảnh chưa cho phép vì còn phải lo cho các em, khi nào tất cả các em trai có vợ, gái có chồng ở riêng, bấy giờ cha mẹ mới hưu trí được. Các con là trưởng, vậy cha mẹ giao cửa tiệm đang làm đây để các con điều khiển giúp cha mẹ.

    Đức vì có việc làm ở sở nên chỉ giúp khi nào rỗi, còn Lan sẽ phải làm toàn thời gian, nàng vui vẻ nhận:

    -Con xin hết sức làm với khả năng vì đã quen công việc như ở nhà.

    Đúng ý với ông bà Phúc mong muốn, từ ngày có Lan giúp, cửa hàng phát triển, mở thêm chi nhánh. Trong gia đình, ông bà Phúc gả chồng cho hai con gái cũng đều nhờ tay Lan giúp đỡ các em chồng từ việc nhỏ đến lớn như trang sức rất chu đáo do tiền Lan bỏ chi không tiếc. Mỗi lần Lan hỏi ý kiến ông bà Phúc đều được ông bà khen ngợi và để tùy ý. Ông bà Phúc giao công việc cho Lan nhưng không giao tiền, coi như Lan có bổn phận phải bỏ tiền ra.

    Trong mấy năm nay, Lan ra sức kinh doanh, có bao nhiêu vốn liếng đưa về góp vào cửa tiệm của bố mẹ chồng để khuếch trương mở rộng thương trường như lời bố mẹ nói: “Của cha mẹ cũng là của con:, công việc thì Lan trông coi, chi thu thì ông bà Phúc giữ sổ, ông bà thường nói: “Đấy là bố mẹ giữ cho các con”. Đức đi làm cuối tháng đưa hết lương về để góp với bố mẹ cho có thêm lời, Lan chỉ ra những số tiền nhỏ để chi tiêu không đáng kể.

    Rồi một hôm, Lan khám phá ra rằng hai cửa tiệm chi nhánh đều đứng tên mỗi em gái của Đức; cả hai cô em nghiễm nhiên thành bà chủ giữ sổ sách riêng. Lan đưa điều nghịch lý này ra hỏi ông bà Phúc thì ông bà trả lời:

    -Các em mới ra đời, kém tài thiếu vốn, bố mẹ và anh chị cần giúp các em có cơ sở làm ăn, các em ăn nên làm ra là nhờ anh chị và cám ơn anh chị, còn các con là con trưởng ở đây với bố mẹ, muốn ăn tiêu thế nào tùy sở thích, của cha mẹ là của con.

    Những điều ông bà Phúc giải thích không đáp ứng được sự đòi hỏi của Lan. Còn Đức, chồng Lan, nghe bố mẹ than thở giúp các em đỡ gánh nặng cho cha mẹ, cũng đồng ý với bố mẹ. Thấy chồng quá thiên về bố mẹ, các em, Lan để cho Đức suy nghĩ phân biệt tình là tình, lý là lý, phải có sự công bằng phân minh rõ ràng, bổn phận đối với cha mẹ và sự giúp đỡ anh chị em phải hợp tình hợp lý, trong khi những anh chị em khác không làm gì chỉ biết ăn chơi ỷ lại vào cha mẹ, vào người cặm cụi dè sẽn làm ăn thì thực là bất công.

    Tất cả vốn liếng công lao đưa về góp với bố mẹ chồng để rồi bố mẹ đem chia giúp cho các em Đức. Lan công phẫn cho rằng bố mẹ chồng đã lợi dụng nàng, thiếu sự công bằng với các con. Sau cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng, Lan quyết định bỏ về nhà cha mẹ và đó là nguyên nhân đưa đến sự chia rẽ của vợ chồng nàng.

    Người đời nhận định “nước mắt chảy xuôi”, bố mẹ thương nuôi con còn bé, khi lớn muốn giúp đỡ phải tự mình có thể giúp được, không nên rộng rãi lấy của con này san sẻ cho con khác khi không có sự đồng ý của chủ của. Lấy quyền cha mẹ áp đặt lên các con không đồng đều chỉ làm cho đại gia đình bất ổn, đưa đến sự chia rẽ.

  9. #19
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    19- Bố Mẹ Chồng




    Tiếng chim hót líu lo ngoài sân làm Tân tỉnh giấc thức dậy ra trước sân làm mấy động tác thể dục, trong người thấy khoan khoái dễ chịu và yêu đời. Buổi sáng trời mưa nhẹ, lất phất như bắt đầu mùa xuân, chàng vào nhà rủ Ái Mỹ, vợ chàng, ra phố ăn sáng rồi đi chơi la cà cho hết ngày thứ bảy. Đã mặc xong quần áo, trước khi đi Tân ra lấy thư. Trong tập giấy có thư từ Việt Nam quen thuộc. Tân hồi hộp trong lòng khi nhận được chữ của bố đề ngoài bì thư. Chàng vội xé ra xem. Trong thư báo tin bố mẹ và các em chàng đã được gọi để phỏng vấn và đồng thời đã có giấy xuất cảnh, chỉ còn chờ ngày lên máy bay qua Mỹ đoàn tụ.

    Nghĩ đến phút được gặp lại bố mẹ, các em và cả gia đình sum hợp. Tân thấy thật sung sướng. Chàng vội điện thoại cho các em ở thành phố khác biết tin chờ ngày đi đón bố mẹ, các em. Hai vợ chồng sau khi ăn sáng thay vì đi chơi đã đi tìm mua sẵn thêm giường, đồ dùng khi bố mẹ tới nhà sẽ có đầy đủ tiện nghi. Căn nhà có ba phòng ngủ, vì chưa có con nên hai vợ chồng ở một phòng, bố mẹ ở phòng khác còn ba cô em gái ở phòng còn lại cũng vừa đủ khéo. Trong khi chờ đợi, cứ ngày thứ bảy, Chúa Nhật, cả hai vợ chồng lại đi chọn đồ mua về trang hoàng các phòng ngủ, phòng khách cho vừa ý.

    Vượt biển từ năm 1976, ba anh em Tân, Tảo, Tú vừa đi làm vừa đi học, cả ba đã thành công, có bằng kỹ sư, có việc làm, hai anh Tân, Tảo đã lập gia đình, riêng Tú cũng làm một hãng với Tảo nên ở chung với Tảo.

    Được giấy báo ngày giờ đi đón gia đình ở phi trường San Francisco, vợ chồng Tân-Mỹ, Tảo-Liên và Tú đã tề tựu đông đủ với một số thân thuộc bạn hữu, máy ảnh quay phim đã được chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón ông bà Thuần và ba cô con gái xuất hiện với bao mừng rỡ hân hoan đến trào nước mắt. Khi bố mẹ anh em ôm nhau, qua phút hồi hộp, hai người con dâu Mỹ, Liên được hai người chồng giới thiệu trình diễn với bố mẹ chồng.

    Tuy đã có thư kèm hình ảnh gửi về xin phép bố mẹ trước khi cưới, nhưng đây là lần đầu tiên gặp gỡ cả gia đình, thân thuộc bạn hữu sau những câu thăm hỏi vồn vã và tràn ngập ý tình thân thương với lời hẹn gặp lại sau. Vợ chồng Tân-Mỹ đưa bố mẹ và ba em về nhà nhận ở những căn buồng riêng đã được trang trí sẵn sàng đầy đủ đồ dùng.

    Ái Mỹ đi chợ Việt Nam mua đầy đủ thực phẩm: thịt, cá, rau tươi, mắm muối, tiêu ớt, đồ khô bánh tráng, gói bún, phở, khô mực, khô bò, đồ hộp, củ kiệu, tương chao, nhãn, vải hộp v.v… Xong lại tới chợ Mỹ mua về nào là sữa tươi sữa ngọt các thứ đã được xếp đầy tủ lạnh và tủ đựng đồ. Vợ chồng Tân-Mỹ đã dẫn giải cho các em biết sự dụng các tiện nghi trong bếp cũng như ngoài nhà. Ái Mỹ xin nghỉ việc ở nhà một tuần lễ để đưa bố mẹ các em đi làm thủ tục giấy tờ, thăm hỏi những người thân thuộc, đi shopping v.v…

    Cuộc sống của đôi vợ chồng bắt đầu xáo trộn. Mọi khi mỗi buổi sáng Ái Mỹ chỉ cần nấu ấm nước sôi pha cà phê sữa, kể như là hai vợ chồng đã ăn xong bữa điểm tâm. Muốn chiều bố mẹ chồng, Mỹ đã hỏi xem cả nhà muốn ăn gì tùy thích: ông Thuần uống cà phê lọc phin, bà Thuần và các em sau hai ngày đã chán đồ Mỹ đòi ăn bún mọc.

    Tới hai bữa cơm chính, Ái Mỹ điên đầu không biết xoay xở làm món ăn thế nào cho vừa lòng mọi người, vì chính nàng không phải là người có tài nấu bếp, xưa nay chỉ quen ăn đơn giản theo lối Mỹ, muốn ăn món Việt phải chờ ngày thứ Bẩy cả hai vợ chồng hay cùng bạn bè tới ăn tiệm Việt Nam. Giờ đây bắt buộc phải làm bếp, nàng trông chờ các em chồng làm giúp lại bị ánh mắt bố mẹ chồng không thông cảm với một câu “chị cho ăn món gì cũng được mà”.

    Hết hạn nghỉ, cả hai vợ chồng trở lại đi làm, chiều về vào bếp thấy yên lặng như tờ. Mọi người như chờ đợi nàng dâu về làm cơm; đi làm về đã mệt mỏi còn sức đâu để làm bếp hầu cả nhà, ăn xong ngồi ỳ ra cả đống để mình nàng thu dọn bát đĩa. Tân đành phải đưa cả nhà đi ăn tiệm, nếu cư kéo dài tình trạng này làm sao đủ trả chi phí cho các bill cuối tháng gửi về.

    Tân đưa ý kiến với mẹ để tập cho các em làm cơm ăn ở nhà cho đỡ tốn trong khi các em chờ đợi đi làm. Không ngờ bà Thuần mỉa mai, “các em ở nhà đã khổ quá nhiều, phải để cho chúng nghỉ ngơi rồi còn đi học, chị ấy làm có một bữa cơm đã mệt nhọc gì lắm, người ta còn làm quần quật tới khuya mới đi ngủ mà có ai kêu ca gì đâu.” Rồi bà phán luôn: “Từ mai công việc nhà đã có bố mẹ lo liệu xếp đặt lại, các con cứ việc đi làm như thường, cuối tháng đưa hết tiền lương về để bố mẹ giữ chi tiêu, còn lại bao nhiêu sẽ giữ cho con.”

    Ngày hôm sau ông bà Thuần gọi các con Tảo, Tú về họp gia đình, ông bà phán rằng Tảo đã có con chia lương tứ lục và Tú trừ tiền chi tiêu góp với anh chị còn bao nhiêu cuối tháng đưa về nộp cho bố mẹ để phụ nuôi bố mẹ và các em. Các cô dâu tròn mắt ngạc nhiên ngồi nghe ba người con trai thay nhau giải thích xin bố mẹ thông cảm và thích nghi với đời sống ở đây, các con vẫn hiếu thảo với bố mẹ, xin đừng tước đoạt hết tự do của các con.

    Ông bà Thuần chỉ hiểu rằng đã có công sinh dưỡng, nay các con phải báo hiếu bằng vâng phục tuyệt đối giống như nếp sống ở nhà.

    Người đầu tiên chịu búa rìu là Ái Mỹ. Bị nhiều lời chỉ trích cay đắng thô lỗ, Ái Mỹ ra điều kiện với Tân không thể sống chung. Tân không lay nổi lòng cố chấp của ông bà Thuần. Ái Mỹ đành từ giã ra đi. Từ đây Tân về nhà không còn cảm thấy gia đình đoàn tụ như chàng thường mong ước nên lại đi tìm chén rượu cuộc vui cho khuây khỏa qua ngày.

    Vợ chồng Tân bỏ đi, ông bà Thuần đòi về ở chung với Táo và Tú. Đã có kinh nghiệm, cả hai anh em kiếm một căn nhà cách xa chỗ đang ở, đưa ông bà Thuần và các em ở riêng biệt, để các con lui tới thăm viếng giúp đỡ. Các con ông bà Thuần phàn nàn với nhau nếu biết bố mẹ còn giữ hủ tục quá tham lam, họ đã không bảo lĩnh tới đây, cứ gởi tiếp tế về nuôi bố mẹ lại hay hơn.

    Đây là một trong những hoàn cảnh trớ trêu hiện đang xảy ra trên đất nước ăn tạm gửi nhờ này. Thế nhưng bên cạnh những câu chuyện khó nghĩ như kể trên lại có những hoàn cảnh khác xảy ra một cách êm đẹp để chúng ta phải suy nghĩ.

    Câu truyện thứ hai xẩy ra như sau:

    Chợ Việt Nam vào ngày Chủ nhật, thứ Bảy thường đông người từ sáng đến chiều, ai cũng chờ ngày nghỉ mới đi chợ mua thức ăn cho cả tuần. Đi chợ gặp nhau luôn để quen biết, nhất là các bà gặp nhau có đủ chuyện vui buồn phải xả ra cho thảnh thơi trong tâm hồn.

    Tới chợ gặp mấy ông bà H.O. hay những ông bà đi đoàn tụ mới tới, rất dễ nhận vì vẻ mặt ngơ ngác, cách phục sức, lại là đầu đề cho các bà đã quen nhau từ trước. Trong số có bà Bát sẵn tính vui vẻ hay nói, bà kể:

    -Các bà đừng nghĩ ai cũng như ai, như ông bà Phấn ở gần nhà tôi, từ ngày tới đây ở chung với con trai con dâu tôi chưa thấy gia đình nào hạnh phúc bằng. Ông bà Phấn còn đưa theo sáu người con vừa trai vừa gái, khi lãnh tiền trợ cấp cũng như bây giờ đi làm có lương được bao nhiêu, bà Phấn đưa hết cho con dâu để góp chi tiêu trong nhà, không bao giờ ông bà phàn nàn hay đòi hỏi điều gì, ông chỉ nói với đông người ăn có đủ chi tiêu không?

    Người con dâu thấy thừa tiền trả lại ông bà Phấn không nhận, chỉ nói cám ơn các con để cho ở chung tìm việc làm cho các em lớn, em bé được đi học, bố mẹ cám ơn các con, số tiền còn dư con cứ giữ lại để lo cho các em sau này khi cần đến.

    Người con dâu nói với tôi rằng chưa bao giờ cháu được sung sướng như bây giờ, đi làm về tới nhà cơm đã dọn sãn trên bàn, các cháu bé đã được ăn trước, đã tắm rửa sạch sẽ, các cô em đã bế dẫn đi chơi, và mẹ chồng thường hỏi cô muốn ăn món nào khác để chiều theo ý, ăn xong các em đã tự động thu dọn sạch sẽ ngăn nắp. Cha mẹ chồng cháu thật là những người hiểu biết lịch sự. Tuy nhiên cháu cũng cẩn thận những số tiền cháu giữ cho các em khi cần để trả lại.

    Cha mẹ sinh con, nuôi nấng từ tấm bé đến lúc khôn lớn, không quản khó nhọc, thì sự hiểu đễ, kính yêu của con cái dành cho cha mẹ lúc tuổi già là một đền bù và càng làm tăng tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái. Tuy nhiên, cha mẹ nên tôn trọng tự do cũng như nhân cách của con cái vì cha mẹ chỉ tạo ra xác thân phàm tục của con người còn chính tự do và nhân phẩm mới tạo nên con người.

    Cha mẹ không nên lấy quyền làm phụ mẫu mà khống chế, tước đoạt tự do của con cái, ngay những lúc nóng giận cũng nên kềm chế, không nên dùng bạo lực trên thân xác con cái dù khi chúng còn nhỏ. Đây chỉ là một sự góp ý trước những hoàn cảnh xảy ra chung quanh, còn vấn đề áp dụng cho từng hoàn cảnh là tùy trường hợp cá nhân.

  10. #20
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,834



    20- Kiếp Người




    Tâm đi học về tới nhà quăng vội cặp sách trên bàn, chạy vào rảo miệng nói:

    -Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con đi học về, mẹ ở đâu?

    -Ờ, ờ mẹ đây, mẹ ra ngay. Sao con đói rồi hả? Mẹ dọn cơm nhé, hay đi tắm rồi thay quần áo cho mát mẻ rồi hãy ăn cơm.

    Mẹ còn hâm lại đồ ăn. Tâm phụ mẹ lấy bát đũa để sẵn ra mâm. Biết con thích ăn cá chiên, hôm nào bán hết hàng sớm bà Năm cũng vào chợ tìm cá tươi về chiên cho con ăn. Cả hai cùng ngồi ăn cơm, nhưng mẹ hay đứng lên lấy cái nọ bỏ cái kia rồi nói con cứ ăn xong trước đi, có ý nhường cho con ăn rồi mẹ sẽ ăn sau. Ăn xong trước bao giờ mẹ cũng bảo Tâm đi ra ngoài chơi.

    Một hôm Tâm ra ngoài chơi nhớ đến quả bóng để quên ở nhà, về nhà Tâm xuống bếp vừa gặp mẹ ăn cơm với đĩa cá mà Tâm đã ăn hết thịt còn xương mẹ đang mút lại, tự nhiên nó thấy thương mẹ quá và hiểu ra từ trước đến giờ mẹ đã nhịn cho Tâm ăn. Từ hôm sau Tâm không chịu ăn cơm trước mẹ. Sau khi học bài xong bao giờ mẹ cũng bảo Tâm đi ngủ trước để mẹ còn làm nhiều việc.

    Tâm có người cha đã bỏ mẹ con Tâm từ lúc Tâm mới biết bò biết gọi bố. Mẹ Tâm âm thầm nuôi con. Thỉnh thoảng nó bắt gặp mẹ ngồi khóc một mình. Tâm định lại yên ủi mẹ thì mẹ nó cố gắng cười gượng đứng lên không muốn cho Tâm phải khổ lây. Tâm có hỏi sao mẹ khóc, mẹ cứ đánh trống lảng đáp: Không có sao cả, rồi đi lấy bánh kẹo mẹ đã mua sẵn để dành đưa ra cho Tâm ăn. Lâu lâu Tâm gặp bố, một người đàn ông khỏe mạnh đi xe đạp vô nhà, gọi Tâm ra, ôm Tâm vào lòng hỏi:

    -Con có khỏe mạnh không? Con học đến đâu rồi? Lớp mấy? Con chịu khó học, lần sau bố về sẽ mua giầy mới cho con.

    Nghĩ đến giầy trong lòng Tâm đã rộn rã mong muốn, mỗi khi đi học trông thấy các bạn có giầy mới, trong lòng nó ước ao có đôi giầy, đôi dép cao su con hổ cũng quý lắm rồi. Nó ngước mắt nhìn bố hỏi:

    -Bao giờ bố về nữa bố mua cho con đôi giầy bata như bạn con nhé!

    Đang lúc thích thú mơ tưởng về đôi giầy mới, thì bố nó bảo khẽ đi chơi chỗ khác lúc nữa hãy về.

    Vâng lời bố, nó đi chơi một lúc, khi trở về, tới sân đã thấy bố dắt xe đạp ra đi, trông bố sao mà dữ thế. Mặt bố đỏ sẫm khác thường. Nó ngơ ngác nhìn bố không dám hỏi câu nào cho đến khi bố dắt xe ra khỏi nhà. Tâm vào nhà tìm mẹ, thấy mẹ đang khóc sưng cả hai mắt, nó vội tìm khăn mặt nhúng nước đưa cho mẹ. Cứ cách ít lâu cảnh trên lại tái diễn. Lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng nói hỏi mẹ:

    -Sao bố không ở nhà, cứ mỗi lần bố về mẹ lại khóc?

    Mẹ nó trả lời:

    -Bố không muốn ở nhà với mẹ con mình nữa, bố đi theo người đàn bà khác rồi. Mỗi lần bố về chỉ muốn đuổi mẹ con mình đi về ở với ông bà ngoại, để bố bán nhà cho người khác, mẹ không chịu đi mẹ phải cố giữ căn nhà này để mẹ con mình ở, bố chửi, đánh mẹ cũng phải chịu, bằng giá nào mẹ cũng cố níu giữ lấy nhà.

    Nói dứt câu mẹ lại khóc. Nó thấy thương mẹ vô cùng và không còn nghĩ tới hay mơ tưởng gì đến ngày bố về cũng như đôi giầy mới.

    Hiệp định Genève tới, người ta lo bán đồ đạc thu xếp vào Nam, mẹ con Tâm cũng thu xếp để sửa soạn đi, Tâm cũng được mẹ khoác lên vai cho chiếc bị cói trong có vài tập vở và quyển sách tập đọc thêm con quay là đồ chơi duy nhất. Trên đầu đội mũ cói, hai mẹ con ra tới sân bay còn quay lại đứng tần ngần nhìn căn nhà đã bàn giao cho chủ mới.

    Nhờ thế có món tiền để hai mẹ con làm vốn sinh sống khi vào Nam, món tiền mà mẹ nó đã cẩn thận để vào túi áo trong lấy kim băng cài thật kỹ, món tiền đã đổi bằng bao nước mắt, những lời hằn học chửi mắng, những cái tát tai xưng mặt nổ đom đóm mắt mỗi khi anh chồng dại gái bị gái súc xiểm đã lấy đi những đồ vật thứ gì có thể lấy được, chỉ có căn nhà đòi bán không được đã vấp phải ý chí cương quyết của người vợ cố giữ lại cho con mình.

    Vào Nam mẹ con Tâm yên định chỗ ở, được chính phủ giúp đỡ, Tâm có áo mới giầy mới đi học, lên 10 tuổi thi bằng Sơ học mẹ đã để dành mua cho Tâm chiếc xe đạp nhỏ, lên Trung học Tâm cũng được mẹ mua cho xe gắn máy như các bạn cùng lớp, đời Tâm thung dung không phải lo lắng gì để hết tâm trí vào sự học.

    Chỉ một mình mẹ với gánh rau trên vai, ra đầu đường đón xe lam đưa hàng xuống các chợ thành phố để bán, chiều về mẹ đã nấu cơm Tâm cũng phụ mẹ. Sau bữa cơm Tâm vào bàn học, mẹ đã đi lấy hàng sẵn cho ngày hôm sau. Với lòng thương con, chịu khó thức khuya dậy sớm buôn bán chắt chiu, mẹ đã cung ứng cho Tâm đầy đủ thứ cần. Từ ngày lên Đại học Tâm còn được mẹ chiều hơn, mẹ hay bỏ tiền vào túi để Tâm tiêu vặt hay cần mua sách vở ít khi phải xin tiền, có khi mẹ còn giục đi xinê để giải trí.

    Cả một cuốn phim dĩ vãng quay lại trong đầu Tâm, thương mẹ cả một đời vất vả khó nhọc, quạnh hiu, cô độc nuôi con một mình ăn học, về già, yếu đau chỉ trông nhờ tin cậy vào con. Nhưng cuộc đời không mãi mãi như thế.

    Một hôm Tâm và Lựu gặp nhau trong tiệc cưới, người bạn giới thiệu mời Tâm đến thăm nhà Lựu. Tâm được cả gia đình chiều chuộng, vồn vã, cho phép Tâm lui tới làm quen tìm hiểu. Sau một thời gian chín mùi, Lựu giục Tâm tiến đến hôn nhân.

    Cũng đúng lúc ấy bà Năm đã có ý định tìm con dâu, gặp dịp Tâm thưa với mẹ đưa ý muốn lấy Lựu. Chàng nghĩ mẹ sẽ vui vẻ bằng lòng, trái lại bà Năm đã có ý định chọn một cô con bà bạn thân mà bà đã xem xét cẩn thận từ lời ăn tiếng nói đến cách cư xử, hiểu đễ với cha mẹ, thùy mị, nết na, chỉ chờ Tâm học xong có việc làm sẽ xin cưới.

    Cả hai mẹ con đều bảo vệ lập trường của mình. Tâm thưa với mẹ:

    -Con không thể lấy người mà con không yêu, ngoài Lựu ra con không lấy ai cả. Lựu cũng là con nhà nề nếp hiền thục.

    Tâm đã nhiều lần năn nỉ mẹ, bà Năm vẫn không chịu, bà chỉ muốn Tâm lấy cô con gái bà bạn người mà bà đã để ý kén chọn bằng kinh nghiệm bà nhận thấy đây là người con hiếu thảo, có trung có nghĩa, biết thương yêu hay giúp đỡ người nghèo rất hợp với bà. Quyết liệt hơn, bà bảo thẳng Tâm:

    -Mẹ chỉ có một con, nếu con lấy con Lựu theo mắt mẹ nhận xét mẹ không thể ở chung với con được.

    Tâm thật buồn không còn dám đả động về việc hôn nhân. Ngày đại biến 30-4-75 ập đến, mẹ con bà Năm cũng như gia đình Lựu đã may mắn đều có mặt ở trại tỵ nạn ở Mỹ; Lựu và Tâm đã gặp nhau nối lại mối tình cũ. Tâm Lựu nhờ nhiều người quen nói giúp với bà Năm để hai người được về chung sống với bà Năm.

    Cuối cùng vì thương con, nơi đất khách quê người không dễ gì tìm được người nào vừa ý mính, bà Năm đành chiều lòng con. Vốn tính cẩn thận, bà Năm đã nói trước cho Lựu hiểu gia cảnh hiện tại và bổn phận người con dâu với ít điều trái ý Lựu, vì hoàn cảnh khó khăn Lựu cúi đầu vâng lời.

    Được bảo trợ ra khỏi trại, định cư an toàn, Tâm và Lựu sẵn có căn bản học vấn đã dễ dàng tìm được việc làm, tối về học thêm; bà Năm ở nhà giữ việc nội trợ, rồi mỗi năm bà lại có thêm cháu để bồng làm cho bà bận rộn thêm nhưng thích thú với việc hầu con hầu cháu. Bà vẫn cố gắng chu toàn công việc nhà coi sóc cháu để các con đi làm.

    Nhưng rồi mỗi ngày bà lại nhận ra người con dâu có những lời nói thái độ đối với bà ít kính nể, dần dà coi bà chỉ là người vú già không công. Bà Năm cũng biết muốn đi đâu làm gì cũng phải lệ thuộc vào con vì bà không biết nói hay hiểu được luật lệ phong tục nơi đây. Rất may mắn bà được chính phủ trợ cấp một số tiền nhỏ hằng tháng bà cũng góp với con để khỏi mang tiếng ăn nhờ ở đậu. Bà cố gắng giữ lấy hòa khí trong gia đình, bà vẫn biết địa vị của bà không còn được kính nể như xưa.

    Thời gian qua mau, các cháu lớn dần, nếu cháu này đi học lại tới cháu khác, bây giờ tất cả các cháu đã cắp sách đến trường, bà chỉ còn chờ đến ba giờ chiều, đứng chờ mở cửa cho các cháu đi học về.

    Bất hạnh đã đến với bà, bà trượt chân ngã bị đứt mạch máu nhưng nhờ sự tận tình cứu chữa của bác sĩ, sau ba tháng nằm ở nhà thương bà trờ về nhà trên chiếc xe lăn. Giang sơn của bà nay chỉ thu gọn trong một căn phòng được dành riêng từ trước.

    Với xe lăn từ phòng ra tới bếp, ngày hai lần ăn cơm một mình do Tâm đã nấu sẵn cho mẹ, ăn xong bà lăn xe ra nhìn trời đất, cây cỏ qua khung cửa. Bà sống bên cạnh một sự im lặng não nề, cái im lặng huyền bí mông lung mà Đấng linh thiêng đã cấu tạo vũ trụ giao cho con người quản lý. Mà đời người sống được bao lâu? Nay còn mai mất, như một giấc mơ như đóa hoa sớm nở tối tàn.

    Bây giờ con dâu không muốn nhìn thấy mặt bà, vô tình đôi bên có gặp nhau, là lại nhận được ánh mắt dữ dằn của con dâu và những lời cay độc chửi con để ám chỉ đến bà.

    Trước nghịch cảnh ấy Tâm chết đứng trong lòng. Qua bao nhiêu năm mẹ anh cố gắng chịu đựng giữ hòa khí trong gia đình. Tâm không ngờ mình đứng trước cảnh ngang trái gai góc, bổn phận hiếu để thương mẹ, bổn phận gìn giữ gia đình để vợ khỏi chia lìa tan tác. Tâm hối hận đã không nghe lời mẹ, càng phục mẹ đã kinh nghiệm nhận xét tính nết Lựu và người chỉ nghĩ đến bề ngoài, tính toán vật chất.

    Lựu lấy anh phần lớn vì mảnh bằng kỹ sư sinh hóa để tìm việc làm với đồng lương khả quan, chiều bà mẹ già để coi con, coi nhà, cho đến bây giờ mẹ tàn tật không còn giúp ích được việc gì, nên nàng trở mặt hỗn láo với mẹ, chỉ muốn đuổi mẹ ra khỏi nhà. Lấy cớ khi xưa bà ấy làm khó dể không chịu cưới mình thật đáng ghét, bây giờ được dịp trả thù. Chồng mà ra mặt bênh mẹ Lựu dọa ly dị, phần thua thiệt mẹ con Tâm ráng chịu. Lựu là con người lý tài dù đã bao năm qua nàng vẫn nuôi dưỡng sự thù ghét bà Năm trong lòng.

    Sự thù ghét chỉ gia tăng đến nỗi tình yêu và bổn phận vợ chồng đã không còn chỗ đứng. Nàng đã không tạo được hạnh phúc gia đình mà còn đẩy gia đình vào chỗ không còn lối thoát. Hạnh phúc gia đình không phải tự nhiên mà có mà mỗi người trong gia đình phải cố gắng vun trồng để tạo nên hạnh phúc thực sự.

    Người ta quên hay cố ý quên rằng “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”. Bố mẹ bất hiếu với ông bà, con cái cũng sẽ bắt chước đối xử lại với cha mẹ y như thế.

 

 

Similar Threads

  1. Giòng Đời Xưa và Nay - Tuyết Minh
    By frankie in forum Nhân Văn
    Replies: 31
    Last Post: 09-21-2022, 12:59 PM
  2. Câu chuyện người tỵ nạn
    By thuykhanh in forum Lượm Lặt Khắp Nơi
    Replies: 0
    Last Post: 04-01-2016, 11:49 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 01-25-2013, 08:46 PM
  4. Chuyện muôn đời của loài người.
    By mimi-lyn in forum Tâm Tình
    Replies: 4
    Last Post: 04-03-2012, 05:04 AM
  5. Replies: 26
    Last Post: 03-24-2012, 06:42 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 03:36 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh