Register
Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 19
  1. #1
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822

    Những kẻ lạ - Tập truyện Mặc Bích



    Những Kẻ Lạ


    Mặc Bích




    Project phải nộp trong vòng một tháng đối với Phương quá vội vã, không đủ thì giờ! Năm con người, cả nam lẫn nữ, và phải là những người xa lạ? Người thầy giáo đã nghĩ ra những đề tài quái gở!!! Làm quen, bắt chuyện và ghi lại, rồi nhớ và về nhà vẽ lại 5 người đó. Sao nhiều chuyện thế cho năm học cuối! Cũng chỉ là một trong những đề tài phải làm, nhưng tốn quá nhiều thì giờ, công sức. Nguyên chuyện làm quen, hỏi chuyện đã không phải dễ đừng nói đến chuyện gì khác! Phương thở dài khi đóng cửa phòng.

    Chiếc thang máy mới trong khu chung cư trườn từ lầu 3 xuống lầu 1 êm ru. Bỗng dưng Phương lại nhớ cái thang máy cũ kiểu cổ được làm từ năm 1940 khi căn chung cư mới được xây. Nó xọc xạch và có những tiếng động mà thoạt tiên mới đến tưởng đâu thang máy sẽ ngưng nửa chừng hay tuột dây đi một lèo! Vậy mà bây giờ lại nhớ!

    Ngày Chủ Nhật đầu tháng 9, trời đã dịu hơn với những cơn mưa bất chợt. Mưa ở Manhattan đổ xuống đột ngột như lũ. Lúc nào Phương cũng mang sẵn chiếc dù nhỏ dù không có vẻ gì là trời sẽ mưa. Phải đổi hai lần xe điện ngầm mới lên tới Central Park. Ngày nghỉ nên không đông, nhưng người ta vẫn có thói quen vội vã chạy xuống hầm chờ tàu điện đến. Chẳng ai để ý đến ai, chỉ ngong ngóng đợi. Đợi cái âm thanh rầm rập của những bánh xe, những ánh đèn loang loáng quét trên đường rầy đen đủi bụi bậm mà thỉnh thoảng vài chú chuột thành phố béo mập từ ngõ ngách nào chạy tuột ra rồi thoắt lại vụt vào bóng tối.

    Phương đang tiếc một ngày chủ nhật không được dậy muộn! Ước ao duy nhất trong lúc này là được ngủ vùi trên tấm nệm trong căn gác trọ chung với Erika, cô bạn gái người Đại Hàn có khuôn mặt như một con búp bê bằng vải.

    Ngồi trong tuyến xe điện đang lao đi lắc lư, Phương nghĩ đến những điều mình phải làm trong ngày hôm nay. Những chữ “phải .., phải .., phải ..” tiếp nối nhau như thúc giục và đẩy nàng nhìn tới trước. Cái nhìn của Phương chợt đụng vào gương mặt mệt mỏi chảy dài với hai bên khóe đổ xuống của một thiếu phụ da màu có mái tóc nhuộm vàng quạch, khô như cỏ cháy. Cổ áo rộng trễ một bên lộ một phần ngực trần, không thách thức mời mọc nhưng chỉ như một xác định thêm về sự mệt nhoài hiển nhiên.

    Bà ta cũng nhìn Phương. Cặp mắt không có mầu rõ rệt, dường như lẫn với màu da nâu vàng, lẫn với mầu tóc, lẫn cả với những ù lì trong dáng ngồi buông thả mà hai chân xoạc ra như kênh nỗi chán chường để phô bầy trọn vẹn những điều không cần nói.

    Trong đầu Phương lóe lên một ý tưởng: “Đây là một đề tài tốt để vẽ! Nhưng không dễ bắt chuyện! Thái độ đó như một căn nhà với nhiều cửa kính nhưng đóng chặt. Trong khung cảnh này cũng khó! Thì giờ cũng không có bao nhiêu. Bà ta có thể xuống bất cứ trạm nào gần nhất”.

    Đúng như Phương dự đoán, thiếu phụ uể oải đứng lên ở ngay trạm ngừng đầu tiên. Bà ta đi ra khỏi toa xe như một bóng ma thất thểu. Mà có lẽ cũng chẳng ai chú ý đến ai. Ở đây là thế. Nếu mà người đàn bà có cởi tung quần áo ra ngay đó, cũng chẳng ai thèm để tâm! Người ta còn những băn khoăn khác.

    Đến trạm thứ nhì, Phương theo đoàn người hối hả từ đường hầm chui lên khỏi mặt đất. Bên trên, ánh sáng vỡ lòa. Có gió mát và những tiếng kèn xe inh ỏi. Nàng sang bên kia đường, lại xuống một đường hầm khác để bắt kịp chuyến xe điện thứ hai.

    Mười lăm phút sau, Phương đến Central Park. Mọi sự đều khác, đẹp đẽ hơn, sạch sẽ hơn và đương nhiên sang trọng hơn nhiều lắm.

    Công viên rộng mênh mông nằm ngay giữa thành phố, thản nhiên chiếm những phần tốt đẹp nhất để trả lại cho những con người thành phố chút thiên nhiên và yên tĩnh, dù là giả tạo và tạm bợ. Có lẽ, đôi lúc người và người đều cần những giả tạo và tạm bợ đó, như cần nước, cần thở.
    Last edited by frankie; 03-30-2023 at 07:53 AM.

  2. #2
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822



    1- Thành Phố Đã Mất



    Phương lững thững khoác chiếc xắc tay khá lớn lên vai băng ngang đường số 15 Central Park Ave. để vào công viên. Vài chiếc sạp nhỏ bên ngoài bày bán kỷ vật hay hot dog. Mùi xúc xích nướng thơm lừng lẫn với mùi phân ngựa và cỏ thoảng trong gió. Phương đảo mắt tìm những mục tiêu. Phía trước nàng, vài người chạy bộ ngược chiều. Xa hơn có hai người đi bách bộ. Chắc không còn trẻ với những phần lưng hơi cong và dáng đi nặng nhọc. Người trẻ có lẽ dễ làm quen hơn? Để xem. Những con đường trải sỏi vòng bên trong công viên lên xuống thoai thoải đưa sâu vào bên trong. Phương không còn nghe thấy tiếng xe cộ bên ngoài mấy. Bên bờ cỏ thỉnh thoảng có người ngồi dựa gốc cây đọc sách hay ngắm trời mây, nhưng khách tản bộ là nhiều nhất.

    Ngang một băng đá, người đàn ông mập mạp, da đen nhánh nhe răng cười với Phương. Hàm răng trắng bóc hổng một lỗ trống ngay đằng trước với đôi môi thâm xì dầy cộm đang trễ xuống theo nụ cười. Nụ cười hiền hòa thân thiện làm Phương muốn làm quen. Mục tiêu này được đây, nàng thầm nghĩ và Phương cũng cười lại, chân dừng bước.

    Ông ta nói trước:

    -Trời đẹp quá!

    Trong đầu nàng nghĩ ngay đây là một người homeless. Thế này là dễ bắt chuyện lắm.

    Phương khởi đầu bằng câu phụ họa:

    - Hy vọng hôm nay không mưa.

    - Cô bé không coi thời tiết sao? Không có mưa đâu.

    Nàng tính nhanh trong đầu để làm sao đi vào vấn đề ngay. Phương chỉ có 4 ngày chủ nhật cho 5 con người!

    Phương ngồi xuống băng ghế đá cạnh ông ta rồi đưa đẩy vào chuyện luôn.

    - Ông ở đây hả?

    - Tôi mới đến đây thôi. Còn cô?

    - Tôi là sinh viên, học ở đây.

    Ông ta gục gặc cái đầu gọn lỏn với đám tóc xoăn tít sát da ở đỉnh nhưng lại có những lọn tóc khác dài hơn xõa ra ở hai bên.

    - Cô ở đây thích không?

    - Dạ thích chứ. Thành phố lớn, trường học cũng nhiều, nhiều thứ để học hỏi.

    - Tốt, tốt lắm.

    - Ông thích thành phố này không?

    - Cũng OK thôi.

    - Hồi trước ông ở đâu?

    Phương xoay hẳn người để nhìn mục tiêu. Nàng cần phải nhớ từng chi tiết trên mặt người này.
    Người đàn ông da đen không biết bao nhiêu tuổi, 35, 40, 50? Cái mũi bè bè thật to nằm ngay chính giữa mặt như ngăn cho phần má hai bên tách riêng, mỗi nơi một cõi. Cái đầu mũi tròn ủng khoằm xuống nhìn vành môi tim tím, tai tái đang vểnh lên trong cái trề môi kèm theo cái nhún vai khi nói:

    - Ở một nơi chẳng còn nữa..

    Phương tò mò nhìn ông ta kỹ hơn nữa. Dù làn da đậm màu, nhưng dưới ánh nắng nàng vẫn nhìn thấy những nếp gấp ở trên vầng trán không cao lắm, ở hai bên mép kéo thành vệt xuống chiếc cằm vuông hơi bạnh ra. Những sợi râu xám trắng thấp thoáng ở cằm. Nàng lại hỏi:

    - Là ở đâu vậy?

    - Ở một nơi không ai muốn đến nữa!

    Phương càng tò mò.

    - Chỗ nào ghê vậy?

    - Cơn bão Katrina thổi tôi trôi dạt tới đây.

    Phương mở to mắt. Té ra ông ta không phải là người vô gia cư như nàng nghĩ. Nàng buột miệng:

    - Ông từ New Orleans?

    Đôi mắt có hình tam giác vì nhích lên ở chính giữa và sụp xuống hai bên của người đàn ông sáng lên như bắt gặp một thứ gì đang kiếm tìm. Ánh mắt đó thay cho câu trả lời.

    Tự dưng Phương không biết phải nói gì hơn. Những hình ảnh trên màn hình TiVi cách đây nhiều năm về những tàn phá của trận bão Katrina đã đi vào lịch sử, không ai là không biết!

    - Cô học gì ở đây?

    - Tôi học về mỹ thuật. Năm cuối của chương trình này.

    - Vậy thì cô nhậy cảm với những cái đẹp, cái xấu, hơn một người bình thường.

    Điều này có lẽ đúng, Phương nghĩ vậy và nàng đáp:

    - Tự nhiên như vậy, tôi có muốn thế đâu.

    - Đó là một tài năng Trời cho, cô phải biết cám ơn đã được như thế.

    - Cám ơn? .. Tôi chỉ nghĩ đến như một hướng đi. Còn ông thì sao?

    - Cô đoán coi!

    Phương lại được dịp quan sát ông ta kỹ hơn nữa. Cổ bạnh ra nối với đôi vai rộng vạm vỡ. Chiếc áo thung màu trắng cụt tay sáng rỡ trên làn da đen nghịt. Cánh tay không có những bắp thịt của một người lao động hay chơi thể thao. Mà trông ông ta cũng không có dáng vẻ của một người tất bật khuân vác nghèo nàn. New Orleans, cái tên gọi, thành phố và những cư dân, rồi đời sống.. ? Tự dưng Phương nghĩ đến nhạc jazz!

    - Ông có phải là nhạc sĩ không?

    - Nếu tôi bảo đúng thì cô nghĩ sao, và ngược lại nếu tôi bảo tôi làm nghề chài lưới thì cô thấy thế nào?

    - Tôi hỏi ông có một mà ông hỏi lại hai ba!

    Ông ta, tên gì không biết, ngửa cổ lên cười khằng khặc. Nụ cười thỏa thuê khi cả người, cả khuôn mặt, những thớ thịt rung rung nhún nhẩy thoải mái theo lồng ngực lên xuống phập phồng. Cái miệng được dịp phô bày hết bao nhiêu răng, cái còn cái mất.

    Phương hơi khó chịu khi có cảm giác là mình bị trêu ghẹo.

    Ông ta biết ngay nên cố nín cười rồi lắc đầu:

    - Tôi.. chơi nhạc.. chuyên nghiệp.

    - Saxophone? Trombone? Clarinet? Drum, Trumpet?

    Ông ta giơ tay lên như đầu hàng khi trả lời:

    - Một thứ thôi. Saxophone.

    - Bây giờ ở đây, ông chơi nhạc ở đâu?

    Tất cả những nét rạng rỡ lúc ban đầu bỗng dưng biến mất, chìm sâu dưới làn da đen xậm như trời đang sáng bỗng dưng tối đen! Cái miệng khép lại, như câu chuyện đến đó là dứt.

    Ông ta không trả lời mà Phương cũng không hỏi gì thêm. Có lẽ câu hỏi vội vàng của nàng đã đưa ra không đúng lúc. Dù sao nàng đã nhớ khá kỹ những đường nét trên gương mặt này, mục tiêu thứ nhất!

    - Tôi không còn chơi nhạc nữa!

    Câu nói bất ngờ làm Phương ngạc nhiên, nhưng nàng không dám hỏi thêm. Sự yên lặng của Phương bên cạnh ông ta như cây như cỏ quanh đây, như mây như trời trên kia, dửng dưng mà an toàn, có nghe đấy rồi bay mất, mất tiêu.

    Quay sang nhìn Phương, ông ta có vẻ ngạc nhiên khi không còn thấy nàng liến thoắng như lúc trước.

    - Cô không thắc mắc vì sao ư?

    Phương nghiêng đầu nhìn bầy vịt trắng bóc đang lạch bạch xuất hiện từ sau triền đồi. Có lẽ bên dưới có hồ nước? Nàng trả lời mà mắt vẫn không rời bầy vịt ở đàng kia:

    - Tôi hỏi nhiều quá, làm phiền ông.

    Nàng không nhìn ông ta nữa. Trí nhớ nàng đã thu thập đủ những điều phải ghi lại trên giấy.

    - Không sao. Ở đây, giữa thành phố này buồn quá! Chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ rằng mình sẽ sống ở đây. Nơi đây và nơi tôi sinh ra lớn lên sống bao năm, khác nhau nhiều quá! Sự khác biệt làm chới với. Trong biển người ở đây, mỗi người chỉ là một con số.. Chỉ có ngồi ở đây nhìn trời đất cây cỏ là mới thấy yên được đôi chút. Yên cái đầu mà không yên được ..

    Ông ta chỉ vào ngực lắc đầu:

    - Ở đây nó không chịu yên!

    Định không nói gì nữa, nhưng không hiểu sao trên môi Phương lại mấp máy thành một câu hỏi khác dù mắt nàng vẫn nhìn về hướng bầy vịt đang le te tiến lại gần:

    - Ông có trở lại New Orleans lần nào không?

    - Một lần!

    - Ông không muốn trở về đó sống sao?

    - Không còn ai! Thành phố đã mất. Thật đấy!

    Câu nói còn hơn một tiếng thở dài, rơi vào khoảng không gian thanh thoát rồi tan loãng.

    - Lần đó tôi về, tưởng là được về luôn! Thành phố, người quen đâu hết. Về thành phố cũ mà mình lại thành kẻ lạ!

    Câu trả lời đến đó rồi chìm đi, dường như có chút ký ức chợt loé lên nhưng không gầy lên nổi một hình ảnh nào rõ rệt trong khung cảnh này.

    Tưởng rằng câu chuyện thế là dứt, nhưng những hạt mưa bất chợt rơi xuống, lác đác hạt to hạt nhỏ mà làm thay đổi toàn diện. Người người nhốn nháo chạy mưa, trú mưa dưới những tàn cây lớn. Những màu sắc tươi sáng của trời của đất, cây cỏ đều biến dạng theo cùng một màu ảm đạm.

    Phương căng chiếc dù màu đỏ đứng dưới một cây lớn gần đó chờ ngớt mưa. Người đàn ông da đen khi nãy cũng đã chạy đến và đứng gần nàng từ lúc nào. Ông ta nhe răng cười:

    - Cho ké với!

    Phương đưa chiếc dù lên cao theo với chiều cao của ông ta. Người đàn ông cười hiền hòa nói:

    - Để tôi cầm dù cho vì tôi cao hơn cô.

    Chiếc dù đỏ chỉ che được nửa phần trên, từ đầu gối trở xuống, hai ống quần jean của Phương đã đổi sang màu xanh đậm. Nàng nghĩ đến 4 hình ảnh khác nữa phải tìm kiếm. Cơn mưa làm mất thì giờ và trở ngại cho nàng! Chán quá!

    Tiếng người đàn ông nói làm nàng giật mình. Phương hỏi lại:

    - Xin lỗi, ông nói gì?

    - Ồ, không, có gì đâu. Tôi nói một mình.. Đứng trú mưa thế này lại.. thấy buồn!

    Ông ta lại làm nàng tò mò.

    - Sao vậy?

    - Tôi nhớ đến một cơn mưa khác đã qua.. dưới hàng hiên.. Cũng mưa như thế này..

    Phương chẳng nói gì. Trước mặt nàng những vạt nước mưa thi nhau đổ xuống vội vã, chen chúc. Bầy vịt không còn thấy đâu. Nàng mong cho mưa chóng tạnh. Kể ra nói chuyện bâng quơ với ông ta cũng làm Phương đỡ nóng ruột.

    - Ông không còn gia đình ở New Orleans sao?

    Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên khi thấy Phương trở lại đề tài lúc ban đầu.

    - Cha mẹ tôi đã qua đời cả. Tôi là con một, chẳng có ai.

    - Vậy thì buồn quá! Nếu thế ông trở lại làm gì?

    Ông ta cười, tiếng cười lẫn trong tiếng mưa nghe không vui:

    - Cô còn trẻ, có tương lai. Những người như tôi hay già hơn nữa thì chỉ còn quá khứ. Dĩ vãng thường đóng những cái đinh vô hình khó quên. Tôi trở về vì cảm thấy mình thuộc về chốn ấy. Người ta cần một nơi để trở về, cần một chỗ thân thuộc.. để bám víu. Vì vậy tôi trở lại New Orleans.

    - Ông có tìm được điều ông muốn tìm không?

    - Tôi tìm được.. điều mình không muốn tìm..

    Phương không hỏi nữa vì nghĩ là ông ta sẽ nói tiếp vì những điều người đàn ông da đen này đang nói thật trừu tượng. Những cảm nghĩ và tình cảm riêng tư đương nhiên là mông lung.

    Cũng như cơn mưa, khi đã trút xuống thì không ngừng. Người đàn ông nói tiếp:

    - Một năm sau thành phố vẫn ngổn ngang và hoang phế như cơn bão mới trở lại. Thành phố thoi thóp chờ đợi những cư dân trở về. Người ở lại, người trở về dường như tắt tiếng cười. Tôi chỉ gặp toàn những gương mặt ủ dột lạnh câm, gượng gạo trong nụ cười. Nhịp sống của thành phố lạc điệu. Chỉ vài hàng quán mở cửa vì không có khách. Những cái mùi quen thuộc của thành phố như mùi cà phê thơm ngát ở góc đường, mùi thức ăn hải sản, khói thuốc quyện trong từng ngách đường.. mùi trác táng.. đâu hết cả. Chỉ thấy mùi rác, mùi bùn.. Đêm đầu tiên ở New Orleans, tôi trở lại quán rượu nơi vẫn thường chơi nhạc vào cuối tuần. Đi bộ từ đầu dẫy phố mà tôi đã sợ. Cô biết tôi sợ gì không?

    - Ông sợ cướp hả?

    Người đàn ông rú lên cười, lắc đầu:

    - Cô bé ơi là cô bé! Cướp nào đâu!

    - Vậy ông sợ gì?

    - Tôi sợ chạm vào sự thất vọng!

    - Rồi ông có thất vọng không?

    Không thấy ông ta trả lời. Phương quay sang nhìn. Da mặt ông ta vốn đã đen nay lại càng đậm mầu hơn. Tự dưng nàng nghĩ chắc người đàn ông này đang buồn lắm.

    - Chỗ đó chính là nơi tôi muốn trở về. Ở quán rượu nho nhỏ tồi tàn và cũ kỹ, có một góc là của tôi. Với cái góc tôi tối đó, chút ánh sáng và cái kèn, tôi được hoá thân để trở thành một cái gì tuyệt diệu cho chính mình... Tuyệt vời, thật như thế!

    Lần này Phương đặt câu hỏi một cách dè dặt, dường như nàng bắt đầu cảm nhận được một điều gì đó trong những lời kể của người đàn ông da đen:

    - Cái quán.. đó..

    Nàng không biết phải nói như thế nào, hay vì nàng sợ lại chạm vào nỗi thất vọng của ông ta?

    - Quán rượu vẫn ở đó nhưng đã đóng cửa.

    Tội nghiệp ông ta quá, Phương nghĩ thầm như vậy. Nhưng không hiểu sao nàng lại rụt rè nói:

    - Thành thử ra ông không chơi nhạc nữa?

    - Không, tôi chơi lần cuối.. ở ngay trước cửa quán.. dù quán đóng cửa. Tôi mang kèn đi theo.. và muốn được chơi một lần.. Không có đèn sân khấu, nhưng có đèn đường. Ở khoảng cuối đường này các cửa tiệm khác đều đóng cửa, không hiểu tạm thời hay vĩnh viễn nên chẳng có một bóng người... Rác rưởi đầy đường.. Chỉ có mình tôi, nỗi buồn, thất vọng và cô độc. Chưa bao giờ tôi chơi nhạc mà lại không có khán giả. Ngày hôm ấy.. quả thực tôi chơi nhạc cho sự mất mát của chính mình, cho những lề đường không một tiếng chân người qua lại. Còn nữa chứ, cho những bảng hiệu đóng cửa nghiêng ngả, cho những ổ khóa bắt đầu rỉ sét, cho những vách tường gạch ngả rêu, và cho sự câm nín vô vọng của một thành phố mà người ta không còn muốn nhớ đến.. Tôi đã chơi nhạc liên tục cho đến khi không còn hơi sức mà thổi kèn nữa..

    Không thấy ông ta kể tiếp. Câu chuyện của ông ta buồn quá.

    Cơn mưa nhẹ hạt hơn nhưng vẫn chưa tạnh hẳn. Chao ơi, mất bương một ngày Chủ Nhật rồi! Phương than thầm.

    Có lẽ biết ý, ông ta nói với nàng:

    - Gần tạnh mưa rồi, nếu cô cần đi thì cứ đi đi. Tôi đứng chờ ở đây không sao.

    Phương nhìn dò hỏi:

    - Ông OK hả? Xin lỗi tôi còn nhiều bài vở phải làm cho ngày mai. Thật ra chờ thêm một lúc nữa cũng được.

    - Cám ơn.. cô bé đã kiên nhẫn nghe một người già nói lẩm cẩm..

    Phương không biết phải trả lời thế nào, nàng chỉ cười.

    Nhưng rồi bỗng dưng nàng hơi áy náy vì người đàn ông này không hề biết ông ta sẽ trở thành project số 1 của nàng! Khuôn mặt của ông ta sẽ được cả lớp quan sát. Và như vậy thì đúng là ông ta đã trở thành một con số trong thành phố này thật.

    - Thôi, chào ông nhé!

    Ông ta nhếch miệng cười, nụ cười như Phương nhìn thấy thoạt ban đầu.

    Chiếc dù đỏ của Phương trở thành một cái chấm rực sáng di động dưới làn mưa lất phất. Người đàn ông trung niên da đen nhìn theo cái chấm đỏ đang xa dần. Điểm màu rực sáng ấy thu nhỏ, thật nhỏ và biến vào trong mưa.. Ông ta vẫn không đổi tầm nhìn như đó là một điểm cố định. Những hạt mưa chợt thưa đi, kẽ lá xanh hơn, nhưng vẫn không dứt. Những giọt buồn nối tiếp nhau, lan man như những hình ảnh trong đầu ông ta đang liên tục xô đẩy nhau kéo về che khuất mọi sự vật chung quanh.

    Cái kèn đồng, những âm thanh và góc tối ở quán nhạc tuy chật hẹp nhưng là chốn an toàn nhất để ông làm lại cuộc đời thành một người lương thiện. Âm nhạc đã cho ông cơ hội bước vào những cung bậc đẹp đẽ và vượt trên những ham muốn của đời thường để gột rửa những sai lầm vấp phạm. Cũng chính âm nhạc cho ông sức mạnh để nhìn lại dĩ vãng, thấy điều sai trái lỗi lầm mà không khiếp sợ tránh né. Chiếc kèn đồng là phương tiện chuyên chở đến một thế giới khác mà những ánh mắt ngưỡng mộ tạo nên một thứ ánh sáng lung linh huyền ảo, không bắt nắm được nhưng cảm nhận và rung động mừng rỡ khi thấy mình được tái sinh trong cuộc đời.

    Đứng ở dưới gốc cây tại Central Park mà tiếng con chó hoang mất chủ tru lên trong đêm tối ở lề đường New Orleans ngày nào vọng lên từ tâm hồn ông như nhắc đến một chốn phải trở về. Cho dù là trở về để thỉnh thoảng đâu đó gặp lại ký ức của tội ác mà 10 năm tù không thay đổi được quá khứ. Nhưng tương lai có thể đổi thay.


    *


    Tối hôm đó khi vẽ theo trí nhớ hình ảnh người nhạc sĩ da đen mà Phương đã gặp trong Central Park, nàng đã gặp gỡ ông ta một lần nữa khi nhớ đến nỗi buồn của một người không còn nơi để trở về.

    Nàng định vẽ ông ta với nụ cười và hàm răng cửa với lỗ hổng nhưng không biết vì sao Phương lại ghi lại trên giấy một khuôn mặt buồn rầu như thế. Có nụ cười hiền hòa rộng mở, có lỗ hổng trên hàm răng cửa, nhưng ánh mắt xa vời và buồn bã. Cái lỗ hổng trên hàm răng tuy nhỏ nhưng sâu và tối đen như một khung cửa hẹp đi vào đường hầm.

    Tại sao nàng lại vẽ một sự tương phản như thế nhỉ? Hay vì đấy chính là hình ảnh đích thực của người nhạc sĩ già?

    Còn một điều nữa mà Phương quên! Mỗi một người phải có tên! Nàng quên không hỏi tên ông ta, nàng đặt tên cho project số 1 là Harry. Hãy ghi lại câu chuyện của Harry kèm với bức chân dung! Tại sao không nhỉ?

  3. #3
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822


    2- Những Cánh Rừng Không Tuổi



    Ngồi trong xe điện ngầm tuy kín mà Phương thấy hơi lạnh. Phần dưới của hai ống chiếc quần jean vẫn còn ướt vì cơn mưa vừa qua. May sao có chỗ ngồi không phải đứng. Ngồi đối diện với Phương có hai mẹ con, chắc như thế, nhưng người mẹ còn trẻ quá! Chắc còn ít tuổi hơn mình! Hay họ là hai chị em? Chị em thì đúng hơn!
    Phương quan sát cô gái. Chắc chỉ chừng 16, 17. Project thứ hai của mình là đây, được không nhỉ?

    Tóc ngắn, nhuộm mầu nâu vàng loang lổ! Ở chân tóc nhú lên một mầu đen khiêm tốn vì bị lẫn vào mầu nâu và vàng hoe. Á Châu? Tầu, Việt? Không phải Đại Hàn dù ở đây người Đại Hàn rất đông. Mặt cô gái cũng xinh và đều đặn. Có gì đáng nhớ để Phương có thể ghi lại? Không có gì nổi trội! Vậy là vẽ mới khó! Nhìn cái áo ngắn tay cổ thuyền sặc sỡ với nhiều hoa văn rực rỡ, tự dưng Phương thấy vui mắt.

    Không biết đứa bé trai nói thầm gì mà cô ta chợt bật cười. Nụ cười rất tươi. Những chiếc răng trắng bóc xinh đẹp.
    Cô ta lấy trong chiếc túi xách ra một tờ giấy. Nhưng khi bung ra thì không phải là tờ giấy mà là một túi giấy mầu nâu nhạt. Cô gái quơ quơ túi giấy trước mặt thằng bé. Nó cười thích thú!
    Cô ta trùm túi giấy đó lên đầu mình. Túi giấy đã được khoét 2 lỗ ngang đúng vào đôi mắt. Trông cô gái lúc này thật ngộ nghĩnh! Phương cũng mỉm cười khi nhìn thấy như vậy!

    Khi cô gái nhấc chiếc túi giấy ra, thằng bé cười sằng sặc. Đùa một lúc chán, cô ta xếp chiếc túi giấy cất đi.
    Nhìn thấy nụ cười trên mặt Phương, cô gái cũng cười như làm quen.
    Phương buột miệng nói với cô ta:

    - Thằng bé dễ thương quá!

    Cô gái cười nói:

    - Cám ơn!

    Quay sang thằng bé, cô ta nói với nó nhưng lại chỉ sang Phương:

    - Kent! Nói cám ơn đi!

    Thằng bé lắc đầu quay mặt đi. Chắc nó xấu hổ!
    Tàu điện ngầm ngừng lại. Nhiều người đi xuống nhưng cũng có nhiều người đi lên. Phương theo giòng người đi ra khỏi tàu điện. Nàng chờ tàu điện khác.

    Phương tìm một băng ghế ngồi đợi. Vô tình lại ngồi cùng một chỗ với cô gái khi nãy và thằng bé xinh trai. Nàng nói với cô gái:

    - Hi! Tên tôi là Phương! Cô là…?

    - Mary! Tên tôi là Mary. Còn đây là Kent.

    - Kent là..

    Cô gái chắc đã quen với những ánh mắt dò hỏi nên trả lời ngay:

    - Con trai của tôi! Nhưng cũng là em trai của tôi!

    Phương hơi khựng lại khi nói:

    - Ồ.. Xin lỗi nhé.. Cô còn trẻ quá!

    Mary cười không nói gì. Nhưng không phải nụ cười tươi tắn như lúc trước.

    Phương nghĩ đến chuyện cô gái tên Mary trở thành project số 2 của mình. Nàng sẽ vẽ phác họa hình cô ta ẩn sau một chiếc túi trùm đầu, chi chừa hai con mắt. Bỗng dưng Phương hình dung Mary giấu gì sau chiếc túi trùm đầu này? Và nàng bắt chuyện:

    - Kent mấy tuổi?

    Mary trả lời thay cho con trai:

    - 2 tuổi! Đến tháng hai sang năm là 3 tuổi.

    Thấy cô ta cũng dễ gợi chuyện nên Phương lại hỏi thêm vì tò mò:

    - Nhưng tại sao Kent lại vừa là con trai lại vừa là em của Mary?

    Có lẽ thấy Phương còn trẻ, cũng chỉ hơn mình vài tuổi nên Mary có cảm giác gần gũi dễ thân cận hơn. Kể chuyện vì sao có Kent ư? Chắc một người trẻ như cô gái này sẽ thông cảm mình hơn và sẽ hiểu vì sao Kent vừa là con trai mình vừa là em trai của mình.

    Mary kể với Phương:

    - Tôi vẫn còn đang học trung học. Mười bẩy tuổi mà đã có con gần 3 tuổi, kỳ quá phải không? Cha mẹ tôi phải nuôi Kent thay cho tôi nên vì vậy mà Kent cũng là em của tôi!

    Phương nghĩ đến số tuổi đời của Mary. Còn quá trẻ mà đã có con gần 3 tuổi! Chưa hiểu về cuộc đời bao nhiêu thì làm sao hiểu được trách nhiệm của mình? Tội nghiệp quá! Ngay như Phương cũng chỉ thấy trách nhiệm hiện tại của mình là phải học cho xong để tốt nghiệp, sau đó kiếm việc làm để còn trả nợ tiền học 4 năm. Trách nhiệm của một người trẻ như Phương chỉ có biết như thế!

    Phương nhìn Mary cười thông cảm rồi hỏi:

    - Cha của đứa bé cũng ở chung nhà luôn hả?

    Mary lắc đầu:

    - Không! Chết rồi!

    Phương kêu lên:

    - Trời! Chết rồi sao? Tại sao vậy?

    - Bị bắn chết!

    Phương thảng thốt nhìn Mary và lập lại lời nói đó nhưng là một câu hỏi:

    - Bị bắn chết?

    - Ừ!

    - Tại sao vậy?

    - Cũng không biết ai bắn và tại sao nhưng chắc vì anh Liêm không làm theo lời tụi nó!

    - Mary có phải là người Việt không?

    - Không, tôi là người Tầu nhưng anh Liêm, ba của Kent là người Việt Nam. Còn chị người gì?

    - Tôi là người Việt. Nhưng mà.. Mary nói tụi nó là ai vậy?

    - Trong băng đảng đó mà!Anh Liêm ở trong nhóm đó. Anh Liêm hơn tôi 4 tuổi.

    - Vậy lúc Mary sinh con thì Liêm còn sống chứ?

    - Không đâu! Anh Liêm không biết tôi và anh ấy có con khi anh ấy chết.

    Phương lại kêu lên:

    - Trời! Tội quá! Buồn quá nhỉ?

    Mary không nói gì. Phương nhìn cô gái. Vẻ dửng dưng trên khuôn mặt còn thơ ngây của Mary làm Phương thấy nao nao trong lòng.

    - Buồn nhỉ? Mất đi một người mình yêu thương đau buồn lắm!

    - Thoạt đầu thì sốc quá chứ không biết buồn! Kỳ lạ như vậy đó! Vả lại mặc dù anh Liêm là mối tình đầu của tôi nhưng mới quen à! Quen mới có mấy tháng là anh ấy chết! Nhưng Kent giống ba nó! Giống lắm! Anh Liêm hay tặng tôi nhiều món quà, toàn những thứ con gái thích. Không biết anh ấy lấy ở đâu ra tiền mà mua cho tôi những món quà đó!

    Không thấy Mary kể tiếp, Phương gợi chuyện:

    - Làm sao quen nhau?

    - Tình cờ thôi! Ngay trên những bậc thang xuống hầm tầu điện ngầm này. Lần đó tôi đánh rơi một cái túi nhỏ lúc vội vã chạy vì sợ trễ tầu. Anh Liêm nhìn thấy, lượm và chạy theo tôi. Rồi cũng tình cờ chúng tôi lên cùng chuyến tầu và ngồi cạnh nhau. Nói chuyện mới biết cũng không ở xa nhau bao nhiêu. Anh Liêm tử tế và dễ thương lắm. Tôi thích những người như vậy. Nhìn anh ấy với mấy hình xâm ở cánh tay thì lúc đầu thấy hơi sờ sợ nhưng quen rồi không sợ nữa.

    Phương cười:

    - Tình yêu đầu đời là vậy sao?

    Mary cũng cười:

    - Ờ, gặp lại lần sau là chúng tôi yêu nhau. Yêu nhiều lắm kìa! Yêu bất kể!

    Phương cũng cười khi nói với Mary:

    - Nhưng lúc đó Mary còn trẻ quá mà! 14 tuổi hả?

    - Mười bốn nhưng gần 15! Anh Liêm làm tôi thấy mình.. lớn hơn tuổi thật! Mà hình như lúc đó cũng chẳng để ý đến tuổi tác! Yêu là yêu thôi!

    - Gia đình anh ta chắc đông người?

    - Không đâu! Cha mẹ của anh Liêm chết từ hồi còn ở quê hương anh ấy. Mồ côi rồi được người bác, anh của cha anh ấy nhận nuôi. Tội nghiệp anh Liêm…

    Có một nỗi ngậm ngùi nào đó tuy thoáng qua nhưng Phương cảm nhận được trong giọng nói của Mary.
    Cô ta kể tiếp:

    - Nhưng anh Liêm không ở với gia đình người bác lâu. Anh ấy bỏ học đi theo bạn bè lên tận đây sống. Tôi có cha mẹ, có gia đình, có chỗ nương dựa, tôi không hiểu vì sao anh ấy có thể sống nhờ vào bạn bè như vậy được? Có lần tôi hỏi anh Liêm như vậy.

    Không thấy Mary kể tiếp, Phương lại tò mò:

    - Anh ta trả lời ra sao?

    - Anh ta bảo anh ấy là trẻ đường phố! Anh Liêm kể cho tôi nghe nhiều chuyện về thuở ấu thơ, nhất là về những cánh rừng ở sau khu nhà anh ta với những rừng thông bát ngát hết từ ngọn đồi này sang đồi kia. Còn kể về những thung lũng đầy hoa vàng với những lạch nước nhỏ hay những giòng suối trong veo mà anh Liêm có thể bắt cá bằng tay được. Anh ấy kể cho tôi nghe về những điều này nhiều lần lắm! Mỗi lần như vậy là mặt anh ấy sáng rỡ lên. Ít khi nào tôi thấy anh ấy cười. Ngay cả những lúc tôi vui và cười nói thì anh Liêm cũng chỉ hơi mỉm cười! Nhìn anh ấy là thấy tội nghiệp! Tôi nghe nhiều lần đến nỗi không chỉ nhớ về những điều anh ấy kể mà còn có thể như là..

    - Là sao?

    Mary cười:

    - Giống như là tôi cũng đã ở đó. Tôi cũng nằm trên cỏ ở một sườn đồi mà anh ta đã nhớ đến và nhìn thấy thung lũng đầy hoa vàng. Mà kỳ lạ thay tôi cũng thấy vui với anh Liêm và cũng có cảm giác như nơi đó là nhà của mình. Hay đó chỉ là nhà của tôi và anh Liêm? Không biết nữa! Bây giờ có những lúc nhớ lại tôi lại còn có cảm tưởng như tôi đã nhìn thấy không phải mình anh Liêm mà nhìn thấy hai đứa trẻ là tôi và anh ấy vui đùa ở chỗ đó. Tôi cũng không hiểu tại sao mình lại có cảm giác đó. Nhưng khi nghĩ như vậy tôi thấy bình yên lắm. Thấy dễ chịu hơn là cứ nghĩ anh ấy đáng thương và tội nghiệp!

    - Chắc vì vậy mà Mary yêu anh ta!

    - Chắc vậy! Tôi cũng không biết nữa! Nhưng mà chị có biết nhiều về quê hương chị không?

    - Tôi sinh ra ở đây. Tôi chẳng biết gì về quê hương mình. Nhưng tại sao Mary lại hỏi như vậy?

    - Bởi vì tôi muốn biết về nơi mà anh Liêm đã sinh ra. Tôi muốn biết nơi mà anh ấy cứ nhắc đến hoài. Chắc hẳn nơi ấy làm anh ta vui. Anh Liêm tuy không nói ra nhưng tôi nghĩ là anh ấy muốn trở về nơi đó lắm! Bây giờ thì.. chắc anh Liêm đang ở đó..

    - Tại sao Mary lại nói như vậy?

    Mary nhìn Phương. Nỗi buồn chợt lan tỏa khắp mọi nơi trên khuôn mặt trong sáng của cô ta như những đám mây xám ở đây bất chợt kéo đến rồi cũng ra đi vội vã như trốn chạy.

    - Chị không biết thật sao? Anh Liêm đã chết như một kẻ mồ côi không nhà, không thân nhân! .. Tôi nhớ ngày đó..

    Phương lây nỗi buồn của Mary rồi hỏi nhỏ:

    -.. Ngày đó Mary có mặt lúc anh ta.. chết sao?

    - Có chuyện gì tôi quên nhưng ngày đó tôi nhớ hoài. Tôi và anh Liêm đang đi vào một ngõ hẹp trong khu phố tầu. Trời lúc đó cũng đã chập choạng tối. Một buổi mùa đông.. trời gần tối. Chúng tôi đi vào đó vì là đường tắt. Ngõ hẹp và vắng vẻ lắm. Anh Liêm biết mọi chỗ, mọi nơi. Cái gì anh ấy cũng biết.. Nhiều lúc tôi tự hỏi hay vì anh ấy biết nhiều quá nên mới chết? .. Bỗng dưng tôi nhìn thấy trên cao, từ một cửa sổ căn gác, có chớp sáng như lửa. Hình như có tiếng nổ nhưng không lớn lắm.. Rồi bỗng dưng đang nắm tay tôi, anh Liêm buông ra và ngã xuống. Tôi chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra đã thấy anh Liêm ngã xuống đất! Cúi xuống thì đã thấy nhiều máu tuôn ra ở ngực anh Liêm, ở miệng anh ấy. Tôi nhớ mình muốn hét lên nhưng chẳng có tiếng nào thoát ra khỏi miệng tôi cả..

    Mary không kể nữa mà cứ nhìn về phía trước. Không hiểu là nhìn đường hầm trống vắng đang chờ đoàn tầu điện tới hay đang nhìn về dĩ vãng, về ký ức của một đêm tối nào, về hình ảnh của một người thanh niên mồ côi mà theo Mary là rất tội nghiệp. Cái chết trong ngõ hẹp trên đường phố lạnh lẽo không phải là rất đáng thương sao?
    Phương không hỏi nữa. Gợi lại một ký ức đau buồn và một mất mát như thế không phải là quá sức cho một thiếu nữ mới lớn sao?

    Bỗng dưng Phương lại nghe thấy tiếng Mary kể tiếp:

    - Nằm đó nhưng anh Liêm vẫn mở mắt nhìn tôi. Hình như đôi mắt anh ấy muốn nói gì với tôi. Tôi không biết là anh ấy muốn nói gì? Chắc chắn không phải là lời chào tạm biệt! Sao lại từ giã đột ngột như thế? Tại sao? Để trả lời cho câu hỏi của tôi chỉ có đôi mắt vẫn mở lớn của anh Liêm. Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi có cảm tưởng mọi người đã chết cả, chỉ có mình tôi sống! Tôi nhớ mình không muốn phải sống một mình như vậy! Tôi cứ ngồi bên cạnh anh Liêm. Chắc không lâu sau đó, tôi áp mặt mình vào mặt anh ấy và tôi bắt đầu gọi tên anh Liêm. Tôi gọi anh ấy thức dậy với tôi. Tôi gọi to tiếng và gọi nhiều lắm.. cho đến khi có người đi ngang qua ngõ nghe thấy, đến tìm và gọi cảnh sát. Nhưng khi cảnh sát đến.. à không.. lúc cái người trông thấy tôi và anh Liêm rồi gọi cảnh sát thì anh ấy đã chết rồi!

    Phương nắm tay Mary như an ủi.

    - Khi cảnh sát đến họ hỏi tôi về anh Liêm và gia đình anh ấy. Biết là anh ấy không có gia đình và tôi chỉ là bạn gái, người cảnh sát viên đã bảo tôi vuốt mắt cho anh Liêm. Hóa ra anh Liêm chờ tôi vuốt mắt cho anh ấy!.. Rồi họ mang anh ấy đi! Đó là lần cuối tôi nhìn thấy anh Liêm! Sau này tôi mới biết là với những người không có thân nhân, những xác chết vô thừa nhận sẽ được mang đi chôn ở một cái đảo xa lắm! Nhưng đó… không phải là nơi anh Liêm muốn đến! Tôi chắc chắn như vậy! Tôi muốn nói với những người đã mang anh Liêm đi. Nhưng ai nghe tôi, một cô bé? Người ta đưa anh ấy đi mà anh ấy không chống cự gì. Anh ấy cũng chẳng nhìn lại tôi một lần, chẳng nói lời nào.

    - Lúc họ mang anh ta đi còn cô thì sao?

    - Chẳng ai để ý đến tôi! Tôi đứng đó mà cũng chẳng khóc. Tôi chẳng hiểu gì cả, chẳng ai giải thích cho một cô bé như tôi. Tôi không phải là thân nhân của anh Liêm, tôi chỉ là.. bạn gái của anh ấy. Khi anh Liêm đã được đưa đi rồi thì chỉ còn những vệt máu trên lề đường. Mà không, cả vũng máu ấy chứ! Chung quanh đó cảnh sát còn chăng giây vàng. Tôi đã đứng ngoài vòng giây đó mà nhìn. Không khóc! Nhưng thấy đau! Đau ở đâu cũng không biết nữa? Nhưng mà có đau rồi tôi biết là mình sẽ không bao giờ gặp hay nhìn lại anh Liêm lần nào nữa. Tôi đi về nhà thôi! Mà lạ lùng sao sau đó tôi cũng chẳng khóc gì cả! Tôi như một đứa mất hồn! Tôi ngơ ngẩn đến trường đi học ngày hôm sau. Tôi về nhà, tôi sống như một đứa bị mất hết mọi sự! Cho đến khi bụng tôi ngày càng lớn tôi mới biết anh Liêm đã không đi xa tôi hẳn! Anh ấy đang ở bên cạnh tôi. Và rồi tôi tỉnh lại! Tôi cương quyết giữ cái thai trong bụng mình cho dù cha mẹ tôi nói gì đi nữa! Kết quả khi Kent ra đời.. nó trở thành vừa là con trai của tôi vừa là em trai tôi!

    Nhìn Phương, Mary hồn nhiên hỏi:

    - Chị có nghĩ là anh Liêm của tôi đang ở nơi mà anh ấy muốn về không?

    - Chắc vậy! À mà không.. đương nhiên là như vậy, bây giờ anh ấy có thể đi đến bất cứ nơi nào anh ấy muốn đến.

    - Một ngày nào đó khi Kent lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe về cha của nó. Nhưng thực sự tôi không biết sẽ kể về anh ấy như thế nào? Chỉ có những cánh rừng thông, thung lũng đầy hoa vàng, những lạch suối nước trong veo nhìn thấy cá bơi lội, những bờ cỏ xanh trên triền đồi là những điều tôi nghe nhiều có liên quan đến anh Liêm. Chị có nghĩ con tôi sẽ hiểu về cha nó như thế nào không?

    - Hồi nãy Mary vừa nói với tôi là Liêm tử tế và dễ thương lắm. Vậy thì cha của Kent là như vậy đó, đúng không?

    - Vậy thì cứ nói cho Kent biết cha nó là người tử tế và dễ thương lắm.

    - Ừ đúng như vậy!

    Câu chuyện mới đến đó thì tầu ngầm điện đến. Mary đứng lên dắt tay Kent cười nói với Phương:

    - Tôi đi đây!

    Phương vẫn ngồi đợi chuyến tầu điện sau. Nàng cười với Mary và Kent:

    - Sẽ có lúc chúng ta gặp lại ở đây hả?

    Mary gật đầu nắm tay Kent vội vã lên tầu điện. Những cánh cửa tầu điện đóng lại và đoàn tầu vụt đi.

    Nỗi buồn từ câu chuyện kể của Mary vẫn còn đâu đây. Chuyện kể của một phụ nữ trẻ, ít tuổi đời và cái chết của một thanh niên cũng trẻ, quá trẻ khi phải từ giã cõi đời này đột ngột mà chưa kịp từ giã! Nếu còn được vài phút giây để từ giã thì Liêm sẽ nói gì với Mary? Và Mary cũng sẽ trả lời thế nào với Liêm? Có lẽ cũng giống như một ai đó đã nói là chúng ta nên nói lời tạm biệt trước để phòng khi lúc muốn nói lời giã biệt thì không còn kịp nữa!

    Nghĩ như vậy và tự nhiên Phương thấy xốn xang, một nỗi buồn vu vơ đậu trên bờ mi mình. Phương chớp mắt, không tin là mình đang thổn thức.. vì một chuyện không phải của mình hay liên quan gì đến mình..


    *


    Những cánh hoa vàng nằm lẫn trong cỏ được Phương vẽ trên áo của Mary như một lưu luyến về ước mơ của người thanh niên trẻ tên Liêm đã ngã xuống trên mặt đường loang lổ nứt nẻ cũ kỹ trong ngõ hẹp của phố tầu bẩn thỉu. Mặt anh ta đã áp xuống lề đường lạnh lẽo như đụng vào một thực tại tàn nhẫn, nhưng trái tim của Liêm đã bay bổng về những cánh rừng không tuổi với thung lũng hoa vàng nơi mà tuổi thơ không hề bị cướp mang đi mà tồn tại mãi mãi. Mà không chỉ trong trái tim của một người bất chợt đã nằm xuống nhưng vĩnh viễn nằm yên trong ký ức của một thiếu nữ trẻ đang nắm tay một đứa bé trai thơ ngây tên Kent hướng về tương lai với nụ cười trong sáng.

  4. #4
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822


    3. và 4.



    Sean: Cảm Ơn Đời, Tạ Ơn Người!

    và Sarah: Ký Ức Không Ngủ Yên!



    Vừa vào thang máy, Phương đưa tay định bấm nút nhưng nghe có người gọi:

    - Khoan! Chờ tôi!

    Phương bấm nút hold. Cửa thang máy vẫn mở.
    Một thanh niên trẻ hối hả tiến đến, bước vào thang máy. Khi cửa thang máy khép lại, anh ta quay sang nói với Phương:

    - Cám ơn!

    Phương nhìn người thanh niên nước da nâu với mái tóc ngắn quăn thành nhiều lọn nhỏ đang đứng cạnh mình, rồi đáp:

    - Không có chi!

    Cửa thang máy mở ở lầu 3. Phương và người thanh niên trẻ đều bước ra ngoài.
    Phương đi về hướng phòng thuê của mình. Chợt nghe tiếng người thanh niên đó gọi:

    - Này cô ơi!

    Phương dừng chân quay lại. Anh ta đang ngơ ngác nhìn tới lui như tìm kiếm.

    - Có người nhờ tôi đưa cái này cho.. một người ở đây.

    Phương thấy tức cười nhưng không cười mà hỏi lại:

    - Anh kiếm ai?

    Anh ta thở dài:

    - Tôi đánh rơi tờ giấy đề số phòng mất tiêu!.. Bạn gái tôi nhờ.. Nếu bây giờ tôi gọi cô ấy và hỏi lại vì đánh rớt mất thì cô ta sẽ nổi giận đấy vì nhờ có một chút chuyện mà cũng không làm xong.. ! Cô hiểu không?

    Bây giờ thì Phương cười thoải mái khi nói:

    - Nhưng anh không hỏi thì làm sao biết đưa cho ai?

    - Đó là một phụ nữ Trung Hoa! Bà ngoại của Helen!

    À thì ra thế! Phương nhớ ngay bà già tầu ở cùng dẫy với nàng! Ngay sát phòng nàng.

    - Vậy hôm nay anh may đấy khi gặp tôi! Bà đó ở ngay sát phòng tôi nè!

    Chàng thanh niên mừng rỡ nhìn Phương cười:

    - Cám ơn nhiều lắm!

    Phương cười thay cho câu trả lời. Nàng mở cửa vào phòng mình. Erika chưa về. Không có ai trong phòng nhiều lúc cũng thấy dễ chịu hơn!
    Vừa treo túi xách lên móc áo trên tường ngay gần cửa, chưa kịp cởi áo khoác lại có tiếng đập cửa. Phương nhìn qua ô kính nhỏ xíu ở cửa xem bên ngoài là ai. Vẫn anh chàng khi nãy! Chuyện gì nữa đây?

    Phương mở cửa. Anh ta đang cầm một chiếc hộp khuôn khổ vừa phải, mặt nhăn nhó:

    - Nhờ cô giúp tôi.. Bà ngoại của Helen không có nhà! Cô.. cô đưa giúp dủm tôi được không? Làm ơn giúp tôi..

    - Được rồi, tôi giúp anh! Anh tên gì vậy?

    Chàng thanh niên tươi ngay nét mặt:

    - Tên tôi là Sean! Cám ơn nhiều lắm. Tên cô là..?

    - Phương!

    Anh ta đưa cho Phương chiếc hộp rồi lại cám ơn nữa.
    Phương cầm chiếc hộp. Nhẹ lắm không biết là cái gì?
    Nhưng Sean không đi ngay mà có vẻ băn khoăn. Phương nhìn anh ta rồi hỏi:

    - Sao vậy? Cần nhắn gì với bà ta hả?

    - Không… không phải vậy.. nhưng mà nhờ cô đưa thì tôi lại thành nói dối! Helen sẽ hỏi tôi gặp bà ngoại cô ấy như thế nào, nói những chuyện gì! Không được.. không làm vậy được! Cái đó tôi chết chắc!

    Phương nghĩ thầm cái anh chàng này đàng hoàng và ngay thẳng thật! Cô gái Helen nào đó thật may mắn!
    Nàng đưa chiếc hộp cho Sean:

    - Vậy thì anh phải chờ hay trở lại lúc khác thôi!

    - Cô có thường hay gặp bà ta không?

    - Thỉnh thoảng!

    - Làm sao biết được bao giờ bà ngoại của Helen ở nhà đây?

    - Buổi sáng thỉnh thoảng tôi nhìn thấy bà ta đi xuống dưới nhà rồi ngồi ở sân trước đó. Không biết là chờ ai hay chỉ để nhìn người qua lại.

    - Sân trước ngay gần cửa vào chung cư đúng không?

    - Đúng rồi!

    Anh ta lại cám ơn rồi vội vã đi.
    Phương đóng cửa phòng rồi lại chợt nhớ đến bà tầu hàng xóm mà chưa một lần chào hỏi nhau.
    Mở tủ lạnh, Phương tìm xem còn gì ăn được vào buổi chiều. Tủ lạnh trống trơn cho những sinh viên xa nhà ở trọ, bận rộn! Nàng thở dài thầm, lại phải đi mua thức ăn!

    Tròng chiếc áo khoác vào, lại đeo xắc trên vai, mở cửa ra ngoài. Phương khóa cửa rồi cất chìa khóa vào xách tay.
    Xuống nhà, ra khỏi cửa chính, Phương nghĩ trong đầu sẽ mua gì và sẽ làm gì cho bữa ăn tối nay và 1, 2 ngày nữa.
    Nhìn thấy Sean đang ngồi ở băng ghế gỗ. Lúc đi ngang, Phương nói với Sean:

    - Vẫn chờ sao?

    Sean cười:

    - Một lúc nữa thôi!

    Ra đến đường, Phương chợt nhìn thấy bà tầu hàng xóm, người mà Sean đang đợi. Không hiểu sao nàng quay trở lại nói với Sean:

    - Bà ấy tới rồi kìa!

    Sean mừng rỡ đứng dậy:

    - Thật sao? Tốt quá! Bà ấy đâu?

    Phương đưa tay chỉ. Người đàn bà Á châu trung niên đeo kính, chiếc ví đeo bắt chéo ngang ngực, một tay xách chiếc giỏ. Có lẽ là nặng vì thấy bà ta nghiêng người hẳn về một bên chiếc giỏ.
    Sean nhanh nhẹn đi nhanh về phía bà ta chào hỏi:

    - Chào bà! Cháu là bạn của Helen!

    Bà ta dừng bước nghiêm mặt nhìn cậu thanh niên trước mặt với một chút nghi ngại. Bà ta hỏi Sean:

    - Bạn của Helen?

    - Dạ đúng rồi! Cháu tên là Sean, bạn của Helen. Cô ấy nhờ cháu đưa cho bà cái này! À nhưng mà bà đưa cháu xách cái giỏ này cho! Nặng quá mà!

    Bà tầu vẫn nhìn Sean bằng ánh mắt hoài nghi.
    Phương thấy tội nghiệp cho Sean nên tiến đến nói với bà ta:

    - Chào bà, cháu là hàng xóm của bà, phòng cháu ở ngay sát cạnh phòng bà. Anh này chờ nãy giờ lâu lắm để giao đồ cho bà đó.

    Nhìn Phương và nghe nàng nói, bà ta có vẻ thoải mái ra vì cũng nhận ra cô gái ở cùng hành lang với mình.
    Quay sang Sean, bà ta gật đầu:

    - Được rồi! Cậu xách dùm tôi!

    Sean hân hoan một tay xách giỏ, tay kia cầm chiếc hộp mà bạn gái đã nhờ để giao cho bà ngoại cô ta.
    Phương hơi nhếch mép cười nhưng không ngờ bà ta lại nói với Phương như ra lệnh:

    - Cô đi cùng với cậu này lên chỗ tôi luôn đi!

    Phương chưng hửng! Tại sao nàng lại phải làm như vậy? Nhưng rồi cũng hơi tò mò muốn biết về bà già hàng xóm này. A biết đâu cả Sean và bà ta đều là những project mới của mình? Được đấy!
    Nghĩ như thế nên Phương vui vẻ đi theo 2 người trở lại vào trong khu chung cư.

    Cả ba cùng vào trong thang máy. Chẳng ai nói với ai câu nào. Có lẽ với sự có mặt của Phương, bà ta sẽ đỡ.. ngại về chàng thanh niên lạ mặt này chăng?
    Ra khỏi thang máy, bà ta đi trước, Sean và Phương đi theo sau. Bà ta lấy chìa khóa nhưng chưa mở cửa mà còn dáo dác nhìn quanh. Một thói quen cẩn thận tốt!
    Mở cửa, bà ta vào trước. Chờ Sean và Phương vào rồi, bà già lại thò đầu nhìn ra bên ngoài xem có kẻ gian nào rình núp hay không rồi mới đóng và khóa cửa lại.
    Vẫn cái giọng ra lệnh cứng ngắc, bà ta nói:

    - Hai người ngồi đi!

    Sean vui vẻ:

    - Cháu bỏ chiếc giỏ này ở đâu?

    Bà ta chỉ vào trong bếp.
    Phương quan sát để còn ghi nhận hình ảnh của bà già tầu mà nàng đang đặt tên trong đầu là project số 4. Cái mặt bà ta khó chịu thật! Cái mũi khá lớn, môi dầy vừa phải tiết kiệm nụ cười. Tóc cắt ngắn. Nhưng bà ta nói tiếng Anh cũng được lắm. Trông bà ta cứng nhắc như một con nộm! Nghĩ như vậy và Phương cười một mình.

    Dè đâu bà ta tưởng nàng cười với bà ấy:

    - Trông cô vui vẻ đấy! Bao nhiêu tuổi rồi?

    - Dạ cháu sắp 22 tuổi!

    Tự dưng bà ta nói một tràng tiếng tầu với Phương. Nàng lắc đầu:

    - Cháu không hiểu, cháu không phải người Trung Hoa đâu!

    Bà ta có vẻ thất vọng:

    - Tôi thấy cô nhiều lần! Còn cậu kia thì sao, cậu ta là ai vậy?

    - Cháu không biết! Cậu ấy là bạn của cô cháu gái bà!

    - Ờ Helen!

    Sean trở ra phòng khách, ngồi xuống ghế.

    - Helen nhờ cháu đưa hộp này cho bà đó! Cháu cứ nghe Helen kể chuyện về bà nhiều lần lắm.

    - Nó nói gì?

    - Nói là bà là bà ngoại nhưng chẳng khác gì một người mẹ vì mẹ Helen đã mất.

    Bà ta gật gù, gương mặt dịu hẳn lại.

    - Còn cậu là ai?

    - Cháu tên Sean.. cháu là bạn trai của Helen.

    - Bạn trai hả? Học cùng trường sao?

    - Dạ, cùng trường nhưng cháu học về quản trị kinh doanh còn Helen học về văn chương.

    - Cha mẹ cậu làm gì?

    Cả Phương và Sean cùng buồn cười quá! Đúng là bà ta đang điều tra lý lịch của Sean.

    - Ba cháu là bác sĩ, mẹ cháu là cô giáo.

    - Làm sao quen Helen?

    - À.. Helen có cô bạn thân.. chết vì tai nạn xe hơi.. Trong khi đó mắt cháu có vấn đề cần phải ghép giác mạc nếu không sẽ bị mù. Cô bạn của Helen trước khi qua đời đã hiến tặng mọi thứ. Cháu ở trong danh sách chờ lâu nay và được gọi để được phẫu thuật mắt, thay thế những lớp mô bị bệnh của giác mạc bằng mô giác khỏe mạnh của người hiến tặng. Có thể nói qua người bạn của Helen mà chúng cháu quen nhau.

    - Ra vậy! Nhưng bây giờ mắt cậu tốt chứ?

    - Dạ sau khi được ghép giác mạc, mắt cháu bây giờ tốt lắm!

    - Vậy không những bạn Helen mà ngay chính nó cũng cứu cậu đấy!

    - Đúng như vậy! Bây giờ Helen nói gì cháu cũng nghe. Helen còn nói cô bạn của cô ấy đang sống trong cháu. Cô bạn của Helen không chỉ sống mà còn nhìn cuộc đời, nhìn mọi người chung quanh cùng với cháu. Helen nói đó là một sự kết hợp tuyệt vời.

    - Bao giờ cậu học xong?

    - Dạ, đến hè này cháu học xong. Cháu đã có nơi nhận làm, ra trường là có việc ngay.

    - Tốt rồi! Còn cô?

    Phương đang lắng nghe câu chuyện của Sean, thấy bà ta quay sang hỏi mình, nàng ngỡ ngàng:

    - Cháu hả? À.. cháu là sinh viên năm cuối ngành mỹ thuật!

    - Nghề này ra trường làm gì để sống?

    Cả Phương và Sean cùng cười phá lên trước câu hỏi ngộ nghĩnh của bà tầu.
    Phương thành thật trả lời:

    - Dạ.. chỉ có đi dậy học hay vẽ tranh..

    Bỗng dưng bà ta cười hóm hỉnh khi nói với Phương:

    - Hay tìm lấy một ông chồng giầu!

    Lần này thì cả ba cùng cười ngất! Nhưng Phương nghĩ bà này có lý quá! Tuy nhiên tìm đâu ra một ông chồng giầu có?
    Thấy bà ta nói đùa, đến phiên Phương thử trêu chọc:

    - Còn bà thì sao?

    - Tôi hả? Truyện của tôi dài lắm!

    Phương nói liền:

    - Tụi cháu muốn nghe truyện của bà!

    Hết nhìn Sean rồi lại nhìn Phương, bà tầu hỏi lại:

    - Muốn nghe thật không?

    Sean hoan hỉ:

    - Bà kể đi!

    Bà ta trầm ngâm, gương mặt như hơi tối lại, vết hằn hai bên mũi và khóe miệng như trũng sâu hơn. Đôi mắt dang xa hai bên lại có vẻ như xích lại gần hơn với sự chú ý nhớ lại của bà ta.

    - Tôi không có nhiều con, có mình mẹ của Helen. Tụi tôi chỉ buôn bán mà sống. Khi mẹ của Helen lập gia đình.. chúng tôi phản đối cuộc hôn nhân này dữ dội.

    Sean ngạc nhiên:

    - Tại sao vậy bà?

    - Mẹ của Helen tên là Thế Nghi. Con gái tôi học giỏi lắm nhưng cuộc đời nó bị hủy hoại chỉ vì một người đàn ông!

    Nói tới đó bà ta nhìn Sean và Phương rồi hỏi tới:

    - Muốn nghe kể tiếp không?

    Cả Sean và Phương đều gật đầu chăm chú nghe.

    - Người con rể tôi làm ăn phi pháp, chuyên buôn bán ma túy và cần sa. Làm sao Thế Nghi và chồng nó gặp nhau chúng tôi không hề biết. Người đàn ông đó là một thanh niên người Trung Hoa như chúng tôi, đẹp trai, rắn rỏi và.. dữ tợn! Thế Nghi hiền lành nhưng lại bị lôi cuốn rồi nhất quyết lấy anh chàng này. Hắn ta kiếm rất nhiều tiền nhưng cuộc đời hắn là một chuỗi những phong ba, không kể những lần vào tù ra khám. Cũng may Thế Nghi và hắn chỉ có mỗi mình Helen! Từ khi lấy chồng, Thế Nghi thay đổi hoàn toàn và xa cách chúng tôi. Những lúc Thế Nghi mang Helen về thăm chúng tôi đều biếu tiền bạc nhưng chúng tôi từ chối nhận những đồng tiền dơ bẩn đó.

    Gặp con thì mừng nhưng giận! Tôi không thể hiểu vì sao chúng có thể nuôi dưỡng Helen, một con bé xinh đẹp, can đảm và thông minh trong một môi trường như vậy được! Môi trường tội phạm nẩy sinh một hạt giống tốt lành! Ngày Thế Nghi và cha nó qua đời do một cuộc thanh toán và tranh chấp của một nhóm khác chỉ vì quyền lợi, Helen đã trở thành một trẻ mồ côi! Chúng tôi đã nuôi dưỡng nó từ ngày đó! Còn chồng tôi buồn quá nhưng đổ bệnh.. rồi cũng qua đời vài năm sau! Cửa hàng tôi đã bán đi và chỉ sống bằng tiền để dành suốt đời mình.

    Không thấy bà ta kể thêm, Sean ôn tồn nói với bà tầu:

    - Helen nói bà mới chính là mẹ của cô ấy! Nhưng sao.. Helen không ở với bà?

    - Nó thích bạn bè! Thích tự lập như cậu biết đó nên muốn ở chung với bạn bè. Ở với một bà già như tôi thì chán chết! Ngoài chuyện học nó còn đi làm thêm, con bé giỏi lắm! Thường thì vài tuần lễ nó mới về thăm tôi một lần. Lần này hơi lâu, không biết nó bận gì? Nhưng nó cũng thường gọi điện thoại hỏi thăm xem tôi ra sao. Cậu có biết dạo này nó bận gì nhiều như vậy không? Hay tại vì.. cậu mà nó không còn nhớ đến bà ngoại nó nữa?

    Sean lắc đầu:

    - Không phải vậy đâu! Helen hiện giờ đang có một công việc làm thêm kiếm khá tiền nhờ viết về những câu chuyện để người ta làm game. Từ đó cô ấy khám phá ra một thị trường có nhu cầu. Công việc làm thêm của Helen không giống với những người viết chuyên nghiệp được thuê để viết truyện cho các studio làm game. Helen chuyên viết cho người chơi game GTA Online. Trong phiên bản trò chơi này có một số server yêu cầu người chơi nộp câu chuyện phía sau của mỗi nhân vật ảo để được phép tham gia. Nên cô ấy làm việc cho những người chơi game GTA online. Cô ấy bận lắm, nhưng không phải vì cháu đâu!

    Bà tầu quay sang hỏi Phương:

    - Cô nghe có hiểu việc Helen đang làm là gì không? Cái gì mà nhân vật ảo.. Tôi chẳng hiểu gì cả!

    Phương cười:

    - Bà cũng đâu cần hiểu làm chi! Bây giờ những trò game này đang thịnh hành lắm! Miễn sao công việc tốt đem lại lợi nhuận cho cô ấy là được rồi! Vậy là cô cháu bà giỏi lắm đó! Còn cháu vẫn sống nhờ ba mẹ cháu nuôi đây!

    Phương hỏi Sean:

    - Helen giỏi quá hả! Khách hàng của Helen chắc chỉ toàn những người trẻ phải không?

    - Không đâu! Theo lời Helen nói với tôi khách hàng của cô ấy rất đa dạng, từ những người cha 50 tuổi đến những cậu nhóc 15 tuổi! Nhiều người viết chuyên nghiệp kiếm hàng chục ngàn đô la hàng tháng!

    Phương gật gù:

    - Thật sao!

    Nhưng không hẹn mà cả Phương và Sean cùng đứng lên. Cả hai nhìn nhau trong cùng một ý nghĩ từ giã người thiếu phụ trung niên này.
    Sean nói trước và cúi đầu chào bà ngoại của Helen như cô ta đã căn dặn đây là phong tục của người Hoa.

    - Chào bà, cháu về!

    Phương cũng nói luôn:

    - Chào bà! Cháu cũng phải đi chợ!

    Bà ta gật đầu:

    - Cám ơn hai người! Này cậu, nói với Helen tôi rất nhớ nó! À.. lần tới đi cùng với Helen tới đây nghe! À quên! Tên tôi là Sarah!

    Sean tươi cười gật đầu lần nữa:

    - Dạ!

    Sean và Phương cùng đi vào thang máy xuống nhà.
    Sean nói với Phương:

    - Cám ơn cô nhé!

    - Có gì đâu mà phải cám ơn! Helen chắc là một cô gái đáng yêu lắm?

    - Rất đáng yêu! Thông minh, mạnh mẽ và tốt lắm! Cô biết không trong con người tôi bây giờ có nhiều giòng máu lắm!

    Nói xong Sean cười.

    Phương ngạc nhiên hỏi lại:

    - Anh nói vậy là sao?

    - Ba tôi là người Tây Ban Nha, mẹ tôi là người Mỹ , còn bây giờ tôi được ghép giác mạc của một cô gái người Trung Hoa hiến tặng. Cha mẹ tôi cho tôi được sinh ra đời, còn cô bạn của Helen cho tôi được cặp mắt, được nhìn thấy mọi sự, được hạnh phúc là mình không phải bị mù lòa. Người bị mù bẩm sinh không hề biết đến ánh sáng và những thứ chung quanh đẹp đẽ như thế nào, không biết đến sự khác biệt mà so sánh! Còn tôi không bị mù bẩm sinh nhưng nếu không được ghép giác mạc thì tôi sẽ bị mù lòa, mất thị giác! Từ ánh sáng mà lại phải đi vào bóng đêm, không phải là bất hạnh lắm sao? Có quá nhiều giòng máu trong tôi không phải sao nhỉ?

    Phương mỉm cười không nói gì.

    Ra đến đường, Sean và Phương chia tay. Nhưng Phương đã nhớ nhiều chi tiết trên gương mặt Sean, project thứ ba của nàng. Còn bà tầu hàng xóm tên Sarah đã trở thành project thứ 4!


    *


    Khi Sean và cô gái đã rời khỏi, bà Sarah trở lại ngồi trong chiếc ghế bành cũ kỹ quen thuộc mang từ ngôi nhà cũ đầy kỷ niệm với chồng bà và Helen.. rồi Thế Nghi! Tất cả những vết lún trên ghế càng ngày càng sâu hơn theo năm tháng, theo sức nặng vì mệt mỏi và buồn phiền! Bà lại nhớ đến những điều lúc nãy đã kể cho 2 người lạ mặt trẻ tuổi. Tại sao mình lại đi kể chuyện gia đình mình cho họ làm gì nhỉ? Hay vì bà cũng cần nói với một ai đó? Cũng chẳng còn có ai để mà nói!

    Nhìn tấm hình gia đình để trên chiếc bàn nhỏ kế bên, bỗng bà thấy buồn vô hạn! Phải chi bây giờ còn có chồng bà bên cạnh! Đã bảo với nhau nắm tay nhau đi cùng với nhau đến cuối đời.. mà không được vậy!

    Ký ức không bao giờ chịu ngủ quên lại trở về.. với những mảnh rời rạc đứt đoạn mà luôn luôn là hình ảnh chồng bà gập người rồi ưỡn người, tay đưa lên cần cổ, miệng há ra, mắt trợn ngược lên.. Ông ta lên cơn suyễn và không thở được như mọi lần! Nhưng bao nhiêu bình thuốc xịt vào cổ họng đã bị ông ấy ném hết đi khi không còn muốn sống nữa!

    Bà còn nhớ chồng mình đã van nài và dặn dò vợ hãy để ông ấy đi thật nhanh khi căn bệnh ung thư đã đến giai đoạn chót và làm ông ấy đau đớn khổ sở! Bà đã hứa.. để cho chồng mình được giải thoát!

    Nhưng bà.. đã không giữ được lời hứa ấy! Làm sao… làm sao bà có thể khoanh tay ngồi nhìn chồng mình chìm ngập trong ranh giới sống và chết như thế được? Làm sao bà có thể bỏ mặc ông ấy như bà đã hứa? Dù biết chồng mình đã vất hết những lọ thuốc suyễn nhưng bà đã giấu đi một bình thuốc. Phải cứu chồng bà.. sống.. cho dù hành động đó đi ngược với lời hứa của bà!

    Không còn một giọt nước mắt nào nhỏ ra cho ký ức đau buồn đó nhưng bà biết trái tim mình đang nhỏ lệ, những giọt lệ không trong suốt nhưng đỏ như máu. Khi chồng bà đã hạ suyễn, hai vợ chồng đã ôm nhau run rẩy! Bà nhớ mình đã lắp bắp nói với chồng:

    - Em.. xin lỗi anh.. em không làm được! Không thể làm được!

    Bà và chồng bà cùng khóc, những giọt nước mắt mang bao nhiêu là ý nghĩa cho tình vợ chồng, tình người..

    Ngồi đây mà nhớ đến những chuyện đó nào ích gì! Bà Sarah tì hai tay vào thành ghế đứng dậy. Bà ra bếp để làm những chuyện lặt vặt mà bà vẫn làm thường nhật để quên.. Không chỉ quên những ký ức đau buồn mà còn để quên là mình vẫn còn vất vưởng sống trên thế gian này!

  5. #5
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822



    5 – Tội Ác và Tình Yêu



    Tuần lễ cuối cùng, Phương căng thẳng với project số 5, cũng là project chót mà nàng phải hoàn tất. Phải tìm ai bây giờ? Thôi cứ phó thác cho may rủi! Biết đâu Phương lại gặp gỡ một ai đó và sẽ được nghe một câu chuyện thú vị!

    Vẫn những chuyến xe điện ngầm quen thuộc chuyên chở bao tâm hồn gió bão, Phương nghĩ như thế và chờ đợi một người lạ nào đó có thể trở thành project cuối cùng của nàng!

    Ngày chủ nhật toa xe điện vắng hẳn. Phương vẫn muốn đến Central Park vừa để được thư giãn trong không gian mênh mông và mở rộng với đất trời thoáng đãng, phần vừa muốn đi tìm đề tài. Chiếc xe điện thưa người nhưng dường như lại chạy chậm hơn thường lệ. Chắc chỉ do sự tưởng tượng của mình, Phương thầm nghĩ. Quanh nàng lác đác chỉ có vài hành khách, chẳng có gì đáng để nhớ. Tất cả chỉ có 6 người trong toa xe, kể cả Phương, không ai nhìn ai và có vẻ như tất cả đều ngủ hay họ chỉ nhắm mắt?

    Tiếng máy của tàu điện rào rào như mưa quyện với những lắc lư chuyển động như một thứ ru hồn người đều đặn làm Phương cũng muốn.. ngủ! Đang lúc đầu óc mơ màng với nhịp điệu chung quanh đều đặn, Phương bỗng giật mình! Chỉ vì một cô gái da đen đang nhắm mắt ngủ chợt mở bừng mắt! Đó là một chuyển động nhỏ trong không gian chật hẹp này nhưng đã thay đổi hẳn vì có thêm người thức cùng với Phương!

    Phương quan sát cô gái ngồi tuy đối diện nhưng hơi chếch về bên trái. Có lẽ cũng cỡ tuổi mình, Phương nghĩ như vậy! Đôi mắt cô ta đen và sáng trên nước da không đen lắm. Đôi mắt buồn nhưng êm ả, không sắc xảo. Lông mày tỉa gọn rất thanh hình vòng cung nhưng nhếch lên ở đoạn cuối. Mũi không đẹp lắm vì lớn quá nhưng làm cho cả khuôn mặt mạnh bạo hẳn lên. Thêm vào đôi môi dầy rất.. đúng y như những người Mỹ đen cùng chủng tộc! Nhưng khuôn mặt cô gái thon nhỏ. Mái tóc đen và thưa ngắn, không có gì hấp dẫn! Khuôn mặt cô gái có nhiều điểm đối chọi giữa sự mạnh mẽ và yếu đuối. Sự tương phản này làm Phương hiếu kỳ! Đây là một con người như thế nào? Cuộc đời cô ta ra sao? Không dễ mà làm quen với cô ta đâu!

    Khi tầu điện dừng ở trạm, tất cả 6 người hành khách đều đi xuống rồi phân tán khắp nơi. Phương tiếc quá, cô gái này mà trở thành project thứ 5 của mình thì hay biết bao! Mọi chi tiết trên gương mặt cô ta đã đi vào trí nhớ của Phương, nhưng câu chuyện của cô ta chỉ như một tờ giấy trắng trống trơn! Chưa đủ để trở thành project thứ 5!


    *


    Lang thang ngoài Central Park một lúc, mắt đảo nhìn khắp nơi kiếm đề tài nhưng đầu của Phương cứ nghĩ đến cô gái da đen nọ trên chuyến tầu điện ngầm lúc nãy!
    Một người đi xe đạp suýt nữa xô vào Phương. Cả nàng và người đi xe đạp đều ngã! Hay chỉ vì một bên thì cố tránh, một bên thì vô ý vì còn mải nghĩ bâng quơ! Phương và người đi xe đạp lồm cồm bò dậy! Đó là một ông già nhưng không già lắm! Cả hai người cùng hỏi nhau:

    - Có sao không?

    Phương lắc đầu tuy thấy cũng hơi đau ở đầu gối. May chiếc quần jean dầy đã bảo vệ, không làm xây sướt gì!
    Ông già văng cả kính. Phương hỏi ông ta:

    - Ông có sao không vậy?

    Ông ta nhìn Phương:

    - Cũng hơi đau chút thôi nhưng mà kính của tôi đâu mất rồi!

    Cô gái da đen mà Phương ao ước sẽ trở thành project thứ 5 của nàng chợt xuất hiện. Tay cầm cặp kính, cô ta tiến đến gần ông già bị té rồi quỳ xuống ân cần hỏi ông ta:

    - Ông có sao không? Kính này của ông phải không? Thấy văng ra ngoài kia kìa!

    Ông già tay run run cầm cặp kính đeo vào mắt, nhìn cô gái da đen lắp bắp:

    - Cám ơn cô nhé! Mất cặp kính này thì tôi chết! .. Còn chiếc xe đạp không biết ra sao nữa?

    Cô ta nhìn sang Phương và nhận ra người đã đồng hành một đoạn trong toa xe điện ngầm. Hơi nhếch mép cười, cô gái hỏi Phương:

    - OK không?

    Phương cười đáp:

    - Hơi đau chút thôi, không sao! Mình lại gặp nhau hả?

    Cô ta chỉ nhếch mép chưa hẳn là một nụ cười để đáp trả cho câu nói của Phương.
    Phương nâng chiếc xe đạp lên xem xét. Có lẽ không sao!
    Nhưng cô gái nói cả với Phương và ông già:

    - Phải dựng hẳn lên và xem bánh xe rồi đi thử coi sao!

    Ông già nhìn hai cô gái và nghĩ thầm: Chắc chúng giúp mình được! Nghĩ như vậy và ông ta cứ ngồi yên.
    Cả Phương và ông ta đều không hiểu vì sao lại xảy ra như vậy! Tại ai? Tại Phương hay tại ông già? Rõ ràng là nàng đang đi bộ cơ mà! Còn ông già thì cũng không nhớ nổi tại sao mình lại suýt tông vào cô gái này! Nhưng ông nhớ là vì mình tránh cô ta nên mới mất thăng bằng và té!
    Xem ra cô gái da đen có vẻ thành thạo bên chiếc xe đạp. Cô ta cẩn thận xem xét từng chỗ rồi nói với ông già đang ngồi dưới đất:

    - Xe đạp của ông không sao cả!.. Nhưng ông ngã có đau lắm không?

    Ông già ngửng đầu lên nhìn cô gái trẻ da mầu trước mặt:

    - Cám ơn cô nhiều lắm đó! Cô thật tử tế! Tôi không sao cả. Cũng may!

    Ông ta đứng dậy, giơ tay giơ chân như kiểm tra.

    - Không sao cả! Còn cô kia! Ngã có sao không? Đi đứng phải cẩn thận!

    Phương gượng gạo cười:

    - Xin lỗi ông.. Dạ.. cháu cũng không sao!

    Ông già giơ tay chào Phương và cô gái da mầu rồi đạp xe đi.
    Phương nói với cô ta:

    - Cám ơn nhiều nhé! Tên tôi là Phương.. còn cô là..

    - Natalie! Tình cờ mà chúng ta lại gặp lại..

    Phương bắt chuyện ngay vì sợ cô ta sẽ bỏ đi:

    - Cô có hay ra đây không?

    Cô gái nhún vai:

    - Thỉnh thoảng cuối tuần hay ngày nghỉ thôi! Còn cô thì sao?

    - Tôi cũng thỉnh thoảng.. Thường chỉ lang thang một mình. Với bạn bè thì không ra đây!

    - Tôi cũng vậy! Cô ở vùng nào?

    - Tôi ở ngay Manhattan, gần phố tầu. Còn cô?

    - Ở bên Bronx!

    Phương nghĩ thầm học ở đây mấy năm mà mình không dám héo lánh sang Bronx vì đó là vùng không mấy an toàn và nhiều tội ác nhất, Phương nghe như vậy!
    Natalie nhìn Phương rồi hỏi dò chừng:

    - Chắc đang đi học hả?

    Phương gật đầu:

    - Ừ, đúng vậy! Chúng ta vừa đi bộ vừa nói chuyện đi!

    Cả hai sánh bước bên nhau trên những con đường mòn quanh đây. Hóa ra Natalie cũng không khép kín như Phương đã nghĩ. Natalie gợi chuyện trước:

    - Học gần xong chưa, mà học về ngành gì?

    - Mỹ thuật! Tôi được học bổng nên theo đuổi ngành này dù biết trước tương lai sẽ rất bất định! Còn Natalie thì sao?

    - Tôi hả? Tôi không có cái may mắn đó, chỉ học hết trung học rồi đi làm. Tôi bán hàng và làm sổ sách cho một cửa hàng. Nghỉ 1 ngày trong tuần nhưng cứ thay đổi luân phiên, lúc thì nghỉ ngày thường, lúc thì được nghỉ vào ngày chủ nhật.

    Chỉ mới có vài câu trò chuyện mà khoảng cách giữa hai người đã nhích lại khá gần và họ đã gọi tên nhau rất bình thường như đã quen lâu rồi.

    - Phương từ đâu tới đây học?

    - Texas!

    - Ở đó chắc quanh năm chỉ thấy mặt trời và nắng?

    - Nóng và ẩm ướt lắm! Không thích!

    Natalie cười:

    - Chắc không có 4 mùa như ở đây?

    - Đúng vậy! Chỉ có mùa hè dài và mùa đông rất ngắn! Bằng phẳng và rộng mênh mông! Natalie chắc là ở đây?

    - Ừ! Tôi sinh ra ở đây.. Chỉ biết mỗi chỗ này! Mà chắc cả đời cũng chỉ ở đây mà thôi!

    - Sao vậy?

    - Tại sao ư? Số phận mình như vậy thôi!

    Câu nói đó từ một cô gái có đôi mắt buồn xa vắng nghe như một tiếng thở dài nhẹ như hơi thở. Natalie có giọng nói đục và trầm.

    Vẫn giọng nói ấy, Natalie cất tiếng với vẻ như cố gắng làm vui:

    - Thôi bỏ đi! Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa!

    Phương thắc mắc “chuyện đó” mà Natalie vừa nói đến là chuyện gì? Dĩ nhiên không phải là một chuyện vui rồi, Phương có thể đoán như thế.

    - Lên đây học xa nhà có nhớ nhà không?

    Phương cười:

    - Không hề nhớ nhà chỉ trừ khi bị ốm lúc đó mới nhớ nhà!

    Natalie cũng cười như thông cảm nỗi nhớ nhà mỗi khi bị ốm của Phương.

    - Ở đây Phương có nhiều bạn không?

    - Không có nhiều! Có cô bạn ở chung phòng người Đại Hàn, ba bốn người bạn khác cũng học cùng trường. Natalie thì sao?

    - Cũng ít bạn lắm! Bạn học cùng lớp lên đại học rồi đi xa.. Vả lại bây giờ đi làm còn lo cho mẹ nên không có thì giờ.. Như ngày hôm nay là lúc cần thư giãn đầu óc và tay chân một chút cho được thoải mái yên ổn một chút nên mới đi ra đây. Lang thang một mình nhiều lúc rất tốt, hai chân thì bước rồi mọi thứ nặng nề bỗng dưng được buông bỏ.. dễ chịu lắm! Giống như những thứ đè nặng từ trên đầu đi xuống hai vai, qua trái tim rồi xuống hai chân, mỗi bước chân lại trút bỏ dần dần.. Cứ như vậy đến khi đi ra khỏi đây thì cái đầu nhẹ tênh!

    Đó không phải là những điệu buồn sao? Phương đoán có lẽ cuộc đời của Natalie cũng không được êm ả!

    - Vậy sao? Nghe buồn quá! Tuổi trẻ đâu có buồn như vậy?

    - Tuổi trẻ của Phương chắc là tươi sáng và nhiều niềm vui lắm ư? Có bạn trai chưa?

    - Bạn thì có nhưng bạn trai thì chưa! Vui thì cũng vui với bạn bè. Khám phá nhiều thứ mới mẻ khi ở đây. Thấy mình trưởng thành và tự tin hơn khi không còn sống với cha mẹ hay bị gò bó ép buộc điều gì mình không muốn. Bây giờ là lúc tìm hiểu xem mình muốn gì và những chọn lựa do mình quyết định.

    - Coi chừng hối tiếc!

    - Hối tiếc hả? Thì cũng có.. nhưng mà cứ tiếp tục thôi.. Còn Natalie thì sao?

    -Rất ít chọn lựa cho bản thân! Ngay việc mình được sinh ra đời cũng đâu có phải là chọn lựa của mình phải không?

    - Mình nghĩ có lẽ không phải cha mẹ nào cũng nhất quyết tìm kiếm và tạo cơ hội cho đứa con được sinh ra đời. Những người mong chờ hoài hủy để có được một đứa con chắc không có nhiều. Trường hợp Phương là không rồi đó vì mình có nhiều anh chị em lắm. Natalie có nhiều anh chị em không?

    Không thấy Natalie trả lời, Phương ngạc nhiên liếc nhìn cô bạn mới quen.

    - Chỉ có một mình, không có anh chị em nào hết!

    - Vậy là nhất rồi đó, không phải chia sẻ với ai cả!

    Người bạn mới quen đang cùng bước bên cạnh làm Natalie chợt muốn kể về những điều mà nàng chưa hề nói với ai.. Có thể nàng sẽ chẳng bao giờ gặp lại Phương, nhưng ngày hôm nay Natalie thấy mình có nhu cầu cần chia sẻ với một ai đó về mình.

    - Mẹ mình là một người tàn tật! Hai chân mẹ bị xuội lơ từ nhỏ. Ông bà ngoại của mình chỉ có mình mẹ là con gái. Năm mẹ được 16 tuổi.. mẹ bị.. cưỡng hiếp bởi một người lạ.. Natalie có mặt trên cuộc đời này từ đó! Mình được hình thành trong bụng mẹ do bởi ham muốn nhục thể của một người đàn ông lạ mặt. Người đàn ông thấp hèn đó đã để sự thèm muốn xác thịt của ông ta trở thành một tội ác khi cưỡng dâm một thiếu nữ tàn tật vô phương chống cự. Tội ác kinh khủng mạnh bạo đó chỉ được thể hiện không những chỉ vì ham muốn của thể xác nhưng còn vì sự yếu hèn bệnh hoạn chỉ có thể được bầy tỏ trên một hình hài bất lực nhỏ bé là mẹ của Natalie! Mình đã được tạo dựng trong lòng mẹ và được sinh ra đời không phải vì tình yêu giữa người nam và một người nữ.

    Chỉ còn tiếng bước chân của Phương và Natalie vẫn dẫm đều trên mặt đường. Có tiếng xôn xao của cây lá chuyển mình. Xa xa có những tiếng động trong công viên. Và đúng như Natalie đã nói trước đó, từng bước chân, từng bước chân đã rũ bỏ bớt những điều nặng nề chất chứa đầy ngập trong đầu, trong tâm hồn nàng.

    Bỗng dưng Phương thấy mình ngượng nghịu và xấu hổ về những thứ có thể nói là may mắn trong cuộc đời mình. Những dư thừa êm ả của mình nên bị tước bỏ bớt và san sẻ cho Natalie đề những bước chân đang đi cạnh nhau sẽ đều đặn hơn.

    Nhưng Natalie vẫn tiếp tục nói về mình. Hay đây là cơ hội duy nhất trong đời được nói ra cho đến khi nào gặp được một người con trai, một người đàn ông hiểu và yêu mình. Natalie nghĩ như vậy.

    - Nhưng mẹ mình đả bỏ qua nỗi đau và nhục nhã ê chề đó mà sống vui khi đứa con ra đời. Mình là tất cả của mẹ! Không phải Thượng Đế đã rộng lượng và nhân hậu khi mang hình hài bé nhỏ là mình đến cho mẹ sao? Mình cũng đã cố suy nghĩ như vậy để có thể phần nào tha thứ cho tội ác mà người đàn ông kia đã gây ra. Nhưng may mắn thay đó là một người đàn ông vô danh. Tội ác đó đến từ một người vô danh được gọi là đàn ông trong thân xác nhưng vô tri đần độn trong tâm tưởng. Có phải trên đời này không cần có mặt những loại sinh vật nửa người nửa thú vật không nhỉ? Chỉ làm chật đất và bẩn mắt! Nhưng nói như thế thì dù muốn dù không trong Natalie cũng mang hơi hướm của giống loài nửa người nửa thú ấy! Nên những lần lang thang ở đây là gội rửa bớt giống loài đó ra khỏi thân phận mình!

    Phương chợt nắm tay Natalie:

    - Kể từ ngày hôm nay mình là bạn nhé! Bạn tốt đó! Mình trao đổi số điện thoại đi! Hãy đi chơi với nhau hay đi ăn với nhau khi có thể nghe!

    Natalie dừng bước, bàn tay vẫn đề yên trong cái nắm tay của Phương. Nhìn Phương, mặt Natalie dường như rạng rỡ hơn:

    - Ừ, mình làm vậy đi!

    Và họ đã trở thành bạn tốt từ ngày hôm đó.


    *


    Project số 5 của Phương là hình ảnh của Natalie nhưng câu chuyện thật về cuộc đời của Natalie không được ghi lại. Chỉ có câu chuyện tai nạn xe đạp đã đưa đẩy cho Phương có một người bạn mới. Người bạn mới có nước da ngăm đen, đôi mắt buồn tương phản với những nét mạnh bạo khác trên khuôn mặt cô ấy. Nhưng nếu không có những nét mạnh mẽ đó liệu Natalie có sống sót? Hay chính vì đôi mắt buồn nhưng rất dịu dàng của Natalie đã đưa cô ta qua khỏi những oán hận căm thù của một tội ác để đi đến tình yêu và lòng trắc ẩn?


    Mặc Bích
    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:18 AM.

  6. #6
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822


    Căn nhà không có số



    Quỳnh xoay chốt, mở cửa ra ngoài. Ngoái tay ra sau, nàng chỉ khép hờ. Mặt hồ sáng nay có mầu xanh đục, không trong như mọi ngày có lẽ vì trời nhiều mây. Xa xa trên đầu rặng núi có ửng chút ánh sáng nhạt nhòa như một hứa hẹn có chút thảng thốt nửa vời.

    Căn nhà bên kia hồ mùa này bị cây cối che phủ gần hết, chỉ thấy thấp thoáng vài đốm trắng, nâu lẩn khuất trong bát ngàn cây xanh. Những đốm trắng mới mát mắt làm sao! Lần nào cũng thế, khi vừa mở cửa sau ra sân là tầm mắt Quỳnh cũng bị chặn lại bởi cái mầu trắng lạnh lẽo và kỳ cục đó! Nào chỉ có thế thôi? Đi sau cái cảm giác lạnh và lạ lẫm là những tò mò về căn nhà không hề thấy bóng người. Nhưng nàng biết là có người ở vì đến chiều tối là thấy làn khói xam xám lửng lơ từ mái nhà bay lên. Mùa nào cũng thế. Nàng ở đây qua bao nhiêu mùa rồi nhỉ? Quỳnh chẳng muốn đếm vì có đếm hay không đếm thì xuân, hạ, thu, đông vẫn trôi qua. Cứ tảng lờ đi có lẽ lại dễ chịu hơn.

    Chung quanh im phắc. Quỳnh nghe rõ tiếng chân nàng dẫm trên mặt đất. Nghe như có một người nào đó đang đi cạnh nàng, cùng bước, cùng di chuyển và làm nên những tiếng động. Càng chú ý nghe ngóng lại càng cảm thấy rõ. Nàng dừng bước. “Người đó” cũng im luôn. Ngay đến cả tiếng thở của Quỳnh sáng nay sao nghe rõ thế! Nàng nghe thấy cả tiếng lồng ngực phập phồng lên xuống vội vã của mình. Một trái thông khô rơi tõm trước mặt Quỳnh làm nàng nhẩy nhổm lên, nhưng không hét! Miệng nàng chỉ há to mà không phát ra tiếng kêu. Nàng đã tập yên lặng từ bao lâu nay như vậy. Nói thế thật ra không đúng, quanh nàng có ai đâu để mà nói? Những tiếng nói chực phát ra lâu ngày chỉ được thầm thì rất nhỏ, kín đáo trong nhà, và được vây quanh bằng những đồ vật nàng yêu quý nhất.

    Ngắm nhìn cảnh vật ở một chốn heo hút mà quanh hồ Mitchell chỉ lác đác chừng 4, 5 căn nhà, Quỳnh tự hỏi đây liệu có phải là nhà của mình? Hay chỉ là một chỗ trú ẩn tạm bợ như thoạt đầu mới đến đây? Ở gần sát mặt hồ, cây đào năm nào Quỳnh mang theo từ thành phố về trồng nay đã cao vượt nàng. Mà kìa! Lốm đốm mầu hồng! Nàng đi nhanh xuống dốc về phía gốc đào. Quỳnh cười tươi khi nhìn thấy những bông hoa mầu hồng phấn rung rinh trước gió. Trong một ngày thiếu nắng, thiếu mây xanh, cái mầu hồng mới rực rỡ và yêu kiều làm sao! Không nhiều. Chỉ vài bông hoa mà làm dậy lên cái mùi thành phố. Quỳnh ghé sát mặt vào để ngửi cái mùi hăng hắc nhưng nồng nàn làm nàng ngây người. Đã tưởng rằng chốn thị thành phảng phất những bóng dáng mang đầy hệ hụy đã biến mất khỏi trí nhớ nàng rồi chứ? Chính Quỳnh đã tự tay mang cái mầu hồng vương giả kia đến đây trồng xuống, vun xới, để bây giờ cây đào trổ bông và nàng đòi quên!

    Quên và chạy trốn những điều đã trở thành một phần của mình từ bao giờ là một điều hoang tưởng! Quỳnh vẫn nói với chính nàng như thế nhưng vẫn khăng khăng đi ngược lại, thách đố, để xem ai thắng ai? Xem ra cuộc chiến ngay giữa chính mình là một cuộc chiến dai dẳng, bất phân thắng bại, và mãi đến ngày hôm nay, chỉ vì mấy bông hoa đào, chỉ vì mầu hồng đột nhiên nở giữa chốn núi rừng hoang vu mà nàng chợt thấy hoảng hốt! Sợ rằng mình sẽ thua cuộc! Thua chính mình! Sợ hãi sự yếu đuối mỏng manh chơi vơi lúc chìm lúc nổi mà vây bủa chung quanh là muôn ngàn cám dỗ mời mọc.

    Té ra con người của chính mình đáng sợ hơn mọi thứ trên đời này hay sao? Sợ vì biết nó rõ mồn một. Nó nằm đấy, khi là con trừu ngoan hiền, lúc lại nhe nanh, mọc sừng chực nuốt sống người khác, có lúc lại lửng lơ con cá vàng chập chờn bay lượn. Làm sao chỉ để có một con trừu ngoan hiền thôi nhỉ? Không gian này, thời gian đây có phải là cách duy nhất? Hay chính trong cái vắng lặng, soi mình dưới mặt hồ, mà bên cạnh nỗi cô đơn chỉ nhỏ bằng chiếc lá vừa rụng xuống mặt nước nhưng sự va chạm tuy nhẹ nhàng mà lây lan làm thành từng vòng lăn tăn lan ra, lan mãi đến tận giữa hồ hay xa hơn nữa, hình bóng phản chiếu của chính nàng lấp lánh chập chờn không chỉ cô lẻ mà thấp thoáng đâu đó Quỳnh vẫn thấy cả con quái vật dị kỳ đang cười thách đố bên cạnh con trừu hiền lành.

    Quỳnh ngắt một bông hoa, để trong lòng bàn tay. Mầu hồng của bông hoa dường như nhạt hẳn đi và lẫn vào mầu da nàng. Nàng biết chắc chắn bông hoa đào vẫn nguyên vẹn với mầu sắc tự nhiên của nó, nhưng nằm trên cây, cận kề với mầu mặt nước hồ, mầu bảng lảng của trời đất thì nó khác, mà nằm trong lòng bàn tay ửng hồng của nàng nó lại khác. Giống như.. mình vậy!

    Có lẽ nàng cũng cần phải xuống phố đi mua những thứ cần thiết dùng cho vài tháng, để nói chuyện với những người bán hàng, trao đổi vài câu chuyện bâng quơ, để nghe thấy chính tiếng nói của mình, không thì quên mất! Nhỡ lại tưởng tiếng nói đó của ai? Giống như những bược chân khi nãy tưởng của ai đó?


    *


    Cứ hai tuần Quỳnh xuống hộp thư ở bưu điện cách hồ Mitchell chừng 50 cây số để lấy thư từ. Gọi là thư từ, nhưng chỉ toàn là các thứ bill, giấy tờ ngân hàng hay những liên lạc cần thiết khác và quảng cáo. Quỳnh đã trốn biệt vào đây, còn ai biết nữa đâu mà thư với từ! Đi lấy thư vì phải trả bill điện. Người duy nhất có địa chỉ hộp thư của nàng là anh Huân, anh ruột Quỳnh. Anh Huân cũng chỉ có địa chỉ hộp thư chứ không biết chỗ ở của Quỳnh. Nàng đã nhất định đoạn tuyệt với cuộc đời bên ngoài và dặn dò anh chỉ liên lạc qua hộp thư khi thật cần thiết. Với số tiền mà hãng bảo hiểm nhân thọ đã trả cho nàng khi Bảo mất đủ bảo đảm cho nàng không phải làm việc gì đến mãn đời. Không con cái, không còn chút gì ràng buộc Quỳnh, chỉ có chính nàng tự trói buộc mình mà thôi!

    Căn nhà làm theo kiểu miền núi, nửa gỗ nửa gạch nằm trên triền đời thoai thoải nhìn xuống hồ Mitchell. Từ bên dưới mà leo lên được khu này cũng phải là loại xe mạnh, leo dốc khỏe. Và mùa đông thì thôi! Hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Sau nhà Quỳnh chất đầy củi đốt, thức ăn khô và đồ hộp cũng như các thức ăn đông lạnh bao giờ cũng dự trữ đủ cho cả 4, 5 tháng mùa đông. Quỳnh lại rất handy, mua sách về tự học hỏi và sửa chữa lấy mọi thứ trong nhà. Quả thật nàng không cần ai! Cũng có đôi lần phải gọi thợ, và những lần ấy Quỳnh phải trả tiền công bộn họ mới chịu đến đây!

    Lúc mới đến ở, nàng nghĩ đến chuyện đặt một cái tên cho căn nhà. Hàng chục cái tên khác nhau chen chúc chờ đợi cho Quỳnh chọn nhưng cuối cùng nàng quyết định không chọn tên nào cả. Một am, cốc có tên cũng là một nơi chốn làm người ta biết đến, còn căn nhà không có số? Không có căn nhà nào lại không có mang một con số? Chỉ có nhà của Quỳnh! Nàng đã gỡ những con số bên ngoài và ném xuống hồ. Khi hành động như vậy nàng có cảm tưởng như mình đang ném tất cả nhưng quy ước, luật lệ mà con người đã đặt ra bên ngoài cuộc đời kia xuống hồ. Là một căn nhà không có số cũng chẳng khác gì không thừa nhận những luật lệ đó. Và Quỳnh đã rất hài lòng với chính mình khi nghĩ như vậy, mặc dù nàng vẫn bị Ty điện lực quấy rầy vì “không có số nhà”.

    Từ cây đào gần sát mặt hồ nhìn ngược lên căn nhà, Quỳnh nhìn thấy một vài vách tường bên ngoài cần phải sơn lại trước khi mùa đông sắp tới. Nàng lại có việc để làm. Có lẽ lần này xuống phố phải mua thêm nhiều thứ. Phải xem lại chiếc xe. Chắc nàng phải mất nửa buổi! Nửa buổi giữa nơi phố phường đông đảo rồi trở về “nhà” và càng thấy cuộc đời của mình ở đây bình an và giản dị như nàng hằng mong muốn là một điều có nghĩa lý.

    Bông hoa đào được Quỳnh thả vào bát nước con con trong vắt và để trên kệ sách sát tường gần lò sưởi.

    “Xem nó đẹp được bao lâu?” Quỳnh thầm nghĩ. “Giỏi lắm là đến ngày mai!”

    Đêm đó nàng nằm mơ thấy vẫn cây đào nọ nhưng to lớn dị thường, cành lá mọc dài đâm nhánh xuyên vào tận trong nhà và nở hoa sực nức, cái mùi của cuộc đời mà nàng đã từng trải qua. Những nhánh, những lá, những hoa của cây đào tràn hết trong các phòng, lên cả giường ngủ của Quỳnh. Những bông hoa đào và mầu hồng rực rỡ phủ kín cả thân hình Quỳnh. Nàng không còn nhìn thấy mình đâu nữa…

    Tỉnh dậy. Quỳnh đến kệ sách tìm bông hoa đào. Bông hoa nhỏ bé vẫn lềnh bềnh trong chiếc bát nhỏ, mầu vẫn hồng, vẫn y như lúc nàng hái hôm qua.



    *


    Mở hộp thư, nàng chẳng buồn nhìn mà cất hết vào chiếc xắc tay khá to đeo trên vai. Đến garage sửa xe, người thợ quen mặt nhìn Quỳnh rồi hỏi:

    - Xe cô mới check đây mà! Chừng 2, 3 tháng chứ bao nhiêu? Bữa nay bị sao đây?

    - Chỉ muốn nhờ anh coi có gì trục trặc cần sửa không, sắp tới mùa đông rồi!

    - Tôi mới coi đây mà! Để coi nào..

    Anh ta chỉ tờ giấy nhỏ xíu dán bên hông cửa sổ xe.

    - Thấy chưa! Mới hồi tháng tám! Để coi từ tháng tám đến nay cô chạy bao nhiêu miles?

    Không đợi Quỳnh trả lời, anh ta nói luôn:

    - Chạy ít xịt! Có chừng 200 miles. Xe tốt! Không sao đâu! Mà mùa đông tới cô đâu có chạy mấy phải không? Đợi qua mùa đông coi lại luôn thể.

    Quỳnh cám ơn người thợ máy rồi ghé vài chỗ mua một lô đồ dự trữ cho mùa đông. Nàng không quên mua sơn để sơn lại bên ngoài tường nhà. Tự dưng nàng lại nhớ đến anh Huân và câu chuyện hai anh em trao đổi với nhau lần cuối trước khi Quỳnh dọn về đây.

    - Quỳnh ở một mình lỡ có chuyện gi không ai biết thì sao? Ốm đau, bệnh hoạn rồi sao?

    - Em lo lấy được. Còn chuyện mà anh muốn nói đến thì nếu chết ở đâu cũng có thể chết. Vậy có gì đâu mà anh phải quan tâm? Em có ghi ở hộp thư nếu quá sáu tháng không thấy ai lấy thư, họ sẽ liên lạc với anh. Còn tiền thuê hộp thư em trả một lúc cả 5 năm, anh khỏi lo.

    - Tại sao phải làm như vậy?

    Quỳnh đã không trả lời anh Huân. Nàng giữ câu trả lời cho riêng mình. Nàng còn nhớ vẻ mặt băn khoăn của anh Huân làm Quỳnh suýt mềm lòng.

    Nàng chỉ muốn mua đồ cho nhanh cho chóng để trở về, làm như ở đây lâu thêm giờ phút nào nàng sẽ đổi ý ở lại và không quay về nữa! Lần nào nàng cũng giải quyết tất cả những việc cần phải làm thật nhanh rồi quày quả lên xe lái một mạch về. Đi như đi trốn!


    *


    Cất hết mọi thứ vào kho xong cũng làm Quỳnh mệt nhoài. Nàng mệt không phải vì khuân vác, mà chính vì cái hơi hướm thị thành còn quấn quít đâu đây! Quỳnh đổ hết cả những đồ trong xắc ra bàn. Lần này nàng có nhiều thư hơn thường lệ. Quảng cáo, bill, và.. gì nữa đây? Quỳnh choáng người khi thấy nét chữ và tên anh Huân! Phải là một cái gì quan trọng lắm đây! Nàng chưa muốn bóc ra. Nàng chưa sửa soạn đủ để biết. Hãy để đến tối! Hay đợi đến mai! Nàng đang tìm cách lần lữa với chính mình!
    Cái thư nằm yên trên bàn nhưng Quỳnh không yên ổn. Đi ra đi vào, nàng cố tránh không nhìn đến nó. Nhưng ngay trên những trang sách mà nàng đang dọc dở, Quỳnh vẫn nhìn thấy bức thư đang chờ đợi và hàng nghìn câu hỏi làm nàng bứt rứt.

    Nàng có nên bóc ra đọc để rồi sẽ mất ngủ, hay đợi đến ngày mai, ngày mốt, mà không chừng vẫn bị mất ngủ? Trong căn nhà này không còn mình Quỳnh nữa! Bức thư nằm kia là một sự hiện diện của “ai đó”! Nàng trì hoãn đến bao giờ mới thấy mình sẵn sàng? Sự kéo dài chỉ làm nàng chới với thêm! Giống như một người sắp chết ngộp! Càng lúc càng ngộp thở thêm vì thiếu không khí!

    Quỳnh mở hé cửa sổ. Có mùi củi đốt thoang thoảng luồn vào khẽ nhắc nhở cho Quỳnh biết không phải chỉ có mình nàng ở giữa núi rừng.

    Nàng đến gần, nhìn bức thư. Cầm lên. Lại gần lò sưởi. Ngồi xuống. Tay vẫn cầm lá thư. Ánh lửa bập bùng từ lò sưởi hắt ra làm thành những vệt sáng nhẩy múa trên tay Quỳnh, trên bức thư. Nàng mân mê mặt giấy, tần ngần tìm chỗ bóc.

    Bên trong là một lá thư khác với nét chữ.. Tay cầm lá thư mà run. Người Quỳnh lạnh ngắt. Ngay lúc này chỉ có một chọn lựa: đọc hay không đọc? Đọc đây không phải để biết vì nàng đã hiểu. Cho dù nàng có trốn đến tận cùng trái đất thì vẫn không thoát! Làm sao thoát được một cái gì đã trở thành một phần của nàng từ lâu, lâu lắm. Cho dù như thế đi nữa, cái cảm tưởng lúc mờ mịt lúc thật rõ ấy vẫn chỉ là những cảm nhận không thể giải thích, phân tích hay đụng chạm được. Vẫn như những ý tưởng trong đầu nàng, hay dù là hình bóng thì vẫn chỉ là bóng!

    Còn lá thư này là một thực thể trước mặt nàng, có bút tích hẳn hoi, từng đường nét lên xuống phóng khoáng mà đẹp đẽ. Có những gì trong đó? Thương yêu, trách móc, hay là những tiếng tình yêu bất kể..? Có thể là sôi bỏng lắm mà cũng có thể là lạnh ngắt như cả người Quỳnh đang run rẩy.

    Đã trốn không được thì tại sao lại không đọc?

    “Tháng bẩy..

    Yêu Quỳnh cho đến chết. Cho dù không bao giờ gặp lại nữa Chương vẫn yêu Quỳnh. Ngày tháng trôi qua chỉ làm cho tình yêu ấy sâu đậm hơn. Có Quỳnh hay không có Quỳnh, tình yêu ấy vẫn như thế”

    Có ngần ấy câu cũng đủ nhận nàng chìm lỉm! Tưởng đâu có thể chết đuối trong đó! Bỏ bức thư vào túi áo, Quỳnh mở cửa ra ngoài màn đêm.

    Le lói bên kia hồ có ánh đèn. Chấm đèn vàng nhỏ xíu leo lét. Nàng ngồi xuống bậc thềm và có cảm giác Chương đang ngồi bên cạnh. Ngay trong lúc này, nàng muốn ngả đầu vào vai chàng và để mặc những tình cảm giấu kín được phơi bầy, để được sống thật như nàng muốn và sợ hãi. Những con mắt đỏ rực của dã thú quanh đây sẽ nhìn thấy những đam mê nồng nhiệt đang bị nhốt kín trong nàng bung ra như những ánh lửa trong đêm đen mà những tàn lửa bốc cao bay tỏa khắp nơi thiêu trụi cả núi rừng. Trong bóng tối, Quỳnh không thấy được làn má đỏ au của mình nhưng toàn thân nàng, da thịt nàng đầy ắp như được bơm hơi, như sắp nổ tung, như con sâu đang cố banh da rách thịt để chui khỏi cái kén giam giữ nó bấy lâu nay.

    Như người mộng du, Quỳnh cởi áo khoác ngoài, đi lần xuống hồ. Nàng chỉ giữ lại hai mảnh áo lót mỏng manh. Bước những bước vội vã trên mặt gỗ của chiếc cầu hẹp. Nàng lao mình xuống hồ. Nước lạnh buốt làm nàng tỉnh táo hẳn. Quỳnh bơi một hai vòng ngắn rồi nhoài người lên ngồi vào trong lòng chiếc thuyền con buộc ở chân cầu. Nàng không biết mặt mình đẫm nước hồ hay do một cái gì khác, nhưng Quỳnh ngồi thu nhỏ lại, hai đầu gối co cao che kín ngực. Nàng ước gì mình có thể nén người nhỏ lại, nhỏ thật nhỏ.. rồi biến mất!

    Nàng ngồi như thế lâu lắm. Nàng nhìn thấy cả con trừu hiền lành và con quái vật vĩ đại đang cười ngạo nghễ thách thức! Khi sương đêm che lấp ánh đèn bên kia hồ, Quỳnh mới quay vào nhà. Hai mảnh áo lót của nàng trắng toát không thua gì mầu sơn trắng của căn nhà bên kia hồ là điểm di động duy nhất trong đêm.. xa dần và khuất sau cánh cửa ập lại.

    Lá thư của Chương vẫn nằm trong túi áo. Nhìn trong gương, Quỳnh không nhận ra mình. Nàng đang nhìn ai đó. Cặp mắt kia sao sáng quá, long lanh như có đốt nến. Cả gò má, đôi môi kia, không giống như nàng nhìn thấy mỗi ngày từ bao lâu nay. Mà không chỉ có thế, cả người nàng, trong cũng như ngoài, như đã được lột đi một lớp vỏ dầy cộm và hé ra làn da mới, non, và tràn đầy sức sống.. ở một con người khác đang nhìn trả lại Quỳnh. Cái nhìn nửa diễu cợt nửa thương hại! Diễu cợt cho sự sợ hãi ở nàng, thương hại cho Quỳnh không dám sống như Quỳnh muốn. Cười cợt trên sự ngu muội ở một con người chỉ biết sống như người khác, như cuộc đời muốn nhào nặn như thế.

    Nàng để tay lên mặt gương soi, hoang mang không biết tìm mình ở đâu? Ngay trước mặt đây hay phải trở lại ra ngoài sục xạo tìm kiếm?


    *


    Sáng hôm sau, Quỳnh thu xếp quần áo bỏ vào trong valise. Nàng thu xếp, đi lại trong nhà như đang đi trong một cơn mộng mị. Ra ngoài, nàng đẩy những cánh cửa gỗ lớn che cửa sổ và khóa lại. Quỳnh kéo chiếc thuyền con lên bờ, đun vào gầm nhà.

    Vào trong, nàng kiểm điểm mọi thứ, tay xách valise tần ngần nhìn quanh. Bỗng dưng nàng lại mở cửa ra sân sau. Tay vẫn xách chiếc valise nhỏ, Quỳnh xuống chỗ cây đào. Chỉ một ngày mà đã khác. Cây đào không chỉ còn là những lốm đốm hoa thưa thớt mà rực sáng ở một góc với những chùm hoa nở tung. Nàng đứng bên cạnh cây đào nhìn sang hồ bên kia. Ngày hôm nay trời trong vắt, nắng vàng như lọc và cái mầu trắng bên kia dường như nhạt hơn và thành một mầu gì khác.

    Khóa cửa trước. Bỏ valise vào trong xe. Quỳnh lùi xe mà không hề quay đầu nhìn lại ngôi nhà, ngôi nhà không có số.

    Bên kia hồ, người đàn ông vẫn dán mắt vào chiếc ống nhòm tối tân để theo dõi từng cử động của Quỳnh. Thời tiết tốt, tại sao cô ta phải đóng cửa? Đâu có cơn bão nào sắp đến đâu? Cô ta xách valise? Đi xa? Một thời gian?

    Ông ta thấy buồn bã vô cùng! Hình ảnh nàng đã trở thành một phần trong đời sống hàng ngày. Ông đã thao thức cả đêm qua không ngủ được khi tình cờ nhìn thấy nàng trong manh áo lót mỏng dính nhào xuống hồ. Ngồi trong lòng thuyền, tóc nàng, mặt nàng, thân thể nàng ướt, và từng mảnh vải dính vào làn da mới mời mọc làm sao!
    Đã quen với hình ảnh nàng bao ngày tháng. Đã từng băn khoăn khi thấy vắng bóng nàng trong những giờ giấc quen thuộc. Nhìn nàng qua ống nhòm như xem một phim câm ngày xưa, chỉ khác cuốn phim có mầu và mãi hoài không có đoạn kết.


    *


    Đoạn đường nàng đã đi qua biết bao nhiêu lần, rõ từng ổ gà, cụm cây. Những cảnh vật đang ngoái nhìn nàng. Cây lá xôn xao trong gió như cất lời gọi. Nàng lái xe bừa vào những ổ gà mà không né tránh như mọi lần. Chiếc xe dằn xóc lên xuống như vật vã kêu than.

    Khi những bảng chỉ đường xuất hiện và vài xe cộ lác đác vượt qua nàng, Quỳnh bỗng chạy chậm lại. Nàng nhìn bàn tay đang hờ hững trên tay lái. Mu bàn tay không còn căng dưới ánh nắng xuyên qua ô cửa kính. Những ngón tay xương xẩu, và làn da có những phần nhăn và thành ngấn. Chỉ thế cũng đủ để nàng tìm một chỗ quẹo và vòng trở về.

    Lần lái về, nàng cẩn thận tránh những ổ gà dù mắt nhìn không còn rõ lắm. Nhưng dù cho nhìn không rõ, nàng vẫn thấy những nếp nhăn trên mu bàn tay, dù thật nhỏ. Căn nhà không có số đang chờ nàng trở về để mở những lớp cửa khóa bên ngoài.

    Như một cuốn phim quay ngược. Người đàn ông lại nhìn thấy Quỳnh. Mở những cánh cửa. Đẩy chiếc thuyền xuống chân cầu. Đi trở ngược lên và mở cửa vào nhà. Ông biết chắc rằng chiều nay sẽ vẫn nhìn thấy làn khói xám từ mái nhà nàng bay lên, như mọi ngày.


    Mặc Bích
    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:19 AM.

  7. #7
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822



    Ngày chim thôi hót





    Tiếng chim hót réo rắt, lảnh lót quen thuộc trong đêm u tịch làm Trâm thấy buồn bã. Từng tiếng, từng tiếng nhỏ giọt, trĩu nặng trong bóng đêm và hòa nhịp với tiếng thở của thiên nhiên. Trời đất đang phà từng hơi thở nóng và ẩm ướt của một đêm hè trăng sáng lên cây cỏ, lên mặt Trâm và để lại từng khoảng da thịt rịn mồ hôi và nhớp nháp. Ánh trăng dịu dãi lên những chòm cây trong vườn, luồn vào kẽ lá, tô bóng một vài khoảng sáng ngợp. Lẫn lộn trong không gian tiếng hát ê a của bà nội vọng ra trong căn chòi gỗ dựng sau nhà. Ở đó ánh trăng không rọi tới nổi vì nhiều cây lớn chắn ngang. Vẫn bài ru quen thuộc Trâm nghe hàng biết bao năm nay:

    Cánh hồng bay bổng trời thu
    Thương con chim gáy cúc cu trong lồng
    Duyên may, tay bế, tay bồng
    Thương ai vò võ trong phòng chiếc thân

    Chữ chiếc thân cuối câu bao giờ cũng được kéo dài theo tiếng ngân nay đã khàn đục và tắt bằng tiếng cười kỳ lạ của bà. Tiếng cười làm Trâm nổi da gà. Trâm cố nghĩ đến một hình ảnh khác để xua đuổi những sợ hãi đang xâm chiếm mình. Lộc! Lộc lúc này đúng là một cái phao. Lộc và những câu nói sáng qua..

    - Sao có những lúc em lạnh nhạt như giận dỗi hay chẳng biết đến anh là ai?

    - Tại vì lúc đó em không cần anh.

    - Như vậy đâu phải là tình yêu?

    - Vậy như thế nào mới là tình yêu?

    - Đó phải là một sự cần thiết, gắn bó và quyến luyến.

    - Có gì vĩnh cửu đâu?

    - Sao điều gì em cũng nghi ngờ vậy?

    - .. Em chỉ biết em ngày hôm nay, còn ngày mai? Sao biết được!

    Trâm nhớ mình đã bật khóc ngay sau khi nói câu đó. Chẳng bao giờ ai có thể hiểu nổi. Nàng khóc cho vơi nỗi sợ hãi ngày một lan mạnh. Khóc cho mình, cho những điều mình đang có và sẽ mất. Không thể nói cho Lộc nghe được. Chàng đứng ở một nơi bằng phẳng, chắc chắn, không thể cảm nhận được nỗi chông chênh của một kẻ đang sắp rơi vào bóng tối. Khóc cho nỗi bất lực của mình trước những xâm chiếm lạ kỳ. Tình yêu mà Lộc nhắc đến như một đốm sáng hiu hắt ở bên kia giòng sông, lúc mờ lúc tỏ. Đốm sáng là niềm vui quá nhỏ bé so với bóng đêm tràn ngập khắp nơi.

    Lộc đã cuống quít lau những vệt nước mắt trên má Trâm bằng những ngón tay thô kệch, cứng và sặc mùi thuốc lá:

    - Đừng khóc… anh chỉ cần có em thôi Trâm.

    Những giọt nước mắt trả lại cho Trâm sự thăng bằng. Nàng yên lặng nghe Lộc nói.

    - Mình tìm người săn sóc cho bà nội em rồi tụi mình kiếm đường vượt biên. Sang được bên kia, mình gửi tiền về cho người ta lo cho bà. Đâu có khó gì đâu thấy không em?

    Có lẽ Lộc còn định nói nữa về một tương lai nhưng Trâm đã nắm tay chàng bóp mạnh và ngắt lời:

    - Đừng nói đến chuyện đó nữa anh!

    - Tại sao?

    - Em không làm điều đó được!

    - Tại sao không? Bà đâu có nhận ra em đâu? Ai săn sóc chẳng thế.

    - Em bảo không!

    Trâm đã mím môi quyết liệt trả lời. Trâm nhất định vì chẳng còn đường nào khác để chọn.

    - Tại sao em bướng?

    Lộc hỏi mà giọng có vẻ van nài và khổ sở. Trâm biết tình yêu nằm ở đó, trong ánh mắt thiết tha mà trách móc của Lộc. Nhưng nàng không làm khác hơn được! Thà dứt khoát từ bây giờ, có đau đớn nhưng còn hơn là thất vọng! Để cho Lộc đi, ra khỏi tình yêu này. Nàng nhớ mình run rẩy và can đảm vô cùng khi trả lời Lộc:

    - Tại vì.. em không yêu anh!

    Trâm đã để mặc Lộc ngồi sững sờ. Nàng ra vườn, đến gần căn chòi gỗ của bà nội, Trâm đưa tay níu lấy cánh cửa gỗ vô tri và ngửa cổ nhìn lên tàng cây xanh rì sát đó ngăn cho giọt nước mắt chực trào khỏi khóe mi.

    Nàng tìm chìa khóa cửa trong túi áo và mở cửa bước vào căn chòi gỗ. Mùi ẩm mốc và khai xông lên nồng nặc. Trâm nhìn bà nội đang ngủ say sưa trên chiếc giường nhỏ kê sát vách. Mái tóc cắt ngắn trẻ thơ trên khuôn mặt nhăn nheo hằn những nếp của thời gian. Chòm lông mày bạc rủ xuống, làn môi mỏng và nhạt gần như lẫn với mầu da mặt, hơi trễ xuống và rung động nhẹ nhàng theo nhịp thở đều hòa. Trong giấc ngủ trông bà hiền hòa với cặp mắt khép chặt. Chòm lông mày bạc thưa thớt rủ xuống cặp mắt sâu nhắm nghiền. Chiếc mũi nhỏ và gọn hơi phập phồng theo nhịp thở. Những vết trũng trên gương mặt chạy ngang dọc thành những vết nứt rạn của năm tháng.

    Tiếng ngáy và thở bằng miệng tạo thành những tiếng động kỳ dị, đều đặn vang lên trong căn chòi. Bà cụ già nằm nghiêng, tay ôm chiếc gối nhỏ như tìm một sự che chở nào đó. Trong tư thế ấy, một ống quần đen nhầu nát bị kéo lên cao đến nửa bọng chân, lộ làn da bạc nhược và héo quắt. Trông bà chẳng khác gì một cành củi mục nằm vất vưởng, bị lãng quên và đang tàn rữa theo thời gian.

    Trâm thấy xúc động, không hiểu vì tình ruột thịt giữa bà cháu hay vì những cảm xúc đối với Lộc khi nãy còn sót lại? Nàng thấy tội nghiệp cho bà, cho mình và cho những ngày sắp tới. Tội nghiệp cho những người bị.. bỏ rơi như Trâm, như bà nội.

    Mối giây liên hệ thiêng liêng rung những tiếng vang kỳ bí, đánh động những thông cảm, những tình cảm sâu xa mà chỉ có người cùng huyết thống mới cảm thấy cho dù xa cách đến đâu. Trâm vẫn thường tự hỏi:

    “Tuổi trẻ của bà ra sao? Có lúc nào bà nội nhớ lại được những ngày đã qua không nhỉ? Có lúc nào bà tỉnh giấc không? Hay cứ triền miên trong cơn mê, trong thế giới huyền hoặc đó? Tại sao ngày nào bà cũng ca bài đó?”.

    Tất cả những câu hỏi đó được ném vào khoảng không của một người không sống trong thế giới này. Tưởng tượng đó là một thế giới.. của trẻ thơ. Được người khác lo cho từng bữa ăn, manh áo. Mọi sự diễn biến chung quanh là những điều kỳ lạ mà dưới con mắt ngơ ngác tất cả đều là vô nghĩa. Thế giới đó không có những khắc khoải, âu lo mà chỉ có những tâm hồn trống trơn, trắng xóa và không một vết tích lưu lại. Thế giới ấy không có sự hiện hữu của thời gian và không gian. Không có đợi chờ và cũng chẳng mảy may hy vọng. Đó là cõi mộng của những con mắt, nhìn cuộc đời nhưng không thấy cuộc đời tuy vẫn trôi nổi trong giòng đời như một thứ rong rêu.

    Trâm nhớ mình ngồi trong đó khá lâu cho đến khi nỗi buồn chín ửng và rơi rụng đâu mất, để lại một hồn bình lặng và rỗng không.
    Ra đến ngoài, Lộc vẫn còn ở đó. Ánh mắt dò hỏi và lo âu của chàng lướt nhanh như tìm kiếm:

    - Em có sao không?

    Trâm thản nhiên trả lời:

    - Không, chẳng sao hết.

    Lọc ngần ngừ định nói gì rồi lại thôi. Trâm lặng lẽ lên nhà trên. Lộc nói với:

    - Anh về. Mai anh đến.

    Trâm không quay đầu lại nhưng Lộc nhìn theo thấy bước chân nàng đi chậm lại và hơi khuỵu xuống…


    *


    Tiếng ông Tư cằn nhằn ở phòng bên:

    - Đêm nào cũng mất ngủ vì bà già điên. Một hồi chắc cũng muốn khùng theo!

    Bà Tư nhỏ nhẹ khuyên:

    - Tội nghiệp bà ấy! Để bà ta đi đâu bây giờ? Dù sao mình cũng mang ơn gia đình này. Cứ để bà ở đó. Bà ta già lắm rồi sống được mấy nỗi!

    - Mà cái gia đình cũng kỳ mình nhỉ? Đi hết để lại cô Trâm với bà già, làm như cô ấy với bà già có liên hệ còn mấy người kia thì không.

    Trâm nghe đến đây mà thấy lạnh toát. Những điều bất thường, những thay đổi kỳ lạ đến với Trâm làm nàng sợ hãi. Nó như mực nước đang từ từ dâng lên, một đe dọa không rõ rệt, âm thầm, lặng lẽ nhưng làm Trâm run sợ. Thỉnh thoảng nàng nghe thấy những tiếng thầm thì, nói chuyện lao xao ở bên tai như có một người nào đó ở gần và đang ghé sát vào tai Trâm mà nói hay đôi lúc như có một người khác chui vào trong mình và se sẽ nói với Trâm những lời kỳ dị. Nó như những mê hoặc và cứ nhuộm mầu dần từng nhánh nhỏ trong cơ thể mình.

    Đó không phải là một điều Trâm tưởng tượng. Nàng thấy, nàng nghe rất thực. Không có một sự trao đổi nào lúc đó, Trâm chỉ hoàn toàn nghe, nghe với lòng bỡ ngỡ. Nàng bịt tai lại vẫn nghe thấy. Nó như một cái đĩa hát cứ lải nhải nói không ngừng, bỏ lại Trâm trong hoang mang và sợ hãi.

    Mình có giống bà nội không? Câu hỏi vừa được đặt lên là gai ốc Trâm nổi đầy người. Nàng buột miệng nói to:

    - Không!

    Nhưng kỳ lạ thay, nàng la to mà âm thanh không thoát khỏi cổ họng. Nó ngừng lại ở cổ và dội ngược vào bên trong, vang động trong từng thớ thịt và luồn lách vào từng khớp xương, rung chuyển làm Trâm nhăn mặt vì nhức nhối. Tiếng “Không” lặn vào bên trong và vỡ thành từng mảnh nhỏ, vang vang, lùng bùng trong tai Trâm như một từ khước tuyệt vọng. Bên trong tai tiếng thì thầm quen thuộc làm Trâm co rúm người lại. Nàng ngồi nép vào tường, hai chân co lên ngực, gọn và thu nhỏ như một đứa trẻ con sợ hãi trước một áp lực khổng lồ.

    Nàng ngồi yên, nhắm mắt để mặc bóng đêm và nỗi sợ hãi bao la chập chùng vây kín. Nhưng tiếng người thầm thì nhỏ to như mê hoặc và đưa Trâm vào một cơn mộng mị dị thường. Những căng thẳng, sợ hãi tan biến.. mất dần. Người nàng mềm ra, đầu óc như say như tỉnh.

    Trâm đứng dậy và mở cửa ra sân. Tiếng mở cửa trong đêm nghe rõ mồn một.
    Tiếng bà Tư hỏi lớn:

    - Ai vậy?

    Trâm chẳng trả lời, nàng để cửa mở tung và đi ra vườn. Đêm đang độ chín mùi. Mùi sương đêm, hơi đất ẩm, mùi cây cỏ, tỏa rộng, càng lúc càng nhiều. Đêm như được tẩm hương hoa, mật ngọt, căng ra và loang loáng trên từng ngọn cây, phiến cỏ, đánh bóng những mặt lá và dãi đầy trên mái nhà một mầu trắng huyền hoặc.

    Trong những lùm cây, Trâm thấy thấp thoáng những bóng người lúc ẩn, lúc hiện. Có những khuôn mặt xa lạ, có những khuôn mặt quen thuộc. Tất cả đều cười với Trâm và những bóng hình đó nhẩy múa xôn xao làm cây lá cũng nghiêng ngả theo. Trâm nhìn bằng cặp mắt ngơ ngẩn và si dại. Những hình ảnh hay những cơn mộng mị đó là từng vệt mực nhỏ giọt vào Trâm, thấm dần và tô đen từng khoảng trong ký ức Trâm. Mầu đen loang đến đâu, ký ức cứ biến dần đi, để lại cả một vùng trời dẩy đặc, nặng nề và u tối.

    Nàng cứ đứng yên như thế, rất thụ động và để mặc bóng đen ấy lấn lướt trên mình. Những giọt sương làm ẩm mái tóc. Mùi cây cỏ, đất trời rạo rực thấm vào từng khe tóc, từng lỗ chân lông. Và bên tai vẫn những lời lẽ nhỏ to thầm thì. Trâm nhận biết những điều đang xảy ra, cho mình, không còn sợ hãi mà cũng chẳng hân hoan. Những lời thầm thì đó như những lời cầu kinh, lúc trầm lúc bổng, dai dẳng và chế ngự nàng, chôn chặt Trâm đứng yên một chỗ mãi cho đến khi.. đêm đã tàn. Màn đêm cứ bạc dần, mỏng dính. Những lời thầm thì cũng nhỏ dần, thưa đi và chìm đâu mất biệt.

    Trâm quay trở vào nhà. Nàng lặng lẽ nằm xuống chiếc giường con, kéo chăn kín cổ và nhắm mắt ngủ ngon lành. Tiếng bà cụ hát ngoài chòi gỗ cũng đã ngừng.
    Trong khu vườn, tiếng chim ríu rít vẫn vọng về cho những người lấy đêm làm ngày và cho những tâm hồn đang mở rộng để lắng nghe từng lời ca của thiên nhiên và của tiếng lòng xôn xao.


    *


    Bà Tư đặt đòn gánh xuống đất và tìm trong thúng chiếc ghế đẩu nho nhỏ để ngồi. Hai thúng hàng để hai đầu với những giây quang gánh cong và bóng lộng. Trong thúng có đủ thứ: một góc để vài trái chanh, dăm củ hành tây, tỏi, cà chua. Góc thì bầy vài bỏ bánh phở khô được buộc bằng những sợi giây lạt tước ra. Bà Tư cầm chiếc nón phe phẩy, miệng lẩm bẩm:

    - Mới sáng sớm mà đã nóng như vầy! Ngày hôm nay chắc buôn bán chẳng ra làm sao!

    Những chú ruồi đã mon men bay lại. Chúng đậu đây một chút, kia một chút, vo ve tìm miếng ăn. Bà Tư bực dọc xua xua và nhăn mặt. Bạn hàng hôm nay cũng không có mấy. Mọi ngày có Trâm đi theo, hôm nay bà Tư chờ mãi mà Trâm không ra khỏi phòng nên bà đi trước.

    Nhớ đến gia đình Trâm, bà lại thở dài. Bà đã giúp việc cho ông bà Sang, ba má Trâm, hàng bao năm nay. Tình chủ tớ lâu ngày đổi sang ruột thịt từ bao giờ. Đến khi cả nhà đi Mỹ hết để lại bà cụ điên và cô Trâm, bà Tư mới thấy cái tình thân thương đó chuyển hết sang Trâm. Một phần cũng thương hại Trâm nữa. Còn bà cụ già? Đó là một hình ảnh quen thuộc, một chỗ nhất định trong gia đình đó để tạo nên hoàn cảnh như ngày hôm nay. Sự có mặt của Trâm hiện tại cũng vì bà cụ đó. Bà Tư đã quá quen thuộc với từng khuôn mặt trong gia đình này nên mọi sự với bà đều bình thường, ngay cả sự điên loạn của bà cụ già. Đối với bà, cuộc đời có người này, người kia. Sao gia đình bà Sang lại để Trâm và bà cụ ở lại? Bà chẳng hiểu nổi!

    - Chào dì Tư.

    Bà Tư ngừng tay quạt ngẩng lên nhìn:

    - Cậu Lộc!

    - Trâm đâu dì?

    Bà Tư ngẩn người một lúc mới trả lời:

    - Không biết nữa cậu! Đêm rồi cô ấy thức khuya nên sáng không thấy ra khỏi phòng. Tôi chờ hoài không được nên đi trước. Cậu ghé nhà coi.

    Bà Tư thấy rõ vẻ lo lắng và băn khoăn trên gương mặt người thanh niên trước mặt bà. Bà lo âu hỏi tiếp:

    - Có chuyện gì không vậy cậu?

    Lộc gượng gạo đáp:

    - Dạ.. chắc không.. Dì Tư này..

    - Sao cậu?

    - Dì có thấy Trâm không giống mọi khi không?

    Bà Tư ngỡ ngàng hỏi lại:

    - Cậu nói sao tôi không hiểu?

    Lộc xua tay:

    - Thôi, không có gì đâu dì.. Để cháu ghé nhà tìm Trâm.

    Bà Tư không hỏi nữa mà chỉ tò mò nhìn Lộc. Trước khi bỏ đi, Lộc không quên quay lại chúc:

    - Dì bán đắt hàng bữa nay nhé!

    - Cám ơn cậu.

    Tuy miệng nói cám ơn nhưng trong bụng bà Tư đang càu nhàu:

    - Sáng sớm mai mua bán đâu không thấy mà chỉ nói chuyện tào lao!

    Tuy nhiên bà không khỏi suy nghĩ về những lời nói của Lộc. Trâm có gì thay đổi? Có thay đổi không nhỉ? Bà đâu thấy gì đâu? Bà lại tự nhủ:

    - Ôi! Chắc lại ghen tương chứ gì?

    Nghĩ đến đó bà cười vu vơ, tay vẫn quạt phe phẩy dưới cái nóng bắt đầu hừng hực trên từng mái tôn, trên lề đường bụi bặm không bóng cây.


    *


    Lộc yêu con đường dẫn đến nhà Trâm. Con dốc ngoằn ngoèo với lề đường xi măng nứt nẻ. Những đám cỏ xanh um thừa dịp mọc xen kẽ vào những đường nứt, vươn cao, thách thức bước chân người qua đường. Ở cuối dốc xưa kia là một tiệm sách nay biến thành văn phòng liên lạc của phường. Những bức tường trong tiệm xưa kia treo đầy những tranh của họa sĩ Nguyên Khai nay được thay thế bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch và cờ xí đỏ chói. Hai bên đường giữa con dốc, những bụi hoa quỳ vàng rực cả một góc.

    Mầu vàng làm ấm lên vẻ hoang tàn của nhà cửa chung quanh. Những bụi hoa quỳ không người săn sóc mà vẫn tươi tốt, hoa nở đầy ngập. Hoa quỳ rực rỡ đẹp đẽ thế kia rồi cũng có ngày sẽ bị nhổ đi thay bằng trồng khoai sắn. Lộc nghĩ đến điều đó và chán nản đi nhanh vào nhà Trâm. Chàng đập cửa mãi mới thấy có tiếng động trong nhà. Thằng con nhỏ của dì Tư thò đầu ra nhìn:

    - Có cô Trâm ở nhà không cháu?

    Nó gật đầu và mở cửa. Lộc xoa đầu thằng bé và lững thững đi vào nhà trong. Căn nhà tối om với những tấm màn kéo kín. Mọi sự vẫn như thường ngày mà sao Lộc nhìn với cặp mắt nghi ngại? Bảo Trâm thay đổi hay Lộc đang thay đổi?

    Lộc đi sâu vào trong nhà với những câu hỏi càng ngày càng nhiều.
    Chàng gọi khe khẽ:

    - Trâm ơi! Trâm!

    Thằng bé chạy theo nói với:

    - Cô Trâm ở ngoài vườn á!

    Lộc quay lại nhìn nó, cười tỏ ý cám ơn và đi ra vườn sau. Chàng thấy Trâm đang nhổ cỏ chung quanh chòi gỗ. Dáng Trâm nhỏ bé trong chiếc áo cánh trắng đang cúi lom khom làm sạch cỏ. Tiếng chân bước của Lộc làm nàng giật mình quay lại. Mái tóc hơi bù, xõa trước mặt, hai gò má ửng hồng, trông Trâm đẹp quá! Lộc quên mất những câu hỏi trong đầu và đứng ngẩn người ngắm nàng.

    Ở Trâm toát ra một vẻ man dại lạ kỳ, không phải ở cặp mắt sáng long lanh hơn bình thường, cũng không phải ở gò má hừng hừng nóng dưới ánh mặt trời, mà là mùi mồ hôi thoang thoảng lẫn với mùi cây cỏ. Trâm như một bông hoa dại đang vươn mình trong đám cây cỏ và đang tỏa hương, mùi hương dị kỳ làm say đắm làn môi. Trâm đang cười với chàng, như mọi lần, như thường ngày.

    - Anh trông em dọn sạch không? Mất cả buổi sáng đấy!

    - Em làm anh lo. Không thấy em ra hàng với dì Tư anh cứ sợ.. em làm sao!

    Trâm nhoẻn miệng cười:

    - Anh thấy em sao hả?

    Lộc lúng túng tìm câu trả lời:

    - Anh thấy Trâm.. đẹp quá! Anh thích nhìn em cười. Thấy em cười anh mới an tâm.

    Trâm nói, giọng nàng tươi vui, hồn nhiên:

    - Anh phụ em cho mau không?

    - Em định làm hết đám cỏ này à?

    Trâm chẳng đáp, tiếp tục nhổ cỏ. Lộc cũng phụ một tay. Có những ngọn cỏ mềm bung ra khỏi mặt đất một cách dễ dàng. Lại có những đám cỏ lì lợm bám chặt xuống đất, nhất định không chia lìa.

    Cả hai yên lặng làm dưới nắng mai đang tuôn xối xả, luồn lách mọi chốn. Lộc không tìm được lời nào để nói với Trâm. Ngay sự vui tươi của Trâm sáng nay cũng mang một ý nghĩa bất thường. Chưa bao giờ chàng thấy ở Trâm nhiều sự thay đổi đột ngột như thế.

    - Trâm à! Sao hôm nay em không ra hàng?

    Thay vì trả lời, Trâm liến thoắng nói sang chuyện khác:

    - Anh biết không, làm sạch cỏ vườn trông dễ chịu lắm cơ, giống như hồi ba mẹ còn ở đây. Em dọn sạch để mai mốt ba mẹ về. Tối ra vườn cũng đỡ ngại hơn. Trông đẹp hơn phải không Lộc?

    Những câu chuyện không đầu không đuôi của Trâm lại làm Lộc lo lắng.

    Nắng không còn nằm sà sà ở mặt đất hay trong lùm cây mà nắng đã vươn lên cao, rực rỡ, chói lòa. Nắng làm ấm phần lưng Lộc và hun cái nóng dần dần. Những bụi cỏ bị tróc gốc nằm ụ từng góc nay dưới cái nóng đang quắt dần và khô đi. Mùi cỏ tươi chỉ còn thoang thoảng.
    Lộc ngừng tay hỏi:

    - Em định làm hết chỗ cỏ này sao?

    Trâm không trả lời mà hỏi lại:

    - Đến giờ anh đi chưa?

    - Cũng sắp. Tối anh ghé lại.

    Trâm không nói gì chỉ ngửng lên nhìn Lộc, trong ánh mắt có nụ cười. Lộc yên tâm khi nhìn ánh mắt đó. Mọi sự không có gì thay đổi cả. Lộc cố an ủi mình. Chàng đi ra về thanh thản hơn lúc mới đến.

    Còn một mình, Trâm ngừng tay nghe ngóng. Những công việc tẩn mẩn như thế này làm Trâm thấy đỡ căng thẳng. Đó là những lúc nàng được nghỉ ngơi như trong giấc ngủ, không băn khoăn, suy tư, lo lắng hay sầu muộn gì. Những ám ảnh, sợ hãi tạm thời được bỏ quên cho Trâm một đời sống bình thường. Trâm nghĩ đến Lộc và nhủ thầm:

    - Em sẽ dành cả đời em cho anh nếu… nếu không có gì thay đổi, nếu cuộc đời cho em một lối thoát. Tình yêu mình có mạnh đủ để kéo em ra khỏi vũng lầy này không?

    Tiếng ho sù sụ của bà nội trong căn chòi gỗ làm Trâm giật mình. Nàng uể oải đứng dậy và ghé mắt trông chừng bà. Bà cụ ngồi dựa lưng vào vách, người cúi gập xuống theo cơn ho. Tiếng ho khàn khàn, khúc khắc làm bà lão co vai, ôm ngực và làm Trâm thấy xốn xang. Nàng quên mất mùi hôi trong phòng. Mọi khi giờ này bà còn đang ngủ. Bà lão đã lấy đêm làm ngày và ngược lại. Có lẽ cơn ho đã đánh thức bà dậy.

    Trâm lại gần đặt tay lên trán bà nghe ngóng. Nàng không nhớ là ấm, nóng hay mát vì ngay lúc đó bà nội hất tay nàng ra và nhìn Trâm trừng trừng. Cặp mắt nhỏ, sáng quắc lên hung dữ làm Trâm sợ hãi lùi lại.

    Bà nội đảo mắt nhìn vòng vòng, cái miệng chợt ngoác ra cười. Bà vừa chỉ tay về phía Trâm vừa cười. Nụ cười ngô nghê lộ vài cái răng đen còn sót lại trong miệng và cặp mắt vẫn ngùn ngụt tỏa ánh sáng mê muội.

    Trâm vội vã mở cửa đi ra. Tiếng cười của bà vẫn vẫn đuổi theo và ánh mắt si dại đó theo Trâm đến tận phòng nàng. Trâm khóa cửa phòng, nàng tựa vào cửa và nhắm mắt thở hổn hển.

    Một lúc sau Trâm mới mở bừng mắt. Hình ảnh đầu tiên mà Trâm nhìn thấy là bóng mình trong chiếc gương đối diện. Trâm lại gần. Người trong gương cũng tiến đến. Mặt giáp mặt, lặng yên quan sát nhau. Mình không có đôi mắt nhỏ và sáng như bà, cũng không có đôi môi mỏng tàn nhẫn như bà. Vậy sao ai cũng bảo mình giống bà? Giống bà.. giống bà.. Mấy chữ ấy cứ nhỏ to, thì thụt trong đầu Trâm. Và rồi những tiếng nói quen thuộc lại vang lên, đều đều như tụng kinh. Nó in hệt như ru ngủ, thầm thì mà ướt đẫm, thấm hoài cho đến khi Trâm không còn phản kháng nữa.

    Nhưng những tiếng ấy vẫn không ngừng. Nó đưa Trâm từ nhà trong ra đến ngoài đường, từ đầu dốc xuống cuối dốc. Cứ thế mà nàng cắm cúi đi lên đi xuống, rất uyển chuyển và đều đặn. Cho đến khi mồ hôi nàng vã ra như tắm, mặt đỏ ửng trước sức nóng của giữa ngày, đôi chân rã rời, và nhịp thở đứt quãng, tiếng nhỏ to trong đầu Trâm mới ngưng.

    Trâm ngồi bệt xuống trước một hàng hiên bên đường. Người nàng lả đi. Trâm mơ hồ biết những điều vừa xảy ra. Trâm thấy lối thoát của mình càng ngày càng hẹp trong khi nỗi sợ của mình ngày càng lớn. Hơn bao giờ hết Trâm thấy Lộc và tình yêu chàng đang chìm dần ở đàng xa như một điều không có thực, như một ảo ảnh. Trong khi nỗi sợ hãi là một điều Trâm đang cảm thấy và.. sự chết? Cái chết cũng là một điều có thật nhưng đó có phài là lối thoát không hay chỉ là một cửa ngõ đi vào một thế giới bế tắc khác?

    Trâm ngồi đó khá lâu nhìn người qua lại lên xuống và nhận những ánh mắt tò mò dị kỳ ở những người không quen ấy. Mình không còn thuộc về thế giới những người bình thường nữa. Bằng vào những cái nhìn đó, mình đang bị xếp loại vào một thế giới khác. Trâm tránh không nghĩ đến chữ ấy. Nàng chỉ muốn nghĩ mình khác thường vậy thôi. Lộc ơi! Anh có thấy điều đó phải không? Em thấy sự hoang mang và lo âu ở anh. Em muốn anh hãy đi thật xa và quên đi. Nếu mai này có nhớ về Trâm, hãy nhớ một Trâm xinh đẹp và.. bình thường, một kỷ niệm đẹp trong quãng đời nào đó của anh.

    Những suy tư chỉ làm Trâm thêm mệt. Nàng uể oải đứng lên đi về nhà. Hơn lúc nào cả nàng thèm trở về căn phòng của mình, ngả người xuống giường và ngủ. Chỉ có ngủ mới mang lại sự bình an cho Trâm. Rồi mai này khi mình.. không còn bình thường nữa, ai sẽ lo cho mình? Hay nàng sẽ nhập vào đám người lang thang ngoài chợ, sống nhờ vào những của bố thí? Nếu phải sống như thế có lẽ chết sung sướng hơn nhiều. Thường người ta chết vì tai nạn, vì già yếu, vì bệnh tật chứ chẳng ai chết vì… không bình thường! Cái chết đôi khi là món quà đặc biệt và đáng giá vì nó được chọn lựa để trao cho kẻ được gọi đi ra khỏi cuộc đời. Chết là một kết thúc hoàn mỹ, là sự thăng hoa cuối cùng và tuyệt đối, là dấu chấm hết trọn vẹn và là một dứt khoát quyết liệt của hành động vẫy tay giã biệt. Chưa bao giờ Trâm lại nghĩ nhiều đến cái chết như vậy. Trong tình trạng này, đó chính là một phương cách giải thoát tuyệt vời.


    *


    Bà Tư và Lộc thì thụt ở dưới bếp. Trời đã chạng vạng tối, ánh sáng không đủ soi rõ trong căn bếp tăm tối. Màu đỏ lập lòe từ những cục than hồng ánh lên một chút ánh sáng cho khoảng trống chung quanh. Trong bếp, mùi cơm chín tới thơm ngát. Bà Tư tay dùng que khều bớt mấy cục than sang bếp khác, miệng thì thào nói với Lộc:

    - Tôi cũng lo lắm cậu ơi! Chắc cô ấy bị bệnh gì. Cô ấy ngủ cả ngày. Tôi đưa đồ ăn gì cô ăn nấy và chẳng nói năng gì.

    Nói xong bà Tư nhìn Lộc ái ngại và tiếp:

    - Cô cậu không có giận nhau gì chứ?

    Lộc lắc đầu:

    - Không, đâu có giận gì nhau đâu. Mấy hôm trước tôi có rủ Trâm đi vượt biên mà Trâm không chịu vì còn nghĩ tới bà nội.

    - Thì đã có tụi tôi, lo gì.

    Trong bóng tối nhờ nhờ của căn bếp chật hẹp, Lộc nhìn thấy bà Tư sáng rỡ như một bà tiên. Lòng tốt của người đàn bà này làm Lộc thấy cay cay mắt.

    - Dì.. tốt quá!

    - Trời, cậu không biết, không có ông bà Sang thì tụi tôi đâu được như bây giờ. Thời buổi thay đổi thì chịu vậy. Cậu ráng thuyết phục cô Trâm đi, tôi lo ở nhà cho bà cụ mà. Cái điều tôi lo là lo cho cô ấy cơ. Cậu có nghe cô ấy bị làm sao không?

    Lộc buồn buồn đáp:

    - Tôi sợ Trâm bệnh giống bà cụ.. Nếu đi thoát, sang nước ngoài chữa là hết ngay.

    - Trời không phụ người ngay đâu cậu.

    Lộc cảm động nắm tay bà Tư bóp chặt. Bà Tư ngượng nghịu rút tay về. Cả hai đều cố nghĩ đến một tương lai tươi sáng hơn.
    Bà Tư ngần ngừ hỏi Lộc:

    - Họ tính bao nhiêu cậu? Tôi biết cô Trâm còn ít nữ trang, Nếu họ chịu nhận thì tốt.

    - Mỗi người hai cây lúc đi. Sang đến nơi tìm cách trả nốt hai cây nữa.

    - Chà! Cũng nặng chứ chơi đâu! Ôi hơi đâu cậu! Trời sinh trời dưỡng mà! Nhưng cậu có nghĩ trước khi đi nên tìm bác sĩ chẩn bệnh và cho cô Trâm thuốc không?

    Lộc gật gù:

    - Ông bác sĩ Khoa cũng giỏi. Nhưng dì đừng nói với ai về chuyện này nhé.

    - Cậu khỏi lo, tôi biết chứ. Ông chồng tôi còn không biết nữa chứ đừng nói gì ai khác.

    - Cám ơn dì. Để mai tôi nhờ ông bác sĩ Khoa lại thăm bệnh cho Trâm. Thôi tôi về để dì nghỉ.

    - Cầu xin là qua khỏi hết cậu ơi.

    Lộc giơ tay ra hiệu chào và lầm lũi đi ra cửa. Chàng đi vòng ra sân sau, ghé nhìn vào cửa sổ phòng Trâm. Nàng đang nằm ngủ yên lành. Lộc thấy thương Trâm, thương cả ngôi nhà và những người có tấm lòng nhân ái như dì Tư.


    *


    Trời vào hè càng ngày càng nóng. Mầu xanh mát của cây cối chỉ cho một cảm giác ẩm ướt của vùng nhiệt đới chứ không đủ làm dịu đi cái nóng hun từ sáng đến khi mặt trời khuất bóng. Những đàn muỗi đói thi nhau tấn công con người và gieo rắc bệnh hoạn. Đêm đêm, tiếng chim hót sau vườn cũng thưa đi, chừng như sức nóng đã thiêu đốt hết cả. Và Trâm cũng đang bị thiêu đốt dần dưới những thay đổi đột ngột, những biến dạng của tâm thần. Những viên thuốc của Lộc Mang đến chỉ giúp nàng tìm được sự bình yên trong giấc ngủ. Những giấc ngủ triền miên làm Trâm lên cân, đầu óc càng si dại hơn. Nàng bắt đầu nhìn Lộc bằng cặp mắt hờ hững. Những phần chứa đầy ắp yêu thương và cảm xúc đang bị xâm lấn dần và làm tê liệt đi. Những rung động hầu như rất ít khi xuất hiện.

    Những lúc không bình thường, Trâm tìm một xó xỉnh nào đó ngồi thu mình và cứ chìm đắm trong ngô nghê, trong một không gian thu hẹp, tách rời với thế giới bên ngoài. Sự sợ hãi cứ biến dần, ngày qua ngày theo với mức độ mất thăng bằng gia tăng của nàng. Nhưng Trâm vẫn để cho dì Tư tắm, thay quần áo và săn sóc. Nàng chỉ yên lặng, trầm mình vào một thế giới khác và ngồi đó như củi mục, như những viên đá cuội trắng phau nằm vô tri trước nhà. Cơn mưa có ào xuống, nắng có lên, trăng có tỏ thì củi mục, đá sỏi vẫn nằm trơ đó.

    Những lúc tỉnh táo đến với Trâm rất ít. Một đôi khi đúng lúc Lộc đang ở đó. Có lần Trâm nắm chặt tay Lộc và khóc. Những giọt nước mắt lúc đó như mặt hồ thoáng lao xao trước cơn gió nhẹ rồi tắt ngấm. Nhưng cũng có lúc Trâm nói với Lộc:

    - Anh về đi, đừng đến đây nữa. Còn gì nữa đâu!

    Trong thâm tâm Lộc nhất quyết tìm lối thoát cho Trâm bằng một chân trời tự do mở rộng ở bên kia. Lộc xoay đủ chỗ và chỉ chờ ngày giờ thuận tiện là đưa Trâm đi vượt biên cùng. Hy vọng đó nuôi sống tình yêu của chàng đối với Trâm. Trong cuộc tình này, hy vọng thắp lên một ngọn nến leo lét, không đủ xóa tan hết mọi cản trở nhưng ít nhất cũng làm ấm lên trong lòng Lộc những lúc buồn bã và cô đơn nhất. Có những ngày Lộc ngồi nhìn Trâm si dại ngập chìm trong thế giới của nàng mà thấy mình sao quạnh quẽ với tình yêu, với buồn đau và lạc lõng trong chính nỗi cô đơn đó. Chính Lộc cũng không biết mình sẽ nuôi mối tình này đến bao lâu, mãi mãi chăng?


    *


    Bà Tư giật mình tỉnh dậy, thảng thốt đánh thức chồng dậy:

    - Tiếng gì vậy, mình nghe không?

    Ông Tư càu nhàu:

    - Bà điên đó mà, để ý làm chi. Ngủ đi, mệt quá!

    Bà Tư nắm tay chồng nói bằng một giọng lo sợ:

    - Mọi khi đâu có vậy? Hay bà ấy bị đau gì?

    - Ôi thôi đau ráng chịu, nuôi miệng ăn còn chưa xong nói gì tới người đau.

    Bà Tư nghe lời chồng cố nhắm mắt tìm giấc ngủ nhưng tiếng bà cụ ngoài chòi gỗ kêu la nghe rợn cả người. Tiếng kêu thê thiết và bi thương không rõ thành tiếng nhưng rên xiết làm bà Tư không đành lòng. Bà Tư ngồi dậy, xỏ dép đi ra sân.

    Mầu đỏ cam sáng rực một góc vườn. Từ căn chòi gỗ, ngọn lửa đang bốc cao, từng đợt từng đợt một lửa bùng lên theo ngọn gió hớt lên làm thành những tàn lửa vào những nhánh cây kế cận. Những đốm lửa sáng ngời đậu trên những tàn cây như những đốm thiêu thân trong đêm tối. Tiếng bà lão la hét làm bà Tư choàng tỉnh. Bà chạy vào nhà trong miệng lắp bắp gọi chồng:

    - Mình, dậy mình! Cháy mình ơi… chết thật rồi!

    Ông Tư nhỏm phắt dậy hỏi vợ:

    - Bà nói sao? Cháy ở đâu?

    Bà Tư mếu máo trả lời chồng, tay chỉ ra phía ngoài vườn:

    - Ở ngoài sân sau. Cái chòi cháy. Bà lão chết mất..

    Ông Tư không kịp xỏ dép, chạy vội ra và la rầm lên:

    - Cháy, chết rồi cháy.. bà đi gọi mấy nhà bên cạnh để họ phụ mình mau. Cháy vô tới nhà bây giờ!

    Cả nhà náo động lên. Mấy đứa bé bị đánh thức dậy giữa đêm khóc inh ỏi. hàng xóm láng giềng chạy qua phụ bưng từng thau nước cố dập tắt ngọn lửa. Người thì lấy khăn ướt đập lên những đốm lửa đỏ rực. Những tiếng động ầm ĩ đánh thức Trâm dậy. nàng thấy đám đông lố nhố.

    Trâm nhìn sững vào đám cháy, vào đám người chạy lên chạy xuống, mùi khói và khét theo chiều gióc thốc vào mũi Trâm làm nàng nhăn mặt một cách tự nhiên. Khung cảnh hỗn loạn đó cộng thêm với cái nóng của ngọn lửa còn sót lại khuấy động cả một vùng đêm yên tịnh. Trong đôi mắt si dại của Trâm bừng lên tia nhìn dữ dội. Mắt nàng sáng long lanh trong bóng tối. Phần đang ngủ yên ở trong Trâm muốn trỗi dậy. Một ngọn lửa khác ở trong con người nàng đang muốn bùng lên. Nếu nó bùng lên được biết đâu ngọn lửa đó có thể đốt cháy đêm đen và trả cho Trâm về với đời sống cũ. Nhưng có lẽ cái mồi chưa mạnh đủ để thắp lên một ngọn lửa. Vì mắt Trâm lại dịu lại, lặng lờ và như thế Trâm vẫn chưa ra khỏi được vũng tối dầy đặc.

    Ngọn lửa cuối cùng cũng tàn. Căn chòi gỗ nay chẳng còn mấy. Mọi người túm năm tụm ba bàn tán về căn chòi gỗ và.. dĩ nhiên về bà lão đã qua đời trong một khung cảnh kinh hoàng.

    Ông Tư nói nhỏ vào tai vợ:

    - Tại tôi cả!

    Bà Tư ngó sững chồng:

    - Ông nói gì kỳ vậy?

    Ông Tư cúi gầm đầu và kéo vợ vào một góc để tâm sự:

    - Hồi tối tôi mang cơm ra cho bà cụ có xách theo cái đèn dầu. Lúc đi ra tôi quên không cầm cái đèn dầu về. Chắc thấy lạ nên bà ấy.. nghịch và làm cháy. Mình ơi! Làm sao bây giờ?

    Bà Tư gắt khẽ:

    - Chết sống có số hết! Đừng tưởng muốn chết mà được! Đâu phải tại mình. Đừng nghĩ vậy nhưng mình cũng đừng nói với ai về chuyện này. Đây là chuyện vô tình!


    *


    Sáng sớm hôm nay yên lặng hơn thường lệ. Chim chóc hết líu lo. Ngoài vườn mùi khói còn khét lẹt. Ánh nắng rất dịu và trong vắt của đầu ngày đang soi rõ từng thanh củi đen xì, từng đám tro tàn, từng cành lá cháy xém để lại những chiếc lá loang lổ. Những bụi cây chung quanh chòi trông tiêu điều, xác sơ. Khoảng vườn trống hẳn ra làm ánh sáng chói lòa.

    Trâm dậy sớm hơn thường lệ. Nàng lặng lẽ đi ra vườn sau. Trong buổi sớm mai yên tĩnh đó, người thiếu nữ đứng bên cạnh cảnh hoang tàn và nhỏ lệ. Những giọt nước mắt quý giá của vài phút giây trở lại với cuộc đời một cách tình cờ. Tình cờ bên cạnh những mất mát đột ngột. Trong giây phút ngắn ngủi đó nàng lắng tai nghe, tìm kiếm tiếng chim hót quen thuộc nhưng không thấy. Đàn chim đã bỏ đi. Sao không trở lại được lúc còn nguyên vẹn? Còn một hình bóng nữa mà người thiếu nữ muốn tìm.

    Lần này những giọt lệ dành cho một cuộc tình mà Trâm đã biết đến, một hạnh phúc vừa bùng lên đã bị dập tắt! Nỗi đau dâng lên từ từ là lan rộng mãi. Nó đến ngoài sức chịu đựng của nàng và cứ thế như nước vỡ bờ, cuốn trôi đi hết những ngăn cản, vướng víu, xóa tan hết cả ký ức Trâm, lột sạch những kỷ niệm, hình bóng thân yêu.

    Thế giới của Trâm bây giờ là thế giới trắng, không một dấu vết. Thế giới không có gương soi, không thấy bóng hình mình, thế giới không còn ai, thế giới của những người điên thực sự và chẳng bao giờ có thể tỉnh lại được để yêu, để thở, để hờn giận, ghen..

    Niềm hy vọng của Lộc sẽ không bao giờ thành. Nắng đang lên cao, một ngày lại bắt đầu.. như mọi ngày.


    Mặc Bích
    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:20 AM.

  8. #8
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822


    Tình Yêu




    Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!

    - Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?

    Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:

    - Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!

    Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:

    - Con chơi, con phải “take care” nó đó!

    - Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!

    - Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?

    - Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!

    Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.

    - Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!

    Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết!

    Hương than thầm trong bụng: “Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!”. Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.

    Bắt đầu từ ngày đó trở đi trong nhà nàng lại có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép trừ lúc có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy Joshua nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì rồi thương hại Duy lại thôi.

    Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.

    Duy la lên:

    - Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!

    Hương phì cười, nghĩ bụng "Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!" Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dậy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.


    *


    Vài tháng trôi đi, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!

    Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ:

    - Joshua chắc bị “shock” nặng nên nó không nói nữa!

    Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!

    Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi mà Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao...

    Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:

    - Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?

    - Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết.

    - Cháu trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..

    Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:

    - Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?

    - Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!

    - Cậu con bà có thích con Joshua không?

    - Chúng tôi quý nó lắm.. có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?

    - Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!

    Hương chép miệng:

    - Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!

    Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách.
    Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:

    - Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?

    - Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!

    Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:

    - Chúc bà may mắn!

    Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.


    *


    Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.

    Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão:

    - Alice Park! Alice ..Park!

    Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn bạc thếch theo với thời gian. Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp.

    Những đôi mắt u uẩn hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm như thể tất cả đang sống trong một thế giới riêng biệt mà những ngôn từ, động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia.

    Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:

    - Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?

    Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh:

    - Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong rồi quẹo trái, đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.

    - Cám ơn cô nhé!

    Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.

    - Nó tên gì vậy bà?

    - Joshua!

    - Hi Joshua! Hi!

    Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú. Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo: “Nó thích đàn bà, con gái mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!

    Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng. Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa, Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất.

    Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia mà đã có một lần họ đã sống qua. Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô độc chăng?

    Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.

    Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được giấu sau một lớp phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi.

    Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:

    - Love ya, Mama! Love ya, Mama!

    Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan. Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon?

    Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào. Chỉ có đôi mắt chớp khẽ. Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang từ từ lăn xuống.

    Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:

    - Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!

    Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại. Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị. Làm như thế gian này chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất, không có gì có thể chia lìa. Joshua ở trong bà lão và ngược lại.

    Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên. Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà. Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.

    Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được. Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà ta yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:

    - I love you too. Joshua! Mama love you!

    Con két Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:

    - He hurt me!

    Bà ta sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:

    - My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore. Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua?

    Joshua lập lại y hệt như vậy:

    - Do you miss me, Joshua?

    Bà lão bật cười:

    - No! Do you miss me, Mama?

    Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:

    - No! Do you miss me, Mama?

    Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:

    - Cô mang Joshua đến đây?

    Câu hỏi này thay cho câu hỏi: “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi. Hương thấy ngay điều này nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:

    - Vâng!


    *


    Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết mà tìm đến đây. Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.

    Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành. Một đành đoạn chia ly tất nhiên! Nàng dựa lưng vào băng ghế nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu rồi lìa cành.

    Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất, có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống, có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước? Nhưng có một điều chắc chắn những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa. Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống, tình yêu, nỗi chết, rồi cũng chỉ như thế thôi!

    Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu: “I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy?

    Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau, có nhau, cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa và những ngày kế tiếp có còn đến nữa hay không!

    Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: "2:30 chiều!" Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về. Joshua phải trở về căn phòng của Duy và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống, chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!


    *


    Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa. Joshua đang đậu trên thành giường, còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người: nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn. Trông bà ta có vẻ mệt mỏi. Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi nhìn Hương rồi hỏi:

    - Cô quen thế nào với bà Alice?

    Hương chỉ con Joshua:

    - Qua con két này!

    - Thật à?

    Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:

    - Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!

    - Cô tử tế quá!

    Lần đầu tiên từ lúc gặp gỡ Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.

    Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:

    - Joshua! Đến lúc phải đi về..

    Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa, mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:

    - Joshua!

    - Mama!

    Cô y tá thích thú kêu lên:

    - Ồ nó nói được

    - Go home, Joshua! Go home!

    Nó lập lại lời bà Alice:

    - Go home! Go home!

    Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:

    - Love ya, Mama! Go home!

    Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà ta nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:

    - Go home, baby! You can not stay here.. I have no home now! Go, baby!..Go..

    Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:

    - Nó ở lại với bà cụ được không cô?

    Cô y tá lắc đầu:

    - Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.

    Hương lặng im.

    Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice. Chỉ giữa con két xanh và bà lão. Nó bay lên và đậu vào vai Hương nhưng vẫn kêu lên:

    - Love ya Mama!

    - I love you too, Joshua!

    Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:

    - Cám ơn cô.. đã mang Joshua đến đây.. Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì.. vui lắm.

    Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice và nhẹ nhàng nói:

    - Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!

    Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:

    - Cám ơn cô.. cám ơn cô nhiều lắm!

    Nàng đi ra và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian.

    Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương?


    Mặc Bích
    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:21 AM.

  9. #9
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822


    Vườn Xưa




    Thụy An đưa tay xé lịch. Đã sang tháng 4. Nàng nhìn qua khung cửa sổ rộng không màn che ra phía sau nhà. Cả một dãy chậu bon-sai được Sơn kê lên trên kệ gỗ xếp cẩn thận ngay tầm mắt từ phòng khách nhìn ra vườn, chỉ để nàng ngắm mỗi ngày. Mỗi chậu, mỗi cây, mỗi kiểu, mỗi dáng, mỗi thế. Xa hơn chút nữa sát hàng rào phân đôi với nhà bên cạnh, màu cam thắm đẫm vẻ tươi nhuận của những chùm quít xen kẽ với khóm mía cao vút giơ những thân cành tím đỏ. Hai bụi hoa mẫu đơn đến mùa nở rộ. Cái mầu phấn hồng hơi ẩn sắc tím, mướt như mùa xuân đầu mùa và gợi lên những rạo rực của những nõn nà tươi thắm. Cây táo hàng mười mấy năm, trái đỏ đẹp như trong truyện cổ tích cũng khoe sắc mời chào mấy chú chim sẻ rúc rích suốt ngày.Đẹp như thế mà Sơn đang đòi chặt hết, chỉ để trồng cây xanh cho hợp với dãy bon-sai!

    Có tiếng chuông. Tiếng chuông không lớn nhưng trong cái yên tịnh của toàn khu nhà này vào giờ giấc mà mọi người đi làm hết lại trở nên... rộn quá! Thụy An chợt nhớ ..
    Hai đầu gối vẫn đau làm nàng đi những bước nhỏ và chậm. Chưa mở cửa nhưng nàng cũng biết là ai. Ông Harry T.

    Cái se lạnh còn sót lại của mùa đông đang chuyển bước sang xuân ở bên ngoài nhanh chóng luồn vào theo với khuôn mặt khắc khổ với những vết hằn trũng ở hai bên mép. Ông ta theo tập tục cúi đầu thật sát khi thấy chủ nhà:

    - Chào Bà! Bà mạnh giỏi?

    - Chào ông!

    Thụy An xem câu hỏi thăm của ông Harry T. như một lời chào hỏi thông thường nên không cần phải trả lời.
    Ông Harry T. chỉ vào bình hoa để trên chiếc kệ bằng gỗ nâu bóng có chân quỳ với số tuổi lâu đời gấp bao nhiêu lần hơn Thụy An, khen:

    - Lúc nào bà cũng có hoa tươi đẹp thay luôn luôn. Cái mùi hoa này mới ngọt làm sao! Nó đi với mấy món đồ cổ của bà. Vừa có hương lại có sắc.

    Thụy An cười. Nụ cười của nàng là một câu trả lời hay là một sự phụ họa? Hiểu thế nào cũng được.

    - Tôi thích hoa, thích cây, nhất là loại hoa peony.

    - Chồng bà sưu tầm cho bà nhiều thứ cây cảnh thật hiếm. Một sự tương đồng như thế giữa hai người thật là quý!

    Thụy An đi trước, mở cửa cho ông ta ra vườn sau, nàng không nói gì thêm. Chẳng phải nàng là người lạnh nhạt xa cách, nhưng phải dùng tiếng Anh để trao đổi câu chuyện với ông Harry T. là điều không thích thú gì.

    - Bà đừng lo. Chốc nữa tôi về bằng cửa bên hông, bà không phải bận tâm.

    Đây là lần thứ ba ông Harry T. nói câu này. Ông ta có thể vào cửa bên hông khi đến nhưng ông ta không muốn vậy vì muốn cho chủ nhà biết là ông ta đến, không phải tự đến tự đi. Nàng gật đầu:

    - Ông cứ tự nhiên!

    Ông Harry T. là người đã bán lại cho vợ chồng Thùy An một cây bon-sai rất quý. Đó là lý do tại sao ông ta vẫn lui tới để chăm sóc và “thăm” cây bon-sai đã không còn là của ông.

    Từ trong phòng khách phụ gần bếp, ngồi ở ghế bành nàng có thể nhìn thẳng ra vườn. Cái dáng còm cõi già nua của ông Harry T. đang khom người chúi mũi vào cây bon-sai làm Thụy An nhớ đến cái duyên mua được.

    Lần đó, Sơn nhất định bắt nàng phải đến xem cây ở nhà ông Harry T., người nổi tiếng về bon-sai. Ông Harry T. được biết đến trong giới sưu tầm cây cảnh vì nhiều lý do. Ông ta có một bộ sưu tập cây cảnh đồ sộ. Tài uốn nắn của ông có thể nói là tuyệt hảo. Nhiều cây bon-sai của ông đã được giải thưởng cao quý. Ngay tại Tòa Bạch Cung cũng có một cây bon-sai do chính tay ông tìm kiếm và không chỉ là uốn nắn mà còn tái tạo để thành một tác phẩm nghệ thuật. Những cây bon-sai đẹp của ông dù có trả giá cao ông cũng không bán. Thụy An nhớ khi nghe kể về ông Harry T. và những cây bon-sai nàng đã buột miệng nói: “Tại chưa trả đúng giá nên chưa bán đấy thôi!”

    Nàng nhớ mình đã miễn cưỡng đi cùng với chồng đến nhà ông Harry T. chỉ để xem cây cảnh. Sơn biết được địa chỉ này qua một người Tàu chuyên bán đồ cổ mà chàng là khách hàng lâu năm. Chồng nàng đã say sưa nói về cây bon-sai mà ông Harry không bán với một sự ham thích lạ lùng. Anh thích làm chủ những vật hiếm quý, để rồi khi đã mua được về làm của mình thì chỉ thích được một thời gian rồi lại tìm tòi săn đuổi những vật hiếm có khác, không hiểu vì sự chiếm hữu đã làm Sơn nhàm chán hay vì chưa đủ? Nhưng chưa lần nào Thụy An lại thấy sự say mê ở chồng mình lại mãnh liệt như thế khi tả về cây bon-sai không mua được.

    Nhà ông Harry cách chỗ nàng ở đến hơn 1 giờ lái xe. Nhà không lớn nhưng đất rộng, nhiều cây lớn lại ở gần sát chân núi. Điều đầu tiên mà Thụy An thấy ngay khi bước vào nhà ông T. là cái lạnh và âm u như đi vào một huyệt mộ. Trong nhà tối om, cái mầu nhờ nhờ u ám có mang chút mùi của những đồ cũ vây lại như một bức màn vô hình thập thò xem chừng những bước chân người lạ! Màn cửa trong nhà mầu đậm và kéo kín mít. Đồ đạc toàn gỗ đen với mặt đá xám lạnh lẽo. Nhà không có nhiều đồ đạc. Căn nhà như không có người ở, không sinh khí, hay chỉ là một thứ sinh khí èo uột và thật mơ hồ. Bước vào, ngộp thở, và chỉ muốn đi ra ngay như sợ sẽ bị cầm giữ lại hay lún xuống trong cái tối tăm tưởng chừng đang vươn những cánh tay ra với lấy! Những cánh tay không màu sắc với những con mắt chớp mở theo từng gót chân chậm và nhỏ của Thụy An.

    Chủ nhân mở cửa ra vườn sau. Chỉ một cánh cửa ngăn trong và ngoài mà như mở một trang sách mới, của một người khác. Tuy không tưng bừng rộn rã nhưng êm đềm với không gian thoáng hơn. Mọi vật, mọi sự trong khu vườn được xếp đặt với những thứ tự riêng. Riêng mà chung. Riêng trong cách thế của từng loại, nhưng chung trong sự hài hòa làm như phải như thế, không thể khác đi được.

    Những cây tùng Ngũ Châm lớn, cao, không theo kiểu bon-sai cũng được cắt tỉa nhiều tầng với những tàn cây thật đẹp. Rễ của cây trồi lên khỏi mặt đất những đường gân mạnh mẽ như móng vuốt chim ưng đang bám xuống mặt đất. Hồ nước ở góc vườn hình vòng cung thu gom một mảnh trời chìm lẫn với lác đác vài cánh sen trắng. Tuyệt đối không thấy một bông hoa màu sắc rực rỡ nào. Làm như chỉ một chút màu vào cũng đủ khuấy rộn cả một không gian lặng như đang chìm dần vào bóng chiều tà. Những chậu bon-sai được đặt nằm xen kẽ chứ không để riêng xếp loại từng góc. Chúng nằm đấy trong thinh lặng nhưng dường như cũng để chờ đợi bóng đêm xuống như trông ngóng những hạt sương từ trời cao kia nhả xuống êm ả trong một gặp gỡ giữa trời và đất.

    Chủ nhân của ngôi vườn, ông Harry T., người thấp bé nhưng rắn rỏi tuy có phần khắc khổ. Hai cánh tay gầy gò thò ra khỏi chiếc áo sơ-mi cụt tay và dứt điểm bằng đôi bàn tay nhỏ nhắn nhưng gân guốc. Ông ta có đôi bàn tay và những ngón tay nhỏ như tay đàn bà. Ông Harry khi đưa Thụy An và Sơn đi xem những cây bon-sai đã hãnh diện khoe với nàng: “Đây là những đứa con của tôi”. Nàng đã nghĩ thầm nếu là con thì làm sao bán được?

    Những cây bon-sai với tên gọi mỹ miều do ông Harry đặt mang nhiều ý nghĩa. Ở đây đã là một thế giới thu nhỏ, nhưng cúi gần xuống nhìn những chậu bon-sai được cắt xén tỉ mỉ, những mảnh rêu mướt ở gốc, ở những mảnh thân cây, gốc rồi rễ rồi lá.. chêm một vài hình tượng tí hon, một thế giới khác còn nhỏ hơn, sâu hơn.

    - Ông bà xem đây, phải uốn phải nắn phải chăm chút từng li từng tí mới được như thế này. Đây là loại cây Du được uốn theo thế “Long giáng”. Gốc lớn, lá nhỏ nhưng cành tỏa đều trên thân như vẩy rồng. Thân cứng mà hình thể mềm mại uốn khúc như rồng bay. Cành bóng như ngọc. Còn hoa... chỉ là hoa trong tâm tưởng. Gọi đây là Hoa Tâm Tưởng cũng được.

    Thụy An nhìn ông ta bằng một cặp mắt khác. Ông Harry không những đã cho cái cây một cái tên, một hình tượng, mà còn gán cho nó cả một linh hồn theo ý ông!
    Ở một cây khác, chủ nhân tiếp tục giải thích:

    - Đây là thông Nhật Bản, Japanese white pine. Từ gốc cây nhoài ra lên cao như đỉnh thác, rồi lại đổ xuống nhiều tầng mà ở mỗi chặng cây khúc khuỷa tựa như ghềnh đá, trổ ra lá có tán tròn trịa như nước chảy. Những tán tròn và mập “Trực” đã kéo lại cái thế “Đổ” của bon-sai.

    - Còn núi đá với cây đây ông đặt tên là gì? - Thụy An hỏi.

    - À, nó là “Lặng Lẽ Uy Hùng”. Núi đá không phải lên tắp cao như bình thường mà chênh vênh đổ dài. Trên thì nhẵn còn dưới bụng đá thì tôi phải đẽo thêm, tạo cho mấp mô lồi lõm nhiều hơn để tạo sự hiểm trở đối nghịch đồng thời tôn vinh cái vững chãi của núi. Đỉnh núi có tùng xanh do tôi chiết vào, dưới chân núi có lều trúc, ngư ông. Trên có sức sống mà dưới cũng thế. Có cái tĩnh của đá, có cái động của cây cỏ. Bon-sai phải có bố cục hoàn chỉnh. Bố cục càng giản dị càng đẹp.

    Sơn nói với ông ta:

    - Ông giới thiệu về cây bon-sai mà tôi thích cho vợ tôi nghe đi!

    Ông Harry đưa Thuỵ An và Sơn lại góc vườn nơi có hòn giả sơn, gần suối nước nhân tạo đang róc rách. Cây bon-sai có hình chữ S được ép cho ngắn lại. Cả thân cây khô vàng úa không có một tí vẩy nào cho thấy sự sống. Lên đến hơn nửa đoạn thân mới có nhánh rẽ ngang đâm chồi lá xanh.

    Ông Harry giải thích:

    - Đây cũng là loại tùng Ngũ Châm. Loại này lá xanh quanh năm. Lá kim ngắn, sinh trưởng chậm và sống rất lâu. Cái đặc biệt của cây bon-sai này là hình tượng và dáng tự nhiên của nó. Ngoài ra quan trọng hơn cả là tuổi tác của cây. Cây này phải trên 1000 năm tuổi nên không thể uốn hay sửa dáng, sửa thế được. Ông bà nhìn xem. Giống cây này càng lâu đời thì dáng và thế của nó càng vặn xoắn, cuộn khúc, thế như rồng bơi. Kiểu thân cong thế này gọi là “Long trang”. Nó đúng là rồng. Tôi phải lên núi, vào sâu tình cờ tìm được nó. Nó bám vào gần sát bờ vực. Tôi lấy được mà suýt mất mạng.

    Bà có thấy phần thân từ gốc không? Phần này đã chết từ lâu. Bà nhìn coi! Khô hết cả. Vậy mà từ đây.. Bà cúi xuống nhìn gần mà xem.. lại sinh ra cành lá mới. Lá mọc ra cũng tự nó. Tôi đã thử chiết hay ghép nhiều lần mà đều thất bại. Hoàn toàn là tự nhiên. Không một vết tích của dây đồng uốn hay bất cứ một vết đẽo hay cắt nào. Nhưng cũng chỉ mọc có thế, không thêm cành mới nào khác. Đẹp ở chỗ có tửsinh ngay đây.

    Thụy An cúi gần sát vào cây bon-sai. Nàng ngửi được cả mùi hăng hắc từ cây tỏa ra. Ngửng đầu lên, nàng hỏi:

    - Tôi sờ vào được không?

    Đôi mắt ông Harry vốn đã nhỏ nay nheo lại như một lằn chỉ nhìn Thụy An. Cái nhìn như một lằn chớp trong đêm tối lướt trên mặt nàng, sắc và lạnh, lóe lên tí ánh sáng rồi khép kín.

    Thụy An vẫn nhìn lên chờ đợi câu trả lời của ông ta.

    - Được chứ!

    Nàng đưa ngón tay sờ vào thân cây khô như thăm dò một sự sống ẩn dấu trong đó. Thân cây khô cứng nhưng có chỗ không ráp mà những mạch gỗ nhẵn như đã hóa thạch. Những ngón tay nàng nhẹ nhàng vờn theo đường cong của thân cây lượn, như vuốt, như làm quen rồi buông ra. Những lằn gỗ khô bóng oằn xuống rồi cong lên nhưng vẫn bám vào nhau như gồng mình chịu một sức nặng. Những chùm lá bé tí tẹo có màu xanh lục đậm đâm ra từ thân cây chết đó như một sự thách đố dịu dàng mà hiển nhiên. Ngay cả cái mùi ngai ngái từ cây tỏa ra như những tiếng chuông nho nhỏ gióng lên diệu vợi râm ran. Cái âm vang chìm đắm đó như những tiếng nói vô hình trao gởi đến Thụy An. Nàng nhắm mắt lại hít cái mùi thơm đó như một thu nhận. Chừng như chưa đủ, nàng lại chậm chạp vuốt phần thân cây khô lần nữa.

    Thụy An chợt nhói đau, nàng kêu khẽ!

    Sơn giật mình hỏi:

    - Em sao thế?

    Nàng đưa ngón tay lên nhìn. Đầu ngón tay giữa có lẽ bị gỗ ở thân cây móc vào nên sướt chảy máu. Để ngón tay vào miệng, nàng mút cho chặt để hút phần máu ri rỉ. Thụy An lắc đầu ra hiệu không sao.

    - Bà có sao không? -ông Harry ân cần hỏi Thụy An.

    - Không ăn thua gì. Tôi vô ý quá!

    - Em đụng vào đâu mà chẩy máu tay thế? Phải cẩn thận!

    Ở phần giữa thân cây còn lại một vết đỏ sậm nhỏ xíu. Ông Harry nhìn xuống và chắt lưỡi. Có lẽ ông ta hối hận đã cho Thụy An đụng vào cây bon-sai quý.

    - Ông để cho chúng tôi chậu bon-sai này nhé? -Thụy An buột miệng hỏi.

    Sơn đã kỳ kèo mãi từ mấy lần trước nhưng ông ta từ chối không bán. Lần này ông Harry cũng lắc đầu:

    - Những cây nào khác ở đây có thể để cho ông bà được, nhưng riêng cây này thì không. Hiếm khi nào mới gặp được như thế. Có duyên thì gặp.

    Thụy An đứng dậy, nàng loạng choạng suýt ngã. Sơn phải đỡ tay nàng.

    - Trong vườn tôi có nhiều cây bon-sai đẹp lắm. Ngay như cây bon-sai kia. Đó là một tác phẩm nghệ thuật! Tôi đặt cho nó là “Hoang Sơ”. Kiểu này thuần túy là Nhật Bản. Đây là loại tùng Nhật. Cây đã hơn 400 năm. Thoạt tiên chỉ có một cây, rồi tôi chiết và ghép vào thành một rừng Tùng. Đây là một cánh rừng nguyên sơ trên một đĩa hình hơi dốc. Nhìn vào thấy sự bình an trong cái hoang dã. Cái đẹp ở chỗ “tứ diện”. Ông bà nhìn phía nào cũng thấy nó đẹp cả, nhìn trước, sau, ngang, dọc, đều đẹp. Cây bon-sai này quý lắm, nhưng nếu ông bà thích thì tôi sẽ để lại vì biết là cây sẽ thuộc về người sành sỏi và yêu nó.

    Sơn đã mua tác phẩm “Hoang Sơ” mặc dù vẫn tiếc cây bon-sai “Tử Sinh”.

    Nửa năm sau, ông Harry gọi điện thoại cho Sơn. Ông ta bằng lòng bán cây bon-sai “Tử Sinh”. Mang cây về nhà, Sơn khoe với Thụy An:

    - Không ai có một cây bon-sai như thế này. Ông ta bán với điều kiện thỉnh thoảng phải để ông ta đến thăm cái cây một lần. Có ăn thua gì đâu, đến nhiều hơn cũng được vì nhiều khi ông ta lại chỉ cách cho mình dưỡng nó, phải không em?

    - Anh mua đắt không?

    - Chỉ hơn chậu “Hoang Sơ” một chút.

    - Sao kỳ vậy? Em tưởng ông ta phải đòi giá cao lắm mới phải chứ?

    Sơn nhìn vợ tủm tỉm cười:

    - Chắc mình có duyên!

    Khi Sơn đặt chậu bon-sai “Tử Sinh” cạnh chậu bon-sai “Rừng Thưa”, Thụy An ngồi trong nhà nhìn ra ngắm vì dạo này đầu gối nàng đau lên, không muốn đi lại nhiều.
    Đến cả tuần lễ sau nàng mới ra vườn. Thụy An kê một cái ghế nhỏ gần dãy bon-sai, ngồi lặng yên. Nàng có cảm giác có thể bầu bạn với tất cả những cây cối trong vườn. Trong cái yên lặng giữa cây và người dường như có một cảm thông. Những đối thoại trong im lặng đó làm Thụy An thấy lòng nhẹ hẳn.

    Ngồi ngắm cây bon-sai “mới” giữa bao nhiêu cây cảnh khác, nàng có cảm tưởng cây bon-sai Tử Sinh là một người khách lạ. Nó vẫn chưa thuộc về nàng, phải cần thời gian. Mình phải làm quen với nó mới được, nàng nhủ lòng như vậy. Thụy An lại gần hơn, cúi người xuống không chỉ để nhìn cho rõ hơn nhưng như một sự cận kề làm quen. Nàng chưa muốn bảo với nó về “mối liên hệ mới mẻ” giữa vợ chồng nàng và “nó”.

    Nhưng rồi nàng chợt nhìn thấy có điều khác lạ ở cây bon-sai “Tử Sinh” mới mua về. Nàng nhớ cả thân cây uốn khúc hình chữ S không có một ngọn lá, chỉ ở trên quá phần giữa thân cây mới có trồi ra cành và lá. Cành lá đó rủ xuống một bên bềnh bồng như những đám mây lơ lửng. Thụy An lại nhìn kỹ hơn Ở đoạn thân kế tiếp đi ngược lên trên chừng 2, 3 cm, một nhánh cây nhỏ còn non bé tí teo, đâm ra ở một chiều đối nghịch với nhánh cây bên dưới. Lơ thơ vài chùm lá có màu xanh hơi bạc. Màu lá non khác hẳn những chùm lá khác. Lạ nhỉ?

    Từ hôm ấy, Thùy An tự dưng thích cây bon sai “Tử Sinh” hơn những cây khác trong vườn. Nàng ngồi đó, cạnh cây, yên lặng nhưng trong đầu Thuỳ An nói lên trong âm thầm biết bao nhiêu điều mà không hề thố lộ với ai. Trong cái tịch mịch của vườn cảnh, thỉnh thoảng những tiếng rúc rích của côn trùng, tiếng chim kêu lấp ló, nàng thấy được những điều mà vào những năm trước chộn rộn với công việc, quay cuồng với đời sống và lo toan, Thụy An không thấy.

    Ngồi cạnh cây bon sai “Tử Sinh”, nàng có cảm tưởng mình có thể thu nhỏ lại, nhỏ tí tẹo để ngồi dưới gốc cây Tử Sinh rồi trèo lên thân cây vòng vèo của nó, áp mình vào những tàn lá xanh nhỏ li ti ấy cùng hít thở một đời sống mới đầy kiêu hãnh vì cũng như nó, nàng đã vươn lên cao, vượt trên nỗi đau của mình.

    Phần Sơn vẫn mê man đi tìm những hiếm quý khác nữa và chỉ nhớ đến cây “Tử Sinh” mỗi khi có bạn quý hay khách xa đến chơi để chàng có dịp giới thiệu về nguồn gốc của nó.


    *


    Lần này là lần thứ ba mà ông Harry T. đến thăm cây “Tử Sinh”. Tự dưng nàng muốn ra vườn nói chuyện bâng quơ với ông ta.
    Nhìn ông ta cúi sát đầu vào cây “Tử Sinh”, nàng bắt chuyện:

    - Ông có thấy gì khác biệt không?

    Ông Harry giật mình nhìn lên. Nắng chiếu vào gương mặt sạm nắng. Đôi mắt của ông ta gần như nhắm hẳn lại.

    - Bà có để ý phải không?

    Thụy An hơi thắc mắc nên chưa trả lời vội chỉ cười. Ông ta nói ngay:

    - Vì vậy tôi mới bán cho ông bà!

    Nàng tỏ ý không hiểu.

    Ông Harry trỏ vào cây bon-sai:

    - Bà có thấy nó mọc cành mới không?

    - Có, tôi có thấy. Lạ quá! Tôi nhớ ông kể là ông tìm đủ cách để chiết hay ghép mà không được!

    - Bà có để ý cành non mọc ở chỗ nào không?

    - Khoảng giữa thân cây!

    - Bà không thấy à? Nó mọc ra nhành mới ở ngay chỗ bà bị cào sướt tay. Từ vết máu khô của bà bám trên thân cây. Từ phần đã chết của nó, từ cái phần già nua cằn cỗi nhất lại sinh ra sự sống mới. Máu của bà, sự sống của bà đã làm nó hồi sinh. Bon-sai là một nghệ thuật do con người tạo nên. Con người gọi đó là nghệ thuật. Tạo ra nghệ thuật, tôi tưởng mình sống với nó, nhưng tôi nhầm! Tôi sống với nó nhưng nó không sống với tôi! Tôi yêu những điều mình làm ra, nhưng yêu không chưa đủ. Đó chỉ là thứ nghệ thuật một chiều! Còn bà? Sự đụng chạm của bà, vết thương của bà ... Tôi không biết gọi đó là gì .. Một giao cảm giữa người và cây. Bà đã cho nó sự sống. Bà là người ơn của nó. Tôi phải bán cho ông bà là vì vậy. Trở lại đây nhiều lần, tôi chỉ muốn xem nhành cây mới này phát triển đến đâu. Xem những điều suy nghĩ của tôi đúng hay sai, hay vẫn chỉ là những hoang tưởng?

    Thụy An ngẩn người ra. Nàng cúi thấp xuống nhìn cây “Tử Sinh”. Những điều ông Harry vừa nói có phải là những hoang tưởng? Hay chỉ là một sự trùng hợp? Nàng chỉ biết mình thích cây Tử Sinh hơn những cây khác trong vườn, và nhánh cây non mới mọc ấy đã trở thành một trung tâm điểm của sự chú ý.

    - Có thêm lá non mới nữa đây này! Nó còn sống thêm hàng vài trăm năm hay vài ngàn năm nữa, nhưng cũng có thể ..

    Ông ta bỏ lửng câu nói chừng vài chục giây đồng hồ rồi lại bàn tiếp:

    - Giữa muôn ngàn chộn rộn trong vườn mà nó vẫn phát triển tốt. Tôi cứ nghĩ phải tạo môi trường sống cho nó, mà không phải vậy. Tất cả những thứ do con người tạo nên, cột nó vào đều sai cả. Bà đúng là có duyên với nó!

    Nói đến đó, mặt ông ta buồn thiu, vừa tiếc vừa ngẩn ngơ. Có lẽ nếu Thụy An không đến, không đụng vào cây bon-sai Tử Sinh thì ngày hôm nay nó vẫn có mặt trong khu vườn của ông, nó vẫn thuộc về ông! Nghĩ đến đó, ông Harry T, chợt nhận ra ông vẫn quanh quẩn trong cái vòng mà ông dựng lên và gọi là nghệ thuật! Bây giờ ông mới thấy mình thua đậm! Cái tự nhiên bộc phát mới chính là nghệ thuật. Những gán ghép dưới bàn tay tài hoa của ông dù khéo léo đến đâu vẫn chỉ có nửa vòng nghệ thuật. Một nửa còn lại trống toang hoác nên mới sổng mất!!!

    Ông nói với Thụy An:

    - Tôi không có lý do gì để đến đây nữa. Cám ơn bà rất nhiều trong thời gian qua. Cái duyên tự nó đến, muốn cũng chẳng được. Thôi, tôi xin phép bà. Bà là một người may mắn!

    Thuỵ An không biết nói gì hơn, nhưng nàng thấy được nỗi tuyệt vọng đang đong đưa cùng với nỗi buồn trên gương mặt ông Harry, trên đôi vai suông đuột đầy vẻ chịu đựng. Nhưng nàng cũng phải nói một cái gì trong lúc này.

    - Ông cứ ghé thăm cây Tử Sinh .. bất cứ lúc nào ông muốn. Không có ông thì tôi cũng không có nó trong vườn được.

    Ông Harry cúi thấp đầu chào Thụy An:

    - Không những bà là người may mắn mà còn đôn hậu rộng rãi.. Chẳng bù cho tôi!! Nhưng đủ rồi thưa bà. Cái duyên giữa tôi và nó đã hết. Không nên gượng gạo ép buộc làm chi. Cám ơn ông bà.

    Ông Harry lầm lũi mở cửa bên hông nhà ra ngoài. Ông muốn ở lại với cây Tử Sinh lâu hơn một chút nữa vì biết đây là lần cuối, và cũng thừa biết rằng chủ nhà không phản đối, nhưng như một người đã bị tước đoạt mất tình yêu, càng cận kề càng thấy đau hơn.

    Nàng nhìn ông ta quay đi, men theo cửa bên hông ra lối trước. Thụy An nhìn xuống cây bon-sai Tử Sinh rồi lại nhớ đến những lời nói của ông ta. Ông Harry quả là một người hết lòng yêu.. cây!

    Thuỵ An vào trong nhà. Nàng đưa tay gài cửa. Chắc chắn nàng sẽ không để Sơn chặt hết những cây trái hay hoa khác trong vườn. Nàng không muốn có nguyên một khoảng vườn chỉ toàn màu xanh của những cây bon-sai. Phải có này, có khác, như cuộc đời vậy.

    Ngồi trước bàn thờ, Thụy An lần chuỗi đọc kinh nguyện trong ngày. Lúc này mới là tuyệt đỉnh của an bình, hạnh phúc và sự toàn mỹ. Những điều mà ông Harry T. nói nãy giờ đã rơi rụng bên ngoài như những trăn trở suy ngẫm do chính ông ta bày ra và đi tìm câu trả lời. Sẽ không bao giờ có câu trả lời như ý ông ta muốn cả, nàng biết chắc như vậy. Tự dưng nàng thấy tội nghiệp cho người được tôn thờ là bậc “sư” của ngành chơi cây cảnh bon-sai! Sự đau khổ do chính ông ta tạo nên đó sẽ đeo đẳng ông ta cho đến hết cuộc đời. Trừ phi..

    Thuỵ An mỉm cười, lắc đầu! Nàng phải lần chuỗi lại từ đầu!! Không dưng bị chia lòng chia trí vì những chuyện không đâu!!


    *


    Khi những chùm lá mới ở cây Tử Sinh mọc ra nhiều hơn dù rất chậm cũng là lúc đôi chân Thụy An đã hoàn toàn bình phục. Nàng chăm sóc vườn cảnh nhiều hơn và vẫn bầu bạn với cây, với hoa. Sự sống mới không làm nàng thay đổi, chỉ bền vững hơn trong niềm tin của mình.


    Mặc Bích
    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:22 AM.

  10. #10
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    2,822



    NGÃ RẼ

    Cơn gió thổi thốc từ phía sau làm những bước chân của Đông Nghi chợt vội vã trong những nhịp không đều. Chiếc váy dài sát vào đôi chân, hằn lên những đường cong phải có. Mái tóc nàng bay dạt về phía trước như muốn bứt tung khỏi đầu. Ngọn gió lôi nàng đi lẫn trong từng đám lá khô đang tưng bừng bay bổng. Cát, bụi, cây cỏ, trời đất và người con gái đang bị đẩy dạt về một phía duy nhất: trước mặt. Cái màu sáng trong vắt ban nãy bị nhuộm đục ngầu, mỗi lúc một âm u hơn với những đám mây xám đen nghìn nghịt đồng hành với ngọn gió dữ. Sẽ mưa. Mưa lớn. Như bão tố. Đông Nghi nhìn quanh quẩn tìm kiếm một chỗ trú mưa.

    Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống ngay bờ mi nàng, trên má, lạnh, nhột, len lén chảy xuống thấm vào môi nàng, ngòn ngọt là lạ! Kỳ quặc! Không phải giọt mưa kỳ quặc mà chính nàng thấy kỳ quặc bởi sự liên tưởng của “sự len lén” và “cái vị ngòn ngọt” của đất trời kia! Giống một cái gì! Hai vành tai Đông Nghi chợt nóng lên.

    Cái cổng sắt mở một nửa của căn nhà gần sát ngay đó trên đường khi cơn mưa đổ xuống là một ngã rẽ bất ngờ. Đông Nghi chạy vội vào sân trong, chẳng kịp nhìn ngôi nhà ra sao. Đứng dưới mái hiên nàng hơi rùng mình. Mấy giọt mưa làm như không chỉ thấm qua áo mà vào tận bên trong, qua làn da, rúc đến xương, rút cả người nàng lại. Lúc đầu chỉ là từng vạt nước mưa dịu dàng. Dần dà, xối xả, cuồng nhiệt hơn, tạt vào trong hiên, thăm dò hết nửa người nàng. Dù qua màn mưa Đông Nghi vẫn nhận ra cảnh vườn Nhật. Vài cây thông lùn ở mé ngoài, những bờ sỏi xám, ụ đá, những chiếc đèn lồng mà ban ngày thu hút ánh sáng mặt trời để đêm tối tỏa ra chút ánh sáng u uẩn vàng đục được treo rải rác đó đây cách mặt đất non sải tay trên những cọc bằng sắt có móc cong cắm xuống đất. Nàng tò mò đứng chếch người quay lưng nhìn vào trong nhà.

    Đúng là một căn nhà Nhật như Đông Nghi thường nhìn thấy trong phim ảnh. Khung cửa sổ từng ô vuông đều đặn mỏng manh trắng đục, không nhìn thấy gì bên trong nhà. Nếu như có tiếng động bên trong nhà nàng cũng không thể nghe thấy vì cơn mưa mỗi lúc một lớn hơn. Trời tối như đã 7, 8 giờ đêm. Toàn thân nàng, trừ nửa phần trên khô, từ ngang lưng trở xuống ướt nhẹp. Ánh sáng yếu ớt từ những chiếc đèn lồng trong vườn là những điểm nóng duy nhất. Nàng cứ chăm chú nhìn những điểm nóng đó để quên đi cái lạnh của chiếc váy ướt đang dính sát vào đùi.

    Tiếng động ngay sát bên khi chiếc cửa chợt mở ra làm Đông Nghi đứng lùi lại sát vào vách nhà như một phản xạ tự nhiên. Một thân người thò ra. Một người đàn ông tầm thước đưa tay bật ngọn đèn nhỏ ở trước nhà. Ánh sáng bật lên, làm vỡ nát bóng âm u tăm tối trước sân. Cả ông ta và Đông Nghi đều thảng thốt. Cái nhìn thảng thốt đó đậu khá lâu trên toàn thân nàng. Đông Nghi run run cất tiếng:

    “Tôi…”

    Ông ta cũng mở miệng cùng lúc:

    “Cô…”

    Cả hai cùng ngừng và chờ đợi ở người kia. Trên khuôn mặt khó khăn của ông ta chợt nhếch lên một bên nửa nụ cười:

    “Sao cô không gõ cửa? Đứng ngoài thế này ướt hết!”

    Đấy là một thứ tiếng Anh gãy gọn trong một giọng nói đục và trầm, giọng nói gợi sự tò mò, không hẳn là lôi cuốn.
    Đông Nghi không biết phải trả lời như thế nào và cũng không biết có thái độ ra sao trước một lời mời mọc gián tiếp được đặt trong một câu hỏi. Sự ẩm ướt dọc nửa thân người càng làm sự bối rối trong nàng tăng lên gấp bội!

    Vẫn cái giọng nói đó, ông ta nhìn Đông Nghi soi mói:

    “Mưa chắc còn lâu, mời cô vào nhà ngồi đợi một lát”.-Hình như đọc được sự ngần ngại ở người thiếu nữ, ông ta tiếp luôn – “Bà vú già của tôi pha trà và làm bánh ngon lắm. Bà ấy thích có khách để được dịp khoe tài”.

    Những câu nói vồn vã trên một khuôn mặt không mấy tươi tỉnh dễ dãi lại là một sự bất ngờ khác mà Đông Nghi không chờ đợi.

    “Vâng.. cám ơn..”

    Ông ta đi trước, đẩy rộng cửa vào. Cả một khoảng ánh sáng ấm áp tràn ra ngoài. Nàng hơi chần chừ đôi chút rồi cũng bước theo. Vài đôi giầy, dép đặt ngay gần cửa trước bậc thềm thâm thấp. Người đàn ông bỏ dép, đi chân không bước vào trong trước. Ông ta chỉ đôi dép thấp màu đỏ:

    “Cô đi đôi dép này cho ấm”

    Thay vì bảo cho sạch! Nàng nghĩ thầm.
    Đông Nghi ngoan ngoãn trút đôi giầy đã ướt sũng sang đôi dép mềm và êm chân. Hành lang được xây cao lên một nấc so với cửa ngoài. Dáng đi rất thư thả phía trước cho nàng một ấn tượng êm đềm về người chủ nhân. Ông ta không mặc đồ Nhật, chỉ là một bộ quần áo chẽn đơn giản màu đậm, không rõ là đen hay navy blue. Khi cánh cửa gỗ nâu với những ô như bằng giấy trắng đục được kéo nhẹ nhàng sang một bên, Đông Nghi bước vào một thế giới khác, khác hẳn bên ngoài hành lang trơ trụi.

    Căn phòng nhỏ, được nâng cao thêm một bậc nữa. Chiếc bàn vuông, thấp, đặït chéo ở một góc phòng. Quanh đó dăm chiếc gối nhỏ. Trên bàn đặt sẵn khay trà, có bình, chén trà đủ cả. Chiếc đèn lồng treo lơ lửng không xa đó tỏa ánh sáng dịu, không gắt, và rất lặng lẽ. Đứng ở ngay cửa vào, khung kính lớn đối diện đập vào mắt nàng mở rộng cả một khoảng trời bên ngoài. Màn mưa và u tối bên ngoài không cho nàng nhìn thấy gì thêm. Ở chân của khung kính, một bệ gỗ dài thấp nâng một chậu cây bonsai. Bên trái thông sang một phòng khác, không cửa ngăn. Cả căn phòng trống, thoáng và cho một cảm giác sạch sẽ, thanh khiết, trầm tĩnh.

    Ông ta ngồi xuống sàn, ngay chỗ bàn trong góc phòng và đưa tay làm một cử chỉ mời mọc. Những bước chân nàng dẫm trên tấm thảm không lún nhưng êm tạo một cảm giác là lạ. Tất cả những đồ vật cũng như cách bài trí căn phòng tự dưng làm cho Đông Nghi đâm rụt rè. Ngay đến những cử động bước đi, ngồi xuống thảm của nàng cũng bị hạn chế tối đa những tiếng động. Làm như những cử động mạnh bạo sẽ khuấy đục hơi thở tĩnh lặng của căn phòng. Nàng không còn nghe thấy tiếng mưa rì rào bên ngoài. Vẫn cái giọng nói đục và trầm, ông ta bảo:

    “Bà vú sẽ mang trà nóng lên bây giờ. Phải bà ấy pha trà mới ngon trong cung cách riêng của bà ta. Rồi cô sẽ thấy.”

    Đông Nghi quỳ trên thảm trong một tư thế nửa ngồi nửa quỳ, cũng tạm gọi là thoải mái. Sàn trong phòng có những chỗ như được dệt bằng một thứ cói đan nhỏ và tỉ mỉ, lại chêm vào những khoảng thảm như bằng một thứ giấy hay bông, rất lạ, như một thứ hoa văn cầu kỳ cho nền thảm. Nàng quan sát kín đáo khắp căn phòng như để tránh né khỏi phải nhìn vào ông ta, một người lạ. Môi nàng hơi hé mở nhưng vẫn không thốt lên lời nào. Ông ta vẫn tiếp tục nói, làm như đang trò chuyện cùng nàng:

    “Những cơn mưa mùa này thường lớn nhưng không mưa lâu. Bao giờ cũng thế, đến ào ào rồi lại rút đi nhanh!”

    Câu sau hình như ông ta không có ý ám chỉ cơn mưa. Đông Nghi hơi nhếch miệng cười. Nàng không biết phải đối thoại với ông ta ra sao. Chắc chắn không chỉ là những câu nói về cơn mưa ngoài kia.

    Có tiếng động khẽ khàng. Ông ta chợt đưa tay lên nói một tràng tiếng Nhật. Đông Nghi hơi quay người lại phía sau, vừa lúc nhìn thấy đúng là một người đàn bà Nhật mặc kimono màu xam xám có chữ đen đang rón rén bưng khay trà vào. Vì ngồi dưới thấp nên nàng để ý ngay đến đôi chân bao kín bí tất trắng với phần ngón cái riêng biệt với những ngón còn lại trông ngộ nghĩnh. Bà ta bước những bước ngắn có lẽ vì chiếc áo kimono bó ở phần dưới. Sáu mươi gì đó, có lẽ thế. Nàng thoải mái quan sát sự xuất hiện của người đàn bà đứng tuổi mà hai bên mai tóc đã đốm bạc. Chiếc khay sơn mài đen bóng được đặt xuống bàn.

    Bà ta quỳ hẳn người xuống thảm, cúi đầu chào Đông Nghi. Nàng cũng vội vàng cúi đầu đáp lễ. Trong khay có một bình trà vừa phải hình tròn có lẽ bằng đất nung. Thêm một bình khác lớn hơn. Chính giữa khay có đĩa bánh, loại gì nàng chưa trông thấy bao giờ. Bà ta dùng dao nhỏ cắt bánh. Khoanh bánh màu lục non, có nhân vàng ở giữa –chắc là đậu-, mặt trên của bánh rải một lớp gì giống vừng đen. Bà ta dùng một cái gàu nhỏ xíu, có cán gỗ thanh thanh múc khẽ nước sôi trong bình lớn rồi nâng từng chén trà lên, tráng kỹ, đổ sang một chiếc bát, rồi mới rót trà. Từng cử động nhỏ mà trang trọng. Lòng chén trà nông nhàn nhạt cho thấy nước trà xanh trong vắt, mùi ngai ngái, không thơm như trà ta. Không biết vị thế nào? Bà ta đặt đĩa bánh, chén trà trước mặt nàng, trước mặt ông ta, cúi đầu lần nữa rồi từ tốn rút êm.

    Vẫn ông ta là người lên tiếng nói:

    “Cô dùng thử chút trà cho ấm. Cả bánh nữa”.

    Lúc này không tránh được nữa, Đông Nghi cầm đĩa bánh lên, ngước nhìn người đàn ông đối diện. Nàng khẽ mời:

    “Mời ông…”

    Ông ta nhìn thẳng vào mặt nàng. Đôi mắt nhỏ và hơi xếch trên khuôn mặt của một người đã qua tuổi 60 nhưng vẫn còn một nét gì đó rất trẻ còn sót lại. Lông mày đậm, dài, có đôi sợi bạc lạc vào bất tử. Những dấu vết của bao nụ cười còn hằn ở đuôi mắt với từng vệt như chân chim. Cái mũi cao và nhọn khinh khỉnh làm cả khuôn mặt trở nên khó chịu. Đôi môi mỏng hơi mím lại như che dấu một điều gì. Đôi mắt sắc sảo đó không ngừng tìm kiếm, lướt trên mặt nàng, lạnh lẽo nhưng tỏ lộ đầy quyền uy.

    Đông Nghi ghét những cái nhìn như vậy. Nàng cúi xuống cầm chén trà nhấp giọng và cố tránh không nhăn mặt vì cái mùi ngai ngái đặc biệt của chén trà xanh. Vị thanh và ngọt nhưng vẫn thế nào. Không hợp khẩu vị! Vừa ăn bánh, chiếc bánh chẳng khác gì bánh đậu của ta là mấy, nàng vừa mong thầm cho trời tạnh mưa.

    Thấy người thiếu nữ dừng ánh mắt ở khoảng trống thông sang phòng bên cạnh, ông ta giải thích;

    “Tôi vẽ trong phòng ấy”

    Đông Nghi ngạc nhiên:

    “Ông vẽ tranh? Ông là họa sĩ?”

    Cái nhếch mép cười nửa miệng của ông ta trông mới khó ưa làm sao khi trả lời:

    “Người ta gọi tôi như thế! Cô sang xem những thứ tôi đang làm dở dang”.

    “Những thứ đang làm dở dang”. Thật là một sự diễn tả kỳ quái! Nhưng cũng như giọng nói của ông ta, câu nói vừa qua cũng lại gợi trong nàng một sự hiếu kỳ. Nàng nhổm người đứng dậy tỏ ý muốn xem vì thực sự cũng không biết phải nói chuyện gì với người đàn ông này.

    Ông ta bật đèn. Căn phòng sáng, sáng hơn phòng khách bên ngoài rất nhiều. Bức tranh đang vẽ dựng trên giá đưa vào mắt nàng một sự buồn thảm khốc liệt. Đen, trắng, dữ dội. Đông Nghi tiến đến gần hơn. Trên khung vải nền đen, một vòng tròn khuyết màu trắng, trắng toát. Chỉ có thế. Cái vành của màu trắng không đều, và nàng có cảm tưởng đây là một sự cố ý. Rồi chính sự không đều đặn đó đã tạo nên.. Tạo nên cái gì –Đông Nghi đang tìm kiếm từ, nghĩa của điều mà nàng đang trông thấy.

    “Cô thấy sao?”

    Câu hỏi cũng thẳng thừng như cái nhìn của ông ta.

    Nàng buột miệng nói, gần như reo lên:

    “Sự sống! Đúng rồi!”

    Lần này ông ta không nói gì. Chờ đợi, có lẽ thế. Đông Nghi dường như không quan tâm đến những câu nệ của nãy giờ trong căn nhà lạ. Nàng tiến đến gần bức tranh trên giá vẽ hơn.

    “Màu đen mới là nền và vòng khuyết màu trắng hay ngược lại?” - Không thấy ông ta trả lời, nàng tiếp tục tự nhiên nói lên những cảm quan của mình – “Hai thứ màu đang chen lấn nhau kìa! Màu trắng đang lấn sang màu đen. Cả cái mảng đen kia cũng vậy. Sự không đều tạo nên vẻ sinh động như vậy phải không ông?

    Đông Nghi quay lại hỏi ông ta, trên gương mặt nàng hẳn bày tỏ nhiều hứng thú.

    Nàng nghĩ ông ta sẽ cười trước những nhận xét của một cô gái chỉ đáng tuổi con mình. Nhưng không. Trông ông ta khác trước. Đôi lông mày nhíu lại nhìn Đông Nghi như nàng là một thứ sinh vật lạ.

    “Cô biết về hội họa?”

    “Không! Tôi thích chứ không biết”

    Ông ta ậm ừ cái gì đó trong miệng nửa như thở dài mà cũng có thể hiểu nghĩa khác. Gật gù, ông ta nhìn nàng:

    “Cô cứ nói tiếp về những nhận xét của cô nữa đi!”

    Bây giờ thì nàng cười, nụ cười đầu tiên suốt từ khi gặp ông ta đến giờ:

    “Rồi ông sẽ cười tôi!”

    “Tôi hứa sẽ không cười”

    Ông ta nói câu đó với vẻ mặt nghiêm trang khác thường.

    Cũng chính vì vẻ mặt nghiêm trang đó mà nụ cười trên môi Đông Nghi chợt tắt. Nàng biết ông ta nói thật. Và cũng tự dưng thấy thú vị. Nàng yên lặng nhìn màu sắc và hình thể trần trụi trước mặt.

    “Tôi nhìn thấy cả niềm hy vọng và tuyệt vọng. Cả sự xung đột nữa” - Nàng giơ tay chỉ về bên trái ở phía trên nhưng bên trong vòng tròn trắng – “Mềm mại nhưng vẫn mạnh mẽ đủ để đẩy ngược màu đen đang tìm cách xâm lấn. Nhưng màu đen nhiều quá, ông có thấy vậy không? Cái vòng tròn khuyết? Tại sao lại khuyết mà không kín?”

    Ông ta thở dài:

    “Đó là điều mà tại sao bức tranh này mãi không hoàn tất! Nên cho nó tròn hay khuyết? Tôi chưa biết được!”

    “Ông có nghĩ chính điều này làm nên sự lạc lõng, mất định hướng không?”

    Nàng không còn tránh né cái nhìn của ông ta nữa. Hình như nàng đã già đi thêm mươi tuổi nữa, hay ông ta đã trẻ lại mươi tuổi? Nhưng nàng đọc được sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên tột độ trên khuôn mặt ông ta. Đông Nghi thích thú một cách lạ thường như đang phải đương đầu với một thách đố ngoài tầm sức của mình, và chính vì vượt khả năng nên sự thách đố càng mãnh liệt.

    Ông ta để mặc nàng đứng đó, bước ra phòng ngoài. Đi đâu. Nàng không biết. Đông Nghi chuyển hướng nhìn sang phía khác. Nãy giờ bức tranh đã chiếm hết sự chú ý của nàng. Nàng không thấy bức tranh nào khác trong phòng. Căn phòng cũng có cửa kính lớn nhìn ra bên ngoài. Trời đã ngớt mưa, sáng hơn. Nàng nhìn thấy rặng núi không xa lắm. Căn nhà này có lẽ nằm sát một thung lũng. Ban ngày, trời nắng có lẽ ánh mặt trời sẽ vào đầy ngập căn phòng. Sân cỏ thoai thoải. Nhiều chậu bon sai đang được tắm mưa, hạnh phúc tràn trề. Nàng nghĩ đến chuyện cám ơn ông ta rồi đi.

    Vừa quay người lại, nàng giật mình! Ông ta đứng cách nàng chỉ chừng hai sải tay mà nàng không hay. Im lặng như một người thợ săn đang rình mồi. Trông ông ta buồn bã và không còn vẻ quyền uy như nàng nhận xét lúc mới vào. Nàng nói:

    “Cám ơn ông”

    “Cô khoan đi! Mưa chưa tạnh hẳn”

    “Cô khoan đi”. Không nhiều chữ lắm nhưng bộc lộ sự níu kéo thiết tha. Níu kéo giữa hai người lạ, không biết tên nhau mà có lẽ cũng không cần biết để làm gì, là một sự bất thường hay bất tường? Nàng yên lặng. Và lại quay lại nhìn bức tranh.

    “Cô có biết rằng chính sự “không biết”, “sự mù lòa” của cô về hội họa đã cho cô thấy những điều mà kẻ “biết” không thấy không? Có lẽ tôi đã nói sai! Đây không phải là sự mù lòa. Đấy là sự mất đi một giác quan giúp ta trông thấy sự vật nhưng lại giúp ta nghe được và thấy được trong một chiều kích khác. Giống như ta đi ngược vào bên trong mình để tìm kiếm những… -tôi phải diễn tả như thế nào đây?- .. thầm kín ẩn náu của chính mình cần được khám phá.. Cô bé ơi! Tôi đang nói lung tung.. theo cái nhịp hỗn loạn của trái tim tôi. Có lẽ tôi mất định hướng như cô nhận xét thật. Đứng từ dưới đáy vực nhìn lên khoảng trời xanh bao la, tôi không ước ao với tay đụng bầu trời đó.”

    Sự xúc động nảy sinh trong nàng. Nhìn lại bức tranh, nàng hình dung vòng tròn khuyết màu trắng được kín, trọn vẹn, để sự xung đột cứ tiếp diễn, mãi hoài. Ánh sáng ấm, vàng trong căn phòng khách đã thay đổi. Ngoài trời đã tạnh mưa. Những đám mây đen đã rủ nhau bỏ đi. Bầu trời chắc lại trong. Biết đâu hửng chút nắng. Nàng khẽ khàng nói với ông ta như nói với một người thân quen lâu đời:

    “Đã hết mưa. Tôi phải đi. Cám ơn ông đã cho uống trà, ăn bánh và.. xem tranh”

    Ông ta chẳng nói gì thêm, đưa nàng ra cửa. Đi trước dẫn lối như lúc vào.
    ………………………………..
    “Áo lạnh đây cưng!”

    Không thấy vợ nói gì. Tuyên lo âu choàng áo lên vai nàng:

    “Em không sao chứ Đông Nghi?”

    Nàng quay lại nhìn Tuyên, ánh mắt xa xôi đôi chút ngỡ ngàng. Nàng hỏi lại:

    “Anh nói gì?”

    “Trông em lạ quá. Đi ra xe lấy chiếc áo, trở lại thấy em như ai đâu”

    Vẫn để hờ chiếc áo len khoác trên vai, Đông Nghi nhìn lại bức tranh trước mặt. Nền đen, vòng tròn trắng. Không khuyết. Có một vết nứt rất nhỏ, phải chăm chú nhìn kỹ lắm mới thấy như một vết nối. Hàng chữ nhỏ bên dưới:

    “Jiro Yoshihara (1905-1972),
    To Martha’s Memory, 1970, Japanese.
    Oil on canvas, 73 x 92cm.”

    Nàng lẩm bẩm:

    “1972… 1972…”

    Tuyên đỡ lời kèm với nụ cười cố hữu tinh nghịch của anh:

    “1972. Lúc đó em mới có 10 tuổi”

    Đông Nghi lập lại lời của Tuyên: “Mới có 10 tuổi..”. Chung quanh nàng, những bức họa khác trên tường của phòng tranh Albright-Knox Art Gallery đang triển lãm hình như nhắc nhở nàng về thời gian hiện tại: 2002! Nàng đang ở New York, với Tuyên, trong một phòng tranh.. của tháng 2 năm 2002. Năm 2002..? Chỉ có chừng 15 phút khi Tuyên ra ngoài lấy áo để nàng đứng một mình trước bức tranh? Mười lăm phút của hiện tại mà lại là cả một thời gian gặp gỡ người họa sĩ của quá khứ? Một người đã khuất! Cũng không thể gọi là quá khứ! Cái gì đã qua đi được xếp loại thành quá khứ. Nhưng những điều vừa qua đi như một giấc mộng có thật mà chỉ riêng nàng cảm nghiệm được. Đông Nghi tin chắc rằng ngày mai, ngày kia nàng trở lại đây, đứng ngay chỗ này để tìm lại một giấc mộng, một sự kiện như thế chắc chắn sẽ không xảy ra.

    Đông Nghi nhìn kỹ lại bức tranh, phần trên, bên trái, vòng trong của vòng tròn trắng, một khoảng trồi ra nhiều hơn, đúng như nàng đã “thấy”. Và cái vòng tròn khuyết đã kín. Kín như nàng đã hình dung. Sự sống động và khốc liệt của bức tranh vẫn thế. Ông ta không còn nữa, không vẽ nữa, nhưng linh hồn mãi mãi không tan biến. Sự xúc động vẫn còn đọng lại trong nàng, mới tinh khôi. Nàng còn nhớ cả mùi sơn dầu thoang thoảng. Cả vị của chiếc bánh đậu vẫn còn nằm trên đầu lưỡi. Nhưng câu hỏi: “Tại sao ông lại chọn tôi?” sẽ không bao giờ có câu trả lời.



    Ha sĩ Jiro Yoshihara (1905-1972) là cha đẻ ca trường phái Gutai (Biu hin) ti Nht. Sau khi ông qua đời, nhóm 18 ha sĩ tr Nht này đã tan rã. Bà Martha Jackson là người đã gii thiu nhóm Gutai và nhng tác phm ca hđến gii thưởng ngon Hoa K t thp niên 50 trong phòng tranh ca bà. Bc tranh “To Martha’s Memory” ông Jiro Yoshihara v riêng tng bà, hin nm trong Albright-Knox Art Gallery ti Buffalo, New York. Ha sĩ Yoshihara qua đời đột ngt năm 1972, 2 năm sau khi bc ha trên đã hoàn tt.
    Ch tr ha phm và tác gi bc tranh là có tht, câu chuyn trên ch là hư cu trong s tưởng tượng ca mt người yêu tranh.


    Mặc Bích

    Last edited by frankie; 04-01-2023 at 07:22 AM.

 

 

Similar Threads

  1. Dạ Quỳnh Hương - Hà Bích Hợp
    By phamanhdung in forum Âm Nhạc
    Replies: 0
    Last Post: 03-21-2019, 11:57 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-01-2017, 01:00 PM
  3. Truyện ngắn Mặc Bích
    By Frank in forum Truyện
    Replies: 10
    Last Post: 05-31-2014, 12:08 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 08-10-2013, 01:44 PM
  5. Lấy Chồng Đài - Cẩn Thị Ngọc Bích
    By V.I.Lãng in forum Truyện
    Replies: 0
    Last Post: 08-06-2013, 11:28 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 02:15 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh