Register
Page 23 of 24 FirstFirst ... 1321222324 LastLast
Results 221 to 230 of 231
  1. #221
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post
    V...
    Mặt V line lúc trẻ nhìn dễ thương, nữ tính nhưng khi về già rút thịt, nhăn da nhìn nhọn hoắc chắc giống ...phù thuỷ !

    Mặt trái ....xoài chắc tuỳ xoài gì á Sư phụ, xoài tượng, xoài ăn ca, xoài cát Hoà Lộc, xoài đu đủ, xoài ...= heart shape chắc .
    - Xoài Tàu:


    - Xoài Đài Loan:



    Xoài cát:



    Xoài tượng:

  2. #222
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post
    https://www.the-sun.com/tech/6542042...omb-treasures/

    A documentary called "Tutankhamun: Waking the Dead", by British historian and broadcaster Bettany Hughes shed some light on Tut's life.
    CT scans show that the Boy King had an unusually elongated skull, suggesting it may have been the result of inbreeding.


    Một bộ phim tài liệu có tên "Tutankhamun: Đánh thức người chết" của nhà sử học Anh kiêm phát thanh viên Bettany Hughes đã làm sáng tỏ cuộc đời của vua Tut.
    Kết quả chụp CT cho thấy Tiểu Hoàng Đế có hộp sọ dài bất thường, cho thấy đây có thể là kết quả của sự cận huyết.
    - broadcaster: dùng cho cả radio lẫn TV nên cần đi lục lọi lý lịch bà Bettany Hughes để biết thêm bà ta làm loại nào, truyền thanh, truyền hình hay cả hai. Ngoài ra, ta có biết chắc cái documentary ngay trước đó là cho TV chứ không phải radio hay không mà dịch thành “phim tài liệu”? Nếu chắc rồi thì phim là để phát hình. Vậy thì “phát thanh viên” có xài được trong trường hợp này hay không, hay là phải xài “phát hình viên”? Cả hai chữ đều lủng củng không quen tai quen mắt mà cũng không êm tai mát mắt luôn! Có lẽ tốt nhất nên tìm cách khác để gọi broadcaster. Có một điều biết chắc là bà Hughes (sau khi đi lục lọi tiểu sử bà ta) đã làm nhiều phim tài liệu cho chương trình truyền hình, trong số có phim Tutankhamun: Waking the Dead này. Đây là lúc phải dùng vốn liếng ngôn ngữ có sẵn trong túi để vẽ bùa đốt ngải trộn xà lách thổi phù phù sao cho ra cách nào khác để nói cho dễ nghe dễ hiểu hơn ====>>>>>>>> “tường thuật viên (bình luận viên, biên tập viên, ký giả, phóng viên) truyền hình” chẳng hạn.

    TIP: Áp dụng thứ tự ưu tiên cho các yếu tố sau đây khi tìm chữ để dịch hoặc diễn tả một ý nào đó: 1) chính xác, 2) rõ ràng dễ hiểu và khó hiểu lầm, 3) êm tai mát mắt, 4) súc tích, 5) ngắn gọn. Nếu cần phải hy sinh yếu tố nào thì áp dụng thứ tự ưu tiên ngược lại: 1) ngắn gọn, 2) súc tích, 3) êm tai mát mắt, 4) rõ ràng dễ hiểu và khó hiểu lầm, 5) chính xác.

    - đã làm sáng tỏ: tiếng Anh là shed some light chứ không phải làm "sáng tỏ" cuộc đời vị vua này. Shed some light = đã cho thấy được phần nào về,
    đã cho thấy được đôi điều về, giúp chúng ta hiểu được phần nào về,...

    - the Boy King: cũng như trường hợp the Egyptian leader lần trước. Nếu không có the thì “Tiểu Hoàng Đế” nằm vu vơ như cô nhi vậy vì không xác định thì ai mà biết được ai đang nói ai hoặc nói về ai đây? Viết vậy cũng giống như tiếng Anh viết CT scans show that Boy King had an unusually elongated skull vậy? Who? What Boy King? Do đó phải có the để xác định đó chính là Vua Tut (the Boy King). Tiếng Việt cũng thế, phải có “này” (Tiểu Hoàng Đế này) để xác định vị này chính là Vua Tut đã nói trước đó rồi. Để câu cú được tròn trịa êm tai hơn nữa thì thêm “vị” để thành “vị Tiểu Hoàng Đế này” (Kết quả chụp CT cho thấy vị Tiểu Hoàng Đế này có hộp sọ dài bất thường…)

    - sự cận huyết: chỉ có nghĩa là có huyết thống gần gũi, thân cận, tức là trong cùng một gia đình trực hệ chứ đâu có thêm
    nghĩa inbreeding trong đó. Phải có gì nữa thêm vào “cận huyết”, chẳng hạn như “hôn phối hoặc giao phối cận huyết” (người trong gia đình trực hệ lấy nhau) hay “loạn luân trong gia đình trực hệ”, thì mới có nghĩa là inbreeding.

    - Tránh dùng sự… “nhiều nhất có thể”… (eeeewwww…
    “nhiều nhất có thể”? Tiếng...vịt đẹt!) Viết lại nghen: Tránh dùng “sự” tối đa nếu có thể tránh được. Nếu không thì cứ nhìn thấy hoặc nghe “sự ăn, sự uống, sự đi, sự lại, sự bay, sự nhảy, sự may mắn, sự buồn phiền, sự mệt nhọc, sự lo lắng, sự bệnh tật, sự hoang mang, sự bối rối, sự giúp đỡ, sự sự sự sự sự sự ….” mãi thì vừa nặng nề vừa chán cái sự… đời lắm lắm! Do đó, nếu sửa thì chớ có sửa thành “cho thấy đây có thể là kết quả của sự giao phối cận huyết” mà phải sắp xếp lại sao cho không có “sự” ở trỏng. Cách dễ nhất là thay “sự” bằng “việc”, “nạn”, “tính”, “tính cách”, “thói”, “tình trạng”, “trường hợp”, “lề lối”, “cung cách”, “phương pháp”, “thói quen”, v.v. tùy context và cách đặt câu. Câu tiếng Anh nó dùng danh từ (inbreeding) (đừng có khện "sự" vào tiếng Việt để biến thành danh từ trừu tượng như mùa thu lá bay trong tiếng Anh vậy!). Dĩ nhiên, ta vẫn có thể dùng danh từ luôn nếu thích hợp nhưng nếu không thấy thích hợp hoặc kém hay thì không có lý do gì bắt buộc ta cũng phải dùng danh từ như nó. Ví dụ cũng câu này ta có thể đổi lại để dùng động từ như: “…cho thấy đây có thể là vì người trong gia đình loạn luân với nhau”. Nếu cũng dùng danh từ mà hay hoặc ít nhất cũng không nặng nề khệ nệ thì cứ dùng, ví dụ “…cho thấy đây có thể là kết quả của tình trạng hôn phối cận huyết (nạn giao phối cận huyết, thói quen loạn luân trong gia đình trực hệ,….)”

    * Những câu sau đây bất khả… sửa vì là tiếng ngoại quốc lời Việt. Do đó, nên viết lại 2 câu dưới đây (viết lại chứ không dịch lại):

    1) Căn cứ vào một mảng tối đã chụp, tin là một vũng máu, các chuyên gia đã tranh cãi rằng cậu vua bé đã thiệt mạng vì một cú đánh vào đầu nhưng theo bản chụp CT sau đó thì điều này không xác định.

    2) Tin rằng, trong những năm trước khi vị Tiểu Hoàng Đế nổi tiếng này qua đời, ông đã đi khập khiễng với tình trạng bàn chân bị tê liệt khiến ông bị tàn tật.

    TIP: Đọc lại câu tiếng Anh gốc vài lần và ngẫm nghĩ cho nát ngướu ý câu đó và nhớ luôn trong đầu (vất luôn câu tiếng Anh gốc đi không nhìn lại nữa) rồi viết lại (paraphrase) thành vài câu khác cũng bằng tiếng Anh có cùng ý đó nhưng dùng chữ và cách đặt câu của riêng mình. Sau đó viết lại cùng ý đó một lần nữa nhưng lần này bằng tiếng Việt.
    __________
    (còn tiếp)

  3. #223
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    (tiếp theo)

    Daggers
    Among the weapons in King Tut's tomb were some very precious daggers.
    One is made with an iron blade, while the other is made from gold.
    They were both apparently discovered wrapped up in different layers of the pharaoh's mummy bandages.
    Archaeologists have argued that Tut was murdered as a result of a power struggle.
    Based on a dark patch visible in early imaging efforts that was thought to be a pool of blood, experts had argued that the boy was killed with a blow to the head but this is not confirmed by later CT scans.

    Những con dao găm
    Số vũ khí trong lăng mộ vua Tut có một số dao găm quý giá, một lưỡi dao găm làm bằng thép, lưỡi dao kia làm bằng`vàng.
    Tìm thấy hai con dao quấn trong những lớp băng khác nhau của xác ướp nhà vua. Các nhà khảo cổ cho rằng vua Tut bị sát hại do tranh giành quyền lực.
    Căn cứ vào một mảng tối đã chụp, tin là một vũng máu, các chuyên gia đã tranh cãi rằng cậu vua bé đã thiệt mạng vì một cú đánh vào đầu nhưng theo bản chụp CT sau đó thì điều này không xác định.
    - Những con dao găm: Tuy là số nhiều nhưng tiếng Việt rất ít khi, hoặc hầu như không bao giờ dùng “những” với “các” trong một câu ngắn gọn đứng đơn độc để làm heading hay sub-head. Trường hợp này có thể gọi chung bằng số ít là “dao găm” thôi để làm đề mục.

    - lăng mộ: Ở đây chỉ có “mộ” hay “nhà mồ” (tomb), dù
    “mộ” có thể rất lớn và có thể chứa nhiều xác chứ không có “lăng” (mausoleum), xây ở ngoài và có thể chứa một hoặc nhiều mộ bên trong lăng).

    - thép: bài này nói là “sắt” (iron, một nguyên tố thiên nhiên) chứ không phải “thép” (steel, một hợp kim gồm sắt và than)

    - Tìm thấy hai con dao: Ai tìm thấy hai con dao? Tuy văn nói có thể nói trỗng (trống không) như vậy, nhưng văn viết phải có chủ từ (subject) rõ rệt, trừ trường hợp dùng mệnh lệnh cách với ngôi thứ hai. Nếu không biết chủ từ là ai hoặc cái gì thì tiếng Anh nó hay khện passive voice và thường dẹp luôn chủ từ (hiểu ngầm), nhất là khi không biết “chủ từ” là ai. Trái lại, tiếng Việt thường không dùng “thụ động cách” (nếu thấy thường dùng ngày nay là vì nạn quen dịch từng chữ bám theo câu cú tiếng ngoại quốc lâu năm thành… bùn mà đánh mất luôn câu cú tiếng Việt… thật!) mà dùng “chủ động cách”. Nếu không biết chủ từ cụ thể là ai thì dùng “người ta” làm chủ từ. Trong câu này có thể viết là “Người ta đã tìm thấy hai con dao” chẳng hạn. Muốn chính xác hơn nữa thì nên thêm apparently như trong câu gốc (They were both apparently discovered). Bỏ apparently trong câu này cũng không ảnh hưởng lắm đến ý nghĩa nhưng nếu có thì chính xác hơn, vì apparently = seemingly = presumably = supposedly = likely = ostensibly…, tức là người viết không có mặt ở đó để chứng kiến tận mắt cảnh người ta tìm thấy hai con dao này bằng cách nào. Do đó, nếu thêm “xem ra, xem chừng như, có lẽ, ắt là, … vào câu này thì sẽ đúng ý hơn, chẳng hạn như “Xem ra người ta đã tìm thấy hai con dao”.

    Câu tiếng ngoại quốc lời Việt:
    Căn cứ vào một mảng tối đã chụp, tin là một vũng máu, các chuyên gia đã tranh cãi rằng cậu vua bé đã thiệt mạng vì một cú đánh vào đầu nhưng theo bản chụp CT sau đó thì điều này không xác định.
    - mảng tối đã chụp: tối thui nghĩa! Ai lại đi chụp một mảng tối thui vậy? Chụp cái gì không chụp lại đi chụp cái mảng đen xì xì đó mần chi vậy?
    - tin là: Ai tin? Trời tin, đất tin hay người tin?
    - vũng máu: là để chỉ máu đọng thành một vũng trên đất, trên sàn hay ở đâu đó bên ngoài thân thể chứ không dùng để chỉ một “vũng” nằm ì ra đó bên trong thân thể.
    - cậu vua bé: nghe kỳ kỳ. “Cậu bé”, “cậu bé đế vương”, “nhà vua bé con”,… thì được hơn nhưng vào lúc nói câu này thì ta có thể gọi là “nhà vua trẻ tuổi’ được rồi. Lẽ ra cần phải có thêm chữ “này” nữa (the boy) nhưng nhờ đã có thêm “vua” rồi nên người đọc sẽ không thắc mắc hay nhầm lẫn là người nào khác nữa. Tuy nhiên, nếu dùng “cậu bé này” thì sẽ tránh được chuyện lủng củng phải chọn cách gọi “cậu vua bé”, cậu bé vua”, hay gì gì khác!
    - một cú đánh vào đầu: hàm ý có người khện một cú vào đầu và có thể là vậy thật nhưng a blow to the head không nhất thiết phải là có người nào đó khện mà còn có thể là bị vấp ngã đập đầu xuống đá hay vật gì cứng làm tụ máu trong đầu (contusion) hoặc gây chấn thương đầu (concussion).
    - theo bản chụp CT sau đó thì điều này không xác định: “điều gì” không xác định và ai xác định hay không xác định? “Sau đó” là sau khi nào?
    Câu này hoàn toàn là một… mảng tối thui. Đọc xong… “sao ta vẫn thấy mặt trời đen, đen như mực. Mặt trời đen, đen như đêm ma quái… á a à… ”!
    __________
    (còn tiếp)

  4. #224
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    6,005
    Quote Originally Posted by 008 View Post
    [COLOR=#0000CD]

    * Những câu sau đây bất khả… sửa vì là tiếng ngoại quốc lời Việt. Do đó, nên viết lại 2 câu dưới đây (viết lại chứ không dịch lại):

    1) Căn cứ vào một mảng tối đã chụp, tin là một vũng máu, các chuyên gia đã tranh cãi rằng cậu vua bé đã thiệt mạng vì một cú đánh vào đầu nhưng theo bản chụp CT sau đó thì điều này không xác định.

    2) Tin rằng, trong những năm trước khi vị Tiểu Hoàng Đế nổi tiếng này qua đời, ông đã đi khập khiễng với tình trạng bàn chân bị tê liệt khiến ông bị tàn tật.

    TIP: Đọc lại câu tiếng Anh gốc vài lần và ngẫm nghĩ cho nát ngướu ý câu đó và nhớ luôn trong đầu (vất luôn câu tiếng Anh gốc đi không nhìn lại nữa) rồi viết lại (paraphrase) thành vài câu khác cũng bằng tiếng Anh có cùng ý đó nhưng dùng chữ và cách đặt câu của riêng mình. Sau đó viết lại cùng ý đó một lần nữa nhưng lần này bằng tiếng Việt.
    __________
    (còn tiếp)

    Uiiiii da, bài sửa dài thiệt, chít roài !!

    Khả Ly Á Bội Lạp nộp bài tập cho Bát Sư phụ
    Câu gốc
    Based on a dark patch visible in early imaging efforts that was thought to be a pool of blood, experts had argued that the boy was killed with a blow to the head but this is not confirmed by later CT scans.

    Câu KL oánh lại :
    An early scan showed a dark area that was initially thought to indicate a pool of blood, leading experts to hypothesize that the boy was killed by a blow to the head. However, more recent CT scans do not support this contention.

    Câu vịt vật :
    Kết quả chụp CT sớm hơn cho thấy một vùng tối mà ban đầu các chuyên gia nghĩ là dấu hiệu của tụ máu bầm, khiến họ đưa ra giả thuyết rằng Nhà vua trẻ này đã thiệt mạng do chấn thương ở đầu. Tuy nhiên, các bản chụp CT gần đây hơn không ủng hộ luận điểm này.

    ~~~~
    Câu gốc:
    In the years prior to his death, the famous Pharaoh is also believed to have limped with a crippling foot condition that left him disabled.

    Câu KL oánh lại:
    Towards the end of his life, the famous pharaoh is believed to have suffered from a crippling foot condition, which left him with a significant limp.

    Vịt vật:
    Các chuyên gia cho rằng đến cuối đời, vị Hoàng Đế nổi tiếng này đã mắc chứng bệnh tê liệt bàn chân, khiến ông phải đi khập khiễng.


    Ghi chú: đệ tử mần bài xong trước khi thấy bài của Sư phụ .
    Last edited by Thùy Linh; 03-19-2024 at 02:58 PM. Reason: sửa tiếp

  5. #225
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    An early scan showed a dark area that was initially thought to indicate a pool of blood, leading experts to hypothesize that the boy was killed by a blow to the head. However, more recent CT scans do not support this contention.
    - Câu viết lại này có rõ hơn và theo ý tui còn hay hơn câu gốc ở những chỗ sau:
    1) dark area: rõ ràng và dễ hiểu hơn dark patch.
    2) early scan: (nên dùng số nhiều cho scans): rõ ràng và dễ hiểu hơn early imaging efforts
    3) more recent CT scans: rõ ràng và dễ hiểu hơn later CT scans

    - Tuy nhiên, có vài điểm sau làm tui hãy còn chưa… thỏa mãn!
    1) Vài chỗ/chữ còn “nặng ký” hơn cả bản gốc: leading experts to hypothesize, support this contention.
    2) Vài chỗ hơi lệch lạc so với bản gốc như an early scan. Bản gốc viết “early imaging efforts”, tức là có nhiều scans chứ không phải chỉ có one scan
    Và một chỗ cũng ngang ngửa với bản gốc, tức là “khói Cam Tuyền vẫn mờ mịt thức mây” chứ không rõ ràng gì hơn:
    3) do not support this contention: Cả bản gốc lẫn bản viết lại đều không cho biết not confirmed hay do not support this contention có ý cụ thể là gì, tức là vẫn “sương khói mờ nhân ảnh” tối om om mập mờ đánh lận con đen.
    Not confirmed hay do not support this contention như thế nào? Vì trước đã nhìn nhầm trong những tấm hình chụp trước hay gặp trục trặc kỹ thuật khi chụp quang tuyến, vì sau này người ta xác định chỗ đó không phải là máu tụ hay là những lần chụp hình trước đều bằng loại máy móc kém tân tiến hơn nên không rõ nét bằng rọi CT sau này, hay là vì lý do gì khác nữa?

    Thường thường thì ta nên paraphrase lại cho dễ hiểu hơn bằng cách dùng chữ “nhẹ ký” hơn, dùng câu ngắn hơn hoặc đơn giản hơn và tránh dùng càng nhiều mệnh đề phụ (subordiante clauses) càng tốt. Nếu dùng chữ “đao to búa lớn” thì đến lúc “dịch” dễ bị trở thành tiếng … vịt xiêm vì đã bị lầy lội trong mấy chữ…
    “khủng đó rồi nên không rút giò ra kịp!*
    __________
    (*) Ví dụ như loại “Fedspeak” (Alan Greenspanspeak) sau đây nhung nhúc chữ bự, chữ… “khủng” rối bòng bong cả chùm thì nhiều nhưng ý nghĩa lại chẳng bao nhiêu:
    “Risk takers have been encouraged by a perceived increase in economic stability to reach out to more distant time horizons. But long periods of relative stability often engender unrealistic expectations of it[s] permanence and, at times, may lead to financial excess and economic stress.”
    - Cô Ba Khả Ly khả dĩ muốn thử paraphrase lại đoạn trên đây sau cho đơn giản rõ ràng dễ hiểu hơn hôn? Xong dịch ra thành câu tiếng Việt mà không bị lai…bẹc giê thì khi ấy đã đả thông được hai mạch Nhâm Đốc mà đắc đạo tha hồ đi mây về gió luôn chứ không cần phải lên non xuống dốc gì nữa hết!
    - Nên nhớ là câu paraphrase của cô Ba có hay tầy trời đi nữa thì Greenspan tiên sinh vẫn có thể chối leo lẻo là ý tui hổng phải vậy vì câu nói gốc của ngài ai muốn hiểu ra sao cũng được hết, tức là ai cũng có thể hiểu đúng và ai cũng có thể hiểu sai và ai không hiểu cũng chẳng chết ai!

    Kết quả chụp CT sớm hơn cho thấy một vùng tối mà ban đầu các chuyên gia nghĩ là dấu hiệu của tụ máu bầm, khiến họ đưa ra giả thuyết rằng Nhà vua trẻ này đã thiệt mạng do chấn thương ở đầu. Tuy nhiên, các bản chụp CT gần đây hơn không ủng hộ luận điểm này.
    - sớm hơn: sớm hơn cái gì? Một khi có “hơn” có trội hay có “kém” có “thua” thì phải có so với cái gì khác đã nói gần gần đó hoặc đi liền với nó. Tiếng Anh có thể nói earlier hay later khơi khơi và ngầm hiểu phần sau từ than trở đi nhưng sang tiếng Việt nếu dùng “hơn” thì không thể đứt… chến ngang xương mà không có thêm “hơn cái gì” là không được. Nếu đứt chến luôn kiểu đó là thành văn hường, văn cảnh, văn chung, văn… lai căng ngay! Earlier trong trường hợp này nên dịch thành “ngày trước, lúc trước, trước đây,… và later thì nên dịch thành “sau này, về sau, hoặc gần đây hơn” như trong câu dịch trên đó thôi.

    - vùng tối: nghe như một vùng đất rộng lớn tối om om vì...
    xa lộ không đèn. Nhìn vào tấm hình rọi (CT scan) thì thấy như tấm hình trắng đen và xám nhạt xám đậm. Vậy thì dark area hay dark patch trong câu này có lẽ nên gọi là một “khoảng màu đen” hay một “chỗ màu đen” thì dễ hiểu hơn là tối với sáng.

    - dấu hiệu của tụ máu bầm: tụ máu bầm không phải là danh từ nên không xài “của” được mà chỉ nói “dấu hiệu tụ máu” thôi, hay “dấu hiệu bị tụ máu”. “Tụ máu” còn gọi là “bầm” cho nên “tụ máu bầm” là dư ra một miếng “bầm”!

    - không ủng hộ luận điểm này: Mấy bản chụp CT lại biết ủng hộ hay phản đối ý kiến của con người sao? Vì dùng chữ “nặng ký” nên cũng bị ảnh hưởng khi viết tiếng Việt. Bản chụp CT mà “ủng hộ” được cái gì sao? (Người mới có thể ủng hộ được người khác hay cái gì khác) Nếu được thì rõ ràng không phải tiếng Việt mà là tiếng… dịt từ chữ support!* Thay vì dùng chữ “bự” là hypothesize do not support this contention thì ta có thể dùng chữ “nhỏ” hơn như think disprove it.

    TIP: *Một chữ bao giờ cũng có nhiều nghĩa, nhiều ý nên không thể cứ nhìn thấy support là ô tô ma lắc thành “ủng hộ” hay “hậu thuẫn”, nhất là khi thấy something supports something chứ không phải someone supports someone or something. Động từ “ủng hộ” hoặc “hậu thuẫn” trong tiếng Việt chỉ dùng cho người chứ vật vô tri vô giác thì biết gì mà ủng hộ. Khi gặp chữ nào khó dịch hoặc khi dịch xong thấy câu tiếng Việt kỳ kỳ lạ lạ thì ta cần tra cứu thêm để xem chữ đó còn có nghĩa nào khác nữa. Trong trường hợp động từ support này, nếu tra cứu thêm thì ta sẽ thấy động từ support này trong số nhiều nghĩa khác còn có nghĩa là suggest the truth of; corroborate và đây chính là nghĩa dùng trong câu này. Do đó, nếu muốn dịch support this contention ra nước mắm nguyên chất thì phải dùng nghĩa suggest the truth of; corroborate này, chẳng hạn như “Tuy nhiên, các bản chụp CT gần đây hơn không chứng minh (chứng thực, củng cố, xác định, xác nhận,…) được luận điểm này

    Các chuyên gia cho rằng đến cuối đời, vị Hoàng Đế nổi tiếng này đã mắc chứng bệnh tê liệt bàn chân, khiến ông phải đi khập khiễng.
    - Các chuyên gia cho rằng: Ở đâu ra “các chuyên gia” này vậy? Câu tiếng Anh nó hay viết ở passive voice là vì 1) nó chẳng biết “ai” believed chuyện ông vua mới lớn này phải limped around vì bị một crippling foot condition, 2) nó biết nhưng chỉ muốn nhấn mạnh đến chuyện ông vua đi… cà nhắc thôi chứ ai believed so thì không quan trọng, và 3) nó không biết ai mà cũng không dám mạnh miệng xác quyết vì cái gì cả nên mới dùng passive voice để chơi màn “mập mờ” thủ cẳng hầu dễ bề chối quanh khi có người vặn vẹo đòi trưng bằng chứng cho thấy ông vua nọ bị chân cẳng như giò gà như vậy (cũng giống như kiểu viết She is reported/believed/known/thought/... to be the most beautiful woman in the Northern Hemisphere!” Người viết nhét thêm câu đó vào mồm thiên hạ cho nghe thấy nặng ký hơn chứ không phải riêng gì mình nên mới viết thế Trong tiếng Việt khi đổi sang thể “chủ động” để tránh “thụ động” thì ta thêm chủ từ là “người ta” (“người ta” là ai thì không quan trọng màu quan trọng là phần theo sau đó thôi!). Do đó, không nên nói là “các chuyên gia cho rằng” (vì không biết ai cho như thế cả!) mà chỉ cần nói là “người ta cho rằng”.

    - chứng bệnh tê liệt bàn chân: Làm thế nào mà biết được đó là bệnh tê liệt bàn chân? Câu viết lại Towards the end of his life, the famous pharaoh is believed to have suffered from a crippling foot condition, which left him with a significant limp. không khác câu gốc bao nhiêu về cách đặt câu và dùng chữ, do đó không giúp hiểu rõ hơn được về crippling foot condition này. Chính vì thế mà câu tiếng Việt mới phăng một cú
    à te (à terre) thành chứng bệnh tê liệt bàn chân”! Crippling trong trường hợp này là causing a person to become unable to walk or move properly, do đó mới phải limping. Vậy nếu ta viết lại thêm một câu khác cho đơn giản dễ hiểu hơn nữa như: People believed that in his final days on earth, the famous pharaoh had to limp because of his disabling foot condition. Có thế khi dịch (viết lại bằng tiếng Việt) mới dễ rỉ ra nước mắm hơn: Người ta tin rằng đến cuối đời, vị vua nổi tiếng này đã phải đi khập khiễng vì chân bị tật khiến không thể đi đứng bình thường.
    _____________
    (mai tiếp phần cuối truyện Đại Náo Ai Cập Bảo Tàng Tự)

  6. #226
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post
    ...
    Golden sandals
    His mummy was uncovered wearing gold sandals, though experts believe these may have been made especially for his death and not worn when he was alive.
    The ruler was believed to be suffering from a foot condition as more than 130 walking sticks were found in his tomb....

    Dr Carolyn Rando told the documentary: "The right and the left foot appear to look quite different from each other.
    "We can see that his left foot has quite a high and marked arch, while his right foot is almost completely flat.
    "He was probably putting more weight on his right foot for some reason and less weight on his left foot."
    X-rays show signs of necrosis, or tissue death, on his right foot, likely the result of a painful bone infection that left him disabled.

    ~~~~~~

    Dép vàng
    Xác ướp của vị Tiểu Hoàng Đế đang mang đôi dép vàng, mặc dù các chuyên gia tin rằng có thể đôi dép này ông không mang khi còn sống mà đặc biệt làm cho ông sau khi chết.
    Nhà cai trị này có thể đang bị bệnh ở chân vì có hơn 130 cây gậy trong ngôi mộ của ông....

    Tiến sĩ Carolyn Rando nói với bộ phim tài liệu: "Bàn chân phải và chân trái trông khá khác nhau."
    “Chúng ta có thể thấy bàn chân trái của ông có vòm khá cao và rõ rệt, trong khi bàn chân phải gần như bằng phẳng hoàn toàn.

    "Có lẽ vì lý do nào đó mà ông ấy dồn nhiều trọng lượng lên chân phải hơn ở bên chân trái."
    Phim chụp X-quang cho thấy các dấu hiệu hoại tử hoặc chết mô ở bàn chân phải của ông, có thể là kết quả của một đợt nhiễm trùng xương đau đớn khiến nhà vua bị tàn tật.
    - Xác ướp của vị Tiểu Hoàng Đế đang mang đôi dép vàng: Câu tiếng Việt này không cho thấy tại sao người ta lại nhìn thấy vị Tiểu Hoàng Đế này đang mang đôi dép vàng trong khi câu gốc có nói rõ (uncovered: tháo băng ướp xác mới nhìn thấy).

    - cây gậy: Gậy gì? Đây là gậy chống (walking sticks, canes)

    - khá khác nhau: nhìn là lạ, nghe cũng ngường ngượng. “Khác nhau khá nhiều” có vẻ thuận tai quen mắt hơn.

    - vòm khá cao: cũng giống như trên, tức là nhìn là lạ, nghe cũng ngường ngượng. Nếu đổi thành “lòng bàn chân lõm sâu” thì có dễ hình dung ra hơn chăng?

    - bằng phẳng: cũng là lạ, ngường ngượng. “Bàn chân bằng phẳng”? Thông thường “bằng phẳng” dùng để miêu tả một bề mặt như “mặt đất, mặt sàn, mặt bàn, mặt ghế, mái nhà” chứ đối với các bộ phận cơ thể thì ta hay nói “chân bẹt”, “mũi tẹt”, “trán dẹp”, “ngực lép”, “mông xẹp”…!

    - X-quang: Tui biết sau này gọi vậy nhưng tui thấy không đúng! “Quang” là ánh sáng, “thiều quang” là ánh sáng đẹp, vậy “X-quang” chỉ là “ánh sáng X” trong khi X-rays có nghĩa là “tia X”, “tia phóng xạ X”, và từ xưa ta đã gọi là “quang tuyến X” (tia sáng X, dù ta không nhìn thấy cái tia đó vì nằm ngoài quang phổ mắt nhìn thấy), trong đó có “tuyến” là tia (rays). Nếu gọi X-rays là X-quang thì không lẽ gọi ultraviolet rays là “tử ngoại quang” và infrared rays là “hồng ngoại quang”, hay gamma rays là “gamma quang”? Do đó, tui vẫn gọi nguyên chữ là “quang tuyến X”.

    - hoặc: dùng để chọn một trong hai thứ khác nhau. Ở đây cái or này chỉ là một thứ: “hoại tử” (mô chết) và nếu dịch or này là “hoặc” thì rất dễ bị hiểu lầm thành “bị hoại tử hoặc bị thứ kia là mô chết" (không bị cái này thì bị cái kia mà hai cái khác nhau)”. Vì thế nên dịch or ở đây là “còn gọi là”, “cũng gọi là”, “tức là” thì mới không thể hiểu lầm được!

    - một đợt: tại sao lại “một đợt”? Vì có nhiều đợt nhưng đợt này mới nặng đến mức tàn tật? Sao không gọi là “tình trạng nhiễm trùng” thay vì “một đợt nhiễm trùng”?

    - bị tàn tật: cũng được nhưng không rõ tàn tật kiểu gì. Nên dịch là “không đi đứng được bình thường”.

    (Hết)

  7. #227
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    6,005
    Quote Originally Posted by 008 View Post


    (*) Ví dụ như loại “Fedspeak” (Alan Greenspanspeak) sau đây nhung nhúc chữ bự, chữ… “khủng” rối bòng bong cả chùm thì nhiều nhưng ý nghĩa lại chẳng bao nhiêu:
    “Risk takers have been encouraged by a perceived increase in economic stability to reach out to more distant time horizons. But long periods of relative stability often engender unrealistic expectations of it[s] permanence and, at times, may lead to financial excess and economic stress.”
    - Cô Ba Khả Ly khả dĩ muốn thử paraphrase lại đoạn trên đây sau cho đơn giản rõ ràng dễ hiểu hơn hôn? Xong dịch ra thành câu tiếng Việt mà không bị lai…bẹc giê thì khi ấy đã đả thông được hai mạch Nhâm Đốc mà đắc đạo tha hồ đi mây về gió luôn chứ không cần phải lên non xuống dốc gì nữa hết!
    - Nên nhớ là câu paraphrase của cô Ba có hay tầy trời đi nữa thì Greenspan tiên sinh vẫn có thể chối leo lẻo là ý tui hổng phải vậy vì câu nói gốc của ngài ai muốn hiểu ra sao cũng được hết, tức là ai cũng có thể hiểu đúng và ai cũng có thể hiểu sai và ai không hiểu cũng chẳng chết ai!

    Vấn an Bát Sư phu., chào khách ghé chơi .

    Khả Ly chưa đọc bài mới trong "kiếm phổ" của Bát Sư phụ, bài trước đó cũng chưa rõ ràng hết ạ .

    Câu tiếng Anh đúng là viết khó hiểu ...
    Đệ tử mần bài tập, rồi mới đi bát Phố, thử paraphase câu tiếng Anh này coi đệ tử có hiểu đúng hay gần đúng hôn nghen ?
    ~~~~
    " Risk takers have been encouraged by a perceived increase in economic stability to reach out to more distant time horizons. But long periods of relative stability often engender unrealistic expectations of it[s] permanence and, at times, may lead to financial excess and economic stress.”
    Oánh lại, ba ra phây câu trên :
    Risk takers have a higher level of confidence given a sense of stability in the economy and are tending to take a longer-term view. It is important to temper this confidence with the need to balance risk given that stability is never permanent.

    Dịt nháp chưa thành vịt VN

    Người dám chấp nhận rủi ro có tự tin cao hơn nhờ cảm giác ổn định với nền kinh tế và có xu hướng, tầm nhìn xa, trông rộng hơn.
    Điều quan trọng là phải kiềm chế sự tự tin này với nhu cầu cân bằng rủi ro bởi vì không có sự ổn định nào mãi tồn tại.


    Last edited by Thùy Linh; 03-25-2024 at 07:27 AM.

  8. #228
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post
    ...
    ~~~~
    " Risk takers have been encouraged by a perceived increase in economic stability to reach out to more distant time horizons. But long periods of relative stability often engender unrealistic expectations of it[s] permanence and, at times, may lead to financial excess and economic stress*.”
    Oánh lại, ba ra phây câu trên :
    Risk takers have a higher level of confidence given a sense of stability in the economy and are tending to take a longer-term view. It is important to temper this confidence with the need to balance risk given that stability is never permanent...
    -Câu "ba ra phê" đầu thì OK nhưng thêm increased cho chính xác hơn!: "Risk takers have a higher level of confidence given a sense of increased stability in the economy and are tending to take a longer-term view."

    Còn câu sau thì rõ ràng cô Ba Ly (double scotch) cố đoán ý ông ta hơn là chỉ "ba ra phê" lại. Có thể ý ông ta là vậy thật nhưng nếu có người đoán thành ý khác cũng vẫn đúng như thường. Tóm lại ai muốn hiểu sao cũng được. Nếu từng người lôi ông ta ra chất vấn xem phải ý ông ta vậy không thì ông ta có thể nhận là đúng mà cũng có thể chối bay là không đúng. Và ông ta có thể dùng lại câu gốc của mình mà cãi bay cả hai trường hợp "đúng và không đúng" đều… đúng cả!

    Câu thứ nhì có thể "ba ra phê" cách khác như vầy: "The longer the economic stability seems to hold, the more people might unreasonably (unrealistically) think it would probably last forever and thus leading to financial overuse and economic worries from time to time."

    * Mấy cái chữ… cà chớn financial excess and economic stress này mang rất nhiều nghĩa, tha hồ mà chọn, từ
    "tiểu tượng" đến "đại tượng"** (ngày nay tui thấy gọi là "vi mô, vĩ mô"), từ "cá nhân” sang "định chế" (individuals, institutions)… mà nếu muốn biết chính xác ý tác giả muốn nói nghĩa nào thì phải hỏi lại tác giả, phải nằng nặc đòi tác giả nói ra thật cụ thể chúng là cái giống gì. Nếu không tìm được tác giả hay tác giả không chịu há miệng thì… do some research and take your pick!

    **
    "Tượng" đây không phải là "trông kìa con voi" mà có nghĩa "hình trạng, hình thái, trạng thái" như trong những chữ "hình tượng, cảnh tượng, khí tượng".

    Dịt nháp chưa thành vịt VN

    Người dám chấp nhận rủi ro có tự tin cao hơn nhờ cảm giác ổn định với nền kinh tế và có xu hướng, tầm nhìn xa, trông rộng hơn.
    Điều quan trọng là phải kiềm chế sự tự tin này với nhu cầu cân bằng rủi ro bởi vì không có sự ổn định nào mãi tồn tại.
    - Phần gạch mông ở trên là tiếng gì dậy? Tui đọc đi đọc lại mấy lần, tra mấy cuốn tự điển tiếng Việt, mấy cuốn văn phạm tiếng Việt rồi đoán tới đoán lui mãi cũng không sao nghĩ ra lý do tại sao có hai dấu phẩy nằm… ngang xương trước một noun phrase (tầm nhìn xa) và một verb phrase (trông rộng hơn) đứng lẻ loi một mình, còn câu chính thì kết thúc ở "có xu hướng
    "?!

    Lưu ý:
    "xu hướng" (danh từ) mang negative connotation, thí dụ, "hắn luôn luôn có xu hướng bạo động mỗi khi gặp chuyện trái ý". Tiếng Anh hay dùng propensity, proclivity khi muốn nói về thứ gì negative. Còn "khuynh hướng" (danh từ) mới mang neutral hoặc positive connotation , thí dụ, "hắn có khuynh hướng cầu toàn trong mọi công việc". Tiếng Anh trong trường hợp này thì thường dùng tendency, trend, inclination.

  9. #229
    Biệt Thự Thùy Linh's Avatar
    Join Date
    Oct 2011
    Posts
    6,005

    Vấn an, đa tạ Bát Sư phụ.
    Sư phụ đi đâu lâu vậy

    Dạ, có hiểu ý ổng hết đâu mà hổng đoán đây ....

    Cái chỗ Sư phụ gạch dưới là đệ tử bị ăn bí mừ ....

  10. #230
    Biệt Thự
    Join Date
    Dec 2014
    Posts
    867
    Quote Originally Posted by Thùy Linh View Post

    Sư phụ đi đâu lâu vậy
    - Tui ra cabin ngoài đảo làm... Tạc Giăng (Tarzan) chơi ít lâu nhàn thể chờ gặp Rên (Jane) nhưng chờ hoài hổng thấy Rên đâu rồi cuối cùng cũng phải dìa thành phố rồi... mần biếng luôn!
    Cái chỗ Sư phụ gạch dưới là đệ tử bị ăn bí mừ ....
    - Hả…hả…hả…hả…! Câu gạch mông gạch tushes đó là dịch từ câu "ba ra phê
    " ra chứ có phải dịch từ câu gốc đâu? Vậy thì câu "ba ra phê" đó là ai "phê" mà bây giờ lại bị ăn bí… rợ? Hay là thử đi tìm người "ba ra phê" đặng "cầm lên" (complain) là tại sao "phê" thế nào mà ra còn… hóc búa hơn cả câu gốc nữa khiến đập không bể nổi… bí?!

 

 

Similar Threads

  1. Dịch giả tìm Dịch thiệt
    By BatNgat in forum Khoa Huyền Bí Học
    Replies: 4
    Last Post: 11-20-2020, 07:21 PM
  2. Tháng Bảy Chưa Mưa - 20 Y Dịch qua đời
    By phamanhdung in forum Âm Nhạc
    Replies: 0
    Last Post: 07-08-2019, 08:46 AM
  3. BÁT NHÃ TÂM KINH - Dịch và chú giải
    By khúc dương in forum Khoa Huyền Bí Học
    Replies: 25
    Last Post: 08-06-2015, 10:41 PM
  4. Dịch Cân Kinh
    By hienchanh tran in forum Sức Khoẻ/Sắc Đẹp
    Replies: 1
    Last Post: 01-08-2015, 06:39 PM
  5. Yếu Tố Thành Công Của Một Chiến Dịch
    By ngocdam66 in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 03-18-2012, 09:04 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 04:29 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh