PDA

View Full Version : Mạc Cửu và Trấn Hà Tiên



V.I.Lãng
02-05-2012, 01:49 AM
Mạc Cửu và Trấn Hà Tiên
Những bài viết: V2012 sưu tầm đó đây
Ảnh của Xí Muội
Sắp xếp bài do V2012

Ngày nay nói đến đất Hà Tiên thì không ai không thể quên nhà thơ Đông Hồ.
V2012 xin gộp chung nơi đây bài viết về Nhà Thơ Đông Hồ


***


Công cuộc khai phá trấn Hà Tiên và vai trò của họ Mạc
http://farm8.staticflickr.com/7146/6806150607_82c5e30bc0_z.jpg


Nói đến công cuộc khai phá vùng đất trấn Hà Tiên trong giai đoạn ban đầu - vào những thập kỷ cuối thể kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, một vấn đề đặt ra là nên đánh giá vai trò và công lao của họ Mạc - Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích - như thế nào cho đúng. Về vấn đề này trước nay đã có nhiều ý kiến nêu lên, tuy có khác nhau về sắc thái, nhưng tựu trung đều nhấn mạnh hoặc ra sức đề cao vai trò và công lao của hai cha con họ Mạc, coi đó là nhân tố quyết định đối với công cuộc khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên lúc mới bắt đầu, quy kết tất cả công lao khai phá Hà Tiên về cho Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích.



http://farm8.staticflickr.com/7151/6806150699_bc17626d45_z.jpg


Nổi bật nhất là Trần Kinh Hoà, một học giả nghiên cứu và giảng dạy Sử ở Đài Loan, trong diễn văn “Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên” đọc tại trụ sở Hội Nghiên cứu liên lạc văn hoá Á châu của chính quyền Sài Gòn ngày 7-9-1958, đã khẳng định rằng “Hà Tiên dưới thiện chí của Mạc Cửu ngày một thịnh vượng, nhân dân được an cư lạc nghiệp, xã hội Hà Tiên là một xã hội văn nhã”(1). Trần Kinh Hoà còn cho là về phương diện chính trị, họ Mạc ở Hà Tiên lúc nào cũng giữ được thực quyền của một tiểu bang - một chính quyền tự chủ đã từng đóng vai trò “nước hoãn xung” giữa ba nước Việt Nam - Xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, Xiêm La và Chân Lạp.



http://farm8.staticflickr.com/7004/6806154485_a220a1cfd8_z.jpg


Một vài người khác cũng có quan điểm đề cao vai trò của Mạc Cửu như Trần Kinh Hoà. Họ cho rằng sau khi đến Hà Tiên, Mạc Cửu đã tổ chức chiêu mộ những người dân lưu tán từ khắp nơi hoặc nông dân định cư tại chỗ tập trung vào việc khai thác. Không những thế, Mạc Cửu còn chia đất và mau sắm những nông cụ cần thiết cho những lưu dân tiến hành khai thác ruộng đất, nhờ đó mà vùng đất Hà Tiên vốn khắc nghiệt sớm trở thành một vùng đất trù phú. Sự thật có phải thế không?



http://farm8.staticflickr.com/7145/6806154763_ff02d33aa1_z.jpg


Khi đề cập đến công cuộc khai thác, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa việc xây dựng và phát triển về mặt kinh tế - chủ yếu là kinh doanh buôn bán - vùng phố thị Hà Tiên (tức thị xã Hà Tiên ngày nay) với việc mở mang khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên nói chung. Đó là hai công việc hoàn toàn khác nhau về nội dung, quy mô và địa bàn. Nói cách khác, cần có sự phân biệt giữa việc đứng ra tổ chức xây dựng và phát triển vùng phố thị Hà Tiên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích với việc mở mang khai phá cả vùng đất thuộc trấn Hà Tiên của những lưu dân và cư dân địa phương.


Trước hết cần tìm hiểu việc xây dựng và mở mang vùng lỵ sở Hà Tiên mà sử cũ gọi là Mang Khảm hay Phương Thành.


Theo sử cũ thì vùng lỵ sở Hà Tiên tục xưng là Mang Khảm, tiếng Trung Quốc gọi là Phương Thành, trước khi Mạc Cửu đến ở và kinh dinh, đã là một cảng khẩu có tàu bè nước ngoài đến buôn bán hoặc ghé qua trên đường di chuyển. Việc buôn bán ở đây đã có sự tấp nập ở một mức độ nhất định. Chính yếu tố này đã kích thích Mạc Cửu, vốn là một thương nhân buôn bán lớn trên mặt biển(2), nhanh chóng chuyển từ Nông Pênh về phủ Sài Mạt để hoạt động. Và sau khi đặt chân đến Hà Tiên, việc làm đầu tiên và chủ yếu của ông ta là mở tiệm hút, trưng mua việc thu thuế hoa chi các sòng bạc lớn để làm giàu, mà điều này chỉ có thể làm được một khi Mang Khảm đã là một trung tâm giao dịch buôn bán lớn có nhiều thương nhân giàu có.



http://farm8.staticflickr.com/7034/6806150831_b7efd7aaba_z.jpg


Sau khi trở nên giàu có nhờ việc mở tiệm hút, tổ chức sòng bạc thu hoa chi, đào được hầm bạc, Mạc Cửu liền nghĩ tới và bắt tay ngay vào việc phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán của Hà Tiên, nhất là việc buôn bán với nước ngoài, mở mang phố chợ, xây dựng thành quách, theo Gia Định thành thông chí là thành đất, còn theo Văn hiến thông khảo của nhà Thanh thì đó là thành cây. Nhiều tài liệu cho thấy Mạc Cửu đã kêu gọi và đón nhận thuyền buôn các nước đến buôn bán(3), đồng thời cũng chủ động đặt quan hệ buôn bán với các nước. Năm 1728 và năm 1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang hai thương thuyền sang Nhật Bản liên hệ việc mậu dịch, được chính phủ Nhật Bản - Mạc Phủ Đức Xuyên - cấp giấy phép buôn bán. Năm 1731 và năm 1732, lại phái thương thuyền sang Nhật. Việc buôn bán với Trung Quốc cũng được bắt đầu từ năm 1729, từ đó những thổ sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô, tôm khô v.v… lục tục xuất cảng sang Trung Quốc(4).


Để khuyến khích tàu buôn nước ngoài đến buôn bán, Mạc Cửu đã cho thi hành một chính sách thuế hàng hoá khá ưu đãi. Hàng hoá buôn bán chỉ phải chịu một món thuế nhỏ mà thôi(5).


Đến thời Mạc Thiên Tích, kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Thiên Tích càng ra sức đẩy mạnh việc thông thương với nước ngoài. Năm 1740 và 1742, Thiên Tích hai lần phái hai thuyền chủ Ngô Chiêu Viên và Lâm Thiên Trường cùng thuyền buôn sang Nagasaki để xúc tiến việc mậu dịch với Nhật Bản. Đi đôi với việc mở rộng buôn bán với các nước, Thiên Tích còn khuếch trương việc xây dựng phố chợ, đường xá, xây cất dinh thự, đền miếu, trại quân, kho tàng, công xưởng (xưởng sửa chữa tàu thuyền), thành luỹ v.v… làm cho bộ mặt của phố cảng Hà Tiên càng được đổi mới, càng trở nên sầm uất với cảnh “đường lối tiếp giáp, phố xá liền lạc, người Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đô hội nơi góc biển vậy!”



http://farm8.staticflickr.com/7027/6806151073_8d1f2257ed_z.jpg


Toàn bộ những hoạt động nói trên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã nhanh chóng mang lại sự mua bán sầm uất, trù mật cho phố cảng Hà Tiên, từ đó đã thu hút thêm nhiều lưu dân đến ở trong đó có người Việt, người Hoa, người Giava và dân cư Khơme gần bên. Chúng ta có thể coi đó làm một sự đóng góp trực tiếp và to lớn của hai cha con Mạc Cửu vào sự thịnh vượng của phố cảng Hà Tiên vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII. Đó là điều cần được khẳng định và không phải bàn cãi. Song, ngoài việc mở mang phố cảng Hà Tiên, điều chúng ta muốn biết nhiều hơn, đó là tình hình khai phá trên toàn địa bàn trấn Hà Tiên nói chung đã diễn ra như thế nào dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích và vai trò của cha con họ Mạc ở đây ra sao?
Mở mang trấn Hà Tiên



http://farm8.staticflickr.com/7017/6806153855_c33f6bfaf4_z.jpg


Chúng ta biết rằng từ những thập niên cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, một số khá đông những người nông dân nghèo lưu tán vùng Thuận Quảng đã lần lượt di chuyển vào vùng Đồng Nai – Gia Định để trốn tránh sự áp bức bóc lột, nạn binh dịch, sưu thuế của giai cấp thống trị phong kiến Đàng Trong. Trên con đường đi tìm đất sống, một số đã dừng chân ở vùng Mô Xoài, Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ Tho, Bến Tre…, một số theo đường biển dọc theo vịnh Xiêm La. Điều đó có nghĩa là trước khi Mạc Cửu đặt chân đến Hà Tiên, những lưu dân người Việt, người Hoa… đã đến định cư tại đây cùng với cư dân địa phương - người Khmer, làm ăn sinh sống và Mạc Cửu chỉ là người có công đứng ra nhóm họp họ lập thành làng xóm mà thôi. Về điểm này, chúng tôi cho rằng Trịnh Hoài Đức đã rất đúng khi viết: “…hựu chiêu Việt Nam lưu dân ư (tôi nhấn mạnh - H.L) Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Càu Mau đẳng xứ, lập thất xã thôn dĩ sở cư”. (Tạm dịch là: lại nhóm họp - chữ “chiêu” trong câu này phải hiểu là chiêu tập, có nghĩa là nhóm họp lưu dân người Việt ở Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập làm bảy thôn để ở)(7). Rất tiếc đã có không ít người có thể do quên mất chữ “cư”, mà ngộ nhận rằng Mạc Cửu đã đứng ra chiêu mộ lưu dân người Việt từ các nơi khác đưa họ đến vùng dải đất ven biển và tổ chức công cuộc khai phá ở đây, gắn cho Mạc Cửu một công lao to lớn mà ông không hề có.


Rõ ràng là Mạc Cửu không hề đứng ra chiêu mộ những người lưu tán từ các nơi khác, đưa về an sáp nơi đây, càng không có việc Mạc Cửu đứng ra tổ chức công cuộc khai phá vùng đất hoang mạc này. Trái lại chính là những người dân tự mình đến đây định cư và họ cũng tự mình đứng ra khai thác các nguồn lợi nơi đây, trong đó có việc khai phá đất đai để trồng trọt, giải quyết cái ăn cái mặc cho mình.


Công cuộc khai phá khu vực trấn Hà Tiên bao gồm cả dải đất ven biển từ trấn lỵ Hà Tiên chạy dài xuống Cà Mau và sang phía Hậu Giang trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, tức là dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã diễn ra khá chậm chạp và kết quả đạt được còn rất hạn chế.
Tóm lại, dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, cả một vùng rộng lớn thuộc trấn Hà Tiên, công cuộc khai phá mở mang đất đai nông nghiệp trồng lúa chưa tiến triển mấy do môi trường tự nhiên nhiều khó khăn, nhưng cái chính vẫn là do trình độ kỹ thuật khai thác đất đai còn bị hạn chế. Những người dân lưu tán Việt, người Hoa, người Giava… và cư dân địa phương mà dân số hãy còn quá ít ỏi, phần lớn hoặc sống bằng nghề buôn bán hoặc sống bằng nghề chài lưới (những người ở phố chợ Hà Tiên và cảng Hà Tiên, những người ở phố chợ Rạch Giá và cảng Kiên Giang, những người ở cảng Đại Môn thuộc đạo Kiên Giang, ở cảng Đốc Huỳnh, cảng Gành Hào, thuộc đạo Long Xuyên, những người ở dọc theo ven biển). Chỉ có số ít nông dân ở Rạch Giá và Cà Mau là chuyên sống về nghề nông trồng lúa, do đó đất đai ở đây được khai phá tương đối chậm so với các vùng khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức vẫn còn ghi nhận về trấn Hà Tiên như sau: “Trấn Hà Tiên phong tục tập quán theo Trung Hoa, mà ít có hạng thân sĩ. Người Kinh (tức là người Việt - HL), người Thượng ở xen lộn, chuyên việc buôn bán, người Trung Quốc, người Cao Miên (tức người Khơme - HL), người Đồ Bà (tức người Giava - HL) phần đông ở theo bờ biển, địa lợi chưa khẩn trưng, nhân dân không có đất đai, nên dời đổi chỗ ở bất thường. Duy có hai đạo Long Xuyên (tức Cà Mau - HL) và Kiên Giang (tức Rạch Giá HL) có số nông dân biết chăm lo căn bản, cho nên các địa hạt thuộc trấn này thường nhờ lúa gạo của hai đạo ấy để cấp dưỡng”(10). “Và ruộng ở huyện Long Xuyên và huyện Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tự ruộng (trấn) Vĩnh Thanh mà địa lợi chưa khẩn hết”(11).


Mặc dù công cuộc khai phá đất đai ở trấn Hà Tiên trong nửa đầu thế kỷ XVIII chưa tiến triển mấy, nhưng những kết quả khiêm tốn mà những người dân lưu tán đã thu lượm được bằng chính công sức, mồ hôi nước mắt của mình đã đặt nền móng cho công cuộc khai thác vùng đất đai rộng lớn phía Tây Nam của Tổ quốc trong các thời kỳ sau.


Tìm hiểu công cuộc khai phá và sự phát triển về kinh tế văn hoá của vùng đất Hà Tiên trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, là một việc làm có ý nghĩa to lớn trong việc khai thác và phát huy truyền thống của địa phương. Nhưng khi đề cập đề tài này thì một vấn đề được đặt ra ngay tức khắc là xác định như thế nào cho đúng đắn vai trò của họ Mạc cụ thể là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích trong sự nghiệp ấy. Đó là một vấn đề có tầm quan trọng to lớn bởi vì nó là một vấn đề lịch sử nhưng lại mang ý nghĩa chính trị thực tiễn sâu sắc.

________________________
(1) Xem Văn hoá Á châu số 6 tháng 10-1958, tr. 33.
(2) (3) Theo Trần Kinh Hoà, trước khi chạy sang Chân Lạp, Mạc Cửu đã là một chủ thuyền buôn rất hoạt động, luôn luôn sang Philippin và Batavia buôn bán. Và Mạc Cửu cũng đã từng giúp Trịnh Thành Công ở Đài Loan, khuếch trương mậu dịch giữa Đài Loan và hải ngoại (Văn hoá Á châu số 6, tháng 10-1938).
(4) Xem Trần Kinh Hoà, tài liệu đã dẫn.
(5) Xem Un Chinois des Mers du Sud, Le fondateur de Hà Tiên, Journal Asiatique, 1953, p. 24.
(6) Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả. Bản dịch của Tân Việt Điều, Văn hoá nguyệt san, Số 61, tháng 6-1961, tr. 554.
(7) Gia Định thành thông chí, Q. III, Cương vực chí, tờ 636.
(8) Gia Định thành thông chí, Q. IV. Phong tục chí, từ 15a.
(9) Sách trên, Q. V. Sản vật chí, tờ 30b, nt.
(10) Gia Định thành thông chí.
(11) Mạc thị gia phả: bản dịch của Tân Việt Điều, Văn hoá nguyệt san số 61, tháng 6-1961, tr. 554

Nguồn: Xưa và Nay, số 226, tháng 12 -2004

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:52 AM
Mạc Cửu


http://farm8.staticflickr.com/7151/6806150699_bc17626d45_z.jpg


Mạc Cửu (hay Mạc Kính Cửu: 1655 - 1735), là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành đất Hà Tiên và Kiên Giang vào khoảng đầu thế kỷ 18. Ông quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, vì không phục nhà Thanh nên đem gia quyến sang Việt Nam vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu.


Khai phá miền Tây Nam Bộ

Năm 1671, Mạc Cửu mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn. Mạc Cửu gặp Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681.

Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.

Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kompong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán, tức người Khmer), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).

Năm 1687, quân Xiêm vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi, nhưng sau đó ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu muốn đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền, xin thần phục Nam Hà để nhờ chúa Nguyễn che chở.

Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu.

Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn.

Năm 1717, quân Xiêm lại tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.

Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh.

Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan.

Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Chú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành trấn Hà Tiên.

Gia quyến

Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Hậu Giang) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu).

Năm 1755, Nặc Nguyên (Ang Tong) [1]nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lập (Gò Công) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn (Outey II) [2] lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som)[3], Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam)[4], nói chung là toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát. Vũ vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.

Sau khi mất vào năm 1736, Mạc Cửu được truy phong tước Võ Nghị công.

Mặc Cửu có hai vợ, người vợ đầu tiên người Hoa theo Mạc Cửu đến định cư tại Hà Tiên nhưng không có con trai. Năm 1710, lúc đó đã 55 tuổi, ông cưới một người vợ Việt tên Bùi Thị Lẫm (người huyện Đồng Môn, tỉnh Biên Hòa) và sinh được con trai đầu lòng tên Mạc Sĩ Lân tức Mạc Thiên Tứ. Bà Bùi Thị Lẫm sau khi chết được dân chúng thờ trong chùa Phù Dung.

Chí sĩ Nguyễn Thần Hiến có soạn bài văn bia ở đền thờ họ Mạc tại Hà Tiên (Kiên Giang). Nhà thơ Đông Hồ có viết một bài thơ về ông Mạc Cửu trong đó có đoạn:

Chẳng đội trời Thanh Mãn,
tìm qua đất Việt bang.
Triều đình riêng một góc,
Trung hiếu vẹn đôi đường.
Trúc thành xây vũ lược,
Anh Các dựng văn chương.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:53 AM
Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7145/6806154763_ff02d33aa1_z.jpg


Mạc Thiên Tứ (Mạc Thiên Tích) là con trưởng của Mạc Cửu, còn có tên khác là Mạc Tông, sinh năm 1706, tại Lũng Kè, người Chân Lạp gọi là Peam. Tương truyền, trước khi Mạc Thiên Tứ ra đời, ở đầm Lũng Kè có nổi lên một tượng Phật cao bảy thước, tỏa hào quang rực rỡ. Lúc ấy có một nhà sư người Chân Lạp đi ngang qua, thấy vậy bảo là điềm tốt, báo hiệu hiền nhân xuất hiện. Mạc Cửu sai người vớt lên, bao nhiêu người cũng không mang lên được, nên đành phải xây một ngôi chùa nhỏ trên bờ để thờ. Ít lâu sau, bà Mạc hạ sang một con trai mặt mày khôi ngô tuấn tú, thấy hợp với điềm lành, Mạc Cửu đặt tên là Thiên Tứ (có nghĩa là trời cho).

Thuở nhỏ Mạc Thiên Tứ đã thông minh, nhanh nhẹn, tinh thông kinh điển, võ thuật. Tháng 5 năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu qua đời, sau khi an táng xong, thể theo yêu cầu của Mạc Thiên Tứ, Ninh vương Nguyễn Phước Thụ truy phong cho Mạc Cửu tước khai trấn Thượng trụ Đại tướng quân Cửu lộc hầu và cho Mạc Thiên Tứ tiếp tục làm Tổng binh Đại đô đốc trấn Hà Tiên kế nghiệp cha. Nhân dịp này chúa Ninh Vương còn ban tặng cho Mạc Thiên Tứ ba chiếc "thuyền long bài" không phải nộp thuế và còn cho phép mở lò đúc tiền để thông thương mua bán và tìm mua của quí nộp cho chúa. Đồng thời họ Mạc cũng được chúa Nguyễn lũy phong theo lệ "Thất diệp phiên hàn" (Bảy đời rào dậu cho quốc gia), lấy bảy chữ "Thiên tử công hầu bá tử nam" nối đời làm chữ lót đặt tên, lấy năm chữ "Kim mộc thủy hỏa thổ" trong ngũ hàng tương sanh khởi đầu từ bộ "Kim" nối đời đặt tên và thêm bộ "Ấp" vào chữ "Mạc" để tỏ ý không phải họ "Mạc" đã cướp ngôi nhà Lê.

Để phòng sự xâm nhập, cướp phá của Xiêm và Chân Lạp, Mạc Thiên Tứ tuyển mộ, luyện tập binh lính, thường xuyên tu bổ đào lũy, tăng cường việc bố phòng Hà Tiên. Mặt khác cho khai mở ruộng vườn, thiết lập chợ búa, khai thông bến bãi để thuyền bè ra vào thuận lợi. Thị trấn Hà Tiên được đặt tên là Phương Thành (còn gọi là Trúc Bằng thành). Thương nhân và lữ khách các nước tới ngày một đông đảo.

Mạc Thiên Tứ chiêu nạp văn tài các nơi, mở "Chiêu Anh Các", ngày ngày cùng bàn giảng sách, xướng họa thi thơ, nổi tiếng và còn lưu truyền đến nay trong hoạt động của thi đàn này là "Hà Tiên Thập Vịnh" (mười bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên). Văn đoàn này mở đầu cho việc phổ biến việc học ở đất Hà Tiên.

Đến năm 1739, cho rằng Mạc Thiên Tứ mới kế nghiệp cha, chưa đủ sức phòng bị Hà Tiên, quốc vương Chân Lạp Nặc Bôn mang quân xâm lấn. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu ngày đêm. Vợ Mạc Thiên Tứ là Nguyễn thị động viên phụ nữ trong thành nấu cơm nước, tiếp tế cho binh sĩ. Giặc tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách làm Đô đốc tướng quân, ban áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà Nguyễn thị cũng được phong làm phu nhân. Vào năm 1747, giặc biển cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên cũng bị Mạc Thiên Tứ dẹp yên.

Năm 1756, quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên Chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội và xin cho về nước. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước.

Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và h Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.

Không giống trường hợp Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho. Hai cha con họ Mạc là người trực tiếp mở mang và tổ chức khai thác đất Hà Tiên, một vùng đất rộng bao gồm phần lớn các tỉnh Tây Nam bộ ngày nay.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:54 AM
Mạc THiên Tứ - Tao Đàn Chiêu Anh Các với Hà Tiên Thập Vịnh



http://farm8.staticflickr.com/7168/6806154847_76cf6c456a_z.jpg


1) Đông Hồ Ấn Nguyệt
2) Lộc Trĩ Thu Thư
3) Thạch Đông Thôn Vân
4) Kim Giữ Lan Đào
5) Bình Sơn Điệp THúy
6) Thiên Tự Thần Chung
7) Giang Thành Dạ Cổ
8) Châu Nham Lạc Bộ
9) Nam Phố Trừng Ba
10) Lư Khê Ngự Bạc

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:55 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7172/6806153041_d97186db17_z.jpg


東 湖 印 月
雲霽煙消共渺茫,
一灣風景接洪荒。
晴空浪靜傳雙影,
碧海光寒洗萬方。
湛闊應涵天蕩漾,
凜零不愧海滄凉。
魚龍夢覺衝難破,


Đông Hồ Ấn Nguyệt
Vân tế yên tiêu cộng diểu mang,
Nhất loan phong cảnh tiếp hồng hoang.
Tình không lãng tịnh truyền song ảnh,
Bích hải quang hàn tẩy vạn phương.
Trạm khoát ứng hàm thiên đãng dạng,
Lẫm linh bất quí hải thương lương.
Ngư long mộng giác xung nan phá,
Y cựu băng tâm thượng hạ quang.


Đông Hồ dịch
Khói lạnh mây tan cõi diểu mang,
Một vùng phong cảnh giữa hồng quang.
Trời xa mặt sóng in đôi bóng,
Biển bạc vành gương dọi bốn phương.
Rộng đã sánh cùng trời bát ngát,
Sâu còn so với biển mênh mang.
Cá rồng tỉnh giấc chi tan vỡ,
Một tấm lòng băng vẫn chói chang.


Bản dịch khác
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang
Giữa có vầng trăng nổi rỡ ràng
Đáy nước chân mây in một sắc
Ả Hằng nàng Tố ló đôi phương
Rạng thanh đã hứng thuyền Tô Tử
Lạnh lẽo càng đau tiếng Nhạc Xương
Cảnh một mà tình người dễ một
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:56 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7171/6806153165_fcf0ef3d9c_z.jpg


金嶼攔濤

一島推嵬奠碧連,
橫流奇勝壯河仙。
波濤勢截東南海,
日月光迴上下天。
得水魚龍隨變化,
傍崖樹石自聯翻。
風聲浪跡應長據,
濃淡山川異國懸。

Kim Dự Lan Đào

Nhất đảo thôi ngôi điện bích liên,
Hoành lưu kỳ thắng tráng Hà Tiên.
Ba đào thế tiệt đông Nam hải,
Nhật nguyệt quang hồi thượng hạ thiên.
Đắc thuỷ ngư long tuỳ biến hoá,
Bàng nhai bách thụ tự liên phiên.
Phong thanh lãng tích ưng trường cứ,
Nùng đạm sơn xuyên dị quốc huyền.


Đảo Vàng Ngăn Sóng Lớn
Đông Hồ dịch

Một dẫy non xanh nước bích liền,
Giăng ngang cho mạnh đẹp sông tiên.
Đông nam sóng biển bằng trang cả,
Trên dưới trăng trời sáng rực lên.
Rồng cá vẫy vùng trong cõi nước,
Đá cây xan xát khắp ven miền.
Nghìn thu tiếng gió quanh chân sóng,
Đậm nhạt trăng treo nét lạ nhìn.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:57 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7013/6806153217_9a0ca1dbc5_z.jpg


屏山疊翠
籠葱草木自岧嶢,
疊嶺屏開紫翠嬌。
雲靄匝光山勢近,
雨餘夾麗物華饒。
老同天地鐘靈久,
榮共烟霞屬望遙。
敢道河仙風景異,
嵐堆鬱鬱樹蕭蕭。


Bình San Điệp Thuý
Lông thông thảo mộc tự thiều nghiêu,
Điệp lĩnh bình khai tử thuý kiều.
Vân ái táp quang sơn thế cận,
Vũ dư giáp lệ vật hoa nhiêu.
Lão đồng thiên địa chung linh cửu,
Vinh cộng yên hà chúc vọng dao.
Cảm đạo Hà Tiên phong cảnh dị,
Lam đồi uất uất thụ tiêu tiêu.


Núi Dựng Một Màu Xanh
Đông Hồ dịch

Cây xanh ngăn ngắt vút cao cao,
Ngọn dựng bình giăng đẹp mĩ miều.
Mây sáng vây quanh hình núi rõ,
Mưa tàn thêm nổi bóng non theo.
Đất trời bền vững nền linh tú,
Mây khói vời xa nỗi ước ao.
Danh thắng Hà Tiên đâu dám bảo,
Cây ngàn mơn mởn biếc xanh gieo.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:58 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7151/6806153385_6834e79d09_z.jpg


蕭寺晨鐘

殘星寥落向天拋,
戊夜鯨音遠寺敲。
净境人緣醒世界,
孤聲清越出江郊。
忽驚鶴唳繞風樹,
又促烏啼倚月稍。
頓覺千家欹枕後,
雞傳曉信亦寥寥。


Tiêu Tự Thần Chung
Tàn tinh tiêu lạc hướng thiên phao,
Mậu dạ kình âm viễn tự xao.
Tịnh cảnh nhân duyên tinh thế giới,
Cô thinh thanh việt xuất giang giao.
Hốt kinh ngạc lệ nhiễu phong thụ,
Hựu súc ô đề ỷ nguyệt sao.
Đốn giác thiên gia y chẩm hậu,
Kê truyền hiểu tín diệc liêu liêu.


Chuông Sớm Ở Chùa Vắng
Đông Hồ dịch

Lác đác trời tàn nhạt sánh sao,
Chuông chùa xa vẳng tiếng đưa vào.
Mơ màng cõi tục người tiên lẫn,
Đồng vọng bờ cây bến nước xao.
Hạc để tiếng vương cành gió thoảng,
Quạ đưa lời gởi ngọn trăng cao.
Gối nghiêng giấc tỉnh đêm mê mộng,
Sớm giục canh gà tin khát khao.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:58 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7001/6806153501_a0bc5dbd24_z.jpg


江城夜鼓

天風迴繞凍雲高,
鎖鑰長江將氣豪。
一片樓船寒水月,
三更鼓角定波濤。
客仍竟夜鎖金甲,
人正干城擁錦袍。
武略深承英主眷,
日南境宇賴安牢。


Giang Thành Dạ Cổ

Thiên phong hồi nhiễu đống vân cao,
Toả thược trường giang tương khí hào.
Nhất phiến lâu thuyền hàn thuỷ nguyệt,
Tam canh cổ giác định ba đào.
Khách nhưng cánh dạ toả kim giáp,
Nhân chính can thành ủng cẩm bào.
Vũ lược thâm thừa anh chủ quyến,
Nhật Nam cảnh vũ lại an lao.


Trống Đêm Ở Đồn Bên Sông
Đông Hồ dịch

Gió cuốn trời cao mây lạnh tung,
Sông dài vây toả khí anh hùng.
Lâu thuyền dãi bóng trăng sương lạnh,
Trống mõ cầm canh sóng nước trong.
Kim giáp đã nhờ đêm chặt chẽ,
Cẩm bào cho được chốn thung dung.
Lược thao đem đáp tình minh chúa,
Nước Việt biên thuỳ vững núi sông.

V.I.Lãng
02-05-2012, 01:59 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7026/6806155111_eac62129cb_z.jpg


石洞吞雲

山峰聳翠砥星河,
洞室玲瓏蘊碧珂。
不意煙雲由去往,
無垠草木共婆娑。
風霜久歷文章異,
烏兔頻移氣色多。
最是精華高絕處,
隨風呼吸自嵯峨。

Thạch Động Thôn Vân

Sơn phong tủng thuý để tinh hà,
Động thất linh lung uẩn bích kha.
Bất ý yên vân do khứ vãng,
Vô ngân thảo mộc cộng bà sa.
Phong sương cửu lịch văn chương dị,
Ô thố tần di khí sắc đa.
Tối thị tinh hoa cao tuyệt xứ,
Tuỳ phong hô hấp tự tha nga.


Động Đá Nuốt Mây
Đông Hồ dịch

Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà,
động bích long lanh ngọc chói loà.
Chẳng hẹn khói mây thường lẩn quất,
Không ngăn cây cỏ mặc la đà.
Phong sương càng dãi màu tươi đẹp,
Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua.
Chót vót tinh hoa đây đã hẳn,
Theo chiều gió lộng vút cao xa.

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:00 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7145/6806152299_338b5d83bb_z.jpg


珠岩落鷺

綠蔭幽雲綴暮霞,
靈岩飛出白禽斜。
晚排天陣羅芳樹,
晴落平崖寫玉花。
瀑影共翻明月岫,
雲光齊匝夕陽沙。
狂情世路將施計,
碌碌棲遲水石涯。


Châu Nham Lạc Lộ
Lục ấm u vân xuyến mộ hà,
Linh nham phi xuất bạch cầm tà.
Vãn bài thiên trận la phương thụ,
Tình lạc bình nhai tả ngọc hoa.
Bộc ảnh cộng phiên minh nguyệt tụ,
Vân quang tề táp tịch dương sa.
Cuồng tình thế lộ tương thi kế,
Lục lục thê trì thuỷ bạch nha.


Đàn Cò Đáp Xuống Núi Châu Báu
Đông Hồ dịch

Bóng rợp mây dâm phủ núi non,
Bay la bay lả trắng hoàng hôn.
Góc trời thế trận giăng cây cỏ,
Đoá ngọc hoa rơi khắp bãi cồn.
Trăng dãi non treo làn thác đổ,
Chiều tà cát lẫn ánh mây tuôn.
Trên đường bay nhảy bao xuôi ngược,
Nghĩ cảnh dừng chân bến nước còn.

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:00 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7150/6806152367_767efaa59c_z.jpg


南浦澄波

一片滄茫一片清,
澄連夾浦老秋晴。
天河帶雨烟光結,
澤國無風浪沫平。
向曉孤帆分水急,
趨潮容舫載雲輕。
他知入海魚龍匿,
月朗波光自在明。

Nam Phố Trừng Ba

Nhất phiến thương mang nhất phiến thanh,
Trừng liên giáp phố lão thu tình.
Thiên hà đái vũ yên quang kiết,
Trạch quốc vô phong lãng mạt bình.
Hướng hiểu cô phàm phân thuỷ cấp,
Xu triều dung phảng tải vân khinh.
Tha tri nhập hải ngư long nặc,
Nguyệt lãng ba quang tự tại minh.


Bãi Nam Sóng Lặng
Đông Hồ dịch

Một vùng xanh ngát một doành khơi,
Bãi nối màu thu tiếp sắc trời.
Mưa khéo mây đem về kết tụ,
Gió nào cho sóng động tăm hơi.
Biển hâng hẩng sáng triều tuôn dẫy,
Buồm nhẹ nhàng đưa khói thoảng trôi.
Vực thẳm cá rồng còn ẩn náu,
Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi.

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:01 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7168/6806154211_7be8984acc_z.jpg


鹿峙村居

竹屋風過夢始醒,
鴉啼簷外却難聽。
殘霞倒掛沿窗紫,
密樹低垂接圃青。
野性偏同猿鹿靜,
清心每羨稻粱馨。
行人若問住何處,
牛背一聲吹笛停。

Lộc Trĩ Thôn Cư

Trúc ốc phong qua mộng thuỷ tinh,
Nha đề thiềm ngoại khước nan thinh.
Tàn hà đảo quải duyên song tử,
Mật thụ đê thuỳ tiếp phố thanh.
Dã tính thiên đồng viên lộc tĩnh,
Thanh tâm mỗi tiễn đạo lương hinh.
Hành nhân nhược vấn trú hà xứ,
Ngưu bối nhất thanh xuy địch đình.


Nông Trại Mũi Nai
Đông Hồ dịch

Lều tre giấc tỉnh gió lay mình,
Tiếng quạ ồn chi trước mái tranh.
Ráng xế treo ngang khung cửa tím,
Cây vườn che lợp luống rau xanh.
Tánh gần mộc mạc hươu nai dại,
Lòng thích thơm tho nếp tẻ thanh.
Ai đó hỏi thăm nơi chốn ở,
Lưng trâu tiếng sáo lặng làm thinh.

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:03 AM
Thơ Mạc Thiên Tứ


http://farm8.staticflickr.com/7008/6806154379_f1000ff437_z.jpg


鱸溪閒釣

遠遠滄浪含夕照,
鱸溪烟裏出漁燈。
橫波掩映泊孤艇,
落月參差浮罩層。
一領簑衣霜氣迫,
幾聲竹棹水光凝。
飄零自笑汪洋外,
欲附魚龍却未能。


Lư Khê Nhàn Điếu

Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu,
Lư khê yên lý xuất ngư đăng.
Hoành ba yểm ánh bạc cô đính,
Lạc nguyệt sâm si phù tráo tăng.
Nhất lãnh thoa y sương khí bách,
Kỷ thanh trúc trạo thuỷ quan ngưng.
Phiêu linh tự tiếu uông dương ngoại,
Dục phụ ngư long khước vị năng.


Thuyền Đánh Cá Đỗ Bến Vược
Đông Hồ dịch

Bóng chiều nắng ngả dòng sông thẳm,
Rạch Vược đèn ngư khói chập chùng.
Bến cũ nhấp nhô thuyền đỗ sóng,
Bờ xa san sát lưới phơi trăng.
Cánh tơi áo thấm sương pha buốt,
Mái trúc chèo khua nước sáng trưng.
Lồng lộng vời trông cười thử hỏi,
Cá rồng vùng vẫy chốn nầy chăng.

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:05 AM
Nhà Thơ Đông Hồ


http://farm8.staticflickr.com/7010/6812436269_f76987103e.jpg


Đông Hồ (10 tháng 3 năm 1906 - 25 tháng 3 năm 1969), tên thật Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hòa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáo, nhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt


Thân thế & sự nghiệp

Đông Hồ sinh tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ ông vốn tên là Kỳ Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc Tỉ, tự là Trác Chi.
Nhà ông, tổ tiên truyền mấy đời, đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, là một thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ ông đã lấy hiệu Đông Hồ.

Theo tâm sự của Đông Hồ, chính báo Nam Phong đã đánh thức nơi ông niềm say mê với quốc văn, quốc ngữ:

“Nằm nhà buồn buồn, tôi lấy mấy quyển sách ra xem thì là mấy tập Nam Phong cũ. Tôi giở từng số, xem qua một lượt. Tôi gặp bài thơ Le Lac của Lamartine dịch ra quốc ngữ của cô Lê Cẩm Nhung và của ông Nguyễn Văn Bông. Tôi để ý đọc, chỉ đọc bài quốc ngữ thôi, vì bài chữ Tây thì tôi đã thuộc lòng (…) Thì ra quốc văn có thể diễn nổi những cảnh sắc sảo sáng sủa của thơ Tây, và cũng có thể diễn nổi những ý tứ thâm trầm, những tư tưởng cao thượng của thơ Tàu. Tôi tỉnh ngộ. Tôi thấy rằng nước ta còn có chữ, giống ta còn có tiếng nói. Quốc văn ta có nghèo hèn kém cỏi gì đâu. Tôi bỏ Pháp văn, quay ra chuyên tâm học quốc ngữ. Cái duyên của tôi với báo Nam Phong cũng bắt đầu từ đó, mà cái cảm tình của tôi đối với tiếng nước nhà đằm thắm mặn mà cũng bắt đầu từ đó”

Lượt kê những hoạt động chính:

• Năm 1926 - 1934: Ông lập Trí Đức học xá trên bờ Đông hồ, chủ trương chuyên dạy toàn tiếng Việt, cổ động người Việt tin tưởng ở tương lai Việt ngữ. Thời kỳ này ông cộng tác với Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh chủ trương đến khi báo đình bản (1935). Thời kỳ này, ông nổi tiếng với bài ký Linh Phượng tức Trác Chi lệ ký tập và bài phú Đông Hồ.

• Năm 1935: xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn nhưng chỉ ra được vài chục số thì ngưng vì không tự túc nổi, ông phải về lại Hà Tiên sinh sống và chuyên nghiên cứu văn học miền Nam.

• Năm 1945: tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian, nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên trở lên Sài Gòn.

• Năm 1950: Ông sáng lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang.

• Năm 1953: Ông xuất bản tập san Nhân Loại để yểm trợ cho nhà xuất bản và nhà sách nêu trên cho đến giữa năm 1964, tất cả mới ngưng hoạt động.

• Năm 1964: ở ẩn tại Quỳnh Lâm thư thất thuộc ngoại ô Sài Gòn. Những năm về sau, ông vừa làm văn vừa làm thơ, thường viết về văn học, về lịch sử đăng ở các tạp chí xuất bản ở Sài Gòn như Văn Hóa nguyệt san, Bách Khoa, Văn,…

• Năm 1965: ông được mời phụ trách môn Văn học miền Nam tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức 8 tháng Hai năm Kỷ Dậu) lúc đang đứng trên bục giảng cho sinh viên bài thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang


Tác phẩm

Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký, khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có tiếng khi viết cho báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với bài ký Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập và bài Phú Đông Hồ.


Các tác phẩm đã in thành sách:

• Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 - 1932

• Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắc

• Linh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam Phong tập XXII, số 128

• Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng tác trong khoảng 1932 - 1935

• Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc Hà

• Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xb, 1960): in chung với Đường Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất tiểu muội

• Trinh Trắng (Bốn Phương xb, 1961): thi tuyển

• Truyện Song tinh (Bốn Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song Tinh Bất Dạ

• Chi lan đào lý (1965): tùy bút

• Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965): thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du

• Bội lan hành (1969)

• Úc Viên thi thoại (1969)

• Đăng đàn (1969)

• Dòng Cổ Nguyệt (1969)

• Văn học miền Nam: văn học Hà Tiên (1970): tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.


Đã hoàn thành các biên khảo:

• Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)

• Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)

• Chuyện cầu tiên ở Phương thành (1932)


(trích từ Bách khoa toàn thư - Wikipedia )

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:06 AM
Những Hình Ảnh Khác về Trấn Hà Tiên


http://farm8.staticflickr.com/7167/6806152773_a126da8179_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7001/6806152439_b04509ed56_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7002/6806152537_b483d6ca1e_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7147/6806152625_7a3e8d42e6_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7009/6806152705_baa33b29b2_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7170/6806152885_58afe570bb_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7144/6806152981_721c645682_z.jpg

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:07 AM
Một góc bên Đông Hồ nhìn từ Tịnh Xá Ngọc Tiên

http://farm8.staticflickr.com/7160/6806151161_148d80a346_z.jpg


Đường lên TỊnh Xá Ngọc Tiên
http://farm8.staticflickr.com/7013/6806151259_4301bd5742_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7169/6806151689_33dff899a7_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7169/6806151363_88fb0a42d3_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7162/6806151467_6f5ef61d8d_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7034/6806151607_7c564e26b4_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7152/6806151775_f75784e7c0_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7029/6806151819_9d867d4071_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7152/6806151919_61cdf1ed18_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7157/6806152039_7ebd023096_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7161/6806152141_b838d4ee28_z.jpg

V.I.Lãng
02-05-2012, 02:09 AM
http://farm8.staticflickr.com/7034/6806154025_a123cbe8e8_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7148/6806154969_34a86384b1_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7026/6806155111_eac62129cb_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7002/6806155219_9392e8463c_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7172/6806155377_6333839e87_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7006/6806155541_a153a09c2b_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7012/6806155605_feac943acd_z.jpg


Bà quảy gánh bán bánh thốt nốt , những chiếc bánh được để bên trong ống
http://farm8.staticflickr.com/7149/6806155679_da99db651b_z.jpg


http://farm8.staticflickr.com/7019/6806155863_bb5b523f74_z.jpg

Triển
02-05-2012, 07:25 AM
Bà quảy gánh bán bánh thốt nốt , những chiếc bánh được để bên trong ống
Bánh thốt nốt là bánh ra sao rứa V2012 ? Bà ấy đựng trong ống tre (??) thấy ngộ quá.

Nhìn mấy chiếc ghế chỗ thằng bé ngồ đánh cờ là nổi sân si. hihihi Người cúng dường danh tánh lòi ra
luôn trên mặt ghế, lưng ghế, nhìn khó chịu quá. Bên này ở bán nguyệt san Viên Giác cũng rứa. Phải để
cả chục trang cuối báo đạo để ghi "phương danh cúng dường"....dài dằng dặc. Bên này tiền chuyển
ngân hàng làm gì có thất thoát, thế nhưng phải ghi lên báo làm gì cái tên để kiểm chứng mất công
người ghi, người dò tìm và sau cùng rồi thì công đức ngọn gió thoáng qua .... mây.

Triển
02-05-2012, 07:28 AM
Nhìn từ xa cái làng này màu sắc sặc sỡ dưng mà lại thấy hay không đơn điệu xám xịt hoặc đen thui....

http://farm8.staticflickr.com/7160/6806151161_148d80a346_z.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7152/6806151919_61cdf1ed18_z.jpg

V.I.Lãng
02-05-2012, 05:58 PM
Hi Anh Triển,

Mời Anh ghé qua " Chùa hang " xem bánh thốt nốt :)

Triển
02-05-2012, 08:14 PM
Hi Anh Triển,

Mời Anh ghé qua " Chùa hang " xem bánh thốt nốt :)

Thì ra là giống bánh ít thay vì bột nếp thì dùng bột gạo, vị ngọt của người Việt gốc Miên.
Tôi mới đi xem trên mạng rồi, có chỗ người ta viết là gạo Nàng Nhen làm bánh phải xay
ra thành bột để cả năm trời mới làm cho bánh được dòn (?).