PDA

View Full Version : Tưởng niệm tháng tư



cao nguyên
02-07-2012, 06:28 AM
Tưởng Niệm Tháng Tư

http://i748.photobucket.com/albums/xx127/coffeebean_04/Memory/vinhdanh.jpg

http://img268.imageshack.us/img268/7578/bandof.jpg

http://img832.imageshack.us/img832/5283/tiecthuongbatkhuat2.jpg

cao nguyên
02-07-2012, 06:37 AM
http://i1109.photobucket.com/albums/h432/The_Rainbow2010/Asia/Ben-Le-To-Quoc-2008a11.gif



http://www.youtube.com/watch?v=CS9Nxd9G2Dk&feature=player_embedded

cao nguyên
02-07-2012, 07:10 PM
NGŨ HỔ TƯỚNG QUÂN LỰC VNCH



Ơn Tổ Quốc Trọn Tình - Sinh Vi Tướng Nghĩa Dân Quân Vẹn Tiết - Tử Vi Thần



http://img122.imageshack.us/img122/2300/nguhotuongqlvnchfixle5.jpg



Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân."


Sào Nam PHAN BỘI CHÂU




Giở lại những trang sử chiến đấu dũng mãnh và hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân tưởng niệm ngày 30-04, là ngày nước Việt Nam Cộng Hòa thôi tồn tại, chúng tôi muốn kể lại cho các bạn trẻ Việt Nam công nghiệp chiến đấu và những giây phút chói chang cuối cùng của những vị thần tướng làm rạng danh nước Nam trên trường quốc tế: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, mà điểm dừng là mũi Cà Mau. ược hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở còn ở tuổi học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê hội họa, âm nhạc và giỏi về nhạc lý. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn vị chiến trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa. Nếu ở Bộ Tư Lệnh thì người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với các sĩ quan, có gì ăn nấy. Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu vật chất xa hoa, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành huyền thoại.


http://img148.imageshack.us/img148/5563/tuongnamlz4.jpg


Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam


Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa bỏ phiếu đa số chấp thuận lên nắm quyến Tổng Thống vỏn vẹn mới có ba ngày đã vội vã ra lệnh toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng thôi chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày 30.04.1975.<o:p></o:p>

Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lãnh của quân ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhã như vậy. Đại cuộc không thành, thành mất thì tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu gãy súng và thương phế binh chắc chắn sẽ bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè phố bụi đất với những vết thương còn lở lói và rướm máu, đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Đến tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn phòng tại trại Lê Lợi. Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã đứng nghiêm chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ. Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Sài Gòn.



http://img444.imageshack.us/img444/3281/levanhungja2.jpg


Chuẩn Tướng Hưng và ban Tham Mưu chiến trường An Lộc Hè 1972


Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu IV đã tự sát trong văn phòng Tư Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Hòa Bỉnh, Cần Thơ, trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng được biết đến từ khi ông còn là một sĩ quan chiến đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là một trong những con mãnh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ chức vụ Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ông được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972. Định mệnh đã chọn Chuẩn Tướng Hưng làm người tử thủ An Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến sử thế giới. Hình ảnh dũng cảm và quen thuộc mà chiến sĩ tử thủ An Lộc ngưỡng mộ người Tư Lệnh của họ, là chiến sĩ Lê Văn Hưng đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô liu, tay xách cây M16 như bất cứ một người lính khinh binh nào, làm việc 24/24 giờ một ngày bên chiếc đèn vàng mù mờ ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh thần binh sĩ và tỉ mỉ giảng giải cách sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn xe tăng địch.

http://img262.imageshack.us/img262/1096/levanhung2ty3.jpg


Dưới sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng Nam và Chuẩn Tướng Hưng, Quân Đoàn IV gồm các Sư Đoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đã đem lại những ngày an bình cho người dân Miền Tây. Hai vị Tướng đã là một cặp chiến binh kiệt xuất tạo nên bức tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái ngày oan nghiệt 30.04.1975, hai vị Tướng nhiều lần nhận được lời đề nghị khẩn thiết của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đình di tản sang Hoa Kỳ, nhưng cả hai vị Tướng đã khẳng khái từ chối. Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày, hai vị Thiếu Tướng còn cố liên lạc với các đơn vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và phóng đồ bố trí chiến đấu chưa. Tất cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá được giao trọng trách chuyển lệnh đã bỏ trốn mất. Hai vị Tướng tức uất thở than cho vận nước. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với người chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn phòng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ bà Chuẩn Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người, nói cho chúng biết về người cha đã chết như thế nào cho tổ quốc. Người cũng trân trọng từ biệt các chiến hữu:

“Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc. Tôi cũng không thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có.”

Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây súng thân thương vào lòng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ tướng đã điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, bình thản đóng kín cửa văn phòng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngã người tựa vào giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn, đôi mắt còn mở to uất hờn. Người đã bắn vào tim để tỏ rõ tiết tháo một người Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Máu từ trong tim người thấm ướt mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975. Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng Hưng nghe rõ tiếng thở dài của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây. . .




http://img505.imageshack.us/img505/3888/phamvphu2jz1.jpg


Thiếu Tướng Phạm Văn Phú


Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng với vận nước.
Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa sau ngày ký Hiệp Định Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận Điện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh lao. định mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng 07.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mảnh khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau lòng theo dõi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố phường Sài Gòn trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.




http://img179.imageshack.us/img179/8765/tuonglnvydu2.jpg


Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tại mặt trận


Một trong những hồi ức rất đẹp và rất hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ còn để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu súng chống chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên, trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đã thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với quân địch. Đại Tá Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông về phục vụ dưới cờ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968.

Đại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. Sau chiến thắng An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu. Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Về mặt quân sự, người có một tầm nhìn chiến lược rất bao quát và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:

“Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ngoài này mà sẽ tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn”.

Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn đúng. Một quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà tìm cách len lỏi xuyên qua những điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài Gòn để dứt điểm Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao.

Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đã khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như những hạt sỏi. Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở cửa thì thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên tay còn cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu. Khi các sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trại. sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đã nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: “Đây mới xứng đáng là con nhà Tướng.” <o:p></o:p>

Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.



http://img529.imageshack.us/img529/9164/tuongtvh2gk7.jpg


Chuẩn Tướng Trần Văn Hai



Cũng với tấm lòng của những người mẹ thương con bao la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã mưu trí gạt được quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc cấp, trong đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người còn cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn sống Chuẩn Tướng Hai nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất gì đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối với dân tộc và tổ quốcTài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy những loại sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vị Tướng thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền hết mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đã trở thành huyền thoại về Đại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, đầu năm 1968 đã cùng vài sĩ quan đáp phi cơ C123 ra tận chiến trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào tiền tuyến thăm hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, dưới những cơn mưa pháo rền trời của địch.

Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng.

Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản, mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc phe phái của ông Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ chối và cương quyết ở lại sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của họ. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng ghìm nhau. Mãi lâu sau mới có một người gõ của xin vào rụt rè tự nhận là sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch biết, rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh.

Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam, những chiến sĩ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, suốt đời tận tụy với nước non, đã hiến dâng cho tổ quốc những giọt máu đỏ thắm tinh khôi cuối cùng của mình.

Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của những vị Thần Tướng ấy mãi mãi lưu lại trong sử sách Việt Nam và được dân tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói..

Phạm Phong Dinh



http://img373.imageshack.us/img373/5676/kiemvq4.gif

PhPhuongVy
02-07-2012, 07:33 PM
Thành kính thắp những nén hương tưởng nhớ những vị anh hùng của dân tộc.

Cảm ơn anh Cao Nguyên.

cao nguyên
02-07-2012, 07:34 PM
http://i1109.photobucket.com/albums/h432/The_Rainbow2010/Que%20Huong/009-1.jpg



http://www.youtube.com/watch?NR=1&amp;feature=endscreen&amp;v=66m4xLveTaY

cao nguyên
02-07-2012, 08:26 PM
http://i861.photobucket.com/albums/ab178/nhattamsaigon606/89a4c254.jpg




trường ca bi tráng

ba mươi bảy năm - hơn mười nghìn đêm mất ngủ
không riêng tôi, riêng anh. Mà cả chúng ta
những người đã sinh hơn bốn, năm thập kỷ
lúc chiến tranh yên nghỉ, đã mệt nhoài!

khi chân bước trên mìn, chông... chưa hết mỏi
phải tiếp bước vào đời nghèo đói, lầm than
vì vận nước đã cưu mang, sao phải hối
chỉ tiếc ta sẽ chết bởi bàng hoàng!

bạn chém sau lưng, kẻ thù đâm trước ngực
những vết thương nhức nhối không ngừng
làm sao ngủ, khi trái tim vẫn thức
vui thế nào, nước mắt cứ rưng rưng?

khi bỏ nước - chạy qua rừng, vượt biển
đã mang theo hồn Tổ Quốc thiêng liêng
nặng ơn ai sau nghìn trùng đưa tiễn
nên mơ về chái bếp, lửa hồng reo

nỗi nhớ mãi triền miên thức dậy
ngực ta đau, vết thương xoáy tận cùng
những tiếng thét hãi hùng còn mãi đấy
bạn bè ơi! xương máu của ta ơi!

vỡ tất cả dưới khung trời huyền thoại
Việt Nam ơi! Tổ Quốc chúng ta ơi!
hồn chết điếng khi tầm tay vói tới
chạm giữa hư không, dòng máu Lạc Hồng!

người hỏi ta, ta hỏi người - bối rối
đường nào đi đến bác ái, hoà bình
nửa thế kỷ ra đi từ rất vội
đến được bờ, mòn mỏi cả lòng tin

triệu ngựời chết vì những lời phản bội
bao nhiêu triệu lòng đau, bởi những hoài nghi
xin lịch sử đừng bao giờ nói dối
về nhiệt tình từ mỗi cuộc ra đi

khi phải chết vì kẻ thù trước mặt
ta mỉm cười, đã vì nước hy sinh
nếu phải chết vì kẻ thù dấu mặt
hồn ta đau, theo vết mực di ngôn!

hội chứng Việt Nam chưa ngừng rỉ máu
viết trường ca, con cháu tiếp cha, ông
giữa bi tráng, trong đau thương, yêu dấu
bút vung lên, theo hồn của non sông!

Cao Nguyên

MD2012

Triển
02-07-2012, 08:29 PM
Bên cải lương gọi là chạy lớp. Bây giờ mới tháng hai, có muốn tính gian cũng phải cần gần hai tháng nữa. ;)) j/k

cao nguyên
02-08-2012, 01:19 PM
http://i748.photobucket.com/albums/xx127/coffeebean_04/Memory/Kathy2BM2BVietnam2BMemorial.jpg

nỗi nhớ khôn nguôi

1

mới Tháng Hai . đã nhớ Tháng Tư
chưa qua Xuân đã chết nụ cười
trời gió chướng - được mùa nước mắt
tràn qua tim . chảy suốt một đời !

từ Phố Bolsa - nhìn thấy lửa
cháy đỏ trời dọc theo Sông Ba
bạn bè chết . nhớ tên từng đứa
gọi nhau vào bi khúc xót xa !

2

giữa Tháng Hai . đã nhớ Tháng Tư
tại ký ức nhầm ngày , lộn chỗ
hay đến kỳ siêu độ bạn ta
ba - mươi - năm tìm không thấy mộ !

nỗi buồn ấy hiển nhiên có thực
ai không tin - cứ hỏi bạn ta
viên đạn nào bắn vào giữa ngực
khi tim còn dồn nhịp thiết tha !

3

Tây Nguyên ơi ! gót hồng , đất đỏ
vội vàng chi . đi chẳng giã từ
để bây giờ còn nghe tiếc nhớ
núi rừng xưa in cả bóng người !

Ruộng Đồng hỡi ! luống cày vỡ đất
gieo cho xanh hạt giống Tin Yêu
từ mỗi chỗ đau buồn rất thật
triệu đoá hồng Nhân Ái mọc lên !


Cao Nguyên

cao nguyên
02-08-2012, 01:23 PM
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 1968-1975





Lời người dịch:

Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc Ðại Học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 Tháng Ba năm 2006.

Trong số nhiều diễn giả Việt-Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm. Bài này được chuyển ngữ từ nguyên bản bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ. Những chữ viết ngả để trong ngoặc đơn là chú thích của tác giả để câu văn chuyển dịch mang được đầy đủ ý nghĩa của nó.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1968.

Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay phủ nhận rằng vấn đề tham nhũng, lãnh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hiểm họa cho khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể bị xóa khỏi trang lịch sử vinh quang.

Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971 và phục vụ 1 năm tại MACV(Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam), rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở Phòng Tùy Viên Quân Sự. (DAO)

Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khóa huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Ðông Nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh thị của Việt Nam, và cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mà cả với người Úc, cơ quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao cấp trong những buổi thuyết trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Ðịa Phương Quân, hay bay ngang tỉnh Ðịnh Tường trên một chiếc trực thăng Huey của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt Ðộng Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Ðông.

Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu quả thật tất cả những người ở Mỹ đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?”

Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì, cháo… háo hức lắng nghe người dân, người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.

Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hằng feet/khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ với những cựu chiến binh gốc Ðông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Ðông Nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở các xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.

Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Ðúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến với Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư Ðoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đơn vị cứ mãi bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Ðịa Phương Quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những 1 mà tới 3 trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ ra nguyên cả lực lượng xung kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó.

Ðịa Phương Quân không được Pháo Binh và Không Quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy Việt Nam Cộng Hòa, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Ðộng Quân, Thủy Quân Lục Chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe dọa Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như Tiến Sĩ James H. Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư Ðoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến trường An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt.

Nói vắn tắt, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.



Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Ðiều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.

Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng Việt Nam Cộng Hòa khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu.

Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của tổng thống Hoa Kỳ”. Ðại Úy Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, Ðại Úy Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, mang huy hiệu Trâu Ðiên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản miền Nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…

Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hóa phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại.

Rốt cuộc thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời Thế Chiến Thứ Hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội Việt Nam Cộng Hòa được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt. Ðồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày:

(Bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 triệu 48 ngàn quân. Trong đó, Không Quân gia tăng quân số tới 163%, Hải Quân tăng 110%, Lục Quân tăng gần 8% quân số)

Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục Quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm Cảnh Sát Dã Chiến, Nhân Dân Tự Vệ, và các toán Xây Dựng Nông Thôn.



http://i1177.photobucket.com/albums/x358/havi-4rumasia/201.png




Lực lượng xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu.

Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (Trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ).

“Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hiện, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 ly.”
Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ.”
Còn nữa: Một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu hủy tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972.

Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây:
“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt cộng).”


Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại.

Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Ðịa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970:

“Chúng tôi vừa vượt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hỏa lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung tóe xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hỏa lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Dưới hỏa lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá hay.”

Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970:

“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.”

Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hòa thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.

Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thủy quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thuộc sư đoàn 1 bộ binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:

“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Ðây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hiện những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta.’ Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii).

Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Ðịnh Tường thuộc quân khu IV, sư đoàn 7 bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của sư đoàn 7 bộ binh:

“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH.
Ở Bến Tre (tức tỉnh Kiến Hòa) sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi.” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Ðoàn văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986).

Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía Bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (Tài liệu trích dẫn).

Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt:

(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cuộc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9.8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%).

Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, dưới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Ðiều này xảy ra trong khi quân số tham chiến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.

Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Ðịnh Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “riêng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn.”

Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa sả om sòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ:

“Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”

Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hỏa tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hỏa tiễn công phá điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 được yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó.

Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “…Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương Bắc.” Nhiều nhà bình luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH đã được. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: Không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vượt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km).

Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hỏa tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu chung, trở lại đề tài không lực, thì không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lục vào vị trí quân Bắc Việt:

“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hỏa lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam.

“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vượt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.”

Ðây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực:

“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu.”

QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu Thân 1968, về khía cạnh quân số và hỏa lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết 1968 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế. (ngoại trừ ở quân khu I).
QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hiệp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối Tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Ðịnh Tường-Kiến Tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đon vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến của VNCH.

Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Ðến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày:

Năm 1972 Năm 1975 Tỉ lệ giảm
Ðạn 105 ly 180 viên 10 viên; 94%
Ðạn 155 ly 150 viên 5 viên; 97%
Ðạn 175 ly 30 viên 3 viên; 90%

Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát một. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Ðói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém?

Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối.

Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng do các Trung Úy Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hỏa lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các Trung Úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá Trương Phụng và Ðại Úy Phúc lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng chỉ còn Ðại Úy Phúc sống sót, oanh kích đến khi hết đạn. Hai Trung Úy Thanh, Hiền và Thiếu Tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trận. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!

Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, vói thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Trước một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt viện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại, Ðoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi Tết Mậu Thân 1968.

Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hỏa lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 triệu. Nước Mỹ với dân số 200 triệu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ.

Ðiều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận:
“Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một triệu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều này.” (được nhấn mạnh và thêm vào).
Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ:

“Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chiến đấu được lâu dài đến thế.”
Kế hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng?

Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hóa có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hóa thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:

1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý.
2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai?: 57% đồng ý.
3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cộng-Bắc Việt trong tương lai?: 25% nghi ngờ.
4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10%.

Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Ðịa phương quân, Nghĩa quân, vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi: “Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu?”



http://i1177.photobucket.com/albums/x358/havi-4rumasia/tl-yng4.gif




Ðiều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm lược Bắc Việt trong năm 1972, thường là không cần tới sự yểm trợ hỏa lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Ðịa phương quân. Ðiều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy.

Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hết lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyện. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:

“Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tưởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.”
Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Ðoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư:

“Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta… Họ phải cung cấp viện trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và không rút lui.”
Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.

Bác sĩ Phan Quang Ðán là quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Ðình Diệm, nổi tiếng nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Ðại Úy Tuấn bị hỏa lực phòng không địch bắn rơi, tử trận.

Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viết bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng võ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thủy quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “lưỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn.

Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tụy với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị quốc gia Ðà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới:

“- Anh sắp bị giết đó!
- Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.
- Sao vậy? Ðã kết thúc rồi mà!
- Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản.”

Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết.”

Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt:

“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiếu sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.”

Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình.

Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0.7% chương trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về bình định. 2.7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2.7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công “Ong Chúa” (King Bee) lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn ****. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết Trung Sĩ thủy quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Ðông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh:

“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thủy quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.”

Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt:
“Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim… Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.”

Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Ðông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt.

Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hóa và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thủy quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975 đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.

Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chỉ viết rằng: “Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân Việt Nam Cộng Hòa tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo).

Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21″, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chế độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi xóa tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?


Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ.

Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến lược giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn ****. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành được. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Ðông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vực. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù lòa, lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu độn. (Những chữ in đậm là những chữ tác giả viết bằng tiếng Việt)

Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược dòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đã qua) là một cuôc chiến không thể nào thắng được.Có thể như vậy. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cánh những chiến hữu của họ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tụy, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Ðông Nam Á đã biết yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương”.

Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Ðông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Ðầy dẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những nét quan sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào). Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diện. Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là Chiến Tranh Ðông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.

Bill Laurie – March 18, 2006;
Nguyễn Tiến Việt chuyển ngữ

http://forum.trungtamasia.com/yaf_postst47p5_CAM-ON-ANH---NGUOI-CHIEN-SI-VO-DANH.aspx

cao nguyên
02-08-2012, 01:31 PM
Bức Tượng " THƯƠNG TIẾC " và Điêu Khắc Gia NGUYỄN THANH THU



http://i956.photobucket.com/albums/ae47/caydanngoclan/Tiecthuong.jpg


Lời giới thiệu: Trong lần về VN thăm quê hương nữ phóng viên Xuân Hương của chương trình Newland TV. đã có cơ hội gặp và nói chuyện với điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tại tư gia của ông. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu là tác giả bức tượng đồng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Ông vừa là một sĩ quan trong QLVNCH với cấp bậc Thiếu tá . Liên tục trong hai ngày gặp gỡ, trò chuyện, P.V. Xuân Hương đã được điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tiết lộ nhiều điều khá thú vị trong sự nghiệp nghệ thuật và 8 năm trong lao tù Viêt cộng của một chiến sĩ QLVNCH. Với giọng văn giản dị miền Nam, nữ phóng viên Xuân Hương đã kể lại cuộc gặp gỡ bất ngờ, kỳ thú. Newland T.V. xin hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc bốn phương thiên phóng sự đặc biệt này.

(Xuân Hương New Land T.V.)

Ở Mỹ, Xuân Hương đã nhìn thấy hình ảnh Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua sách báo, qua các băng Video và DVD. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi an nghĩ cuối cùng của hơn 18 ngàn chiến sĩ QLVNCH, đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia trong cuộc chiến Quốc-Cộng.
Trước cổng vào nghĩa trang có một bức tượng đồng người lính ngồi trên tảng đá, ôm súng thương, nhớ đến những người bạn đã nằm xuống. Đó là, bức tượng Thương Tiếc do điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu thực hiện.
Bức tượng đồng có chiều cao 9 thước, sau ngày 30/4/75 đã bị bạo quyền Việt cộng gian ác giật sập, phá hủy.
Xuân Hương trong dịp về thăm quê hương , may mắn đã gặp được điêu khắc gia NguyễnThanh Thu. Với hai lần gặp gỡ và nhiều tiếng đồng hồ trò chuyện, điêu khắc gia Thu kể cho Xuân Hương nghe nhiều điều vui , buồn, thú vị đã xảy ra trong đời ông chung quanh sự nghiệp điêu khắc và những tháng năm tù tội.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cho biết trong nhiều tác phẩm. Ông cảm thấy danh dự nhứt trong sự nghiệp của mình là tác phẩm “Ngày Về”. Tác phẩm này, diễn tả hình ảnh người chiến binh trở về từ chiến trường được người hậu phương choàng vòng hoa chiến thắng. Tác phẩm “Ngày Về ” của Nguyễn Thanh Thu đã được giải nhứt trong Ngày quốc khánh 26 tháng 10 năm 1963 về Văn Học Nghệ Thuật dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa của TT. Ngô đình Diệm. Và tác phẩm thứ hai là Thương Tiếc, thời đệ nhị VNCH của TT. Nguyễn văn Thiệu.

Lịch sử bức tượng đồng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa

Bức tượng đồng mang tên Thương Tiếc tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa được điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hoàn thành vào năm 1966. Đây là thời điểm chiến tranh giữa VNCH và Cộng Sản Bắc Việt đang diễn ra tới mức độ ác liệt.
Vào thời đó, Nghĩa Trang Quân Đội tọa lạc ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Tình hình trong nước lúc bấy giờ rất lộn xộn. Dân chúng bị xách động biểu tình liên miên. Còn các đảng phái thì đua nhau tranh giành ảnh hưởng đối với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Lúc bấy giờ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn đang là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Tổng thống Thiệu là người đã nghĩ ra việc xây dựng Nghĩa Trang Quân Đội nằm cạnh xa lộ Biên Hòa.
ĐKG. Thu tâm sự rằng, ông không biết tại sao lúc đó Tổng thống Thiệu lại biết đến ông để mời ông vào bàn về dự án xây Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hòa. Nhưng sau này TT. thiệu cho biết đã biết tài điêu khắc của ông qua tác phẩm Ngày Về, khi TT. Thiệu còn là đại tá Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 bộ binh.
Khi gặp mặt TT. Thiệu, ông Thiệu đã nói với ĐKG. Thu, là ông muốn trước cổng vào nghĩa trang phải có một bức tượng to lớn đầy ý nghĩa đặt ở đó. Mục đích bức tượng để nhắc nhở, giáo dục người dân về sự hy sinh cao quý của các chiến sĩ VNCH.
ĐKG. Thu kể tiếp là sau năm lần, bảy lượt gặp TT. Thiệu bàn bạc, ông hứa sẽ trình dự án lên TT. Thiệu sau một tuần lễ nghiên cứu. Khi về nhà ông mất ăn, mất ngủ, lo lắng ngày đêm. Đầu óc ông lúc nào cũng suy nghĩ đến những đề tài có ý nghĩa như ý của TT. Nguyễn Văn Thiệu. Ông nhớ đến lời TT. Thiệu nói: “Những chiến sĩ VNCH, đã vì lý tưởng tự do hy sinh đời mình thì những người ở hậu phương như “chúng ta” phải làm một cái gì để nhớ đến sự hy sinh cao cả đó cho xứng đáng”. Những lời chân tình này đã làm điêu khắc gia Thu trăn trở không nguôi nên trong thời gian chờ đợi gặp lại TT. Thiệu, ngày nào ông cũng đến Nghĩa Trang Quân Đội tại Hạnh Thông Tây để suy ngẫm đề tài.
Trong bảy ngày hứa sẽ gặp lại TT. Thiệu thì hết sáu ngày, ĐKG. Thu đến Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây để phát họa những cảm xúc chân thật trong lòng tại chỗ. Ông đã chứng kiến cảnh, ngày ngày máy bay trực thăng đưa quan tài những người đã hy sinh vì tổ quốc về nơi an nghĩ cuối cùng với sự cảm xúc vô biên, nhưng vẫn chưa dứt khoát được một chủ đề rõ ràng.

Vào một buổi trưa của ngày thứ sáu trên đường về từ Nghĩa Trang Hạnh Thông Tây, giữa trời nắng chang chang, Đ KG.Thu ghé vào một tiệm nước bên đường để giải khát. Khi bước vào quán, ông thấy một quân nhân Nhảy Dù đang ngồi uống bia và trên bàn đã có 5,3 chai không. Đặc biệt trên bàn có hai cái ly. Ngồi bàn đối diện với người quân nhân kia, ông lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy người lính Nhảy Dù vừa uống bia vừa lẩm bẩm nói chuyện với cái ly không. Hình ảnh này cho thấy anh ta vừa uống vừa nói chuyện và vừa cúng một người đã chết. Khi nói chuyện với cái ly xong, người lính uống hết ly bia của mình. Sau đó, anh ta “xớt” bia của cái ly cúng còn nguyên vào ly mình, rồi lại kêu thêm một chai bia mới rót đầy vào ly kia. Thấy vậy, ông bước qua làm quen với người lính Nhảy Dù và đề nghị cho ông ngồi chung bàn. Người quân nhân mắt quắc tỏ vẻ không bằng lòng vì bị phá cuộc đối ẩm của anh và người đã chết. Thái độ này làm ông lúng túng. Đột nhiên, người lính kia móc ra cái bóp đựng giấy tờ của anh ta ra và đưa cho ông như trình giấy cho Quân Cảnh. Ông nghĩ rằng mình đâu phải là Quân Cảnh mà xét giấy ai . Tuy nhiên ông cũng cầm lấy bóp và trở về chỗ ngồi. Vì tò mò, ông mở bóp ra coi. Trong bóp, ông nhìn thấy những tấm hình trắng đen chụp cảnh các anh em đồng đội nơi chiến trường. Muốn làm quen với người lính Nhảy Dù, nên ông cố nhớ địa chỉ và KBC của anh ta trước khi cầm bóp trả lại cho chủ nó. Sau đó, ông ra về để chuẩn bị ngày hôm sau lên gặp TT. Thiệu .
Tối hôm đó, điêu khắc gia Thu vẽ liền 7 bản mẫu. Khi ngồi vẽ như vậy đầu óc ông cứ nhớ đến hình ảnh ngồi uống bia một mình với gương mặt buồn bã của người lính Nhảy Dù, mà qua căn cước ông biết tên là Võ Văn Hai.
Bảy bản mẫu của Nguyễn Thanh Thu phát họa là cảnh người lính đang chiến đấu ngoài chiến trường, cảnh mưa bão ngoài mặt trận. Phản ảnh lại cảnh êm ấm của những người tại hậu phương. Khi ngồi vẽ đầu óc ông cứ liên tưởng đến vóc dáng buồn thảm của Võ Văn Hai và ông ngồi vẽ cho tới 6 giờ sáng.
Đến 8 giờ sáng thì có người đến rước ông vào gặp TT. Thiệu tại Dinh Gia Long. Đến nơi, đại tá Võ văn Cầm là Chánh Văn Phòng của TT. Thiệu cho biết TT. đang tiếp chuyện một vị tướng nào đó nên bảo ông đợi một chút. Trong lúc đợi, ông ra phía ngoài đi lang thang trên hành lang của dinh và vừa đi vừa nghĩ trong đầu là tại sao mình không vẽ Võ văn Hai cho rõ ràng. Nghĩ vậy ông ngồi xuống một chiếc ghế cẩn màu đỏ tưởng tượng đến hình ảnh Võ văn Hai ngồi buồn rầu, ủ dột trong quán nước. Ông trở vào phòng Đại tá Cầm định xin một tờ giấy để phát họa những ý tưởng đã nghĩ ra. Nhưng khi trở vào trong, ông ngại ngùng không dám lên tiếng. Ông nhìn phía sau lưng Đại tá Cầm thấy trong giỏ rác có một bao thuốc lá không. Ông lượm bao thuốc lá và trở ra ngoài. Điêu khắc gia Thu đã dùng mặt trong của bao thuốc lá phát họa bố cục bản thảo và cảm thấy hài lòng về bức hình đã vẽ ra.
Khi được Đại tá Cầm mời vào gặp TT. Thiệu, ông đã trình bày giải thích về 7 bản đã vẽ từ trước cho TT. Thiệu nghe. Xem xong TT. Thiệu hỏi: “Anh Thu à! Bảy bản, bản nào tôi cũng thích nhưng anh là cha đẻ của nó, anh nên cho tôi biết tấm nào hay nhứt.” Điêu khắc gia Thu rụt rè nói với TT. Thiệu : “Thưa TT, mới đây thôi trong khoảng 15 phút trong khi chờ gặp TT. tôi mới nghĩ ra một đề tài được phát họa trên một bao thuốc lá. Nhưng, tôi không dám vô lễ trình lên TT. Tuy nhiên, với phát họa này tôi thấy nó hay quá. Tổng thống hỏi, thì tôi muốn chọn bản này, nhưng tôi không dám trình lên Tổng Thống .”
TT. Thiệu bảo ĐKG. Thu đưa cho ông coi bản họa trên bao thuốc lá. Ông Thu đã giải thích cho TT. Thiệu nghe về trường hợp Võ Văn Hai mà ông đã gặp trong quán nước. Ông Thu cho biết, lúc đó ông cũng chưa dứt khóat đặt tên cho các bản phát họa đã trình cho TT. Thiệu xem dù rằng đã nghĩ trong đầu các tên như 1)Tình đồng đội, 2) Khóc bạn , 3) Nhớ nhung, 4) Thương tiếc, 5) Tiếc thương .
Cuối cùng điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu và TT. Thiệu đồng ý tên Thương Tiếc. Được sự đồng ý của TT. Thiệu, ông ra ngoài văn phòng của Đại tá Cầm phóng lớn bức họa Thương Tiếc bằng hình màu. Ông đã nhờ Đại tá Cầm ngồi trên một chiếc ghế đẩu để lấy dáng ngồi tưởng tượng trên tảng đá. Sau khi hoàn tất, Tổng thống Thiệu cầm bức họa tấm tắc khen. ĐKG. Thu đã đề nghị TT. Thiệu ký tên vào bức họa đó, mà ông đã nói với TT. Thiệu là “Cho ngàn năm muôn thuở” . TT. Thiệu đồng ý và đã viết “TT. Nguyễn văn Thiệu ngày 14 /8/1966 ”.
Sau khi được TT. Thiệu chấp thuận dự án làm bức tượng Thương Tiếc, điêu khắc gia N.T.T phải làm ngày, làm đêm để kịp khánh thành Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vào ngày Quốc khánh 1/11/1966 đúng như dự định.

Một chiến sĩ QLVNCH can trường trong ngục tù cộng sản

Điêu khắc gia Thu tâm sự, khi còn ở trong tù lúc bị nhốt ở “cô – nét” ông nhớ đến tượng Thương Tiếc và đã vái thầm tất cả vong linh chiến sĩ VNCH trong ba ngày, hãy cho ông biết ông có thoát khỏi dự định xử bắn của VC hay không. Thì vào một buổi trưa, ông chập chờn thấy có người báo mộng cho biết ông không sao cả, nhưng thời gian tù tội còn lâu lắm.
Người điêu khắc gia tài ba kể tiếp. Trước đó, một người bạn đã dặn dò ông phải coi chừng và cẩn thận trong lúc ở tù VC vì ông quá nổi tiếng về những tác phẩm điêu khắc nên chắc chắn VC sẽ không để ông yên. Lúc đó, ông không quan tâm cho lắm, nhưng vào một buổi trưa trong lúc các tù nhân đang nghĩ ngơi , thì ông được một cán bộ quản giáo mời ra ngoài báo cho biết ông chưa khai báo thành thật, còn dấu diếm nhiều điều. Thiếu tá Thu hỏi dấu diếm những điều gì? Để trả lời, tên cán bộ lấy ra một danh sách tên tuổi các tù nhân, mà theo ông là do các người làm “ăng ten” trong trại báo cáo. Ông cho biết những người chịu làm ‘ăng ten” cho VC sẽ được lãnh tiêu chuẩn gạo 11 ký một tháng, thay vì 9 ký như mọi người. Ông còn nói thêm, những kẻ làm “ăng ten” không phải vì họ thù ghét ai, mà chỉ vì “miếng ăn” mà thôi.
Cầm bảng danh sách trên tay, tên cán bộ nói rằng thiếu tá Thu là tác giả bức tượng Thương Tiếc tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nhưng tại sao lại không khai báo. Và phải cho anh ta biết, lý do tại sao ông lại làm ra bức tượng này. Điêu khắc gia Thu trả lời vì ông là một quân nhân trong QLVNCH, ông làm bức tượng Thương Tiếc là để cùng người dân miền Nam tỏ lòng thương tiếc sự hy sinh của các chiến sĩ chiến đấu cho tự do. Tên cán bộ lại hỏi, tại sao lại làm bức tượng Ngày Về. Ông giải thích cho tên cán bộ nghe rằng, đời lính hành quân nay chỗ này, mai chỗ kia, vài ba tháng mới được phép về thăm vợ con một lần. Ông làm tượng Ngày Về để nói lên sự vui mừng khi vợ chồng gặp lại nhau, thì đâu có gì gọi là không tốt.


http://i1221.photobucket.com/albums/dd470/nguyen2011/DSC05146.jpg


Tên cán bộ quản giáo đề cập đến bức tượng An Dương Vương và thành Cổ Loa là biểu tượng của ngành Công binh QLVNCH với những lập luận ngây ngô. Tên cán bộ nói với Nguyễn thanh Thu , An Dương Vương là người lập quốc, còn bác Hồ là người giữ nước. Vậy tại sao ông không ghép hình bác Hồ vào. Ông trả lời tên cán bộ rằng, lúc làm tượng An Dương Vương ông đâu biết bác Hồ là ai, là người nào, nên không thể ghép vào được. Nghe nói vậy, tên cán bộ xám mặt lại, hắn ta ra lệnh cho ông đứng đó không được đi đâu hết. Tên này chạy về văn phòng gọi thêm 6 tên cán bộ nữa, súng ống đầy đủ, chạy đến chỗ Nguyễn thanh Thu đứng. Trong 6 người này có một tên là chính trị viên đã gằn hỏi: “Khi nảy anh đã nói gì với anh Sáu ”. NTT trả lời: “Tôi không có nói gì hết”. Tên chính trị viên nói tiếp: “Anh Sáu cho tôi biết anh nói là dân Sài Gòn, người miền Nam không ai biết bác Hồ. Vì không biết nên anh không thể làm tượng bác kèm với An Dương Vương, có đúng không?”. Điêu khắc gia Thu trả lời “Đúng vậy”. Nghe trả lời như thế , tên cán bộ chính trị viên nói cho ông 5 phút định trí, để nói lại. Đồng thời tên này còn hỏi gằn: “Anh bảo rằng anh không biết bác Hồ phải không?”. Thiếu tá Thu thẳng thắn trả lời: “Tôi không biết mặt, biết tên ông này”. Tên cán bộ nói : “Nếu anh không biết, tôi cho anh biết ”. Sau đó, chúng lôi điêu khắc gia Thu về văn phòng đánh đập tàn nhẫn liên tục trong ba ngày, ba đêm. Tuy bị đánh đập dã man, nhưng thiếu tá Thu chịu đựng và im lặng không lên tiếng gì hết. Thấy vậy một tên cán bộ nói: “ Bây giờ mầy nói về hai chữ Tự Do cho chúng tao nghe coi ”. Thiếu tá Thu bấy giờ mới lên tiếng: “ Nếu tôi không nói thì cán bộ nói tôi khinh, nhưng khi tôi nói thì cán bộ không tin. Bây giờ, tôi nói về Tự Do cho cán bộ nghe. Người miền Nam có tự do là họ được đi đứng dễ dàng, ăn nói thoải mái không có bị khó dễ gì hết. Còn những người CS các anh cũng có tự do, nhưng chỉ có những chữ viết trên các cổng ra vào được sơn son thiếp vàng, chỉ có trên vách tường tại các văn phòng làm việc, chớ người dân thì không có ”. Nghe nói vậy, bọn VC lại ra tay đánh đập NTT một trận tơi bời, đỗ máu mũi. Sau đó, chúng đem nhốt ông vào “cô – nét ”. Ông cho biết, sau nhiều tháng trong “cô nét” ông chỉ còn xương và da, đứng lên muốn không nỗi.

Một tình cảm khó quên

Một ngày nọ, vào khoảng 4 giờ sáng cửa “cô – net” được mở ra,và một họng súng AK chỉa ngay vào thiếu tá Nguyễn thanh Thu , rồi một giọng ra lệnh cho ông bước ra. Ngoài trời tối đen, lờ mờ sáng, ông đứng không vững khi bước ra cửa “cô- net” nên bị hụt chân té qụy. Tên cán bộ ra lệnh cho điêu khắc gia Thu đứng dậy và giơ tay ra để cho chúng móc còng vào. Sau đó, ông được bốn tên cán bộ kè đi về phía cổng trại để vào khu rừng chuối kế bên. Đang đi bổng nhiên có một chiếc xe Jeep chạy tới đèn pha sáng choang làm chói mắt mọi người. Chiếc xe Jeep ngừng lại tắt đèn, có tiếng nói chuyện trao đổi giữa hai bên chừng 5 phút. Sau đó, toán dẫn cán bộ quay lại bịt mắt ông và tiếp tục kéo lết đi vào rừng chuối. Đến nơi, tên cán bộ kéo thiếu tá Thu nhốt vào một nhà cầu của khu gia binh của VNCH bỏ hoang từ lâu. Quá mõi mệt nên ông đã ngủ thiếp lúc nào không hay. Gió theo khe hở thổi làm ông tỉnh dậy, qua khe hở ông thấy trời đã sáng và biết mình chưa chết. Thiếu tá Thu cười nói rằng, bị nhốt ở trong cầu tiêu nhưng ông cảm sung sướng, thoải mái hơn là lúc bị nhốt ở “cô – net” nhiều.
Kể tới đây, điêu khắc gia NTT cười và cho biết từ đó không ngờ lại xảy ra “Những tình cảm khó quên”. Ông kể tiếp là vào buổi trưa hôm đó, một cô gái người Bắc tay cầm chén cơm, bịt muối và đôi đũa tre đến mở cửa cầu tiêu đưa cơm cho ông ăn, nhưng cô ta mở không được vì bên trong ông đã móc cửa lại. Bên trong, ông hỏi vọng ra “Cô là Bắc kỳ phải không, nhưng Bắc kỳ nào? Bắc kỳ 54 hay Bắc kỳ giải phóng”. Cô gái trẻ khoảng 22, 23 tuổi trả lời: “Này nhé, tôi là chị nuôi của ông. Đem cơm cho ông ăn mà ông hỏi tôi như thế”. Nói xong cô ta cầm chén cơm bỏ ra về. Khoảng 3, 4 phút sau, một tên cán bộ đến ra lệnh cho ông phải mở cửa ra và mắng: “Lúc nào cũng láo khoét. Tha chết cho rồi mà còn láo khoét”. Nói xong tên cán bộ bỏ đi. Vào buổi chiều cô gái trở lại, thiếu tá Thu nhủ thầm trong bụng là không giỡn nữa, vì giỡn sẽ đói. Khi cô gái mở cửa bỏ phần cơm vào, ông phân trần với cô là ông chỉ giỡn một chút mà cũng đi mét.
Qua ngày kế, một tên cán bộ và hai người tù đến chỗ nhốt thiếu tá Thu, dùng đồ nghề khoét một cái lỗ vuông nhỏ trên cửa cầu tiêu. Xong đâu đó, tên cán bộ nói: “Từ nay không mở cửa nữa. Mỗi lần tới giờ cơm, anh dùng miếng gỗ đưa cái chén cũ ra và sẽ nhận được chén cơm mới đưa vào qua cái lỗ này”. 11 giờ trưa hôm đó “chị nuôi” của điêu khắc gia Thu đem cơm và muối đến cho ông. Theo như lời dặn, thì thiếu tá Thu khi nhận chén cơm mới ông phải trả cái chén không lại, nhưng ông không làm điều này. Cô gái lên tiếng hỏi, nhưng ông không trả lời. Cứ như vậy hai ba ngày liên tiếp, ông giữ lại tất cả 7 cái chén. Một hôm cô gái phàn nàn: “Ông giữ hết chén thì tôi đâu còn chén để đựng cơm cho ông”. Nghe vậy, thiếu tá Thu cuời nói: “Nếu cô muốn tôi trả lại mấy cái chén thì phải có điều kiện”. Cô gái hỏi: “Điều kiện gì?” Ông đáp: “Cô để bàn tay của cô lên tấm ván đưa cơm cho tôi rồi đưa vào cho tôi thấy” . Sau vài giây tần ngần, cô gái làm theo điều kiện của điêu khắc gia Thu. Ông đã tinh nghịch dùng đôi đũa tre đụng vào bàn tay của cô gái rồi sau đó đưa trả 7 cái chén cho cô gái. Cô gái ngạc nhiên hỏi: “Chỉ có vậy thôi à!”. Ông trả lời: “Chỉ có vậy thôi!”. Cô gái bỏ về.
Trong lúc thiếu tá Thu đang ngồi ăn cơm, thì cô gái trở lại với một bà già đi phía sau . Đến trước cửa cầu tiêu, nhìn vào lỗ đưa cơm bà già nói: “Ông này, con Lan nó đem cơm cho ông ăn, thế mà ông còn lấy đũa chích vào tay nó. Là cái gì vậy? Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cười nói: “ Vậy mà cũng không biết”. Nghe vậy bà cụ phàn nàn: “Ông làm kỳ quái quá ai mà biết được”. Bị hỏi dồn nhiều câu, Thiếu tá Thu nói nhỏ: “ Là yêu đấy!”. Nghe như vậy người con gái tên Lan đỏ mặt thẹn thùng, vội vả quay lưng bỏ đi.
Qua ngày hôm sau, cô gái tên Lan lúc đem cơm đến cho điêu khắc gia Thu, cô nhỏ nhẹ và tha thiết nói: “ Anh Thu à! Em khuyên anh, anh thôi đừng có “anh hùng” nữa. Như vậy, thiệt thòi cho anh lắm anh có biết không? Chúng nó đã tha chết cho anh đấy!” Rồi cô nói tiếp, giọng run run: “ Em thương mấy anh sĩ quan cải tạo các anh lắm. Kể từ nay, đến giờ cơm em sẽ để cục thịt nằm ở đáy chén. Khi em đưa cơm vào, anh hãy tìm cục thịt ăn liền trước nha! Để đề phòng cho cả em và anh không bị cán bộ bắt gặp làm khó dễ”.
Thiếu tá Thu cảm động hỏi: “ Cô Lan! Làm sao cô biết chúng nó tha chết cho tôi?” Cô gái khẻ nói: “Này nhé! Anh còn nhớ không? Khoảng 4 giờ sáng hôm đó, gần nhà bếp, em thấy đèn pha của chiếc xe Jeep chạy ngang. Và khoảng nửa tiếng sau, có bốn cán bộ súng ống trên vai bước vào nhà bếp bảo em pha cà phê cho họ uống. Họ kể cho em nghe là đáng lẽ có một tù nhân bị đưa đi bắn.. Nhưng sau đó bỗng nhiên “có lệnh hồi”. Nên tù nhân này được lôi vào nhốt tạm thời trong một cầu tiêu của một trại gia binh trước bỏ hoang”. Cô Lan kể tiếp: “ Có một lần em đón đường hỏi các anh đi lao động ngoài rừng về hỏi tại sao anh phạt bị nặng như vậy, thì mọi người cho biết vì anh là tác giả bức tượng “Thương Tiếc” tại Nghĩa Trang Quân Đội Biện Hòa. Nhắc đến bức tượng Thương Tiếc, em không lạ gì bước tượng này, vì hồi đó, chiều nào em và các bạn thường hay chơi quanh gần tượng.
Điêu khắc gia Thu hỏi cô gái: “Cô ở Hố Nai được bao lâu rồi?” Cô Lan kể lể: “Cha em là bộ đội VC ngoài Bắc, vào Nam đánh trận bị bom dội chết trong rừng. Mẹ em đã gánh em vào Hố Nai và em đã lớn lên từ đó”.
Kể đến đó, thiếu tá Thu không dấu được sự xúc động. Ông ngậm ngùi nói: “Cô Lan rất tận tình và tốt với tôi. Những chân tình ấy cùng với những kỷ niệm rất dễ thương tôi luôn trân quý. Cô là nguồn an ủi của tôi trong lúc bị tù đày, trong nỗi đau và sự bất hạnh của một đời người. Tôi rất muốn trả ơn cho cô, nhưng không biết đâu mà tìm. Tôi nghĩ những tình cảm này khó phai nhạt trong đời mình”.

Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?

Thiếu tá Thu cho biết vào thời điểm đó, khoảng tháng 8, nhiều đổi thay xảy đến với ông. Một hôm, cán bộ quản giáo gọi ông lên làm việc. Tên cán bộ nói: “Anh Thu, chẳng lẽ anh muốn ở mãi trong thùng sắt sao? Tôi đề nghị là anh đừng nhận mình là tác giả “chính” đã làm tượng “Thương Tiếc” mà anh chỉ là người “phụ” thôi. Người “chính” đã vượt biên đi rồi. Anh viết bản tự thú như vậy, tôi sẽ cứu xét và giảm tội cho anh”. Nhưng ông đã khẳng khái trả lời: “Cám ơn cán bộ đã khuyên tôi, nhưng với tôi tác phẩm Văn hóa Nghệ thuật là con đẻ của mình. Sao tôi lại trốn tránh trách nhiệm và đỗ thừa cho người khác? Tôi không thể làm như vậy được”.
Vài ngày sau, một tên cán bộ khác đến gặp ông và ra lệnh cho ông phải làm tượng HCM để kịp ngày Quốc khánh 2/9 của VC.Thiếu tá Thu cho biết là ông nhận lời đề nghị này, vì ông đã có ý định trốn trại. Ông nói với cán bộ quản giáo biết, là muốn làm tượng phải có đủ đồ nghề. Thế là ông được bốn tên bộ đội chở về nhà để lấy đồ nghề. Trên đường về ông xin ghé nhà mẹ mình để thăm bà. Đến nơi, mấy tên bộ đội thì ngồi chuyện trò với cô Hồng em gái của ông ở cửa trước. Còn ông vào nhà gặp mẹ. Hai mẹ con gặp nhau mừng rỡ rối rít. Bỗng bà cụ nghiêm mặt nói: “ Thu à! Má đẻ con ra mà không biết tánh con sao! Con hãy ráng ở trong tù thêm một năm nữa đi. Nếu con mà trốn, má sẽ chết cho con coi”. Nghe mẹ nói như vậy, ông quá sức bàng hoàng, tự nghĩ: “Trời ơi! Bao nhiêu ý định nhen nhúm giờ đây đã tiêu tan. Nỗi buồn tràn ngập trong lòng, vì ông sẽ trở về giam mình trong cái thùng sắt ( 2m x 1m) sừng sững ngoài trời , tiếp tục chịu đựng thời tíết khắc nghiệt, sức nóng như thiêu đốt của mùa Hạ, hay lạnh giá của mùa Đông rét mướt “.
Theo như thỏa thuận là sau khi được về thăm nhà và lấy đồ nghề, ông sẽ thực hiện điêu khắc tượng HCM. Tin này được nhanh chóng loan truyền trong trại giam. Từ đó, không biết bao nhiêu lời nguyền rủa vang lên làm ông đau khổ vô cùng.
Trước khi ra lệnh bắt ĐKG. Thu làm tượng HCM, cán bộ VC đã liên lạc trước với gia đình thiếu tá Thu. Chúng dàn cảnh cho vợ, con ông được đến thăm viếng đặc biệt. Tuy nghèo nhưng gia đình ông cũng mua thịt vịt quay, bánh mì, bày biện ra để cả nhà cùng ăn trong trại giam. Thật bất ngờ, trong tờ Tin Sáng cũ dùng để gói vịt quay, thiếu tá Thu nhìn thấy hình TT. Nguyễn văn Thiệu. Ông xé tấm hình đó, xếp nhỏ cất vào túi cất. Đến ngày nặn tượng chân dung HCM, thiếu tá Thu lại khắc nét của Tổng Thống Thiệu. Ông cho biết, rất phấn chấn trong lòng và thầm nghĩ: “ Tự mình, trí ta, ta hay, lòng ta, ta biết”.
Sau này, Nguyễn thanh Thu được kể lại. Một buổi chiều nọ, trên đường đi lao động về đám tù nhân đi ngang qua nhìn thấy pho tượng HCM sắp được hoàn tất, họ có vẻ thích thú xầm xì : “ Trời ơi! Tụi mày xem giống TT. Thiệu quá! Giống quá tụi bây ơi!” Tiếng xầm xì làm mấy tên “ăng ten” chú ý. Lập tức chúng trình báo cho cán bộ quản giáo hay.
Khoảng 4 giờ 30 chiều, vào thời điểm bức tượng HCM đang được điêu khắc gia Thu gắn râu mới được một bên mép thôi, thì một tên cán bộ bước đến hỏi: “Tượng sắp xong rồi chứ?” Miệng vừa hỏi, tên cán bộ nhanh tay thò vào túi áo ông lấy mãnh giấy báo có hình TT. Thiệu. Thế là xong! Việc bị đỗ bể. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu lại tiếp tục trở vào thùng sắt nhận thêm bốn tháng biệt giam, bị hành hạ đủ điều. Tại đây, ông kiệt sức, bất tỉnh, được đưa vào trạm bịnh xá.
Tại trạm xá, ông được một tù nhân khác là phi công Đỗ Cao Đẳng, chú của trung tướng Đỗ Cao Trí làm Trưởng trạm xá, và một số học trò cũ của ông, từ thời còn học trung học Võ trường Toản, hết lòng cấp cứu. Nhờ vậy, ba ngày sau ông mới tỉnh lại. Với tình trạng sắp chết, da bọc xương, điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu được VC tha cho về với gia đình kể từ đấy.

Hoài bảo không nguôi

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu cho biết ông ở tù VC 8 năm. Sau khi ở tù về, ông tìm đủ mọi cách để vượt biên ra nước ngoài. Ông nghĩ rằng qua bên Mỹ ông dễ có cơ hội thực hiện những mộng ước của đời mình. Đó là, dựng lại tượng “Thương Tiếc” nơi quê hương thứ hai. Nhưng trong 15 năm sống tại Mỹ, ông không tìm ra được một mạnh thường quân nào giúp đở. Ông đành buồn bã trở về Việt Nam sinh sống. Ông cảm thấy cô đơn với mơ ước của mình. Nhưng, ông vẫn hy vọng một ngày nào đó sẽ thực hiện được, nên hàng ngày ông cố gắng tập thể thao để tinh thần và thể xác không suy nhược.
Điêu khắc gia Nguyễn thanh Thu cho biết, khi còn ở Mỹ ông đã có hân hạnh gặp lại TT. Nguyễn văn Thiệu khi TT. Thiệu từ Boston đến Nam Cali thăm viếng và nói chuyện với đồng bào tỵ nạn. Tổng thống Thiệu được một người bạn của thiếu tá Thu sắp xếp hướng dẫn đến gặp nhà điêu khắc. Khi gặp thiếu tá Thu , TT. Thiệu vồn vả hỏi liền: “ Anh Thu có khỏe không? Tôi nghe nói ở trong tù anh đã làm tượng tôi phải không?” Điêu khắc gia Thu xúc động cho biết, là ông rất ngạc nhiên khi TT. Thiệu bất ngờ hỏi như vậy. Ông đã hỏi lại TT. Thiệu: “Làm sao tổng thống biết được?” TT. Thiệu nở nụ cười hiền hòa: “Làm sao tôi không biết được”. Giây phút gặp gỡ quá ngắn ngủi. Sau đó, vị tổng thống nền đề nhị VNCH vội vả từ giã đồng bào ra phi trường trở về Boston cho kịp chuyến bay.
Khi nhắc tới TT. Nguyễn văn Thiệu, thiếu tá Thu mơ màng nhớ về dĩ vãng xa xưa. Vì đó là kỹ niệm mà trong đó có những tác phẩm nghệ thuật ông tạo hình, nhờ sự gợi ý của tổng thống Thiệu.
Thiếu tá Thu cho biết sau 3 tháng khi tượng Thương Tiếc được khánh thành ở Nghĩa Trang QĐ Biên Hòa, TT. Nguyễn văn Thiệu đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi tại Dinh Độc Lập, và đã mời điêu khắc gia Thu đến dự. Trong khi trò chuyện với ĐKG. Thu , TT. Thiệu chỉ bồn nước phun trước Dinh Độc Lập ,và nói muốn làm một biểu tượng gì đó.
Kể đến đây, ĐKG. Thu không nén được xúc động và thành thật nói: “ Trông TT. thật tội nghiệp với vẻ buồn lo của ông”. Trầm ngâm một chút, TT. Thiệu nói với điêu khắc gia Thu: “ Anh nghĩ xem, xứ mình đang ở trong tình trạng chiến tranh. Người lính thì đang sống, chết ngoài tiền tuyến. Biểu tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang QĐ đã tạm yên. Nhưng, tôi nghĩ mình còn phải làm thêm một cái gì đó nữa, để giáo dục mọi người…Xin lỗi , người dân nhiều khi cũng thờ ơ với cuộc chiến lắm nên tôi muốn có một tác phẩm gây ý thức trong lòng người dân. Là dù đang chiến tranh, nhưng chúng ta cũng biết xây dựng, và biết “TỰ LỰC CÁNH SINH”. Chứ hoàn toàn trông cậy vào viện trợ cũng phiền toái lắm. Anh Thu, anh nghĩ sao ? Anh có thể trình một dự án như ý tôi vừa trình bày không?
Sau khi nghe TT. Thiệu bày tỏ tâm sự trên. Cũng như lần trước, điêu khắc gia N.T.T xin Tổng Thống tuần lễ để làm việc. Và sau một tuần, ông đã làm xong 7 bản vẽ về dự án với đề tài có tên Được Mùa. Được Mùa là hình ảnh “Cô gái ôm bó lúa” vừa mới gặt để diển tả sự trù phú của nông nghiệp miền Nam.
Điêu khắc gia Thu đã làm mẫu bức tượng Được Mùa cao 2m . Nhìn bức tượng cô gái ôm bó lúa với gương mặt hớn hở, hãnh diện với công sức mình đỗ ra bằng những giọt mồ hôi, khiến người ta hình dung ra sự giàu mạnh của một nước phát triển nhờ nông nghiệp.
Theo điêu khắc Thu bức tượng Được Mùa, nói lên sức sống trù phú của đồng bằng sông Cửu Long với chín miệng Rồng phun nước. Do đó, tác phẩm này còn có tên là “ Cửu Long Được Mùa”.
Khi nhìn bức tượng mẫu Được Mùa với ý nghĩa của nó, TT. Thiệu chấp thuận ngay. Dự án tượng Được Mùa được thực hiện bằng đồng với tượng cô gái cao 9m, bệ 3m. Kinh phí dự trù là 45 triệu đồng.
Tuy đã chấp thuận, nhưng với số tiền khá lớn đã khiến TT. Thiệu không tránh khỏi lo nghĩ trong khi chiến tranh mỗi ngày càng leo thang. Rồi cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lữa kéo đến. Mọi chi phí đều phải ưu tiên hàng đầu cho ngân sách Quốc Phòng. Thế nên dự án Được Mùa phải đành gác lại và không được hoàn thành theo mong ước của TT. Nguyễn văn Thiệu.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu ngậm ngùi nói: “Tuy tượng Được Mùa không được ra mắt người dân miền Nam, nhưng quá trình dự án cũng đã thể hiện được cung cách của TT. Nguyễn Văn Thiệu – một nhà lãnh đạo luôn quan tâm đến sự hy sinh của Quân Đội, và tinh thần một nước tự lực, tự cường”.
Tượng mẫu Được Mùa cao 2m được TT. Thiệu chấp thuận từ 1971 , đến nay 2009 vẫn còn tại nhà của điêu khắc gia Thanh Thu. Gần đây nhất vào năm 2006 , dù đã 73 tuổi ĐKG. Thu vẫn khắc thêm tượng Cô Gái Được Mùa” thật sống động. Đây là hình ảnh cô gái với chiếc nón lá, ôm bó lúa tựa vào vai. Được Mùa hay Cô gái Được Mùa, kiểu nào cũng đầy ý nghĩa và đẹp vẹn toàn. Ông quả thật không những là thiên tài nghệ thuật, mà ông còn là một chiến sĩ yêu nước nồng nàn.
Cuối cùng, điêu khắc gia Thu cho biết, đến nay ông vẫn còn băn khoăn về một trường hợp mà ông nghĩ là hơi bất thường. Ông nói cách nay vài năm, có một người ở bên Mỹ về tự xưng là một ông cha đã tu xuất tên là Vũ văn Hoàng tuổi trên 70 mươi. Ông Hoàng cho biết đã cải táng được 18 ngàn ngôi mộ tại tỉnh Bình Dương, cũng như đã giúp đở rất nhiều cho thương phế binh. Ông Hoàng nói là muốn cùng với ông tạo dựng lại bức tượng “Thương Tiếc” cho những phần mộ vừa được trùng tu. Nghe như vậy, ông rất mừng rở vì đó là điều ông ôm ấp từ lâu. Sau một tháng gặp gỡ bàng bạc, ông Hoàng có hứa khi trở về Mỹ sẽ báo cho ông biết diễn tiến công việc mà hai người muốn thực hiện. Nhưng, công việc không đi đến đâu và nhiều năm trôi qua ông không còn liên lạc được với ông Hoàng nữa.
Điêu khắc gia tài ba của QLVNCH nói rằng, ông mong khi Xuân Hương về Mỹ sẽ nói cho người Việt hải ngoại biết được ý nguyện của ông. Là người có quốc tịch Mỹ, ông lúc nào cũng sẳn sàng trở qua bất cứ quốc gia nào để thực hiện bức tượng Thương Tiếc. Ông còn tâm sự, ở tuổi 75, nhưng ông ráng sống để một ngày nào đó xây dựng lại tác phẩm Tiếc Thương vì theo ông tác phẩm này, không thể mai một trong hoàn cảnh chính trị “khốn nạn”, là miền Nam bị cưỡng chiếm vào tay bạo quyền Việt Cộng như hiện nay.

*Xuân Hương (Mùa hè Bắc Cali 8/2009)

cao nguyên
02-09-2012, 06:16 PM
http://nguyentran.org/NhatLung/PERSONNAGE/Personnage5/ChuanTuongLeQuangLuong2.jpg
1932 - 2005

Tưởng Niệm (http://www.youtube.com/embed/u97gQWtoZWs)Tướng LÊ QUANG LƯỠNG (http://www.youtube.com/embed/u97gQWtoZWs)http://www.tinparis.net/icone/aboule02.gif
Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù/QLVNCH


http://nguyentran.org/NhatLung/FLORAL/Floral3/CanhHoaHong.gif
Tôi làm Tướng không bảo vệ được nước. Khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước
nên khi tôi chết già, yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên quan tài tôi vì tôi tự biết mình không xứng
đáng được hưởng lễ nghi nầy.
Xin mặc đồ đen, không mặc quân phục, nếu muốn đến tiễn đưa tôi lần chót...

LÊ QUANG LƯỠNG

~~~~~~~~~~~~~~~~~
Tài liệu đọc thêm: - http://lequangluong.blogspot.com/ (http://lequangluong.blogspot.com/)
- http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-159452/ (http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-159452/)



* * * *

hoài vọng
02-09-2012, 06:42 PM
Cám ơn anh Cao Nguyên đã cho nhìn lại hình ảnh vị Tư Lệnh , tôi vẫn nhớ lời nói của Tướng Lê Quang Lưỡng đã đòi đáp trực thăng xuống phi trường Phan Rang ngày để chỉ huy :
- Bạch Long ( ám danh truyền tin của Tư Lệnh ) sẽ xuống...tụi nó đang tràn vào hướng....
- Tôi ( Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ Đoàn Trưởng ) làm được ...Bạch Long đừng xuống
Lời trăn trối đã nói lên sự u uất của vị Tướng bại trận không phải vì bất tài

cao nguyên
02-11-2012, 05:53 PM
Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử !




Hùm Xám U Minh




Đại Tá HỒ-NGỌC-CẨN





http://img170.imageshack.us/img170/493/dthongoccanfh2.jpg






Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc-gia Việt-Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy gì làm giỏi cho lắm, thường thì chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu-sinh-quân.

Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau:
- Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-định.
- Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.
- Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-nội.
- Trường TSQ Móng- cáy dành cho sắc dân Nùng.
- Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-mê-thuột.
- Trường TSQ Đà-lạt của quân đội Pháp.
- Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-tầu.

Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nhì trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-định về Mỹ-tho.

Khi hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-nội vào, sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-văn là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ lãng mạn.

Ghi chú.
Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-hòa, rồi làm bộ trưởng Lao-động, rồi thẩm phán ở Phước-tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Houston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.

Hết năm học, Cẩn đã 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, thì khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Còn như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc thì được giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-trường võ khoa Thủ-đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.

Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các TSQ Pháp trong thời bình. Một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ Quốc-phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng Trung-học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ trình độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học.
Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đã cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường.

Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 ( ?) sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của Tổng-thống Ngô Đình-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng: Dù, Thủy-quân lục chiến (TQLC) , Biệt-động quân (BĐQ), Quân-báo, An-ninh quân đội, và Lực-lượng đặc biệt (LLĐB).

Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-thơ (Phong-dinh), Chương-thiện, Sóc-trăng (Ba-xuyên), Bặc-liêu, Cà-mâu (An-xuyên). Về sau, vì tình hình chiến tranh thay đổi, quân Cộng-sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-minh hạ.

Tôi đã gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ? Tại đâu? Câu truyện như thế này:
Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về "Ngụy Tây-sơn", có rất nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng U-minh. Tôi nảy ra ý xuống vùng tận cùng của đất nước này tìm hiểu thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, các thầy mang bàn thờ xuống đường, chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, vì đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói "Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau". Tôi nhất quyết đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi.
Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại? Làm sao có phương tiện di chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ . Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả!

Nhưng sau chuyến đi ấy, quá súc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-dựng nông thôn tại kinh Tắc-vân, Cà-mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài "Giang biên hoa lạc" gây xúc động mạnh cho độc giả Hương-cảng và giới Hoa-kiều tại VN. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là "Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-vân". Tôi gửi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của Cục Tâm-lý chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi "Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thực".

Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài " Ngũ hổ U-minh thượng ", kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :

Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,
Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.
Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,
Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.
Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.

Ghi chú
Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người thì Kiệt tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng với cương vị Tư Lệnh Phó Quân Khu IV tự sát, Cẩn bị xử bắn. Còn Trổ, sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-giang, hiện định cư tại Houston, bang Texas, Hoa-kỳ. Còn Huy tôi không biết sau ra sao?

Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-lợi bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn trưởng Hathaway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình quân đội VN tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói:
- "Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại Chương-thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-mau. Trung-đoàn 33 đóng tại Ba-xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt-động quân mang số 42 và 44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-xuyên".
Ông ca tụng quân đội VN như sau:

"Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó".

Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-động quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn đoàn thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, thì tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nhì gồm đại đội 3 và đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:
- Lần đầu tiên ra trận, "sơ" có sợ không ?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam:
- Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa? Tôi đáp:
- Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi:
- Ông bác sĩ này ngon thực!
Tôi hỏi Kiệt :
- Trong hai cánh, thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ?
Kiệt chỉ Cẩn :
- Anh cứ nhảy theo thằng này, thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng mười giờ thì có lệnh: Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh-châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút, thì Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt:
- Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.

Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên: Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng.

Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số Tử-vi của mình thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc-chiê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung.

Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước, thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân.
Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên.

Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên, thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.

Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Còn như bị thương nhẹ thì được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng: Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn:
- Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, thì là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại?
- Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.

Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái thì bị cháy đen, cái thì mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không?

Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích gì ?
- Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.

Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu-giang, khi Đại-ngãi, khi Tắc-vân, khi Kiên-hưng, khi Thác-lác, khi Cờ-đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ?

Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-lộc. Cuối năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-thiện. Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-thiện. Tôi hỏi Cẩn:
- Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không?
- Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ? Coi sư đoàn sao được.
- Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì ?
- Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì ?
- " Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy". Nhưng liệu bộ Quốc-phòng có cho phép in hay không?
- Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn.

Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử.

Ghi chú.
Tại Sài-gòn 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-thiện kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-sinh-quân còn kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-tầu. Nếu tôi không lầm thì các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.

Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:

Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin, Đức), xuất thân trường Thiếu-sinh-quân Hà-nội, sau di vào Mỹ-tho. Trung-tá Địch đã sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-sinh-quân Mỹ-tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.
Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.


http://img150.imageshack.us/img150/1806/daitahongoccanmm3.gif





Lời sau cùng của Đại Tá Hồ Ngọc Cẫn:

« Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt tôi nhận lãnh cái chết này. Lời yêu cầu sau cùng của tôi là sau khi chết cho tôi nhận lá cờ quốc gia tôi và xin được phủ lên nắp quan tài khi tôi nằm xuống. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm. Đả Đảo cộng sản".».


Cuộc xử án như sau:

Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là Tòa án nhân dân được lập ngay trước tòa hành chánh. Sau khi quan tòa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của Cẩn thì đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi: Những ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay lên! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại.

Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao Cần-thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi bò-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đã nợ máu với ai, thì hãy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi: Ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay. Bò vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không dơ tay.

Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà tòa án nêu ra không? Cẩn cười nhạt:
" Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt".
Rồi Cẩn hô:
" Đả đảo Cộng-sản. Việt-Nam muôn năm"

Sau khi Cẩn bị bắn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống.
Nắng mưa là hiện tượng bình thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-thơ thì cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước.

Khi tôi gặp Cẩn, thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.

Có rất nhiều người đặt câu hỏi: Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo. Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được. Tại sao? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng: Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những hình bóng thực, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế.

Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay người.
Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê bình, vì Cẩn là bạn thân của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cẩn.

Viết tại Paris ngày 30 tháng tư năm 1996
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.

nvhn
02-11-2012, 06:44 PM
Cám ơn anh Cao Nguyên đã đem những bài viết này về... đọc mà khồng cầm được dòng nước mắt.:(

cao nguyên
02-12-2012, 07:24 AM
Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
Memory of general Ngo Quang Truong




http://www.youtube.com/watch?NR=1&amp;v=kUcWRbW-oHg&amp;feature=fvwp
http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=kUcWRbW-oHg&feature=fvwp
(http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=kUcWRbW-oHg&feature=fvwp)





Rải tro theo gió
(http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=kUcWRbW-oHg&feature=fvwp)
Nguyễn Tường Thiết


Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.

Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.
Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.
(http://www.youtube.com/watch?NR=1&v=kUcWRbW-oHg&feature=fvwp)http://4.bp.blogspot.com/-xTtcE_5vT5c/Tbw7EN4-aSI/AAAAAAAADwk/9p0A2XDQBVg/s1600/Tướng+Trưởng+2.jpg (http://4.bp.blogspot.com/-xTtcE_5vT5c/Tbw7EN4-aSI/AAAAAAAADwk/9p0A2XDQBVg/s1600/Tướng+Trưởng+2.jpg)

Tướng Ngô Quang Trưởng

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.
Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.
Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.
Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.
Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.
Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”
Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.
*
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.
Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?
– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!
– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng...
Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.
Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...
Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.
Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:
– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?
Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi
Hải Vân... tro rắc bốn trời
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?
Nhất Tuấn
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

Nguyễn Tường Thiết

http://ltcn.net/images/upload/Article/10_vchu.jpg

VÃI CHỮ LÊN TRỜI

“lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế
Bao chiến công … cũng thế mà thôi
Hải Vân … tro rắc bốn trời
Hạt tro nào … lạc vào nơi Cổ Thành!”
Nhất Tuấn

Trời Đông Bắc Mỹ những ngày cuối Đông xám xịt sau trận tuyết phủ trắng mặt đất . Không thể đi đâu và không thể viết gì lên trời sáng nay vì mất điện .
Cánh cửa thông ra thế giới bên ngoài bị đóng lại . Đành đi vào thế giới bên trong những trang sách . Mắt tôi dừng lại nơi “Vãi Tro Theo Gió” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết trong Giai Phẩm Xuân 2011/ Người Việt . Kể chuyện những người thân của tướng Ngô Quang Trưởng vãi di thể tro của Ông trên đỉnh đèo Hải Vân .
Đúng là một đoản văn hay, những con chữ cuốn tôi theo dòng hồi tưởng qua một thời đoạn trong chu kỳ sinh tử của một đất nước, một đời người .

Với đất nước:

Trong khoảng thời gian 30 năm, từ lúc nhà văn Nguyễn Tường Thiết gặp tướng Ngô Quang Trưởng lần đầu ở Thủ Đức/Việt Nam (1962), đến lần gặp cuối ở Virginia/Hoa Kỳ (1993) . Tôi cũng từ một chinh nhân đi xuyên qua chiến tranh và hòa bình . Một chiến tranh mang đủ chất bi tráng và một hòa bình đau thương trong lòng người dân Việt luôn khát khao ánh sáng tự do và công lý . Bởi nhiệt huyết dấn thân bảo vệ quê hương bị phản bội bởi đồng mình và nội thù .
Điều còn lại sau cuộc chiến là những hồi tưởng xót lòng khi nhìn chút long lanh trong những hạt bụi của những nhân dáng chinh nhân “vị quốc vong thân” và văn thi nhân “phong trần tải đạo” . Rồi cũng thế …mà thôi! Lời thơ của Nhất Tuấn buồn u uẩn! Chấm một dấu than hay bỏ lửng … cũng làm chùng tâm người lữ khách của hai miền nội, ngoại cả trong giá rét mùa Đông hay trong nắng ấm Xuân về . Hạt tro nào … quyện vào hồn thiêng Tổ Quốc! Hạt tro nào là vóc thân em hiện về …
em về ngồi giữa chơi vơi
uống trăng như thể rượu mời thuở xưa
hỏa châu sáng mấy chưa vừa
còn chong con mắt thắp thừa lòng tin
(rằng ta đi vẽ hòa bình
trên lưng cuộc chiến để tình thăng hoa!)

Thế nhưng …
bao nhiêu năm nhân loại tìm
chưa ra bản vẽ hòa bình của em
tấm lưng cuộc chiến còn nguyên
chỉ thêm vết đạn xuyên tim xoắn vào!
Cuộc dấn thân đi vẽ hòa bình trong tình nhân ái đã không được hồi báo theo lòng ước nguyện . Sự tàn bạo của cơn hồng thủy phủ tràn lên đất nước một lớp sóng hòa bình giả tưởng trên những thực thể điêu tàn đến thê lương . Để tôi có những ngày ngồi nơi Quán Gió

ngồi đây nghe tiếng vó câu
vang sâu thẳm, đáy cốc sầu rượu xưa
chiến bào, màu hổ phách khua
kiếm loang loáng sáng, đắng thừa chạm môi
Và hơn thế, nhìn xuyên đêm qua khung cửa, thấy sương pha trăng rót lấp loáng trên cành cây, ngỡ như còn rõ mặt kiếm cung:
Đêm nhìn sương trăng thấy cành nhớ kiếm
kiếm gãy xuyên đêm rơi suống đất cằn
mộ lá vàng khô gió xếp trăm năm
đá chạm chữ khua lòng ta thao thức!

Với đời người:

Những giọt lệ hồng pha sương đêm thấm đẫm vào suy tưởng có không thân phận một đời người trong vòng thiên mệnh . Biết có, để thấy sự hợp lý của những thử thách sinh tồn vì cuộc dấn thân . Không tự đứng lên là bị dìm xuống dưới khắc nghiệt của thế thời . Biết không, để thôi chấp ngã về những vọng niệm đi về giữa tử sinh, vinh nhục . Cho nhẹ hều thân tâm chờ hóa bụi bay vào vô định!
Giữa khi còn có, còn không . May được nỗi vui giữa những bồi hồi chữ nghĩa gởi cho đất và người những bản chúc thư trầm mặc chờ một cơ duyên hạnh ngộ dẫu như hoang tưởng:
đất không nước và ta người tàn phế
vói đôi tay không thể chạm quê hương
còn hoang tưởng chẻ không gian ngồi ngắm
nước thời gian chảy thấm mạch yêu thương!
Còn hoang tưởng chẻ không gian ngồi ngắm, là còn thấy yêu thương cả trong vụn vỡ một đời người đến độ hóa tro vẫn chứa sự long lanh của giòng nước mắt . Từ những dòng thơ của nhà thơ Nhất Tuấn đến “Vãi Tro Theo Gió” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, tôi lan man nghĩ đến và nhớ về những người anh, người bạn hân hạnh biết trên đường chinh chiến và trên hành trình chữ nghĩa đã vào nơi vô định, yên phận tử sinh như các anh Phạm Huấn, Kim Tuấn, Hiếu Anh, Vương Đức Lệ … Dẫu họ đã hóa tro bay vào thinh không, những tinh thể vẫn sáng trong tâm tôi . Nếu những hạt tro của thân thương được vãi lên từ một đỉnh cao của quê hương như những hạt tro của tướng Ngô Quang Trưởng được thoát bay từ đỉnh Hải Vân thì quá tuyệt vời . Ai mà không ham tro mình được vãi vào lúc cuối đời! Của phù du trả về cát bụi!
Cho nên vào những ngày cậnTết như hôm nay, sao tôi mong được người về ngồi đối ảnh, dù biết …
còn có gì đâu mà khoản đãi ...
ngoại trừ dòng chữ rót đau thương
ly biệt xin thôi đừng nhắc mãi
buồn nẫu lòng ta hoài cố hương

người về cũng chỉ là nhân ảnh
ly rượu mời sóng sánh khói hương
Xuân muộn hay trời Đông Bắc lạnh
mà hoa chạnh nở đóa vô thường ..
Ôi những đóa vô thường dễ thương biết mấy, những đóa hoa yêu thương chẳng bao giờ tàn . Dù khi người về thoát đó lại đi . Chỉ còn lại những giòng chữ lung linh dưới ánh nến chiều cuối năm chạm cửa đêm trừ tịch, đang chờ mùi trầm hương với men rượu hồ trường . Bùi ngùi của quá khứ đủ cho một trầm khúc mới níu gót chân xuân chạm vào hành trình còn mở để nghe ngân tấu bài sử thi ngạo nghễ lời huyết mạch Văn Lang:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài
Từng ngày qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng
(Nguyễn Đức Quang)

Ôi triệu khối kiêu hùng trong lòng người dân Việt đang chờ được hát tiếp lời ngạo nghễ, với hành trang mới lên đường thực hiện giấc mơ cũ của cha, ông trong sứ mạng bảo vệ non sông Tổ Quốc .
Hành trình đi lên còn mở, những ước mơ chưa hề khép lại . Như tôi đang hăm hở chào mùa Xuân khi mùa Đông còn sương tuyết trắng . ..và em còn những băn khoăn ...
em hỏi: còn Đông sao chào Xuân?
thưa rằng: đời vẫn đợi tin mừng
từ trong sương tuyết hừng đông mới
nắng cứ xôn xao rộn cả lòng!
Giữa hai cuộc gọi trưa nay, một với nhà thơ Nhất Tuấn – người cùng thời đã tặng tôi những ân tình chữ nghĩa, và một với trung tá Tôn Thất Tuấn – một hậu duệ đã gởi tôi những tâm cảm chân thành về thế hệ đàn anh . Đã làm thành một chiếc cầu vồng quá đẹp nối hai nhịp quá khứ với tương lai . Chiếc cầu vồng lấp lánh sáng những hạt tro hồng vãi bay theo gió trên đỉnh Hải Vân, trên đỉnh cao của tình người miên viễn trân trọng phẩm giá nhân sinh công bằng và bác ái .
Cám ơn nhà văn Nguyễn Tường Thiết đã cho tôi cảm hứng gõ thêm những giọt chữ trên dòng sông tâm thức nối mạch đông tây và sau trước của một phận người còn hào sảng với những ước mơ . Còn rưng lòng cảm xúc tri ân những hạt tro hồng… vị quốc vong thân!
Chỉ còn chờ có điện, đèn bật sáng, tôi vãi chữ lên trời! Lời thong dong bay trong cõi đời hư ảo!

Cao Nguyên .
MD – Jan 26, 2011

Vịnh Nghi
02-12-2012, 10:15 AM
Cám ơn anh Cao Nguyên đã đem những bài viết này về... đọc mà khồng cầm được dòng nước mắt.:(

Nghi cũng vậy! :(

Bài viết và đoạn YouTube về Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cũng hay và buồn quá. Mấy lúc gần đây Nghi mới có dịp coi được những thước phim thời sự về cuộc chiến VN, càng coi càng thấy tự hào về người lính VNCH, càng thấy tiếc cho sự sụp đổ tức tưởi của nền VNCH. :(

Cám ơn bác Cao Nguyên!

cao nguyên
02-12-2012, 02:15 PM
http://i748.photobucket.com/albums/xx127/coffeebean_04/Memory/anhhungvodanh.jpg

Cám ơn anh Triển, anh Hoài Vọng, Phương và Vịnh Nghi đã gởi vào "Tưởng Niệm Tháng Tư" sự bồi hồi tâm cảm . Đồng thời cám ơn bằng hữu, các anh chị em đã ghé lại vùng không gian buồn của Tháng Tư Đen .
Mỗi người trong chúng ta thắp một nén hương lòng cảm kích những anh hùng và cả những chiến sĩ vô danh đã vì nước hy sinh . Còn nghĩ đến một Việt Nam Tự Do, còn nghĩ đến một Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, còn thấy thương yêu màu cờ vàng ... thì sự cảm kích và tri ơn những người đã cho chúng ta cuộc sống hôm nay không chỉ vào thời điểm Tháng Tư mà mãi mãi .
Cũng không quên tri ơn những tấm lòng chữ nghĩa và thanh âm của biết bao văn nghệ sĩ đã gởi chân tình vào mùa Tưởng Niệm Tháng Tư - Mùa đau thương của quân dân Miền Nam Việt Nam.
Mỗi giọt máu, mỗi dòng nước mắt thấm vào đất đều là nguồn hy vọng hướng đến tương lai quê hương Việt Nam được Tự Do, Dân Chủ và Nhân Ái .

cao nguyên
02-12-2012, 02:31 PM
TRẬN CHIẾN ÐẤU BI HÙNG CUỐI CÙNG
CỦA TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN VŨNG TÀU




http://home.comcast.net/~hoai_viet/01truongme_20b.jpg


Từ bên bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T54 và các sư đoàn Bắc quân đã xóa nát văn kiện hiệp định Ba Lê 1973, tiến dần về Nam. Như một thứ định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặc và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ bên ngoài cương thổ Việt Nam. Từng tấc đất bị mất. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt... Mất Quảng Trị, Huế, Ðà Nẳng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết...Và rồi đầu tháng Tư 75, Bắc quân bị Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Ðảo chận khựng tại Long Khánh 12 ngày đêm, sau đó địch tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn. Quân ta cứ rút, cứ rút.

Vũng Tàu, những ngày cuối tháng Tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng, náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường.

Ngày 26 tháng 4, Bắc quân tấn chiếm Biên Hòa, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết! Nhưng trường Thiếu Sinh Quân thì dường như không. Truờng tọa lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, song lại bị ngăn cách bởi những vách tường vách đá kiên cố bao quanh, cái giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn không lọt vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặng như mọi ngày, Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 ( lớp người viết) đang trong thời gian học thi tốt nghiệp vẫn cúi đầu miệt mài với sách vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 được nhà trường cho về với gia đình, còn các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân, vì thế không khí nhà trường càng ngày càng nặng nề, yên tĩnh.. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra nét âu lo, bức xúc trên những gương mặt của các cán bộ và nhân viên cơ hữu nhà trường.

Ngày 28 tháng Tư, chúng tôi được lệnh tập hợp sau bữa ăn chiều. Trung tá Ngô Văn Doanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:
- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu! Nhà trường đã có kế hoạch di tản!
Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được Chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối rúc chui dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu lờ lững lượn trên vòm trời xanh.
Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những âu lo của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo chẳng biết từ đâu xé gió rít qua không gian... và Ầm! Ầm!.. Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rơi vào chân núi đài viba sát đàng sau lưng trường.

Ðại úy Lê Viết Ðắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12 rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược chạy xuôi lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ô ng như một con gà mẹ dáo dác bảo bọc đàn con. Không biết mục tiêu những viên đạn trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo trong đầu non nớt chỉ biết ăn học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống, sự chết. Chúng tôi vẫn nằm yên. Ðịch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.

Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác mang mang, tuyệt vọng, toàn trường như bất động lặng yên nghe tiếng Ðại úy Hoàng, cán bộ Liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:
- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu Sinh Quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập hợp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh!
Thế là hết! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuâân theo răm rắp. Khoảng xế 1 giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ nhân viên. Ðoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Ðội ngủ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang.

Ða số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải doạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Ði về đâu? Với ai? Thông báo toàn trường được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính.. Ðột nhiên, nữa đường di chuyển, chúng tôi bị một số anh Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện cùng người chỉ huy toán lính TQLC... Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoáùn Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban ra. Trên đường về, tâm hồn tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắc nghẽn, sinh lộ càng lúc càng hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản rất là mong manh.

Về đến sân trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Ðội 7 đang chờ ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại, nặng nề. Cả đám chúng tôi bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên theo đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung sĩ I Ngộ, cán bộ của trường và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là liên lớp nhỏ nhất trường. Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng một chiếc trực thăng, chờ âm thanh cánh quạt, mỏi mòn, tuyệt vọng. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi bóng chiều ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.

Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời cổng trường. Trái tim tôi nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với, hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Rồi phóng thanh, một lần nữa, xác định một thực tế phủ phàng:
- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa! Các em hãy tự lo lấy bản thân!

Thế là đã quá rõ! Chúng tôi bị bỏ rơi! Ngôi trường này là nhà. Cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết làm gì, và biết đi về đâu. Những trái tim non uất nghẹn, chới với, hoảng hốt. Và thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tản mát tung ra chạy khỏi trường. Nhưng chạy đi đâu? Chẳng biết! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!
Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc thường đánh bóng bàn với tôi, cùng tôi, tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh. Tôi thấy ở phía trước mặt khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi, bị một người lính, không biết ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt, tôi và Thịnh vội vàng vứt súng và quay ngược chạy trở về trường, mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra Bãi Trước rồi rồi từ Bãi Trước quay ngược trở lại trường. Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường và gia đình nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu.

Bố mẹ Vân dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vân nhìn hai chúng tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi. Là những bạn học cùng lớp, Vân còn có gia đình, ruột thịt ở bên cạnh, còn hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi giạt về đâu trong cn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trời, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗi lo âu. Và mọi người cứ nhìn nhau, không ai nói một lời. Trong lúc mọi người chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trường vọng lại:
- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm!
Tiếng của em Thiếu Sinh Quân nhỏ vang vọng trong màn đêm, thúc bách não ruột như tiếng chim chíp của đàn gà con mất mẹ làm tôi vô cùng xốn xang, bất xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thiếu Sinh Quân lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng các em gọi loa đã giục tôi đứng lên và cương quyết trở lại truờng với các em. Bố Mẹ Vân lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vân và nói trước khi phóng vào đêm tối:
- Tụi con không thể bỏ các em được!
Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh... cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán Thiếu Sinh Quân khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu ăn và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu Carbine, cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.

Nhìn lên bầu trời đen thẳm, nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan nan với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẳn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến đấu này sẽ về đâu? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thên cuối cùng của chúng tôi.
Tôi và Thịnh vát súng đi một vòng toàn trường, thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác những hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào ổ súng, sẳn sàng khai hỏa... Tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Ðổng. Tôi đặt mật khẩu, dặn các chốt canh học thuộc lòng, nếu thấy bóng người di chuyển đến thì hỏi, trả lời không đúng mật khẩu là "quạng" liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẳn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.

Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đèu được phân phối khẩu phần đầy đủ... (Nhìn các bạn "chén" bữa cơn nửa khê nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn...) Xong công việc, tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của Chỉ Huy Trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn thiết tha gì nữa, cậu ta chui vào một góc phòng và mấy phút sau đã bắt đầu "kéo đờn cò". Ngoài trời, đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công, nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vân đang làm gì, và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại bữa cơm đó. Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tỉnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã "hồn bướm mơ tiên", tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẳn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ nài lợi hại đến nhường nào.

Tôi quay trở lại phòng Chỉ Huy Trưởng,và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bây giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hàng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai em gái tôi rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tọi lại đến vòi mẹ xin tiền, rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Ði gần đến chợ thì... một em THiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói:
- Anh Dũng! Có lính đông lắm, đang đi về hướng mình!
Tôi bật dậy, nhảy ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tỉnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì, và nghĩ cậu bé lay mình dậy vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hóa cuốc... nên sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm. Bỗng nghe tiếng oang oang của hạ sĩ Hoành mà các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo, anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên vì sự hiện diện của hạ sĩ Hoành, chẳng biết anh nhập cuộc tự bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:

- Tụi bay ở đó đi! Chắc lính mình đó! Ðể tao ra coi thử!
Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành, liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên, vát súng hướng về phía cổng trường. Ðến lúc đó, tôi mới thấy có một nhóm người lố nhố ở tít đàng xa đang hướng dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em sẳn sàng cho mọi bất trắc. Ðột nhiên, tất cả anh em đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
- Việt cộng!
Tiếng hô "Việt cộng!" của hạ sĩ Hoành vừa dứt thì lập tức, tất cả hỏa lực đặt sẳn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề đồng loạt khai hỏa yễm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân không thể nào ngờ họ "được đón tiếp nồng hậu" như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hỏa lực từ trong trường dập ra thậy dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ là họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hỏa dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẳn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.
Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã bừng thức giấc và ngạc nhiên, lo âu, nhìn vào trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng và Phạm Ngọc Trình chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vát súng, đứa vát đạn. Ðến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang, thoắt một cái, khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẳn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ đại liên trên lầu gào:
- Ê tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!
Sau tiếng gào lớn của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù, mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn nổ tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng tấn công và chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân quả cảm, liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng "điếc không sợ súng" và ý nghĩ "không còn gì để mất!".

Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở phía bên kia đường, chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hỏa từ trên cao, một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B40 để công phá chúng tôi ở mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hỏa lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.
Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cánh cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xẩy ra không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B40 thứ hai nối tiếp một lần nữa, mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai thèm chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt đánh nhau mới "sướng!"
Mặc dù có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Ðối phó với địch quân trên các tầng lầu khách sạn, Phú Văn Ðại cầm khẩu M79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà sử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.

Ðối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phí hợp với trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng cũa các khẩu Garant nhịp nhàng, ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một dàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lưới đạn chằng chịt phủ xuống đầu đối phương.
Với quân số ước lượng hơn một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hỏa lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến gần chúng tôi, nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước lằn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.

Ðến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng Chỉ Huy Trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên trên đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi chợt thấy một bộ đội cộng sản đang đặt một khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi, tôi bật ngay khẩu carbin trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt một ánh sáng xanh bay về phía tôi, chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay. Viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân - Trí – Dũng, phá tan một mảnh đá lớn. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Tôi khỵu xuống với chân phải bị trúng thương, liếc nhìn xuống áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc, tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà tôi không cảm thấy một chút gì đau đớn thì tôi ngả ra ngất xỉu. Trong lúc đó, Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân, Lê Văn Tánh chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.
Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn Hóa. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.

Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngưng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự, vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em THiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn họ cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.
Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, còn lại chỉ có vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị Bắc quân bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân, nên tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.

Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn , mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này, tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân. Bệnh viện đầy ngập những người bị thương, nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm, chẳng có y tá nào ngó ngàng tới, chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau tôi mới được biết tên là Nguyễn Kim Hùng, đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Ðến sáng hôm sau, thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu, Thiện huế và vài em nữa tôi không nhớ tên, đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.

Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Truờng Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu, tuy nhiên, trong lòng người dân xứ biển , hình ảnh hào hùng của những Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ Quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng, kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội...


http://home.comcast.net/~hoai_viet/01truongme_12b.jpg


Colorado 24/10/2002
Tác Giả: Nguyễn Anh Dũng & Lâm A Sáng
(Cựu Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)
(Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ Ðức)
http://forum.trungtamasia.com/yaf_postst47p9_CAM-ON-ANH---NGUOI-CHIEN-SI-VO-DANH.aspx

hoài vọng
02-12-2012, 08:34 PM
càng thấy tiếc cho sự sụp đổ tức tưởi của nền VNCH.



VNghi đọc Tháng Ba Gãy Súng của ông Cao Xuân Huy , theo bác thì hay hơn ông Phan Nhật Nam có lẽ là vì tác giả thực sự đã sống , đã thấy những cái chết tức tưởi của TQLC

ngocdam66
02-12-2012, 08:45 PM
Fulro Phạm Văn Thặng
Người anh hùng Không Quân VNCH

http://img353.imageshack.us/img353/6746/majorphamvanthangcl8.jpg

Lễ Phong Thần

(Nhân ngày giỗ trận, xin thắp một nén nhang lòng cúi đầu tưởng-niệm cố Trung Tá Phạm-Văn-Thặng. Người phi-công Khu-trục đã tuẫn-quốc bên bờ sông Dakbla, thuộc tỉnh Kontum vào mùa Hè năm 1972.)

Trần Ngọc Nguyên Vũ


Cổ bề thanh động Tràng Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam-Toàn vân
Đặng Trần Côn


Tháng Năm 1972! Tây-Nguyên vẫn còn ngút ngàn khói lưả. Sau lần thất-bại tại Charlie, Cộng quân điên cuồng đổ dồn lực-lượng còn lại vào Kontum. Hàng ngày những công-điện tối khẩn tới-tấp từ biên-thùy gởi về phòng truyền-tin điện-tử của Quân-Đoàn 2. Trung-tâm hành-quân không-trợ 2 làm việc ngày đêm, phối-hợp các đơn-vị tác-chiến của Sư-đoàn 2 KQ để yểm-trợ các đơn-vị dưới đất. Những chiếc GMC chạy sầm-sập trên quốc-lộ 14, cuốn theo những đám bụi đỏ bốc lên cùng với cơn gió lốc phủ mờ cả một bầu trời. Phi-Trường Cù-Hanh nhộn-nhịp suốt ngày đêm với những chiếc vận tải cơ đủ loại. Từ C47, C119, C123 đến C130, cùng Khu-Truc A1, A37, Trực-Thăng, Quan-Sát lên xuống liên-tục, cộng thêm với đoàn người từ các nơi đổ vào căn-cứ Không-Quân Pleiku chờ được di-tản về Nha-Trang, Quy-Nhơn tạo thành một khung-cảnh bi-hùng của một thời chinh-chiến. Các quân-nhân thuộc Liên-đoàn phòng-thủ của Không-đoàn Yểm-Cứ Pleiku, và đoàn Quân-Cảnh của quân-trấn phải làm việc hầu như 24 trên 24 mới giữ-gìn được an-ninh trật-tự…

Không-đoàn 72 chiến-thuật dốc toàn lực vào cuộc chiến. Các phi-công đã phải bay một ngày hai, ba phi-xuất mà vẫn không đủ cung-cấp cho nhu-cầu đòi hỏi của chiến-trường. Trên gương mặt phong-trần của những người lính chiến Không-Quân, đã thấy hằn lên những nét mệt mỏi. Nhưng trong câu chuyện trao đổi với nhau, họ vẫn không để mất đi những nét cương-nghị có pha trộn chút dí-dỏm và khinh-bạc vào cuộc đời. Bây giờ là 4 giờ chiều. Tại phòng hành-quân của phi-đoàn Thái-Dương 530, Thiếu Tá Vũ Công-Hiệp vừa nhận điện-thoại từ phòng hành-quân-chiến-cuộc của Không đoàn yêu cầu cất cánh khẩn-cấp. Đây là phi-vụ thứ hai trong ngày của anh. Anh quay qua nói với Thặng, người bay số hai của phi-tuần:
- Mình lên gấp, làm việc với thằng Bắc-Đẩu trên tần-số FM. Vùng làm việc ở phía Tây Nam Dakto 3 dậm.
Thặng vừa chấm toạ-độ trên bản-đồ hành-quân vừa nói:
- Mẹ kiếp. lần này tao sẽ xin biệt phái làm Thần Dakbla coi tụi nó có vào nổi Kontum không.
Hai ông Thiếu-Tá phi-tuần trưởng khu-trục có dáng người qúa khổ so với các đồng bạn khác. Một người cao nhòng, có nước da xạm nắng, với hai bàn tay sần sùi to như hai nải chuối già, được anh em ưu-ái tặng một hỗn danh là “Thặng Fulro”. Còn một ông lêu-nghêu như cây cà-kheo và gầy như một que củi, có nước da xanh lét như người vừa ốm dậy, nhận một mỹ danh khác là “Hiệp Cò”. Một điểm đặc-biệt nữa là cả hai đều là những cao-thủ thượng-thặng trong giới võ-lâm. Vừa sách nón bay ra bãi đậu, hai người vừa vung tay vẽ một cú “dive bom Napalm” thật thấp trong không khí. Hiệp nói:
- Lần đầu mình sẽ đánh cùng một lúc với hai hướng ngược chiều. Lần thứ nhì đổi hướng 90 độ. Chỉ có thế mới khóa mõm được bọn nó, để tụi nó không kịp sủa phòng-không.
Thặng cười vỗ vai người bạn đồng-hành rồi chia tay leo lên phi-cơ. Hai người cơ-trưởng trong tư-thế sẵn sàng, phụ các anh cột dây dù rồi tuột xuống để quay máy. Tiếng động-cơ nổ ròn. Hai chiếc khu-trục gầm gừ như hai con tê-giác khổng lồ di-chuyển ra đầu phi-đạo cất cánh trong tiếng reo hò và cặp mắt ngưỡng phục của những người đang đứng đợi để lên phi-cơ di-tản. Sự hiện-diện của các anh giờ này như một đảm-bảo để nói với người dân rằng :”Đồng bào cứ an-tâm, chúng tôi đang vào trận để giết giặc và bảo vệ đồng-bào đây.” Hai chiếc phi-cơ trang bị đầy bom đạn, song song lăn mình trên mặt phi-đạo, rồi cùng bốc lên như hai con đại bàng xoải cánh, và mất hút qua làn mây mỏng của buổi trời chiều…


http://img46.imageshack.us/img46/2821/kqvn003ie1.jpg


Từ cao-độ 5,000 bộ ở vòng chờ trên vùng, Hiệp lắc cánh ra hiệu cho số hai vào hợp-đoàn chiến đấu, rồi chuyển qua tần-số FM để liên-lạc với FAC. Tiếng rè rè của vô-tuyến cho Thặng biết là FM của Hiệp không được tốt. Anh bấm máy liên-lạc với Hiệp qua tần-số VHF:
- Thái Dương 31 đây 2 gọi
- 31 nghe năm (5/5)
- FM của mày hư rồi. Để tao bay lead.
- 31 hiểu! Mày bay Lead.
Sau khi cùng Hiệp đổi vị-thế, Thặng liên-lạc với phi-cơ quan-sát:
- Bắc-Đẩu, đây Thái-Dương 31 gọi bạn nghe rõ không trả lời
Tiếng người phi-công quan-sát dồn-dập vang lên:
- Bắc-Đẩu nghe Thái-Dương năm trên năm. Bạn cho biết trang bị.
- Thái-Dương trang bị 12 trái Napalm và 1200 viên đại-bác 20ly.
- Bắc-Đẩu nghe rõ. Để tôi bóc cho bạn một trái cam ăn cho mát giọng.
Thặng cười qua tần-số:
- Đ.M. không cần bóc vỏ. Đưa nguyên trái cho tao.
- Ha...ha...ha...phải Đại-Bàng Fulro đó không?
- Đúng năm. Fulro và Hiệp Cò đây.
- Bảo-đảm. Cho Đại-Bàng biết địch quân ở về phía Tây của trái khói 200 thước. Có phòng không 12ly7 và 57ly. Thái-Dương cẩn thận.
Thặng cám ơn người phi-công quan-sát vui tính rồi liên-lạc với Hiệp:
- Số 2 thấy trái khói không. Tao sẽ vào vùng theo hướng Bắc – Nam. Lấy cao-độ về tay trái. Bình-phi ở 4000bộ. Mày vào theo hướng Nam - Bắc. Lấy cao-độ về tay phải. Bình-phi ở 3500 bộ.
- OK! Thái-Dương 32 nghe rõ.
Thặng kiểm-soát thật nhanh các đồng-hồ trên bảng phi-cụ rồi lăn mình 360 độ, lao xuống mục-tiêu. Tiếng người phi-công quan-sát thán-phục vang lên:
- Đẹp lắm Đại-Bàng.
Thặng chưa kịp trả lời. Anh bỗng nghe thấy những tiếng bụp bụp, rồi con tầu rung lên dữ dội. Khói đen bốc mù mịt trong phòng lái. Anh vội-vàng giựt tay dàn bom, kéo phi-cơ lên cao-độ rồi liên-lạc với Hiệp:
- Tao bị rồi. Số hai thả hết bom rồi lấy cao độ về hướng Đông. Đ. M. phòng không tụi nó nặng qúa.
Hiệp đang vào mục-tiêu, nghe Thặng gọi vội vàng giựt hết bom rồi kéo ngược phi-cơ lên để lấy cao-độ. Anh vòng lại tống hết tay ga để vào cận-phi với Thặng. Từ trong phòng lái của mình, Hiệp thấy bên cánh phải của Thặng khói đen phun ra một lằn dài theo thân tầu, rồi phực lửa. Hiệp bấm máy gọi tới-tấp:
- Số một nhẩy dù gấp. Phi-cơ mày đang cháy bên cánh phải
Tiếng Thặng bình-tĩnh trả lời:
- Mình đang ở trên đầu Kontum. Tao không thể nhẩy dù được.
- OK! Mày ráng giữ cao-độ để ra khỏi Kontum. Mày còn trái bom bên cánh trái dó.
- Tao đã giựt tay rồi nhưng nó không rớt. Tao sẽ làm crash bên bờ sông Dakbla.
Bay sát bên Thặng Hiệp gọi:
- Fulro! Không kịp đâu, mình ra khỏi Kontum rồi. Nhẩy dù ngay đi.
Hai chiếc khu-trục cơ lao mình vùn vụt xuống một thửa ruộng trống bên bờ sông Dakbla. Hiệp liếc mắt nhìn cao-độ-kế thấy phi-cơ đang ở cao-độ 800 bộ, anh bấm máy tới tấp gọi:
- Fulro! Nghe tao đi, mày còn đủ cao-độ để nhẩy dù. Nhẩy ngay đi. Phi-cơ mày có thể phát nổ...
Có tiếng tắc nghẹn của Thặng trên tần-số:
- Đ. M. Trễ rồi...
Hiệp thảng-thốt gào lên trên tần-số:
- Fulro, Fulro, mày OK?
Không có tiếng trả lời. Chiếc phi-cơ của Thặng đang lao xuống mặt đất ở tốc độ 130 knots một giờ. Tốc-độ qúa nhanh để làm crash. Hiệp vẫn bám sát bên cánh phải của Thặng một cách vô-vọng. Chiếc khu-truc-cơ bị nạn chạm đất nháng lửa, cầy lên mặt ruộng lởm-chởm, đụng vào một cái mô cao bên bờ ruộng. Đất đá tung lên mù mịt, rồi một khối lửa bùng lên, cuốn theo cột khói đen cuồn cuộn như ngọn hỏa-diệm-sơn trong cơn phẫn-nộ chuyển mình...


http://img522.imageshack.us/img522/5894/a1huh2.jpg


Mọi việc xẩy ra qúa nhanh, qúa đột-ngột, làm người phi-công trẻ dạn dầy chiến trận, không kịp chuẩn-bị tinh-thần để đón nhận nó. Mặt anh co rúm lại, ánh mắt lạc thần, bất- lực nhìn chiếc phi-cơ của người bạn đồng-hành chìm trong biển lửa mịt mùng. Hiệp như điên cuồng, bay vòng quanh đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Chiếc khu-trục cơ gầm thét ở cao-độ thấp, rồi vụt bốc mình lên. Ngồi trong phòng lái, Hiệp ngoái cổ nhìn xuống. Không còn gì cả ngoài đống lửa bập-bùng. Hiệp lắc cánh, lăn mình làm một vòng “roll” 360 độ để chào vĩnh-biệt người bạn thân lần cuối, rồi lao mình mất hút sau những đám mây tang...

Buổi chiều ngày 26 tháng 5 năm 1972, bầu trời Kontum vần-vũ, nhỏ lệ khóc Anh-Hùng…Dòng Dakbla sủi bọt, nổi sóng gầm lên mộ-khúc bi-ai…Văng vẳng đâu đây như có tiếng chiêng trống từ nơi rừng thiêng núi thẳm vọng về, để đưa người tráng-si qua sông nhận sắc-chỉ phong thần.


Trần Ngọc Nguyên Vũ




http://img508.imageshack.us/img508/9329/kqvn001po8.jpg

Mặt trận Kontum-530 Thái Dương
Phạm Văn Thặng (Fulro)


http://img522.imageshack.us/img522/9386/candleqw2.gif



Cũng tại chiến trường Kontum này, KQVNCH ngày 26-5-1972, đã mất một phi công tài ba:đó là Th/t Pham Văn Thặng. Tác giả Hùng Chùa trong Lý Tưởng bộ mới số 7 -1998 đã ghi lại trường hợp hy sinh của Th/t Thặng như sau
Bắc Đẩu đây Thái Dương gọi.
Thái Dương cho biêt ví trí của bạn hiện nay
Thái Dương vừa cất cánh khỏi Pleiku được 5 phút, hai phi tuần A-1 trang bị bom nổ và crocket, cho biết tình hình quân bạn và trục đánh.
Thái Dương Thặng đó phải không ?
Đúng năm trên năm.Thặng "Fulro " đây.
Hay quá ! Quân bạn nằm nhiều cụm từ Bắc xuống Nam, trục đánh từ Đông sang Tây, địch chỉ cách bạn trên 100 thước, tình nghi địch có tăng yểm trợ, khi nào sẵn sàng tôi bắn khói chỉ điểm.
Trục đánh Đông sang Tây, có nghĩa là khi vào trục, anh sẽ bay trên thành phố Kontum, anh dỏi tìm cụm khói chỉ điểm, ngay từ bắt đầu vào trục, từ lúc khi còn ở trên cao khi vừa chúi xuống, anh nhìn thấy nhiều trái cầu khói đen lúp búp nổ ngay trước mặt, vẫn chúi xuống lao tới, anh nhấn nút release bốn trái ngay khi mục tiêu vào đúng hỏa điểm, rồi kéo stick đưa mũi phi cơ lên thẳng trên trời, đẩy cần ga tới maximum , rồi nhích stick về phía trái, anh kéo phi cơ lại về hướng Đông, hướng thành phố, đúng lúc này con tàu bị trúng đạn rung chuyển dữ dội, lữa phát cháy bên ngoài cockpit và cả trên cánh phi cơ.
Thái Dương đây Bắc Đẩu! Tàu mày bị cháy rồi, nhảy dù ra ngay lập tức !
Mày nghe tao không Thặng ?, nhảy dù ngay lập tức. Tiếng Hiệp "Vixi " hoảng hốt trên tần số.
Tao còn bốn trái bom trên cánh, nhảy dù ra để giết dân vô tội à ?

Th/t Thặng cố gắng đưa phi cơ ra khỏi khu vực Kontum và đáp bằng bụng trên một cánh đồng nhưng phi cơ đã phát nổ.

Kính phục thay lòng thương người và lo cho bá tánh của anh.
Người anh hùng của phi đoàn 530 Thái Dương nói riêng và của KQVNCH nói chung.
Vĩnh biệt anh Thặng (Fulro)


http://img239.imageshack.us/img239/1809/kqvn004ux8.jpg

Thần Dakbla
Thơ tiếc thương Cố Trung tá KQVNCH Phạm-Văn-Thặng
đã tuẫn-quốc bên bờ sông Dakbla, thuộc tỉnh Kontum vào mùa Hè năm 1972.

Giữa khuya Vẵng tiếng Thì thầm
Thoáng rơi Trắng tuyết Chập chờn Mộng du
Chìm sâu Bao lớp Mây mù
Dòng Dakbla Cuộn khúc Tiếng ai Gọi hồn
Bắc Đẩu Nghe rõ Trả lời ?
Thiên Thần Thái Dương Đã gãy Cánh rồi Bạn ơi !
Dakto Tân Cảnh Chu Pao Diên Bình
Hàm Rồng Eo Gió Charlie Ngậm ngùi !
Cù Hanh Mây phủ Mưa rơi !
Đồi Kiểm Báo Không Trợ II Nghiêng sầu !
Chiều về Phi đạo Vắng sâu
Bãi đậu Vẫn tiếng Thần cười Chọc quê !
Từ nay Bão rớt Tơi bời !
Gió Cuồng nộ Thổi Phong ba !
Vùng Ba Biên Giới Điêu tàn !
Cao nguyên Vẫn ngập Lửa đạn Ngút trời :
Chiến tranh !

Còn nhớ Gì không Kontum ?
Đường dốc Hoàng Diệu

Mường su To Cừ !
Công viên Lê Lợi
Diệp Kính Pleiku Rũ buồn !
Khu Chợ Mới
Cà Phê Dinh Điền
Những Quán Không Tên !
Mây Cao Nguyên Đứt khúc
Nhạc Trầm luân Rã rời !

Thần Dakbla
Nghiêng cánh Vẫy chào !
Gió thảm Mây sầu
Sầu bao đoạn !
Ngày chờ Đêm đợi !
Đợi
Trông
Chờ !

Tổ Quốc Không Gian
Bảo Quốc Trấn Không
Sư Đoàn VI Không Quân
Không Đoàn 72 Chiến Thuật
Phi Đoàn 530 Thái Dương
Khu Trục Cơ
Biên Trấn
Cù hanh
Pleiku

Thương tiếc
Vẫy tay
Chào !

Vĩnh biệt
Chiến hữu !

Anh em
Bạn bè
Nhỏ lệ

Khóc thương
Anh !

Ngày xưa Da ngựa Bọc thây
Ngày nay Cánh Thép

Phủ thây
Anh Hùng !

Fulro
Phạm văn Thặng :

Thiên Thần
Dakbla !

KNM

http://img519.imageshack.us/img519/2421/kqvnchlogoad0.jpg

hoài vọng
02-13-2012, 01:23 AM
Ngày ở Charlie , phi đoàn trực thăng Thần Tượng cũng có mấy chiếc ....bỏ đường bay , một chiếc bốc khói ngay trên đầu tôi, tôi chỉ thấy khói đen ở phần đuôi bay vòng tròn từ từ rơi xuống , thấp dần...thấp dần... đến lúc xuống gần ngọn cây vẫn không có ai nhẩy ra , cuối cùng một khối lửa bùng lên ....sau này tôi hỏi pilot , sao không phóng ra thì được giải thích là độ rơi của máy bay nhanh hơn của người , nhẩy ra là bị cánh quạt chém

cao nguyên
02-13-2012, 05:34 AM
Kính tặng các anh Chiến Sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù, để hoài niệm đến những Cánh Dù không về đến điểm hẹn.



http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/135735-DD-NhayDu-400.jpg


Huy hiệu binh chủng Nhảy Dù VNCH..



Anh bảo tôi viết lại những kỷ niệm về Tiểu Đoàn 7, về Dương Thuyết Phong, về " Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu ".....Anh Phi thân mến, những năm tháng bình yên nơi xứ người đâu phải ngắn ngủi, đã gần ba mươi năm rồi, phải không anh ? chiến tranh đã chấm dứt từ lâu nhưng mặt trận miền Tây nơi tôi vẫn không ......yên tĩnh nỗi . Thỉnh thoãng tôi vẫn nằm mơ.......

Người đi Tây tiến mùa Thu ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi...

Lòng tôi thương nhớ, quặn đau khi nghĩ linh hồn Phong còn vất vưởng nơi chiến trường Campuchea xa lạ ấy . Người ta nói rằng, người chết ở đâu, linh hồn sẽ lẩn quẩn ở mãi nơi đó, như luyến tiếc, như cầu mong cái hình hài ấy thức dậy, chuyên chở cho mình về lại kiếp người, để gặp mặt vợ con, thân nhân, bạn bè...

Chiến tranh đi nhanh và khốc liệt quá, nhiều khi mình không kịp nhận thức cả tuổi xuân của tụi mình. Tôi nhìn ảnh Tuấn Phi ngày đó trẻ quá, anh Phong chết khi tuổi đời chắc cũng độ bằng anh dạo ấy, cũng cấp bực Thiếu Úy, Phong học Trung học Võ Trường Toản SG, trường sát ngay bên cạnh Trưng Vương, rồi học năm thứ nhất ban Khoa Học, thi rớt, động viên vào Thủ Đức năm 1968. Về binh chủng Nhẩy Dù, đi hành quân liên miên, thường vắng nhà đến nỗi, sau khi anh chết đi, gia đình anh em xót thương nhưng không cảm thấy trống vắng. Đó là sự thiệt thòi của những người lính ngoài mặt trận, họ vắng mặt nơi mái ấm gia đình quá nhiều nên người thân cũng quen dần đi. Đâu đó, trong tâm tưởng vẫn còn lẫn lộn, chừng như các anh đi hành quân chưa về !!!

Anh Phi ơi, Phong chết tôi không được thấy mặt, nên tôi sống trong hoài nghi, đau khổ chập chờn, tôi hy vọng một tối nào đó, có tiếng chuông reo cửa của anh về, tôi hy vọng anh lạc trong rừng như chuyện kể của những người lính tìm về đơn vị sau chiến trận Hạ Lào, sau khi đơn vị đã báo tin chết không tìm thấy xác.

Tôi hy vọng ác đức và ích kỷ là xác ấy không phải của anh Phong mà là của một người nào đó. Tôi chờ đợi mãi, ngày tháng nguội dần rồi chợt bùng lên như ngún lửa mong manh sau hiệp định ngưng bắn 1973, trao trả tù binh đôi bên. Tôi mua báo đọc hàng ngày với một hy vọng nhiệm mầu, có tên Dương Thuyết Phong trong danh sách trao trả tù binh. Ngày qua ngày, tháng qua tháng tiếp nối, và bãng danh sách cứ ngắn dần rồi chấm dứt trong vô vọng.

Nỗi trông đợi không tưỡng ấy như tôi tự đánh lừa chính tôi. Phong ơi ! dù bạn bè và gia đình xác nhận là anh đã chết nhưng em vẫn chờ đợi, mỗi một mùi hương, một bài hát là một kỷ niệm nhớ thương. Anh hiền lắm, tụi mình chẵng mấy khi giận nhau, có đôi khi cãi nhau vu vơ, rồi em lại nghĩ.......ngày phép chẳng có là bao, giận hờn làm chi rồi kẻ ở nhà hối hận, người ra đi cũng chùng bước, hoang mang, Hùng Phi cứ nói giỡn với em ...." Anh trở về viên đạn đồng đen, em sang sông cho làm kỷ niệm ".., em có làm gì cho nó giận không, mà anh cứ thấy nó hát hoài câu ấy, nghe rét quá. Bạn bè trong TĐ7, cấp Th/u, Tr/u đều biết chuyện. Có lần gần ngày thi Tú Tài 2, em " cúp cua " nhiều quá, nên bài vỡ ứ đọng. Dạo đó, TĐ về Saigon, đóng quân ở Tao Đàn, em phải nhờ anh giúp, hôm sau đến tìm anh Phong, chú lính cười cười " Thiếu úy mới chép bài cho cô xong rồi, chắc ổng đi uống café bên quán, cô ngồi đợi một chút ". Sau khi anh chết, mỗi lần nhìn lại tranh vỡ với bút tích của anh, em không thể nào cầm được nước mắt, nước mắt nhạt nhoà rơi xuống tranh giấy, trong bóng đêm, em ngậm ngùi mong hư ảnh anh về, chiếc áo anh mặc cuối cùng, em vẫn còn giữ, mùi hương vẫn còn đây nhưng hình hài đã vùi lấp nơi miền gió cát thê lương. Em không hiểu là anh có biết mình bị thương hay cái chết đến quá bén ngọt đến nỗi anh chưa kịp nhận thức ra thì đã từ giã cõi đời. Em mong một lần nào cho em gặp anh để được hỏi : anh chết thật rồi sao ? Em không tin là anh đã xa em .........thật xa như vậy.

Em đi học, những giờ học trở thành buồn tênh, vô nghĩa, em không còn nỗi náo nức nhìn đồng hồ mong cho sớm hết giờ, em tủi thân khi trên đường nhìn thấy áo hoa, nón đỏ đâu đó. Em có gặo Chuẩn úy Đàm đứng bâng khuâng nơi đường Lê Lợi, một cánh tay băng vải trắng quàng vai, khuôn mặt ngỡ ngàng của người lính trẻ về thành phố sau cuộc thử lửa 72 kinh hoàng. Saigon sống vội, sống cuồng, nhức nhối với tin chiến trận hàng ngày đưa về hậu phương..." Hỡi người chiến sĩ đã để lại chiếc nón sắt bên bờ lau sậy nầy "...Không, anh Phong là người bằng xương, bằng thịt của em, không phải là ảo ảnh của một người tình không chân dung !!!Em không nghĩ là em đã mất anh trên cõi đời nầy.

Em trông đợi anh về hằng đêm, em nghe đâu đây tiếng đàn của anh, nơi chổ đóng quân vườn Tao Đàn, em nghe mơ hồ bên tai lời anh hát....." Người ơi, chiều nao có thu về cho tôi nhặt lá thu rơi. Tình có ghi lên đôi môi, sầu có phai nhoà cuộc đời..." Và em vĩnh viễn thương tiếc......" Những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ, dù đã quên lời hẹn hò....Thời hoàng kim xa quá chìm trong phôi pha. Chờ đến bao giờ tái sinh cho người........" Vâng, em chờ, chờ đến bao giờ tái sinh lại cho em một tuổi thanh xuân không ngớt lệ vì cuộc chia tay quá nghiệt ngã của hai đứa mình.

Anh Tuấn Phi thân mến, những kỷ niệm bao năm ấp ủ, sầu không nguôi, tình không quên, tóc xanh đã phai mầu với thời gian, nước mắt vẫn không ngừng rơi khi nhắc đến chuyện của anh, một người trai đã làm tròn bổn phận với núi sông nhưng lại lỗi hẹn với người tình. Tôi đã đi hết hai phần ba của đoạn đường trần, tôi vẫn còn hoài nghi thắc mắc, có phải chết là hết không ??? Sao anh Phong không một lần hiện về trong mơ với hình hài tan vỡ vì mãnh đạn hận thù, để chứng minh với tôi thật sự là anh đã chết, để tôi yên tâm sống những ngày cuối đời không ray rứt và chờ gặp lại nhau , nối lại dòng đời của tuổi hai mươi.

Hoài niệm về những cánh Dù không về đến điểm hẹn.


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/135824-DD-NhayDu-400.jpg


Em tiếp tục đi học trường tư, làm thư ký hạng bét cho Ngân hàng Đông Phương. Thi đậu Tú tài 2 và em lấy chồng không cưới hỏi, với một chàng Thiếu Úy Nhẩy Dù, sống hùng, sống mạnh....mà không có sống lâu.Chàng tên là Dương Thuyết Phong, gia đình Công giáo, đạo gốc, gia đình có người làm Linh Mục nên quan niệm rất cổ và gia giáo. Ra trường Thủ Đức, Phong chọn ngay binh chủng Nhẩy Dù, rồi Tiểu Đoàn 7, để xa nhà và sống theo ý mình.

Tụi em vừa gặp lại nhau ( vì Phong là bạn của anh ruột em ), rồi lấy nhau chỉ được 11 tháng. Phong tử trận ngày 29 tháng 11 năm 1971, tại chiến trường Campuchea khi tuổi đời vừa được 24, còn em - nửa đàn bà, nửa nữ sinh - mới vừa 19. Em không được đến nhà nhìn mật Phong lần cuối, em nhờ Mỹ và Tuệ Tâm, là hai chứng nhân của cuộc đời em, mang hộ vòng hoa đến viếng tang, chỉ vỏn vẹn hai chữ" Thương Tiếc " trên băng vải tím buồn.

Em nhớ lá thư cuối cùng Phong viết về cho em.." thầy bói nói là anh không có số xuất ngoại, vậy là sai rồi...Anh đã xuất ngoại, không những vậy, mà còn theo cả em nữa, đó là tấm ảnh của em lúc nào anh cũng để nơi túi áo ngực....." Đâu có thể ngờ rằng anh đã đi vỉnh viễn không về nữa. Kỷ vật cho em là một tấm thẻ bài và hai bức ảnh của em, loang máu của anh vào mặt sau, mặc dù bạn anh là Trung úy Võ Hùng Phi, đạ cố gắng phơi khô nhưng vẫn không hết mùi tanh của máu.

Ngày đưa anh về lòng đất, em đi lặng lẽ như bao người khác. Bạn bè anh, những người lính mà em cùng sống trong trại gia binh nơi Tam Hiệp, họ không có mặt vì họ còn miệt mài hành quân nơi sình lầy, đất ruộng của xứ Campuchea xa lạ, chỉ có hai người bạn của anh khi còn đi học là biết chuyện chúng mình. Đám tang xong, mọi người đi về hết, em đứng lại một mình, ngẩn ngơ với cây thánh giá gỗ chơ vơ. Như vậy là anh chết thật rồi sao Phong ??? Tại sao anh chết ??? Em và anh, chẳng ai nghĩ có ngày hai đứa phải xa nhau oan nghiệt như thế nầy. Vậy mà hôm nay, anh lại là kẻ đào nhiệm vỉnh viễn, khi cuộc hành trình của em và anh chỉ mới ở bước khởi đầu. Tại sao mảnh áo đài trang của người nữ sinh bỗng chốc trở thành mầu áo tang bay phất phới nơi đồi trọc, với hàng hàng, lớp lớp tuổi trẻ trong khoảnh khắc bỗng ngưng đời.???

Lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ quan tài anh, giờ che nắng cho khối đất vô tri, ấp ủ hình hài của chàng trai hiền lành nhưng không ngoan đạo. Anh nằm đó, bên cạnh người lính truyền tin, cùng chết với anh bởi quả đạn pháo kích. Anh nằm xuống, nước ruộng bùn của Campuchea phủ ngập người anh, Trung úy Phi chạy đến, xốc anh lên......." miệng nó còn cười như đang nói chuyện với ai, tối hôm qua, nơi chỗ dừng quân, nằm tờng ten trên võng, tôi còn hỏi nó, mày có thấy lạnh cẳng không Phong ?..Bàn tay vỗ lên ngực áo, nó trả lời..tao có bé Hằng đây, đâu thấy lạnh lẽo gì...."

Anh chết như đi vào giấc ngũ của trẻ nằm nôi. Anh giờ đã yên phận anh, còn em thì sao ? người ở lại biết làm gì cho qua hết những buổi sáng chờ thư từ mặt trận........11 tháng làm người yêu lính, em chẳng có được mấy ngày vui...Dăm bẩy buổi ciné, chạy trốn giả tạo vào đất trời phương Tây bình yên và tự do, một vài lần đi nghe nhạc.....Trả lại em yêu con đường học trò.....với nhiều luyến tiếc, những quán café thịnh hành với lời nhạc......Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt không quen...Không, ta đã không còn được nhìn nhau nữa. Số phận đã chia anh và em, mỗi người một nơi, người đi về với lòng đất vô thức, kẻ ở lại với quay quắt, nhớ thương từng kỷ niệm của tháng ngày đã qua.

Em không còn nước mắt để khóc cho anh, em không còn nước mắt để khóc cho em, người con gái nhẹ dạ của thời chiến tranh.Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi...Xưa nay, chiến trận có mấy ai về, Phong ơi ! Đứng bên mộ anh, em không được vật vả khóc như những người vợ tử sỉ khác, em không được khóc ngã quỵ với thân nhân dìu đỡ hai bên. Em một mình can đảm, khóc ngậm ngùi cho sự chia tay ngắn ngủi của chúng mình, em ngước mặt nhìn trời, dấu lệ với mọi người, em oán ai bây giờ. Trời cao rất cao, trời xanh rất xanh, nơi khoãng trời trong xanh ấy, có thấy chăng một cánh Dù bay mãi không về điểm hẹn Delta, bỏ lại nơi đây, cuộc tình dang dở của mình em. Những mong được làm lại cuộc đời, chỉ xin một cuộc đời tầm thường của người vợ lính, như bao người khác mà trời chẳng thuận cho.

Liên tiếp ba năm, để làm tròn một lời hứa, mỗi tuần thứ bẩy, em một mình đem hoa lên nghĩa trang Quân Đội, thắp hương cho anh, nhổ cỏ dại quanh mồ. Đôi khi, em chập chờn với ý nghĩ, mình đến đây để làm gì ? Em tiếc thương anh hay em tội nghiệp em còn lại bơ vơ, những ngày tháng chẳng biết làm gì, hay là em " kên " đời, thách thức với gia đình anh đã không chấp nhận em ?

Có lúc em lên thăm mộ, gặp gia đình anh cũng lên thăm. Em phải tránh mặt, ngồi xa xa nhờ nơi mộ người khác. Người sống còn có thể đứng trú mưa nhà người lạ, kẻ chết rồi có còn gì đâu, vậy mà em vẫn phải tránh mặt nơi ngôi mộ một người không quen......

Những ngôi mộ mới vẫn tiếp nối nhau, không phân biệt quan, lính. Những lá cờ Vị Quốc Vong Thân rồi cũng dãi dầu với năng mưa, ngày tháng. Và em, vẫn một mình lầm lũi đi cho hết đoạn đường trần.


Nguyệt Hằng

Hương-Trầm
02-13-2012, 11:28 AM
Kính chào anh Cao-Nguyên,
Thật vui mừng và cảm-động khi đọc được những bài cùng hình-ảnh về quân-đội oai-hùng của chúng ta trước kia! Lòng yêu nước không dành riêng cho ai, vì vậy cho phép Trầm nói lời ngưỡng-mộ dù rằng cái nhìn của Trầm chỉ quanh-quẩn xó bếp, sân nhà.
Quân-đội chúng ta oai-hùng, can-đảm, thiện-chiến như vậy mà rồi cũng đành bó gối quy-hàng kẻ thù không xứng gọi là đối thủ. Sự oán-hận, đau-thương không những cho người sống, mà còn cho bao anh-linh anh-hùng, tử-sĩ vị quốc vong thân.
Những bạn của Trầm bảo là "vận nước nó như thế". Như vậy có nghĩa là công-lao của tiền-nhân đã trôi sông, trôi biển hết rồi!?
Lời viết lúc xúc-động nếu có lỗi xin anh vui-lòng bỏ qua.
Kính,

H.Trầm

cao nguyên
02-14-2012, 05:50 AM
http://img294.imageshack.us/img294/9243/tiecthuongtr5.jpg

giọt lệ hồng

" chợt nghe từ đá hồn thương tích
vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa "
(Thanh Nam)

đã có bao lần
em thấy
giọt lệ hồng
rơi!

đã có bao lần
em hiểu
vì sao
giọt lệ - hồng?

những giọt lệ pha máu
từ tim
chảy xuyên qua mắt
buốt đau theo giòng chảy
cay đắng suốt trăm năm

đã có bao lần
em biết
tại sao có giọt lệ hồng?

nó kết tụ bởi máu và nước mắt
từ những cái chết
vì muốn bảo vệ quê hương và đồng loại
vì muốn đối kháng với những quyền lực quỷ ám
vì muốn giữ lại lương tri trong nghiệt cay thù hận


em hiểu
tại sao hôm nay
anh bị chấn động
viết những dòng
không thường hằng có trong anh
bởi chỉ vì
hôm nay
anh muốn viết
về một thời đã qua
đầy nước mắt và máu
của bạn mình
chết bởi
một viên đạn
một liều thuốc độc
một dây treo cổ
....
giọt lệ hồng
đang chảy trong anh
và chung quanh anh

*

có thể anh sẽ viết cho em
hiểu thêm những điều gì đó
về những giọt lệ hồng
trong tháng Tư đen và trước nữa
mà cũng có thể là không
vì anh sợ mình không vượt khỏi
những lần tim chảy máu
những giọt lệ hồng
mãi chảy
trong anh
trong đời bạn bè anh
trong giòng sống
trong giòng chết

giọt lệ hồng không ngưng tụ
trong đá sỏi
trong giá băng
trong câm lặng
mà chảy xuyên suốt qua mọi rào cản
của vô tri

bất giác
anh đang cảm thấy
lòng mình thổn thức
bên cạnh những ngôi mộ
chôn trong ký ức
từng dãy
từng hàng
xác của bạn anh
những người ruột thịt của anh
họ đã đứt ruột ra đi
họ đã chia thịt cho xứ sở
và máu họ trộn vào
không gian mưa lũ
đỏ au!

Em ơi
có thể đây là bài thơ tự do hay nhất
mà anh viết
có thể đây là một đoạn
trong bài điếu văn anh gởi cho bạn bè
cho những Cha, Chú, Anh, Em
đã nằm xuống
vì những chữ Tự Do, Bác Ái, Nhân Quyền

Bài viết hôm nay
em nhớ
không nặng lòng thù hận
mà nặng nỗi tiếc thương
những người đã hy sinh
cho quê hương
và gởi lời cảm xúc
đến những con tim
đang chảy
giọt lệ hồng

em cũng nhớ
không có sự bi thảm
vì người anh hùng không chết
cho những cưu mang lừa dối
và lòng thương hại


và em nên nhớ
sự ra đi
chững chạc và dứt khóat
của những con người
có trái tim chân chính
xuyên qua
những giọt lệ hồng.


Cao Nguyên

h (http://www.box.com/shared/xhreda8z1xch89jvykdq)
giọt lệ hồng
thơ Cao Nguyên . diễn đọc Dzuylynh

ttp://www.box.com/s...a8z1xch89jvykdq (http://www.box.com/shared/xhreda8z1xch89jvykdq)

Vịnh Nghi
02-14-2012, 09:30 AM
Ngày ở Charlie , phi đoàn trực thăng Thần Tượng cũng có mấy chiếc ....bỏ đường bay , một chiếc bốc khói ngay trên đầu tôi, tôi chỉ thấy khói đen ở phần đuôi bay vòng tròn từ từ rơi xuống , thấp dần...thấp dần... đến lúc xuống gần ngọn cây vẫn không có ai nhẩy ra , cuối cùng một khối lửa bùng lên ....sau này tôi hỏi pilot , sao không phóng ra thì được giải thích là độ rơi của máy bay nhanh hơn của người , nhẩy ra là bị cánh quạt chém

Bác Hoài Vọng, ba Nghi kể, có 1 lần ba Nghi bị rớt máy bay ở Quãng Tín (hay Quãng Ngãi chi đó) nhưng may mắn thoát chết, rờn rợn ở chỗ là chú của Nghi, năm sau đó, cũng bị rớt máy bay gần như cùng 1 nơi, lại trùng ngày trùng tháng đó, chỉ khác năm...và cũng may mắn thoát chết. Và cả hai người đều không nhảy thoát ra máy bay kịp. :)

cao nguyên
02-14-2012, 02:17 PM
http://img225.imageshack.us/img225/2202/thangbagaysung.jpg


TỰA

Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.

Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.

Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.

Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ đoàn phó bỏ lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.

Làm thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái "Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé". Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.

Ðiều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung "lớn lỗi lớn, bé lỗi bé" đúng theo cái kiểu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.

Tôi không nhớ câu này của ai: "Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi".

Ðâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.

Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.

Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súngcho quyển sách này là như vậy.

Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.

Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...", trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.

Cao Xuân Huy

° ° °

Xem hồi ký THÁNG BA GÃY SÚNG của Cao Xuân Huy
http://vietmessenger...=thangbagaysung
(http://vietmessenger.com/books/?title=thangbagaysung)Hoặc ở đây:
http://vnthuquan.net...q83a3q3m3237nvn (http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nmn3nqn31n343tq83a3q3 m3237nvn)

cao nguyên
02-15-2012, 08:04 PM
http://ecx.images-amazon.com/images/I/51TFGETBWVL._SS500_.jpg


đối diện

“Mỗi con người bắt buộc phải một lần đối diện”
Đó là câu kết của của Ấu Tím viết về “Cao Xuân Huy – vài mẫu chuyện” đăng trên tạp chí Nguồn số 51/Xuân Tân Mão 2011.
Những mẫu chuyện đời, không riêng của Cao Xuân Huy mà có cả những người trong truyện nghe kể chuyện về mình. Bởi họ cùng một thời trước và sau “Tháng Ba Gãy Súng” . Nên mỗi trang giấy lật qua, nghe có tiếng gào của thép vỡ, nghe cả hơi thở cuối của bạn mình. Mới thấp thoáng đó mà đã xa hút hơn ba mươi năm. Niềm đau không chịu biệt tàn, vẫn lởn vởn xoay tròn trước mặt .

như vừa mới ngã mũ chào
mà phơ phất bóng chiến bào tầm xa
ngựa dòn gõ vó bôn qua
bụi hồng sương quyện khói nhòa mắt cay

Người đi buồn rạn chân mây
nhạc tình giao phối Chương Đài phù vân
nghiệp duyên quá cuộc hồng trần
kiếm cung biệt diện tần ngần sử thi

rượu còn sóng sánh ngang ly
mà Người đã khuất hương nghi ngút mờ
đành ta rót rượu vào thơ
mở đêm giao thức ngồi chờ đối âm!
(giao thức / cn)


Mỗi câu chuyện của Cao Xuân Huy làm sống lại từng đoạn đời của một thời bão lửa, kể cả lúc mình đứng giữa ngục tù hoặc sống kiếp lưu vong. Ai đó bảo hoài niệm chi những tang thương! Không, với chúng tôi, đó là những hoài niệm đẹp, sau tang thương còn sinh động và sáng chói tình người, tình đồng đội trong cuộc dấn thân vì Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm.
Chúng tôi đã gãy súng, nhưng Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm vẫn còn. Không còn súng, chúng tôi chiến đấu bằng cây bút với chút tâm huyết còn sót lại. Để còn xứng đáng được con cháu gọi tên mỗi khi nhắc chuyện sơn hà. Bởi chữ nghĩa cũng có sức mạnh xuyên phá những tư duy bẩn chật, những thù hận cực đoan chủ nghĩa, những khối óc vong bản, những hoang tưởng lợi danh … Đã ăn gian, trục lợi cả mồ hôi, nước mắt và xương máu của chiến hữu và đồng đội của mình.
Tất cả người kể và người nghe chuyện đang ngắm lại mình đã đi qua hành trình giữ nước, có thương yêu cười rạng rỡ, có vụn vỡ khóc lệ nhòa ! Hiện cảnh ngỡ đã xa mà chuyện kể bày ra trước mặt buồn đến nao lòng .
Có buồn mà sảng khoái, thế mới lạ. Cái sảng khoái là còn được ngồi bên nhau với bạn cùng thời, cùng tâm chí mà kể chuyện bất kể ngoại nhân nhìn những tửu sĩ vỗ bàn Đ.M … đời, sau khi ực trọn một cốc rượu cay.
Trong cơn chếnh choáng thế thời, tửu sĩ vỗ bàn như vỗ đỉnh càn khôn để nghe tiếng khua hổ lốn của trần ai về nỗi nhục vinh rớt vào hố thẳm. Giữa mỗi quãng lặng yên, tửu sĩ thèm uống rượu Hồ Trường, xem chinh nhân mài kiếm dưới trăng.
Ôi! Ta muốn nhập cuộc quá chừng, để uống cạn cùng bạn những giọt tri âm, rồi chen lời cuồng ca:
ca ư!
hề! khúc cổ sầu
lợi danh hư ảnh, công hầu huyễn mơ

cuồng ư!
hề! vọng nguyệt lầu
thuyền quyên chạm bóng, lòng đau tử thành

tình ư!
quan họ giang đầu
trù ca vỡ phím, bạc câu giao hoàn

đời ư!
hông thủy càn khôn
mồ hôi thắm máu quyện chung lệ hồng
(cuồng ca / cn)

Bạn ngó ta, chạm mắt xuyên đêm. Ta khều mặt trời hóa rượu để đáp lễ tri giao.



rót tràn đêm, rượu mặt trời
uống đi người hỡi một đời mấy khi
say quên mặt đã lầm lì
biết ta chưng hửng đã đi vào đời

uống đi, say nhé người ơi
giữa ta có ánh mặt trời xuyên tâm
nóng ran như vết đạn găm
tim đau nhói ngược, bạn trăm năm rồi!
(rượu mặt trời / cn)


Ơi những người bao năm cũ, hồn ở đâu cả rồi! Phải chăng như lời sử thi “hồn tử sĩ gió ào ào thổi” khi hình tượng người chiến sĩ bị thù hận và đố kỵ đánh gục trên chiếc bệ tôn vinh nơi nghĩa trang quân đội ?
Súng gãy, hinh tượng gãy chỉ là bề mặt của sử thi. Còn sự gãy vỡ của tâm thân đồng đội đang sống lưu đày giữa quê nhà, hay nơi cõi lưu vong đã vực ta đứng dậy vung bút đâm vào mọi ngụy trá của thế gian, bởi:

ta muốn ngắm nét chữ ngời bia đá
những di thư viết bởi mực sơn hà!
..
ta muốn nghe trong điệu kèn ly biệt
có niềm tin mãnh lệt cuộc hồi sinh!
(lộng bút / cn)

Dẫu chiến bào đã cháy, súng đã gãy, khi còn cây bút trong tay, ta vẫn vỗ ngực tự hào nói với bọn ngụy trá rằng: đời nhờ có bọn ta không gian mới hừng hực sáng ánh thép khua trăng, rượu mặt trời pha lệ đỏ. Nhờ có bọn ta khinh miệt lũ vong ân mà chúng tìm trong thù hận học được lời sỉ vả những kẻ tự bứt tim mình hiến dâng cho Tổ Quốc ! Chẳng tin ư ? Kẻ vong ân cứ nhập vào đoàn lữ hành du ca hát bài “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” để thấy nỗi thẹn mình lớn biết chừng nào .
Này hát đi:

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng ngày qua , cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang

Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam , triệu con tim này còn triệu khôi kiêu hùng
(Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ / Nguyễn Đức Quang)


Từ thuở nọ đến nay ta vẫn là người hàn sĩ, nhưng rượu vẫn lưng bầu chờ đãi bạn, vắt cạn giọt sầu, kháo chuyện trầm thăng. Ta cũng kẻ mặc ngôn, nhưng chữ nghĩa vẫn còn hưng phấn, chạm nhẹ vào tâm ý tri âm là thoát bay vào cõi bềnh bồng non nước. Thời nay, vãi chữ lên trời cũng là một lạc thú, được dàn trải tâm tư vào vũ trụ đời. Mặc kẻ ngắm thuận lòng bảo lời chí phải, hay người xem phật ý phán nghĩa ngạo cuồng . Chỉ vì ta cũng muốn chữ ta “như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn”!
Mỗi con người bắt buộc một lần đối diện. Một định đề thật hay. Đối diện với chính mình hay đối diện với sự chết mà dửng dưng, cũng khó như kẻ sĩ đối diện với bạo quyền mặt không biến sắc. Phải không trân trọng quá về mình, mới thấy đời nhẹ như lông hồng phất phới bay theo cơn gió vào vô định. Bởi nó là vật thể của ảo ảnh, như cuộc đời của phù du, như chinh nhân đã quên cái ta giữa hiện hữu thiêng liêng của núi sông cưu mang hồn dân tộc.Ta đang đứng trong lũng chiều vàng quan ngoại, thỉnh thoảng thấy một chiếc lông hồng quen thuộc bay qua - mà lẽ ra nó đã bay trên miền quan nội từ mùa hè đỏ lửa hay từ mùa xuân hồng thủy – Nhờ có kiếp lưu vong mà đèo bồng thêm mấy độ xuân thì. Nên bay muộn hơn giữa trời mặc tích!
Chiếc lông hồng Cao Xuân Huy vừa bay qua, chiếc lông hồng Nguyễn Đức Quang vừa qua cũng chớm bay. Nhẹ hều thân đời, nhẹ hều danh lợi. Cái chớp mắt nhìn chính mình bay thoát qua khung cửa hẹp cuộc đời vào cõi vô hằng đẹp vô cùng. Giữa chập chùng sương khói, thấy lòng ưu ái của bạn bè còn nấn ná trong quán gió, uống rượu thấm lời chuyện kể . Ngẫu hứng nâng đàn hát khúc tâm ca, là hạnh phúc vô tận của tình người.
Hôm nay ta thèm hát vang vang dưới ánh mặt trời như hồi đó ta thèm thét lên trong bóng tối ngục tù gọi đời tự do, gọi tình thân ái. Ta cũng thèm kể cho con ta nghe mẫu chuyện về mẹ nó vượt ngàn dặm xa chập chùng sông núi vỡ giữa mùa đông rét buốt để thăm chồng bị giam cầm giữa núi rừng Việt Bắc .
gồng gánh gian nan qua cầu tủi nhục
gọi tên Chồng, xé giữa ngực lời đau
giọt nước mắt đang rơi mà chảy ngược
uống cạn lời thổn thức giữa tim nhau!

nhớ Đông xưa, lòng anh buồn ray rức
nhìn chân em xuyên suốt nỗi cơ hàn
bàn chân bám đời đau cùng với đất
da tím bầm chưa hở một lời than!

em mải miết đi, chẳng cần nhìn lại
vì Chồng, Con - Thế gới bỗng nhiệm mầu
thuở yêu anh, em uống lời bùa ngãi
nhủ đời vui, mặc khải chữ cơ cầu!
(nhớ đông xưa / cn)

Góp chuyện ta, chuyện người hỏa táng, tàn tro bay lãng đãng chuyện tử sinh.
Mốt mai ta cũng nhìn ta bay khi phải đối diện một lần cuối phận người, mỉm cười nhìn chiếc lông hồng biệt thế.
Ta tự rót cho mình cốc rượu từ bầu rượu chưa vơi, ngồi độc ẩm. Tiếc là không có bạn ngồi bên để vỗ bàn Đ.M…đời nghe sảng khoái. Đành nhịp trên phím chữ gõ thêm một trầm khúc vãi lên trời .
Cám ơn Ấu Tím, đã mớm nghĩa cho chữ ta bật dậy như cây cỏ cám ơn vạt nắng xuân khơi mầm cây trỗ mùa xanh.

Cao Nguyên
MD - Mar 01, 2011

hoài vọng
02-16-2012, 12:37 AM
Anh Cao Nguyên , đọc xong Tháng Ba Gẫy Súng , tôi thấy mình cũng không đau xót bằng TQLC

cao nguyên
02-16-2012, 06:40 AM
Những ngày cuối cùng 30-4-1975



http://www.youtube.com/watch?v=LjFpFR-qHoY&amp;feature=related





Bản Tin Tức Cuối Cùng Của Đài Phát Thanh Sàigòn Tháng 4-1975





http://www.youtube.com/watch?v=yLBXLkaDDRk&amp;feature=related

cao nguyên
02-18-2012, 06:23 AM
Người Tiểu Đoàn trưởng cuối cùng của TĐ1 Quái Điểu TQLC/VNCH

http://img223.imageshack.us/img223/6650/logotqlc.jpghttp://img4.imageshack.us/img4/3922/tqlcsdcopygiftrans.gif




9 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, TÐ/TQLC di chuyển bộ từ Long Bình về hậu cứ tiểu đoàn nằm trong căn cứ Sóng Thần. Ðứng trước cổng trại Phạm Khắc Dật, Thiếu Tá Dương Văn Hưng ra lệnh cho tôi (Tr/U Châu) tái trang bị các Ðại Ðội. Quay sang Ð/U Bùi Bồn, TÐP, ông nói: - Anh cho bố trí con cái thật cẩn thận, đây là vị trí sống chết cuối cùng của chúng ta.
Bộ chỉ huy hành quân tạm đặt phía sau văn phòng tiểu đoàn hậu cứ. Trong lúc ông đang ra lệng cho Trưởng ban 3 lo bố trí hầm hố cho BCH/TÐ, thì điện thoại ở cổng chính gọi vào báo có một đơn vị Bộ Binh do một Trung Tá chỉ huy đang đứng ngoài cổng, ông Tr/Tá muốn xin gặp TT/TÐT. Tôi trình Th/Tá Hưng, ông nói:
- Anh ra mời và hướng dẫn Tr/Tá vào gặp tôi.
Gặp ông, ông tự giới thiệu:
- Tôi là TÐT Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân này.
Nhìn đơn vị của ông thật là nghiêm chỉnh và trật tự. Trên cánh tay phải mỗi quân nhân đều mang miếng vải màu vàng. Họ đang đúng hút thuốc, nói chuyện cười đùa vui vẻ với những người lính TÐ1/TQLC. Tôi mời ông theo tôi gặp Th/Tá Hưng (rất tiếc vì thời gian tiếp xúc quá ngắn ngủi nên tôi không nhớ tên và đơn vị của ông ta).
Tại BCH/TÐ, vị Tr/Tá BB cho Th/Tá Hưng biết đơn vị của ông đóng tại Củ Chi. Sau khi Củ Chi thất thủ, ông đưa TÐ về căn cứ Sóng Thần và đến thẳng TÐ1/TQLC. Ông xin Th/Tá Hưng cho ông hợp tác để cùng chiến đấu. Th/Tá Hưng đồng ý lời đề nghị này. Sau đó hai ông bàn thảo kế hoạch. Doanh trại TÐ1 đã trở thành căn cứ cuối cùng của hai đơn vị BB và TQLC vào ngày 30/4/75.


10 giờ 30, lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được phát ra từ đài phát thanh Sài-Gòn làm tất cả mọi người bàng hoàng sững sốt. Trong căn phòng dùng làm BCH/HQ hoàn toàn không một tiếng động. Thế là hết! Chúng ta không còn gì nữa cả!!!
Ð/U Bùi Bồn từ bên ngoài bước vào, với vọng nói sang sảng của anh đã phá tan sự ngột ngạt của căn phòng. Anh mời hai vị TÐT cùng tất cả Sĩ Quan BCH tiểu đoàn ra nhà anh kiếm chút gì để uống và chờ xem tình hình sẽ ra sao! Th/Tá Hưng chẳng nói tiếng nào, ông đúng lên cùng vị Tr/Tá BB ra xe, chúng tôi cùng đi theo ông. Nhà của Ð/U Bùi Bồn nằm cạnh cổng sau căn cứ Sóng Thần, kế bên là nhà của Thượng Sĩ 1 Rít, trưởng ban quân lương TÐ và đối diện là quán nhậu của Thương Sĩ Tuân, trung tâm huấn luyện.
Th/T Hưng ngừng xe trước nhà Ð/U Bồn, nhưng khi bước xuống ông lại đi vào nhà T/S 1 Rít vì trước sân nhà anh Rít đã có sẵn một cái bàn lớn. T/S 1 Rít mang ra 2 chai whisky mời chúng tôi. Mọi người ngồi uống, hút thuốc nhưng chẳng ai nói lời nào. Tôi không biết Th/Tá Hưng đang nghĩ gì? Vị Tr/Tá BB và mọi người đang nghĩ gì trong đầu họ? Riêng tôi chẳng nghĩ gì cả, đầu óc tôi trống rỗng. Sự việc xãy ra quá bất ngờ, quá đột ngột, đã làm tôi không còn gì để nghĩ.


Trong lúc mọi người đang im lặng, cái im lặng thật nặng nề khó chịu! Bỗng nổi lên những tiếng hò hét, kêu gọi nhau hòa với những bước chân chạy rầm rập, gây nên cảnh thật náo loạn tại cổng sau căn cứ. Chúng tôi thấy khoảng trên 100 người ở trần, mặc quần xà lỏn, đi chân đất đang chạy về hướng chúng tôi. Thật sự lúc bấy giờ, tôi không nghĩ họ là những người lính. Vâng! vì tôi chưa một lần gặp hoặc nhìn thấy cảnh này bao giờ. Th/Tá Hưng đứng bật dậy như chiếc lò xo, ông với tay cầm khẩu XM16 bên cạnh, lên đạn và chạy thẳng ra đường. Phản xạ tự nhiên, chúng tôi cũng đứng bật dậy và chạy theo ông. Tôi chẳng hiểu việc gì xảy ra. Với nét mặt giận dữ, ông hét lớn:
- Ðứng lại
Khẩu XM16 trên tay, ông chỉa thẳng vào toán người đó, nói như hét với họ.
- Làm gì phải cởi quần áo như vậy? Không biết nhục hả?
Tất cả đám người đó đều im lặng, không ai dám trả lời và cũng chẳng ai dám nhúc nhích. Họ nhìn ông, rồi nhìn chúng tôi. Sự sợ hãi của họ cũng giảm đi phần nào khi nhìn thấy TT Hưng và toàn thể SQ TÐ1/TQLC vẫn mặc quân phục và mang vũ khí. Th/Tá Hưng ra lệnh cho họ quay trở vào căn cứ và mặc lại quân phục. Ông nói:
- Nếu tôi còn thấy một người nào ở trần đi ngang qua đây, tôi sẽ bắn ngay.
Toán người đó răm rấp tuân lệnh quay trở về căn cứ. Sau đó, tôi chỉ thấy một số ít anh em mặc quân phục trở ra đường cũ, còn đa số tìm đường khác cho an toàn hơn.
Hành động vừa rồi của Th/Tá Hưng đã làm cho những người dân xã Tam Bình lo sợ giùm cho ông, nhưng tôi biết chắc một điều là họ rất kính phục ông. Ðồng thời cũng nhắc chúng tôi nhớ tới Danh Dự của người lính, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn. Ðiều thứ nhất trong 7 Ðiều Giáo Lệnh của QLVNCH mà tất cả chúng ta phải học khi mới bước chân vào quân trường là: Luôn luôn nêu cao DANH DỰ của Quân Ðội. Hy sinh vì DÂN TỘC, TRUNG THÀNH với TỔ QUỐC.


Gần 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4/75, một chiếc xe Jeep mui trần của TQLC chạy từ căn cứ Sóng Thần ra ngừng ngay trước chỗ chúng tôi đang ngồi, bước xuống xe là một tên thượng uý vc, hắn mặc bộ đồ màu nâu còn mới tinh, bộ quần áo hơi rộng so với hắn, do đó hắn phải xăn hai ống quần lên tận mắc cá và đi chân đất. Th/Tá Hưng, vị Tr/Tá BB và Ð/U Bùi Bồn bước ra gặp hắn. Hắn tự giới thiệu:
- Tôi thượng uý...(tôi không nhớ tên, nhưng chắc Ð/U Bồn nhớ rất kỹ, vì sau này chính hắn đã chiếm căn nhà của Ð/U Bồn).
Th/Tá Hưng cũng tự giới thiệu:
- Tôi là Th/Tá Hưng, TÐT/TÐ1/TQLC.
Tên vc nói:
- Thôi bây giờ tôi gọi anh bằng anh đi, không gọi cấp bậc nữa được không?
Th/Tá Hưng:
- Bây gìờ anh muốn gọi tôi là gì cũng được, vì chúng tôi là kẻ chiến bại mà!
Hắn tiếp tục hỏi:
- Anh là người chỉ huy căn cứ này phải không?
- Không. Tôi chỉ là TÐT của một TÐ nằm trong căn cứ này thôi.
Hắn yêu cầu Th/Tá Hưng tập họp tất cả binh sĩ trong căn cứ lại.
- Không thể được, vì bây giờ tôi không còn quyền hạn gì nữa. Th/Tá Hưng đáp.
Sau một chút suy nghĩ, Th/Tá Hưng nói tiếp:
- Tuy nhiên tôi có thể dùng tình cảm để làm điều đó. Nhưng sau khi tập họp được họ rồi lấy gì tôi nuôi ăn họ? Anh có thể làm được không?
Tên vc im lặng không trả lời. Sau đó hắn lên xe trở vào căn cứ. Chuyện thật đau lòng và cũng thật là nhục nhã vì tên tài xế cho hắn lại là một ông chuẩn úy già TQLC. Một việc xãy ra trong lúc Th/Tá Hưng đang nói chuyện với tên vc. HS Phước, người mang máy truyền tin cho Ð/U Bồn, vừa khóc, vừa đâm bổ vào tên thượng úy. Th/Tá Hưng thấy vậy, ông vội la lên:
- Ð/U Bồn, anh giữ Phước lại và mang đi chỗ khác cho tôi.
Ð/U Bồn ôm anh lính truyền tin của mình và đưa ra xa. Vị Tr/Tá BB thấy HS Phước khóc và làm dữ quá, ông đi tới vỗ vai Phước và nói:
- Anh biết các em là những người lính có tinh thần cao, nhưng rất tiếc chúng ta không có người lãnh đạo đúng đắn. Anh rất phục các em.
Trở lại chỗ ngồi, Th/Tá Hưng khóc. Ông khóc vì uất hận, ông khóc vì ông đã không làm được những gì ông muốn. Ông khóc vì sự tan rã của QLVNCH. Hạ sĩ Phước tiến lại gần ông mếu máo:
- Ðại Bàng đừng đầu hàng tụi nó. Hãy ra lệnh cho tụi em đánh đi. Tụi em sẽ đánh tới cùng.


Những lời van nài thiết tha của người lính TQLC xin lệnh đánh đã làm mọi người có mặt hôm đó thật xúc động, không ngăn được nước mắt. Th/Tá Hưng không nói gì cả, ông chỉ đưa tay phẩy phẩy (ý muốn nói thôi anh đừng nói nữa. Anh đừng làm tôi điên tiết lên bây giờ). Ông quay sang nói với chúng tôi:
- Thôi bây giờ các anh người nào muốn về với gia đình thì về đi. Riêng tôi, tôi sẽ ở lại đây.
Ông nói với Th/S 1 Rít, ban quân lương TÐ:
- Anh còn giữ một số tiền gì đó, hãy mang ra phát cho mỗi người 50 ngàn đồng để họ làm lộ phí.
Sau khi mọi người nhận tiền, ông bắt tay từ giã vị Tr/Tá BB cùng tất cả sĩ quan tham mưu của ông. Mọi người đi hết rồi, giờ chỉ còn lại ông, Ð/U Bồn, Th/S 1 Rít và tôi. Chúng tôi lại ngồi xuống uống rượu. Từ sáng đến giờ, chúng tôi chưa ai ăn gì cả, nhưng không ai cảm thấy đói. Tôi đề nghị với Th/Tá Hưng:
- Chúng ta nên cởi quân phục và thay đồ dân sự.
Ông nhìn tôi và nói hơi gắt gỏng.
- Việc gì phải thay đồ. Anh sợ hả? Nếu sợ anh cứ việc thay. Tôi thì không.
Thấy ông gắt gỏng như vậy tôi không dám nói gì thêm nữa. Ông không chịu cởi quân phục thì Ð/U Bồn và tôi làm sao cởi bỏ được, đành thôi.
6 giờ chiều ngày 30 tháng 4/75, Th/Tá Hưng nói với tôi:
- Anh có thể lái xe đưa tôi về nhà một chút được không?
Một lần nữa tôi lại đề nghị với ông:
- Trình Ðại Bàng, tôi và Ð/U Bồn lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng với điều kiện Ðại Bàng phải thay đồ civil. Nếu không, chúng ta sẽ bị bắn ngay khi ra tới ngã tư Gò Dưa.


Cuối cùng ông đồng ý. Chúng tôi cởi bỏ quân phục vào lúc 6 giờ chiều ngày 30 tháng 4/75. Tôi lái chiếc xe Jeep của ông cùng với Bồn để đưa ông về Sài Gòn. Trên đường đi, chúng tôi nhìn cảnh tượng thật đau lòng! Quần áo lính, súng ống, nón sắt, ba lô vất ngổn ngang đầy đường. Dọc xa lộ Ðại Hàn, dân chúng kéo nhau ra xem tăng vc và cũng để nhìn những tên lính vc. Tôi cho xe chạy từ từ vì đường quá đông người. Tôi hơi yên tâm vì chẳng thấy ai hỏi han gì cả? Nhưng khi xe tới ngã tư Bình Phước thì một toán vc chận lại lấy xe. Th/Tá Hưng nói với Bồn và tôi:
- Thôi các anh quay về đi, tôi đi bộ về Sài Gòn cũng được.
Chúng tôi đứng nghiêm chào ông. Bắt tay chúng tôi, ông nói:
- Sáng mai, tôi trở lên hậu cứ sớm.
Trên đường trở về nhà Bồn, tôi suy nghĩ mãi về câu nói của ông. Ông trở lên hậu cứ để làm gì? Còn gì nữa đâu mà lên? Sự thật tôi không nghĩ ra!
Sáng ngày 1 tháng 5/75, khoảng 8 giờ sáng, giữ đúng lời hứa, ông đã trở lại hậu cứ. Tại phòng khách nhà Ð/U Bồn, ông nói với chúng tôi:
- Theo tôi biết, lính TÐ1 còn kẹt rất đông trong căn cứ, vì những người này không có nhà cửa ở Sài Gòn. Hiện họ đang tá túc trong các trại gia binh, nhất là trại gia binh TÐ1. Vậy chúng ta làm sao để giúp họ? Ða số là không có tiền để về xe, rồi họ lấy gì để ăn trong những ngày này?
Th/Tá Hưng nói với Ð/U Bồn thử vào liên lạc với tên chỉ huy đơn vị vc chiếm đóng trong căn cứ Sóng Thần. Yêu cầu hắn cho mở kho gạo của TTHL TQLC để phân phối cho anh em và gia đình của họ. Nhận lệnh của Th/Tá Hưng, Ð/U Bồn vào căn cứ gặp tên chỉ huy. Bồn còn đe dọa, nếu anh em không có gì ăn chắc sẽ làm bậy. Tên chỉ huy có vẻ hơi run nên hắn đã đồng ý những đề nghị của Th/Tá Hưng do Ð/U Bồn chuyển đạt. Mọi việc ổn thỏa, tôi vào trại gia binh thông báo cho anh em quân nhân TQLC và gia đình. Và mọi người ra tập họp tại sân cờ TÐ1 theo lệnh của Th/Tá Hưng. Chỉ trong vòng không đầy 15 phút, sân cờ TÐ1 đã đầy ấp. Không riêng gì quân nhân TÐ1 mà còn đông anh em ở TÐ khác trong căn cứ Sóng Thần, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân. Chúng tôi đã cắt cử người và dùng một xe Dodge để đi lấy gạo về phân phối cho anh em.

Ðây là lần thứ hai mà tôi được chứng kiến nỗi lo lắng của một đơn vị trưởng đối với thuộc cấp. Lần đầu, khi mới về nhận chức TÐT/TÐ1, ông đã tập họp TÐ để nói chuyện. Ông cho họ biết những quyền lợi mà họ được hưởng như: thực phẩm tươi, lương khô, thực phẩm phụ trội cũng như tiền ăn của họ trong thời gian đi phép. Ông đã nói rằng "Nếu những người nào không được hưởng như ông nói thì cứ lên gặp trực tiếp ông. Ông sẽ giải quyết".
Công việc phân phối gạo cho anh em binh sĩ và gia đình họ trong căn cứ kéo dài được 5 ngày. Sáng ngày 5/5/75, cũng như thường lệ Th/Tá Hưng đang phân phối gạo cho anh em thì một toán du kích xã Tam Bình kéo vào với súng ống đầy đủ. Họ đã chĩa súng vào Th/Tá Hưng và chúng tôi. Họ yêu cầu phải ngưng ngay việc làm này và giải tán khỏi sân cờ TÐ1 (mặc dù có sự đồng ý của tên chỉ huy căn cứ bộ đội vc, nhưng du kích lúc bấy giờ có quyền hành hơn).

Ðứng trước sân cờ TÐ1/TQLC, Th/Tá Hưng chào tạm biệt những thuộc cấp mình. Ông khuyên anh em nên tìm phương tiện để trở về quê quán, ông chúc họ và gia đình gặp nhiều may mắn. Mọi người điều xúc động với những lời nhắn nhủ và lo lắng của ông đối với họ.
Cũng cần mở ngoặc ở đây:
Một tuần trước khi TÐ1 di chuyển từ Biên Hòa về căn cứ Sóng Thần, người anh ruột của Th/Tá Hưng, ông Dương Văn Thịnh đã đến BCH/TÐ/HQ nhắc ông rằng: "Gia đình đang đợi ông về Sài Gòn đi Mỹ, hiện tại không còn tia hy vọng nào cả?" Th/Tá Hưng đã chỉ các quân nhân TÐ và nói:
- Lính tráng của tôi còn đó, tôi bỏ đi thế nào được!
Sau bao nhiêu năm ở tù, cũng chính gia đình người anh này bảo trợ ông sang Mỹ.

Kính chào Ðại Bàng Dương Văn Hưng, vị Tiểu Ðoàn Trưởng cuối cùng của TÐ1 Quái Ðiểu TQLC. Ông thực sự chấm dứt nhiệm vụ của mình vào sáng ngày 5/5/75.


Iowa ngày 5/5/99
Mũ Xanh Nguyễn Minh Châu



http://img402.imageshack.us/img402/7015/tqlcstatue.jpg
Tượng đài Thủy Quân Lục Chiến VNCH -Thủ Đô Sài Gòn]

cao nguyên
02-19-2012, 07:10 PM
Trảng Bom Bão Lửa




Trảng Bom-Hố Nai ngày 29-4-1975

Bút Ký Chiến Trường
:::Kỵ Binh Vũ Ðình Lưu:::
(Chi đoàn trưởng Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ)



http://lh6.ggpht.com/-DnESi_bmGa0/SumnJmMee0I/AAAAAAAA8Xg/HqfRDeXjV4Q/ARVN_armor71.jpg



Đặc Nhiệm (Sư Đoàn 18 BB) sau những ngày quần thảo ác liệt với Đại binh CSBV tại Quốc Lộ 20, khu vực Dầu Giây, ấp Nguyễn Thái Học bị tổn thất nặng nề. Chiều tối ngày 15-4-75 toàn bộ lực lượng mở đường máu về ấp Bàu Hàm. (xem bài “Quốc Lộ 20, hành lang của Tử Thần” cùng tác giả.)

Với 12 ngày đêm vừa qua, mặc dù chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi. Nhưng người lính Cộng Hòa đã gánh chịu bao đau thương chồng chất. Lính khổ, gia đình lính chịu nhiều thiệt thòi, lính lấy hai chữ số phận, vì đất nước chưa đến hồi thanh bình để tự an ủi chính mình, nên lính mỉm cười. Nhưng, dân khổ lính không cầm được nước mắt.Vì thế cuộc đã được sắp đặt từ trước của các siêu cường quốc, nên người lính không cản ngăn được sức tấn công điên cuồng của CSBV để cưởng chiếm miền Nam VN.

Nước mắt của người lính tuôn rơi, khi chứng kiến hàng đoàn người vội vàng, tức tưởi gánh gồng thoát vùng lửa đạn Chiến tranh sắp đến trên Quốc Lộ 20. Những cụ già, những em bé hai chân run rẩy, bỏng rát trên mặt đường nhựa bốc khói của nắng tháng 4. Chỉ trên vài ba chục cây số trên Lộ 20, chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi đã là như thế, huống chi trên khắp quê hương miền Nam trong suốt chiều dài cuộc chiến! Người lính chiến trẻ chúng tôi chấp nhận quá khứ, xếp bút nghiêng để khoác vào người chiếc áo trận.Với hiện tại dù hiểm nguy không sờn lòng và cả tương lai đang mịt mù trước mắt.
Sáng ngày 16-4-75 Trung Đoàn 52 BB còn lại về Long Bình. Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ (CĐ 2/5 TK) di chuyển ra Trảng Bom tăng phái cho Lữ Đoàn 3 Xung Kích (LĐ 3 XK). Chi Đoàn được Tướng Khôi cho làm lực lượng Trừ bị và tu bổ xe cộ, bổ sung quân số, tiếp tế nhiên liệu, thực phẩm; chờ lệnh mới.

Ngày 18-4-75 CĐ 2/5 TK di chuyển đến Tam Hiệp-Biên Hòa tăng phái cho Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù (TĐ 7 ND) , đóng quân tại hậu cứ Tiểu Đoàn. Liên quân này làm lực lượng phản ứng nhanh cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, có nhiệm vụ chính là tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ thành phố Biên Hòa khi bị CSBV tấn công. Thiếu Tá Nguyễn Lô và tôi còn nhận nhiều lệnh tối mật trực tiếp từ Tư Lệnh Quân Đoàn là Tướng Toàn .

Đây là lần thứ 4 Chi Đoàn tôi tăng phái cho TĐ 7 ND. Lại gặp một người hùng: Thiếu Tá Nguyễn Lô, một Tiểu Đoàn Trưởng mũ đỏ nổi tiếng. Đơn vị tôi đã từng yểm trợ cho Tiểu Đoàn ông ở mặt trận Hố Bò, Bời Lời, Củ Chi, Bến Cỏ. Trước sức tấn công như vũ bão của lính Dù dưới hỏa lực kinh hồn của Thiết Giáp, liên quân lúc nào cũng làm chủ chiến trường. Một người với vóc dáng nhỏ bé, nhanh nhẹn, uống rượu như hủ chìm, nhưng chưa bao giờ say .Người đã vượt trại giam, đón xe đò ra đi tìm tự do khi trên người vẫn hiên ngang khoác chiếc áo trận rằn ri (nay thành áo tù).
Một trong những mật lệnh đó là bất cứ giá nào, phải bảo vệ cho bằng được những nhân vật quan trọng, cao cấp trong Đặc khu Long Biên và Quân Đoàn 3, đặc biệt là các viên chức Dân, Quân sự Ngoại Quốc. Nhưng tình huống xấu đã không xảy ra.

Đến ngày 20-4-75, TĐ 7 ND và CĐ 2/5 TK di chuyển xuống quận Đức Thạnh (Th/tá Giao làm Quận Trưởng) Tỉnh Phước Tuy. Tối ngày 20-4 liên quân Nhảy Dù-Thiết Giáp này hành quân lên hướng Xà Bang để yểm trợ cho SĐ 18 BB,Tiểu Khu Long Khánh, LĐ 1 Nhảy Dù,Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh (Th/Đ 5 KB-Tr/tá Trần Văn Nô Thiết Đoàn Trưởng, Th/tá Nguyễn Đức Đào Thiết Đoàn Phó) gồm có Chi Đoàn1/5 Chiến Xa (CĐ 1/5 CX-Đại úy Lê Đức Việt Chi Đoàn Trưởng) Chi Đoàn 3/5 Thiết Kỵ (CĐ 3/5 TK-Đại úy Lê Sơn Chi Đoàn Trưởng), BĐQ… từ Xuân Lộc rút về Bình Giả.

Sáng ngày 22- 4-75 Th/Đ 5 KB gồm CĐ 1/5 CX và CĐ 2/5 TK di chuyển về Biên Hòa Hố Nai ( trừ CĐ 3/5 TK tăng phái cho TĐ 7 ND vẫn còn có nhiệm vụ hành quân khu vực Bình Ba-Xà Bang yểm trợ cho các cánh quân chưa về đến Bình Giả ,như vài cánh quân của LĐ 1 ND có nhiệm vụ rút ra sau cùng)


http://lh3.ggpht.com/-lgzb4fKSr2c/Sumip-K6LSI/AAAAAAAA7_I/sO5xzLpJyFk/13.jpg


Th/Đ 5 KB về đến Hố Nai, phối hợp với TQLC phòng thủ khu vực Bắc sân bắn Hố Nai. Lợi dụng thời gian tương đối yên tỉnh này toàn bộ Thiết Đoàn củng cố lại đơn vị sau 12 ngày đêm quần thảo đẫm máu với CSBV tại Xuân Lộc. (Tôi có gặp Tr/tá Nguyễn Đằng Tống-Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 468 TQLC (LĐ 468 TQLC) khi thị sát vòng đai phòng thủ. Ông là một trong những Đại Đội Trưởng,Tiểu Đoàn Trưởng nổi tiếng của Binh Chủng TQLC.


Những kỹ niệm thân yêu lại hiện về. “Ngũ quái” TQLC (Chữ của bà chị dâu tôi cũng là chị ruột của Tr/tá Tống) gồm: Tống (Quái Điểu),Tùng (Thần Ưng) Phúc (Trâu Điên), Hoàng, Toàn (Tất cả đều là K 16 VBQG.). Các anh khi về phép thường xuyên lưu lại nhà anh tôi tại Sàigòn và…thiệt tình!… đúng nghĩa với 2 chữ “Ngũ quái”. Anh ta có nói: “ Gặp được mày kỳ này, tao vui lắm, TQLC và Thiết Giáp nhất định phải làm cho Tùng, cho Phúc ở bên kia thế giới hài lòng. Khi nào về phép Sàigòn nhớ cho tao biết để anh em mình cùng đi phòng trà”.
Trưa ngày 28-4-75 CĐ 2/5 TK di chuyển lên Trảng Bom, đóng quân gần sân bay nhỏ (của Đồn điền cao su) phía Bắc QL1. Tôi đứng trên xe nhìn về hướng Long Thành nhiều cột khói đen bốc lên cao; được biết các Thiết Đoàn của LĐ 3 XK đang giao tranh với Chiến xa CSBV khu vực Trường Thiết Giáp Long Thành.

Trảng Bom, nằm trên QL1 kế tiếp Hố Nai về hướng đi Long Khánh. Một Thị trấn nhỏ bé, hiền hòa và thơ mộng, bao bọc bởi những rừng cao su xanh mướt. Trảng Bom vốn đã buồn nay lại càng đìu hiu, dân cư đã di tản gần hết, mấy ngày nay chỉ còn lại là lính.
Đồng bào thôn quê miền Nam mình khổ, bất hạnh đến mức đó sao! Dọc đường 20 từ Định Quán đến Ngã Ba Dầu Giây, rồi đến Trảng Bom, Hố Nai nhà nhà kín cửa then cài, người người tất bật tìm về nơi an toàn hơn. Một dấu hiệu báo trước, một cuộc giao tranh sẽ tiếp theo sau.

Đến 8 giờ tối tôi xin Hỏa Long (danh hiệu truyền tin cùa Tr/tá Nô) di chuyển Chi Đoàn qua phía Nam Quốc Lộ1, cách vị trí cũ chừng 300 mét, phòng thủ chung với Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn và CĐ 1/5 CX từ Hố Nai vừa mới di chuyển lên. Như vậy lực lượng tại đây là Th/Đ 5 KB (trừ CĐ 3/5 tăng phái cho Tiểu Đoàn 3/48-Th/tá Phúc) và một Đại Đội Bộ Binh tùng thiết. Tuyến đầu lúc này là Hưng Nghĩa, Hưng Lộc trấn thủ bởi 2 Trung Đoàn 43 và 48 thuộc SĐ18 BB thay thế cho LĐ 3 XK đã có nhiệm vụ mới ở khu vực trường Thiết Giáp Long Thành, Quốc Lộ 15.

Một giờ sáng ngày 29-4-75 trận chiến bắt đầu.Vị trí đóng quân của CĐ 2/5 TK lúc ban ngày, bị hỏa tập bằng đại pháo 130 ly và hỏa tiển 122 ly. Hàng trăm trái đạn trút xuống một vị trí nhỏ bé, bọn chúng tưởng rằng đủ để Thiết Giáp và Bộ Binh tại đây tan nát. Chúng có ngờ đâu đơn vị tôi đã di chuyển và đóng quân cách đó 300 mét. Hướng Hưng Nghĩa lực lượng CSBC cấp Sư Đoàn tấn công dữ dội vào các đơn vị của 2 Trung Đoàn 43, 48 và CĐ 3/5 TK. Đủ loại âm thanh vọng về, hàng trăm ánh Hỏa châu soi sáng, lửa khói mù mịt khu vực Bàu Cá, Hưng Nghĩa. Tất cả mọi người tại đây đều căng mắt nhìn màn đêm, sẳn sàng cho cuộc giao tranh chắc chắn sẽ đến.
Hỏa Long cứ năm ba phút gọi tôi và Đại úy Việt một lần, trong lòng ông lo âu vì biết trận chiến tàn khốc sắp sửa đến với Thiết Đoàn 5 Ky Binh. Sau hai tiếng đồng hồ căng thẳng từng giây từng phút. Hỏa Long cho tôi và Việt biết CĐ 3/5 hạ được 2 Chiến xa tại Hưng Lộc nhưng phải đổi lấy 2 M 41. Mặt trận tuyến đầu này do Tiểu Đoàn 3/48 BB và CĐ 3/5 TK chống trả quyết liệt trước sức tấn công điên cuồng của CSBV với quân số bộ chiến gấp cả chục lần.Và Chiến xa gấp bội so với số Chiến xa của ta. Nhưng nhờ hai đơn vị thiện chiến đã ngăn cản được phần nào sức tiến công nhanh chóng của bọn chúng về hướng Biên Hòa. Trong lúc đó có nhiều đơn vị bạn đã được lệnh và đang rút về hướng vị trí phòng thủ của Thiết Đoàn. Ông ta lập đi lập lại nhiều lần, thật cẩn thận coi chừng lẫn lộn bạn và địch. Chúng tôi vô cùng phấn khởi trước chiến thắng của hai đơn vị trên.

Tính của Tr/tá Nô hay lo lắng, mọi việc ông đều tiên liệu từ trước. Sống và làm việc gần ông, Đ/ tá Trần VănThoàn, Tr/tá Thái Minh Sơn nhiều năm (khi tôi ở Ban 3 HQ) lúc nào các ông cũng rất cẩn thận, giải quyết khéo léo mọi vấn đề. Từ khi làm việc ở Ban Tham Mưu đến khi Chỉ huy Chi Đoàn tôi học hỏi được nhiều điều hay và rất vinh hạnh làm việc gần 3 ông . Tr/tá Nô người miền Nam (Sa Đéc) phúc hậu. Ông và Tr/tá Sơn đều có bản tánh chất phác, hiền hoà và thương lính, các ông thể hiện rõ ràng là một cấp Chỉ huy lẫn Tham mưu dày dạn kinh nghiệm. Tr/tá Nô vui tính, hay khôi hài để giảm sự căng thẳng khi làm việc, nhưng với ông lệnh lạc thật rõ ràng, cấp dưói phải nghiêm chỉnh thi hành. Còn Đại Tá Thoàn , với bản tính tự tin ,can đảm và nhanh nhẹn. Ông có cách điều quân khéo léo, tấn công thần tốc, phản ứng chớp nhoáng nên các đơn vị hành quân dưới quyền ông rất an tâm.

Khoảng 3 giờ sáng, có rất nhiều bóng người xuất hiện cách xa vị trí đóng quân và bị che khuất bởi rất nhiều cây như chuối, chồi, cỏ tranh cao đến cổ. Dưới ánh sáng mờ ảo của Hỏa châu, chúng tôi không thể xác định bạn hay địch vì hệ thống truyền tin của các đơn vị bạn bận rộn, rối ren không liên lạc được. Cũng không thể dùng ánh sáng cơ hữu vì sợ lộ vị trí.Tôi báo cáo cho Hỏa Long biết, ông nhắc lại quan sát thật cẩn thận, phải biết chính xác là địch mới được tác xạ.

Đoàn người càng ngày càng đông như đi biểu tình, và càng ngày càng tiến gần vị trí Chi Đoàn. Bổng trong hệ thống truyền tin, Th/úy Trự Chi Đội Trưởng nói thật nhanh: “Báo cáo Phi Hổ (Danh hiệu truyền tin của tôi) có nghe tiếng người nói: “Tăng ta hay tăng Ngụy?”. Phản ứng của tôi thật nhanh, ra lệnh các Chi Đội bấm mìn và tác xạ. Hàng chục quả Mìn định hướng (mìn Claymore) được kích hỏa bùng nổ. Hàng chục khẩu Đại liên nhả đạn, súng cá nhân M 16, M 79 của Bộ Binh cùng thi nhau bắn xối xả, như một con sóng lửa đẩy dạt bọn chúng về phía sau. Hỏa Long như hét vào tai tôi “Phi Hổ, coi chừng bắn vào bạn”, tôi xác nhận đó là VC, ông mới an tâm. Tôi lệnh cho 3 khẩu 76 ly của Chiến xa M 41, 3 khẩu 106 ly không giật gắn trên xe M 113 bắn đạn chài khoảng cách nổ 30 mét. Ba khẩu súng cối 81ly của Chi Đoàn và 3 khẩu cối 106 ly của Thiết Đoàn thi nhau phóng những quả đạn nổ với không thuốc bồi chung quanh vị trí phòng thủ. Những quả đạn trái sáng bùng cháy, chúng tôi thấy rõ hàng trăm CSBV với trang bị đầy đủ hốt hoảng dội ngược, la hét chạy tán loạn về phía Đông (hướng chi khu Trảng bom) và hướng Nam (có đường rầy xe lửa). Ngay tức thì hướng Bắc, CĐ 1/5 CX bắt đầu nổ súng càng ngày càng dữ dội. Với hỏa lực của Chiến xa đánh bạt chúng về phía sau một cách nhanh chóng.

Như vậy CSBV hoàn toàn không biết vị trí của Thiết Đoàn, di chuyển ngang qua và gặp phải Thiết Giáp. Tao ngộ chiến, như chui đầu vô ổ kiến lửa! Quá bất ngờ và dưới hỏa lực mạnh của Thiết Giáp, chúng không kịp có một phản ứng nào, chỉ biết tháo chạy tán loạn. Chừng 10 phút sau tôi và Việt cho ngưng tác xạ để quan sát tình hình. Hỏa Long nhắc các Chi đội của Bộ Chỉ Huy bố trí ở hướng Nam và Tây sẳn sàng tác chiến.Tình hình trở lại im lặng, ngộp thở. Chúng tôi biết lực lượng CSBV không dưới cấp Trung Đoàn sẽ tấn công chúng tôi sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ. Và nhất là chúng sẽ điều chỉnh pháo cường tập vào chúng tôi vì vị trí đã bị lộ. Thật tình nói rằng chúng tôi rất sợ pháo của CSBV. Hai bên xung trận, chết sống chúng tôi không sợ. Nhưng sợ pháo, trong thời gian qua chúng tôi đã bị hứng pháo quá nhiều. Riêng chi đoàn tôi tất cả các xe đều bị trúng mảnh gang của đạn pháo, thành xe M113 nào cũng rổ chằn rổ chịt! Nhưng nhờ ơn trên che chở nên chưa hề có một trái đạn nào… chui lọt vào trong xe cả!

Nửa giờ sau phòng tuyến phía Nam bị lực lượng CS cấp Tiểu Đoàn tấn công, các Chi Đội Chỉ Huy của Thiết Đoàn chống trả mãnh liệt. Theo lệnh Hỏa Long tôi điều động một Chi Đội Thiết kỵ và 3 Chiến xa M 41 bung ra khỏi vị trí phòng thủ và đánh ngang hông địch. Chừng nửa giờ giao tranh ác liệt chúng rút lui về hướng Nam. Trong trận đụng độ này đơn vị tôi 3 binh sĩ tử thương, một bị thương, một Hạ Sĩ Quan là Tr/sĩ Hiếu bị thương vì một xe M113 bị trúng hỏa tiển B40 bốc cháy. Tôi đưa anh em bị thương về xe Y Tá của Thiết Đoàn để băng bó vết thương và điều 2 Chi Đội trở về vị trí cũ phòng thủ.


http://lh6.ggpht.com/-QnS4XnSooeU/Sumi_0XtJFI/AAAAAAAA8BI/BJw-xe9DhzY/1626872671_3c931ae0f2_o.jpg



http://lh6.ggpht.com/-C6_o2tKXWaU/SumjKjIy6bI/AAAAAAAA8CY/hi_n90kyG7o/1629898742_f595c576be_o.jpg



Tình hình lại yên tỉnh, không biết địch mưu toan gì kế tiếp. Chúng tôi không biết sự thiệt hại của lực lượng CSBV như thế nào vì không thể kiểm kê. Nhiều cánh quân tại tuyến đầu là Hưng Lộc, Hưng Nghĩa dựa vào đường rầy xe lửa rút về hướng Hố Nai đã qua khỏi vị trí của Thiết Đoàn. Đến 4 giờ sáng ngày 29-4-75, lực lượng CSBV bắt đầu pháo kích bằng Đại pháo 130 ly. Mới đầu một vài trái rơi khá xa; chúng điều chỉnh từ từ lại gần vị trí đóng quân. Và tiếp theo vài trái rơi chính xác trong chu vi phòng thủ. Hỏa Long cho lệnh bung rộng đội hình để tránh pháo. Sau chừng 10 phút CSBV bắt đầu pháo cường tập vào vị trí. Pháo đủ loại 130 ly 122 ly, cối 82 ly đổ ập xuống vị trí. Chúng tôi bung đội hình rộng thêm, ngay lập tức chạm địch. LLCSBV đông đảo bắt đầu tấn công mãnh liệt. Hướng Nam các Chi Đội Chỉ Huy bị tấn công mạnh bằng Bộ Binh và xử dụng nhiều loại súng chống chiến xa .

Tôi bấm ống Liên hợp Truyền tin xin Hỏa Long cho 3 Xe phun lửa làm việc vì phía ngoài chúng tôi toàn cỏ tranh cao đến đầu người. Ba xe M132 phun ra 2,400 lít xăng đặc nén tạo nên những đám cháy dữ dội bùng lên ở khoảnh cách 200 mét. Tiếp liền một Xe phun lửa bị bắn hạ bởi Đại bác 75 ly bốc cháy ngùn ngụt. Xe M 113 (Xe Y Tá) bị B 40 bắn thủng hông. Thật xui cho các anh em bị thương vừa qua ở trên xe này phải một lần nữa… suýt chết! (Tr/sĩ Hiếu, một Hạ Sĩ Quan hành quân, trẻ nhưng can đảm và nhiều kinh nghiệm, mới có nửa tháng bị thương lần thứ 3!).
Hỏa Long và Th/tá Đào tức tốc điều Chi Đoàn tôi đối đầu với địch ở phía Nam (có đường rầy xe lữa Biên Hòa-Long khánh), để trám vào vị trí các Chi Đội Chỉ Huy đang chao đảo. CĐ1/5CX đánh trả ở hướng Bắc và hướng Đông thay đơn vị tôi. Ba hướng: Nam, Đông, Bắc đều bị sức tấn công dồn dập của CSBV. Chúng biết lực lượng đối đầu chúng là Thiết Giáp Binh nên chúng xử dụng toàn các loại súng chống Chiến xa. Những quả đạn hực lửa của B 40, B 41, Đại bác 57 ly, 75 ly không giật, tới tấp bay vào đội hình Thiết Đoàn. Các Chi Đội Chỉ Huy chuyển sang thủ hướng Tây (hướng về Hố Nai). Sau hơn một giờ giằng co bất phân thắng bại. Hỏa Long ra lệnh lui binh.
Lại lệnh lui binh! Lệnh từ trên ban xuống, chúng tôi là những cấp Chỉ huy nhỏ, chỉ biết thi hành.Tấn công thì dễ, nhưng lui quân khó biết dường nào. Trong Binh pháp lui binh trong lúc giao tranh ác liệt là chiến thuật khó khăn nhất. Hai tuần lễ đầu tháng 4-75, CĐ 2/5 TK này đã lui binh nhiều lần với tổn thất không nhỏ. Đến nổi phải mở đường máu để bảo toàn lực lượng, giờ phút này lại nhận lệnh… lui binh khi trận chiến đang ác liệt chưa phân thắng bại. Tôi nghĩ quá nguy hiểm khi địch biết chúng tôi quay đầu xe rút lui dù xử dụng thế “Chân vẹt” đi chăng nữa.

Tất cả các đơn vị đều dùng hỏa lực cơ hữu áp dụng thế “Chân vẹt” tối đa để yểm trợ lẫn nhau và tuần tự lui quân. Phi tuần oanh tạc không thấy, Pháo binh im hơi lặng tiếng. Thật sự chiến đấu trong cô đơn và bị động hoàn toàn, buồn thay! Trước đây không lâu tất cả mọi cuộc hành quân chúng tôi chủ động với Phi Pháo yểm trợ đầy đủ. Các đơn vị Trừ bị sẳn sàng nhảy vào vòng chiến nếu cần, còn bây giờ… “mạnh ai nấy lo”, uất nghẹn thay, tủi nhục thay cho một Quân Đội đang bị bức tử.
Các Chi Đội của Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn dẫn đầu xuôi về hướng Tây ( Hố Nai) . CĐ 1/5 CX chống trả, cản hậu hướng Đông và Bắc. CĐ 2/5 TK đánh trả hướng Nam. Tất cả giữ vững đội hình vừa giao tranh vừa rút lui. Khoảng 6 giờ sáng, mới hừng Đông, chúng tôi nhìn thấy nhiều Chiến xa CSBV xuất hiện và đang đuổi theo đoàn quân của chúng tôi. Tôi biết rằng, Chi Đoàn tôi mặc dù vẫn còn 3 Chiến xa M 41, 3 xe M 113 trang bị súng 106 ly không giật nhưng sẽ không địch lại với nhiều Chiến xa T 54. Còn CĐ 1/5 CX sắp giao tranh với T 54 vì chúng cũng sắp đến trong tầm chính xác của Đại bác 76 ly trên Chiến xa M 41.

Tôi liền điều động Chi Đoàn qua bên phải đường rầy xe lửa để lấy lợi thế về địa hình và tạo khoảng cách giữa ta và địch cũng như dễ bề xoay xở hơn. Nhờ địa thế này tránh đạn đạo Đại bác 100 ly của T 54 trực xạ vào cạnh sườn trái. Tất cả đều di chuyển về hướng Hố Nai, chỉ tác xạ cầm chừng và khi thấy rõ địch. Không bao lâu CĐ 1/5 CX bị T 54 tấn công. Đơn vị tôi cũng bị Bộ Binh CSBV bám sát và tấn công mạnh từ bên kia đường rầy, xa hơn nữa là T 54 đang bám theo. Đủ mọi loại súng thi nhau tác xạ, những luồng đạn lửa đan chéo nhau giữa ta và địch. Tình hình trở nên nguy kịch vì Chiến xa T 54 đã bám theo kịp và bắt đầu khai hỏa . Những tiếng rít rợn người của đạn 100 ly, từng cục lửa đỏ hực bay vút qua đội hình của 2 Chi Đoàn và nổ ngay giữa đội hình của Thiết Đoàn. Cộng với Súng cối 82 ly của địch đang rót đạn vào đoàn quân. Việt và tôi chỉ biết vừa chống trả với tất cả mọi hỏa lực cơ hữu vừa di chuyển theo hai bên trái, phải Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn rút về Hố Nai.
Tôi nhìn qua quan sát vài anh em Bộ Binh và Kỵ Binh trên xe Chỉ Huy,họ đang cầu xin một điều gì đó? Xin một phép lạ đến với họ và cho tất cả mọi người đang đối mặt với Tử thần? Trong cơn nguy biến và tuyệt vọng, nói thật ra tâm linh mỗi người đều dậy lên một niềm hy vọng dựa vào các Đấng Quyền Uy. Riêng tôi, đã làm Dấu Thánh Giá cầu xin Đức Chúa Toàn Năng, cầu xin Mẹ Maria đầy ơn phước bao che cho tất cả mọi người lính nơi đây tai qua nạn khỏi. Cầu mong Phép Nhiệm mầu, Quyền năng của Đấng Tối Cao sai khiến và làm thay đồi tình huống cực kỳ nguy hiểm hiện tại.
Dòng suy nghĩ chợt tắt khi hệ thống Truyền tin, Hỏa Long gọi tôi và Việt tiếp chuyện. Trong lúc thập tử nhất sinh ông cho biết có 2 Phi tuần bom Napalm (Bom xăng đặc) đang bay tới. Tôi và Việt bớt lo phần nào, tôi ngửa mặt lên, nhìn thấy những chiếc Khu trục hùng hổ bay sà sát xuống mặt đất. Chúng tôi chưa kịp nói thêm được gì, yêu cầu đánh ở đâu thì những luồng đạn Đại bác 20 ly nổ tóe lửa cách các xe bìa chừng 50 mét. Tiếp đến, một dòng thác lửa cuồn cuộn bùng lên sát hông trái đội hình Chi Đoàn. Một đám lửa lớn nữa trải dài bên hông phải của CĐ 1/5 CX. Trong đời Binh nghiệp của tôi, tôi chưa bao giờ thấy các Sĩ Quan Không Trợ điều chỉnh chính xác như thế này. Hay các Phi Công tài ba liều lĩnh thả những trái bom hết sức mạo hiểm (không giữ khoảng cách an toàn) như hôm nay.

Tôi tự nhủ rằng lần sau đừng có đánh bom kiểu này nữa nha anh bạn Phi Công Khu Trục. Nhưng oái ăm thay không có một lần sau nào nữa cả. Đó là những Phi vụ cuối cùng của các anh, hay những quả bom cuối cùng được thả xuống cho cuộc chiến? Cả hai đều đúng. Tri ân các anh bạn Không Quân đã làm thay đổi tình huống nguy khốn.
Hai đám lửa lớn trải dài kẹp hai bên trái, phải của hai Chi Đoàn và bạt mạnh về hướng địch. Phải khen rằng những anh Phi Công này có kỹ thuật đánh bom Napalm xuất chúng. Khói lửa mù trời, nghẹt thở. Sức nóng bỏng rát của bom xăng hắt vào mặt mọi người và bao trùm bởi khói đen vì những quả bom lửa nổ quá gần vị trí. Thật quá nguy hiểm nhưng nhờ “Thần Lửa” đã tạo ra một khoảng cách khá xa giữa ta và địch, đã đẩy lùi địch về phía sau và đẩy lực lượng ta… về phía trước.
Tất cả tiếng súng bên ta, bên địch đều ngưng hẳn cùng một lúc. Chưa bao giờ có cái lệnh ngưng bắn cho cả 2 bên hiệu quả như lần này!…Tất cả như hoàn hồn, tôi ngước mắt nhìn lên trời 4 chiếc Khu trục đã cất lên tận trời xanh, xa xa những luồng lửa đạn Thượng liên 12ly8 của địch bắn đuổi theo sau một cách tuyệt vọng.

Hỏa Long ra lệnh cho tất cả tăng tốc độ tiến về phía trước. Bỏ lại sau lưng một biển lửa mênh mông. Bỏ lại trên vùng đất mang địa danh Trảng Bom hiền từ những gì tệ hại nhất của trận chiến tàn khốc. Một sự trùng hợp khá bẽ bàng Trảng BOM với HỎA Long, trọn nghĩa hơn là bom đạn và lửa khói đang hiện hữu nơi đây.
Kết quả trận chiến vừa rồi dưới mắt chúng tôi là 1 Chiến xa M 41, 2 M 113, 1 xe M 132 (xe phun lửa) đổi lấy 3 T 54 của địch. Ta- Địch, thua huề hay thắng? Đến giờ phút này, tất cả đều không còn thành vấn đề nữa, theo lệnh trên miễn sao chúng tôi chiến đấu đến cùng. Và chúng tôi đã làm chùn bước trước sức tiến quân của một lực lượng CSBV cấp Sư Đoàn có Chiến xa, Trọng pháo yểm trợ.

Chúng tôi lại chào tạm biệt thêm một Thị trấn của miền Đông đất đỏ đầy máu lửa chiến chinh!.
Bộ Chỉ HuyThiết Đoàn 5 Kỵ binh ,CĐ 1/5 CX và CĐ 2/5 TK di chuyển về Hố Nai lúc 12 giờ trưa ngày 29-4-75 và bố trí trên một ngọn đồi thoai thoải thấp phía sau Nhà Thờ Tân Bắc. Tuyến đầu bây giờ là LĐ 468 TQLC phụ trách, cách vị trí chúng tôi 2 cây số về hướng Trảng Bom.
Theo lời yêu cầu của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống Lữ Đoàn Trưởng. Hỏa Long gọi tôi cùng ông gặp Tr/tá Tống để phối hợp phòng thủ. Ba người họp ở bên hông Nhà Thờ Tân Bắc- Hố Nai để phối hợp chiến thuật giữa TQLC và Thiết Giáp trong thời gian sắp tới.

Tr/tá Nô và tôi xuống xe M 113 Chỉ Huy và đi bộ lại chiếc xe JEEP của Tr/tá Tống. Ông tiến tới đón 2 hai người, ông bắt tay Tr/tá Nô xong quay nhìn tôi chăm chăm một lúc, và hỏi: “Đại úy Lưu có lại không Tr/tá ?”. Tôi liền nói lớn: “Em Lưu nè, anh Tống”, hai mắt anh mở lớn nhìn tôi kinh ngạc, ôm choàng lấy người tôi nói: “Trời! mầy đây hả Lưu”. Tôi chợt nhớ là mình chưa kịp rửa mặt, nhìn xuống bộ đồ trận đã đổi thành màu đen với bụi, tro lốm đốm bám đầy mình. Tôi đi lại soi mặt vào chiếc kính chiếu hậu của chiếc JEEP …tôi cũng không nhận ra tôi vì… không giống ai! Bảng tên trên ngực áo cũng đã mất chữ. Te tua quá đổi! Người lính TQLC nhìn mặt tôi và quay đi với nụ cười lén, anh trao cho tôi một “bình ton” nước. Và tôi xóa đi lớp bụi đen thui, đen thủi. Xóa thêm một cơn ác mộng, cơn ác mộng thứ tư trong vòng chưa đầy nửa tháng!

Cả 3 người Tr/tá Nô,Tr/tá Tống và tôi thả bộ ra đường phố Hố Nai để quan sát tình hình. Nhà dân, phố xá đóng cửa kín mít, hàng quán không còn bày bán một thứ gì cả. Có nhiều anh em Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ trang bị vũ khí chạy ngang chạy dọc chỉ chỏ lung tung. Ngày trước khu vực này sầm uất buôn bán nhộn nhịp, tấp nập, hôm nay vắng vẻ đìu hiu quá. Tôi gọi một anh Nghĩa Quân có vẻ là toán trưởng lại đề hỏi chuyện. Anh ta mặc đồ dân sự tay cầm khẩu súng phóng lựu M 79 với 2 dây đạn đầu màu vàng (đạn nổ) và một dây đạn chống chiến xa. Trên vai mang một khẩu M 16. Anh ta giới thiệu anh là Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân đang phân công anh em bố trí phòng thủ. Tôi hỏi anh ta có cần thêm đạn gì không? Anh ta bảo rằng anh em TQLC mới cho đạn M 79 chống chiến xa,và một số đạn M 16 .


http://lh4.ggpht.com/-sB28BQXLAhs/SumjHoBAbaI/AAAAAAAA8B8/g4YDdJMm2sA/1627803356_df05d83a90_o.jpg



http://lh4.ggpht.com/-6S4MePKx37w/SumjZKAymzI/AAAAAAAA8Dc/TWESsyT5wKs/ARVN%252520acav%25252003.jpg


Đến giờ phút cuối cùng này. Những người Nghĩa Quân chỉ là Lực Lượng Bán Quân Sự, người lính không có số quân còn vững tay súng để sống chết với quê hương! Thán phục các anh, vì lòng yêu làng, thương xóm một lòng với đồng bào đã từ bỏ xứ Đạo, từ bỏ tất cả để từ miền Bắc di cư vào đây năm 1954. Nay các anh cương quyết gìn giữ xóm Đạo, bảo vệ một vùng Đất Thánh! Một hình ảnh đẹp, khó quên. Cầu xin Đức Mẹ ban bình an cho các anh.
Lợi dụng địa hình để có một chu vi phòng thủ tối ưu. Chín Chiến xa M 41 và 3 M 113 có gắn Đại bác bắn thẳng106 ly không giật bố trí quay súng về hướng Đông chờ Chiến xa T 54 của địch. Tất cả các khẩu Đại bác đều nạp đạn chống Chiến xa và sẳn sàng nhả đạn. Phía dưới thung lủng các Chiến Sĩ Mũ Xanh cũng sẳn sàng nghênh chiến.

Hai giờ chiều ngày 29-4-75, trận chiến mới, bắt đầu bùng nổ dữ dội phía thung lủng giữa TQLC và Bộ Binh CSBV. Khoảng nửa giờ sau từ trên đồi nhìn xuống chúng tôi thấy nhiều đám bụi xuất hiện. Nhiều Chiến xa địch đang áp sát nơi đang giao tranh, tiếp đến những cuộc quần thảo khốc liệt giữa Chiến Sĩ Mũ Xanh và địch có T 54 yểm trợ….2 T 54 cháy vì trúng đạn M 72 của TQLC.
Bất ngờ một đoàn trên 10 chiếc Chiến xa T 54 lù lù xuất hiện từ QL 1 di chuyển đến khoảng giữa vị trí phòng thủ của Thiết Đoàn và nơi đang giao tranh dưới thung lũng.Tôi nghĩ rằng chúng dự trù đánh bọc ngang hông lực lượng TQLC và không thấy chúng tôi vì chúng từ dưới địa hình thấp nhìn lên, chúng tôi được che khuất bởi những mô đất trên ngọn đồi.
Có còn cơ hội nào tốt hơn nữa, các Chiến xa T 54 đang đưa hông trước các họng Đại bác. Với khoảng cách 1 km trong tầm của Đại bác 76 ly của CX M 41 và 106 ly bắn thẳng. Tr/tá Nô, Th/tá Đào đã chỉ thị tôi và Việt phối hợp hành động. Mười hai trái đạn rời nòng bay vút vào các T 54. Hai bốc cháy ,hai bay pháo tháp và lật nghiêng. Sáu chiếc còn lại liền quay đầu chỉa Đại bác 100 ly và tác xạ vào chúng tôi. Những trái đạn nổ tung lưng chừng trên triền đồi thoai thoải. Có những quả bay vút qua đầu với tiếng rít rợn người. Mười hai trái đạn nữa rời nòng, thêm 2 T 54 bị hạ.

Hướng Bắc bên kia QL1, TQLC và cả Trung Đoàn CS có Chiến xa yểm trợ đang giao tranh cũng được một giờ rồi. Bây giờ chúng tôi lại nghe tiếng súng lớn nhỏ nổ liên hồi ngoài đường phố Hố Nai. Tiếng súng càng lúc càng gần. Sự phấn khởi của tất cả mọi người trước những Chiến xa T 54 bị hạ chợp tắt nhanh chóng, khi nhìn thấy một đoàn Chiến xa T 54 và Bộ Binh CS nữa xuất hiện ngoài QL1và đang hùng hổ tiến tới. Tiếp đến chúng tấn công cuồng bạo vào Bộ Chỉ Huy của LĐ 468 TQLC và cả lực lượng của TĐ 5 KB. Một M 41 và 2 M 113 bị T 54 bắn banh xác…Chúng tôi rút lui nhanh chóng để khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn!!! Lại chia tay thêm một Thị trấn,một xứ Đạo-vùng Đất Thánh Hố Nai.

Và từ đó tôi không còn gặp lại một người anh, Tr/tá Nguyễn Đằng Tống. Sau này anh đã để lại thân xác trên núi rừng miền Bắc; với 4,5 khúc ruột bị nối vì chiến trận thì làm sao có thể sống được dưới chế độ lao tù CS. Một nén hương lòng thắp lên để nhớ Anh, anh Tống.
Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh, 2 Chi Đoàn rút về đóng quân tại Ngã 3 Tam Hiệp lúc 7 giờ tối ngày 29-4. Nhìn về hướng Phi trường Biên Hoà nhiều cột lửa bốc cao với khói đen cuồn cuộn. Đêm đó chúng tôi nhìn thấy ngoài xa lộ thỉnh thoảng từng cặp Chiến xa CSBV chạy rất nhanh ngang qua vị trí phòng ngự. Chúng tôi nằm im lìm chờ lệnh…

http://lh4.ggpht.com/-7_KP2W9Nxcg/SumjF_7fylI/AAAAAAAA8Bw/7CnhL-_YbF0/1627794004_eb722db7fc_o.jpg

“Thế, Quốc biến lấy gì lo Chiến chinh
-HY SINH-”

Trong lòng đau đớn tột cùng khi kiểm kê lại sự tổn thất vừa qua. CĐ 2/5 TK bây giờ chỉ còn 10 chiếc M 113. Một chiếc Chiến xa M41 tôi thấy tội nghiệp, lẻ loi quá nên cho về với “mái nhà xưa” là CĐ 1/5 CX. Quân số còn lại chỉ vỏn vẹn 50 Kỵ Binh. Chiến tranh ơi! khốc liệt quá, tàn nhẫn quá, chỉ có 1 ngày CĐ 2/5 TK bị tiêu hủy 2 CX M 41 và 2 M 113, 20 Kỵ Binh các cấp loại khỏi vòng chiến đấu. Mới đây thôi chưa đầy 2 tuần lễ của đầu tháng 4, CĐ 2/5 đã bị mất 1 xe M 41, 8 xe M 113 và hơn 1/4 quân số trên QL 20. Chúng tôi cũng như những đơn vị của QLVNCH và tất cả Dân, Quân, Cán, Chính đã và đang HY SINH. Hy sinh để VNCH sống còn. Nhưng đau thương thay cho vận Nước, VNCH thua cuộc! vì sự xếp đặt trên sân khấu chính trị của các Siêu Cường Quốc.
Ngày 30-4-75 toàn bộ lực lượng rút về đến cầu Bình Phước lúc 1giờ chiều. Từ đây mọi sự liên lạc bị cắt đứt. Nhớ một người Thầy trong Binh chủng mà tôi đã từng học hỏi nhiều nhất, từ lúc chập chững vào đời Binh nghiệp đến ngày hôm nay. Nhất là Thầy trò cùng nhau gánh chịu tất cả đau thương nghiệt ngã của ngày vừa qua. Người Thầy Tr/tá Trần Văn Nô đã về lòng đất mẹ năm 1987.
Ngay tại đây Đơn vị tôi bị lực luợng CS khống chế và leo lên các xe.Tôi cố gắng liên lạc với Thiết Đoàn liền bị một Cán binh CS chụp lấy Ống Liên hợp Truyền tin ném đi. Một binh sĩ kề cận tôi chỉa súng vào anh Cán binh này, bị một Cán binh khác dộng báng súng vào người rớt xuống lòng xe. Nếu không có sự kiềm chế tột đỉnh của anh em Kỵ Binh thì chiếc xe M 113 này đã nổ tung, máu lửa tràn ngập. Thế là hết, mất tất cả rồi. Tất cả các súng Đại liên trên xe thay đổi chủ, chúng dẫn 10 xe M 113(thuộc đơn vị tôi) về tại cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi chứng kiến một cảnh đau lòng, Thiết Giáp ta, Đại liên ta, xạ thủ địch giao tranh với những đơn vị Biệt Kích 81 Nhảy Dù còn cố thủ trong Bộ Tổng Tham Mưu.Vì họ không chấp nhận sự đầu hàng của Lảnh Đạo cao nhất của đất nước. Đau đớn thay! Nhục nhã thay cho một sự đổi đời từ đây!
Lợi dụng sự hỗn loạn của đồng bào, Quân nhân lũ lượt rời nhiệm sở. Anh em Thương binh vết thương còn rỉ máu bị xô đuổi từ Bệnh Viện Cộng Hòa đi về hướng Sàigòn. Tôi xuống xe bỏ cuộc và tháp tùng theo đoàn người, đi được chừng mấy bước, một họng súng AK 47 đen ngòm chỉa thẳng vào ngực, hét lớn “Quay lại xe, bằng không sẽ bắn bỏ”. Tôi đành phải trở lại xe và tháo bỏ thêm đôi giày trận đã theo tôi gẩn 8 năm trời ròng rã. Tôi xỏ đôi bàn chân vào đôi dép quai dọc, với chiếc quần khaki, và chiếc áo mayô cùng màu ôliu. Một lần nữa tôi và anh em đồng đội thân thuộc trà trộn vào đoàn người đủ mọi thành phần thoát khỏi xe M 113. Trong lòng quặn thắt,tim nhói đau tột cùng, như bị buộc phải thoát khỏi lòng người Mẹ bao năm trời bảo bọc, che chở cho những người con yêu quí, để đi về một phương trời vô định.
Tôi ra đi trong tức tưởi nghẹn ngào; ra đi trong âm thầm lặng lẽ. Không kịp nói một lời từ giã với các cấp Chỉ huy, bạn bè và đồng đội. Đầu óc choáng váng, nước mắt tuôn rơi, với từng bước chân mệt mỏi rã rời. Từng bước uể oải, nhọc nhằn xiêu vẹo (bàn chân trái của tôi đã từng bị thương 2 lần, nay không quen mang dép đi xa).Tôi vừa đi vừa nhìn xuống mặt đường thấy bóng mình chao đao nghiêng ngã! Từ Lăng Cha Cả về đến cầu Công Lý (gần nhà anh ruột tôi) mà tôi đi đến 3 tiếng đồng hồ.
Sáng ngày 2-5-75 tôi mới nhờ người cháu chở về nhà tại Thủ Đức với bộ đồ dân sự của ông anh trên người. Tội nghiệp thay! Ba Mẹ vợ và cả vợ tôi vài phút đầu tiên không thể nhận ra tôi. Rồi sau đó tất cả oà khóc. Các con tôi đứng nhìn ngơ ngác, rồi cũng khóc theo (chúng không thề nào nhận ra tôi, vì từ lâu tôi không mặc đồ dân sự ). Mới ngày hôm qua đây, ông Anh rể và bà Mẹ vợ đi tìm tôi qua từng cái xác mặc đồ trận, nẳm gần các xe Thiết Giáp bị cháy, từ ngã tư Thủ Đức đến cầu Rạch Chiếc. Ôi! có hành động nào cảm động bằng. Thương thay !
Tôi đã trở về trong bình an, làm sao cả nhà cầm được nước mắt sung sướng.Tất cả đều khóc, khóc cho tôi được an lành sau cuộc chiến đẫm máu. Khóc cho tôi thân hình còn nguyên vẹn sau bao lần trên chiến trường nghiêng ngã. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người có con em, có chồng là những người lính VNCH. Hay chính những người lính trẻ như chúng tôi, hai ngày nay đều đã khóc. Khóc mừng cho sự sum hợp. Khóc cho sự mất mát lớn lao. Khóc cho một viễn ảnh Việt Nam Hòa Bình.

Những nén hương lòng được thắp và dâng lên để tưởng nhớ những Người quá cố. Đã cùng chia sẻ với chúng tôi trong cơn hồng thủy:

Cố Tr/tá Trần Văn Nô,
Cố Tr/tá Nguyễn Đằng Tống ,
Cố Th/tá Nguyễn Đức Đào,
Cố Đại/úy Lê Đức Việt,
Cố Đại úy Hồ Thúc Hạ,
Cố Th/úy Đỗ Chinh Chiến,
Cố Th/úy Sơn.
Và tất cả Anh Em Chiến sĩ QLVNCH đã hy sinh cho cuộc chiến tháng 4 năm 1975 dọc theo QL 20 và QL1.

cao nguyên
02-19-2012, 07:21 PM
CÁM ƠN ANH


http://www.youtube.com/watch?v=FwZ_idmMlQ0&amp;feature=player_embedded

Vịnh Nghi
02-19-2012, 08:43 PM
Những hình ảnh quá đẹp, quá bi hùng của quân lực VNCH. Cám ơn bác Cao Nguyên!

cao nguyên
02-20-2012, 08:06 AM
Những hình ảnh quá đẹp, quá bi hùng của quân lực VNCH. Cám ơn bác Cao Nguyên!

Chào Vịnh Nghi
Cám ơn Vịnh Nghi thường xuyên vào "Tưởng Niệm Tháng Tư" . Hằng năm vào mùa này, chú lại nhớ đồng đội xưa dù họ mất hay còn . Nét bi tráng vẫn còn trong ký ức những người đi giữ nước dù mộng không thành nhưng không thể quên .
Chú biết Vịnh Nghi cũng trong gia đình vệ quốc . Hãy giữ hồn thiêng Sông Núi và hồn thiêng những Anh Hùng . Lịch sử vẫn còn đó . Thế hệ mai sau sẽ làm sáng tỏ mọi điều và vinh quang sẽ thuộc về những tấm lòng tha thiết với Quê Hương .
Trong chủ đề "Tưởng Niệm Tháng Tư", chú muốn đi vào chủ điểm những nét bi tráng mà không nhìn sâu vào quân sử . Chỉ là những đóa hồng trắng và những nén hương tưởng niệm .
Mỗi dòng thơ văn của chú lồng vào chủ đề là những nén hương tâm niệm, những giọt lệ hồng . Mong Vịnh Nghi tiếp tục cảm nhận cùng chú .
Chúc cháu luôn mạnh khỏe .
Thân mến
Chú Cao Nguyên .

cao nguyên
02-20-2012, 08:08 AM
http://www.phonuipleiku.org/images/stories/DiTan.jpg


Người Đàn Bà Trên Tỉnh Lộ 7
Viết cho những khốn khổ những điêu linh của đất nước tôi và dân tộc tôi


Tôi gấp quyển sách đang đọc dở dang, đưa tay chùi vội những giọt nước mắt vừa lăn dài xuống má.
Quyển sách đó có tựa đề thật đơn giản “Những người tù cuối cùng” của tác giả Phạm Gia Đại và chính anh cũng là một trong hai mươi người tù cuối cùng được thả ra sau hơn mười bảy năm bị giam cầm, tù đày trong lao tù Cộng sản. Anh và các bạn đã là nhân chứng sống của lịch sử. Những giòng chữ đó có hấp lực thật lạ lùng, càng đọc càng như bị kéo ngược về dĩ vãng – một dĩ vãng đau buồn và uất hận mà tôi đã cố chôn vùi thật sâu trong tận cùng của ký ức…

Sau biến cố tang thương của tháng 3 năm 1975 rút khỏi Ban Mê Thuột – là những đổ vỡ-những mất mát-những chia lìa-những đọa đày-những uất hận của tập thể Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa của một quân đội hùng mạnh của những người con đã sống chết cho lý tưởng Tự Do và sự phồn vinh của dân tộc. Ba mươi sáu năm qua biết bao thăng trầm – nhưng mỗi lần nhớ về, lại là những lần nhói buốt, nó như vết thương lòng không thể nào lành. Tôi thầm cám ơn tác giả của quyển sách đó đã là động lực để tôi ngồi xuống ghi lại những hình ảnh mà tôi đã chứng kiến của buổi chiều hôm ấy…

Trong cái lũ lượt của đoàn người di tản từ Pleiku và Kontum qua con đường tỉnh lộ 7. Con đường này bỗng nhiên ồn ào, náo nhiệt trong hỗn loạn, rồi tiếng gọi nhau vang dội cả một góc rừng. Tiếng khóc than, tiếng xe, tiếng súng nổ rền vang, hệt như đàn ong vỡ tổ, người chạy ngược kẻ chạy xuôi, tìm kiếm người thân bị thất lạc, đồ đạc vất bừa bãi, những chiếc xe hư bỏ lại trên đường ngổn ngang. Tôi và Hùng người em trai nhỏ, cũng tất bật trong đoàn người gian truân đó, bây giờ chỉ còn hai chị em, ba mẹ và các em còn kẹt lại Ban Mê Thuột, mấy bữa nay tôi đã chạy đôn chạy đáo để dò la tin tức gia đình, nhưng biết hỏi ai bây giờ, bởi chẳng ai biết rõ điều gì đã xảy ra.

Trong tâm trạng rối bời đó, tôi chỉ còn nhớ một điều là khi đến lớp, điều làm tôi ngạc nhiên là sĩ số các em học sinh đến trường chỉ còn một nửa, tôi đang tìm câu trả lời thì có một em học sinh đến gần bên tôi nhỏ nhẹ lên tiếng hỏi: ” Thưa cô, ba mẹ em muốn biết là cô có muốn chạy loạn cùng xe với gia đinh em không?”. Chạy loạn!!! Tôi nghe tiếng chạy loạn mà tim nhói đau, có nghĩa là tôi phải rời bỏ nơi chốn này, xa trường, xa học trò thân yêu của tôi, mà đi đâu kia (http://www.phonuipleiku.org/index.php?option=com_content&view=article&id=321:ngi-an-ba-tren-tnh-l-7&catid=45:tuy-but-&Itemid=96#) chứ? Nhìn đứa học trò ngoan mà tôi thương nhất lớp chưa biết phải trả lời ra sao?

Tôi mới ra trường được vài tháng, nhận nhiệm sở ở đây, ngôi trường nằm trên ngọn đồi thoai thoải trông thật dễ thương, tuy mới về nhưng tôi được học sinh, phụ huynh học sinh và các đồng nghiệp thương mến chắc tại cái nhỏ nhoi, yếu đuối của tôi trong làn sương mù và cái se lạnh của PLEIKU chăng? Tôi nghĩ thế.
“Thưa cô, cô quyết định như thế nào ạ?”, tiếng nhỏ nhẹ của người học trò lại cất lên, cắt ngang giòng suy tư của tôi, tôi lặng lẽ gật đầu. Thế là mọi chuyện cứ tuần tự đi qua như đã được sắp xếp tự bao giờ để giờ này đây tôi cũng có mặt trong đoàn người di tản. Khi chiếc xe bị kẹt cứng, không thể nhích thêm một chút xíu nào, tôi nhảy xuống xe để được thoải mái một lát và đi lần về phía trước, bỗng nghe một giọng ru con lanh lảnh vừa ru, vừa khóc nghe thật não lòng!!…

“Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học, mẹ đi trường đời”.

Tôi lần theo tiếng ru hời đó, đến dưới gốc cây to thì thấy một người đàn bà, đầu tóc rối bù, quần áo xốc xếch, ôm chặt đứa con trong lòng mà ru, tò mò bước đến gần để hỏi thăm, chỉ vừa kịp nhìn thấy đứa bé có nước da xám sậm, tôi như muốn ngã quỵ xuống, không biết đứa bé đã chết tự bao giờ, vậy mà người mẹ vẫn cất tiếng ru não ruột để ôm ấp, để vỗ về con mình. Tôi kêu thất thanh “Xin giúp chị ấy, con chị đã chết rồi!”

Thấy tôi la lớn tiếng, mấy người đang ở gần đấy bèn chạy lại, nhưng không thể nào lấy được đứa bé ra khỏi vòng tay, chị cứ ghì chặt đứa con vào lòng, đứa bé như một bảo vật, một gia tài cuối cùng của chị, vừa khóc vừa ru “Con đi trường học, mẹ đi trường đời”.

“Chị đã thi đậu trường đời rồi đó chị”, tôi thầm nhủ như thế định mệnh oan nghiệt đã cướp đi người con yêu dấu của chị, chị cứ thế mà than van, “Con ơi! con bú đi con…” Tôi đưa tay bịt tai lại để không còn nghe giọng ru hời thống thiết của một người mẹ vừa mất đi đứa con nhỏ thân yêu.

Tôi không thể chịu đựng thêm nữa, bèn quỳ gối, trước khoảng đất trống gần đó mà lạy mười phương tám hướng vừa khóc, vừa van vái. Xin tha cho dân tộc con, cho đất nước con… Tôi úp mặt vào đôi bàn tay nhỏ bé kêu lên “Chúa ơi!”…

Bỗng một bàn tay, đặt lên vai tôi “Chị ơi, chạy mau đi, không kip nữa đâu.”, tiếng người em trai hối thúc. Tôi vội vàng đứng lên như người vừa hoàn hồn, tôi chạy như bay để lại sau lưng người đàn bà đang ôm ghì xác đứa con đã chết với tiếng ru hời bi thảm…

Ba mươi sáu năm trôi qua, chẳng biết người đàn bà với tiếng hát ru hời ấy về đâu???

Hoàng Thị Cỏ May

cao nguyên
02-20-2012, 08:10 AM
tháng ba say


http://www.art2all.net/tho/tho_cn/larryburrow-operationprairiehill.jpg

tháng ba, ta bỏ rừng
(trên đường về thăm biển?)
không - ta bỏ rừng đi
vì điêu tàn cuộc chiến

vì ngọn lửa hận thù
đốt Trường Sơn linh hiển
đập vỡ tiếng cồng chiêng
Giàng ơi! và Giàng ơi! *

ba-mươi-mốt cái tháng ba
ta rùng mình say khuớt
khi hồn bạn theo ta
qua núi đồi xuôi ngược

Ôi đỉnh gió Chư Pao
bình-đông đầy rượu đế
rót giữa đáy chiến hào
uống đi - rồi quạnh quẽ!

Ôi Đức Cơ, Pleime
cơm sấy và thịt hộp
rượu cần pha nước khe
uống say - rồi cúi mặt!

Ôi Thuận Mẫn, Buôn Hô
me khô và cóc ổi
trộn lửa khói Bù Đăng
uống đi - rồi thức đợi!

đợi những tháng ba say
theo hồn bay tám hướng
tìm vất vưởng chân mây
những vẫy chào lởn vởn!

say cùng ta nhé em
những tấm lòng sông suối
của rừng núi cao nguyên
trong nhiều đêm thức gọi:

bạn ơi và rừng ơi!

Cao Nguyên
Mar 2006
---------------
* Giàng ơi! = Trời ơi! (tiếng sắc tộc miền cao)

cao nguyên
02-20-2012, 08:15 AM
http://vnthuquan.net/diendan/upfiles/98451/2FB8644689084711A63DAA2D6ECA8244.jpg

RỪNG ƠI

phổ nhạc & trình bày : Dzuylynh
Mời bấm vào link để nghe :

http://www.box.com/shared/suqtaavmt2

@@@

cư dân cũ, từ vùng trời xa vắng
gọi rừng xưa,ta nhớ lắm - rừng ơi!
thương mùa cây cúi đầu buồn tháng Hạ
lá chịu tang qua mấy chục năm rồi!

lúc ta đi, rừng sâu còn ngún lửa
lửa hận thù, cháy quá nửa đời ta
cháy bỏng màu da, làm sao lành vết sẹo
chung niềm đau, ta chẻ máu nuôi rừng

nửa máu ta có giúp rừng sống lại
đất có mừng lá biếc nẩy chồi xanh
cây có vui khi chim về hái trái
hoa có cười cho hương toả vây quanh?

ôi nhớ quá, rừng ơi! ta nhớ quá
cao nguyên xanh, hoa lá ấy - hồn ta
và cả máu chia cho rừng thuở ấy
nhắc ta về, dù bữa hẹn còn xa

về xem nắng ghẹo hoa tươi rói mặt
về thăm cây lành hẳn vết thương chưa
về ngồi giữa nắng mưa nghe đất hát
khúc đồng dao từ những khát khao xưa!

thơ ta đó, rừng ơi! ru chút nhé
ta chưa về thăm đất mẹ chiều nay
sợ hàng cây còn long lanh ngấn lệ
ta với rừng sẽ khóc giữa vòng tay!

Cao Nguyên

Vịnh Nghi
02-20-2012, 01:08 PM
Chào Vịnh Nghi
Cám ơn Vịnh Nghi thường xuyên vào "Tưởng Niệm Tháng Tư" . Hằng năm vào mùa này, chú lại nhớ đồng đội xưa dù họ mất hay còn . Nét bi tráng vẫn còn trong ký ức những người đi giữ nước dù mộng không thành nhưng không thể quên .
Chú biết Vịnh Nghi cũng trong gia đình vệ quốc . Hãy giữ hồn thiêng Sông Núi và hồn thiêng những Anh Hùng . Lịch sử vẫn còn đó . Thế hệ mai sau sẽ làm sáng tỏ mọi điều và vinh quang sẽ thuộc về những tấm lòng tha thiết với Quê Hương .
Trong chủ đề "Tưởng Niệm Tháng Tư", chú muốn đi vào chủ điểm những nét bi tráng mà không nhìn sâu vào quân sử . Chỉ là những đóa hồng trắng và những nén hương tưởng niệm .
Mỗi dòng thơ văn của chú lồng vào chủ đề là những nén hương tâm niệm, những giọt lệ hồng . Mong Vịnh Nghi tiếp tục cảm nhận cùng chú .
Chúc cháu luôn mạnh khỏe .
Thân mến
Chú Cao Nguyên .

Cám ơn chú Cao Nguyên! :)

Nghi rất cám ơn chú thường xuyên đem những bài viết thật giá trị, thật hay, song song với những hình ảnh, những nét bi hùng, nhưng không thiếu phần lãng mạn, của quân sử VNCH vào phố cho Nghi được đọc và tìm hiểu thêm. Ở thế hệ của Nghi, nét bi tráng, hào hùng trong những bài viết và những bài thơ tưởng niệm của chú, hình như càng đọc càng thấy thấm thía hơn theo thời gian, không hề mai một.....

Tuy chiến tranh là điều không một ai muốn thấy trên quê hương, nhưng càng đọc những bài viết về những chiến tích, về những gương sáng của cha anh, của những tướng lãnh VNCH thà 'chết với thành,' nhất là được coi những đoạn phim thời sự giá trị đó, Nghi càng thêm tiếc, phải chi Nghi được sinh ra sớm hơn khoảng chục năm thì hay quá. Thực sự được sống trong thời lửa đạn bi hùng đó, có lẽ mới có thể cảm nhận được rõ hơn cái đau đớn của cả dân tộc lúc đó nói chung, của miền Nam nói riêng, trong hơn 20 năm máu lửa đau thương. Nghi thật có phần....ganh tị vì bị sinh sau đẻ muộn, để rồi chỉ có thể nhớ được rất mông lung về những trận pháo kích trong thành phố, những lần mẹ dắt chạy vội xuống hầm, lần chạy giặc từ miền Trung, và những hình ảnh mơ hồ của ba Nghi, của chú, của bác, của cậu, của anh...trong những bộ đồ trận, đồ bay rất oai, rất đẹp.....

Nghi cũng như chú, tin rằng chế độ cs sẽ cáo chung 1 ngày rất gần đây. Nét bi tráng, kiên trung của những quân binh cán chính VNCH xưa hòa vào hồn thiêng sông núi, sẽ làm mẫu mực để xây dựng lại niềm tự hào, hãnh diện của những thế hệ VN tương lai, chú Cao Nguyên hén.

Nghi kính chú luôn an vui, mạnh khỏe.

vn

cao nguyên
02-22-2012, 07:27 PM
Người lính chưa qua sông



(Cho cháu Trúc Vy khi cháu khôn lớn
để cháu hiểu và thương ngày xưa của ông ngoại)






http://i14.photobucket.com/albums/a342/mm_ngoc/nguyens/dautron.jpg

Ngày thứ mười hai của trận chiến, từ khi lên Bộ Tư Lệnh họp và nhận lệnh trở về, Tiểu Đoàn trưởng luôn trầm tư. Nhiều lần Tiểu Đoàn trưởng nhìn Tiểu Đoàn phó như muốn nói gì đó nhưng rồi lại lắc đầu, yên lặng. Qua vô tuyến, các đại đội báo cáo vẫn tiếp tục hoạt động lục soát trong khu vực trách nhiệm và tìm thấy rất nhiều xác lính CS và các loại vũ khí của họ trong rừng cao su hướng Tây Nam thị xã. Tiểu Đoàn trưởng cho lệnh các Ðại Đội trưởng: “không cần thiết phải thu lượm chiến lợi phẩm.” Ðến sáu giờ chiều, Tiểu Đoàn trưởng họp các Đại Đội trưởng cho lệnh chuẩn bị di chuyển lúc sáu giờ ba muơi phút. Im lặng vô tuyến kể từ giờ phút này. Bảy giờ kém mười lăm, khi Tiểu Ðoàn vừa đến điểm tập trung tại ngã ba Tân Phong sát quận đường Xuân Lộc, Tiểu Đoàn phó và các Đại Đội trưởng mới biết lệnh bỏ Xuân Lộc. Mọi người tái mặt nhưng không ai nói gì. Tiểu Ðoàn Truởng nhìn sâu vào mắt Tiểu Đoàn phó Nguyễn Mạnh Tông như muốn san sẻ nổi buồn và sự lo lắng của bạn mình. Nguyễn Mạnh Tông có vợ và mẹ vợ đang ở Xuân Lộc. Bây giờ quân rút, số phận người thân ở lại sẽ ra sao khi quân lính CS tràn vào phòng tuyến trống nội ngày mai. Nguyễn Mạnh Tông nhìn Tiểu Đoàn trưởng gật đầu và nói trong xúc động:

- Không chỉ riêng gia đình tôi mà còn rất nhiều gia đình vợ con binh sĩ Sư Ðoàn phải chịu ở lại. Buồn và lo thật nhưng đành chịu. Nếu Thiếu Tá có cho tôi biết trước, tôi cũng sẽ không về từ biệt gia đình. Mọi người ai cũng biết đến bài học rút quân đầy cay đắng của quân dân vùng Cao nguyên vừa mới tháng trước đây thôi. Gia đình kéo theo, lính không còn lòng dạ nào để chiến đấu…

Rút bỏ Xuân Lộc theo tình hình biến chuyển của chiến trường, và tình hình chung của đất nước, nhưng dù sao đi nữa, lòng người lính Sư Ðoàn cũng vô cùng đau xót khi phải bỏ vùng đất nhà quen thuộc. Và còn nữa: sự liên hệ mật thiết với người ở lại, ra đi chẳng khác gì ruột cắt làm đôi. Ðêm đó trên đường hành quân, anh em binh sĩ nhận ra được Tư Lệnh Sư Đoàn kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, cùng di chuyển đường bộ với họ… Tại sao Tư Lệnh không xử dụng trực thăng riêng của ông? Buổi trưa họp ở BTL, Tiểu Đoàn trưởng nhận thấy Tư Lệnh không được khoẻ, gương mặt hốc hác với đôi mắt sâu và thâm quần của một người mất ngủ. Thế mà đêm nay rút quân ông lại không xử dụng trực thăng riêng của mình để được khoẻ thân và an toàn như nhiều cấp tướng lãnh chỉ huy khác? Thêm một lần nữa, vị Tướng trẻ chứng tỏ tinh thần sát cánh chiến đấu cùng với thuộc cấp, trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những giờ phút sinh tử. Với một cấp chỉ huy như vậy thì anh em binh sĩ làm sao mà không hăng say chiến đấu… Nhìn lại, ba năm giữ chức vụ Tiểu Đoàn trưởng dưới quyền ông, vỏn vẹn chỉ có ba chai Martel mình tặng ông trong dịp Tết. Ðáp lại khi Tiểu Đoàn về trú đóng gần bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, ông đã ưu ái tổ chức tiệc, dạ vũ cho tất cả sĩ quan Tiểu Đoàn và chính ông cùng tham dự, lên sân khấu đàn và hát cho anh em binh sĩ nghe.

Sư Đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc, xe tăng và bộ binh càn qua chốt địch chận trên đường 22 mà đi, về đến Bình Giả vào sáng hôm sau gần như toàn vẹn. Chỉ riêng anh em chiến sĩ Lữ Ðoàn Dù tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc rút sau, trách nhiệm đoạn hậu nặng nề đã chạm súng với quân CS bám theo. Trở về căn cứ Long Bình vài ngày để bổ sung vũ khí. Ngày 25 tháng Tư, Tiểu Đoàn theo Trung Đoàn lên lập phòng tuyến tại vùng Trãng Bom, ranh giới Biên Hòa, Long Khánh. Cùng với một Chi Đoàn M113 thuộc Thiết Ðoàn 5 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Tiểu Đoàn dàn quân bên này hào sâu cắt ngang Quốc Lộ 1. Quân số Tiểu Ðoàn sau trận Xuân Lộc còn lại trên 300. Một điều khiến các cấp chỉ huy Tiểu Đoàn rất vui là không một người lính nào đào ngũ dù mấy ngày ở Long Bình, Biên Hòa, nơi anh em có nhiều cơ hội để bỏ về Sài Gòn, nơi có gia đình đang trông đợi. Tất cả anh em không đành lòng bỏ lại bạn bè, cấp chỉ huy, tất cả cùng chấp nhận đồng lao cộng khổ cho đến giờ phút cuối cùng.

Sáng ngày 27 tháng Tư, xe tăng địch bò đến phía bên kia phòng tuyến. Hai chiếc M41 của Thiết Ðoàn 5 nguỵ trang chực sẳn bắn đại bác 90 ly trúng một tăng địch. Nhưng, từ hai mặt phải trái cách quốc lộ 1 khoảng trên 100 mét, cùng một lúc lính bộ binh và xe tăng địch xuất hiện. Thì ra lực lượng địch biết không thể băng qua hào sâu nên len lỏi trong rừng, bọc vòng tạo thành thế gọng kềm để kẹp chặt Trung Đoàn 48. Qua vô tuyến, lúc đó mới biết rằng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn 1 đóng trong đồn điền cao su Trãng Bom đã rút về hướng Nam từ lúc tờ mờ sáng. Như vậy tại tuyến đầu chỉ còn lại Tiểu Đoàn 3 và một Chi Ðoàn M113 trong lúc xe tăng và bộ binh địch ào ào tràn ra từ ba hướng. Sau lưng không còn lực để dựa thì còn đánh đấm gì được nữa!.Nếu không nhanh chân thì chắc chắn sẽ bị quân CS bao vây cắt đường rút và diệt gọn. Tiểu Đoàn trưởng lệnh cho các đứa em phân tán, rút nhanh ra đường. Tội nghiệp Chi Đoàn M113 của Đại Úy Sơn phải tức tốc phân tán để đón những người bạn bộ binh trong lúc tăng địch bắn phá dữ dội. Nếu thiếu tinh thần chiến đấu và đồng đội thì anh em thiết giáp đã bỏ bạn bè bộ binh, vì thật ra M113 đâu phải là đối thủ của tăng T54 CS. Ngay cả M41 của mình cũng đã quá già nua yếu ớt đối với T54. Nhưng nếu M113 mà bỏ chạy thì đâu còn là chiến sĩ Thiết Giáp Quân lực VNCH. Hơn nữa, Tiểu Đoàn 3/48 với Chi Đoàn 3 Thiết Ðoàn 5 đã quá quen biết giao tình qua bao cuộc hành quân chung khắp vùng 3 chiến thuật và bên kia biên giới Campuchea trong năm 1970. Chi Đoàn M113 của Đại Úy Sơn vốn đã quen địa hình nên sau khi đã gom được bộ binh liền rút rất nhanh. T54 địch đuổi theo, nhưng không làm được gì. Ðây thật sự là một cuộc rút chạy. Ðáng buồn thật. Ðáng buồn vì phải bỏ lại hai chiếc M41 anh hùng ở tuyến đầu, đáng buồn vì đơn vị chưa nổ một phát súng đã tìm đường thoát thân. Nhớ lại đêm nào ở mặt trận Bến Cát Bình Dương năm 1973, lính Tiểu Ðoàn đuổi tăng địch, bắn cháy tăng địch, và mới hai tuần trước đây thôi lúc còn ở mặt trận Xuân Lộc, tăng địch là miếng mồi ngon cho M72. Ðáng buồn khi nghĩ đến anh em chiến sĩ Ðịa Phương quân ở căn cứ Bầu Cá chiến đấu trong tuyệt vọng. Tội nghiệp cho những chiến sĩ và gia đình con bị bỏ lại trong căn cứ Bầu Cá nhỏ bé, cô đơn.

Ngày 28 tháng tư, Tiểu Đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Nô, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 làm tuyến án ngữ mặt bắc căn cứ Long Bình. Ngày hôm đó, chỉ có tăng của hai bên bắn nhau, còn bộ binh ngồi chơi, la hét cổ võ mỗi lần tăng địch bị trúng đại bác 90 ly của M41. Lúc này mà có M48 lâm trận thì T54 của địch chắc phải cháy như cây đuốc nhiều hơn nữa. Từ đồi cao nhìn xuống Quốc Lộ, người lính Sư Đoàn hết sức khâm phục những người bạn Nghĩa Quân Hố Nai, chỉ với súng carbin và M16 trong tay cũng bố trí chận đánh bộ binh địch nếu địch dám xâm phạm vào vùng đất xóm làng thân thương của họ.

Ngày 29 tháng tư, lúc 5 giờ chiều, Tư Lệnh gọi Trung Tá Thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 5 và Tiểu Đoàn trưởng 3/48 đến BTL trong căn cứ Long Bình để họp cùng Tướng Lê Minh Ðảo, Trung Tá Nguyễn Văn Nô và Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3/48. Khi đang họp thì chuông điện thoại reo vang . Tướng Tư Lệnh nhấc ống nghe. Một phút sau ông bỏ máy với vẻ chán nản và nói:

- Tổng Thống Dương Văn Minh hỏi chúng ta có giữ được Long Bình Biên Hòa để chờ thương thuyết không?

Ông nhìn thẳng hai thuộc cấp rồi chậm rải từng tiếng một:

- Phải giữ bằng mọi giá, đây là vòng đai cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn!

Ông nhướng đôi mắt sáng lên:

- Thiết Ðoàn của Trung Tá Nô chưa suy suyển bao nhiêu phải không? Còn em, quân số Tiểu Đoàn còn được bao nhiêu ?

- Thưa Thiếu Tướng, còn đủ, chưa mất mát người nào từ khi rời khỏi Xuân Lộc!

Nhìn hai anh em chúng tôi, Thiếu Tướng nói với giọng cương quyết:

- Các em phải chiến đấu toàn lực, không được để mất thêm một tấc đất nào!

Trên tấm bản đồ hành quân vùng 3 Chiến Thuật, đầy ký hiệu màu đỏ chỉ các đại đơn vị địch: QĐ 1 từ hướng Bắc theo QL 13, QÐ2 và 4 từ hướng Ðông Bắc đang áp sát Biên Hòa, QÐ 3 từ Tây Bắc theo QL 1 gần Củ Chi, các Sư Đoàn, Trung Đoàn, tổng cộng gần 16 Sư Đoàn quân CS với những mũi tên đỏ cùng chỉ hướng Sài Gòn. Trung Tá Nô lắc đầu khi nhìn khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ và lo âu của vị Tư Lệnh. Mình cũng vậy thôi phải không Trung Tá, nhưng dù sao thì chúng ta ngày quần thảo với địch quá mỏi mệt, đêm nằm xuống đầu không kịp suy nghĩ đã bị hơi đất xông lên kéo giấc ngủ đến rất mau. Những giấc ngủ mệt nhưng có còn hơn không. Tư Lệnh thì chắc không ngủ được bởi cái đầu chứa đầy hình ảnh những mũi tên đỏ chỉ về Thủ đô. Ngày mai sẽ có giải pháp, Tổng Thống Dương Văn Minh vừa nói như vậy. Giải pháp như thế nào? Giải pháp gì khi chúng ta đang ở trong thế yếu? Nhượng bộ và nhượng bộ mà thôi! Lời nói của Tổng Thống khi ông nhậm chức ngày hôm kia rõ ràng đã tỏ ra quá nhiều nhân nhượng và sợ hãi kẻ thù, làm mất tinh thần toàn quân. Ông dùng hai chữ “anh em” để chỉ kẻ xâm lược như một đòn tình cảm, nhưng chắc chắn ông chẳng bao giờ được phe bên kia đáp ứng trong “tinh thần anh em” đó.

Khoảng 11 giờ đêm 29 tháng Tư, đài phát thanh Sài Gòn phát lời huấn lệnh của Tướng ba sao Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH:

- Các cùi cố gắng giúp Tổng Thống hoàn thành nhiệm vụ lịch sử!

Có phải chăng đây là lời giả biệt của vị Tướng ba sao? Linh cảm cho anh em chiến sĩ biết rằng lại thêm một cấp chỉ huy cao cấp đào ngũ, bỏ nước ra đi. Có một chút gì cay đắng, buồn bực và khinh thường trong lòng những người chiến binh. Không! Chúng tôi không bỏ hàng ngũ! Vẫn còn những người lính Bộ Binh và Thiết Giáp đầy gian khổ nguy nan này, vẫn còn rất nhiều đơn vị trên các trận tuyến chung quanh Thủ Đô yêu quý. Sư Đoàn 5 ở Lai Khê của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Sư Ðoàn 25 ở Củ Chi của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ anh hùng các đại đơn vị Tổng trừ bị Dù, Thủy Quân Lục chiến, Biệt Ðộng Quân. Những cánh chim đại bàng của Không Quân VNCH vẫn còn bay, những hạm đội của Hải Quân vẫn còn trên sông ngòi, mặt biển Tổ Quốc.

Ðêm đó, pháo địch từ mọi hướng rót xuống Long Bình như không ngừng nghỉ. Khoảng 3 giờ sáng toàn thể các đơn vị được lệnh rút khỏi Long Bình kéo về bờ Nam sông Ðồng Nai làm phòng tuyến. Lúc qua thành phố Biên Hòa, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy rất nhiều xe tăng tối tân M48 bố trí khắp nơi trong thành phố. M48 nằm đây để chờ T54 của địch vào thành phố rồi mới nổ súng hay sao ? Biết còn có cơ hội nổ súng hay không? Sao Tư Lệnh Quân đoàn Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn không tăng cường M48 cho chiến tuyến Trãng Bom mà giao trách nhiệm nặng nề cho những chiếc 41 có từ Ðệ Nhị Thế Chiến? Tiểu Đoàn Trưởng nuốt nước bọt đắng khô cổ nhưng nước mắt thì như muốn ứa ra đầy uất ức. Người ta quý những chiếc tăng 48 này hơn những mạng người. Một chiếc tăng M48 giá mấy triệu Mỹ kim trong lúc giá một người lính bằng 12 tháng tiền tử tuất. Thôi đi, đừng suy nghĩ vẩn vơ, ngươi chỉ là một sĩ quan chỉ huy nhỏ, cầm Tiểu Đoàn còn chưa xong, biết gì mà vội trách móc các cấp chỉ huy cao cấp của mình!

Ngày 30 tháng Tư lúc trời vừa hừng sáng, đơn vị vừa xuống xe đang bố trí gần khu Nghĩa Trang Biên Hòa thì quân CS với xe tăng treo cờ MTGP dẩn đầu đoàn Molotova theo xa lộ hướng về Sài Gòn. Họ đi một cách ngang nhiên như đoàn xe diễn hành. Mấy chiếc tăng dẩn đầu, thỉnh thoảng còn nổ súng bắn vu vơ vào hai bên đường, còn bộ binh trên xe Molotova vẫn ngồi yên. Hỏa lực từ vài chiếc M113 trên đồi Nghĩa Trang bắn theo nhưng đoàn xe CS vẫn tiếp tục theo hướng đã định. Lúc này thì Bộ Binh đã tách rời Thiết Giáp. Không biết Thiết Ðoàn 5 sau đó về đâu, còn Bộ Binh gồm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 48 với Trung Đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Chí Công và toàn bộ Tiểu Đoàn 3 cùng băng đồng tìm cách về Sài Gòn. Trung Ðoàn phó là Trung Tá Khôi đi cùng Tiểu Đoàn 1/48 cũng trực chỉ hướng Thủ Ðô. Người lính lúc này sốt ruột lắm. Phải di chuyển cho nhanh về tiếp tay với các lực lượng bạn ở Sài Gòn để giữ cho được Thủ Đô yêu quý của người miền Nam. VC từ trong các làng, sau các lùm tre bắn đuổi theo, anh em cũng không cần bắn trả lại. Thỉnh thoảng nghe những tiếng nổ lớn từ hướng Sài Gòn, và nhìn những cụm khói đen bốc cao từ lòng Thủ Đô, bước chân người lính như muốn bốc lên khỏi những cánh đồng đất bùn đang làm chậm bước. Thấy lính Sư Ðoàn, anh em Ðịa Phương Quân bỏ đồn bót, xách súng đạn chạy theo để cùng về Sài Gòn chiến đấu. Ðồn bót làm gì nữa khi Sài Gòn sắp mất.

Nhưng!!!… Lúc đó khoảng mười giờ, cái thời gian lạ hoắc và đáng nguyền rủa. Bàng hoàng, sửng sốt, tuyệt vọng bỗng ào đến giữ chặt cứng những bước chân, làm mắt hoa lên và tim như nghẹt thở khi tiếng nói của một người xa lạ vang lên từ chiếc radio nhỏ người lính mang theo bên mình. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông là ai? Chắc ông không phải là Nguyễn Hữu Hạnh, con cọp Ba Ðầu Rằn nổi tiếng, từng khiến Cộng Sản kinh sợ ở Biệt Khu 41 Phước Bình Thành? Nguyễn Hữu Hạnh này là Nguyễn Hữu Hạnh xa lạ vừa được Tổng Thống hai ngày phong chức Tham Mưu trưởng QLVNCH. Chúng tôi nghi ngờ ông không phải là một vị tướng lãnh của QLVNCH, bởi vì nếu thật ông là Tuớng từng cầm quân trận mạc thì chắc ông đã không quên ý chí kiêu hùng của người lính VNCH. Chúng tôi, những con xe đã ủi hết cuộc đời, những con tốt đã liều lĩnh qua sông, những con mã chạy không kịp thở, những con pháo tự nổ tung xác để làm gì trong bao nhiêu năm tháng qua, để bây giờ phải lắng nghe, tuân thủ cái lệnh buông súng đầu hàng nhục nhã!? Quý vị không thấy nhưng chúng tôi thấy những bạn bè đã hy sinh đang sống lại, khóc lóc và nguyền rủa… Ngay cả những oan hồn người lính CS chết trên đường vào Nam cũng đang cười vào đầu óc ngây thơ của quý vị đang ngồi trong dinh Ðộc Lập, trong bộ Tổng Tham Mưu!! Ðầu hàng! Thật quá dễ. Chúng tôi có thể làm được điều đó ngoài mặt trận, nhưng những người lính trực diện với súng đạn đã không làm vì còn danh dự, trách nhiệm đối với Quân Lực và Tổ Quốc. Không bao giờ chúng tôi nghĩ đến ngày QLVNCH phải đầu hàng. Thực tế tại các chiến trường trong nhiều năm chiến đấu đã cho chúng tôi niềm tin rằng QLVNCH mạnh hơn quân CS Bắc Việt trên mọi mặt. Chúng ta yếu kém hơn họ trên mặt trận tuyên truyền láo khoét mà thôi. Chao ơi, nào ai muốn chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhưng có ai nhận chúng ta là huynh đệ không? Và họ có nghĩ gì đến tổ quốc Việt Nam hay là chỉ phục vụ cho tổ quốc Cộng Sản bạo tàn? Chúng ta không muốn chiến tranh, chúng ta chỉ là kẻ tự vệ. Kẻ tự vệ bao giờ cũng sáng ngời lý tưởng, huống gì lý tưởng chiến đấu của chúng ta là hai chữ Tự Do. Này, các “người anh em”, hãy đến đây nhận lấy vũ khí, rồi trả thù, hành hạ, đánh đập, tù ngục chúng tôi. Khi buông súng là mặc nhiên chấp nhận tất cả. Và để rồi xem ý nghĩa hai chữ “anh em” mà thượng cấp chúng tôi dùng sẽ như thế nào! Anh em đồng đội của tôi ơi, cho đến giờ phút này, tuy lòng đau đớn nhưng chúng ta thật bình thản, không hề mảy may sợ hãi, bởi vì chúng ta đã cầm súng để tự bảo vệ mình. Chúng ta chiến đấu trong tinh thần dân tộc máu đỏ, da vàng, không thẹn với lương tâm bởi tinh thần mã thượng và nhân đạo của con nguời đối với con người nơi trận tuyến. Chúng ta quý mạng sống kẻ thù như mạng sống của mình. Chưa, chưa bao giờ chúng ta nhẫn tâm ném một trái lựu đạn xuống hầm VC vì tiếng khóc của bà mẹ, của người vợ van xin cho đứa con, cho người chồng lầm đường. Chưa bao giờ chúng ta căm thù, hành hạ kẻ vừa bắn ngã đồng đội anh em mình bởi vì chúng ta hiểu đó là quy luật của chiến trường. Những người lính hai bên ai cũng muốn mình chiến thắng. Người lính miền Nam chúng ta nổ súng không có thù hận đem theo. Và đó cũng là một nguyên nhân mà chúng ta thành kẻ chiến bại ngày hôm nay.

* * *

Lúc này là 11 giờ 30, mặt trời và mặt đất như chưa bao giờ biết nhau như những người lính chưa bao giờ phải buông súng đầu hàng. Gần ba trăm tay súng, bỗng chốc tự mình làm cho mình còn lại tay không. Tay không trong hiện tại đớn đau và tay không trong tương lai khốn cùng. Ba trăm con người sắp hàng bước đi trước họng súng của mười du kích CS. Có lẽ trong giây phút này đây quý vị trong dinh Tổng Thống cũng không hơn gì chúng tôi. Nơi đây, những du kích này còn lo sợ chúng tôi phản ứng còn quý vị thì đang ngoan ngoãn vâng lời dạ thưa tôi xin bàn giao, tôi xin đầu hàng. Trong dinh tổng Thống không có mẹ già khóc, không có những em nhỏ nhìn theo mến thương, trước đám đông, nhiều đồng bào còn hoan hô các anh chiến sĩ QLVNCH. Ðây là đồng bào thuộc xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Ðức, những con dân miền Nam nhân ái , yêu chuộng tự do. Họ đang đứng thành hàng hai bên đường, không phải để đón tiếp kẻ cầm vũ khí trong tay mà đón tiếp những người vừa bị lột trần giày, nón. Những nụ cười rất quen thuộc, thân thương mà kẻ chiến thắng cũng như quý vị cao chạy xa bay, đầu hàng không bao giờ được trao tặng. Cởi giày, cởi áo phải chăng là khúc cuối của vở bi kịch? Phải, chính là bi kịch, nhưng đoạn cuối thì chưa đến. Vì là bi kịch nên cha, mẹ, anh chị, em đứng hai bên đường rơi nước mắt. Tất cả mọi người đều sợ chiến tranh, giờ đây chiến tranh đã chấm dứt mà sao đồng bào nơi đây không cảm thấy có niềm vui. Phải chăng khi đã thật sự thấy tận mắt những gương mặt hốc hác, những nụ cười không lành lặn, trọn vẹn, những áo bạc màu rách vai, những đôi giày vẹt đế đầy bùn đất… đồng bào mới hiểu được có những chịu đựng tận cùng của con người nơi các chiến sĩ miền Nam của họ. Và chính đó là tình thương chân thật . Mừng cho các con còn sống! Mừng cho các anh yên lành! Chúng con nghe mẹ nói, muốn cầm tay mẹ và thì thầm mẹ ơi, chúng con đang chết từ giây phút này, một cái chết dưới thấp hơn tất cả cái chết trên đời thưa mẹ. Các anh muốn nói với em rằng có những vết thương đang hằn sâu, sâu hơn những vết thương các anh nhận từ chiến trận .





* * *

Một tên xã đội trưởng du kích hỏi:

- Ai là cấp chỉ huy ở đây?

Mọi người chờ đợi. Tiểu Đoàn trưởng trả lời:

- Tôi!

- Anh tập họp tất cả binh lính!

Xã đội trưởng nói, giọng không được tự chủ khi đối diện với mấy trăm con người mắt nhìn hắn như trêu ghẹo… Lúc đó trong sân chùa Long Thạnh Mỹ, những người lính ngồi bệt xuống đất, cởi những chiếc vớ nhà binh rồi đưa lên mũi ngửi, mỉm cười nhìn nhau. Phải không bạn, chúng mình mang những đôi vớ này đã mấy ngày từ hôm rút khỏi Trãng Bom mà không có thì giờ để thay chiếc khác. Cởi những đôi vớ ra, bàn chân thật thoải mái nhưng tâm hồn sao lại u uất. Mùi hôi của vớ không nặng bằng mùi phiền muộn. Khi thấy anh em binh sĩ cởi giày, nhiều bà con chạy về nhà lấy dép ra cho. Lính và dân trao đổi giày nhà binh và dép nhẹ với những nụ cười như muốn nói với nhau: “Cám ơn em đã cho anh đôi dép, đôi dép khiến đôi bàn chân anh nhẹ nhàng. Cám ơn anh đã nhường cho em đôi giày lính, đôi giày này sẽ tiện lợi cho em trong những tháng ngày tương lai.” Thấy đồng bào vui mừng khi nhận đôi bốt mòn đế, người lính ngạc nhiên nhưng rồi chợt hiểu. Phải, chính từ giờ phút này đây, những cuộc đời sẽ thay đổi, những khốn khó đang chực chờ. Tội nghiệp các em đang độ tuổi lớn khôn, chỉ mới ngày đầu mà đã thấy ra con đường tương lai đen tối! Khoảng hai giờ chiều thì đồng bào đem thức ăn đến sân chùa Long Thạnh Mỹ.

- Các con ăn cơm cho đở đói!

- Các chú ăn cho thật no nghe!.

- Các anh cứ tự nhiên như ăn cơm của mình!

Ðồng bào trong xã mời các anh, thương các anh lắm! Ðã lâu lắm rồi, đây là bữa cơm thịnh soạn nhất mà người lính chiến đấu được hưởng. Cơm gạo trắng, thịt heo kho măng thơm phức. Nhiều đồng bào đứng xem lính ăn, cười mãn nguyện.

- “Trưa nay ăn thịt kho, chiều nay ăn cá lóc kho nghe các con!” Mẹ nói.

- “Ra giếng chùa tắm cho mát rồi đi nghĩ cho khoẻ nghe các con!” Cha bảo.

Tội nghiệp vị sư già gần 70 tuổi, không quen mùi thức ăn sinh vật, nhưng cũng đi từ nhóm này đến nhóm khác thăm hỏi như là một người cha sau bao ngày xa xách con mình. Hầu hết anh em binh sĩ đều ăn uống tự nhiên, rất ngon lành. Những sĩ quan chỉ huy thì không bình yên như vậy. Có người không nuốt nổi vì nước mắt lưng tròng. Khóc vì tủi nhục và cũng vì sung sướng. Nếu chiến đấu không có lý tưởng, không vì tự do hạnh phúc của dân tộc thì sao có được bữa cơm đầy tình nghĩa đáp đền hôm nay.

Buổi chiều sân chùa vắng lặng vì anh em binh sĩ vào chơi trong làng. Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Đoàn trưởng và vài sĩ quan ở lại nghe vị sư già nói chuyện. Trước đây, sư đã từng có chức vụ trong ủy ban kháng chiến Liên khu 5 ở miền Trung, nhưng sư bỏ trốn vào Nam khi nhận rõ bản chất của người CS. Sư nói:

- Quân Ðội miền Nam có lý tưởng nhưng không tinh nhuần lý tưởng, lại thiếu khôn ngoan xảo quyệt, nhân nghĩa giả như Cộng Sản.

Khi được hỏi về tương lai của miền Nam thì vị sư lắc đầu:

- Thầy e rằng rồi đây ngay những chiếc áo tu nâu sồng nghèo khó cũng khó được mặc!

Ðôi mắt vị sư buồn nhìn về xa xôi:

- Từ khi cuộc chiến bùng nổ lớn, mất miền Trung, đồng bào hàng hàng lớp lớp chết vì chạy giặc, kinh kệ không vào trong đầu óc thầy nữa!

Ðôi mắt sư nhìn sâu vào mắt mọi người với tiếng thở dài. Giọng một người run run:

-Vì đau khổ của chúng sanh mà tâm thầy không an, đôi mắt thầy hướng ra ngoài cửa Phật, còn chúng con hôm nay có được giây phút an lạc hiếm hoi trong cuộc đời. Chỉ sợ mai đây khi bước ra khỏi bóng chùa…

Sư chắp tay hướng lên bàn thờ Phật:

- Mô Phật! Bây giờ thì mọi chuyện đã xong, chỉ mong rằng họ sẽ khôn ngoan giải quyết trong tình nghĩa huynh đệ, đồng bào ruột thịt thì mới mong oán oán không chất chồng!

Lời Sư trầm hẳn xuống:

- Các con rồi đây phải cố gắng nhẩn nhục chịu đựng, chấp nhận tất cả. Thầy tin rằng đồng bào mình không ai không thương các con. Hãy tạm quên lý tưởng mà luôn luôn nghĩ đến sự tồn tại thực tế của gia đình mình!

Khi nghe Sư hỏi thăm gia cảnh mình, tự nhiên mọi người đều ứa nước mắt. Nước mắt sư cũng ứa ra. Vì thương nhớ quê nhà, lo âu cho đạo pháp hay biết trước số phận sắp tới của những con người còn trẻ đang quây quần trước mặt mà thầy khóc? Có lúc nào đó, lòng chợt nhớ đến mẹ. Không biết mẹ còn ở Huế hay lạc bước đến phương nào từ khi Huế mất.

- Ðêm nay thầy không thỉnh kinh, các con vào chánh điện mà nghỉ!

Sư nói, rồi nhẹ nhàng đứng dậy. Anh em cũng đứng dậy chào người. Sư bước đi, dáng gầy xiêu xiêu. Màu nắng chiều tháng Tư nhạt nhòa trên vai áo nâu sồng, màu nắng loang lổ trên bậc thềm chùa như những mảnh vá của tâm hồn những người tạm nương nhờ cửa Phật đêm nay.

Buổi tối anh em binh sĩ về sân chùa đầy đủ. Dưới ánh trăng mờ mọi người nằm la liệt, có người ngủ say bất động như xác chết. Một vài tiếng ho, ú ớ từ đâu đó vang lên. Không ngủ được, Nguyễn Mạnh Tông ngồi dậy nói :

- Anh Ba ơi, anh em mình đi một vòng trong sân thử xem!*

Trần Văn Minh ÐÐT Ðại Ðội Chỉ huy, nghe nói cũng ngồi dậy:

- Em đi với anh Ba và anh Tư!

Tông hỏi: – Có cần đếm thử xem anh em còn đủ không?

- Thôi khỏi cần. Chắc không có anh em nào bỏ đi đâu! Tiểu Đoàn trưởng nghĩ thầm: “Anh em ai bỏ đi lúc này cũng được nhưng chắc không ai nỡ, anh em biết rằng nếu có người bỏ đi thì ngày mai các sĩ quan chỉ huy sẽ bị làm khó dể. Anh em ở lại để tỏ rỏ tình huynh đệ và tính kỷ luật của đơn vị một lần cuối. Cám ơn các em. Chúng ta chỉ còn với nhau ở nơi yên tỉnh này một đêm thôi. Rồi ngày mai… “

* * *

Mọi người ngước mắt nhìn bầu trời phương xa đang treo lơ lửng một vài trái sáng. Chắc chắn đâu đó, quanh Sài Gòn và ngay trong lòng Sài Gòn giờ phút này vẫn còn có những người vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn Vùng 4 Chiến Thuật nữa. Vùng 4 không đầu hàng CS. Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng là những danh tướng, quý vị sẽ không tuân lệnh Tổng Thống Dương Văn Minh. Vùng 4 dân đông, kinh tế phồn thịnh sẽ là nơi quy tụ những anh hùng. Khi ba người trở lại chỗ cũ thì thấy mấy anh em thuộc trung đội Quân Báo của Thượng Sĩ Bé đang ngồi nhìn dáo dác chung quanh. Bé nói:

- Em giật mình thức dậy không thấy Thiếu Tá và hai Đại Úy nên gọi anh em dậy đi tìm!

Tiểu Đoàn trưởng cám ơn rồi bảo mọi người đi ngủ. Tình cảm anh em vẫn còn gắn bó quá, thật không có gì thay đổi dù Tiểu Đoàn trưởng bây giờ không còn là Tiểu Đoàn trưởng, sĩ quan không còn là sĩ quan… Ðặt lưng nằm xuống, nhưng ba người vẫn không ngủ được. Giờ phút này, thật sự chỉ có giờ phút này mới nghĩ đến gia đình vợ con, mấy ngày qua chỉ nghĩ đến sự an nguy của đơn vị. Chỉ có những người lính chiến đấu mới biết rõ điều này hơn ai hết. Một đêm yên lành, thể xác bềnh bồng trôi qua đêm. Sáng 1 tháng 5, nắng đã lên ngoài sân chùa.

- Mời Trung Tá, Thiếu Tá uống trà! Nguyễn Toàn, nguyên là người phụ trách cơm nước cho Tiểu Đoàn trưởng, pha trà và mời.

-Thôi anh Toàn, đừng gọi trung tá, thiếu tá, đại úy gì nữa, mọi người đều như nhau, cùng một hoàn cảnh cả!

- Dạ, nhưng tụi em vẫn xem như không có gì thay đổi!

Tiểu Đoàn trưởng quay qua người lính quân báo bên cạnh, hỏi nhỏ:

- Cây súng nhỏ của tôi cậu còn giữ không?

Người lính nở nụ cười:

- Em xin lỗi, em cố giữ như lời Thiếu Tá dặn, nhưng mấy anh em khuyên em ném nó đi, coi chừng Thiếu Tá nóng nảy làm bậy, khổ cho gia đình. Tụi em thấy mấy người du kích có vẻ nể nang chúng ta, họ không dám làm nhục Thiếu Tá và các vị sĩ quan đâu. Loạng quạng tụi em bẻ họng tụi nó hết!

Khoảng 11 giờ trưa, xã đội trưởng xuống gặp Tiểu Đoàn trưởng, yêu cầu tập trung binh sĩ để nhận giấy chứng nhận cho ra về. Theo lời Tiểu Đoàn trưởng, mọi người kéo nhau xuống tập họp tại sân xã. Tiểu Đoàn trưởng và các sĩ quan nhận giấy rồi phát lại cho anh em binh sĩ . Ðứng trước anh em đang tập họp, xã đội trưởng VC nghiêm sắc mặt rồi nói:

- Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam khoan hồng cho tất cả các binh sĩ nguỵ về với gia đình. Yêu cầu khi về địa phương phải đến trình diện chính quyền Cách Mạng. Các sĩ quan cấp Úy cũng sẽ được ra về nội trong chiều nay. Riêng sĩ quan cấp Tá sẽ được chuyển lên Ủy Ban Quận quyết định. Ai nhận giấy tờ xong bây giờ có thể ra về!

Xã đội tưởng dứt lời, đưa mắt nhìn anh em binh sĩ. Anh em vẫn đứng yên, mắt hướng về những người chỉ huy cũ chờ đợi. Tiểu Đoàn trưởng bước đến trước anh em nhưng miệng như không thốt ra được lời nào. Một phút rồi hai phút, bỗng trong hàng quân có tiếng khóc. Tiểu Đoàn trưởng ứa nước mắt. Anh em ứa nước mắt. Tiểu Đoàn trưởng nói và chớp chớp đôi mắt để làm khô nhanh hạt lệ đang ứa ra.

- Ô kìa, sao lại… Anh em! Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thấy một anh em nào khóc, ngay cả khi chứng kiến sự hy sinh của bạn mình. Bây giờ hết chiến tranh rồi, hết chết chóc rồi, anh em sẽ ra về xây dựng cuộc đời mới, sống hạnh phúc với gia đình vợ con thì tại sao lại làm như đàn bà thế, phải vui cười lên chứ. Cười như tôi đây này! Tiểu Đoàn trưởng nói và cố mỉm cười. Cái mỉm cười lạ lùng nhất mà mọi người chưa bao giờ thấy. Anh em mỉm cười theo, có người cười thành tiếng nhưng vẫn có người còn sụt sùi. “TÐ 3/48 chưa bao giờ bại trận, ngay cả bây giờ cũng vậy, không được tỏ ra yếu đuối trước họ, không thể để họ xem thường tinh thần người lính miền Nam”. Tiểu Đoàn trưởng nói thầm với mình rồi quét đôi mắt sáng đầy cương quyết nhìn mọi người. Tiểu Đoàn phó Nguyễn Mạnh Tông gật đầu nhận hiểu. Anh em nhận hiểu như đã nhiều lần nhận hiểu khi nghe cấp chỉ huy mình nói trước giờ xuất quân . – Bây giờ anh em có thể ra về, nhưng hãy trả lời tôi trước khi chúng ta chia tay! Tiểu Đoàn trưởng chống hai tay vào hông, một cử chỉ quen thuộc mỗi lần đứng trước hàng quân. -Tất cả! Ngồi… – Xuống! – Ðứng… – Dậy! Cả ba trăm người trả lời cùng với động tác ngồi xuống và đứng dậy một lượt, âm thanh hùng hồn vang động làm rung rinh tâm hồn những cán binh VC và đồng bào có mặt khiến họ đều nhất loạt vỗ tay. Khi mọi người bắt tay nhau từ giả, Tiểu Đoàn trưởng quay qua hỏi trung sĩ Lê Văn Tạo:

- Ngoài anh Tạo biết gia đình Sơn, còn có ai biết nữa không?

- Chỉ một mình em biết thôi, em đã chuẩn bị tất cả rồi, xác Sơn đã được đưa lên xe lam, chốc nữa em sẽ đưa Sơn về nhà cho gia đình Sơn!

Giọng Tạo thật buồn và anh nói tiếp:

- Nó cố giữ cái máy truyền tin nên bị hụt cẳng khi qua sông, em kêu nó buông cái máy ra mà nó không chịu nghe… Ðánh nhau không chết bây giờ lại chết, may mà sáng nay xác nỗi lên còn không thì …

- Có mấy trăm đây, em lấy mà trả tiền xe!

- Thưa Thiếu Tá không, người chủ xe lam không lấy tiền!

Sơn ơi! Cái chết của em đau lòng mọi người lắm, nhưng em sẽ bất tử trong lòng anh em bởi vì tất cả chúng ta không ai quên được những giờ phút Tiểu Ðoàn lội qua sông để mong đến với Sài Gòn đang kêu cứu.

* * *

Gã tù binh đứng như trời trồng giữa buổi trưa ngày cuối tháng tư nắng gắt. Gã nhắm mắt lại, tai nghe lao xao những lời từ giã. Tay gã muốn cử động khi có bàn tay ai nắm chặt nhưng bàn tay gã như khô đi và cứng ngắt. Gã đứng đó và thấy một dòng sông đang chảy xiết với hình ảnh những người lính vội vã lội qua sông. “Sơn ơi! Sao em không chịu buông cái máy truyền tin, còn giữ nó làm chi trong giờ phút sau cùng khi không còn gọi được một ai, không nghe ai gọi mình!” Hởi con sông đang chảy xiết và sẽ chảy mãi trong trái tim đau đớn của ta! Ta làm sao quên dòng chảy ào ạt của ngươi đã nhận chìm, cuốn trôi đôi tay người lính đang nâng chiếc máy truyền tin lên cao, lên cao. Hỡi người lính muốn qua sông về với Sài Gòn mà chưa qua được! Anh vẫn thấy đôi mắt em hướng về Thủ Ðô buổi sáng 30 tháng Tư. “Ngày xưa khi anh mở mắt chào đời, Mẹ yêu, theo gương người trước chọn lời,… đặt tên cho người nặng tình yêu nước vào nôi ( Phạm Duy). Không biết con sẽ hát bài ca này bao nhiêu lần trong cuộc đời lưu lạc Mẹ ơi!…


Nguyễn Phúc Sông Hương

cao nguyên
02-23-2012, 07:36 AM
Những Ngày Cuối Tháng Tư





http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&amp;v=pkiZ7G9Nt24#!



30 Tháng 4 Nỗi Đau Việt Nam




http://www.youtube.com/watch?v=21OQ9GW0OSc&amp;feature=related

cao nguyên
02-24-2012, 06:31 PM
Nghĩa trang xưa và tôi






http://hon-viet.co.uk/LinhVNCH_TiecThuong.JPG



" Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngủ, Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào"!



Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi hết chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời: tìm về nơi chôn nhau cắt rún, nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu , ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương giang khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa. Nổi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng, bởi ngổn ngang bao điều thúc bách. Ô hay , đau thương từ quá khứ như còn đâu đây , thoảng trên con hẽm về khuya khua đôi nạn gỗ hay bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước, một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu, nhưng xa hẳn thế giới đua chen, cần những bước chân ghé thăm và những nén hương lòng thắp lên...

Trước đây mỗi lần đi qua khu vực này, tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc qui mô và nghệ thuật của nghĩa trang, và khi nhìn tác phẩm THƯƠNG TIẾC, lúc nào tôi cũng thấy bức tượng Người Lính sống động. Người LÍNH ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến. Trong tư thế nuối tiếc Đồng Đội, anh như còn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi. Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một đấu tích để lại. Tôi nghe nói, người công sản đã đổ hận thù lên cả NGƯỜI LÍNH bằng đồng, một tác phẩm điêu khắc hiếm có , bằng cách đập phá bệ tượng, giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi.

Toàn cảnh đã đổi thay. Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất, chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này. Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi : Cổng TAM QUAN và đền TỬ SĨ.

Từ cổng Tam Quan, hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ONG mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa .


CON ONG KHÔNG THỜ HAI CHÚA,
NGƯỜI LÍNH CHỈ CHẾT CHO MỘT NGỌN CỜ .



Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn , nhìn thật rõ mới đọc được:


VÌ NƯỚC HY SINH - VÌ DÂN CHIẾN ĐẤU.



Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi. Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình. NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HOÀ : Nghĩa trang của những NGƯỜI LÍNH đã chết cho Quê Hương Việt Nam.Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền TỬ SĨ, ngự trên đỉnh đồi, ngày nào là nơi tôn nghiêm Vị Nguyên Thủ Quốc Gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong, ngày Quân Lực , ngày QUỐC KHÁNH.

Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà , sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của Chính Phủ trước đây, vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ. Rừng bia mộ mênh mong nằm xen lẫn với cỏ cây u tùm, phân chia từng lô bởi những con đường đất. Rải rác đó đây là những ụ đất, những hố sâu, những cây cau su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ, còn lại là những ngôi mộ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói, có lẽ ba mươi năm nay , chưa một ai đến viếng. Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang, nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế. Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì đó trên mảnh đất này. Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại, tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm. Nhiều tấm bia bị đập bể, có những phần mộ bị dời vị trí. Một sự phá hoại qui mô đầy tính thù hận. Đột nhiên mắt tôi rưng rưng niềm phẩn uất.

Người cộng sản đang chiêu dụ người Việt Hải ngoại về xây dựng đất nước, mời mọc đầu tư, cổ xuý hoà giải, vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả của những người đã nằm xuống. Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Mồ mã các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận, mồ mã nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẩn. Người cán binh cộng sản, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà , họ là ai ?Tất thảy là những người con dân Việt bất hạnh, là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng, phải được chia sẽ từng mảnh đất chôn cất, chia sẽ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù...

Chiều xuống nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những ngôi mộ như hớn hở đi vào ống kính ,cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận ảnh vài tấm bia . Khi quay ống kính về phía ngôi tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI sừng sững trước mặt, tôi thật sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ này. Nhìn rõ những hình ảnh trên Màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những NGƯỜI LÍNH VÔ DANH ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình , ngày nay họ trở thành những vị anh hùng trong lòng Dân Tộc.

Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của tháng ngày thao trường đổ mỒ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái anh gửi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ, tình quê hương đậm đà. Anh về Thủ đô, lòng em rộn rã. Những địa danh bỗng hiện ra, những trân đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thắm ngọn đồi chiến lược ? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành ?Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mãnh đất Miền Nam. Thế rồi Anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

Bao nhiêu năm chiến tranh chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ nhưng không thể viết thành lời. Không thể viết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Người nằm đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quí giá . Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta biết bao điều suy nghĩ về sinh ký tử qui của con người, về tình tự Dân tộc muôn thuở của Quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản lại hô hào đoàn kết lại để chết cho một thiểu số người . Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức.

Ôi quê hương ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của Dân tộc . Ta không dám mơ ước một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối. Kẻ nơi cỏi âm, người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nổi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn còn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thuỷ chung cho thế hệ ngày mai. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lây động theo nhịp thở của Anh từ lòng đất


Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngú
Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.



Ngôi Đền TỬ SĨ, ngọn tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI, Vành khăn tang, rừng mộ bia, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. Những NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người VIỆT NAM hằng yêu thương Đất Nước và Giống Nòi.

Chu Lynh (Thứ Năm, 26 Tháng 5 Năm 2011 20:57)

cao nguyên
02-24-2012, 06:39 PM
http://www.youtube.com/watch?v=Jo5ydM7oK5I






Từ Bản Nhạc “Người Di Tản Buồn”


Tác giả là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù nhân chính trị, định cư tại Mỹ theo diện H.O. từ 1992, đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Bài viết dành cho kỷ niệm Tháng Tư năm nay là câu chuyện về từ một bản nhạc...

***

Mỗi năm đến tháng tư tôi lại nhớ đến bản nhạc Người di tản buồn (NDTB) của nhạc sĩ Nam Lộc, những lời ca đầy tình cảm của bài hát nhắc nhở tôi về tháng tư 1975 mất miền Nam, dân chúng khắp nơi rơi vào cảnh hoảng loạn, người người tìm mọi cách di tản mong đến được bến bờ tự do, kẻ không may ở lại phải chịu tù đầy hay đủ thứ khổ ải sau đó.

Đây cũng chính là bài hát tôi đã được nghe từ khi còn trong trại tù cải tạo ở VN và từ khi sang sống ở Mỹ đến nay tôi cũng đã nghe lại nhiều lần mà tôi nghiệm ra ở hoàn cảnh nào tôi đều đã có những cảm xúc sâu đậm, những suy tư miên man.

Tôi nhớ rất rõ bản nhạc NDTB đã làm tôi xúc động mạnh nhất là khi lần đầu tiên được nghe bài hát này trong nhà tù cộng sản ở Việt Bắc vào một buổi tối giá rét cách nay gần ba mươi năm. Thật là một kỷ niệm thân thương đáng nhớ.

Mùa đông năm 1980 chúng tôi bị giam ở trại VQ do công an quản lý, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt. Trong lán tôi có anh H, một đại úy trẻ có biệt tài đàn hay hát giỏi, anh hát những bản tình ca mà VC gọi là "nhạc vàng" xuất sắc không thua ca sĩ chuyên nghiệp thời trước 1975.

Còn nhớ những năm sau khi miền Nam mất, "nhạc vàng" bị cấm chẳng những ngoài dân chúng mà còn tuyệt đối cấm ngặt trong các trại tù cải tạo. Biết thế nên H chỉ hát khi ở trong lán và sau khi được các bạn bảo đảm không còn tên lính canh nào đi xung quanh lán hay lảng vảng gần đâu đó có thể nghe được. Anh H có trí nhớ rất tốt, anh đàn hát được khá nhiều bản nhạc nổi tiếng ngày trước, những bản mà hầu hết đều quen thuộc với anh em đồng tù nên được anh em rất mến mộ. Nhưng bỗng một hôm anh em thấy anh tập đàn và hát nho nhỏ một bản nhạc lạ, hỏi ra mới biết bản nhạc vừa do một anh bạn trong lán được thân nhân đến thăm nuôi kín đáo đưa cho một anh đem vào được và trao cho H.

Sau vài lần tập dợt, tối hôm đó, một tối mùa đông lạnh giá anh muốn hát cho các bạn trong lán cùng thưởng thức bản nhạc mới mà anh thấy nội dung rất thích hợp với hoàn cảnh và tâm tình của anh em tù. Nhờ vài anh canh chừng cẩn mật không có lính tuần canh quanh lán xong, số anh em còn lại ngồi sát bên nhau vừa để đỡ lạnh vừa để nghe cho rõ, tất cả quây quần quanh anh H. Sau khi tất cả anh em đã im lặng hẳn, anh mới bắt đầu ôm cây ghi-ta thùng sát vào người dạo đàn và chậm rãi cất tiếng hát; tiếng đàn bập bùng hòa quyện vào giọng ca thật trầm ấm, tha thiết, nhỏ nhưng vừa đủ cho anh em vây quanh thưởng thức hết được từng lời hát câu ca:

Chiều nay có một người di tản buồn
Nhìn xa xăm về quê hương rất xa
Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha
Và dâng dâng lệ vương
mắt nhạt nhòa

Bạn ơi đó là người di tản buồn
Ngày ra đi lặng câm trong đớn đau
Và đêm khuya về trong đôi mắt sâu
Đời như chôn vào con phố u sầu

Cho tôi xin lại một ngày
Ở nơi nơi thành phố cũ
Cho tôi xin lại một đời
Một đời sống với quê hương

Cho tôi xin lại đoạn đường
Hàng cây vươn dài bóng mát
Cho tôi an phận ngàn đời
Bên bờ đê vắng làng tôi

xxx

Chiều nay có một người di tản buồn
Gọi anh em còn ai hay mất ai
Còn bao nhiêu thằng
xông pha chiến khu
Và bao nhiêu nằm trong chốn lao tù

Ở đây có những chiều mưa rất nhiều
Nhiều hơn khi hành quân trong tháng mưa
Buồn hơn rừng thưa vắng tiếng bom
Ngày vui ơi giờ đâu nữa không còn

Cho tôi xin lại bờ rừng
Ở nơi tôi dừng quân ngũ
Cho tôi xin lại ngọn đồi
Nơi từng chiến đấu bên nhau

Xin cho tôi một lần chào
Chào bao nhiêu người đã khuất
Xin cho tôi một mộ phần
Bên ngàn chiến hữu của tôi
(Người di tản buồn.
Nhạc và lời:Nam Lộc)

Tiếng đàn lời ca đã dứt nhưng cả lán vẫn chìm trong im lặng. Nhiều anh đã không nén được nỗi nghẹn ngào. Trong hoàn cảnh đọa đày khổ ải tận cùng, thử hỏi không xúc động sao được khi biết được có người đã thoát được ra nước ngoài, nhưng vẫn còn nhớ tha thiết đến quê hương, nhớ đến anh em đồng đội cũ, đến thân phận những người trong tù như mình.

Nghĩ đến xuất xứ của bài nhạc, đến "hành trình gay go của nó" từ một đất nước xa xôi vạn dậm qua bao nhiêu chặng kiểm soát gắt gao để cuối cùng đến tay người nhận, tôi cảm thấy vui vô cùng. Khi "màn văn nghệ bỏ túi với bản hát đặc biệt" chấm dứt, anh em lặng lẽ rời nhau về chỗ nằm riêng của mình. Trong đêm tối mùa đông lạnh giá, leo lét ánh đèn dầu ở cuối lán, dư âm bản nhạc khiến tôi miên man nghĩ đến thành phó Sàigòn đã mất tên, đến gia dình, bà con, bạn bè đang trong "tù ngoài".

Hình ảnh Sàigòn ngày nào hiện dần lại trong trí tôi. Những ngày đầu đổi đời mà VC gọi là "giải phóng" cho đến hơn một tháng sau đó, trước ngày tất cả quân cán chính miền Nam trong đó có tôi lần lượt vào các trại tù cải tạo, là thời gian thành phố như biến dạng với bao thay đổi đau thương. Khắp đường phố nơi đâu cũng thấy những con người với nét mặt hốt hoảng, lo lắng xuôi ngược, bao cảnh chướng tai gai mắt của những "kẻ chiến thắng mới từ trong rừng ra", và bao nhiêu tin tức đồn đoán đầy buồn phiền...

Nhớ đến cha mẹ già sau thời gian dài xa cách bây giờ hẳn già yếu lắm, biết chừng nào mới có ngày gặp lại; vợ và bầy con nhỏ dại từ ngày thiếu vắng chồng,vắng cha sinh sống khó khăn đến chừng nào. Lần thăm nuôi đầu tiên gần đây của vợ tôi từ ngày vào tù cứ ám ảnh tâm trí tôi mãi. Tuy có là niềm an ủi rất lớn nhưng cũng để lại trong lòng tôi bao nỗi thương cảm sâu xa, nhìn người vợ năm nào nay trông héo úa xơ xác mà não lòng. Mười lăm phút gặp gỡ trước cặp mắt cú vọ theo dõi của công an sau cả năm chuẩn bị, mấy tháng chờ đợi giấy phép, mấy ngày ngồi xe lửa ngất ngư từ Nam ra Bắc rồi lặn lội vượt suối băng rừng mới đến được nơi thăm nuôi, vợ chồng đã chẳng nói năng được với nhau bao nhiêu ngoài những cái nhìn nhau ái ngại, nghẹn ngào thương xót. Ngoài một ít tin tức chung chung mà tôi chắc là không đúng sự thật lắm cốt để tôi khỏi buồn phiền lo lắng, về tình hình cha mẹ con cái ở nhà, vợ tôi có báo một tin vui là anh bạn Ch. ở xa có gởi quà thăm hỏi. Vì có công an ngồi gần canh chừng, vợ tôi chỉ nói thế nhưng tôi biết đó là anh Ch. đã qua được Mỹ vào những ngày giáp 30-4-75. Tôi mừng cho gia đình anh và cũng mừng cho chính mình vì đã còn bạn cũ nhớ đến. Thế là ngoài tác giả bản nhạc NDTB nhớ đồng đội mà tôi cứ an ủi tự cho có mình trong đó, tôi còn được Ch, một bạn học xưa từ phương xa nhớ đến thân phận tù đầy của mình, thật là một chia sẻ tình cảm thân thương vô cùng hiếm quý. Tôi liên tưởng đến các bạn bè khác, bao nhiêu người được may mắn như Ch, bao nhiêu còn kẹt lại, hay đang trong một trại tù nào đó như tôi bây giờ...

Sau buổi tối đặc biệt đó mỗi khi có cơ hội thuận tiện anh em lại yêu cầu anh H hát lại bản NDTB. Tất nhiên cảm xúc không như lần đầu được nghe nhưng những lời đầy tình cảm trong bản nhạc vẫn là nguồn an ủi lớn lao cần thiết trong hoàn cảnh tù đầy. Tự trong sâu thẳm tâm hồn, rất nhiều lần tôi thầm cảm ơn tác giả sáng tác bản nhạc tuyệt vời và cảm ơn người ca sĩ đã để hết tâm hồn vào lời ca tiếng hát giúp cho anh em đồng tù có những giây phút ấm lòng, một nguồn động viên tinh thần rất cần thiết mà trước đây chưa bao giờ anh em tù chúng tôi có được.

Thế rồi sau gần mười năm lưu đầy khắp từ Nam chí Bắc tôi được thả về sống tiếp dưới chế độ cộng sản thêm mấy năm nữa trước khi đến đươc Mỹ theo diện HO, sống lại cuôc đời tự do mong đợi từ sau tháng tư đen 1975. Đấy là vào cuối năm 1992 tức là sau ngày mất miền Nam 17 năm. Thân quyến, bạn bè gần xa được tin tôi, người ở gần thì đến chia mừng khuyến khích, kẻ ở xa thì điện thoại hay gởi thư thăm hỏi an ủi, tôi hết sức cảm động và hạnh phúc. Dù vậy, những hình ảnh và lời lẽ thân thương trong bản nhạc NDTB, dường như vẫn vang vẳng trong tôi.

Từ khi đến Hoa kỳ tôi đã biết được tác giả bản nhạc là nghệ sĩ Nam Lộc, qua báo chí,TV cũng như đài phát thanh. Ông là ngưòi rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt khắp nơi, không chỉ trong lãnh vực ca nhạc mà cả trong các hoạt động xã hội giứp đỡ đồng hương. Tôi cũng nhớ nhiều đến anh ca sĩ H, dò hỏi thăm các bạn HO đến Mỹ trước thì được một hai người cho biết loáng thoáng là sau khi được thả về H đã vượt biên và mất tích; Tin này làm tôi bàng hoàng nhưng không làm cho tôi tin chắc là có thật bởi người nói ra cũng chỉ được nghe lại từ một người khác, nên tôi vẫn hi vọng anh còn sống và đang định cư trên một đất nước tự do nào đó mà tôi chưa may mắn được biết. Anh là người trẻ tuổi có tài, can đảm và giầu nghị lực được các bạn đồng tù rất cảm mến. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh gầy yếu xanh xao trông thật xót xa của anh khi anh vừa ra khỏi xà lim biệt giam sau nửa tháng chịu cực hình đói khổ hành hạ chỉ vì tội hát nhạc vàng trong lán cho anh em nghe.

Tôi đã nghe lại bản nhạc NDTB qua các làn sóng phát thanh, qua đĩa hát hay trên TV. và qua giọng hát của nhiều ca sĩ trong số tôi tâm đắc nhất là giọng hát của K.L khi trình bày bài hát này.

Dù vậy, tôi vẫn thường thích nghe chính tác giả bài nhạc trỉnh bày tác phẩm của mình hơn. Trong những lúc trống vắng một mình trong phòng riêng tôi thường vào mạng Google/Nam Loc tìm nghe lại NDTB do chính tác giả trình bày với sự phụ họa của ban nhạc The Blue Sea Band. Mỗi lần nghe lại, tôi đều thấy lòng mình lắng đọng, ngậm ngùi nhớ về một quê hương mà tôi đã phải bỏ lại cùng với rất nhiều liên hệ thân thương.

Năm 1992 tôi sang Mỹ thì bạn bè đồng đội của tôi còn kẹt lại ở VN rât nhiều. Tuy một số đã được tha nhưng một số lớn khác vẫn đang bị đầy đoạ trong các lao tù khắp từ Nam chí Bắc. Tôi băn khoăn không biết những anh bạn đồng tù ở chung trại năm xưa đặc biệt những anh đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm êm đẹp như anh ca sĩ H, người đã hát bài NDTB cho chúng tôi nghe, anh nhạc sĩ Đ chuyên độc tấu nhạc cổ điển tây phương, anh sửa đài N thỉnh thoảng rỉ tai cho biết tin tức nước ngoài...

Tôi nhớ sau khi được tha tôi còn phải sống nhiều năm dưới chế độ VC rồi mới sang được Mỹ, đó là thời điểm những năm cuối thập niên 1980 tôi đã chứng kiến cảnh sa sút tệ hại của một Sài gòn mất tên, về mọi mặt văn hoá, đạo đức, xã hội...

Dân chúng đại đa số nghèo nàn, khó khăn chật vật trong những hoàn cảnh khác nhau vì sự độc tài kềm kẹp, phân biệt đối xử của chế độ, nhưng nỗi đau thương nhất dưới mắt tôi là hình ảnh những người thương phế binh nguyên là những chiến binh VNCH ngày nào thì nay đang lê lết tấm thân tàn phế bán vé số kiếm sống nhọc nhằn qua ngày trên các lề đường thành phố.

Rất may những năm sau này không rõ từ khi nào Cali đã có tổ chức chuyên gây quỹ để yểm trợ cho thành phần cựu quân nhân tàn phế kém may mắn này. Đó là Hội cứu trợ thương phế binh và cô nhi quả phụ được thành lập và hoạt động rất tích cực tại quận Cam. Mấy năm gần đây lại có thêm những đại nhạc hội "Nhớ ơn anh người chiến sĩ VNCH" được tổ chức quy mô với sự tham gia trình diễn tình nguyện của rất đông đảo nghệ sĩ tên tuổi trong đó nghệ sĩ Nam Lộc, tác giả nhạc phẩm NDTB, đã đóng góp công sức đặc biệt trong vai trò MC then chốt. Kết quả những buổi văn nghệ này thật là to lớn, tất cả những số tiền thu được đã được giao cho Hội trên đảm trách việc gởi về VN giúp đỡ các anh em thưong phế binh.

Bài nhạc cũng khiến tôi liên tưởng đến các cộng đồng tị nạn VN trên khắp thế giới đặc biệt tại Hoa kỳ, Úc, Pháp ..., những nơi có đông đồng bào tị nạn mà dù ở đâu họ cũng không quên biến cố tháng tư mất nước, vẫn luôn thể hiện tinh thần chống cộng tích cực. Biết bao nhiêu đoàn thể tổ chức đã được thành lập dể biểu dương sức mạnh khi cần thiết và sẵn sàng yểm trợ các phong trào đối kháng trong quốc nội.

Mội năm, tháng tư đến nhắc nhở ngày mất miền Nam tự do. Riêng trong tôi, từ một bản nhạc tình cảm đầy ắp niềm thương nhớ quê hương và tình người, tôi nhớ lại tháng tư 1975 đau thương nhất trong lịch sử cận đại của dân tộc mà ngoài những hồi tưởng và suy tư tản mạn, tôi còn nghĩ nhiều đến những diễn biến đang xảy ra khắp nơi với hi vọng nhiều vào một tương lai tốt đẹp sớm đến với tổ quốc VN thân yêu.

Khanh Vũ

nvhn
02-26-2012, 09:49 PM
Thương tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam
Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khoa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam , người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng ! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệmẦ.đó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chổ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.
1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huy ện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 dl. Năm 1927.
Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sàigòn. Anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.
2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường Ecole des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đầu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế, năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.
3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sàigòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam, chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau, chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.
Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó.
Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thi không thay đổi được.
Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sàigòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Uùy. Tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không? Anh cười và nói "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm". Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.
Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sàigòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn Dù cử anh đi học kỹ thuật ở PAU (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-75. Thật ra thì ít khi về đây phần lớn thời gian ở trong đơn vị, và lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.
Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang Ðại Uùy từ 1955-1964, qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá.
Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND. Tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 Bộ binh tổ chức anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tấm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng trường Trung học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi.
Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá, vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ". Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.
Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Năm 1968, LÐ3ND về Sàigòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sàigòn Chợ Lớn.
Năm 1969, được cử giiữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng thực thụ.
- Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức.
- Tháng 10 năm 1973 được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.
Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lênh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sàigòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nữa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000$ tiền Việt Nam . Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam .
Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sàigòn về Cần Thơ xin hốt cốt lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning, bộ xương đã được thiêu liền khi đó, khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ , đem về Sàigòn ngay hôm đó.
Vài ngay sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.
Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi tôi cách xa nhau.
Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.
Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.
Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Toạ đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp, các Cha, các Thầy cũng vậy thôi.
Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ; hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc Trung học, đã là một Họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bầy ở Triển lãm, trong các năm tản cư 1946-1947 suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo, ông luôn luôn lầm bầm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.

Hồi Ký:

nvhn
02-26-2012, 09:57 PM
Những Kỷ Niệm Gia Ðình Với Tướng Nguyễn Khoa Nam Nguyễn Thái Dương


Rời quê hương đã 25 năm mà hình ảnh cậu tôi thỉnh thoảng vẩn hiện về trong giấc ngủ chập chờn. Những ký ức về cậu tôi như là một bức tranh chấm phá. Cậu như là một thế giới riêng đối với tất cả mọi người.
Còn nhớ lúc tôi khoảng 6,7 tuổi, gia đình ông ngoại chúng tôi ở bến đò Chợ Dinh. Nhà trên dành cho ông ngoại còn tất cả ở những căn nhà dưới. Gần đó là chùa Bà La của dòng họ Nguyễn Khoa. Là cháu ngoại đầu tiên, được ông ngoại cưng nhất. Thỉnh thoảng ông bảo mẹ tôi đưa lên nhà trên để ông cho ăn vài món dành cho ông. Cạnh nhà là một cây mộc lan rất lớn, đến mùa cả trăm cánh hoa nở ra thơm ngát cả vườn. Sau nhà là một vườn cam quít rồi đến một thửa đất rộng trồng bắp, sắn, rau cải tùy mùa. Cạnh sông là một nhà chòi cao mà trong những trưa hè nóng nực, mấy cậu cháu chúng tôi thường leo lên ngủ trưa để hưởng gió mát từ sông thổi vào.
Một kỷ niệm vui mà tôi không bao giờ quên được là vào một dịp Tết, tất cả chúng tôi ăn mặc quần áo chỉnh tề lên chúc Tết ông ngoại để được lì xì. Sau đó cậu dẩn tôi, cậu Phước, cậu Lộc và dì Diệu Yến ra vườn để xem cậu đốt pháo mừng xuân. Cậu Lộc và dì Diệu Yến tuy vai vế lớn hơn nhưng cũng xấp xỉ tuổi tôi. Ra sau vườn đã thấy mấy cây pháo để trên một cái lon khá lớn. Chúng tôi xúm xung quanh để xem cậu đốt. Pháo vừa nổ là cả một mùi hôi thối bốc lên, quần áo chúng tôi lấm đầy đồ dơ. Thì ra cậu đã để cái lon trên một đống phân. Báo hại chúng tôi phải tấm rửa thay quần áo khác để đón xuân. Bị ông ngoại la, cậu cười khoái chí. Cậu thường xưng cậu và em với ông ngoại tôi.
Vào khoảng năm 51, chúng tôi dọn lên nhà số 64 đường Gia Hội, sau này đổi tên là đường Chi Lăng, ngay lối đi vào đường Trung Bộ. Cậu lúc này đã đi làm việc trong thành nội. Cậu giống như một ông công tử đất Thần Kinh, luôn luôn mặc đồ bộ màu trắng và đặt cơm từ nhà hàng Morin. Cũng giống như ông ngoại, thỉnh thoảng cậu gọi tôi vào cho thưởng thức vài món ăn Tây. Trong vòng gia đình, ngoài cậu còn có anh Hiệp và anh Cẩm. Anh Hiệp là con bác Kinh, người anh kết nghỉa với ông già tôi. Anh Cẩm là chồng chị Yến, con của cậu Sỉ. Anh Hiệp đi Thiết Giáp, anh Cẩm chọn Pháo Binh. Sau này, cả ba đều trở thành những tướng lảnh của QLVNCH.
Mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, cậu tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Vài người trong gia đình nói rằng đúng ra cậu là một nghệ sỉ hơn là quân nhân. Cậu có khiếu về hội họa, vẻ truyền thần và phong cảnh rất xuất sắc. Cậu cũng có khiếu về âm nhạc và giỏi về ngoại ngử, cả Anh và Pháp. Nghe nói cậu có yêu một người đẹp nhưng về sau người này đi Pháp lấy chồng bác sỉ, từ đó cậu không lập gia đình với ai cả. Trong tranh vẻ của cậu có phảng phất hình bóng của cô này. Có lẻ đây cũng là một vài huyền thoại trong cuộc đời của cậu.
Trong khoảng thời gian cuối 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước, cậu chỉ huy một đơn vị nhảy dù tham dự các cuộc hành quân ở Bắc Việt và trở về Nam sau hiệp định Genẽve.
Năm 62, sau khi tốt nghiệp trường Sỉ Quan Hải Quân Nha Trang, lên thăm cậu tại Sài Gòn, cậu nói: "Ðúng ra ngành Bác Sỉ thích hợp với mi hơn, để cậu nói với ông Quyền xem ông có thể giúp mi đi học Quân Y được không?" Cậu thường dùng chử "mi" của người Huế khi gọi tôi. Cậu là bạn học của HQ Ðại Tá Hồ Tấn Quyền lúc đó là Tư Lệnh Hải Quân. Tôi cũng chẳng để ý đến chuyện này cho lắm. Sau đó Ðại Tá Quyền là người đầu tiên bị đàn em sát hại trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm vào cuối năm 63.
Cậu ở trong cấp bậc Ðại Úy khá lâu. Vài người nói rằng là Sĩ Quan Nhảy Dù mà cậu rất ít nói, cũng không ăn nhậu với bạn đồng ngũ nên đôi khi bị hiểu lầm từ cấp chỉ huy cũng như bạn bè.
Ðến năm 66, hai cậu cháu có cơ hội gặp nhau ở Ðà Nẵng lúc cậu chỉ huy Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đang hành quân tại Quảng Ngãi.
Sau trận chiến thắng lẫy lừng của Lử Ðoàn 3 Nhảy Dù tại đồi Ngọc Văn, Kontum mà các anh em nhảy dù nói đùa là đồi Ngóc Văng, cậu được Tổng Thống Thiệu cho lựa chọn một trong 3 chức vụ: Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia hay Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. Cậu nói rằng Sư Ðoàn 1 của Thiếu Tướng Trưởng quá xuất sắc, không thể làm hơn đưọc, vả lại ở Huế nhiều bà con quá còn ngành Cảnh Sát thì không thích hợp với mình. Với Sư Ðoàn 7 mình có nhiều cơ hội hơn. Cậu đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh kể từ 1969.
Hai vợ chồng tôi có xuống thăm cậu ở Ðồng Tâm vào đầu năm 70, cậu bảo ra ngoài dinh Tư Lệnh tại Mỷ Tho mà ở. Ông Thượng Sĩ quản gia mừng rỡ khi có khách: "Ông Tướng ít khi tiếp bà con, thỉnh thoảng mới ra Mỹ Tho một lần".
Cuối năm 1971, tôi được thuyên chuyển về chỉ huy Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm Hải Quân trong nhiệm vụ yểm trợ cho hai Trung Ðoàn 11, 12 Bộ Binh hoạt động trong khu vực Mỹ Tho và Kiến Hoà sau hơn một năm chỉ huy Liên Ðoàn 3 Thủy Bộ yểm trợ cho Trung Ðoàn 32 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh trong chiến dịch U Minh. Cậu do dự khá lâu vì không muốn tôi ở gần cậu. Thỉnh thoảng, cậu gọi tôi qua phòng hành quân Sư Ðoàn vào buổi tối. Hai cậu cháu có dịp nói chuyện gia đình cũng như những lời chỉ bảo. Cậu thuờng dặn dò: "Mi còn trẻ, ở đơn vị chiến đấu nhiều, tương lai tốt, đừng để dính vào những chuyện rắc rối".
Một câu nói mà tôi vẩn còn nhớ mãi đến ngày hôm nay. Khi nói chuyện về tham nhũng, cậu trầm ngâm nói: "Trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, mình không tham nhũng không có nghĩa là đàn em mình không tham nhũng, nhưng họ chỉ làm ăn vừa đủ sống. Nếu mình tham nhũng thì họ phải ăn gấp ba: một cho họ, một cho mình, một cho xếp mình. Bổn phận của cấp chỉ huy là phải giữ mình trong sạch". Tôi nhớ lại thời gian còn hành quân ở Cà Mâu, trong một lần mời Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh và Ðại Tá Thiều dùng cơm ở Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, hai ông thầy tranh luận về vấn đề tham nhủng. Phó Ðề Ðốc Minh cho rằng miền Nam không thắng được Cộng Sản là vì tham nhủng. Ông chỉ cần độ mười ngàn người trong sạch cùng lý tưởng là có thể đánh bức được Cộng Sản. Ðại tá Thiều cưòi trả lời nhẹ nhàng: "Bạn nói đúng trên lý thuyết. Trong thời chiến tranh, chỉ sống nhờ ngoại viện, một người lính hay cảnh sát lưong chỉ đủ sống mươi ngày. Nếu không kiếm chác thêm để nuôi vợ con thì họ đói hết chẳng còn ai để đánh Cộng Sản". Tôi chỉ biết ngồi cười không góp ý kiến. Cả hai ông thầy đều đúng trong một vài khía cạnh nào đó.
Thỉnh thoảng nhận được trợ cấp từ Phủ Tổng Thống, cậu chia hết cho các Trung Ðoàn. Trong những lần hành quân phối hợp, vài vị Trung Ðoàn Trưởng nói đùa rằng tiền ông Tưóng cho ít quá, không biết thế nào chia cho đàn em.
Cậu ở trong một trailer đơn giản do Quân Lực Mỹ để lại và hầu như ăn chay trường. Hàng tháng cậu đều gởi tiền về cho mẹ tôi. Thỉnh thoảng bà già vợ xuống Ðồng Tâm thăm chúng tôi, bà thường nấu đồ chay mời cậu. Cậu thường nói: "Mình ăn chay để đở chết lính".
Cũng trong thời gian này, có dự tính giới thiệu một người bà con của bà Tổng Thống cho cậu. Tôi hỏi cậu chuyện này. Cậu cười: "Làm bà con với Tổng Thống thì khó làm việc lắm".
Có vài điều mà khi còn ở Việt Nam , tôi không muốn chia xẻ với cấp chỉ huy. Mỗi lần có đoàn công voa Cửa Tiểu - Nam Vang là có lệnh điều động từ phòng hành quân Sư Ðoàn qua Kiến Hòa phối hợp với Trung Ðoàn 12, bỏ trống sông Tiền Giang cho dến khi đoàn công voa đi qua khỏi khu vực hoạt động của Sư Ðoàn. Cậu chỉ nói thoáng qua về những hoạt động tình báo chiến lược có từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm với sự phối hợp của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan. Những hoạt động này đòi hỏi ngân sách riêng không thể phổ biến đưọc.
Ðây là khoảng thời gian thoả mái nhất trong đời binh nghiệp. Sự liên hệ với cậu đã giúp tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, giữ được sự trong sạch của mình mà không đụng chạm đến chuyện người khác. Tuy nhiên, đến cuối năm 72, một sỉ quan đàn em có gốc gác ở Mỷ Tho gặp tôi ngỏ ý hoán chuyển về Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức. Thấy mình ở chức vụ cũng khá lâu, tôi nói cho cậu biết ý định của mình. Cậu chỉ mỉm cưòi không nói năng gì hết. Tôi về Hạm Ðội thay vì Liên Ðoàn Ðặc Nhiệm tại Bến Lức do trục trặc kỷ thuật tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rời Mỷ Tho được mấy tháng là xảy ra vụ còi hụ Long An mà báo chí thời đó có cơ hội tấn công chính quyền về vấn đề tham nhũng và buôn lậu. Vài anh em trong Hải Quân nói đùa rằng tôi đẻ bọc điều, vụ gì cũng tai qua nạn khỏi nhưng họ không biết rằng những chịu đựng mà tôi phải vượt qua vì đưòng binh nghiệp của mình. Vài lần nói chuyện phiếm với anh em: "Trong thời tao loạn, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết nhiều khi cũng ngất ngư".
Về Hạm Ðội được gần một năm thì lại được biệt phái ra Ðà Nẵng cùng với HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc vì tình hình sôi động tại Hoàng Sa. Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, tôi được chuyển qua làm Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội I Duyên Phòng. Có vài nguồn tin nói rằng Hải Ðội sẽ là đơn vị đầu tiên đưọc trang bị các PTF nhưng sau đó mọi chuyện im luôn. Cậu vẫn tiếp tục dặn dò: "Mi ráng cẩn thận, Ðà Nẳng không khác gì Vũng Tàu, Mỷ Tho đâu". Vụ buôn lậu Mỹ Khê xảy ra sau đó, lại một lần lao đao.
Cuối năm 74, được tin cậu đuợc bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV kiêm Vùng 4 Chiến Thuật trong khi ở Vùng 1 những biến chuyển dồn dập báo hiệu ngày tàn của cuộc chiến càng ngày càng đến gần. Tôi qua năn nỉ riêng Ðại Tá Thiều cho sửa tất cả các chiến đĩnh của Hải Ðội.
Ðà Nẵng hỗn loạn trong trong những ngày cuối tháng 3 và sau cơn mưa pháo vào Tiên Sa đêm 29, Quân Ðoàn I cũng như Vùng I Duyên Hải xem như tan hàng. Trong những ngày cuối cùng ở Vũng Tàu sau khi di tản từ Ðà Nẵng và Cam Ranh, với tâm lý hoang mang và chán nản đến cùng cực, tôi cố gắng liên lạc lần cuối với cậu xem cậu có đồng ý để tôi về Cần Thơ không. Cậu chỉ cho một Sỉ Quan nhắn tôi cứ ở Vũng Tàu. Có lẻ cậu đã nhìn đưọc ngày tàn của cuộc chiến và những điều bất hạnh sẽ dáng lên đầu quân dân miền Nam .
Qua Hoa Kỳ đang ở trại tỵ nạn thì những ngưòi qua sau cho biết cậu đã tự sát để khỏi đầu hàng địch quân. Cậu cũng như vài Tướng Lảnh khác của miền Nam đã chọn cái chết để giữ tròn khí tiết của người tướng không còn giử được thành. Dù rằng với một Quân Ðoàn IV đang còn nguyên vẹn, cậu đã không ra lệnh tử chiến để cứu sanh mạng của hàng trăm ngàn quân dân vô tội.
Trong thời gian về Việt Nam làm việc cho một dự án tài trợ ngắn hạn, tôi thường lên chùa Già Lam ở Gò Vấp thắp vài nén hương trước bàn thờ thân phụ tôi và cậu. Nhìn nét mặt nghiêm trang của cậu trong bộ quân phục Nhảy Dù, những kỷ niệm gia đình lại hiện về trong tâm tưởng. Cậu vẫn sống mải trong lòng quê hương và dân tộc.





Nguyễn Thái Dương

nvhn
02-26-2012, 10:06 PM
Hồi ký của một Tùy Viên: Những Giờ Sau Cùng Của Người anh hùng vị quốc vong thân Tướng Nguyễn Khoa Nam Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH (Trích sách "Nguyễn Khoa Nam ")




Lời Tòa Soạn:


Cuốn sách Nguyễn Khoa Nam là một tài liệu lịch sử rất giá trị, dầy gần 600 trang, gồm trên 60 bài viết của các tướng lãnh, chiến hữu cũng như thân nhân Tướng Nam. Ðặc biệt có bài cảm nghĩ của cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và nhiều hình ảnh, tài liệu chưa từng công bố.


http://f1608.mail.yahoo.com/ya/download?mid=1%5f1018388%5fAGLci2IAABJxT0sP9QgkQ1D dgfs&pid=2.2&fid=Inbox&inline=1&appid=YahooMailClassic


Muốn mua sách, xin liên lạc với Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết.
Email: doanket@yahoo.com (http://us.mc1608.mail.yahoo.com/mc/compose?to=doanket@yahoo.com)
Ðiện thoại: (512) 346-5810
Gía bán $20 Mỹ Kim
Ông Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH, là Tùy viên Tư lệnh QÐIV-QK4 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông là người đã trực tiếp chứng kiến cảnh cả hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, Tư lệnh và Tư lệnh phó tự sát. Sau đây là chuyện ông kể trong "Hồi Ký Của Một Tuỳ Viên", trích từ sách "Nguyễn Khoa Nam ". Sách được ra mắt vào lúc 1 giờ chiều thứ bẩy 28 tháng Tư 2001 tại Hội Quán Little Saigon Radio.
Tháng 4 năm 1975
Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Ðộc Lập gặp Tổng thống, lúc ở dinh phó Tổng thống. Thời gian còn lại, Tư lệnh thường đến các Tiểu khu và Sư đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Ðịnh Tường, Kiến Tường và Châu Ðốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Ðịnh Tường và Long An. Sư Ðoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Ðịnh Tường còn Sư Ðoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiển 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Ðịch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.
Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiển 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và tư dinh Tư lệnh. Vị trí pháo hướng đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.
Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Ðéc. Trong lúc này, Tư lệnh rối bời lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu tướng ra lệnh các Tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân đoàn IV và nhất là giữ quốc lộ 4 đừng dd" VC cắt đứt. Tư lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Ðốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu khu và Sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
Sáng ngày 24 tháng 4, Tư lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Ðịnh Tường, có tướng Trường tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao sao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.
Áp lực địch vẫn nặng ở quốc lộ 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp Tư lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư lệnh viết Nhật Lệnh đưa thiếu tá Ðức, Chánh văn phòng chuyển đến phòng Chiến tranh Chính trị để đọc trên đài Phát thanh và Truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư lệnh và kèm theo là Nhật lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư lệnh phó vào gặp Tư lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư lệnh đã viết.
Ðêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vỉnh Bình. Ðịch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, tiểu khu trưởng tiểu khu Vỉnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
Sáng sớm 30 tháng 4, Tư lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Ðịnh Tường. Cuộc họp nhanh và xong bay về Cần Thơ. Trở lại Quân đoàn, nói rõ về phòng làm việc của Tư lệnh, phòng làm việc chia hai tầng. Tầng trên có sẵn từ trước, thêm tầng dưới là hầm dưới chân phòng làm việc chính thức. Ở hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư lệnh. Hầm làm việc này mới được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn.
Tình hình sáng 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng thưa thớt đi lại, xe cộ hạn chế. Về tinh thần binh sĩ vẫn hăng say chiến đấu, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh.
Vào 10 giờ sáng, tôi được báo cáo là Thiếu tá Chánh văn phòng rời văn phòng bỏ đi cùng với đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh đang ngồi và viết ở bàn làm việc. Tư lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:
- Có gì không?
-Trình Thiếu tướng, thiếu tá Chánh văn phòng và đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu."
Tư lệnh điềm nhiên không giậnvà nói:
- Ði hả! Ði làm chi vậy.
Nói xong, Tư lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tỉnh không la không buồn. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 đi theo dõi tình hình ở Sài Gòn.
Tư lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
- Gọi đại tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.
Ðại tá Thiên mới nhận chức vụ Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh kể từ sáng ngày 30 tháng 4.
Bất chợt, tiếng của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:
- Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .
Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh và nói:
- Tổng thống Dương Văn Minh đã .....
Tôi nói chưa hết câu, Tư lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
- Qua đã nghe rồi.
Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư lệnh phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư lệnh. Qua điện thoại, Ðại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp gấp Tư lệnh, lần thứ hai, Ðại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.
Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư lệnh được. Tư lệnh bấm loa gọi tôi:
- Danh xuống đây tôi bảo.
Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:
- Danh tháo bỏ những ranh giới, những mủi tên trên bản đồ ." (Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ). Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mủi tên đỏ chĩa vào (Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:
- Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.
- Ðược rồi.
Tư lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Ðộ 10 phút sau, Tư lệnh bấm loa gọi tiếp:
- Danh vào tôi bảo.
- Dạ.
Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư lệnh nhìn tôi nói:
- Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này.
- Dạ.
Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:
- Trình Thiếu tướng, em đãtháo xong.
Nói về phòng làm việc của Tư lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh.
Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân cảnh ở phòng chờ đợi (Vọng gác 2) lên gặp tôi nói:
- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư lệnh. Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư lệnh."
Tôi gõ cửa vào gặp Tư lệnh và nói:
- Trình Thiếu tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu tướng.
- Ðược, mời họ vào.
Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tư lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này với tư thế sẵn sàng cách khoảng 4 thước, tôi sợ hai ông này ám sát Tư lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
- Danh đi ra ngoài đi tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ ... em ở đây với Thiếu tướng.
- Ðược rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
- Dạ
Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẻ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giả từ. Tư lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về.
Tư lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi.
Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Ðoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói: Tôi trung úy Danh, tùy viên Tư lệnh, xin lổi ai đầu dây? Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Ðàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:
- A lô ai đó? A lô ai đó?
Và tiếng lạ tôi không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư lệnh tôi không rõ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư lệnh phó gặp trung úy Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư lệnh và Tư lệnh phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để xử dụng máy PRC25 và đánh số thứ tự A, B, C, D ... để Tư lệnh nói chuyện kín hơn.
Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư lệnh sữa soạn về tư dinh, Thiếu tướng nói với tôi:
- Danh chuẩn bị xe đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.
Xe chở Tư lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư lệnh đến bên thương binh này hỏi:
- Em tên gì?
- Dạ em tên ...
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Ðịa phương quân ở tiểu khu Vỉnh Bình.
Tư lệnh nói tiếp:
- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
Tư lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi quạ Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư lệnh đứng sát bên và hỏi:
- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư lệnh mếu máo:
- Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
- Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
- Em cố gắng điều trị .... có qua ở đây.
Tư lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả, sự im lặng quá nặng nề, suốt trên đường về tư dinh, Tư lệnh không nói một lời nào.
Về đến tư dinh, tôi thấy Quân cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Ngộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Ngộ, tôi nói:
- Anh Ngộ bắt một con gà làm và luộc để Thiếu tướng dùng."
- Dạ con gà nào Trung úy?
- Ðàn gà nòi Thiếu tướng nuôi anh chọn một con.
Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen ngịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Ngộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu tướng vào ăn cơm. Tư lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
- Danh ngồi ăn cơm cho vui.
Ði các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư lệnh, còn ở dinh Tư lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư lệnh hỏi:
- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:
- Dạ mấy con gà Thiếu tướng nuôi ở sau, em bảo anh Ngộ làm một con đểThiếu tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn để nguội.
Tư lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:
- Dạ em ăn xong, Thiếu tướng dùng tiếp.
Thiếu tướng nói:
- Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.
Vừa nói, Tư lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như ăn cây mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu tướng ra phòng làm việc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn trung úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
- Có liên lạc với tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu tướng muốn nói chuyện với Tư lệnh phó?
- Qua muốn nói chuyện.
Tôi nói với Tư lệnh:
- Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó một số tần số PRC25 để lúc cần Thiếu tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.
Tôi nói tiếp:
- Ðể em đi lại dinh Tư lệnh phó nói mở máy PRC25 để Thiếu tướng nói chuyện.
Tư lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh đến dinh Tư lệnh phó đối diện dinh Tỉnh trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽphải vào dinh Tư lệnh phó thì thấy phía bên trái trước dinh tỉnh trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mủi súng chỉa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
- VC đã vô tới rồi.
Tôi bảo tài xế:
- Quay trở lại đi không ổn rồi.
Tài xế lái nhanh về dinh Tư lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẻm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư lệnh:
- Trình Tư lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh trưởng.
Tư lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu tướng:
- Em đi lần nữa, đểThiếu tướng nói chuyện với Tư lệnh phó. Tư lệnh nhỏ nhẹ nói:
- Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao!
Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:
- Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.
Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Ngộ quản gia nói:
- Em vừa thấy anh Thông ra cổng. Anh đã bỏ đi rồi.
Bất chợt có một anh (tôi quên cấp bậc và tên):
- Trung úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến dinh Tư lệnh phó.
- Ðược rồi để em đưa ông thầy đi.
Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
- Ði Honda tiện hơn Trung úy.
Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư lệnh phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.
Dinh Tư lệnh phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời.
Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:
- Anh ráng chờ tôi một chút.
Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:
- Tôi trung úy Danh đừng bắn, tôi trung úy Danh đừng bắn. Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuột xuống đất. Gặp tôi, anh Nghĩa vừa nói vừa khóc:
- Chuẩn tướng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nảy Danh nghe tiếng súng nổ.
Anh nói tiếp:
- Chuẩn tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư lệnh phó vào đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư lệnh phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
- Thôi Danh đi về.
Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: Tại sao Tư lệnh phó tự sát? Nếu Tư lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn tướng tự sát hay là ... tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bải đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió (giấy tờ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ dân hôi của vất ra đường từ hôm trước).
Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư lệnh tôi vội vả nói:
- Trình Thiếu tướng em đến dinh Tư lệnh phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư lệnh phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
Tư lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư lệnh phó đã tự sát, chắc Tư lệnh sẽ tự sát theo.Tôi xuống nhà gặp trung úy Việt và nói Tư lệnh phó đã tự sát còn Thiếu tướng không biết thế nào? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.
Lúc này khoảng 11 giờ đêm, cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mổi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang. Lần khác vào, Tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu tướng có sai bảo gì không?
Tư lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
Tôi nhỏ nhẹ nói:
- Trình Thiếu tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
- Danh cất tiền này dành để xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu tướng không dùng đểdành).
Xong Tư lệnh đi vào trailer, tôi hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 400 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, tôi sợ Tư lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à?
- Dạ em ngủ không được.
Tư lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nảy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Ngộ, Thiếu tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư lệnh có ý định gì?
Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.
Tôi vội vả vào trailer để gặp Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
- Trình Thiếu tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6, 7 người đang vẹt kẻm gai đi vào hướng cửa dinh. Ðến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lũng lẵng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẻm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẻm gai và gặp họ tại đây.� Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?
Tôi nói:
- Tôi làm quản gia.
Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mủi súng vào phía sườn tôi và nói:
- Ði.
Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:
- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.
Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
Súng ngộ và đẹp quá.
Chị bới tóc tiếp theo:
- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
Tôi nghe và thấy những việc trên cỏi lòng xe lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa luới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu P-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khact, trung sĩ Ngộ từ phòng Thiếu tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:
- Thiếu tướng bảo Trung úy lấy thuốc lá hút.
Có cớ vào gặp Tư lệnh, người mang AK bỏ thỏng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu tướng một điếu, 3 người mổi người một điếu (Tư lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc Capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư lệnh, người mang khẩu P-38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mủi súng hướng về phía Tư lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.
Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lổ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư lệnh nằm yên, chắc Tư lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư lệnh lần nữa, thấy Tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngã lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu tướng. Thiếu tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
- Ðêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá em nằm nghỉ một chút.
Tư lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư lệnh đến bên tôi hỏi:
- Gặp tướng Trường được không hè?
Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.
- Dạ ... dạ. Tôi ấp úng trả lời. Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.
Tư lệnh hỏi tiếp:
- Có phải Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.
Rồi Tư lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn trung úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư lệnh buồn buồn nói:
- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
Tư lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư lệnh quay lại nói tiếp:
- À, quên chìa khóa. Rồi Tư lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
- Cái này của Danh, cái này của Việt.
Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu tướng bật khóc. Tướng cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao?Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
Tư lệnh sắp tự sát
Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm thăm vợ con, còn trung sĩ Ngộ đang thập thò trước cửa. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong Tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt , Tư lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.
Tôi tôi thầm nghĩ Tư lệnh và tôi độc thân chắc Tư lệnh nghĩ cách khác.
Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước trung sĩ Ngộ thất thanh chạy la lên:
- Ðại úy ơi! Ðại úy ơi! Thiếu tướng tự sát chết rồi.
Trong lúc sợ hãi, anh Nghộ gọi tôi là Ðại úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hải hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thỏng xuống lòng Tư lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Ngộ thấy vậy vội nói:
- Thôi mình chở Thiếu tướng đi bệnh viện.
Tôi và anh Ngộ ôm chầm lấy Thiếu tướng vừa khóc vừa nói:
- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh qua ở lại với các em.
Anh Ngộ nói tiếp:
- Em đâu dám đến gần Thiếu tướng. Ðứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu tướng. Em thấy Thiếu tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu tướng nổ súng liền em chạy lại đâu kịp.
Vừa nói anh Ngộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.



Lê Ngọc Danh

hoài vọng
02-27-2012, 12:34 AM
Có những cái chết hào khí ngất trời , cũng có những cái chết muôn người phỉ nhổ
Cám ơn anh nvhn đã post lên để nghĩ , để nhớ đến ngày 30-4

cao nguyên
02-27-2012, 07:42 AM
http://guncarryinglibrarian.files.wordpress.com/2011/05/orangemoon2.jpg

TIẾP BƯỚC

Tráng khúc thơ treo đầu súng
chân còn vững nhịp Quân Hành
trăng soi hồng bia đá dựng
sao ai nói núi sông buồn!

Khắp nơi vang lời hy vọng
Việt Nam Tổ Quốc Vinh Quang
Tuổi Trẻ vươn vai Phù Đổng
sao ai nói mộng xưa tàn!

Từ trong màn đêm bi hận
vùng lên theo nắng Xuân về
điệu kèn giục theo trống trận
cùng đi nối mạch tình quê

Tâm thơ gởi người Bạn Trẻ
mừng mai vào lễ xuất quân
nối bước tiền nhân ngạo nghễ
lên đường bảo vệ Quê Hương!

Cao Nguyên

cao nguyên
02-27-2012, 07:47 AM
Tổ quốc đang cần lý tưởng của người lính Việt Nam Cộng Hòa
http://i964.photobucket.com/albums/ae125/HaVi-asiaforum/photo-203.jpg




TỔ QUỐC

Có được giải đất cong cong như hình chữ S nằm hiền hòa bên biển nước trong xanh hôm nay, thì sinh mệnh của Việt Tộc phải trải qua những cuộc trường chinh cam go đầy máu lửa. Cũng nằm trong chiều dài lịch sử đầy tràn biến động đó. Một cuộc chiến tranh mang tính Ý Thức Hệ đã xảy ra trong bạo lực.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến kết thúc. Kết thúc như lời thơ của Thanh Nam trăn trở:


Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua


Hay như tiếng lòng than thở của Song Nhị:


Canh bạc đã về tay Bạo Chúa
Tình người Đạo nghĩa đã nhường ngôi



Mới đó thôi mà đã 34 năm rồi! Ba mươi bốn năm. Một thời gian không dài so với dòng lịch sử chinh chiến của quê hương. Nhưng với một phần ba của thế kỷ đã đi qua. Rất đủ cho người đời hôm nay hay hậu nhân mai sau có cái nhìn ý nghĩa về chân lý của thế hệ Cha Ông.

Thưa bạn đọc, đặc biệt bạn đọc trẻ tại quốc nội Việt Nam,

Tất cả đã trở thành lịch sử. Bóng tối của chiến tranh đã đi qua, đó đây trên các nẻo đường của quê hương Việt Nam, cây cối đã xanh màu trở lại nhưng tương lai của con người vẫn còn vàng úa. Khắp nơi trên đường phố Hà Nội hay Sài Gòn, hàng ngàn cánh tay của dân oan đang đưa lên để đòi công chính. Và e ngại rằng, một ngày không xa, màu xanh cây cối của đất nước và ước mơ của con người Việt Nam sẽ mãi vàng úa, và lụi tàn dưới bước chân dày xéo của dòng người Đại Hán phương Bắc đang ào ạt tiến vào Tây Nguyên.

Một sự thật đau lòng đang xảy ra trên Tổ quốc chúng ta. Bạn đọc nghĩ gì?

Nhìn lại giòng lịch sử đã đi qua và biết được hiện trạng của quê hương hôm nay. Chúng ta mới khẳng định được cái công lao và sứ mạng bảo vệ Miền Nam được tự do-dân chủ và phú cường của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Muốn hiểu hết được ý nghĩa nói trên thì chỉ cần một phút thôi. Bạn đọc sẽ nhớ lại giòng lịch sử của 34 năm về trước. Khi những người bộ đội Bắc Việt đưa cao khẩu hiệu “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” quyết sống chết để giải phóng Miền Nam và đem lại sự hòa bình cho đất nước. Một thứ hòa bình mà nhà báo Phan Nhật Nam đã chua chát: “Một thứ Hòa Bình quái dị, đắng như thuốc mà quê hương trong cơn thập tử phải uống vào”.

Đúng vậy! Câu nói này chỉ phát ra sau một ngày Hiệp định Paris được ký kết, nó như một thông điệp xám, một tiên đoán buồn, một phân ưu cho một nửa Tổ Quốc. Một chế độ tự do và dân chủ bị cưỡng bức đi vào một tương lai tăm tối, và chỉ còn là hoài niệm của bao người tranh đấu cho tự do.

Quả thật như thế, trải qua 34 năm dưới chế độ đương thời, ngay cả những người dồn hơi cao cổ thét to khẩu hiệu "Không Có Gì Quý hơn Độc Lập Tự Do", chính họ vẫn không được độc lập tìm cho mình một nhân tài, để tự do bỏ phiếu cho người lãnh đạo quốc gia mà họ muốn. Giản đơn như thế mà vẫn không có được. Từ đó, ai đã từng sống trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới hiểu ra hết cái chân lý. Có khi trở thành một nguyên lý của thể chế Cộng Hòa là: Chính quyền do dân cử và vì dân mà phục vụ. Rất có thể chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tuyệt đối hoàn hảo, nhưng rất đầy đủ về quan điểm và khuynh hướng chính trị yêu nước để cho những người lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải noi gương theo. Và phải chăng cũng vì thế, gần ba triệu con dân Việt Nam đang lưu vong đều đồng niệm: Việt Nam Cộng Hòa là Tổ Quốc của tôi.



http://i964.photobucket.com/albums/ae125/HaVi-asiaforum/tqlc20di20dien20hanh-1.jpg



DANH DỰ

Tự ngàn xưa, tiền nhân truân chuyên vất vả lắm mới tạo nên được giang sơn hùng vĩ như ngày nay. Giang sơn này đã kết tinh và hun đúc nên một dân tộc mang tính chí nhân quật cường. Đó là Dân Tộc Việt Nam. Cho nên trong giòng sử xanh của Việt Tộc. Lời của Nguyễn Trãi đã khẳng định về danh dự của Quốc gia và nhân phẩm của Con người như một Thiên Cổ Hùng Văn :


Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có


Thế mà,
Hơn 60 năm dưới chế độ Cộng sản Việt Nam. Danh dự của Quốc gia và thể diện của Con Người chỉ tóm gọn trong một câu nói ngắn ngủi của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt: "Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét"

Phải!

Không nhục làm sao được khi hàng chục chị em phụ nữ Việt Nam phải bị cởi lột trần truồng cho một người đàn ông Trung Quốc, Đài Loan hay Đại Hàn ngắm nhìn để chọn vợ!

Không nhục làm sao khi chính nhân viên Đại sứ quán Việt Nam ở Nam Phi buôn lậu sừng tê giác!

Không nhục làm sao được khi chính phi công Hàng Không Việt Nam ăn cắp và chuyên chở hàng lậu bị nước Nhật lên án!

Không nhục làm sao được khi ngư dân Việt Nam bị Trung Cộng bắn chết ngay trên lãnh hải của đất nước mình!

Không nhục làm sao được khi anh chị em công nhân lao động bần hàn đang thất nghiệp, thì giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam mở cửa cho công nhân Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên đào hầm bới mỏ. Phải chăng anh chị em người Việt không biết lao động chân tay!

Làm sao nói hết tất cả nỗi nhục của người dân Việt Nam!

Từ đó. Người ta mới thấm thía nhận ra được sự danh dự của một Quốc gia và thể diện Con Người. Qua câu nói của người lãnh đạo Quốc gia và cũng là người đứng đầu đại diện cho Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, cố Tổng thống Ngô Đình Diệm từng tuyên bố: “Nếu tôi tiến, thì đồng bào hãy tiến theo tôi. Nếu tôi bỏ chạy, thì đồng bào hãy bắn chết tôi”.

Và Danh dự của Quốc gia cũng như phẩm chất của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã được Người khí khái khẳng định với ngoại bang trước giờ lâm chung: “Tôi mới là Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Chứ không phải các ông ở Tòa Đại Sứ Mỹ. Tôi sẽ lập lại trật tự của đất nước tôi”.

Danh dự là như thế đó!

TRÁCH NHIỆM

Nhìn lại lịch sử cổ đại đến cận đại của Đông sử hay Tây sử. Thì sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Nam chứng minh hùng hồn một điểm. Chưa có một quân đội của một quốc gia nào trên thế giới có số lượng tướng lãnh và binh sĩ tuẫn tiết theo lý tưởng nhiều như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử cận đại Việt Nam ghi nhận: Họ đã vì Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm mà quyên sinh.

Thưa bạn đọc hải ngoại, bạn đọc quốc nội,

Hiện nay, Tổ quốc Việt Nam chúng ta đang lâm nguy. Lâm vào nguy cơ Hán hóa của Trung Cộng dưới nhiều hình thức. Mấy hôm nay, các cơ quan truyền thông Việt Nam hải ngoại cho phát đi một đoạn phim về cuộc chiến trước đây tại Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai quân đội Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Trung Quốc. Các bạn có đau lòng không khi thấy hơn 100 người lính bộ đội Cộng sản Việt Nam mình trần thân trụi với những vũ khí thô sơ, không có tàu bè che chắn, nhưng họ vẫn dũng cảm đứng dàn hàng ngang trên các gầm đá giữa biển khơi, chơi vơi và cô đơn giữa một đoàn chiến hạm tối tân của Trung Cộng đang bao vây chặt họ. Những tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lên sau những tiếng hô “Tả Tả” và “Sát Sát” nghĩa là “Đánh Đánh” và “Giết đi Giết đi”. Những tiếng la hét, cầu cứu vang lên... và chỉ trong 26 giây đồng hồ, hơn một trăm người bộ đội, hơn một trăm con dân nước Việt chúng ta nằm xuống, nằm xuống như những tấm bia dành cho người tập bắn súng. Chỉ có biển khơi mới nghe lời trăn trối của họ!

Tại sao hôm qua họ phải chết trên những gầm đá kia?
Tại sao hôm nay những gầm đá kia phải dâng nhường cho Trung Cộng?

Đau đớn hơn, chính những thước phim đó được Quân đội Nhân dân Trung Quốc làm tài liệu để đào tạo lính hải quân. Họ đào tạo cách giết người Việt Nam sao cho nhanh chóng hơn, sao cho man rợ hơn.

Bạn trẻ ở quốc nội Việt Nam hãy xem thước phim đó để đánh thức lòng tự ái dân tộc của mình. Đây là lúc tốt nhất, thời điểm hợp lý nhất để bạn đặt TỔ QUỐC- DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM của người Việt Nam lên hàng tối thượng. Như lý tưởng cao đẹp của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Nhân ngày 30 tháng 4, xin gởi đôi dòng suy tư và tưởng niệm đến cùng bạn đọc.
Trân trọng kính chúc quý vị có một Ngày Tưởng Niệm đầy ý nghĩa trong tình Việt Nam.


Kính chào,
Hậu sinh Nguyễn Duy

http://forum.trungtamasia.com/yaf_postsm97368_CAM-ON-ANH---NGUOI-CHIEN-SI-VO-DANH.aspx#post97368

nvhn
02-28-2012, 09:33 AM
NHỮNG BỨC ẢNH LỊCH SỬ.


Việt-Nam Cộng-Hòa


http://www.aihuubienhoa.com/D_1-2_2-82_4-851_5-50_6-1_17-91_14-2_15-2/ (http://www.aihuubienhoa.com/D_1-2_2-82_4-851_5-50_6-1_17-91_14-2_15-2/)

cao nguyên
03-06-2012, 05:46 AM
Ngày Quốc Hận Là Ngày Quốc Hận




http://www.quanvan.net/imgupload/im13287990411.jpg




Biến cố 30-4-1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn.


1.- DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975

Từ 26-4-1975, quân cộng sản bao vây Sài Gòn từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3 CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá vòng đai phòng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.

Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị võ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.

Chiều 28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5 chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản.

Hôm sau 29-4, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài Gòn. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài Gòn, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:

“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 358)

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.

Lúc 11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến phòng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại úy Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có gì bàn giao cả. Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:

“Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn) (vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30-4.)

Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ, trong khi còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV vẫn còn nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.


2.- NGÀY QUỐC HẬN


Thông thường, người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không còn, mà người ta bỏ chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn.

Ngay khi CS chiếm Sài Gòn, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR, The State of the World’s Refugees – Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4, tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ. Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy còn hát bài “Nối vòng tay lớn”, nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết tội “phản quốc”.

Sau ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương trình ODP (Orderly Departure Program) và chương trình HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, thì tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đã bỏ nước ra đi.

Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. Còn biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ Trần Văn Trạch đã từng nói một câu bất hủ: “Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi.”

Trước khi quân cộng sản vào Sài Gòn, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài. Trong số các chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình.” Sau khi Trần Văn Hương giao quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, thì hôm sau, ngày 29-4 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần Văn Hương trả lời như sau: “Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.” Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nhìn trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 352-355.)

Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh, chế độ Cộng hòa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.

Khi mới chiếm được miền Nam, cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Số liệu nầy theo dư luận chung, còn thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù “cải tạo”. (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon’s fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:

Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”, để đổi vàng giả.

Cộng sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc chấm công để lãnh lúa, dân chúng gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.
Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.

Như thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay. Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển, quy lụy Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc hận. Hai chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”

3.- NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam.

Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự mình muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng khao khát ra đi tìm tự do của dân chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.

Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự áp đặt của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu nước, người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam.

Hai sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, thì ở trong nước, dân số tăng lên mấy chục triệu người.

Vì vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số 342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng thêm những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó, ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày27-4-2003, và từ đó là nơi diễn ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.

Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ý nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và những người làm tay sai cho CS mới cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xóa bỏ được.

Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại vì Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ vì một lý do đơn giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng hơn được.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-02-2012)

cao nguyên
03-07-2012, 01:56 PM
http://3.bp.blogspot.com/_Jj2wDG7Zyqk/S6YCV2lDC6I/AAAAAAAAAK8/kawv9iizmiM/S269/ThapnenchoVN.gif

NIỆM TỪ


ba mươi lăm năm đã qua
mà thơ em viết còn nhòa lệ rưng
chữ đi lời cứ ngập ngừng
tình cay xốn mắt vạn lần nhớ anh

tháng Tư thắp nén hương trầm
theo làn khói tỏa gọi anh nghẹn lời
còn không anh những nụ cười
giữa vòng tay ấm dưới trời hỏa châu

lệ nhòa tim buốt nhói đau
lặng nhìn di ảnh trắng màu khăn tang
chưa buông súng đã đầu hàng
ra đi với nỗi bàng hoàng thế nhân

xa anh xa cả mộ phần
quê hương đành đoạn khắc trong niệm từ
đất sầu đẫm lệ tháng Tư
trời đau trường khúc biệt từ lưu vong!


Cao Nguyên
04012010

cao nguyên
03-08-2012, 10:37 AM
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&amp;v=rlDd571EFrw







http://cothommagazine.com/nhac/LeVanKhoa/Midway02.jpg

Xem hình Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 35 Năm trên Midway:
https://picasaweb.google.com/Hai.Tran18/Midway# (https://picasaweb.google.com/Hai.Tran18/Midway#)

cao nguyên
03-21-2012, 07:51 AM
http://www.youtube.com/watch?v=fZaGTBjmoHQ



Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh
nguồn: www.nguoi-viet.com


(http://www.nguoi-viet.com/)http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_pic.jpg?w=468

Hình 1: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh trong cuộc triển lãm
ảnh nghệ thuật của ông
cùng hai nhiếp ảnh gia Nguyễn Khải và Phạm Hiếu,
tại Phòng Sinh Hoạt Nhật Báo Người Việt.
(Hình: Vũ Ðình Trọng/Người Việt)
Những ai đã từng lớn lên thời chiến tranh chắc không thể không biết nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh với những bức hình nói về cuộc chiến tại Việt Nam đầy tính nhân bản.
Trong những năm phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có một biến cố khiến ông trở thành một nhiếp ảnh gia nổi tiếng sau này. Trong một cuộc giao tranh ở Bồng Sơn, Quảng Nam, ông từ chối ra lệnh cho binh sĩ ném lựu đạn xuống hầm để tiêu diệt Việt Cộng. Lý do rất đơn giản, Việt Cộng đã bắt cả gia đình người dân xuống hầm chung với chúng, giết chúng là giết thêm 5, 6 thường dân vô tội. “Ðành rằng là một quân nhân phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, nhưng lệnh của trái tim tôi không cho phép tôi làm chuyện đó nữa sau khi đã chứng kiến mười mấy căn hầm như vậy. Tôi xin chấp nhận hình phạt.”
Trở về Bộ Tổng Tham Mưu nhận hình phạt thì được Tướng Thanh, Phòng I nhìn ra khả năng nhiếp ảnh của ông do ông đã có 4 năm học bên Pháp nên cho phép ông phục chức và điều ra mặt trận làm phóng viên chiến trường.
Thế là ông đi từ chiến trường này đến chiến trường kia. Những bức hình của ông đã giới thiệu cho thế giới biết cuộc chiến tranh Việt Nam như thế nào, và người lính Việt Nam Cộng Hòa nhân bản ra sao. Trong thời gian này, ông viết cuốn sánh “Việt Nam Khói Lửa” và xuất bản được một cuốn sách hình, lưu lại những hình ảnh sống động của cuộc chiến.
Những bức hình ông chụp được mọi người ngưỡng mộ không phải là những hình thời sự. Ông chỉ là người tái tạo lại những câu chuyện đã xảy ra qua góc nhìn của một người lính cầm máy hình. Tất cả hầu như đều được dàn dựng công phu, tỉ mỉ để nói lên sự thật, mà theo ông “Lịch sử phải được dựng lại với tất cả lòng kính trọng.”
Trong khuôn khổ trang Người Việt Trẻ, chúng tôi giới thiệu đôi nét về ông và một số tác phẩm với từng hoàn cảnh ra đời của nó, qua lời kể của nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh.

Hình 2: Dựng cờ

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_dungco.jpg?w=400&h=267
“Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, Việt Cộng đã chiếm được Ðại Nội, họ chuẩn bị sẵn một lá cờ rất lớn treo lên cột cờ tại đây. Chúng ta phản kích và lấy lại được khu đất này. Trong khi vẫn còn những ụ súng phản kháng của Việt Cộng thì một trung sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa trèo lên cột cờ, xé tan lá cờ Việt Cộng và treo lá cờ của mình lên. Khi vừa leo xuống đến khoang đứng trên cùng thì anh bị Việt Cộng hạ sát, té rớt xuống đất. Lúc đó tôi còn bên kia sông Hương, cầu Tràng Tiền đã bị gãy, và tôi phải tìm cách vượt qua sông để vào Ðại Nội. Sau 45 phút dưới làn đạn địch, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đó. Tôi được thuật lại rằng: khi người trung sĩ hy sinh, bà vợ của ông ta từ trại gia binh gần đó chạy ra, khóc lóc thảm thiết. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Hắc Báo 81 bọc lá cờ Việt Nam Cộng Hòa cho người trung sĩ và chuyển anh ta về tuyến sau. Sau đó Tiểu Ðoàn 81 Hắc Báo truy lùng tàn quân Việt Cộng và dẹp sạch số còn lại ẩn nấp gần đó. Hôm sau tôi quay lại đúng lúc đơn vị Hắc Báo chuẩn bị rút khỏi Ðại Nội, tôi xin thiếu tá tiểu đoàn trưởng cho chụp một bức hình ghi nhận công lao của đơn vị. Ðược sự đồng ý của ông, tôi mới sắp xếp chỗ đứng cho các đơn vị chung quanh cột cờ. Sau đó tôi đề nghị mọi người giơ súng reo hò ‘Việt Nam Cộng Hòa Vạn Tuế! Việt Nam Cộng Hòa Vạn Tuế!… ’ ’ ’ Bức hình được chụp trong hoàn cảnh đó.”

Hình 3: Tấn công

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_tancong.jpg?w=468
“Tại mặt trận Bồng Sơn, Quảng Nam khoảng năm 1965-1966, tôi dẫn một đại đội +, tức là khoảng gần 100 binh sĩ chiếm cứ một ngọn đồi trong vùng. Việt Cộng cũng chiếm một ngọn đồi khác, cao hơn gần đó. Ban ngày hai bên đều thấy rõ những hoạt động của nhau như di chuyển, đào hầm hố… Tôi nhận định là tụi nó sẽ tấn công chúng tôi vào ban đêm nên cho anh em chuẩn bị hầm hố cẩn thận và yêu cầu hậu cứ tiếp tế lựu đạn. Hôm sau, trời vừa nhá nhem tối thì họ tấn công. Tôi lệnh cho binh sĩ dùng lựu đạn để đẩy lui bọn chúng, súng chỉ được dùng trong lúc đánh xáp lá cà. Ðánh bằng lựu đạn rất hiệu quả nhưng cũng rất nguy hiểm vì chúng tôi phải ước lượng được từ nơi đóng quân đến chỗ Việt Cộng la xung phong để sau khi rút chốt phải đếm giây trước khi ném. Nếu đếm sai, nhất là bị chậm, sẽ dẫn đến tử thương. Tôi vừa chỉ huy vừa quan sát cách rút chốt lựu đạn của binh sĩ, và thấy được những khuôn mặt căng thẳng và quyết tâm của binh sĩ. Năm giờ sáng hôm sau thì Việt Cộng rút, để lại một số xác. Hôm đó tôi kêu một anh lính người gốc Miên, mua cho anh một xị rượu cho anh uống, rồi dẫn anh ta xuống chân đồi cùng 2 két lựu đạn bảo anh ta quăng thật. Thế giới biết đến tôi nhiều cũng qua tấm hình này.”

Hình 4: Tiếc thương

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_tiecthuong.jpg?w=468
“Khoảng năm 1965, Việt Cộng tấn công vào một đồn lính ở Củ Chi, ngoại thành Sài Gòn. Chúng tôi đến giải vây. Khi Việt Cộng rút đi, họ để lại 6 xác chết không đầu của những người Nhân Dân Tự Vệ. Chúng tôi đến chỗ để xác thì thấy một cô gái khóc lóc thảm thương, đang lần mò tìm xác chồng. Tôi giúp cô tìm thẻ bài để nhận diện, sau đó cho cuốn xác tất cả lại đem về. Hôm sau tôi đến nhà cô gái mong có thể chụp một tấm hình của cô nhưng cô vẫn khóc lóc thảm thương quá nên không thực hiện được. Khi về dưỡng quân ở rừng cao su Ngã Ba Ông Tạ, tôi nhờ con gái tôi, lúc đó 11 tuổi tìm giúp một người bạn gái nào đó có một hoàn cảnh tương tự như cô gái ở Củ Chi để dựng tấm hình ‘Tiếc thương’. Cô Tâm là người con gái mà con tôi tìm được. Hiện nay cô đang sống tại thành phố Oklahoma. Lúc đó cô mới 19 tuổi, ý trung nhân của cô trong một chuyến bay nhảy toán ngoài Bắc bị Bắc Việt bắn rơi máy bay và bị bắt làm tù binh. Tôi đến gặp gia đình cô và xin phép được mời cô đi chụp hình với tôi. Gia đình cô đồng ý. Chỗ chụp hình là một quán bia ở xa lộ Biên Hòa. Tôi nhờ một anh bạn biết thổi sáo và nói anh ta ngồi phòng bên cạnh chơi những bản nhạc chiêu hồn như chương trình đài Saigon. Con tôi cũng ở đó, đọc những lá thư của ý trung nhân cô Tâm viết cho cô. Tôi chải tóc cho cô như trong hình, đưa tấm thẻ bài cho cô cầm, tấm thẻ bài này tôi mua chợ đen, một tấm thẻ bài được làm từ thời Pháp. Trong không khí u buồn, và bị tác động bởi tiếng sáo não lòng cùng với những lời lẽ trong bức thư của ý trung nhân, cô ta khóc nấc lên. Những giọt nước mắt lăn trên má, rớt xuống tay là những giọt nước mắt thật. Hai giọt nước mắt trên tấm thẻ bài là do tôi tạo ra. Chụp được 6 tấm thì cô tỉnh lại, không khóc nữa. Ðây là tấm hình lúc cao điểm nhất khi cô ấy nấc lên.”

Hình 5: Hạnh phúc trong tầm tay

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_hanhphuctrongtamtay.jpg?w=468
“Năm 1973, tôi nghe rằng ở Bạc Liêu có một người như trong hình, tức là bị cụt tay chân nên đến đó nhờ ông tỉnh trưởng dẫn tới nhà chụp hình. Ðây là một anh Nhân Dân Tự Vệ trong thôn có nhiệm vụ mở đường mỗi sáng. Một buổi sáng anh xâm được quả mìn Việt Cộng gài đêm trước, sắp đưa được nó lên thì quả mìn phát nổ. Anh bị cụt một tay và một chân trái. Tới nhà anh, một ngôi nhà lá đơn sơ, chỉ có hai cha con ở nhà, người vợ đi bán buôn ở chợ. Anh nấu cơm, cho gà ăn, giặt quần áo, và làm tất cả mọi việc có thể làm để giúp vợ. Ðến khi anh ru con anh ngủ thì tôi biết rằng mình đã gặp một tuyệt tác phẩm. Anh quên hẳn mình là người tàn tật đùa với đứa con trai nằm trên võng, thằng bé cũng đùa với bố một cách vô tư và hạnh phúc.”

Hình 6: Mầm măng non

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnh_mammangnon.jpg?w=468
“Ðây là hai đứa con tôi. Hương và Tuấn. Và hậu cảnh là một đồn canh tại Bình Chánh trước năm 1968. Ðây là một đồn canh rất mong manh, trong đó có 15 anh Nhân Dân Tự Vệ bảo vệ. Một đêm, khoảng một đại đội Việt Cộng tràn vào và 9 anh đã hy sinh trong khi chiến đấu. Trận chiến tuy nhỏ nhưng ác liệt vì các anh đã hết sức chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng dù chỉ được trang bị vũ khí không bằng địch. Khi chúng tôi đến giải vây thì đồn canh tan hoang vì đạn pháo, xác các anh nằm la liệt trong đồn. Tôi cho binh sĩ mai táng cho các anh, dọn dẹp đồn canh cho sạch. Chúng tôi đóng quân lại và chuẩn bị mọi thứ ‘đón tiếp’ nếu địch quay lại và lên kế hoạch hành quân tìm địch. Hai tháng sau, nhớ con quá nên tôi cho đem hai đứa con tôi lên đơn vị chơi. Mua cho hai cháu 2 bộ quần áo mới màu đỏ và vàng để tạo màu lá cờ và để cho hai cháu chơi trong đồn canh đó. Tôi muốn nói với mọi người rằng những mầm măng non của đất nước sẽ lớn lên trên đống hoang tàn của chiến tranh nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hòa.”

Hình 7: Vá cờ

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_vaco.jpg?w=468
“Trong trận chiếm lại Ðại Nội, Huế năm 1968, tôi có gặp vợ người trung sĩ tử trận. Tôi ghé nhà chị mong chụp được một tấm hình chân dung người góa phụ nhưng không được. Trước nỗi tiếc thương người chồng vừa mất, tôi không muốn chị phải đau thêm. Thế rồi khi qua Mỹ tôi lại tình cờ gặp lại chị trong khu chợ Lion ở San Jose, ý định chụp tấm hình vá cờ trở lại, nhưng chị đã già đi nhiều, không thích hợp và tôi đành phải đi tìm người khác.”
“Tôi quen với anh chị Hải Bằng, chị bằng lòng làm người mẫu cho tôi chụp bức hình ‘Vá cờ’ này. Tôi mua một cái nón sắt ở chợ trời, mượn cây súng trường của anh bạn Bùi Ðức Lạc là cả một chuyện khó khăn. Tôi dùng hai thứ đó làm hậu cảnh. Lá cờ được tôi đốt lỗ chỗ để chị ấy vá. Chị cứ ngồi vá cờ và tôi cứ chụp. Ðến động tác như trong hình thì tôi nói chị giữ nguyên động tác đó, tôi mở hé cửa sổ chỉ cho một phần ánh sáng rọi vào lá cờ, rọi vào nón sắt. Tuyệt vời. Bức hình chỉ có một ý nghĩa duy nhất: Chúng ta hãy vá lại những mảnh đời, những mảnh tình, những đơn vị chia rẽ, vá lại tình đoàn kết.”

Hình 8: Hai cha con

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_haichacon.jpg?w=468
Gia đình anh bạn trong hình ở San Jose. Tôi đến nhà một cô học trò và gặp anh đang sửa chữa nhà cho chị ấy. Nhà anh cũng ở cạnh và con anh, đứa bé trong hình hay chạy qua trò chuyện với anh. Tôi thấy hình ảnh hai cha con đẹp quá nên mới đề nghị được chụp hình hai cha con. Chủ đề tôi muốn là một buổi gặp gỡ hai cha con khi người cha từ chiến trận trở về. Tôi nói với anh hãy cố tạo những câu chuyện kể cho cậu bé nghe và để cho bé đặt những câu hỏi. Hai cha con thật tự nhiên trò chuyện, thằng bé đặt nhiều câu hỏi cho cha mình và cười thật tươi. Một tấm hình thật đẹp, thật yên bình.

Hình 9: Chân dung người lính

http://tambut.files.wordpress.com/2009/06/nnhanh_chandungnguoilinh.jpg?w=468
Tôi có một người bạn học tên Tuấn học chung tại trường Taberd, Sài Gòn. Chúng tôi cùng đi lính, và sau này về chung một đơn vị. Tôi là tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, anh là đại đội trưởng Ðại Ðội 2. Hôm đụng trận ở Ðất Cuốc, Củ Chi, đơn vị anh đổ bộ xuống cánh đồng trống thì bị phục, ngay đợt đầu tiên chúng tôi đã bị thương vong. Từ trong những bó rơm lớn, Việt Cộng núp trong đó bắn ra đội hình chúng tôi. Trong trận đánh này, anh Tuấn hy sinh. Sau này tôi hay mơ thấy anh về đứng bên giường tôi với đôi mắt như trong bức hình này. Anh cứ đứng nhìn tôi một cách buồn thảm rồi biến mất. Khi qua Mỹ chỉ được 2, 3 ngày thôi anh lại về với tôi trong giấc mơ, cũng nhìn tôi với đôi mắt như thế này. Giật mình tỉnh dậy, tôi nghĩ là anh theo tôi qua tới đây. Cố gắng ngủ lại, tôi lại thấy anh, anh như muốn nói với tôi rằng ‘Bây giờ niên trưởng tới đất Mỹ bình an, nhưng đừng quên những phút tác chiến bên nhau. Xin đừng quên những ngày gian khổ.’ Tôi cầu nguyện cho anh và hứa với lòng sẽ cầu nguyện cho anh suốt đời, và có ý định tìm người mẫu để tái tạo lại cái nhìn của anh Tuấn. Nhờ ơn trên, tôi gặp được anh Dư trong một buổi sinh hoạt Gia Ðình Mũ Ðỏ. Tôi kể cho anh Dư nghe câu chuyện của anh Tuấn, anh đồng ý giúp tôi. Lúc chụp hình tôi mở cho anh nghe những bài nhạc hành quân oai hùng. Khi bài nhạc đang ở cao trào, tôi xin anh đứng lên và chào cờ theo nghi lễ quân cách. Anh đứng lên chào và nhìn thẳng vào lá cờ tôi treo sau máy hình. Tấm hình được thực hiện như thế, còn kỹ thuật rửa hình là phần của tôi để tạo được tác phẩm này. Bức hình đã tái tạo lại được cái nhìn của một chiến sĩ đã hy sinh, như đang nói giùm những người đã nằm xuống rằng ‘Em thì đã đành rồi, người trưởng thượng thì vẫn còn sống. Thế thì nhiệm vụ của các anh chưa hết đâu, các anh phải tiếp tục phục vụ đất nước.”
http://tambut.wordpress.com/2009/06/24/nhiếp-ảnh-gia-nguyễn-ngọc-hạnh/

ngocdam66
03-30-2012, 12:57 PM
30 Tháng Tư

Nguyễn Thụy Long

Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi nhà cầm quyền phát động ì xèo kỷ niệm ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc, phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không. Cũng ngày ấy cộng đồng người Việt trên khắp thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau, Ngày Quốc Hận, Tháng 4 Đen hay gì đó còn tùy.



Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tư liệu về ngày hôm ấy, nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại trận ấy.



Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại cải tạo. Tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong, có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu quý giá, tôi đã dược xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất. Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con người Việt Nam đáng thương.



Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa 30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam. Tôi không có gì ca tụng về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo SỐNG bị giết chết vì đạn pháo kích lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới chạy thoát ra được đến cửa biển Cần Giờ.



Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày 30-4-1975). Có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không, vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, vì ông mới qua đời.



Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu Tử, nay cũng đã vắng bóng anh. Một đàn em thân thiết như Đông con tuổi còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông Chu Tử để tưởng nhớ ông.



Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa VN,” kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng phái nào đó.
Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?



Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo, đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra, lúc ấy mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt. Tôi không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy, với lời kết án thật mơ hồ.
Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết. Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lại là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đoàn Quyết Thắng này ở đâu! Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng, nên tôi cũng phải phì cười ra nước mắt sau những trận đòn tra tấn thừa chết thiếu sống.



Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị.” Một trung đoàn không có quân số, không doanh trại, không có cả chiến khu kháng chiến. Bản lấy cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:



- Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao. Tao biết ngay các anh độc lắm, lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.



Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới bị đưa lên trại học tập trên rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế. Chúng tôi ngắc ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong các trại tù. Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập.



Nhiều lần lao động cuốc đất trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối người, nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân. Bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông” thôi. Chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn nghèo. Đồi nghĩa địa tù chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi. Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.



Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại. Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều khúc ruột ngàn dặm được phép trở về thăm quê hương, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi nên hòa hợp hòa giải, quên đi chuyện cũ, đóng góp tất cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang cai trị. Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng, những Việt kiều trở về thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương, và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa ý yêu và ủng hộ đảng CS cầm quyền.



Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em chúng tôi gọi là ngày “đứt phim.” Từ ba giờ sáng một số trại viên có tay nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là gì đâu, sức lao động bị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được cả năm. Mà nay phải thèm và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có quá không? Nhưng sự thật là vậy.



Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt, chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm cũ của chúng tôi vào ngày ấy. Buổi trưa cả ngàn người tù chúng tôi - mỗi người được ăn một chén cơm, một miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn - tiết canh - thịt ngon miếng nạc mang lên nhà khung cho ban giám hiệu và thủ trưởng đơn vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của đảng vô biên, không thể nói hết được.



Về phía các cải tạo viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống ấy, không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30 tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối. Phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch. Phe thứ ba ăn ráo những gì được ban phát với lý luận: “Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta. Lý luận nào cũng đúng cả, không ai đụng chạm tới ai.



Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện của anh. Tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể phục các anh cải tạo chịu ăn cơm muối lắm, các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá thái độ ấy là sai hay đúng.
Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.



Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh. Và sau đó nhiều tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền.


Tôi chắc chắn rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân.” Chính sử không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ. Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột vịn vai anh cụt tay. Họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát, suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được một tí ân huệ bố thí.



Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm đau thương ấy. Những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bi đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà. Họ đi về đâu? Mắt tôi nhìn thấy có những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy trên đất nước VNCH thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù dắt anh què hát rong ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống, họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt này. Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên Biên Hòa.



Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần 30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có người thân đã chôn xác ở đó. Nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận. Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không. Sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì cho phải đạo làm người, mồ mả còn không. Tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm, nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai được quyến thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng.” Tôi chỉ mong muốn được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.


Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán báo. Không biết anh bán báo ở đó đã bao nhiêu năm.



Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vỉ sáng nay tôi đã mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:



- Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.



- Vậy tôi mua báo. Tôi hỏi anh.



- Vâng ông chọn tờ nào?



Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh ta, nói:



- Thôi anh khỏi phải thối lại.



- Vâng cám ơn ông.
Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh. Anh ta nói:



- Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà



- Anh thuộc binh chủng nào hồi trước? Tôi hỏi tiếp.
Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:



- Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long, chính quyền cũ làm cho tôi hai cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán báo để sinh sống.


Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình. Nhưng khi tôi nói tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng. Tôi không ngờ đã mấy chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân thành. Tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy. Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này “cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ, bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá chán. Tôi nói với anh:



- Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.



- Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi. Anh cười nhũn nhặn.



Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30 tháng Tư, sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.



Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời, ghi nhận được đúng ngày hôm đó:



Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng. Kẻ nào không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố. Có những xác người dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.



Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ giấy, và anh “cách mạng" đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không nhiệt tình vẫy cờ chào đón các anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái. Ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy chồm lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô liên tục. Thế cũng là quá đủ, tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà. Ngoài kia những dòng người dầy đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn. Họ không chịu tin vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.

Nguyễn Thụy Long
Đầu xuân năm Ất Dậu 2005

Triển
03-30-2012, 07:05 PM
30 Tháng Tư

Nguyễn Thụy Long
Đầu xuân năm Ất Dậu 2005

Moderator Văn Hóa cẩn thận xem xét lại. Năm 2004 ông Nguyễn Thụy Long đã gửi thư yêu cầu
diễn đàn này đừng công khai tác phẩm của ông nữa. Mang xuống hết.
Ông Nguyễn Thụy Long đã qua đời ở Việt Nam năm 2009.

cao nguyên
03-31-2012, 08:10 PM
Moderator Văn Hóa cẩn thận xem xét lại. Năm 2004 ông Nguyễn Thụy Long đã gửi thư yêu cầu
diễn đàn này đừng công khai tác phẩm của ông nữa. Mang xuống hết.
Ông Nguyễn Thụy Long đã qua đời ở Việt Nam năm 2009.

Anh Triển,
- Có thể nào anh cho xem THƯ của Nhà Văn Nguyễn Thụy Long về việc ngưng phổ biến các tác phẩm của ông.
- Nếu bài :"30 tháng 4" do anh Ngọc Đàm vừa đưa vào chủ đề này, được trích từ các trang web khác thì hệ quả sẽ thế nảo ? Như ở đây:

http://toquocvietnam.org/30thang4.htm

http://lytuongnguoiviet.com/index.php/vnconghoa/15270-30-thang-t
(http://toquocvietnam.org/30thang4.htm)


Cũng cần xem:
vĩnh biệt nhà văn nguyễn thụy longhttp://damau.org/archives/8537

cao nguyên
03-31-2012, 08:18 PM
Đêm chôn dầu vượt biển




http://chaudinhan.files.wordpress.com/2012/03/tauvuotbien.png?w=640
(http://chaudinhan.files.wordpress.com/2012/03/tauvuotbien.png)
Chuyến tàu vượt biển Châu Đình An có dấu X đứng giữa tàu. Hình chụp từ Tàu của Tây Đức Melbourn Express chụp trước khi vớt lên giữa biển khơi. Hình được Tây Đức tặng cho các thuyền nhân chuyến tàu mang tên 992.


Sau khi miền Nam Việt Nam thất thủ 30 tháng Tư 1975, hai miền đất nước dưới sự cai trị theo đường lối quốc hữu hoá các tài sản tư nhân do chế độ cộng sản Việt Nam thực hiện. Ngành dầu khí không còn được phép kinh doanh cá thể, tất cả đều tập trung vào sự quản lý của đảng cầm quyền.
Với một chính sách kinh tế tập trung, sự sản xuất bị ngưng trệ, yếu kém, kèm theo kế hoạch triệt hạ và đánh tư sản, bày ra đổi tiền đang có của miền Nam thành tiền của miền Bắc với số tiền hạn chế, cộng thêm ngăn sông, cấm chợ khắp nơi. Các trại tập trung mệnh danh cải tạo mọc ra nhanh chóng, hằng trăm ngàn quân, cán, chính của miền Nam Việt Nam Cộng Hoà bị bắt đưa vào trại tập trung, đã tạo ra một tình cảnh bi thương, đau khổ với không khí ngột ngạt bao trùm cả nước. Rồi chiến tranh biên giới xảy ra với Tàu năm 1978, thêm cuộc chiến tranh với Campuchia khiến cho Việt Nam trong chế độ mới bị thế giới xa lánh, cô lập. Trước tình cảnh bi đát này, hằng triệu người đã liều chết vượt biển tìm tự do.
Nếu nhìn trên bản đồ thế giới, con đường vượt thoát nhiều nhất ra đi là biển Đông và biển Thái Lan, để hi vọng đến Hồng Kông, đến Phi Luật Tân, đến Mã Lai, ngoài ra rất ít người dùng đường bộ đến Thái Lan qua nước Campuchia.
Do vậy, cuộc hành trình vượt thoát bằng thuyền trên đại dương bao la, đã đánh động lương tri nhân loại. Thống kê cho biết một con số ước đoán có trên 500 (http://chaudinhan.net/2012/03/31/dem-chon-dầu-vượt-biển/#) ngàn người Việt đã vùi thây dưới lòng biển sâu trên đường tìm kiếm tự do. Do đâu, mà người dân Việt cầm chắc cái chết trong tay, khi đặt sinh mệnh mình trên những chiếc thuyền con nhỏ bé, hầu mong vượt qua biển cả mênh mông trước ba đào sóng dữ.


http://chaudinhan.files.wordpress.com/2012/03/tren-boong.png?w=640
(http://chaudinhan.files.wordpress.com/2012/03/tren-boong.png)Sau khi vớt lên trên sân tàu Tây Đức. Châu Đình An dấu X đứng bìa góc trái


Chính sách kinh tế tập trung trong tay Đảng, do vậy tất cả xăng dầu bị tịch thu và quản lý, các cửa khẩu ra biển bị đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ, ngành ngư nghiệp đánh bắt cá bị quốc doanh và các thuyền bè phải vào cái gọi là hợp tác xã, mỗi lần ngư dân ra biển để đánh bắt cá, phải khai trình và số lượng nhiên liệu được kiểm soát vừa đủ cho thời gian tàu thuyền chạy ra bao nhiêu hải lý, và vừa đủ để chạy trở vào sau bao nhiêu ngày được phép. Việc kiểm soát chặt chẽ này nhằm khống chế sự vượt biển tìm tự do của người dân Việt Nam.
Tôi đã tìm cách vượt biển sau khi từ trại cải tạo trở về. Vượt biển khó lắm, vì cần có ít nhất là 3 đến 5 lượng vàng, có chỗ còn phải trả cao hơn nữa. Nhưng tôi đã lấy công sức bằng cách tình nguyện mua dầu để đổi được chuyến đi. Dầu là nhiên liệu cần thiết cho chuyến hải hành, ít ai dám nhận việc mua dầu, vì nguy hiểm. Mua từ các tài xế bộ đội cộng sản Bắc Việt, và mua phải vào ban đêm. Vì các tổ hợp có ghe thuyền bị quản lý chặt chẽ, nhưng vẫn có những móc nối để chuyến vượt biển ra đi. Và cần nhất là nhiên liệu, dầu không thể chứa dưới khoang thuyền, vì ra cửa khẩu sẽ bị kiểm soát tìm thấy và bị bắt ngay, do vậy, dầu phải có và chứa ở một nơi, đó là chôn dưới lớp cát dọc bãi biển, và ban đêm, khi tàu ra khơi sẽ quay thuyền ngược lại để đào cát lên, lấy số dầu và ra đi.
Vì không có vàng, tôi xin nhận làm công mua dầu, gánh dầu ra bãi để chôn dấu. Qua sự giới thiệu của một người quen, tôi đến nhà ông Hai Khi, là chủ ghe của một hợp tác xã, vì bị trưng thu vào hợp tác xã, nhưng chủ ghe vẫn được dùng lại như là công nhân của nhà nước cộng sản để điều hành chiếc ghe đánh cá của mình. Quốc hữu hoá thật tinh vi, vì đã lấy tài sản của mình, lại còn bắt mình phải làm công lại. Ông Hai Khi là dân Nghệ An, di cư vào Nam năm 1954, hành nghề biển cả đời mình. Tôi được ông giao tiền chỉ đủ mua cho từng đêm số dầu cần phải có. Và ông hứa là, tôi sẽ được có mặt trên chiếc ghe của ông khi có đủ dầu.
Mỗi đêm, tôi nằm thoai thoải dưới quốc lộ 1, (con đường từ Nam ra Bắc) ở làng Hộ Diêm, thị xã Phan Rang Tỉnh Ninh Thuận. Mỗi khi có ánh đèn xe Molotova (loại quân xa của quân đội miền Bắc) chiếu từ xa, là tôi nhảy lên đứng cạnh lề đường, tay đưa can dầu bằng nhựa lên cao, tay kia đưa ống hút dầu vẫy lia lịa để tài xế xe thấy mình muốn mua dầu. Các tài xế cán binh cộng sản rất thích bán dầu để lấy thêm tiền tiêu xài, vì lương lính của họ rất ít. Dừng lại, nhảy xuống xe họ hét lớn: “tiền đâu”, trao tiền nhanh, họ lấy can đựng dầu đặt xuống đất, thọc ống hút vào bình xăng dầu của xe, và tôi kê mồm hút cho dầu chảy vào can đựng. Vì sợ bị bắt gặp, người mua và kẻ bán đều lo sợ, do vậy họ thường hối thúc “nhanh lên, đủ rồi”. Mỗi lần hút dầu từ thùng xe, dầu bắn đầy mặt tôi, áo quần hôi mùi dầu nồng nặc, đã thế dầu còn vào cuống họng làm tôi muốn ói mửa, lảo đảo vì bị nhức đầu.
Cứ như thế suốt đêm, từ 12 giờ khuya “hành nghề” cho đến 3 giờ sáng, là tôi và một người bạn thân (tên Đại) phải gánh dầu ra bãi biển để chôn dấu. Mỗi can dầu chứa được 20 lít, gánh hai can là 40 lít, và hai người gánh được 80 lít cho mỗi đêm. Một chiếc ghe muốn đi từ cửa biển Tân An, Phan Rang đến đảo Palawan Phi Luật Tân, cần phải có đủ 600 lít dầu, và mua khoảng 10 ngày là có đủ dầu để bắt đầu cho chuyến vượt biển. Nhưng bạn ơi! Nhiều lúc mua dầu, chôn dầu xong thì phải chờ ghe, và xui xẻo, bãi dầu của mình bị phát hiện, bị đánh cắp, bị tịch thu. Rồi phải làm lại từ đầu.
Nhớ lại gánh dầu ra biển, tôi đã phải gánh 40 lít dầu nặng trĩu trên thân thể ốm yếu, còm cõi để băng qua một đám ruộng dài. Hộ Diêm là một làng nông, đa phần dân công giáo, và các thửa ruộng nằm sát quốc lộ 1. Tôi phải chật vật, khéo léo để các thùng dầu không bị vỡ mỗi lần té xuống, chỉ vì đường bờ ruộng quanh co, nhỏ bé, vừa đủ cho một người đi, mà lại đi trong đêm tối đen, thỉnh thoảng bị sụp lỗ ruộng, là cái lỗ thông qua các ruộng lúa với nhau. Con đường ruộng khó đi trong đêm tối, lại phải đi thật nhẹ để không gây tiếng động, vì sợ bất trắc xảy ra, nếu có ánh đèn pin quét lên là họ sẽ tri hô mình đi ăn trộm lúa, và mình sẽ bị bắt, tống giam trong tù ngục xã hội chủ nghĩa vì âm mưu vượt biển.
Nhưng cuộc vượt biển lại bất thành, vì dầu bị ai đó lấy mất. Sau này, tôi được Thái Thu Cúc, một cô bạn gái quen trong các chuyến vượt biển trước bất thành, đã giúp tôi ra đi từ cầu Xóm Bóng Nha Trang ngày 16 tháng 5, 1980.
Ghe vượt biển của tôi được Tàu Melbourn Express của Tây Đức vớt giữa biển khơi sau 3 đêm 4 ngày lênh đênh giữa sóng dữ và suýt chìm. Họ gửi chúng tôi tạm trú tại trại tị nạn Hồng Kông, chính nơi này, tôi đã viết ca khúc Đêm Chôn Dầu Vượt Biển.
Nhớ lại những lần gánh dầu ra biển, rồi chôn dầu trong đêm tối, bài hát đã trải lòng: “đêm nay anh gánh dầu ra biển, anh chôn. Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương. Anh chôn, chôn mối tình chúng mình. Gởi lại em, trăm nhớ ngàn thương…”. Tôi nghĩ đến Cúc, và viết cho nàng, dù Cúc giúp tôi thành công vượt biển, nhưng Cúc đã không may mắn, nàng kẹt lại từ đó cho đến bây giờ.
Tháng tư đến mỗi năm, hằng triệu triệu người Việt Nam trong và ngoài nước không thể quên nỗi kinh hoàng, hụt hẫng, đau đớn vì sự thay đổi tất cả của con người và đất nước chúng ta. Viết bài này hôm nay đã 37 năm trôi qua, đã 37 tháng tư dài trong một đời người.
Chúng ta không quên đất nước đau thương của chúng ta, ngày càng tụt hậu về giá trị nhân phẩm. Chúng ta không thể nào quên đất nước thân yêu ngày càng kém cỏi về một xã hội gần như vô cảm, và thế hệ trẻ từ thể chất đến tinh thần bị băng hoại niềm tin. Do đâu mà ra nông nổi này, câu trả lời đã quá rõ, đồng bào miền Bắc đã rõ từ năm 1954, đồng bào miền Nam đã rõ từ năm 1975.
Từ “đêm chôn dầu vượt biển” cho đến bến bờ tự do ngày hôm nay, người Việt hải ngoại lúc nào cũng canh cánh trong lòng nỗi thương nhớ về non sông, xứ sở mình. 37 năm dài đã ổn định cuộc sống, con cái học thành tài, một thế hệ tiếp nối chuyển mình với biết bao hy sinh, biết bao nỗ lực, kiên nhẫn để vượt qua khó khăn. Chúng ta đã tìm đủ mọi cách để vượt thoát ra khỏi bóng tối chủ nghĩa xã hội, kể cả biết có thể mình phải chết, thì sẽ có ngày chúng ta trở về với ánh sáng tự do dân chủ thực sự qua nỗ lực tìm đủ mọi cách đấu tranh cho nhân quyền nơi xứ người.
“Anh phải bỏ đi, thắp lên ngọn lửa hy vọng. Anh phải bỏ đi để em còn sống..”
Dù sao, tôi cũng đã tâm niệm khi viết xuống, để hẹn ngày trở lại của một nước Việt Nam dân chủ, tự do thực sự. Tôi biết chắc rằng, chúng ta không thể nào quên quê nhà. Cũng như chúng ta không thể mặc áo ấm đi giữa mùa Đông đang khi có bao người giá lạnh…
Hò ơi! Tạm biệt nước non..
Châu Đình An
http://chaudinhan.net/2012/03/31/dem-chon-dầu-vượt-biển/#more-589

<a href="http://chaudinhan.net/2012/03/31/dem-chon-dầu-vượt-biển/#more-589">
http://www.youtube.com/watch?v=tqmbWVInzDk (http://chaudinhan.net/2012/03/31/dem-chon-dầu-vượt-biển/#more-589)

Triển
03-31-2012, 11:05 PM
Anh Triển,
- Có thể nào anh cho xem THƯ của Nhà Văn Nguyễn Thụy Long về việc ngưng phổ biến các tác phẩm của ông.


Ngạc nhiên thật ta. ;)


anh Cao Nguyên, anh thích rõ ràng kiểu chị Phượng Các thì chìu:




http://i43.tinypic.com/fooeuv.png

http://i44.tinypic.com/2vn3wax.png





- Nếu bài :"30 tháng 4" do anh Ngọc Đàm vừa đưa vào chủ đề này, được trích từ các trang web khác thì hệ quả sẽ thế nảo ? Như ở đây:

http://toquocvietnam.org/30thang4.htm

http://lytuongnguoiviet.com/index.php/vnconghoa/15270-30-thang-t



Cũng cần xem:
vĩnh biệt nhà văn nguyễn thụy long

http://damau.org/archives/8537

Anh hỏi tôi "hệ quả" là kết quả kéo theo của hành động dán bài do anh NgocDam này được trích ở trang này ấy à ?
Tôi thưa vắn tắc với anh là không có "hệ quả" gì cả. Bởi vì những trang đó không có than phiền và cũng chẳng khiếu nại.
Còn ở đây bà con vào đọc xong xuôi rồi đi ra.
Anh đưa thêm ba bốn link để làm gì ? Người ta viết về Nguyễn Thụy Long, hành động này và hành động dán bài của Nguyễn
Thụy Long có nhập nhằng gì với nhau ? Anh thử trình bày suy nghĩ logic của anh xem sao anh Cao Nguyên.

Tôi nhắn Mod Văn Hóa là cẩn thận vì trong quá khứ diễn đàn này đã có chuyện ông Long gửi email nói đừng dán bài của
ông ấy. Bây giờ ông đã không còn nữa thì mình cũng tôn trọng ông ấy thế thôi. Chuyện ngày xưa có quyên tiền tặng ông ấy
cũng không có nghĩa là mua đứt bản quyền. ;)

ngocdam66
04-01-2012, 07:43 AM
Tưởng niệm mùa Quốc Hận lần thứ 37...



Tháng 4 uất hận










Người Chiến Sĩ VNCH vào ngày cuối cùng của cuộc chiến




http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/thienthanmudo02.jpg?w=640
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)





Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa
thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/a-1j_6sos_bombing1.jpg?w=640






1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/unsungheros.jpg?w=640






Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/ac-119k-stinger-gunship72dpi1.jpg?w=640






Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.

http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/ac119_down.jpg?w=640





2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng
ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/t54-1.jpg?w=640





Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/t285161lb8.jpg?w=640





Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C,
nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng


.http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/tqlc-2.jpg?w=640




Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.










Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm
đường về nhà.


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/delta.jpg?w=640






Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút
súng bắn vào đầu tự tử


.http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/nguyenvannam1004-1.jpg?w=640

Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)

http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/tsq_bw21.jpg?w=640





Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/ttsqvn21.jpg?w=640





3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.

http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/svsq_thuduc.jpg?w=640

Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”

http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/war.jpg?w=640






4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/nhaydutancong.jpg?w=640






Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu
có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/vobidalat.jpg?w=640






Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.




Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.


http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/dogtag3.gif?w=640












http://ongvove.files.wordpress.com/2009/04/remembervn.jpg?w=640



(*) Tho Thanh Nam

Triển
04-01-2012, 09:26 PM
Anh Triển,
- Có thể nào anh cho xem THƯ của Nhà Văn Nguyễn Thụy Long về việc ngưng phổ biến các tác phẩm của ông.


Ngạc nhiên thật ta. ;)


anh Cao Nguyên, anh thích rõ ràng kiểu chị Phượng Các thì chìu:




http://i43.tinypic.com/fooeuv.png

http://i44.tinypic.com/2vn3wax.png





Anh hỏi tôi "hệ quả" là kết quả kéo theo của hành động dán bài do anh NgocDam này được trích ở trang này ấy à ?
Tôi thưa vắn tắc với anh là không có "hệ quả" gì cả. Bởi vì những trang đó không có than phiền và cũng chẳng khiếu nại.
Còn ở đây bà con vào đọc xong xuôi rồi đi ra.
Anh đưa thêm ba bốn link để làm gì ? Người ta viết về Nguyễn Thụy Long, hành động này và hành động dán bài của Nguyễn
Thụy Long có nhập nhằng gì với nhau ? Anh thử trình bày suy nghĩ logic của anh xem sao anh Cao Nguyên.

Tôi nhắn Mod Văn Hóa là cẩn thận vì trong quá khứ diễn đàn này đã có chuyện ông Long gửi email nói đừng dán bài của
ông ấy. Bây giờ ông đã không còn nữa thì mình cũng tôn trọng ông ấy thế thôi. Chuyện ngày xưa có quyên tiền tặng ông ấy
cũng không có nghĩa là mua đứt bản quyền. ;).......



anh Cao Nguyên,
anh cho biết cái "hệ quả" của anh là gì sau khi xem bài trả lời này của tôi ? ;)

ngocdam66
04-09-2012, 08:45 PM
http://www.youtube.com/watch?v=_QNEEzuv4R0&amp;feature=youtu.be

Triển
04-09-2012, 09:59 PM
.......






Anh Triển,
- Có thể nào anh cho xem THƯ của Nhà Văn Nguyễn Thụy Long về việc ngưng phổ biến các tác phẩm của ông.


Ngạc nhiên thật ta. ;)

anh Cao Nguyên, anh thích rõ ràng kiểu chị Phượng Các thì chìu:

http://i43.tinypic.com/fooeuv.png


http://i44.tinypic.com/2vn3wax.png


Anh hỏi tôi "hệ quả" là kết quả kéo theo của hành động dán bài do anh NgocDam này được trích ở trang này ấy à ?
Tôi thưa vắn tắc với anh là không có "hệ quả" gì cả. Bởi vì những trang đó không có than phiền và cũng chẳng khiếu nại.
Còn ở đây bà con vào đọc xong xuôi rồi đi ra.
Anh đưa thêm ba bốn link để làm gì ? Người ta viết về Nguyễn Thụy Long, hành động này và hành động dán bài của Nguyễn
Thụy Long có nhập nhằng gì với nhau ? Anh thử trình bày suy nghĩ logic của anh xem sao anh Cao Nguyên.

Tôi nhắn Mod Văn Hóa là cẩn thận vì trong quá khứ diễn đàn này đã có chuyện ông Long gửi email nói đừng dán bài của
ông ấy. Bây giờ ông đã không còn nữa thì mình cũng tôn trọng ông ấy thế thôi. Chuyện ngày xưa có quyên tiền tặng ông ấy
cũng không có nghĩa là mua đứt bản quyền.


anh Cao Nguyên,
anh cho biết cái "hệ quả" của anh là gì sau khi xem bài trả lời này của tôi ? ;)


Nhắc nhớ. ;)

cao nguyên
04-10-2012, 11:10 AM
.......



anh Cao Nguyên,
anh cho biết cái "hệ quả" của anh là gì sau khi xem bài trả lời này của tôi ? ;)

Anh Triển Chiêu
Tôi mở chủ đề này nhằm tưởng niệm những người bạn tôi đã hi sinh vì Tổ Quốc . Một nén tâm hương vừa tưởng tiếc, vừa cầu xin họ an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng .
Nhưng ngay trang đầu, anh cho việc làm của tôi giống chuyện cải lương . Đây là một sự xúc phạm với cá nhân tôi, nên tôi đã tính nhờ Ban Điều Hợp Đặc Trưng khóa chủ đề này .
Sau bài "Ba Mươi Tháng Tư" của nhà văn Nguyễn Thụy Long do anh Ngọc Đàm post lên, anh nói là bài đã được yêu cầu lấy xuống từ một người xưng là Nguyễn Thụy Long . Nên tôi có yêu cầu anh cho biết văn thư yêu cầu đó . Đồng thời, tôi hỏi lấy bài đang có từ trang web khác đưa về đây thì có hệ quả gì ? Anh bám vào câu hỏi của tôi để chất vấn về chữ "hệ quả" .
Trả lời vắn tắt với anh rằng:
- Liên hệ đến một trang web khác lấy bài và đưa bài về trang web Đặc trưng thì kết quả có bị thưa kiện về tác quyền hay không ?
Đơn giản vậy thôi .
Còn như anh hiểu xa hơn về chừ "hệ quả" thì tùy anh .
Đây là lần cuối tôi tiếp chuyện với anh. Topic này xin được BĐH khóa lại vì không gian không còn yên tịnh cho những nén tâm hương .
Chúc anh thân tâm an lạc .
Cao Nguyên .