Triển
03-16-2012, 10:35 PM
PHẬT TỬ CẦN CÓ TINH THẦN
TỤNG KINH NHƯ THẾ NÀO?
(Đã đăng tạp chí Từ Quang, năm thứ XII, số 130 – 131 tháng 11 và 12 năm 1962 – PL. 2506, phát hành tại Sài Gòn - Việt Nam)
Nguyên tác: Dr. G. P. Malalasekera
Chuyển ngữ: H. T. Thích Trí Chơn
Nhiều người thường hỏi tôi: “Phật tử có tụng kinh không? Phật tử đến chùa với mục đích gì? Phật tử tụng kinh với tinh thần thế nào?”
Thật ra, danh từ tụng kinh bao hàm nhiều nghĩa. Đối với các tôn giáo Thần quyền cũng như những tôn giáo chủ trương vũ trụ vạn hữu là do đấng Toàn Năng Toàn Trí sáng tạo và ngài có quyền thưởng phạt tất cả mọi người, thì tụng kinh không gì khác hơn là để xin vị thần linh hoặc đấng tối cao đó tha tội, và hằng ngày phù hộ cho mình đặng phát lộc phát tài, tiến chức thăng quan, tai qua nạn khỏi.
Trước hết, có thể nói rằng, vì Phật tử không tin vào một đấng thần linh nào, nên họ không có quan niệm tụng kinh như thế. Trái lại, bằng vào thuyết nghiệp báo Phật dạy, Phật tử tin rằng mọi hạnh phúc đau khổ, giàu sang hay nghèo hèn đều là những kết quả tạo nên do hành động, lời nói và ý nghĩ của cá nhân mình. Nghiệp báo không phải là một định luật có chủ nhân tạo tác sắp đặt, nên tự nó không thể tỏ lòng thương hại hoặc tha tội cho bất cứ người nào đã phạm lỗi. Mọi điều xấu chỉ có thể cứu chuộc bằng những việc làm tốt đẹp, cũng như nhờ gieo rắc các hành động lành, chúng ta sẽ dứt sạch được kết quả của nghiệp ác.
Theo Phật giáo, tội lỗi không phải là sự vi phạm hoặc bất tuân những điều luật khắc khe độc đoán do vị thần linh đặt ra buộc thiên hạ phải phục tùng, mà chỉ là sự thể hiện trọn vẹn những điều sai lầm gây nên bởi thân, miệng, ý của con người. Cho nên Phật giáo không bao giờ chấp nhận lối tụng kinh theo ý niệm thông thường như đã nêu trên của phần đông nhân thế. Chính con người phải chịu trách nhiệm lấy mọi điều thiện, ác, hạnh phúc hay đau khổ của mình, chứ không thể trút cho ai và mong ai cứu rỗi được.
Vậy Phật tử đến chùa với mục đích gì? Dưới đây, chúng ta thử tìm hiểu qua hành động của các Phật tử thuần thành, để nhận chân giá trị việc đi chùa của họ. Chả cần phải lựa ngày đặc biệt mà Phật tử có thể đến chùa bất cứ khi nào họ muốn. Tuy nhiên, phần đông họ chọn ngày Mồng Một hoặc Rằm, vì những ngày này, mọi người khác cũng đều ưa đi chùa, và tâm lý ai cũng thích đi đông cho có bạn. Đi chùa họ thường mặc y phục màu trắng vì nó là màu tượng trưng cho sự trong sạch, khiêm nhường và chân thật. Họ mang theo những hoa thơm màu sắc rực rỡ. Đôi lúc họ cũng đem cúng cho chùa hương trầm và dầu thắp.
Đến chùa Phật tử rửa chân tay sạch sẽ, vì họ quan niệm rằng sự thanh tịnh ở thân tâm sẽ có ảnh hưởng tốt đến các hành động bên ngoài. Trong chùa có nhiều nơi để tín đồ dâng lễ. Nơi chính gọi là Vihara. Nó có nghĩa là chỗ ở. Nguyên gốc chữ Vihara xưa kia dùng để chỉ nơi đức Phật thường trú (Tinh Xá). Sau này Vihara được xem là chỗ chư Tăng chung sống. Vậy nó có nghĩa như chùa hay tu viện (monastery). Nhưng hiện nay ở Tích Lan (Ceylon), nơi các nhà Sư ở gọi là “pansala”, mặc dầu gốc chữ này gọi là túp lều của người tu khổ hạnh hoặc cái chòi của kẻ ẩn sĩ. Còn danh từ cổ “Vihara” lại được hiểu theo nghĩa là nơi thờ các tượng Phật.
Điều đáng chú ý với Phật tử, tượng Phật không phải là một pháp khí để họ cúng lạy, mà nó xuất hiện như một hình ảnh tượng trưng giúp người Phật tử tưởng nhớ đến đức Phật. Sự có hay thiếu tượng Phật không phải là điều quan trọng. Sở dĩ Phật tử thấy cần chiêm ngưỡng một pho tượng, một bức ảnh, hay một hình thức nào khác tượng trưng cho đức Phật là cốt để giúp họ dễ dàng tập trung tư tưởng trong giờ phút tụng kinh hành lễ mà thôi. Cho nên người Phật tử chân chính không phải chỉ đảnh lễ những pho tượng bằng đất, gỗ hoặc đá, mà trước bất cứ một pháp khí nào biểu lộ đầy đủ sắc tướng của đức Phật thì họ đều kính lạy. Ngoại trừ những kẻ mê lầm mới cố chấp vào sự sùng bái các hình tượng, và đó là điều trái hẳn với tinh thần Phật giáo.
Như đã nói trên, Vihara là Tinh Xá, nên với Phật tử, danh từ này xưa cũng như nay, họ đều hiểu theo nghĩa là nơi đức Phật đang sống. Vì Phật tử Tích Lan có quan niệm thích bái lễ những người sống đối diện trước họ hơn là với những vị đã quá vãng. Nói thế không có nghĩa là Phật tử ở đây tin rằng tuy đức Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng hiện giờ Ngài vẫn còn sống ở một nơi thiêng liêng nào đó. Mà đúng hơn, vì muốn dễ cảm thông cùng đức Phật, nên trong khi tụng kinh hành lễ, họ thường tưởng nghĩ như Ngài đang còn hiện hữu.
Họ tin rằng, mặc dầu đức Phật đã Niết Bàn, nhưng tinh thần của Ngài vẫn tồn tại, thấm nhuần cả thế giới, như chiếc hoa đã tàn, song hương thơm của nó đang còn ngào ngạt phảng phất khắp nơi. Phật tử quan niệm rằng đức Phật mà họ thờ lạy không mất, Ngài vẫn còn sống động qua những giáo lý cao siêu của Ngài. Cho nên chúng ta không lấy làm ngạc nhiên thấy Phật tử thường dâng cúng các thức ăn uống nơi điện thờ Phật. Hành động này cốt nói lên lòng tín thành thiết tha của họ đối với đấng Thế Tôn, chứ không một ai, ngay cả những Phật tử kém hiểu biết nhất, lại có thể tin rằng đức Phật dùng các phẩm vật ấy. Còn cúng hương hoa là để tỏ lòng tôn kính và niệm ân đức Phật, chứ hầu hết Phật tử đều thừa hiểu các lễ vật đó thật chả có giá trị gì. Như để nói lên lòng kính mến tri ân người nào, chúng ta thường dâng hoa cho họ.
Khi dâng hương hoa xong Phật tử thường tụng kinh, với mục đích giúp họ ôn lại những hạnh nguyện cao cả của đức Từ Phụ. Ngài là bậc đại giác ngộ, đã chứng thực chân lý vũ trụ, và giải thoát hoàn toàn mọi đau khổ. Ngài đã đem lại cho nhân loại sự hiểu biết chân chính, một lẽ sống cao đẹp hướng đến chân hạnh phúc hoà bình. Ngài là bậc Thầy của hai cõi Trời, Người. Ngài xuất hiện như một vị dẫn đường độc nhất đối với những ai muốn tìm về nẻo thiện đầy an lạc. Ngài không phải là đấng để ban phước giáng hoạ cho kẻ nào. Bởi vậy tụng kinh, Phật tử không hoàn toàn có quan niệm mong được đức Phật che chở phù hộ, mà chính là để nhớ lại những lời dạy thâm huyền của một bậc Thánh nhân, cao cả tuyệt vời trọng muôn loại.
Tụng kinh cũng là dịp cho người tín đồ phát nguyện rằng trọn đời sẽ quy y Phật và luôn sống theo giáo lý của Ngài. Nhưng, điều ý nghĩa nhất là trong giờ phút tụng niệm đó người Phật tử đã nói lên được sự quyết tâm tu hành của mình, mong hướng về cảnh giới Niết Bàn an lạc mà đức Phật đã đạt được nhờ công phu tu tập và thiền định. Người Phật tử cũng nhớ rằng, trải qua nhiều đời, vì mong tìm cho chúng sanh một con đường giác ngộ, giải thoát mà đức Phật phải chịu đựng biết bao khổ hạnh gian truân. Không phải một kiếp, nhưng đến vô lượng kiếp, Ngài đã hy sinh cuộc sống cá nhân để phụng sự cho hạnh phúc muôn loài. Mọi người ai cũng có thể thành Phật, nếu họ chí tâm theo đúng con đường Phật dạy. Con đường đó tức là Phật Pháp (Dhamma), và chính nhờ tụng kinh mà người Phật tử thấm nhuần được giáo lý cao siêu của Phật đà.
Phật giáo không phải là môn học thần bí. Nó rõ ràng như một bàn tay mở rộng, và có thể chứng thực bằng những kết quả lợi ích cụ thể. Phật giáo không bị hạn cuộc bởi không gian, thời gian. Nó vĩnh kiếp tồn tại, thích ứng với mọi hoàn cảnh, muôn thời muôn xứ và muôn phương. Nó thừa sức hấp dẫn mọi người tìm tòi nghiên cứu. Nó không xây dựng trên đức tin mù quáng, mà trái lại được bồi đắp bằng chánh tín. Và không mơ hồ viễn vong, Phật giáo kiện toàn trên mặt luận lý vững chắc, sáng tỏ như mục đích nó đã nhắm đến, đó là sự diệt khổ cùng đem lại cho nhân loại nguồn hạnh phúc hoà bình. Nhưng mỗi cá nhân phải tự mình tinh tấn tu luyện để đạt được sự an lạc ấy, chứ không thể nhờ vào sức cứu rỗi của một tha nhân nào, dầu vị đó là đấng có quyền phép thiêng liêng đến đâu.
Trích dịch tạp chí “Phật Giáo Thế Giới” (World Buddhism) số tháng 1 – 1960, ấn hành tại Tích Lan (Sri Lanka).
TỤNG KINH NHƯ THẾ NÀO?
(Đã đăng tạp chí Từ Quang, năm thứ XII, số 130 – 131 tháng 11 và 12 năm 1962 – PL. 2506, phát hành tại Sài Gòn - Việt Nam)
Nguyên tác: Dr. G. P. Malalasekera
Chuyển ngữ: H. T. Thích Trí Chơn
Nhiều người thường hỏi tôi: “Phật tử có tụng kinh không? Phật tử đến chùa với mục đích gì? Phật tử tụng kinh với tinh thần thế nào?”
Thật ra, danh từ tụng kinh bao hàm nhiều nghĩa. Đối với các tôn giáo Thần quyền cũng như những tôn giáo chủ trương vũ trụ vạn hữu là do đấng Toàn Năng Toàn Trí sáng tạo và ngài có quyền thưởng phạt tất cả mọi người, thì tụng kinh không gì khác hơn là để xin vị thần linh hoặc đấng tối cao đó tha tội, và hằng ngày phù hộ cho mình đặng phát lộc phát tài, tiến chức thăng quan, tai qua nạn khỏi.
Trước hết, có thể nói rằng, vì Phật tử không tin vào một đấng thần linh nào, nên họ không có quan niệm tụng kinh như thế. Trái lại, bằng vào thuyết nghiệp báo Phật dạy, Phật tử tin rằng mọi hạnh phúc đau khổ, giàu sang hay nghèo hèn đều là những kết quả tạo nên do hành động, lời nói và ý nghĩ của cá nhân mình. Nghiệp báo không phải là một định luật có chủ nhân tạo tác sắp đặt, nên tự nó không thể tỏ lòng thương hại hoặc tha tội cho bất cứ người nào đã phạm lỗi. Mọi điều xấu chỉ có thể cứu chuộc bằng những việc làm tốt đẹp, cũng như nhờ gieo rắc các hành động lành, chúng ta sẽ dứt sạch được kết quả của nghiệp ác.
Theo Phật giáo, tội lỗi không phải là sự vi phạm hoặc bất tuân những điều luật khắc khe độc đoán do vị thần linh đặt ra buộc thiên hạ phải phục tùng, mà chỉ là sự thể hiện trọn vẹn những điều sai lầm gây nên bởi thân, miệng, ý của con người. Cho nên Phật giáo không bao giờ chấp nhận lối tụng kinh theo ý niệm thông thường như đã nêu trên của phần đông nhân thế. Chính con người phải chịu trách nhiệm lấy mọi điều thiện, ác, hạnh phúc hay đau khổ của mình, chứ không thể trút cho ai và mong ai cứu rỗi được.
Vậy Phật tử đến chùa với mục đích gì? Dưới đây, chúng ta thử tìm hiểu qua hành động của các Phật tử thuần thành, để nhận chân giá trị việc đi chùa của họ. Chả cần phải lựa ngày đặc biệt mà Phật tử có thể đến chùa bất cứ khi nào họ muốn. Tuy nhiên, phần đông họ chọn ngày Mồng Một hoặc Rằm, vì những ngày này, mọi người khác cũng đều ưa đi chùa, và tâm lý ai cũng thích đi đông cho có bạn. Đi chùa họ thường mặc y phục màu trắng vì nó là màu tượng trưng cho sự trong sạch, khiêm nhường và chân thật. Họ mang theo những hoa thơm màu sắc rực rỡ. Đôi lúc họ cũng đem cúng cho chùa hương trầm và dầu thắp.
Đến chùa Phật tử rửa chân tay sạch sẽ, vì họ quan niệm rằng sự thanh tịnh ở thân tâm sẽ có ảnh hưởng tốt đến các hành động bên ngoài. Trong chùa có nhiều nơi để tín đồ dâng lễ. Nơi chính gọi là Vihara. Nó có nghĩa là chỗ ở. Nguyên gốc chữ Vihara xưa kia dùng để chỉ nơi đức Phật thường trú (Tinh Xá). Sau này Vihara được xem là chỗ chư Tăng chung sống. Vậy nó có nghĩa như chùa hay tu viện (monastery). Nhưng hiện nay ở Tích Lan (Ceylon), nơi các nhà Sư ở gọi là “pansala”, mặc dầu gốc chữ này gọi là túp lều của người tu khổ hạnh hoặc cái chòi của kẻ ẩn sĩ. Còn danh từ cổ “Vihara” lại được hiểu theo nghĩa là nơi thờ các tượng Phật.
Điều đáng chú ý với Phật tử, tượng Phật không phải là một pháp khí để họ cúng lạy, mà nó xuất hiện như một hình ảnh tượng trưng giúp người Phật tử tưởng nhớ đến đức Phật. Sự có hay thiếu tượng Phật không phải là điều quan trọng. Sở dĩ Phật tử thấy cần chiêm ngưỡng một pho tượng, một bức ảnh, hay một hình thức nào khác tượng trưng cho đức Phật là cốt để giúp họ dễ dàng tập trung tư tưởng trong giờ phút tụng kinh hành lễ mà thôi. Cho nên người Phật tử chân chính không phải chỉ đảnh lễ những pho tượng bằng đất, gỗ hoặc đá, mà trước bất cứ một pháp khí nào biểu lộ đầy đủ sắc tướng của đức Phật thì họ đều kính lạy. Ngoại trừ những kẻ mê lầm mới cố chấp vào sự sùng bái các hình tượng, và đó là điều trái hẳn với tinh thần Phật giáo.
Như đã nói trên, Vihara là Tinh Xá, nên với Phật tử, danh từ này xưa cũng như nay, họ đều hiểu theo nghĩa là nơi đức Phật đang sống. Vì Phật tử Tích Lan có quan niệm thích bái lễ những người sống đối diện trước họ hơn là với những vị đã quá vãng. Nói thế không có nghĩa là Phật tử ở đây tin rằng tuy đức Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng hiện giờ Ngài vẫn còn sống ở một nơi thiêng liêng nào đó. Mà đúng hơn, vì muốn dễ cảm thông cùng đức Phật, nên trong khi tụng kinh hành lễ, họ thường tưởng nghĩ như Ngài đang còn hiện hữu.
Họ tin rằng, mặc dầu đức Phật đã Niết Bàn, nhưng tinh thần của Ngài vẫn tồn tại, thấm nhuần cả thế giới, như chiếc hoa đã tàn, song hương thơm của nó đang còn ngào ngạt phảng phất khắp nơi. Phật tử quan niệm rằng đức Phật mà họ thờ lạy không mất, Ngài vẫn còn sống động qua những giáo lý cao siêu của Ngài. Cho nên chúng ta không lấy làm ngạc nhiên thấy Phật tử thường dâng cúng các thức ăn uống nơi điện thờ Phật. Hành động này cốt nói lên lòng tín thành thiết tha của họ đối với đấng Thế Tôn, chứ không một ai, ngay cả những Phật tử kém hiểu biết nhất, lại có thể tin rằng đức Phật dùng các phẩm vật ấy. Còn cúng hương hoa là để tỏ lòng tôn kính và niệm ân đức Phật, chứ hầu hết Phật tử đều thừa hiểu các lễ vật đó thật chả có giá trị gì. Như để nói lên lòng kính mến tri ân người nào, chúng ta thường dâng hoa cho họ.
Khi dâng hương hoa xong Phật tử thường tụng kinh, với mục đích giúp họ ôn lại những hạnh nguyện cao cả của đức Từ Phụ. Ngài là bậc đại giác ngộ, đã chứng thực chân lý vũ trụ, và giải thoát hoàn toàn mọi đau khổ. Ngài đã đem lại cho nhân loại sự hiểu biết chân chính, một lẽ sống cao đẹp hướng đến chân hạnh phúc hoà bình. Ngài là bậc Thầy của hai cõi Trời, Người. Ngài xuất hiện như một vị dẫn đường độc nhất đối với những ai muốn tìm về nẻo thiện đầy an lạc. Ngài không phải là đấng để ban phước giáng hoạ cho kẻ nào. Bởi vậy tụng kinh, Phật tử không hoàn toàn có quan niệm mong được đức Phật che chở phù hộ, mà chính là để nhớ lại những lời dạy thâm huyền của một bậc Thánh nhân, cao cả tuyệt vời trọng muôn loại.
Tụng kinh cũng là dịp cho người tín đồ phát nguyện rằng trọn đời sẽ quy y Phật và luôn sống theo giáo lý của Ngài. Nhưng, điều ý nghĩa nhất là trong giờ phút tụng niệm đó người Phật tử đã nói lên được sự quyết tâm tu hành của mình, mong hướng về cảnh giới Niết Bàn an lạc mà đức Phật đã đạt được nhờ công phu tu tập và thiền định. Người Phật tử cũng nhớ rằng, trải qua nhiều đời, vì mong tìm cho chúng sanh một con đường giác ngộ, giải thoát mà đức Phật phải chịu đựng biết bao khổ hạnh gian truân. Không phải một kiếp, nhưng đến vô lượng kiếp, Ngài đã hy sinh cuộc sống cá nhân để phụng sự cho hạnh phúc muôn loài. Mọi người ai cũng có thể thành Phật, nếu họ chí tâm theo đúng con đường Phật dạy. Con đường đó tức là Phật Pháp (Dhamma), và chính nhờ tụng kinh mà người Phật tử thấm nhuần được giáo lý cao siêu của Phật đà.
Phật giáo không phải là môn học thần bí. Nó rõ ràng như một bàn tay mở rộng, và có thể chứng thực bằng những kết quả lợi ích cụ thể. Phật giáo không bị hạn cuộc bởi không gian, thời gian. Nó vĩnh kiếp tồn tại, thích ứng với mọi hoàn cảnh, muôn thời muôn xứ và muôn phương. Nó thừa sức hấp dẫn mọi người tìm tòi nghiên cứu. Nó không xây dựng trên đức tin mù quáng, mà trái lại được bồi đắp bằng chánh tín. Và không mơ hồ viễn vong, Phật giáo kiện toàn trên mặt luận lý vững chắc, sáng tỏ như mục đích nó đã nhắm đến, đó là sự diệt khổ cùng đem lại cho nhân loại nguồn hạnh phúc hoà bình. Nhưng mỗi cá nhân phải tự mình tinh tấn tu luyện để đạt được sự an lạc ấy, chứ không thể nhờ vào sức cứu rỗi của một tha nhân nào, dầu vị đó là đấng có quyền phép thiêng liêng đến đâu.
Trích dịch tạp chí “Phật Giáo Thế Giới” (World Buddhism) số tháng 1 – 1960, ấn hành tại Tích Lan (Sri Lanka).