nguyenvinhtrang
06-04-2012, 12:54 AM
Tác giả: Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Tôi được một anh bạn cho một bài nói về chuyện yêu đương của Công Chúa Long-Thành đối với Thiền Sư Liên-Hoa. Chuyện thực, hư thế nào không biết, có điều là tác giả bài viết, viết không rõ ràng, làm người đọc có thể lầm lẫn giữa Công Chúa Long-Thành Ngọc-Tú và Công Chúa Bảo-Lộc Ngọc-Anh. Tôi có đưa ý kiến đó cho anh bạn tôi, và được anh bạn tôi cho biết là nhiều người bạn khác cũng có ý kiến đó, và anh biết tôi có đôi chút tài liệu nói về hai Công Chúa Long-Thành và Bảo-Lộc, nên đề nghị tôi tra cứu lại các tài liệu, hầu làm rõ sự phân biệt giữa hai vị Công Chúa.
Câu chuyện được đăng ở mạng lytuongnguoiviet trên Internet, dưới nhan đề « Đi tìm sự thật về chuyện tình hoàng gia ngang trái ». Tôi xin trích vài hàng của bài đó như sau :
«Chuyện tình đẹp bi thương - Chuyện Công chúa triều Nguyễn yêu đơn phương một nhà sư ».
« Chuyện nàng Công chúa triều Nguyễn là Hoàng nữ đệ tam Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh yêu đơn phương một vị nhà sư - thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt - sau được phong là Quốc sư - đã để lại nhiều huyền tích khiến người đời vừa xúc động cảm thương nàng công chúa, vừa bội phục một vị chân tu đắc đạo…
Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung. Trong số đệ tử này có một vị Hoàng cô Nguyễn Thị Ngọc Anh, đó là Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh, cô ruột của vua Minh Mạng. Hoàng cô cũng quy y và thọ Bồ Tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Trong những ngày theo học đạo, Hoàng Cô đã thầm yêu nhà sư. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên Hoàng Cô đã có ý định và tìm mọi cách ràng buộc duyên trần cùng với người con của Phật...
Tưởng rằng khi ôm hôn được bàn tay của Thiền sư thì mọi chuyện sẽ lắng xuống. Nhưng không ngờ, ngay đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của Thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện :
"THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình (dấu huyền) vui đạo mấy lần".
Thiền sư Liên Hoa biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh nên đã dùng ngọn lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng Cô.
Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ cúng thất tuần Hòa thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau, Hoàng Cô uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại giác nhằm ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).
Hoàng cô Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh chết theo Thiền sư để lại sự cảm động cho triều đình và nhân dân khắp vùng. Từ đó, ngôi chùa trở nên nổi tiếng và được các đời vua nhà Nguyễn chăm sóc đặc biệt.».
Hết trích.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến chuyện « Tình » nầy, nên tò mò, tôi lên Internet tìm những bài nói về chuyện « Tình » đó. Thôi thì có hàng chục bài, sao đi chép lại chuyện như đã được đăng ở mạng lytuongnguoiviet, với những Tựa khác nhau, như Chuyện tình công chúa triều Nguyễn với một nhà sư, hay Bi kịch tình yêu thảm thương nhất trong cung đình Việt Nam…, hay cả trên Wikipedia !…
Sau khi tìm đọc qua những bài trên, ở Internet, tôi tình cờ thoáng thấy một cuốn Tiểu Thuyết có nhan đề là Chuyện tình của Liên Hoa Hoà Thượng– CTLHHT của ông Thích Như Điển. Thấy là lạ, nên tôi đọc sơ qua bài giới thiệu của cuốn đó, thì thấy ông Như Điển, tự nhận là đã lấy ý trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong - LSPGĐT, của Nguyễn Hiền Đức và cuốn Thiền Sư Việt Nam - TSVN, của Thích Thanh Từ.
Chuyện « Tình » ở chốn thiền môn hay ở nơi cung cấm, tôi e cũng có, vì chúng ta cũng chỉ là những con người, mà đã là con người thì có tình, có cảm, nhận biết được cái đẹp của thiên nhiên, cái hay của một tâm hồn cao thượng… Nhưng chuyện « Tình » trình trên lại chỉ về hai nhân vật lịch sử rất khả kính và rất nổi tiếng là Thiền Sư Hòa Thượng Thiệt-Thành - Liễu-Đạt - Liên-Hoa, một vị Thiền Sư, vì lý tưởng của mình, mà đã ẩn mình tu học ở chốn Thiền Môn, và Công Chúa Long-Thành, một vị Công Chúa, vì lý tưởng của mình, mà giữ tiết nghĩa cho đến lúc già yếu, cho đến lúc lâm chung, nên hiếu kỳ, tôi đã nhờ một người bạn của gia đình tôi, tìm mua giúp cho tôi, tại Việt Nam, cuốn LSPGĐT, in năm 1995. Vì sách ra đã lâu ngày, nên không còn bán tại các tiệm sách, làm anh bạn tôi vất vả cả mấy tháng trời mà cũng tìm không ra, sau cùng anh đã sao chụp lại rất tỷ mỷ cuốn đó và gởi cho tôi. Ở đây, tôi xin chân thành cảm tạ công ơn của anh bạn chí thành đó.
Để cố gắng làm sáng tỏ, chuyện « Tình » trên, tôi xin chia bài nầy theo các mục như sau :
- Phân biệt rõ ràng hai vị Công-Chúa Long-Thành Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
- Chuyện của Hòa-Thượng Liên-Hoa trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
- Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
- Chánh sử (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chánh Biên - ĐNTLCB, Đại Nam Liệt Truyện - ĐNLT), Khâm Định Đại Nam Điển Lễ Sự Lệ - KĐĐNĐLSL, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả - NPTTP, cùng những tài liệu lấy ở Bulletin des Amis du Vieux Huế - BAVH.
- Vài sự kiện lịch sử.
- Kết luận.
I – Công-Chúa Long-Thanh Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả - NPTTP (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995, Huế), trang 226, 227 và trang 261, 262, thì :
1) Công Chúa Long-Thành, húy Nguyễn-Phước Ngọc-Tú.
Bà là trưởng nữ của Hưng Tổ (Nguyễn-Phước Luân), chị cùng mẹ với Thế Tổ (Nguyễn-Phước Ánh), sinh năm Kỷ-Mão (1759). Chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quý-Mão (1783), khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển bị địch bắt và bị giết.
Khi chồng mất, Bà còn trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng « Điển làm bầy tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta là vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh Đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật ».
Đầu đời Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại làng Dương Xuân (Thừa-Thiên) cho Bà ở. Bà thường xin cắt tóc đi tu, nhưng Thế-Tổ không vui.
Bà mất vào tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Vì Bà vô tự, nên Thường-Tín Công Nguyễn-Phước Cự, con của Thế-Tổ, trông coi việc thừa tự.
[Duới triều Gia-Long, vì Bà là chị của Thế-Tổ, nên người ta gọi Bà là Trưởng Công Chúa. Dưới triều Minh-Mạng, vì Bà là công chúa của triều trước và cũng là cô ruột của Thánh-Tổ, nên người ta gọi Bà là Thái Trưởng Công Chúa hay còn gọi là Hoàng Cô. (Xin xem thêm ở phần IV, Chánh Sử ở dưới). Cũng theo NPTTP thì đời nhà Hán, chị và em gái của vua gọi là Trưởng Công Chúa, đời nhà Đường, cô của vua gọi là Thái Trưởng Công Chúa.]
2) Công-Chúa Bảo-Lộc húy Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Bà là con gái thứ ba của Thế-Tổ. Bà sinh năm Canh-Tuất (1790). Năm Mậu-Thìn (1808), Bà lấy chồng là Vệ-Uý Trương Phúc Đặng, con trai của Cai-Cơ Trương Phúc Tuấn. Năm Đinh-Hợi (1827), Phúc Đặng vì bắt người trái phép, bị cách chức nghị tội, Đặng sợ, tự tử mà chết. Về sau được khai phục lại nguyên hàm.
Bà mất năm Canh-Tuất (1850), thọ 61 tuổi.
Bà có 1 người con trai và 3 người con gái.
II - Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
1) Tác giả.
Theo amida.vn (Nam Mô A Di Đà Phật) thì Nguyễn Hiền Đức, Cử Nhân Giáo Khoa Sử Học, năm 1973, (Đại Học Văn Khoa Sàigòn) là một nhà nghiên cứu lịch sử, nhất là về Phật Giáo. Ông có làm Giảng Viên tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam (thành phố HồChíMinh). Ông đã cho ra nhiều tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo như Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (từ khi du nhập đến đời Lý), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Ngoài (1592 – 1801), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong (1558 – 1802)...
2) Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong - LSPGĐT.
Cuốn nầy gồm 2 tập, tập I có 386 trang, tập II có 490 trang, tổng cọng (cộng) 876 trang, in năm 1995 do nhà Xuất Bản Thành Phố HồChíMinh ấn hành. Là một tài liệu nghiên cứu về Phật Giáo Đàng Trong khá công phu. Sách có cho 31 tài liệu tham khảo và trích dẫn (22 bằng chữ Việt, 9 bằng chữ Hán). Trong những trang viết thì đôi khi có dẫn chứng các tài liệu, đôi khi có ghi chú ở phần cuối trang, như khi bàn về ngày sinh và ngày mất của Tổ Nguyên-Thiều (trang 101, tập I), hay là bàn về chuyện của Tổ Mật-Hoàng làm Tăng-Cang ở chùa Thiên Mụ (trang 260, tập I) ...
Tôi không đọc hết cả cuốn nầy, mà chỉ đọc những đoạn nói về Hòa Thượng Liên-Hoa hay Thiền Sư Thiệt-Thành - Liễu-Đạt, cùng các chùa Thiên Mụ, Quốc Ân (Huế), Từ Ân, Khải Tường (Sàigòn), Đại Giác (Biên Hòa).
Tên của Hòa Thượng Liên-Hoa được nhắc đến một vài nơi của cuốn sách, nhưng chuyện chính của Hòa Thượng thì được viết trong tập II, từ trang 231 liên tục đến trang 235. Không cho xuất xứ (nguồn tài liệu). Cuối trang 235 có hình chụp Long Vị của Hòa Thương Liên-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô kề sát nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân (1) (để làm bằng chứng chăng ?).
Chuyện xin trích tóm tắt như sau :
« Khoảng những năm 1789, trước khi xây xong thành Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần tạm trú tại chùa Từ Ân; Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa (2), và Thái Trưởng Công-Chúa Long-Thành đã thọ giới với Hòa Thượng.
Năm 1805, khi Thái Trưởng Công Chúa lên đường về Kinh Đô, Hòa-Thượng Liên-Hoa có nhờ Công Chúa lo trùng tu chùa Quốc Ân, vì chùa nầy là do Tổ Nguyên-Thiều xây dựng từ năm 1683.
Năm 1817, Hòa-Thượng Liên-Hoa được cử làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ và làm pháp sư ở nội cung. Trong thời gian nầy, Hòa Thượng Linh-Nhạc, ở chùa Từ Ân, lo cho Hòa Thượng Liên-Hoa không tránh khỏi mối dây ràng buộc trần duyên, vì giảng giải trong nội cung, gần nữ giới. Năm 1821, Hòa Thượng Linh-Nhạc mất, nhưng mãi đến năm 1823, Hòa Thượng Liên-Hoa mới biết tin, và nhân đó, lấy cớ xin từ nhiệm ở chùa Thiên Mụ, để về làm trú trì chùa Từ Ân.
Vào tháng 10 năm 1823, Hoàng Cô vâng lệnh vua (Minh-Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Hòa Thượng Liên-Hoa nghe tin, muốn lánh mặt Hoàng Cô, nhưng Hòa Thượng Viên-Quang khuyên cứ tiếp Hoàng Cô. Trong thời gian Hoàng Cô ở chùa Từ Ân, mỗi sáng Hòa Thượng Liên-Hoa đều tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng Cô, cho đến ngày thứ ba, thì không biết Hòa Thượng Liên-Hoa đi đâu mất. Hoàng Cô cho người tìm kiếm, nhưng vô hiệu quả. Hoàng Cô trầm tư, buồn bả, không màng ăn uống trong ba ngày. Vì sợ Hoàng Cô đi đến tuyệt vọng có hại cho chùa, thị giả Mật Đĩnh đã cho Hoàng Cô biết là Hòa Thượng Liên-Hoa đã đến chùa Đại Giác ở cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất trong hai năm. Hoàng Cô báo cho quan trấn thủ Gia Định là sẽ đến chùa Đại Giác để cúng dường.
Đến chùa Đại Giác, sau khi lễ Phật xong, Hoàng Cô đến tịnh thất của Hòa Thương Liên-Hoa, xin diện kiến, nhưng Hòa-Thượng không trả lời. Hoàng Cô quỳ xuống thưa, nếu Hòa Thượng không tiện ra tiếp, thì xin Hòa Thượng cho thấy bàn tay, thì cũng đã hân hoan mà ra về. Im lặng trong vài phút, Hòa-Thượng đưa bàn tay ra ở cửa nhỏ, nơi đưa thức ăn vào tịnh thất. Hoàng Cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ một cách trùi mến, rồi sụp xuống lạy ba lạy và khóc sướt mướt...
Đến giữa đêm, tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và xác thân của Hòa Thượng cũng cháy tiêu. Mọi người đang bàn tán xôn xao, có người phát hiện được bài kệ Niết Bàn viết bằng mực đen trên vách chánh điện (3) :
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần,
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần.
LIÊU (thiếu dấu ngã chăng ?) tri mộng huyễn chơn như huyễn,
ĐẠT đạo minh (không dấu) vui đạo mấy lần.
Phía dưới có đề : Sa môn Thiệt-Thành hiệu Liễu Đạt.
Sau khi làm lễ nhập tháp Hòa Thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết sẽ ở lại chùa Đại Giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng, ngay ngày hôm sau đó, Hoàng Cô uống độc dược tự tử tại hậu liêu chùa Đại Giác, ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi. (Có lẽ Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng hơn 60 tuổi) (4).
Thiền Sư Bổn-Giác, trú trì chùa Từ Ân và chư tăng lo lễ nhập tháp Hòa-Thượng Liên-Hoa, cùng lễ an táng Hoàng Cô (5) và thỉnh long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và linh vị Hoàng Cô về thờ ở chùa Từ Ân. Long vị của Hòa Thượng thờ ở bàn thờ Tổ, linh vị của Hoàng Cô thờ ở bàn thờ bá tánh. Nhưng sau đó bổng nhiên xảy ra nhiều sự cãi vã, xào xáo trong chùa, nên Hòa Thượng Viên-Quang đề nghị với Thiền Sư Bổn-Giác đua linh vị của Hoàng Cô thờ chung với long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa ở bàn thờ Tổ. Quả nhiên sau khi làm như thế, trong chùa Từ Ân trở lại bình thường...(6) ».
Hết trích.
Đó là tóm tắt 5 trang viết về Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT. Gạch dưới ở những nhóm chữ trên là do tôi làm.
3) Ý kiến của tôi :
a) Nguyễn Hiền Đức đã khái thác tài liệu thiếu chính xác.
- Tập II, trang 257, 258 của LSPGĐT cho : « Tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH) năm 1915 có viết như sau : “Công chúa Ngọc Anh, chị của vua (Minh Mạng) còn trẻ và tiết liệt, khi Tây Sơn khởi nghĩa đã đến tu ở chùa Đại Giác, giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ”.».
Tôi đã rà cả 4 tập Bulletin des Amis du Vieux Huê, của năm 1915 mà không thấy nói về chuyện đó. Tôi cho rằng tác giả viết lầm năm, hoặc năm bị in sai, tôi mới tìm trong Index analytique et Résumé des matières (Bảng tra phân tích và mục lục) của BAVH, năm 1924, thì không thấy có những tên Ngọc-Anh, Bảo-Lộc, Đại Giác (có chữ Đại Giác nói về điện thờ Phật ở chùa Diệu Đế, chứ không nói đến chùa Đại Giác ở Biên Hòa), nhưng có thấy những tên Bổn Giác ở BAVH, 1915, tập 3 (Juillet-Septembre), trang 315-316; Mật-Hoàng ở BAVH, 1915, tập 2 (Avril-Juin), trang 186 và tập 3, trang 311-314; Liên-Hoa ở BAVH, 1915, tập 3, trang 309, 310; Long-Thành ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, 309, và ở BAVH, 1915, tập 4 (Octobre-Décembre), trang 341-348; Ngọc-Tú cũng ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, và ở BAVH, 1915, tâp 4, trang 341-348.
Mặt khác, « khi Tây Sơn khởi nghĩa » là năm nào ? vào những năm 1780 chăng ? Lúc đó Công Chúa Ngọc-Anh chưa sinh ra (sinh năm 1790), thì làm gì có « giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ ». Cho đi đến 1801, thì Công Chúa Ngọc-Anh cũng chỉ mới 11 tuổi !
- « Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa » (xem hàng gạch dưới ở (2), phần trên) là sai. Thánh-Tổ sinh ở làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, năm 1791, cũng vì thế sau nầy, cho chỗ ấy là đất thiêng và để cám ơn Trời Phật, nên năm Minh-Mạng thứ 13 (1832), Thánh-Tổ cho xây chùa Khải Tường ở tại đó. (Xem ĐNTLCB, Đệ Nhị Kỷ, Quyễn LXXXIII. Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế : « Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa thu, tháng 9... ». Chuyện xây cất chùa Diệu Đế ở Huế, sau nầy cũng thế (nơi sinh của Hiến-Tổ).
- Tập II, trang 298, 299 của cuốn LSPGĐT cho : « ... Tăng Cang Tiên-Giác - Hải Tịnh (huý Nguyễn Tâm Đoan) bị tội chưa biết tội gì, nên bị cách chức Tăng Cang, bị đày làm việc nặng ở chùa (Thiên Mụ)..., mãi đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), Thiền Sư Hải-Tịnh mới được vua tha tội và phục hồi chức Tăng Cang... Tăng Cang Hải-Tịnh là người ở Gia Định..., có thể Tổng Trấn Lê Văn Duyệt đề nghị với vua Minh Mạng cho Thiền Sư Hải-Tịnh làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ... Vì vậy khi Lê Văn Khôi nổi loạn, vua Minh Mạng kết tội Tăng Cang Hải-Tịnh, cách chức Tăng Cang và bắt làm việc nặng ở chùa Thiên Mụ... ».
Chuyện nầy là sai ! Sao lại kéo Lê Văn Khôi vào đây ? Sự thật là, theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ nhị kỷ, Quyển CCVII, tháng 10 và 11 cho : « Kỷ Hợi, Minh Mệnh năm thứ 20 [1839], mùa đông, tháng 10… Sư chùa Thiên Mụ có tên Nguyễn Văn Huấn vì ghen giết người. Bộ Hình và viện Đô Sát xét hỏi qua một năm không khám phá ra manh mối. Đến nay Khoa Đạo là Nguyễn Sĩ Đăng, Lê Tập bí mật đi dò xét tìm được tình trạng, đều thưởng cho mỗi người 10 lạng bạc và gia một cấp. Khi án giao xuống đình thần xét, Huấn bị xử trảm hậu; sư trưởng Nguyễn Tâm Đoan, cách bỏ chức trụ trì, chuẩn bắt phải làm việc nặng nhọc tại chùa ấy. ».
Sau nầy Hòa Thượng Hải-Tịnh được phục hồi chức Tăng Căng vào năm nào, thì tôi không rõ, nhưng theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1993), Tập 8, trang 201, thì « Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), chuẩu lời tâu : Tăng Cang chùa Giác Hoàng là Nguyễn Tâm Đoan (Hòa Thượng Hải-Tịnh) chuẩn chiếu như lệ Nguyễn Nhất-Định (Hòa Thượng Nhất-Định), tháng cấp 3 quan tiền, 1 phương gạo...».
- Ngay cả chuyện Hòa Thượng Liên Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ cũng là một nghi vấn. Trong cuốn LSPGĐT không cho một chứng cứ lịch sử nào hết. Chuyện nầy, phải đến các chùa Thiên Mụ và Quốc Ân, để xin khảo sát tường tận các tài liệu đang tồn trữ ở chùa, mới có thể biết thực hư được. Linh Mục Léopold Cadière là một người rất hiếu kỳ, một nhà thông thái lại có trong tay rất nhiều tài liệu về các chùa Thiên Mụ, Quốc Ấn, nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ trong bài « La Pagode de Quấc Ân » (Xin xem phần IV, Chánh sử, ở dưới), Linh Mục Cadière đã đề cập đến.
- Ngày sinh, ngày mất của Hòa Thượng Mật-Hoằng (LSPGĐT, Tập II, trang 272) cũng sai, nhưng ở đây, tôi không bàn tới, vì không phải đề tài của bài viết.
- Ngoài ra về chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần trong LSPGĐT (Tập II, trang 128-129) cũng bị Trần Đình Sơn phản bác như sau :
« Điều rất đáng ngạc nhiên là trong sách Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong ( LSPGĐT ), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền Đức công bố sự việc cuối đời Hiệp Đức Hầu, hoàn toàn khác hẳn với sử sách xưa nay... Phát hiện mới lạ trên , không biết tác giả căn cứ theo truyền thuyết nhân gian, ( Bản thảo : lược sử chùa Sắc tứ Minh Thiện của giáo thọ Huệ Đăng, biên soạn năm Mậu Thìn 1988 ) hay có cứ liệu xác thực chứng minh ? Nên nhớ, Hiệp Đức Hầu đối với Hoàng tộc Nguyễn là một vị thân vương danh tiếng. Võ công của ông được xếp vào thượng đẳng thời các chúa, khi ông mất, Hiền Vương ( cha ) đã làm quốc tang theo tước Công. Dòng dõi của ông hiển đạt cho đến cận đại. Nếu sự kiện cuối đời của ông “ xuất gia – viên tịch “ như trong LSPGĐT viết, có lẽ nào quốc sử lẫn tộc phổ chẳng ghi lại một dòng để cho đời sau hay biết. [Nguồn : giaodiemonline] ». [LSPGĐT nói Ông đã lập chùa Minh Thiện ở Khánh Hòa, và sau đó an nhiên viên tịch... và được nhập tháp trong khuôn viên chùa nầy...].
Thật thế, chuyện Bà Nguyễn-Phước Ngọc-Cầu 球 , con của Dận Quận Công Nguyễn-Phước Điền 氵田 , có lập chùa Phước Thành ở An Cựu, Huế, đã được sử quán nhà Nguyễn (Đại Nam Liệt Tuyện Tiền Biên) ghi. Bà được phong tặng là Tuệ-Tĩnh (có nơi cho là Huệ-Tĩnh) Thánh Mẫu Nguyên Sư. Ở Huế, người ta gọi là chùa Bà Sư. Tháp của Bà nằm ở vườn, sau chùa.
Đại Nam Thực Lục Tiền biên. Quyển V. Thực lục về Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế (Hạ), cho : « Khi (Hiệp Đức Hầu) dẹp xong giặc trở về, tuyệt hẳn không cho đàn bà con gái yết kiến, dựng am nhỏ thờ Phật, thỉnh thoảng ra chơi, bàn đạo thuyết pháp để tự vui. Đến đấy bị bệnh đậu mà mất, mới 23 tuổi. ». NPTTP cho thêm, ở trang 144 : « Bà vợ của Ông húy là Nguyễn Thị Hưng, tiểu sử không rõ. Bà mất ngày 13 tháng 2 âm lịch (năm ?), mộ táng cùng một chổ với Ông, trong khuôn viên nhà thờ của phòng. ».
Vậy Nguyễn Hiền Đức đã khai thác tài liệu thiếu chính xác, và đôi khi, chưa tìm ra tường tận các tài liệu lịch sử, thì lấy giả thuyết riêng của mình để giải thích những sự kiện lịch sử. Thật đáng tiếc cho một công trình nghiên cứu về lịch sử !
b) Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng.
Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng, không nới đến Hòa Thượng Liên-Hoa. Như Việt Nam Phật Gíao Sử Lược của Thượng Tọa Thích Mật-Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Hòa Thượng Thích Thiện-Hoa...
c) Bài kệ (xem hàng gạch dưới ở (3), phần trên).
Bài kệ đó, nếu là do Hòa Thượng Liên-Hoa viết thật, thì Hòa Thượng cũng đã viết trước khi Hoàng Cô đến chùa Đại Giác, vì khi Hoàng Cô đến chùa, thì Hòa Thượng đã nhập thất, và ngay sau đó, tịnh thất của Hòa Thượng đã phát hỏa. Không lẽ, trước khi tịnh thất phát hỏa, Hòa Thượng đã lén ra chánh điện, để viết bài kệ ?
Mặt khác, bài kệ đó là một bài thơ tiếng Việt. Không biết vào thời đó (1823), Hoà Thượng viết bài kệ bằng chữ Quốc Ngữ (mẫu tự Latinh), hay bằng chữ Nôm (viết dựa theo chữ Hán) ? Những Thiền Sư vào thời của Hòa Thượng Liên-Hoa hay là những đệ tử của các vị, đều viết bài kệ theo chữ Hán. Điều nầy làm cho ta nghi ngờ bài kệ trên là của Hòa Thượng Liên-Hoa. Rất có thể bài kệ trên là do người đời sau viết.
d) Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng trên 60 tuổi (xem hàng gạch dưới ở (4) phần trên).
Trên 60 tuổi là bao nhiêu tuổi ? 61, 62 ? Cho đi 62 tuổi, và nếu Hòa Thượng Liên-Hoa mất vào năm 1823, thì Hòa Thượng sinh năm 1761 (hay 1762, tính theo tuổi ta). Theo BAVH 1915, tập 3 (juillet-Septembre), Linh Mục Léopold Cadière cho ở trang 309 : « Sau khi chồng (Lê Phúc Điển) mất (1783), Công Chúa Long-Thành thường hay đi lễ (fréquenter) ở chùa Từ Ân và được Trú Trì (Supérieur) Liên-Hoa, còn được gọi là Thiệt-Thành, hay Liễu-Đạt khuyên nhủ thọ Ngũ Giới. ».
Vậy Hòa Thượng Liên-Hoa làm Tọa Chủ hay Trú Trì chùa Từ Ân lúc chỉ mới 22 hay 21 tuổi (1783 – 1761 = 22). Một nhà sư còn quá trẻ như thế, mà được chỉ định làm Tọa Chủ, hay Trú Trì một ngôi chùa lớn như chùa Từ Ân (trong LSPGĐT, Tập II, trang 268, Nguyễn Hiền Đức lại ghi là làm Thủ Tọa, lo điều khiển tăng chúng cho cả hai chùa Từ Ân và Khải Tường), là một chuyện khó có thật, lúc bấy giờ. Nói Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó (1823) có khoảng 70 hay trên 70 tuổi, thì có thể đúng hơn.
e) An táng Hoàng Cô (xem hàng gạch dưới ở (5), phần trên).
Nếu chư tăng an táng Hoàng Cô tại Biên Hòa, thì cớ sao trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên ĐNTLCB, Đệ nhị Kỷ - Quyển XXIV, Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế, tháng 11, ghi « Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [1823], mùa đông, tháng 11… Thái Trưởng Công Chúa là Ngọc-Tú chết ... bèn sai Kiến An Công Đài cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với bộ Lễ mà trị tang. Nghỉ chầu 5 ngày. Tứ tế một đàn... Tặng Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, thụy Trinh-Tĩnh... Ngày táng, vua nghỉ chầu, mặc áo trắng đi đưa...».
Còn nếu lấy giả thuyết là đưa Linh-Cữu của Hoàng Cô từ Biên Hòa về táng ở Thuận Hóa thì, đi đường bộ hay đường thủy, lúc bấy giờ, cũng phải mất hơn một tháng, như thế làm sao an táng Hoàng Cô tại Đình Môn, cho kịp trong tháng 11 năm Quý Mùi như ĐNTLCB đã cho ?
Ở đây cũng xin mở ngoặc. Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất kỷ, quyển XXV (Gia Long năm thứ 3 [1804]) cho : « Mùa thu, tháng 7... Định hạn ngày đệ trạm. Phàm phái người chuyển đệ công văn theo trạm, từ Gia Định đến Kinh là 13 ngày, từ Bắc Thành đến Kinh là 5 ngày, đúng hạn thì được thưởng tiền theo thứ bực khác nhau. (Gia Định thưởng 5 quan, Bắc Thành thưởng 3 quan). Chậm 1, 2 ngày không thưởng, chậm 3, 4 ngày phạt 30 roi. ». Thời bấy giờ, đi ngựa chạy công văn đã như thế, huống hồ là đưa linh cữu của một công chúa !
f) Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy.
Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và thân xác bị thiêu, hay chuyện Hòa Thượng được hỏa thiêu đi nữa, cùng năm mất của Hòa Thượng (1823) cũng không chắc chắn gì cả. Không có một chứng cứ lịch sử nào ở trong cuốn LSPGĐT, để chứng minh điều đó.
g) Xào xáo trong chùa... trở lại bình thường (xem gạch dưới (6) ở phần trên)
Đây là một chuyện dị đoan, mà chắc độc giả cũng đồng ý với tôi, là khó mà tin như thế được.
h) Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành (xem phần gạch dưới (1) ở phần trên).
LSPGĐT không cho biết những chữ được viết trên Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa (thật đáng tiếc !), mà chỉ cho biết những chữ được viết trên Thần Vị của Công Chúa Long-Thành như sau : « Thích môn hộ giáo, Hoàng Cô thọ bồ tác giới, pháp danh Tế-Minh, tự Thiên-Nhựt, chi vị ». Có lẽ ngày mất của Công Chúa mà LSPGĐT cho đã lấy ở trên Thần Vị nầy.
Chính vì Long Vị của Hòa Thượng và Thần Vị của Công Chúa được đặt kề nhau trên bàn thờ Tổ là một chuyện « lạ », nên đã sinh ra chuyện « tình » mà Nguyễn Hiền Đức đã kể trên.
Theo tôi, khi đi nghiên cứu ở chùa Từ Ân, Nguyễn Hiền Đức phát hiện Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa kề bên Thần Vị của Hoàng Cô ở bàn thờ Tổ, nên mới lấy làm « lạ » và đã hỏi các sư hiện đang tu học ở chùa hay các bổn đạo của chùa hay bà con đang ở xung quanh chùa về chuyện « lạ », để tìm hiểu nguồn gốc. Nhưng các nhà sư, các bổn đạo, các bà con mình, không những ngày nay, mà có thể là từ sau năm 1945 (tôi chỉ ước đoán) cũng cho là « lạ », nên đã có người muốn giải thích cho hợp tình, hợp lý, như chuyện « Trầu Cau » hay chuyện « Vọng Phu », mà sinh ra chuyện « tình » ở trên. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới).
Vì ăn trầu, cau với vôi, nước miếng hóa ra đỏ là một chuyện « lạ » (thật ra, đây chỉ là một phản ứng hóa học), rồi bà con mình cố gắng giải thích, từ đó ta đã có những chuyện « Trầu Cau » (có nhiều bản khác nhau), và rồi có những câu ca dao rất thơ mộng như :
« Có trầu mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.».
Có nhiều tảng đá có hình giống như một thiếu phụ bồng con. Bà con mình cũng lấy làm « lạ », rồi đặt ra những chuyện « Vọng Phu » (có nhiều bản khác nhau), và rồi cũng có những câu thơ trữ tình như :
« Thương ai tấc dạ vàng son,
Bế con lên đứng đầu non đợi chồng.
Trăm năm vẹn chữ tâm đồng,
Ngàn năm hóa đá tạc lòng trung trinh ». (Vũ Thanh).
i) Tạm kết luận.
Vì thấy Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành được đặt kề nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, mà không tìm rõ nguyên nhân, nên chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa và của Công Chúa Long-Thành, được kể trong cuốn LSPGĐT, chỉ là một giai thoại. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới). Ngay cho chuyện tịnh thất bị cháy, nhục thể của Hòa Thượng Liên-Hoa bị thiêu cũng chỉ là những nghi vấn.
Cũng vì có chuyện nầy ở cuốn LSPGĐT mà hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, bị phạm đến thanh danh, đạo đức. Thật là một điều đáng tiếc ! (Xin xem trên Internet, có rất nhiều sách, bài viết dựa theo cuốn LSPGĐT, để phạm đến thanh danh của hai vị, tuy lời lẽ có phần ôn tồn và tỏ ra thông cảm).
4) Cuốn Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ.
Trong cuốn nầy, tác giả tự nhận là về phần Thiền Sư Thiệt-Thành - Liễu-Đạt – Liên-Hoa, tác giả đã trích trọn ở cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức. Thật thế, ở phần nầy, trong sách Thiền Sư Việt Nam, mỗi chữ, mỗi câu đều giống hệt trong cuốn LSPGĐT.
Sở dĩ tôi đưa cuốn TSVN vào đây vì ông Như Điển có đề cập tới trong cuốn tiểu thuyết của ông ta.
III - Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
1) Tác giả.
Theo Chùa Viên Giác ở Đức, ông Như Điển là một thầy tu rất thông thái, học rộng biết nhiều. Ông biết lắm ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Phổ Thông Trung quốc, cũng như cổ ngữ, như chữ Hán, chữ Phạn, chữ Pali..., và có nhiều bằng cấp, như Cử Nhân Giáo Dục và Cao Học Phật Giáo. Ông có trách nhiệm trong nhiều hội Phật Giáo ở Hải Ngoại và thủ tọa ở Niệm Phật Đường Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc. Ông đã dịch nhiều kinh sách như Tịnh Độ Tông Nhật Bản, Thiền Lâm Tế Nhật Bản, Đại Đường Tây Vực Ký..., và đã sáng tác các chuyện tiểu thuyết, như Chiên Sĩ Áo Vàng, Người Xuất Gia, Đã Một Lần Như Thế... Ông xin tỵ nạn tại Đức năm 1977. (Nguồn : tayphuongtinhdo.com, và Wikipedia).
Thật tình, tôi chưa có hân hạnh đọc các bài dịch và các bài sáng tác của ông Như Điển. Có chăng, vì hiếu kỳ, tôi có đọc qua Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng, nhưng không đọc hết cả cuốn tiểu thuyết nầy.
2) Cuốn Tiểu Thuyết Chuyện Tình của Liên-Hoa Hòa Thượng. CTLHHT.
Như đã trình ở trên, tôi chỉ đọc thoáng qua cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên-Hoa Hòa Thượng - CTLHHT, (Nhà Xuất Bản Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, 2011), chẳng những đọc thoáng qua, mà có hàng trăm trang, tôi cũng không đọc đến.
Cuốn tiểu thuyết dày 632 trang, gồm 12 chương. Trong chương thứ 12, ông Như Điển cho biết « trong khi tịnh tu, nhập thất tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi lần thứ 7 », ông đã phóng tác ra cuốn tiểu thuyết nầy. Ông viết : « Khi đọc đến trang 231 (cuốn LSPGĐT) thì câu chuyện của Hòa Thượng Liên Hoa lại hiện ra trước mắt mình. Đây là một câu chuyện hay, có thật, có thể là 98%, tôi tin như vậy, vì có 2 long vị và bài vị của Hòa Thượng và Hoàng Cô tại Chùa Từ Ân là bằng chứng. Do đó tôi nảy ra ý định là nên phóng tác từ chuyện này thành một quyển tiểu thuyết lấy tên là “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng”.».
Ông tự nhận là các thư từ (thư tình) và chiếu chỉ đều do ông « sáng tác » ra (CTLHHT, trang 624, 625), ông cũng tự nhận là ông « rất thận trọng cho mọi việc, nhất là phương diện lịch sử.» (CTLHHT, trang 627)...
Văn phong của cuốn tiểu thuyết nầy là văn phong của thế kỷ thứ 21, rất « thời thượng, đương đại ». Tiếu thuyết dày 632 trang vì thường chép theo nguyên văn các sự tích các chùa, các vị Thiền Sư, các Chúa Nguyễn, các bài kệ, những sắc phong Tăng Cang, Trú Trì..., ở cuốn LSPGĐT. Một số Phật Pháp thì trích ở cuốn Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng-Độ dịch. Các kinh xưa và nay, như kính Sám Hối : « Đệ tử kính lạy, Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà...», cùng những bài ca dao, tục ngữ, bài thơ, bài văn của các văn nhân, thi sĩ, như Nguyễn Du, Tản Đà, ... nói về tình yêu giữa trai gái, cũng được đưa thêm vào để gán cho các nhân vật của cuốn tiểu thuyết, tụng niệm hay giãi bày tâm sự...
3) Ý kiến của tôi.
Trước hết để tránh sự hiểu lầm, tôi xin trình là tôi đã quy y, tôi là một phật tử, một phật tử nhỏ bé, nghĩa là tôi không biết nhiều về Phật Pháp, Kinh Điển, chứ đừng nói gì về các giới luật mà chư tăng, chư ni phải giữ ở chốn thiền môn.
Tôi không biết trong lúc « tịnh tu, nhập thất », chư tăng, chư ni phải tu học, hay để thì giờ viết tiểu thuyết ?
a) Sự thật 98 %.
98 % không phải là 100 %, nghĩa là chuyện không có thật, mà đã không có thật thì 98 % hay 50 % hay 0 % cũng như nhau. Thế mà ở chương 11, ông Như Điên khẳng định « Câu chuyện thật về Hòa Thượng Liên Hoa » !
b) Thận trọng về phương diện lịch sử.
Ông Như Điển nói là ông « thận trọng về lịch sử », nhưng sự thật thì ông không thận trọng gì cả. Nói về các nhân vật lịch sử, mà ông Như Điển không tra cứu sách vở, ông viết một cách rất bừa bãi, ông đã cho :
- Hoàng Hậu Hiếu-Khang còn tại thế, ít nhất cũng vào năm 1817, để nghe Hòa Thượng Liên-Hoa giảng về Phật Pháp (CTLHHT, chương 3), trong khi sự thật là Hoàng Hậu Hiếu-Khang đã băng (mất) năm Tân-Mùi (1811) (Đại Nam Liệt Truyện, tập 2, trang 21). Đã lầm lẫn Thừa-Thiên Hoàng Hậu với Thuận-Thiên Hoàng Hậu (CTLHHT, trang 283)...
- Hoàng Cô và Công Chúa Long-Thành là hai người khác nhau. Hoàng Cô là em vua Gia Long (CTLHHT, trang 102), và Thái Trưởng Công Chúa Long-Thành là con vua Gia Long (CTLHHT, trang 105)... Sự thật là Thái Trưởng Công Chúa Long-Thành và Hoàng Cô chỉ một người. Bà là chị cả, cùng mẹ với Thế-Tổ. (xem NPTTP, trang 227, hay BAVH, 1923, tập 3, bản đồ số XLVI, về Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ).
- Chùa Giác Hoàng ở Nội Cung (CTLHHT, trang 379). Ở Huế có thành Huế (Đô Thành hay Kinh Thành) ở trong thành nầy có các cơ quan hành chánh như lục bộ..., và có dân ở. Nội thành (thường là nói là trong Nội, đó là Hoàng Thành, ở trong Kinh Thành), ở đây, chỉ có các quan, vào chầu triều để làm việc, được vào mà thôi, chứ không được ở; ở đây chỉ có những nhân viên, người trong Hoàng Tộc tạm ở (không được đem theo gia đình vào) để lo coi sóc các cơ sở, và một số quân lính canh giữ Hoàng Thành. Đại Nội (Tử Cấm Thành hay Cung Thành), ở đây, có các nội cung, do những cung nhân và thái giám coi sóc, không ai được vào, trừ có chiếu chỉ đặc biệt. Sự thật chùa Giác Hoàng nằm ở trong thành Huế, gần cửa Thượng Tứ (hiện giờ thì không còn chùa nầy nữa), chứ không nằm trong Nội và trong Đại Nội. Ở Đại Nội có chùa (am) Phước Thọ, do các Sư Cô đảm nhiệm. Chùa Giác Hoàng do Thánh-Tổ xây năm 1839...
Còn rất nhiều nữa, nhưng tôi không trích ra, làm bài viết quá dài, và vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.
c) Đã đọc cuốn LSPGĐT, mà còn lẫn lộn ngược xuôi.
- Thiền Sư Phật-Ý là Sư Phụ của Hòa Thượng Liên-Hoa (CTLHHT, trang 351), trong khi cuốn LSPGĐT cho là Thiền Sư Phật-Ý và Thiền Sư Liễu-Đạt (Liên-Hoa) là sư huynh, sư đệ cùng tông phái Lâm Tế (LSPGĐT, Tập II, trang 268)...
- Thiền Sư Viên-Quang là Sư Đệ của Thiền Sư Liên-Hoa (CTLHHT trang 364), trong khi LSPGĐT cho là Thiền Sư Viên-Quang quy y, thọ giáo với Thiền Sư Phật-Ý (LSPGĐT, Tập II, trang 293), nghĩa là Thiền Sư Liên-Hoa là Sư Thúc của Thiền Sư Viên-Quang...
Thôi thi khó mà trích ra cho hết những cẩu thả viết về lịch sử, cùng sự lẫn lộn ngược xuôi, trong cuốn tiểu thuyết nầy !
Tôi có cảm tưởng là, thay vì đọc cuốn LSPGĐT để học hỏi, tìm hiểu thêm các Đại Danh Tăng, các Đại Thiền Sư đã làm lịch sử vẻ vang cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thì ông Như Điển, khi đọc đến những trang 231, đã hoa mắt và chỉ thấy có câu chuyên nầy mà thôi...
d) Đã chạm tới thanh danh của chốn Thiền Môn.
- Ngay cả ngày nay, trong một gia đình lễ giáo, con cái không được « nghe lóm » (nghe lỏm, nghe lóng) chuyện của cha mẹ, thế mà trong CTLHHT (trang 369) có câu « Cả 2 chú Mật Đĩnh và Mật Hạnh đều ra chiều đắc ý khi nghe lóm được câu chuyện trao đổi giữa hai vị quan nầy »...
- Tả những chuyện nghe lóm và bàn tán thầm thì về chuyện tình, giữa các chú tiểu ở chốn Thiền Môn (CTLHHT, trong những trang 372 và tiếp theo).
- Dùng những danh từ dung tục, như « món ngon, vật lạ » để chỉ cái gì là tình, là yêu (CTLHHT, trang 386) ; « cả thân dâng hiến » (CTLHHT, trang 420), và có thể còn nhiều nữa, vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.
Với những điều trên, chẳng những thanh danh của các Thiền Môn bị phạm mà cũng phạm đến đạo đức tu hành của các vị Đại Tăng chân tu. Càng đọc cuốn CTLHHT, tôi càng ớn lạnh !
e) Chêm thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức..., và... dịch sai chữ Hán chăng ?
Như trên, ở phần « tác giả » lấy theo thông tin của chùa Viên Giác ở Đức, thì ông Như Điển rất thông thái, rất rành nhiều ngoại ngữ. Nên có lẽ viết tiếng Việt, sợ độc giả chưa hiểu thấu tâm can của ông, nên ông phải chêm thêm ngoại ngữ, như ở trang 622, « Peaceful Death and Joyful Rebirth (?) » ; ở trang 222, « Manger pour vivre et non vivre pour manger (?) » ; ở trang 145, « Nirvana ist weder Form noch Gestalt. Alle Phänomen* sind unbeständig; alle Phänomen* sind unsicher (?) »..., và tất nhiên có chữ Hán (âm Hán-Việt), chữ Pali, chữ Phạn (latinh hóa),..., rồi để cuối cùng, làm cho những độc giả kém hiểu biết như tôi, về ngoại ngữ và cổ ngữ, phải lầm to, như ở trang 394, hai chữ « Nhập Thất 入 室 » ông Như Điển đã giải thích như sau : « Thất đây có nghĩa là chỗ ở, mà cũng có nghĩa là 7 ngày...» !
* Thiếu chữ « e » trong từ Phänomen nầy chăng ?
f) Đại ngôn. Cao ngạo.
Hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính. Tôi tin ông Như Điển, về đạo đức cũng như về tu học, không bằng hai vị đó, thế mà ông Như Điển đã đại ngôn, cao ngạo :
- Ông bịa đặt chuyện tình, rồi đem chuyện « Tăng sĩ trẻ với cô lái đò » để dạy đời Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa. (CTLHHT, trang 354)
- Ông dám cho đạo đức của ông còn hơn đạo đức của Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa : Trong bài « Hoàng Cô tình sử » của Thiện Giới Hoa Lan (xin xem trên mạng), bà Hoa Lan viết : « ... nếu trường hợp của Hòa Thượng (ông Như Điển) rơi vào tình trạng như thế, Thầy giải quyết làm sao ? Hòa Thượng (ông Như Điển) cười thật tươi, trả lời rằng, đời tôi không bao giờ có chữ Nếu ! Thật ra trong đời tu của tôi cũng có rất nhiều người yêu tôi. Nhưng quý vị thấy đó ! Giờ này tôi vẫn còn ngồi nơi đây.».
- Không biết ông Như Điển lấy tư cách gì, để một khi bịa đặt chuyện tình ở chốn thiền môn, mà dám « thăng hoa » Hoàng Cô ! (CTLHHT, trang 624).
g) Dịch cuốn Đại Đường Tây Vực Ký.
Để tìm kiếm tài liệu về Hòa Thượng Liên-Hoa trên Internet, tình cờ, tôi thấy bài « Đại Đường Tây Vực Ký – Phê bình bản dịch của Thích Như Điển - PBĐĐTVK » của Triệu Minh Di. Bài có 61 trang. [Nguồn : thongtinberlin.de].
Tôi không biết chữ Hán, không đọc cuốn sách dịch Đại Đường Tây Vực Ký (dịch từ chữ Hán ra chữ Việt) của ông Như Điển và tôi cũng không biết kinh Hoa Nghiêm. Nhưng theo Triệu Minh Di thì ông Như Điển, vì không hiểu chữ Hán, như ông đã tự khoe; hiểu sai kinh Hoa Nghiêm, như các nhóm chữ « Tập Định », « Dược Xoa », « Kiếp Sơ », « Vô Già Đại Hội », mà một người tu học trên 40 năm phải biết, thế mà ông Như Điển cũng tự cho mình là hòa thượng, nên Triệu Minh Di đã nói ông Như Điển là « ngu dốt », « thất học », « thất tu », « Như Điển liệng rác vào mặt mọi người...»... Tôi thấy lời lẽ của Triệu Minh Di hơi « nặng », nên tìm đọc vài trang của cuốn PBĐĐTVK, và tra lại các Từ Điển Hán-Việt, cùng cuốn Từ Điển Bách Khoa Nho-Phật-Đạo – TĐBKNĐP, của Lao Tử, Thịnh Lê (Nhà Xuất Bản Văn Học, Hànội, 2001), thì thấy lời nói của Triệu Minh Di cũng không phải là vô lý. (Xin xem thêm « Thư trả lời của Minh-Di về việc phê bình bản dịch Đại Đường Tây Vực Ký của ông Như Điển », ở trên mạng).
h) Tạm kết luận.
Viết đến đây, tôi muốn xóa bỏ hết những đoạn trên, nói về ông Như Điển (từ a đến g), vì Chuyện Tình của Liên-Hoa Hòa Thượng là một chuyện tào lao, do một thầy tu tào lao viết, nên thật tình, tôi không muốn để ý tới.
Viết tiểu thuyết là quyền tự do tối thượng của ông Như Điển, nhưng ông đã bịa đặt câu chuyện, thì cũng nên bịa đặt các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của ông, cớ chi ông lấy danh hai nhân vật lịch sử mà được người đời tôn kính, để rồi có sự bàn tán không hay, xúc phạm đến thanh danh của hai vị, và có thể đến cả thanh danh của các Cao Tăng, Đại Đức ngày nay. Trên mạng có bài « Hoàng Cô tình sử » của Thiện Giới Hoa Lan, cùng một số bài khác. Bà Hoa Lan cũng « gợi ý » (dạy) cho Thiền Sư Liên-Hoa những phương cách để « giáo hóa » Hoàng Cô, thay vì tự thiêu. Bà Hoa Lan nói « Phật pháp rất nhiệm màu (nhiệm mầu ?), cái gì cũng giải được chỉ sợ ta không quyết tâm đấy thôi.» ! Còn về phần Hoàng Cô, thì bà đã thốt : « Nếu xét về nghiệp duyên tình ái Bà (Hoàng Cô) là cao thủ đáng mặt thượng thừa...» !
Nhưng vì tôi đã để ra thì giờ trích những cái sai lầm rất to lớn trong cuốn tiểu thuyết, tuy như đã trình trên, tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết nầy, để độc giả thấy rõ sự phạm, vô căn cứ và vô căn cớ, của ông Như Điển, đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử mà cho đến bây giờ một số đông quần chúng vẫn còn ngưỡng mộ, cùng sự phạm, có thể có, đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, và cả đến thanh danh của các Danh Tăng, Đại Đức hiện nay. Nên tôi không xóa đi.
IV – Chánh Sử và một vài tài liệu đứng đắn.
1) Theo Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên - ĐNLTCB, Tập 2, Quyển 3 (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1993), trang 65, ghi :
« Long-Thành Công-Chúa Ngọc-Tú : Con gái lớn của Hưng-Tổ, là chị cùng mẹ với Thế-Tổ. Khi biến loạn năm Giáp-Ngọ (1774), theo Hiếu-Khang Hoàng-Hậu, ẩn nấu làng An Du (7). Mùa xuân năm Kỷ-Hợi (1779), theo Hậu vào Gia Định, gả cho Cai Cơ là Lê Phước Điển. Năm Quý-Mão (1783), chiến dịch ở đảo Diệp Thạch, Điển bị giặc bắt được, chửi giặc rồi bị giết chết. Chép rõ ở truyện Điển. Khi ấy Chúa còn trẻ tuổi, giữ tiết không đi lấy chồng nữa. Chúa từng nói rằng : Điển làm bề tôi, biết chụi chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há nên biến đổi tiết nghĩa, khi nào lấy lại được Kinh Thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi. Thế-Tổ khen về chí tiết liệt của Chúa. Buổi đầu năm Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại xã Dương Xuân để Chúa ở. Chúa thường xin gọt tóc, Thế-Tổ không bằng lòng cho.
(7) : [An-Du 安 遊 ở tỉnh Quảng-Trị, là quê của Thái Hậu Hiếu-Khang.]
Năm Minh-Mạng thứ tư (1823) là năm Quý-Mùi, mùa đông, Chúa mất, thọ 65 tuổi. Trước đây Chúa bệnh nặng, Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, Chúa khóc nói rằng : cắt tóc thờ Phật, đấy là ý muốn lúc bình sinh của vị vong nhân (8) nầy, có chí muốn mà chưa làm được, duy Hoàng Đế làm cho trọn vẹn ý muốn ấy, sau khi chết rồi, chớ có để tóc, liệm bằng áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối, xong được ý muốn ấy rồi. Thánh-Tổ lấy làm cảm động. Khi Chúa mất rồi, Thánh-Tổ đem lời nói của Chúa bảo Kiến An Công là Đài. Kiến An Công Đài tâu rằng : Thân thể tóc da là của cha mẹ để cho, lúc mới sinh ra trọn vẹn, lúc chết vẫn giữ được trọn vẹn là lễ đấy. Hoàng Đế trị vì thiên hạ nên chuộng đạo chính, truất bỏ dị đoan, lời Chúa xin thế không thể theo được. Thánh-Tổ cho là phải, bèn sai Ông (Đài) cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với Bộ Lễ sửa việc tang, cấp cho nhiều của (để trị tang). Nghỉ coi chầu năm ngày, sai quan đến tế một đàn, tặng là Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, tên thụy là Trinh-Tĩnh, phụ táng cạnh Lăng Thụy-Thánh (9)... Ngày an táng, Thánh-Tổ nghỉ coi chầu một ngày, mặc áo trắng đi đưa.
(8) : [Vong nhân : chỉ người đàn bà góa.] (9) : [Lăng của Thái Hậu Hiếu-Khang.]
Trước kia, năm Gia-Long thứ 11 (1812), sửa làm Lăng Thụy-Thánh, Thế-Tổ dụ rằng : Trưởng Công Chúa thờ mẹ có hiếu, kính giữ đạo làm con lúc gian nan để tiếng thơm như ngọc uyển, ngọc diễm, đặc biệt chuẩn cho dựng sinh phần ở bên Lăng. Lại dự đặt nơi phụ hưởng ở một gian bên tả Tẩm Điện (Đền Thờ Lăng Thụy-Thánh). Đến đây mất, bèn phụ táng ở đấy. Năm thứ năm, phụ hưởng ở một gian bên tả, hướng Tây. Không có con thừa tự, lấy Thường Tín Công Cự coi việc thờ tự. »
2) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1915, trong bài « La Pagode Quấc-Ân (10) - Les Divers Supérieurs » do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 308, 309, ghi :
(10) : [Chú ý chữ « Quốc », ở Huế lúc trước, viết Quấc.]
Bài viết bằng tiếng Pháp, tôi cố gắng dịch ra tiếng Việt, và để cho khá trung thành, tôi ghi theo đây những chữ Hán, như nguyên bản :
« Sự trùng tu chùa Quấc-Ân được gắn liền với tên của một vị Công Chúa nhà Nguyễn, Công Chúa Ngọc-Tú 玉 琇 , hay Long-Thành-Công-Chúa 隆 城 公 主 , Bà là con cùng mẹ và là chị cả của vua Gia-Long. Bà đã theo mẹ và cả (toute) triều đình vào Nam, khi Bắc quân (Tonkinois) đến Huế. Bà được gả cho Cai-Cơ Lê-Phúc-Điển 黎 福 日典 (có nơi cho âm Thiển). Ông ta đã chiến đấu dũng cảm với Tây-Sơn, rồi bị bắt và bị giết. Bà mất chồng khi còn trẻ, và không con, Bà không muốn tái giá. Bà hay đi lễ (fréquenter) chùa Từ-Ân 慈 恩 寺 , ở đây Trú Trì (Supérieur, Tọa Chủ, Trú Trì ?) Liên-Hoa 蓮 花 , còn gọi là Thiệt-Thành 寔 誠 hay Liễu-Đạt 了 達 , khuyên (persuader : thuyết phục) nên giữ « Tam Quy 三 皈 , Ngũ Giới 五 戒 . ».
Vị Sư nầy, quê ở vùng quanh Huế (environs de Hué) chăng ? Ông có tu tại chùa Quấc Ân trong vài năm chăng ? (11) Dầu sao đi nữa thì (Toujours est-il), theo các tài liệu biên niên (annales) còn lưu trữ ở chùa (Quốc-Ân), Hòa Thượng Liên-Hoa có dặn dò Bà, khi nào hoàn cảnh cho phép trở về Huế, thì đừng quên (lo cho ?) chùa Quấc Ân. Bà về Huế khoảng 1801, và mất năm 1823, thọ 65 tuổi.
(11) : [Nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ Linh Mục Cadière đã nói ở đây, vì trong bài nầy, tác giả có đề cập tới sự liên hệ mật thiết giữa các Tăng Cang, Trú Trì chùa Thiên Mụ với các Trú Trì chùa Quốc Ân.]
Năm 1805, Bà chỉ định (charger) hai Đại-Sư 大 師 Trí-Hải 智 海 và Chính-Văn 正 聞 xây lại chùa Quấc-Ân, cùng triệu tập một số Tăng Chúng cho chùa. Nhân đó, Bà cúng 300 quan (ligature, xâu tiền, quan tiền ?)... Ngôi chùa mới khá đơn giản. Theo sự đồn miệng, thì đó cũng chỉ là một am-tranh (12) (chữ trong bài viết), nhưng dầu sao, tác phẩm của Ngài Nguyên-Thiều đã được hồi sinh. Vì thế, tên của Trú Trì (Supérieur) Liễu-Đạt và Công Chúa Long-Thành được ghi một cách trịnh trọng (en bonne place) trong sổ ghi danh các vị Sư và các ân nhân của chùa.
(12) : [Am tranh đây chắc là một cách nói để chỉ nơi các Sư tu hành. Số tiền 300 quan là một số tiền khá lớn thời bấy giờ, chắc ngôi chùa mới cũng là một cái am nhỏ, xây bằng gạch, mái lợp ngói, chứ không phải một cái am vách đất, lợp tranh.]
Người ta con giữ lại ở chùa 5 bức chân dung. Các chân dung được đặt ở bàn thờ dành cho các Danh Sư đã tu tại chùa, trong đó có chân dung của Ngài Liễu-Đạt, còn gọi là Liên-Hoa... ».
Hết trích dịch.
3) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1923, trong bài « Le Tombeau de Gia-Long » do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 343, 344, ghi :
« ... Tẩm của Công Chúa Ngọc-Tú...[bản đồ Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ, số XLVI, ghi Tẩm của Hoàng Cô, chị cả của vua Gia-Long]... khi đến những ngày kỵ (của Hoàng Hậu Hiếu-Khang), thì chủ tế lạy trước bàn thờ của Mẹ vua Gia-Long, rồi quay sang bàn thờ của người con gái (Công Chúa Long-Thành) vái 4 vái. Trong khám thờ (Công Chúa Long-Thành), sau bàn thờ không có Thần-Chủ (tablette funéraire) (13).
(13) : [Thần Chủ được thờ tại Phủ Thường Tín Quận Vương (Nguyễn-Phước Cự), ở làng Xuân-Vinh, huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên. Ở Điện Thoại-Thánh chỉ có Thần Vị của Công Chúa.]
Tẩm là một cái Tháp (stûpa) có 4 tầng... Vòng thành phía trong dài 15 m, rộng 9 m, cao 1,50 m... Vòng thành ngoài dài 24 m, rộng 16 m, cao 2,40 m...».
V – Vài sự kiện lịch sử.
1) Trưởng Công Chúa.
Thái Hậu Hiếu-Khang có 3 người con trai, ngoài Thế-Tổ, là Hải-Đông Quận Vương Nguyễn-Phước Đồng 日同 và Thông-Hóa Quận Vương Nguyễn-Phước Thiển 日典 (có nơi cho âm Điển), và một người con gái duy nhất là Công Chúa Long-Thành. Ông Đồng bị Tây Sơn hại năm 1777 (cùng lúc với Duệ-Tông Nguyễn-Phước Thuần 淳 và Tân Chánh Vương Nguyễn-Phước Dương 暘 ), Ông Thiển bị Tây Sơn bắt và bị hại năm 1783, tại đảo Diệp-Thạch (cùng lúc với Ông Lê Phúc Điển, chồng của Công Chúa Long-Thành).
Vậy ngoài Công Chúa Long-Thành và Thế-Tổ, thì vào những năm 1800, Thái Hậu Hiếu-Khang không còn người con nào khác nữa. Từ An-Du cho đến những lúc gian lao tại miền Nam, chỉ có một tay Công Chúa lo cho Thái Hậu. Cũng vì thế, nên ngay cả sau khi chồng mất, Bà còn trẻ, muốn đi tu, nhưng còn mẹ già, nên phải ở nhà lo phụng dưỡng. Sau khi Thái Hậu băng (mất) năm 1811, Bà lại muốn xuất gia, nhưng Thế-Tổ không vui, vì Bà rất có công với Thái Hậu trong những buổi ly lạc, nên muốn giữ Bà lại để phụng dưỡng. Thế-Tổ xem Bà như một người mẹ thứ hai sau khi Thái Hậu băng. Thánh-Tổ vâng chỉ của Thế-Tổ, nên rất kính trọng Bà, và cũng không vui, khi Bà xin đi tu, hầu thay mặt Thế-Tổ để phụng dưỡng Bà. Có chăng là khi Bà mất, thì Thánh-Tổ xây Tháp cho Bà, xem Bà như một vị xuất gia vậy.
2) Thần Vị của Công Chúa thờ ở bàn thờ Tổ ở các chùa.
Chuyện là, nền chính trị của nước ta xưa, theo Khổng Giáo, nghĩa là « Quân, Sư, Phụ », vua là trên hết. Cho nên các Thánh Vị của các vị Hoàng Đế đều được thờ tại chánh điện thờ Phật (ở phía dưới bàn thờ Phật), Thánh Vị của các Hoàng Hậu, Thần Vị của các Công Chúa, Hoàng Tử đều được thờ ở bàn thờ Tổ (bàn thờ chánh, ở giữa, phía sau điện thờ Phật). Bằng chứng trong BAVH 1916, tập 4 (Octobre-Décembre), bài « Chùa Diệu Đế » của Cụ Nguyễn Đình Hòe, trang 395, cho : Ở Điện Đại-Giác chùa Diệu Đế « Ở chánh điện, bàn thờ phía trên thờ Tam Thế 三 勢 , bàn thờ phía dưới thờ Thánh Vị của Hiến-Tổ (Thiệu-Trị)...», hay trong BAVH 1917, tập 3 (Juillet-Septembre), bài « Chùa Báo-Quốc 報 國 » của J-A Laborde, trang 238, nói bàn thờ chính giữa (bàn thờ Tổ, sau điện thờ Phật) thờ Thánh Vị của Hoàng Hậu Hiếu-Khang, người đã xây lại chùa Báo-Quốc, còn hai bàn thờ hai bên, gần vách tường, thì thờ Long Vị các vị Hòa Thượng và Trú Trì...
Ngay cho cả người dân thường, như trong gia đình chúng tôi, Bà Cô Ngoại của chúng tôi (em ruột Ông Ngoại của chúng tôi) là Cụ Hồ-Đắc Thị Thể A. (chánh thất của Cụ Hiệp Tá Đại Học Sĩ Ưng D.), Bà Nội của chúng tôi là Cụ Nguyễn-Xuân Thị Kh. và Bà Ngoại của chúng tôi là Cụ Nguyễn Thị K. đã sáng lập chùa Sư Nữ Diệu Viên, Huế (hiện ở đường Hồ-Đắc Di), năm Khải Định thứ 9 (1924). Cụ Hiệp Tá Đại Học Sĩ Ưng D. đã tâu xin cho Sư Bà Hướng-Đạo làm Khai Sơn Trú Trì của chùa. Bài Vị của hai Cụ Hồ-Đắc Thị Thể A. và Nguyễn-Xuân Thị Kh. được thờ ở bàn thờ Tổ (bàn thờ chính giữa, sau điện Phật). Trên bàn thờ đó, ở giữa thờ Tổ Đạt-Ma, bên phải thờ Bài Vị của Cụ Thể A. (mất năm 1942), bên trái thờ Bài Vị của Cụ Thị Kh. (mất năm 1933). (Bà Ngoại của chúng tôi mất năm 1949, tại Thanh Hóa, và lúc bấy giờ đang còn chiến tranh, nên không thỉnh Bài Vị của Cụ lên thờ ở chùa Diệu Viên). [Nguồn : Gia Phả Họ Hồ-Đắc (1942) và Gia Phả Phòng Vĩnh Quốc Công (1949)].
Chuyện là ở dưới triều nhà Nguyễn, nhưng theo tôi, thì ngay cả các triều Lý (1010), Trần, Lê, Hậu Lê – Chúa Trịnh – Chúa Nguyễn, đều như thế cả. Xem tiendatguide/article/dinh-chua-mien-bac, trong đó có nói Đức Trần Hưng Đạo được thờ ở chùa Thái Cam, Hànội, hay Thái Sư Trần Thủ Độ và Phu Nhân là Bà Trần Thị Dung, được thờ ở chùa Cầu Đông, Hànội...
Hiện bây giờ, sau năm 1975, vì « Thời Thế », vì « Đương Đại », vì « Thời Thượng », mà Thánh Vị của Hiến-Tổ, chẳng những không được thờ ở dưới bàn thờ Phật, hay ở tại bàn thờ Tổ (sau điện Phật), tại chùa Diệu Đế, mà chỉ được thờ ở bàn thờ bên hông, cùng với các Thần Vị của các Công Chúa, Hoàng Tử (phía trái bàn thờ Tổ, sát vách tường, và xoay mặt lại phía bàn thờ Tổ). Còn bàn thờ Tổ thì để thờ Long Vị của các vị Tăng Cang, Trú Trì.
Bài Vị của Bà Cô Ngoại và của Bà Nội của chúng tôi cũng chỉ được thờ ở bàn thờ bên phải của bàn thờ Tổ, tại chùa Diệu Viên. Ở bàn thờ Tổ, ngoài Tổ Đạt-Ma, thì thờ Long Vị của hai vị Trú Trì của chùa đã mất (vị thứ nhất mất năm 1974, và vị thứ hai mất vào năm nào thì tôi không rõ).
Thánh Vị của Hoàng Hậu Hiếu-Khang ở chùa Báo-Quốc có được thỉnh đi thờ ở một bàn thờ khác hay không, thì hiện giờ, tôi không biết.
3) Long Vị của Thiền Sư Hòa Thượng Liện-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô ở chùa Từ-Ân.
Như đã trình trên, Thần Vị của Hoàng Cô được thờ ở bàn thờ Tổ tại chùa Từ Ân là một chuyện thường tình, Long Vị của Thiền Sư Hòa Thương Liên-Hoa được thờ ở bàn thờ Tổ cũng là một chuyện thường tình, hợp với phong tục của nước nhà đã có từ lâu, hơn nữa, tuy Công Chúa không xuất gia, vì còn bổn phận của người con gái trưởng độc nhất lo cho mẹ già, nhưng đã có ý định đi tu, đã thụ Bồ Tát Giới, và sau nầy, khi mất đi, Tẩm là một cái Tháp, dành riêng cho các Đại Tăng, Đại Ni. Vậy Công Chúa cũng đưọc xem như là một người đã xuất gia lúc còn tại thế.
Long Vị của Hòa Thượng và Thần Vị của Công Chúa được thỉnh kề nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, có thể vì hai vị đã có công lớn với chùa, và đã tu học ở chùa trong cùng một khoảng thời gian (các Long Vị và Thần Vị được xếp đặt theo thứ tự thời gian, ở bàn thờ Tổ chăng ?), tuy Công Chúa Long-Thành chỉ thường xuyên đến tu học ở chùa trong một thời gian ngắn.
Chuyện mà hiện giờ, ta vẫn thấy như thế, chắc là các nhà hữu trách muôn duy trì cổ tục, duy trì văn hóa xưa, hay vì « Thời Thế Du Lịch », muốn đề cao những tàn tích cổ, để tạo một sự « lạ » mà thu hút du khách, cho nên Thần Vị của Hoàng Cô không được thỉnh đi khỏi bàn thờ Tổ, như Thánh Vị của Hiến-Tổ, ở chùa Diêu Đế, tại Huế, chăng ?.
Cũng vì thế mà Nguyễn Hiền Đức đã viết vào cuốn LSPGĐT chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa trên. Bây giờ lấy giả thuyết : nếu Thần Vị của Hoàng Cô được thỉnh gần một Long Vị (hay một Thần Vị) của một Thiền Sư (hay của một Hoàng Tử, hay của một người đàn ông) khác, thì đó, đối với đời bây giờ cũng là một chuyện « lạ », và e rồi cũng sẽ có những giai thoại tương tựa như chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa – Công Chúa Long-Thành trên...
4) Lấy một giả thuyết hão huyền.
Hòa Thượng Liên-Hoa là một vị Thầy, một vị Tổ, một vị Thiền Sư chân tu, đạo đức, nếu không thì làm sao Hòa Thượng được cấp Độ Điệp, Giới Đao và thụ phong Tăng Cang sau một kỳ « thi tuyển », mà hội đồng « khảo thí » gồm những Đại Sư tài trí, chân tu, do Bộ Lễ tổ chức ? Còn Công Chúa Long-Thành là « cành vàng, lá ngọc » (trong nghĩa trân quý) của Triều Đình, của Hoàng Gia, tức phải có đức hạnh để làm gương cho vua, cho chúa, cho triều thần, cho thần dân, chứ làm sao, mà sau khi đã giữ tiết từ lúc 24 tuổi, để đến lúc 65 tuổi lại « hôn » tay của một vị sư đang tĩnh tâm trong một tịnh thất ?
Hai người đức hạnh, chân tu như vậy và được cả nước biết đến, nếu, lấy giả thuyết hão huyền là có tình cảm với nhau đi chăng nữa, thì cũng « sống để dạ, chết mang đi », chứ đâu đi làm những chuyện đường đột, để rồi phải tự thiêu và uống độc dược !
VI - Kết Luận.
1) Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức.
Theo sự phân tích ở phần II về cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, cùng sự phân tích ở phần IV về Chánh Sử và vài sự kiện lịch sử, cho chúng ta thấy rõ ràng chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT, là một chuyện không có thật trong lịch sử.
Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức là một công trình khảo cứu khá công phu, nhưng tác giả đã dẫn chứng những tài liệu không chính xác, đã nghe những tin đồn miệng, đã lấy giả thuyết riêng của mình, để giải thích những sự kiện lịch sử, vì vậy mà giá trị của tác phẩm bị mất đi một phần khá lớn. Thật là đáng tiếc cho cả một công trình khảo cứu !
Có thiếu sót trong một tác phẩm dày 876 trang, là một chuyện thường tình. Nhưng những thiếu sót quan trọng, như chuyện của Hòa Thượng Hải-Tịnh, hay chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần..., và nhất là chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa đã gây rất nhiều tai hại lớn lao, bởi những chuyện « tình » đã lấy nguồn ở cuốn LSPGĐT, được đăng tải đầy dẫy trên mạng Internet, trên các sách báo, dính liếu (líu) đến hai nhân vật lịch sử có tiếng tăm.
Tai hại cho thanh danh của Hòa Thượng Liên-Hoa và Công Chúa Long-Thành, hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, mà còn tai hại cho thanh danh của các chốn Thiền Môn và các Tăng, Ni, hiện nay.
Một số Hòa Thượng, vì không có phương tiện khảo cứu, muốn viết về lịch sử của các Thiền Sư cho bổn đạo, đã lấy tài liệu trong cuốn LSPGĐT, nhưng khi nói đến Thiền Sư Liễu-Đạt - Thiệt-Thành - Liên-Hoa, đến chuyện « tình », vì kính một vị Tổ, một vị Thiên Sư chân tu, thì không ghi vào sách, mà chỉ nói « Thiền Sư viên tịch vào năm 1823 ». Xin xem một trong những bài đó, ở các trang mạng, như « Trang Nhà Quảng Đức » hay « Thiền Viện Thường Chiếu ». Tất nhiên cũng có một số nhà sư, thiếu suy nghĩ, đã lợi dụng chuyện trong cuốn LSPGĐT, để trích dẫn trên các sách hay bài viết của mình.
2) Bài Người Xuất Gia Đối Với Cha Mẹ Đẻ - NXGĐVCMĐ.
Cuốn CTLHHT thì không nên nhắc đến nữa, nhưng ông Như Điển lại viết thêm bài « Người Xuất Gia Đối Với Cha Mẹ Đẻ » (Xin xem trên mạng Internet). Tôi chỉ đọc mấy hàng đầu, mà thấy ông Như Điển cao ngạo làm sao, ông viết : « Một vị xuất gia, ngoài kính lễ Tam Bảo ra không lễ lạy bất cứ tôn vị nào khác, kể cả cha mẹ.». Tôi chắc đây không phải là lời của Đức Thích-Ca dạy.
Ngoài ông Như Điển ra, cũng có một số sư, với lời lẽ ôn tồn hơn, trích kinh, dịch sách, giảng giải sự khiêm cung của phật tử, để bào chữa « tự tôn » : « ... Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, (kể cả thân quyến của chư tăng ni), thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con, (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian), để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy...
... Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi, (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu... ».
Đi tu, chắc cũng là một quyết định thanh cao, hàm chứa một lý tưởng hoàn hảo. Đi tu thì tâm hồn được trong sáng, an nhiên; tư thái được bình thản, khoan dung độ lượng, và sau khi chết, theo tín ngưỡng, được đạt cõi Tây Phương.
Nhưng nhũng người « thường », « tại gia », chắc họ cũng có một lý tưởng thanh cao, một cuộc sống hoàn hảo vậy. Đừng nói gì cho cao xa, nếu tất cả mọi người đều đi tu, và không có những người « thường », « tại gia », thì làm gì có nhân loại ngày nay !
« Cuộc thành bại, hầu cằn mái tóc. Lớp cùng thông, như đốt buồng gan » (Nguyễn Gia Thiều). « Thành » đây không phải là đậu (đỗ) Tiến Sĩ, làm Bộ Trưởng, thăng Giám Đốc, mà « Thành, Bại » đây là chạy ăn từng bữa, cho chính mình, cho gia đình mình, cho giáo dục, tương lai của con cháu mình. Hôm nay có ăn là « Thành », không có ăn là « Bại ».
Chắc chúng ta cũng đồng ý, là một số lớn các Tăng, Ni, hiện nay, được thoát khỏi cảnh « Thành, Bại, Cùng, Thông » ghê gớm đó. Phần nhiều các Tăng, Ni đều được phật tử cung phụng, có chùa to cảnh lớn, để tu học. Một số tăng, ni thì mỗi năm « tịnh tu, nhập thất » ở mỗi nơi khác nhau. Có năm, thì ở Mỹ, ở Nhật, có năm, thì ở Canada, ở Thái Lan, ở Pháp, ở Ấn Độ, ở Đức, ở Úc... Những sự tu học đó chắc cũng phải đòi hỏi một sự tốn kém công của lớn lao. Ai đã lo cho sự tốn kém đó, nếu không phải là do những người « thường », « tại gia », đã « cằn mái tóc », đã « nát buồng gan » !
Đi tu thì được miễn « dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn » chăng ?
Còn nói rằng « thụ nhiều giới ». Đã chắc gì hầu hết các tăng, ni đã thực hành « thụ nhiều giới », hay chỉ nói ở trên giấy tờ, ở trên miệng. Trên mạng, cùng báo chí trong và ngoài nước, đã bao phen đăng tải những tin « phá giới » của một số thầy tu.
Xuống tóc đi tu, mới biết vài câu kinh, vài tiếng kệ, chưa phải là những Tăng, Ni chân tu, mà đức hạnh đã làm gương cho nhân thế, mà trí tuệ đã phổ độ chúng sanh, thì đã tự cao tự đại, bắt phật tử phải gọi bằng thầy, bắt phật tử phải tự xưng là con. Tôi là một phật tử nhỏ bé, như đã trình trên, tôi đã nghe, tại Nice, một số linh mục trẻ tuổi, xưng con với chúng tôi là những người đã ngoài sáu, bảy mươi tuổi. Trong buổi nói chuyện tại Paris, ngày 15/04/2012, Linh Mục Nguyễn Văn Khải đã tự xưng con, xưng cháu với những người lớn tuổi.
Sự tu học của các tu sĩ trong Công Giáo, chắc cũng đòi hỏi những nỗ lực lớn lao, không thua kém gì so với sự tu học của các tu sĩ trong Phật Gíáo.
Thật là đáng tiếc cho một thầy tu, thay vì đem những lời dạy cao đẹp, bổ ích của Đức Thích-Ca, mà hiện nay, cả toàn thể thế giới đều tâm phục, khẩu phục, để làm lợi cho thế gian, thì lại bịa đặt viết chuyện tình tào lao, không có thật, để rồi, chẳng những phạm đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử, mà dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, ngưỡng mộ, mà còn phạm đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, các vị Tăng Ni chân tu hiện nay; lại còn cao ngạo đối với Cha Mẹ Đẻ, đối với phật tử.
Hành động đó làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Tiết Hạ chí, năm Con Rồng.
531 052 012 nvt*ttl*.
Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành, ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, Sàigòn. [Nguồn : Di tích và Danh thắng – Chùa Việt Nam – Xua và Nay – Chùa Từ Ân (quận 6)] :
Tôi được một anh bạn cho một bài nói về chuyện yêu đương của Công Chúa Long-Thành đối với Thiền Sư Liên-Hoa. Chuyện thực, hư thế nào không biết, có điều là tác giả bài viết, viết không rõ ràng, làm người đọc có thể lầm lẫn giữa Công Chúa Long-Thành Ngọc-Tú và Công Chúa Bảo-Lộc Ngọc-Anh. Tôi có đưa ý kiến đó cho anh bạn tôi, và được anh bạn tôi cho biết là nhiều người bạn khác cũng có ý kiến đó, và anh biết tôi có đôi chút tài liệu nói về hai Công Chúa Long-Thành và Bảo-Lộc, nên đề nghị tôi tra cứu lại các tài liệu, hầu làm rõ sự phân biệt giữa hai vị Công Chúa.
Câu chuyện được đăng ở mạng lytuongnguoiviet trên Internet, dưới nhan đề « Đi tìm sự thật về chuyện tình hoàng gia ngang trái ». Tôi xin trích vài hàng của bài đó như sau :
«Chuyện tình đẹp bi thương - Chuyện Công chúa triều Nguyễn yêu đơn phương một nhà sư ».
« Chuyện nàng Công chúa triều Nguyễn là Hoàng nữ đệ tam Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh yêu đơn phương một vị nhà sư - thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt - sau được phong là Quốc sư - đã để lại nhiều huyền tích khiến người đời vừa xúc động cảm thương nàng công chúa, vừa bội phục một vị chân tu đắc đạo…
Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung. Trong số đệ tử này có một vị Hoàng cô Nguyễn Thị Ngọc Anh, đó là Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh, cô ruột của vua Minh Mạng. Hoàng cô cũng quy y và thọ Bồ Tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Trong những ngày theo học đạo, Hoàng Cô đã thầm yêu nhà sư. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên Hoàng Cô đã có ý định và tìm mọi cách ràng buộc duyên trần cùng với người con của Phật...
Tưởng rằng khi ôm hôn được bàn tay của Thiền sư thì mọi chuyện sẽ lắng xuống. Nhưng không ngờ, ngay đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của Thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện :
"THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình (dấu huyền) vui đạo mấy lần".
Thiền sư Liên Hoa biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh nên đã dùng ngọn lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng Cô.
Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ cúng thất tuần Hòa thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau, Hoàng Cô uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại giác nhằm ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).
Hoàng cô Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh chết theo Thiền sư để lại sự cảm động cho triều đình và nhân dân khắp vùng. Từ đó, ngôi chùa trở nên nổi tiếng và được các đời vua nhà Nguyễn chăm sóc đặc biệt.».
Hết trích.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến chuyện « Tình » nầy, nên tò mò, tôi lên Internet tìm những bài nói về chuyện « Tình » đó. Thôi thì có hàng chục bài, sao đi chép lại chuyện như đã được đăng ở mạng lytuongnguoiviet, với những Tựa khác nhau, như Chuyện tình công chúa triều Nguyễn với một nhà sư, hay Bi kịch tình yêu thảm thương nhất trong cung đình Việt Nam…, hay cả trên Wikipedia !…
Sau khi tìm đọc qua những bài trên, ở Internet, tôi tình cờ thoáng thấy một cuốn Tiểu Thuyết có nhan đề là Chuyện tình của Liên Hoa Hoà Thượng– CTLHHT của ông Thích Như Điển. Thấy là lạ, nên tôi đọc sơ qua bài giới thiệu của cuốn đó, thì thấy ông Như Điển, tự nhận là đã lấy ý trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong - LSPGĐT, của Nguyễn Hiền Đức và cuốn Thiền Sư Việt Nam - TSVN, của Thích Thanh Từ.
Chuyện « Tình » ở chốn thiền môn hay ở nơi cung cấm, tôi e cũng có, vì chúng ta cũng chỉ là những con người, mà đã là con người thì có tình, có cảm, nhận biết được cái đẹp của thiên nhiên, cái hay của một tâm hồn cao thượng… Nhưng chuyện « Tình » trình trên lại chỉ về hai nhân vật lịch sử rất khả kính và rất nổi tiếng là Thiền Sư Hòa Thượng Thiệt-Thành - Liễu-Đạt - Liên-Hoa, một vị Thiền Sư, vì lý tưởng của mình, mà đã ẩn mình tu học ở chốn Thiền Môn, và Công Chúa Long-Thành, một vị Công Chúa, vì lý tưởng của mình, mà giữ tiết nghĩa cho đến lúc già yếu, cho đến lúc lâm chung, nên hiếu kỳ, tôi đã nhờ một người bạn của gia đình tôi, tìm mua giúp cho tôi, tại Việt Nam, cuốn LSPGĐT, in năm 1995. Vì sách ra đã lâu ngày, nên không còn bán tại các tiệm sách, làm anh bạn tôi vất vả cả mấy tháng trời mà cũng tìm không ra, sau cùng anh đã sao chụp lại rất tỷ mỷ cuốn đó và gởi cho tôi. Ở đây, tôi xin chân thành cảm tạ công ơn của anh bạn chí thành đó.
Để cố gắng làm sáng tỏ, chuyện « Tình » trên, tôi xin chia bài nầy theo các mục như sau :
- Phân biệt rõ ràng hai vị Công-Chúa Long-Thành Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
- Chuyện của Hòa-Thượng Liên-Hoa trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
- Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
- Chánh sử (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chánh Biên - ĐNTLCB, Đại Nam Liệt Truyện - ĐNLT), Khâm Định Đại Nam Điển Lễ Sự Lệ - KĐĐNĐLSL, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả - NPTTP, cùng những tài liệu lấy ở Bulletin des Amis du Vieux Huế - BAVH.
- Vài sự kiện lịch sử.
- Kết luận.
I – Công-Chúa Long-Thanh Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả - NPTTP (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995, Huế), trang 226, 227 và trang 261, 262, thì :
1) Công Chúa Long-Thành, húy Nguyễn-Phước Ngọc-Tú.
Bà là trưởng nữ của Hưng Tổ (Nguyễn-Phước Luân), chị cùng mẹ với Thế Tổ (Nguyễn-Phước Ánh), sinh năm Kỷ-Mão (1759). Chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quý-Mão (1783), khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển bị địch bắt và bị giết.
Khi chồng mất, Bà còn trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng « Điển làm bầy tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta là vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh Đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật ».
Đầu đời Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại làng Dương Xuân (Thừa-Thiên) cho Bà ở. Bà thường xin cắt tóc đi tu, nhưng Thế-Tổ không vui.
Bà mất vào tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Vì Bà vô tự, nên Thường-Tín Công Nguyễn-Phước Cự, con của Thế-Tổ, trông coi việc thừa tự.
[Duới triều Gia-Long, vì Bà là chị của Thế-Tổ, nên người ta gọi Bà là Trưởng Công Chúa. Dưới triều Minh-Mạng, vì Bà là công chúa của triều trước và cũng là cô ruột của Thánh-Tổ, nên người ta gọi Bà là Thái Trưởng Công Chúa hay còn gọi là Hoàng Cô. (Xin xem thêm ở phần IV, Chánh Sử ở dưới). Cũng theo NPTTP thì đời nhà Hán, chị và em gái của vua gọi là Trưởng Công Chúa, đời nhà Đường, cô của vua gọi là Thái Trưởng Công Chúa.]
2) Công-Chúa Bảo-Lộc húy Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Bà là con gái thứ ba của Thế-Tổ. Bà sinh năm Canh-Tuất (1790). Năm Mậu-Thìn (1808), Bà lấy chồng là Vệ-Uý Trương Phúc Đặng, con trai của Cai-Cơ Trương Phúc Tuấn. Năm Đinh-Hợi (1827), Phúc Đặng vì bắt người trái phép, bị cách chức nghị tội, Đặng sợ, tự tử mà chết. Về sau được khai phục lại nguyên hàm.
Bà mất năm Canh-Tuất (1850), thọ 61 tuổi.
Bà có 1 người con trai và 3 người con gái.
II - Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
1) Tác giả.
Theo amida.vn (Nam Mô A Di Đà Phật) thì Nguyễn Hiền Đức, Cử Nhân Giáo Khoa Sử Học, năm 1973, (Đại Học Văn Khoa Sàigòn) là một nhà nghiên cứu lịch sử, nhất là về Phật Giáo. Ông có làm Giảng Viên tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam (thành phố HồChíMinh). Ông đã cho ra nhiều tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo như Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (từ khi du nhập đến đời Lý), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Ngoài (1592 – 1801), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong (1558 – 1802)...
2) Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong - LSPGĐT.
Cuốn nầy gồm 2 tập, tập I có 386 trang, tập II có 490 trang, tổng cọng (cộng) 876 trang, in năm 1995 do nhà Xuất Bản Thành Phố HồChíMinh ấn hành. Là một tài liệu nghiên cứu về Phật Giáo Đàng Trong khá công phu. Sách có cho 31 tài liệu tham khảo và trích dẫn (22 bằng chữ Việt, 9 bằng chữ Hán). Trong những trang viết thì đôi khi có dẫn chứng các tài liệu, đôi khi có ghi chú ở phần cuối trang, như khi bàn về ngày sinh và ngày mất của Tổ Nguyên-Thiều (trang 101, tập I), hay là bàn về chuyện của Tổ Mật-Hoàng làm Tăng-Cang ở chùa Thiên Mụ (trang 260, tập I) ...
Tôi không đọc hết cả cuốn nầy, mà chỉ đọc những đoạn nói về Hòa Thượng Liên-Hoa hay Thiền Sư Thiệt-Thành - Liễu-Đạt, cùng các chùa Thiên Mụ, Quốc Ân (Huế), Từ Ân, Khải Tường (Sàigòn), Đại Giác (Biên Hòa).
Tên của Hòa Thượng Liên-Hoa được nhắc đến một vài nơi của cuốn sách, nhưng chuyện chính của Hòa Thượng thì được viết trong tập II, từ trang 231 liên tục đến trang 235. Không cho xuất xứ (nguồn tài liệu). Cuối trang 235 có hình chụp Long Vị của Hòa Thương Liên-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô kề sát nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân (1) (để làm bằng chứng chăng ?).
Chuyện xin trích tóm tắt như sau :
« Khoảng những năm 1789, trước khi xây xong thành Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần tạm trú tại chùa Từ Ân; Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa (2), và Thái Trưởng Công-Chúa Long-Thành đã thọ giới với Hòa Thượng.
Năm 1805, khi Thái Trưởng Công Chúa lên đường về Kinh Đô, Hòa-Thượng Liên-Hoa có nhờ Công Chúa lo trùng tu chùa Quốc Ân, vì chùa nầy là do Tổ Nguyên-Thiều xây dựng từ năm 1683.
Năm 1817, Hòa-Thượng Liên-Hoa được cử làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ và làm pháp sư ở nội cung. Trong thời gian nầy, Hòa Thượng Linh-Nhạc, ở chùa Từ Ân, lo cho Hòa Thượng Liên-Hoa không tránh khỏi mối dây ràng buộc trần duyên, vì giảng giải trong nội cung, gần nữ giới. Năm 1821, Hòa Thượng Linh-Nhạc mất, nhưng mãi đến năm 1823, Hòa Thượng Liên-Hoa mới biết tin, và nhân đó, lấy cớ xin từ nhiệm ở chùa Thiên Mụ, để về làm trú trì chùa Từ Ân.
Vào tháng 10 năm 1823, Hoàng Cô vâng lệnh vua (Minh-Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Hòa Thượng Liên-Hoa nghe tin, muốn lánh mặt Hoàng Cô, nhưng Hòa Thượng Viên-Quang khuyên cứ tiếp Hoàng Cô. Trong thời gian Hoàng Cô ở chùa Từ Ân, mỗi sáng Hòa Thượng Liên-Hoa đều tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng Cô, cho đến ngày thứ ba, thì không biết Hòa Thượng Liên-Hoa đi đâu mất. Hoàng Cô cho người tìm kiếm, nhưng vô hiệu quả. Hoàng Cô trầm tư, buồn bả, không màng ăn uống trong ba ngày. Vì sợ Hoàng Cô đi đến tuyệt vọng có hại cho chùa, thị giả Mật Đĩnh đã cho Hoàng Cô biết là Hòa Thượng Liên-Hoa đã đến chùa Đại Giác ở cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất trong hai năm. Hoàng Cô báo cho quan trấn thủ Gia Định là sẽ đến chùa Đại Giác để cúng dường.
Đến chùa Đại Giác, sau khi lễ Phật xong, Hoàng Cô đến tịnh thất của Hòa Thương Liên-Hoa, xin diện kiến, nhưng Hòa-Thượng không trả lời. Hoàng Cô quỳ xuống thưa, nếu Hòa Thượng không tiện ra tiếp, thì xin Hòa Thượng cho thấy bàn tay, thì cũng đã hân hoan mà ra về. Im lặng trong vài phút, Hòa-Thượng đưa bàn tay ra ở cửa nhỏ, nơi đưa thức ăn vào tịnh thất. Hoàng Cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ một cách trùi mến, rồi sụp xuống lạy ba lạy và khóc sướt mướt...
Đến giữa đêm, tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và xác thân của Hòa Thượng cũng cháy tiêu. Mọi người đang bàn tán xôn xao, có người phát hiện được bài kệ Niết Bàn viết bằng mực đen trên vách chánh điện (3) :
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần,
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần.
LIÊU (thiếu dấu ngã chăng ?) tri mộng huyễn chơn như huyễn,
ĐẠT đạo minh (không dấu) vui đạo mấy lần.
Phía dưới có đề : Sa môn Thiệt-Thành hiệu Liễu Đạt.
Sau khi làm lễ nhập tháp Hòa Thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết sẽ ở lại chùa Đại Giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng, ngay ngày hôm sau đó, Hoàng Cô uống độc dược tự tử tại hậu liêu chùa Đại Giác, ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi. (Có lẽ Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng hơn 60 tuổi) (4).
Thiền Sư Bổn-Giác, trú trì chùa Từ Ân và chư tăng lo lễ nhập tháp Hòa-Thượng Liên-Hoa, cùng lễ an táng Hoàng Cô (5) và thỉnh long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và linh vị Hoàng Cô về thờ ở chùa Từ Ân. Long vị của Hòa Thượng thờ ở bàn thờ Tổ, linh vị của Hoàng Cô thờ ở bàn thờ bá tánh. Nhưng sau đó bổng nhiên xảy ra nhiều sự cãi vã, xào xáo trong chùa, nên Hòa Thượng Viên-Quang đề nghị với Thiền Sư Bổn-Giác đua linh vị của Hoàng Cô thờ chung với long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa ở bàn thờ Tổ. Quả nhiên sau khi làm như thế, trong chùa Từ Ân trở lại bình thường...(6) ».
Hết trích.
Đó là tóm tắt 5 trang viết về Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT. Gạch dưới ở những nhóm chữ trên là do tôi làm.
3) Ý kiến của tôi :
a) Nguyễn Hiền Đức đã khái thác tài liệu thiếu chính xác.
- Tập II, trang 257, 258 của LSPGĐT cho : « Tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH) năm 1915 có viết như sau : “Công chúa Ngọc Anh, chị của vua (Minh Mạng) còn trẻ và tiết liệt, khi Tây Sơn khởi nghĩa đã đến tu ở chùa Đại Giác, giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ”.».
Tôi đã rà cả 4 tập Bulletin des Amis du Vieux Huê, của năm 1915 mà không thấy nói về chuyện đó. Tôi cho rằng tác giả viết lầm năm, hoặc năm bị in sai, tôi mới tìm trong Index analytique et Résumé des matières (Bảng tra phân tích và mục lục) của BAVH, năm 1924, thì không thấy có những tên Ngọc-Anh, Bảo-Lộc, Đại Giác (có chữ Đại Giác nói về điện thờ Phật ở chùa Diệu Đế, chứ không nói đến chùa Đại Giác ở Biên Hòa), nhưng có thấy những tên Bổn Giác ở BAVH, 1915, tập 3 (Juillet-Septembre), trang 315-316; Mật-Hoàng ở BAVH, 1915, tập 2 (Avril-Juin), trang 186 và tập 3, trang 311-314; Liên-Hoa ở BAVH, 1915, tập 3, trang 309, 310; Long-Thành ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, 309, và ở BAVH, 1915, tập 4 (Octobre-Décembre), trang 341-348; Ngọc-Tú cũng ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, và ở BAVH, 1915, tâp 4, trang 341-348.
Mặt khác, « khi Tây Sơn khởi nghĩa » là năm nào ? vào những năm 1780 chăng ? Lúc đó Công Chúa Ngọc-Anh chưa sinh ra (sinh năm 1790), thì làm gì có « giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ ». Cho đi đến 1801, thì Công Chúa Ngọc-Anh cũng chỉ mới 11 tuổi !
- « Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa » (xem hàng gạch dưới ở (2), phần trên) là sai. Thánh-Tổ sinh ở làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, năm 1791, cũng vì thế sau nầy, cho chỗ ấy là đất thiêng và để cám ơn Trời Phật, nên năm Minh-Mạng thứ 13 (1832), Thánh-Tổ cho xây chùa Khải Tường ở tại đó. (Xem ĐNTLCB, Đệ Nhị Kỷ, Quyễn LXXXIII. Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế : « Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa thu, tháng 9... ». Chuyện xây cất chùa Diệu Đế ở Huế, sau nầy cũng thế (nơi sinh của Hiến-Tổ).
- Tập II, trang 298, 299 của cuốn LSPGĐT cho : « ... Tăng Cang Tiên-Giác - Hải Tịnh (huý Nguyễn Tâm Đoan) bị tội chưa biết tội gì, nên bị cách chức Tăng Cang, bị đày làm việc nặng ở chùa (Thiên Mụ)..., mãi đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), Thiền Sư Hải-Tịnh mới được vua tha tội và phục hồi chức Tăng Cang... Tăng Cang Hải-Tịnh là người ở Gia Định..., có thể Tổng Trấn Lê Văn Duyệt đề nghị với vua Minh Mạng cho Thiền Sư Hải-Tịnh làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ... Vì vậy khi Lê Văn Khôi nổi loạn, vua Minh Mạng kết tội Tăng Cang Hải-Tịnh, cách chức Tăng Cang và bắt làm việc nặng ở chùa Thiên Mụ... ».
Chuyện nầy là sai ! Sao lại kéo Lê Văn Khôi vào đây ? Sự thật là, theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ nhị kỷ, Quyển CCVII, tháng 10 và 11 cho : « Kỷ Hợi, Minh Mệnh năm thứ 20 [1839], mùa đông, tháng 10… Sư chùa Thiên Mụ có tên Nguyễn Văn Huấn vì ghen giết người. Bộ Hình và viện Đô Sát xét hỏi qua một năm không khám phá ra manh mối. Đến nay Khoa Đạo là Nguyễn Sĩ Đăng, Lê Tập bí mật đi dò xét tìm được tình trạng, đều thưởng cho mỗi người 10 lạng bạc và gia một cấp. Khi án giao xuống đình thần xét, Huấn bị xử trảm hậu; sư trưởng Nguyễn Tâm Đoan, cách bỏ chức trụ trì, chuẩn bắt phải làm việc nặng nhọc tại chùa ấy. ».
Sau nầy Hòa Thượng Hải-Tịnh được phục hồi chức Tăng Căng vào năm nào, thì tôi không rõ, nhưng theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1993), Tập 8, trang 201, thì « Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), chuẩu lời tâu : Tăng Cang chùa Giác Hoàng là Nguyễn Tâm Đoan (Hòa Thượng Hải-Tịnh) chuẩn chiếu như lệ Nguyễn Nhất-Định (Hòa Thượng Nhất-Định), tháng cấp 3 quan tiền, 1 phương gạo...».
- Ngay cả chuyện Hòa Thượng Liên Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ cũng là một nghi vấn. Trong cuốn LSPGĐT không cho một chứng cứ lịch sử nào hết. Chuyện nầy, phải đến các chùa Thiên Mụ và Quốc Ân, để xin khảo sát tường tận các tài liệu đang tồn trữ ở chùa, mới có thể biết thực hư được. Linh Mục Léopold Cadière là một người rất hiếu kỳ, một nhà thông thái lại có trong tay rất nhiều tài liệu về các chùa Thiên Mụ, Quốc Ấn, nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ trong bài « La Pagode de Quấc Ân » (Xin xem phần IV, Chánh sử, ở dưới), Linh Mục Cadière đã đề cập đến.
- Ngày sinh, ngày mất của Hòa Thượng Mật-Hoằng (LSPGĐT, Tập II, trang 272) cũng sai, nhưng ở đây, tôi không bàn tới, vì không phải đề tài của bài viết.
- Ngoài ra về chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần trong LSPGĐT (Tập II, trang 128-129) cũng bị Trần Đình Sơn phản bác như sau :
« Điều rất đáng ngạc nhiên là trong sách Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong ( LSPGĐT ), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền Đức công bố sự việc cuối đời Hiệp Đức Hầu, hoàn toàn khác hẳn với sử sách xưa nay... Phát hiện mới lạ trên , không biết tác giả căn cứ theo truyền thuyết nhân gian, ( Bản thảo : lược sử chùa Sắc tứ Minh Thiện của giáo thọ Huệ Đăng, biên soạn năm Mậu Thìn 1988 ) hay có cứ liệu xác thực chứng minh ? Nên nhớ, Hiệp Đức Hầu đối với Hoàng tộc Nguyễn là một vị thân vương danh tiếng. Võ công của ông được xếp vào thượng đẳng thời các chúa, khi ông mất, Hiền Vương ( cha ) đã làm quốc tang theo tước Công. Dòng dõi của ông hiển đạt cho đến cận đại. Nếu sự kiện cuối đời của ông “ xuất gia – viên tịch “ như trong LSPGĐT viết, có lẽ nào quốc sử lẫn tộc phổ chẳng ghi lại một dòng để cho đời sau hay biết. [Nguồn : giaodiemonline] ». [LSPGĐT nói Ông đã lập chùa Minh Thiện ở Khánh Hòa, và sau đó an nhiên viên tịch... và được nhập tháp trong khuôn viên chùa nầy...].
Thật thế, chuyện Bà Nguyễn-Phước Ngọc-Cầu 球 , con của Dận Quận Công Nguyễn-Phước Điền 氵田 , có lập chùa Phước Thành ở An Cựu, Huế, đã được sử quán nhà Nguyễn (Đại Nam Liệt Tuyện Tiền Biên) ghi. Bà được phong tặng là Tuệ-Tĩnh (có nơi cho là Huệ-Tĩnh) Thánh Mẫu Nguyên Sư. Ở Huế, người ta gọi là chùa Bà Sư. Tháp của Bà nằm ở vườn, sau chùa.
Đại Nam Thực Lục Tiền biên. Quyển V. Thực lục về Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế (Hạ), cho : « Khi (Hiệp Đức Hầu) dẹp xong giặc trở về, tuyệt hẳn không cho đàn bà con gái yết kiến, dựng am nhỏ thờ Phật, thỉnh thoảng ra chơi, bàn đạo thuyết pháp để tự vui. Đến đấy bị bệnh đậu mà mất, mới 23 tuổi. ». NPTTP cho thêm, ở trang 144 : « Bà vợ của Ông húy là Nguyễn Thị Hưng, tiểu sử không rõ. Bà mất ngày 13 tháng 2 âm lịch (năm ?), mộ táng cùng một chổ với Ông, trong khuôn viên nhà thờ của phòng. ».
Vậy Nguyễn Hiền Đức đã khai thác tài liệu thiếu chính xác, và đôi khi, chưa tìm ra tường tận các tài liệu lịch sử, thì lấy giả thuyết riêng của mình để giải thích những sự kiện lịch sử. Thật đáng tiếc cho một công trình nghiên cứu về lịch sử !
b) Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng.
Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng, không nới đến Hòa Thượng Liên-Hoa. Như Việt Nam Phật Gíao Sử Lược của Thượng Tọa Thích Mật-Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Hòa Thượng Thích Thiện-Hoa...
c) Bài kệ (xem hàng gạch dưới ở (3), phần trên).
Bài kệ đó, nếu là do Hòa Thượng Liên-Hoa viết thật, thì Hòa Thượng cũng đã viết trước khi Hoàng Cô đến chùa Đại Giác, vì khi Hoàng Cô đến chùa, thì Hòa Thượng đã nhập thất, và ngay sau đó, tịnh thất của Hòa Thượng đã phát hỏa. Không lẽ, trước khi tịnh thất phát hỏa, Hòa Thượng đã lén ra chánh điện, để viết bài kệ ?
Mặt khác, bài kệ đó là một bài thơ tiếng Việt. Không biết vào thời đó (1823), Hoà Thượng viết bài kệ bằng chữ Quốc Ngữ (mẫu tự Latinh), hay bằng chữ Nôm (viết dựa theo chữ Hán) ? Những Thiền Sư vào thời của Hòa Thượng Liên-Hoa hay là những đệ tử của các vị, đều viết bài kệ theo chữ Hán. Điều nầy làm cho ta nghi ngờ bài kệ trên là của Hòa Thượng Liên-Hoa. Rất có thể bài kệ trên là do người đời sau viết.
d) Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng trên 60 tuổi (xem hàng gạch dưới ở (4) phần trên).
Trên 60 tuổi là bao nhiêu tuổi ? 61, 62 ? Cho đi 62 tuổi, và nếu Hòa Thượng Liên-Hoa mất vào năm 1823, thì Hòa Thượng sinh năm 1761 (hay 1762, tính theo tuổi ta). Theo BAVH 1915, tập 3 (juillet-Septembre), Linh Mục Léopold Cadière cho ở trang 309 : « Sau khi chồng (Lê Phúc Điển) mất (1783), Công Chúa Long-Thành thường hay đi lễ (fréquenter) ở chùa Từ Ân và được Trú Trì (Supérieur) Liên-Hoa, còn được gọi là Thiệt-Thành, hay Liễu-Đạt khuyên nhủ thọ Ngũ Giới. ».
Vậy Hòa Thượng Liên-Hoa làm Tọa Chủ hay Trú Trì chùa Từ Ân lúc chỉ mới 22 hay 21 tuổi (1783 – 1761 = 22). Một nhà sư còn quá trẻ như thế, mà được chỉ định làm Tọa Chủ, hay Trú Trì một ngôi chùa lớn như chùa Từ Ân (trong LSPGĐT, Tập II, trang 268, Nguyễn Hiền Đức lại ghi là làm Thủ Tọa, lo điều khiển tăng chúng cho cả hai chùa Từ Ân và Khải Tường), là một chuyện khó có thật, lúc bấy giờ. Nói Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó (1823) có khoảng 70 hay trên 70 tuổi, thì có thể đúng hơn.
e) An táng Hoàng Cô (xem hàng gạch dưới ở (5), phần trên).
Nếu chư tăng an táng Hoàng Cô tại Biên Hòa, thì cớ sao trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên ĐNTLCB, Đệ nhị Kỷ - Quyển XXIV, Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế, tháng 11, ghi « Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [1823], mùa đông, tháng 11… Thái Trưởng Công Chúa là Ngọc-Tú chết ... bèn sai Kiến An Công Đài cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với bộ Lễ mà trị tang. Nghỉ chầu 5 ngày. Tứ tế một đàn... Tặng Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, thụy Trinh-Tĩnh... Ngày táng, vua nghỉ chầu, mặc áo trắng đi đưa...».
Còn nếu lấy giả thuyết là đưa Linh-Cữu của Hoàng Cô từ Biên Hòa về táng ở Thuận Hóa thì, đi đường bộ hay đường thủy, lúc bấy giờ, cũng phải mất hơn một tháng, như thế làm sao an táng Hoàng Cô tại Đình Môn, cho kịp trong tháng 11 năm Quý Mùi như ĐNTLCB đã cho ?
Ở đây cũng xin mở ngoặc. Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất kỷ, quyển XXV (Gia Long năm thứ 3 [1804]) cho : « Mùa thu, tháng 7... Định hạn ngày đệ trạm. Phàm phái người chuyển đệ công văn theo trạm, từ Gia Định đến Kinh là 13 ngày, từ Bắc Thành đến Kinh là 5 ngày, đúng hạn thì được thưởng tiền theo thứ bực khác nhau. (Gia Định thưởng 5 quan, Bắc Thành thưởng 3 quan). Chậm 1, 2 ngày không thưởng, chậm 3, 4 ngày phạt 30 roi. ». Thời bấy giờ, đi ngựa chạy công văn đã như thế, huống hồ là đưa linh cữu của một công chúa !
f) Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy.
Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và thân xác bị thiêu, hay chuyện Hòa Thượng được hỏa thiêu đi nữa, cùng năm mất của Hòa Thượng (1823) cũng không chắc chắn gì cả. Không có một chứng cứ lịch sử nào ở trong cuốn LSPGĐT, để chứng minh điều đó.
g) Xào xáo trong chùa... trở lại bình thường (xem gạch dưới (6) ở phần trên)
Đây là một chuyện dị đoan, mà chắc độc giả cũng đồng ý với tôi, là khó mà tin như thế được.
h) Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành (xem phần gạch dưới (1) ở phần trên).
LSPGĐT không cho biết những chữ được viết trên Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa (thật đáng tiếc !), mà chỉ cho biết những chữ được viết trên Thần Vị của Công Chúa Long-Thành như sau : « Thích môn hộ giáo, Hoàng Cô thọ bồ tác giới, pháp danh Tế-Minh, tự Thiên-Nhựt, chi vị ». Có lẽ ngày mất của Công Chúa mà LSPGĐT cho đã lấy ở trên Thần Vị nầy.
Chính vì Long Vị của Hòa Thượng và Thần Vị của Công Chúa được đặt kề nhau trên bàn thờ Tổ là một chuyện « lạ », nên đã sinh ra chuyện « tình » mà Nguyễn Hiền Đức đã kể trên.
Theo tôi, khi đi nghiên cứu ở chùa Từ Ân, Nguyễn Hiền Đức phát hiện Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa kề bên Thần Vị của Hoàng Cô ở bàn thờ Tổ, nên mới lấy làm « lạ » và đã hỏi các sư hiện đang tu học ở chùa hay các bổn đạo của chùa hay bà con đang ở xung quanh chùa về chuyện « lạ », để tìm hiểu nguồn gốc. Nhưng các nhà sư, các bổn đạo, các bà con mình, không những ngày nay, mà có thể là từ sau năm 1945 (tôi chỉ ước đoán) cũng cho là « lạ », nên đã có người muốn giải thích cho hợp tình, hợp lý, như chuyện « Trầu Cau » hay chuyện « Vọng Phu », mà sinh ra chuyện « tình » ở trên. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới).
Vì ăn trầu, cau với vôi, nước miếng hóa ra đỏ là một chuyện « lạ » (thật ra, đây chỉ là một phản ứng hóa học), rồi bà con mình cố gắng giải thích, từ đó ta đã có những chuyện « Trầu Cau » (có nhiều bản khác nhau), và rồi có những câu ca dao rất thơ mộng như :
« Có trầu mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.».
Có nhiều tảng đá có hình giống như một thiếu phụ bồng con. Bà con mình cũng lấy làm « lạ », rồi đặt ra những chuyện « Vọng Phu » (có nhiều bản khác nhau), và rồi cũng có những câu thơ trữ tình như :
« Thương ai tấc dạ vàng son,
Bế con lên đứng đầu non đợi chồng.
Trăm năm vẹn chữ tâm đồng,
Ngàn năm hóa đá tạc lòng trung trinh ». (Vũ Thanh).
i) Tạm kết luận.
Vì thấy Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành được đặt kề nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, mà không tìm rõ nguyên nhân, nên chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa và của Công Chúa Long-Thành, được kể trong cuốn LSPGĐT, chỉ là một giai thoại. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới). Ngay cho chuyện tịnh thất bị cháy, nhục thể của Hòa Thượng Liên-Hoa bị thiêu cũng chỉ là những nghi vấn.
Cũng vì có chuyện nầy ở cuốn LSPGĐT mà hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, bị phạm đến thanh danh, đạo đức. Thật là một điều đáng tiếc ! (Xin xem trên Internet, có rất nhiều sách, bài viết dựa theo cuốn LSPGĐT, để phạm đến thanh danh của hai vị, tuy lời lẽ có phần ôn tồn và tỏ ra thông cảm).
4) Cuốn Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ.
Trong cuốn nầy, tác giả tự nhận là về phần Thiền Sư Thiệt-Thành - Liễu-Đạt – Liên-Hoa, tác giả đã trích trọn ở cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức. Thật thế, ở phần nầy, trong sách Thiền Sư Việt Nam, mỗi chữ, mỗi câu đều giống hệt trong cuốn LSPGĐT.
Sở dĩ tôi đưa cuốn TSVN vào đây vì ông Như Điển có đề cập tới trong cuốn tiểu thuyết của ông ta.
III - Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
1) Tác giả.
Theo Chùa Viên Giác ở Đức, ông Như Điển là một thầy tu rất thông thái, học rộng biết nhiều. Ông biết lắm ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Phổ Thông Trung quốc, cũng như cổ ngữ, như chữ Hán, chữ Phạn, chữ Pali..., và có nhiều bằng cấp, như Cử Nhân Giáo Dục và Cao Học Phật Giáo. Ông có trách nhiệm trong nhiều hội Phật Giáo ở Hải Ngoại và thủ tọa ở Niệm Phật Đường Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc. Ông đã dịch nhiều kinh sách như Tịnh Độ Tông Nhật Bản, Thiền Lâm Tế Nhật Bản, Đại Đường Tây Vực Ký..., và đã sáng tác các chuyện tiểu thuyết, như Chiên Sĩ Áo Vàng, Người Xuất Gia, Đã Một Lần Như Thế... Ông xin tỵ nạn tại Đức năm 1977. (Nguồn : tayphuongtinhdo.com, và Wikipedia).
Thật tình, tôi chưa có hân hạnh đọc các bài dịch và các bài sáng tác của ông Như Điển. Có chăng, vì hiếu kỳ, tôi có đọc qua Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng, nhưng không đọc hết cả cuốn tiểu thuyết nầy.
2) Cuốn Tiểu Thuyết Chuyện Tình của Liên-Hoa Hòa Thượng. CTLHHT.
Như đã trình ở trên, tôi chỉ đọc thoáng qua cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên-Hoa Hòa Thượng - CTLHHT, (Nhà Xuất Bản Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, 2011), chẳng những đọc thoáng qua, mà có hàng trăm trang, tôi cũng không đọc đến.
Cuốn tiểu thuyết dày 632 trang, gồm 12 chương. Trong chương thứ 12, ông Như Điển cho biết « trong khi tịnh tu, nhập thất tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi lần thứ 7 », ông đã phóng tác ra cuốn tiểu thuyết nầy. Ông viết : « Khi đọc đến trang 231 (cuốn LSPGĐT) thì câu chuyện của Hòa Thượng Liên Hoa lại hiện ra trước mắt mình. Đây là một câu chuyện hay, có thật, có thể là 98%, tôi tin như vậy, vì có 2 long vị và bài vị của Hòa Thượng và Hoàng Cô tại Chùa Từ Ân là bằng chứng. Do đó tôi nảy ra ý định là nên phóng tác từ chuyện này thành một quyển tiểu thuyết lấy tên là “Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng”.».
Ông tự nhận là các thư từ (thư tình) và chiếu chỉ đều do ông « sáng tác » ra (CTLHHT, trang 624, 625), ông cũng tự nhận là ông « rất thận trọng cho mọi việc, nhất là phương diện lịch sử.» (CTLHHT, trang 627)...
Văn phong của cuốn tiểu thuyết nầy là văn phong của thế kỷ thứ 21, rất « thời thượng, đương đại ». Tiếu thuyết dày 632 trang vì thường chép theo nguyên văn các sự tích các chùa, các vị Thiền Sư, các Chúa Nguyễn, các bài kệ, những sắc phong Tăng Cang, Trú Trì..., ở cuốn LSPGĐT. Một số Phật Pháp thì trích ở cuốn Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng-Độ dịch. Các kinh xưa và nay, như kính Sám Hối : « Đệ tử kính lạy, Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà...», cùng những bài ca dao, tục ngữ, bài thơ, bài văn của các văn nhân, thi sĩ, như Nguyễn Du, Tản Đà, ... nói về tình yêu giữa trai gái, cũng được đưa thêm vào để gán cho các nhân vật của cuốn tiểu thuyết, tụng niệm hay giãi bày tâm sự...
3) Ý kiến của tôi.
Trước hết để tránh sự hiểu lầm, tôi xin trình là tôi đã quy y, tôi là một phật tử, một phật tử nhỏ bé, nghĩa là tôi không biết nhiều về Phật Pháp, Kinh Điển, chứ đừng nói gì về các giới luật mà chư tăng, chư ni phải giữ ở chốn thiền môn.
Tôi không biết trong lúc « tịnh tu, nhập thất », chư tăng, chư ni phải tu học, hay để thì giờ viết tiểu thuyết ?
a) Sự thật 98 %.
98 % không phải là 100 %, nghĩa là chuyện không có thật, mà đã không có thật thì 98 % hay 50 % hay 0 % cũng như nhau. Thế mà ở chương 11, ông Như Điên khẳng định « Câu chuyện thật về Hòa Thượng Liên Hoa » !
b) Thận trọng về phương diện lịch sử.
Ông Như Điển nói là ông « thận trọng về lịch sử », nhưng sự thật thì ông không thận trọng gì cả. Nói về các nhân vật lịch sử, mà ông Như Điển không tra cứu sách vở, ông viết một cách rất bừa bãi, ông đã cho :
- Hoàng Hậu Hiếu-Khang còn tại thế, ít nhất cũng vào năm 1817, để nghe Hòa Thượng Liên-Hoa giảng về Phật Pháp (CTLHHT, chương 3), trong khi sự thật là Hoàng Hậu Hiếu-Khang đã băng (mất) năm Tân-Mùi (1811) (Đại Nam Liệt Truyện, tập 2, trang 21). Đã lầm lẫn Thừa-Thiên Hoàng Hậu với Thuận-Thiên Hoàng Hậu (CTLHHT, trang 283)...
- Hoàng Cô và Công Chúa Long-Thành là hai người khác nhau. Hoàng Cô là em vua Gia Long (CTLHHT, trang 102), và Thái Trưởng Công Chúa Long-Thành là con vua Gia Long (CTLHHT, trang 105)... Sự thật là Thái Trưởng Công Chúa Long-Thành và Hoàng Cô chỉ một người. Bà là chị cả, cùng mẹ với Thế-Tổ. (xem NPTTP, trang 227, hay BAVH, 1923, tập 3, bản đồ số XLVI, về Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ).
- Chùa Giác Hoàng ở Nội Cung (CTLHHT, trang 379). Ở Huế có thành Huế (Đô Thành hay Kinh Thành) ở trong thành nầy có các cơ quan hành chánh như lục bộ..., và có dân ở. Nội thành (thường là nói là trong Nội, đó là Hoàng Thành, ở trong Kinh Thành), ở đây, chỉ có các quan, vào chầu triều để làm việc, được vào mà thôi, chứ không được ở; ở đây chỉ có những nhân viên, người trong Hoàng Tộc tạm ở (không được đem theo gia đình vào) để lo coi sóc các cơ sở, và một số quân lính canh giữ Hoàng Thành. Đại Nội (Tử Cấm Thành hay Cung Thành), ở đây, có các nội cung, do những cung nhân và thái giám coi sóc, không ai được vào, trừ có chiếu chỉ đặc biệt. Sự thật chùa Giác Hoàng nằm ở trong thành Huế, gần cửa Thượng Tứ (hiện giờ thì không còn chùa nầy nữa), chứ không nằm trong Nội và trong Đại Nội. Ở Đại Nội có chùa (am) Phước Thọ, do các Sư Cô đảm nhiệm. Chùa Giác Hoàng do Thánh-Tổ xây năm 1839...
Còn rất nhiều nữa, nhưng tôi không trích ra, làm bài viết quá dài, và vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.
c) Đã đọc cuốn LSPGĐT, mà còn lẫn lộn ngược xuôi.
- Thiền Sư Phật-Ý là Sư Phụ của Hòa Thượng Liên-Hoa (CTLHHT, trang 351), trong khi cuốn LSPGĐT cho là Thiền Sư Phật-Ý và Thiền Sư Liễu-Đạt (Liên-Hoa) là sư huynh, sư đệ cùng tông phái Lâm Tế (LSPGĐT, Tập II, trang 268)...
- Thiền Sư Viên-Quang là Sư Đệ của Thiền Sư Liên-Hoa (CTLHHT trang 364), trong khi LSPGĐT cho là Thiền Sư Viên-Quang quy y, thọ giáo với Thiền Sư Phật-Ý (LSPGĐT, Tập II, trang 293), nghĩa là Thiền Sư Liên-Hoa là Sư Thúc của Thiền Sư Viên-Quang...
Thôi thi khó mà trích ra cho hết những cẩu thả viết về lịch sử, cùng sự lẫn lộn ngược xuôi, trong cuốn tiểu thuyết nầy !
Tôi có cảm tưởng là, thay vì đọc cuốn LSPGĐT để học hỏi, tìm hiểu thêm các Đại Danh Tăng, các Đại Thiền Sư đã làm lịch sử vẻ vang cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thì ông Như Điển, khi đọc đến những trang 231, đã hoa mắt và chỉ thấy có câu chuyên nầy mà thôi...
d) Đã chạm tới thanh danh của chốn Thiền Môn.
- Ngay cả ngày nay, trong một gia đình lễ giáo, con cái không được « nghe lóm » (nghe lỏm, nghe lóng) chuyện của cha mẹ, thế mà trong CTLHHT (trang 369) có câu « Cả 2 chú Mật Đĩnh và Mật Hạnh đều ra chiều đắc ý khi nghe lóm được câu chuyện trao đổi giữa hai vị quan nầy »...
- Tả những chuyện nghe lóm và bàn tán thầm thì về chuyện tình, giữa các chú tiểu ở chốn Thiền Môn (CTLHHT, trong những trang 372 và tiếp theo).
- Dùng những danh từ dung tục, như « món ngon, vật lạ » để chỉ cái gì là tình, là yêu (CTLHHT, trang 386) ; « cả thân dâng hiến » (CTLHHT, trang 420), và có thể còn nhiều nữa, vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.
Với những điều trên, chẳng những thanh danh của các Thiền Môn bị phạm mà cũng phạm đến đạo đức tu hành của các vị Đại Tăng chân tu. Càng đọc cuốn CTLHHT, tôi càng ớn lạnh !
e) Chêm thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức..., và... dịch sai chữ Hán chăng ?
Như trên, ở phần « tác giả » lấy theo thông tin của chùa Viên Giác ở Đức, thì ông Như Điển rất thông thái, rất rành nhiều ngoại ngữ. Nên có lẽ viết tiếng Việt, sợ độc giả chưa hiểu thấu tâm can của ông, nên ông phải chêm thêm ngoại ngữ, như ở trang 622, « Peaceful Death and Joyful Rebirth (?) » ; ở trang 222, « Manger pour vivre et non vivre pour manger (?) » ; ở trang 145, « Nirvana ist weder Form noch Gestalt. Alle Phänomen* sind unbeständig; alle Phänomen* sind unsicher (?) »..., và tất nhiên có chữ Hán (âm Hán-Việt), chữ Pali, chữ Phạn (latinh hóa),..., rồi để cuối cùng, làm cho những độc giả kém hiểu biết như tôi, về ngoại ngữ và cổ ngữ, phải lầm to, như ở trang 394, hai chữ « Nhập Thất 入 室 » ông Như Điển đã giải thích như sau : « Thất đây có nghĩa là chỗ ở, mà cũng có nghĩa là 7 ngày...» !
* Thiếu chữ « e » trong từ Phänomen nầy chăng ?
f) Đại ngôn. Cao ngạo.
Hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính. Tôi tin ông Như Điển, về đạo đức cũng như về tu học, không bằng hai vị đó, thế mà ông Như Điển đã đại ngôn, cao ngạo :
- Ông bịa đặt chuyện tình, rồi đem chuyện « Tăng sĩ trẻ với cô lái đò » để dạy đời Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa. (CTLHHT, trang 354)
- Ông dám cho đạo đức của ông còn hơn đạo đức của Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa : Trong bài « Hoàng Cô tình sử » của Thiện Giới Hoa Lan (xin xem trên mạng), bà Hoa Lan viết : « ... nếu trường hợp của Hòa Thượng (ông Như Điển) rơi vào tình trạng như thế, Thầy giải quyết làm sao ? Hòa Thượng (ông Như Điển) cười thật tươi, trả lời rằng, đời tôi không bao giờ có chữ Nếu ! Thật ra trong đời tu của tôi cũng có rất nhiều người yêu tôi. Nhưng quý vị thấy đó ! Giờ này tôi vẫn còn ngồi nơi đây.».
- Không biết ông Như Điển lấy tư cách gì, để một khi bịa đặt chuyện tình ở chốn thiền môn, mà dám « thăng hoa » Hoàng Cô ! (CTLHHT, trang 624).
g) Dịch cuốn Đại Đường Tây Vực Ký.
Để tìm kiếm tài liệu về Hòa Thượng Liên-Hoa trên Internet, tình cờ, tôi thấy bài « Đại Đường Tây Vực Ký – Phê bình bản dịch của Thích Như Điển - PBĐĐTVK » của Triệu Minh Di. Bài có 61 trang. [Nguồn : thongtinberlin.de].
Tôi không biết chữ Hán, không đọc cuốn sách dịch Đại Đường Tây Vực Ký (dịch từ chữ Hán ra chữ Việt) của ông Như Điển và tôi cũng không biết kinh Hoa Nghiêm. Nhưng theo Triệu Minh Di thì ông Như Điển, vì không hiểu chữ Hán, như ông đã tự khoe; hiểu sai kinh Hoa Nghiêm, như các nhóm chữ « Tập Định », « Dược Xoa », « Kiếp Sơ », « Vô Già Đại Hội », mà một người tu học trên 40 năm phải biết, thế mà ông Như Điển cũng tự cho mình là hòa thượng, nên Triệu Minh Di đã nói ông Như Điển là « ngu dốt », « thất học », « thất tu », « Như Điển liệng rác vào mặt mọi người...»... Tôi thấy lời lẽ của Triệu Minh Di hơi « nặng », nên tìm đọc vài trang của cuốn PBĐĐTVK, và tra lại các Từ Điển Hán-Việt, cùng cuốn Từ Điển Bách Khoa Nho-Phật-Đạo – TĐBKNĐP, của Lao Tử, Thịnh Lê (Nhà Xuất Bản Văn Học, Hànội, 2001), thì thấy lời nói của Triệu Minh Di cũng không phải là vô lý. (Xin xem thêm « Thư trả lời của Minh-Di về việc phê bình bản dịch Đại Đường Tây Vực Ký của ông Như Điển », ở trên mạng).
h) Tạm kết luận.
Viết đến đây, tôi muốn xóa bỏ hết những đoạn trên, nói về ông Như Điển (từ a đến g), vì Chuyện Tình của Liên-Hoa Hòa Thượng là một chuyện tào lao, do một thầy tu tào lao viết, nên thật tình, tôi không muốn để ý tới.
Viết tiểu thuyết là quyền tự do tối thượng của ông Như Điển, nhưng ông đã bịa đặt câu chuyện, thì cũng nên bịa đặt các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của ông, cớ chi ông lấy danh hai nhân vật lịch sử mà được người đời tôn kính, để rồi có sự bàn tán không hay, xúc phạm đến thanh danh của hai vị, và có thể đến cả thanh danh của các Cao Tăng, Đại Đức ngày nay. Trên mạng có bài « Hoàng Cô tình sử » của Thiện Giới Hoa Lan, cùng một số bài khác. Bà Hoa Lan cũng « gợi ý » (dạy) cho Thiền Sư Liên-Hoa những phương cách để « giáo hóa » Hoàng Cô, thay vì tự thiêu. Bà Hoa Lan nói « Phật pháp rất nhiệm màu (nhiệm mầu ?), cái gì cũng giải được chỉ sợ ta không quyết tâm đấy thôi.» ! Còn về phần Hoàng Cô, thì bà đã thốt : « Nếu xét về nghiệp duyên tình ái Bà (Hoàng Cô) là cao thủ đáng mặt thượng thừa...» !
Nhưng vì tôi đã để ra thì giờ trích những cái sai lầm rất to lớn trong cuốn tiểu thuyết, tuy như đã trình trên, tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết nầy, để độc giả thấy rõ sự phạm, vô căn cứ và vô căn cớ, của ông Như Điển, đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử mà cho đến bây giờ một số đông quần chúng vẫn còn ngưỡng mộ, cùng sự phạm, có thể có, đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, và cả đến thanh danh của các Danh Tăng, Đại Đức hiện nay. Nên tôi không xóa đi.
IV – Chánh Sử và một vài tài liệu đứng đắn.
1) Theo Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên - ĐNLTCB, Tập 2, Quyển 3 (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1993), trang 65, ghi :
« Long-Thành Công-Chúa Ngọc-Tú : Con gái lớn của Hưng-Tổ, là chị cùng mẹ với Thế-Tổ. Khi biến loạn năm Giáp-Ngọ (1774), theo Hiếu-Khang Hoàng-Hậu, ẩn nấu làng An Du (7). Mùa xuân năm Kỷ-Hợi (1779), theo Hậu vào Gia Định, gả cho Cai Cơ là Lê Phước Điển. Năm Quý-Mão (1783), chiến dịch ở đảo Diệp Thạch, Điển bị giặc bắt được, chửi giặc rồi bị giết chết. Chép rõ ở truyện Điển. Khi ấy Chúa còn trẻ tuổi, giữ tiết không đi lấy chồng nữa. Chúa từng nói rằng : Điển làm bề tôi, biết chụi chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há nên biến đổi tiết nghĩa, khi nào lấy lại được Kinh Thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi. Thế-Tổ khen về chí tiết liệt của Chúa. Buổi đầu năm Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại xã Dương Xuân để Chúa ở. Chúa thường xin gọt tóc, Thế-Tổ không bằng lòng cho.
(7) : [An-Du 安 遊 ở tỉnh Quảng-Trị, là quê của Thái Hậu Hiếu-Khang.]
Năm Minh-Mạng thứ tư (1823) là năm Quý-Mùi, mùa đông, Chúa mất, thọ 65 tuổi. Trước đây Chúa bệnh nặng, Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, Chúa khóc nói rằng : cắt tóc thờ Phật, đấy là ý muốn lúc bình sinh của vị vong nhân (8) nầy, có chí muốn mà chưa làm được, duy Hoàng Đế làm cho trọn vẹn ý muốn ấy, sau khi chết rồi, chớ có để tóc, liệm bằng áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối, xong được ý muốn ấy rồi. Thánh-Tổ lấy làm cảm động. Khi Chúa mất rồi, Thánh-Tổ đem lời nói của Chúa bảo Kiến An Công là Đài. Kiến An Công Đài tâu rằng : Thân thể tóc da là của cha mẹ để cho, lúc mới sinh ra trọn vẹn, lúc chết vẫn giữ được trọn vẹn là lễ đấy. Hoàng Đế trị vì thiên hạ nên chuộng đạo chính, truất bỏ dị đoan, lời Chúa xin thế không thể theo được. Thánh-Tổ cho là phải, bèn sai Ông (Đài) cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với Bộ Lễ sửa việc tang, cấp cho nhiều của (để trị tang). Nghỉ coi chầu năm ngày, sai quan đến tế một đàn, tặng là Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, tên thụy là Trinh-Tĩnh, phụ táng cạnh Lăng Thụy-Thánh (9)... Ngày an táng, Thánh-Tổ nghỉ coi chầu một ngày, mặc áo trắng đi đưa.
(8) : [Vong nhân : chỉ người đàn bà góa.] (9) : [Lăng của Thái Hậu Hiếu-Khang.]
Trước kia, năm Gia-Long thứ 11 (1812), sửa làm Lăng Thụy-Thánh, Thế-Tổ dụ rằng : Trưởng Công Chúa thờ mẹ có hiếu, kính giữ đạo làm con lúc gian nan để tiếng thơm như ngọc uyển, ngọc diễm, đặc biệt chuẩn cho dựng sinh phần ở bên Lăng. Lại dự đặt nơi phụ hưởng ở một gian bên tả Tẩm Điện (Đền Thờ Lăng Thụy-Thánh). Đến đây mất, bèn phụ táng ở đấy. Năm thứ năm, phụ hưởng ở một gian bên tả, hướng Tây. Không có con thừa tự, lấy Thường Tín Công Cự coi việc thờ tự. »
2) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1915, trong bài « La Pagode Quấc-Ân (10) - Les Divers Supérieurs » do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 308, 309, ghi :
(10) : [Chú ý chữ « Quốc », ở Huế lúc trước, viết Quấc.]
Bài viết bằng tiếng Pháp, tôi cố gắng dịch ra tiếng Việt, và để cho khá trung thành, tôi ghi theo đây những chữ Hán, như nguyên bản :
« Sự trùng tu chùa Quấc-Ân được gắn liền với tên của một vị Công Chúa nhà Nguyễn, Công Chúa Ngọc-Tú 玉 琇 , hay Long-Thành-Công-Chúa 隆 城 公 主 , Bà là con cùng mẹ và là chị cả của vua Gia-Long. Bà đã theo mẹ và cả (toute) triều đình vào Nam, khi Bắc quân (Tonkinois) đến Huế. Bà được gả cho Cai-Cơ Lê-Phúc-Điển 黎 福 日典 (có nơi cho âm Thiển). Ông ta đã chiến đấu dũng cảm với Tây-Sơn, rồi bị bắt và bị giết. Bà mất chồng khi còn trẻ, và không con, Bà không muốn tái giá. Bà hay đi lễ (fréquenter) chùa Từ-Ân 慈 恩 寺 , ở đây Trú Trì (Supérieur, Tọa Chủ, Trú Trì ?) Liên-Hoa 蓮 花 , còn gọi là Thiệt-Thành 寔 誠 hay Liễu-Đạt 了 達 , khuyên (persuader : thuyết phục) nên giữ « Tam Quy 三 皈 , Ngũ Giới 五 戒 . ».
Vị Sư nầy, quê ở vùng quanh Huế (environs de Hué) chăng ? Ông có tu tại chùa Quấc Ân trong vài năm chăng ? (11) Dầu sao đi nữa thì (Toujours est-il), theo các tài liệu biên niên (annales) còn lưu trữ ở chùa (Quốc-Ân), Hòa Thượng Liên-Hoa có dặn dò Bà, khi nào hoàn cảnh cho phép trở về Huế, thì đừng quên (lo cho ?) chùa Quấc Ân. Bà về Huế khoảng 1801, và mất năm 1823, thọ 65 tuổi.
(11) : [Nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ Linh Mục Cadière đã nói ở đây, vì trong bài nầy, tác giả có đề cập tới sự liên hệ mật thiết giữa các Tăng Cang, Trú Trì chùa Thiên Mụ với các Trú Trì chùa Quốc Ân.]
Năm 1805, Bà chỉ định (charger) hai Đại-Sư 大 師 Trí-Hải 智 海 và Chính-Văn 正 聞 xây lại chùa Quấc-Ân, cùng triệu tập một số Tăng Chúng cho chùa. Nhân đó, Bà cúng 300 quan (ligature, xâu tiền, quan tiền ?)... Ngôi chùa mới khá đơn giản. Theo sự đồn miệng, thì đó cũng chỉ là một am-tranh (12) (chữ trong bài viết), nhưng dầu sao, tác phẩm của Ngài Nguyên-Thiều đã được hồi sinh. Vì thế, tên của Trú Trì (Supérieur) Liễu-Đạt và Công Chúa Long-Thành được ghi một cách trịnh trọng (en bonne place) trong sổ ghi danh các vị Sư và các ân nhân của chùa.
(12) : [Am tranh đây chắc là một cách nói để chỉ nơi các Sư tu hành. Số tiền 300 quan là một số tiền khá lớn thời bấy giờ, chắc ngôi chùa mới cũng là một cái am nhỏ, xây bằng gạch, mái lợp ngói, chứ không phải một cái am vách đất, lợp tranh.]
Người ta con giữ lại ở chùa 5 bức chân dung. Các chân dung được đặt ở bàn thờ dành cho các Danh Sư đã tu tại chùa, trong đó có chân dung của Ngài Liễu-Đạt, còn gọi là Liên-Hoa... ».
Hết trích dịch.
3) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1923, trong bài « Le Tombeau de Gia-Long » do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 343, 344, ghi :
« ... Tẩm của Công Chúa Ngọc-Tú...[bản đồ Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ, số XLVI, ghi Tẩm của Hoàng Cô, chị cả của vua Gia-Long]... khi đến những ngày kỵ (của Hoàng Hậu Hiếu-Khang), thì chủ tế lạy trước bàn thờ của Mẹ vua Gia-Long, rồi quay sang bàn thờ của người con gái (Công Chúa Long-Thành) vái 4 vái. Trong khám thờ (Công Chúa Long-Thành), sau bàn thờ không có Thần-Chủ (tablette funéraire) (13).
(13) : [Thần Chủ được thờ tại Phủ Thường Tín Quận Vương (Nguyễn-Phước Cự), ở làng Xuân-Vinh, huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên. Ở Điện Thoại-Thánh chỉ có Thần Vị của Công Chúa.]
Tẩm là một cái Tháp (stûpa) có 4 tầng... Vòng thành phía trong dài 15 m, rộng 9 m, cao 1,50 m... Vòng thành ngoài dài 24 m, rộng 16 m, cao 2,40 m...».
V – Vài sự kiện lịch sử.
1) Trưởng Công Chúa.
Thái Hậu Hiếu-Khang có 3 người con trai, ngoài Thế-Tổ, là Hải-Đông Quận Vương Nguyễn-Phước Đồng 日同 và Thông-Hóa Quận Vương Nguyễn-Phước Thiển 日典 (có nơi cho âm Điển), và một người con gái duy nhất là Công Chúa Long-Thành. Ông Đồng bị Tây Sơn hại năm 1777 (cùng lúc với Duệ-Tông Nguyễn-Phước Thuần 淳 và Tân Chánh Vương Nguyễn-Phước Dương 暘 ), Ông Thiển bị Tây Sơn bắt và bị hại năm 1783, tại đảo Diệp-Thạch (cùng lúc với Ông Lê Phúc Điển, chồng của Công Chúa Long-Thành).
Vậy ngoài Công Chúa Long-Thành và Thế-Tổ, thì vào những năm 1800, Thái Hậu Hiếu-Khang không còn người con nào khác nữa. Từ An-Du cho đến những lúc gian lao tại miền Nam, chỉ có một tay Công Chúa lo cho Thái Hậu. Cũng vì thế, nên ngay cả sau khi chồng mất, Bà còn trẻ, muốn đi tu, nhưng còn mẹ già, nên phải ở nhà lo phụng dưỡng. Sau khi Thái Hậu băng (mất) năm 1811, Bà lại muốn xuất gia, nhưng Thế-Tổ không vui, vì Bà rất có công với Thái Hậu trong những buổi ly lạc, nên muốn giữ Bà lại để phụng dưỡng. Thế-Tổ xem Bà như một người mẹ thứ hai sau khi Thái Hậu băng. Thánh-Tổ vâng chỉ của Thế-Tổ, nên rất kính trọng Bà, và cũng không vui, khi Bà xin đi tu, hầu thay mặt Thế-Tổ để phụng dưỡng Bà. Có chăng là khi Bà mất, thì Thánh-Tổ xây Tháp cho Bà, xem Bà như một vị xuất gia vậy.
2) Thần Vị của Công Chúa thờ ở bàn thờ Tổ ở các chùa.
Chuyện là, nền chính trị của nước ta xưa, theo Khổng Giáo, nghĩa là « Quân, Sư, Phụ », vua là trên hết. Cho nên các Thánh Vị của các vị Hoàng Đế đều được thờ tại chánh điện thờ Phật (ở phía dưới bàn thờ Phật), Thánh Vị của các Hoàng Hậu, Thần Vị của các Công Chúa, Hoàng Tử đều được thờ ở bàn thờ Tổ (bàn thờ chánh, ở giữa, phía sau điện thờ Phật). Bằng chứng trong BAVH 1916, tập 4 (Octobre-Décembre), bài « Chùa Diệu Đế » của Cụ Nguyễn Đình Hòe, trang 395, cho : Ở Điện Đại-Giác chùa Diệu Đế « Ở chánh điện, bàn thờ phía trên thờ Tam Thế 三 勢 , bàn thờ phía dưới thờ Thánh Vị của Hiến-Tổ (Thiệu-Trị)...», hay trong BAVH 1917, tập 3 (Juillet-Septembre), bài « Chùa Báo-Quốc 報 國 » của J-A Laborde, trang 238, nói bàn thờ chính giữa (bàn thờ Tổ, sau điện thờ Phật) thờ Thánh Vị của Hoàng Hậu Hiếu-Khang, người đã xây lại chùa Báo-Quốc, còn hai bàn thờ hai bên, gần vách tường, thì thờ Long Vị các vị Hòa Thượng và Trú Trì...
Ngay cho cả người dân thường, như trong gia đình chúng tôi, Bà Cô Ngoại của chúng tôi (em ruột Ông Ngoại của chúng tôi) là Cụ Hồ-Đắc Thị Thể A. (chánh thất của Cụ Hiệp Tá Đại Học Sĩ Ưng D.), Bà Nội của chúng tôi là Cụ Nguyễn-Xuân Thị Kh. và Bà Ngoại của chúng tôi là Cụ Nguyễn Thị K. đã sáng lập chùa Sư Nữ Diệu Viên, Huế (hiện ở đường Hồ-Đắc Di), năm Khải Định thứ 9 (1924). Cụ Hiệp Tá Đại Học Sĩ Ưng D. đã tâu xin cho Sư Bà Hướng-Đạo làm Khai Sơn Trú Trì của chùa. Bài Vị của hai Cụ Hồ-Đắc Thị Thể A. và Nguyễn-Xuân Thị Kh. được thờ ở bàn thờ Tổ (bàn thờ chính giữa, sau điện Phật). Trên bàn thờ đó, ở giữa thờ Tổ Đạt-Ma, bên phải thờ Bài Vị của Cụ Thể A. (mất năm 1942), bên trái thờ Bài Vị của Cụ Thị Kh. (mất năm 1933). (Bà Ngoại của chúng tôi mất năm 1949, tại Thanh Hóa, và lúc bấy giờ đang còn chiến tranh, nên không thỉnh Bài Vị của Cụ lên thờ ở chùa Diệu Viên). [Nguồn : Gia Phả Họ Hồ-Đắc (1942) và Gia Phả Phòng Vĩnh Quốc Công (1949)].
Chuyện là ở dưới triều nhà Nguyễn, nhưng theo tôi, thì ngay cả các triều Lý (1010), Trần, Lê, Hậu Lê – Chúa Trịnh – Chúa Nguyễn, đều như thế cả. Xem tiendatguide/article/dinh-chua-mien-bac, trong đó có nói Đức Trần Hưng Đạo được thờ ở chùa Thái Cam, Hànội, hay Thái Sư Trần Thủ Độ và Phu Nhân là Bà Trần Thị Dung, được thờ ở chùa Cầu Đông, Hànội...
Hiện bây giờ, sau năm 1975, vì « Thời Thế », vì « Đương Đại », vì « Thời Thượng », mà Thánh Vị của Hiến-Tổ, chẳng những không được thờ ở dưới bàn thờ Phật, hay ở tại bàn thờ Tổ (sau điện Phật), tại chùa Diệu Đế, mà chỉ được thờ ở bàn thờ bên hông, cùng với các Thần Vị của các Công Chúa, Hoàng Tử (phía trái bàn thờ Tổ, sát vách tường, và xoay mặt lại phía bàn thờ Tổ). Còn bàn thờ Tổ thì để thờ Long Vị của các vị Tăng Cang, Trú Trì.
Bài Vị của Bà Cô Ngoại và của Bà Nội của chúng tôi cũng chỉ được thờ ở bàn thờ bên phải của bàn thờ Tổ, tại chùa Diệu Viên. Ở bàn thờ Tổ, ngoài Tổ Đạt-Ma, thì thờ Long Vị của hai vị Trú Trì của chùa đã mất (vị thứ nhất mất năm 1974, và vị thứ hai mất vào năm nào thì tôi không rõ).
Thánh Vị của Hoàng Hậu Hiếu-Khang ở chùa Báo-Quốc có được thỉnh đi thờ ở một bàn thờ khác hay không, thì hiện giờ, tôi không biết.
3) Long Vị của Thiền Sư Hòa Thượng Liện-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô ở chùa Từ-Ân.
Như đã trình trên, Thần Vị của Hoàng Cô được thờ ở bàn thờ Tổ tại chùa Từ Ân là một chuyện thường tình, Long Vị của Thiền Sư Hòa Thương Liên-Hoa được thờ ở bàn thờ Tổ cũng là một chuyện thường tình, hợp với phong tục của nước nhà đã có từ lâu, hơn nữa, tuy Công Chúa không xuất gia, vì còn bổn phận của người con gái trưởng độc nhất lo cho mẹ già, nhưng đã có ý định đi tu, đã thụ Bồ Tát Giới, và sau nầy, khi mất đi, Tẩm là một cái Tháp, dành riêng cho các Đại Tăng, Đại Ni. Vậy Công Chúa cũng đưọc xem như là một người đã xuất gia lúc còn tại thế.
Long Vị của Hòa Thượng và Thần Vị của Công Chúa được thỉnh kề nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, có thể vì hai vị đã có công lớn với chùa, và đã tu học ở chùa trong cùng một khoảng thời gian (các Long Vị và Thần Vị được xếp đặt theo thứ tự thời gian, ở bàn thờ Tổ chăng ?), tuy Công Chúa Long-Thành chỉ thường xuyên đến tu học ở chùa trong một thời gian ngắn.
Chuyện mà hiện giờ, ta vẫn thấy như thế, chắc là các nhà hữu trách muôn duy trì cổ tục, duy trì văn hóa xưa, hay vì « Thời Thế Du Lịch », muốn đề cao những tàn tích cổ, để tạo một sự « lạ » mà thu hút du khách, cho nên Thần Vị của Hoàng Cô không được thỉnh đi khỏi bàn thờ Tổ, như Thánh Vị của Hiến-Tổ, ở chùa Diêu Đế, tại Huế, chăng ?.
Cũng vì thế mà Nguyễn Hiền Đức đã viết vào cuốn LSPGĐT chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa trên. Bây giờ lấy giả thuyết : nếu Thần Vị của Hoàng Cô được thỉnh gần một Long Vị (hay một Thần Vị) của một Thiền Sư (hay của một Hoàng Tử, hay của một người đàn ông) khác, thì đó, đối với đời bây giờ cũng là một chuyện « lạ », và e rồi cũng sẽ có những giai thoại tương tựa như chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa – Công Chúa Long-Thành trên...
4) Lấy một giả thuyết hão huyền.
Hòa Thượng Liên-Hoa là một vị Thầy, một vị Tổ, một vị Thiền Sư chân tu, đạo đức, nếu không thì làm sao Hòa Thượng được cấp Độ Điệp, Giới Đao và thụ phong Tăng Cang sau một kỳ « thi tuyển », mà hội đồng « khảo thí » gồm những Đại Sư tài trí, chân tu, do Bộ Lễ tổ chức ? Còn Công Chúa Long-Thành là « cành vàng, lá ngọc » (trong nghĩa trân quý) của Triều Đình, của Hoàng Gia, tức phải có đức hạnh để làm gương cho vua, cho chúa, cho triều thần, cho thần dân, chứ làm sao, mà sau khi đã giữ tiết từ lúc 24 tuổi, để đến lúc 65 tuổi lại « hôn » tay của một vị sư đang tĩnh tâm trong một tịnh thất ?
Hai người đức hạnh, chân tu như vậy và được cả nước biết đến, nếu, lấy giả thuyết hão huyền là có tình cảm với nhau đi chăng nữa, thì cũng « sống để dạ, chết mang đi », chứ đâu đi làm những chuyện đường đột, để rồi phải tự thiêu và uống độc dược !
VI - Kết Luận.
1) Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức.
Theo sự phân tích ở phần II về cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, cùng sự phân tích ở phần IV về Chánh Sử và vài sự kiện lịch sử, cho chúng ta thấy rõ ràng chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT, là một chuyện không có thật trong lịch sử.
Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức là một công trình khảo cứu khá công phu, nhưng tác giả đã dẫn chứng những tài liệu không chính xác, đã nghe những tin đồn miệng, đã lấy giả thuyết riêng của mình, để giải thích những sự kiện lịch sử, vì vậy mà giá trị của tác phẩm bị mất đi một phần khá lớn. Thật là đáng tiếc cho cả một công trình khảo cứu !
Có thiếu sót trong một tác phẩm dày 876 trang, là một chuyện thường tình. Nhưng những thiếu sót quan trọng, như chuyện của Hòa Thượng Hải-Tịnh, hay chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần..., và nhất là chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa đã gây rất nhiều tai hại lớn lao, bởi những chuyện « tình » đã lấy nguồn ở cuốn LSPGĐT, được đăng tải đầy dẫy trên mạng Internet, trên các sách báo, dính liếu (líu) đến hai nhân vật lịch sử có tiếng tăm.
Tai hại cho thanh danh của Hòa Thượng Liên-Hoa và Công Chúa Long-Thành, hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, mà còn tai hại cho thanh danh của các chốn Thiền Môn và các Tăng, Ni, hiện nay.
Một số Hòa Thượng, vì không có phương tiện khảo cứu, muốn viết về lịch sử của các Thiền Sư cho bổn đạo, đã lấy tài liệu trong cuốn LSPGĐT, nhưng khi nói đến Thiền Sư Liễu-Đạt - Thiệt-Thành - Liên-Hoa, đến chuyện « tình », vì kính một vị Tổ, một vị Thiên Sư chân tu, thì không ghi vào sách, mà chỉ nói « Thiền Sư viên tịch vào năm 1823 ». Xin xem một trong những bài đó, ở các trang mạng, như « Trang Nhà Quảng Đức » hay « Thiền Viện Thường Chiếu ». Tất nhiên cũng có một số nhà sư, thiếu suy nghĩ, đã lợi dụng chuyện trong cuốn LSPGĐT, để trích dẫn trên các sách hay bài viết của mình.
2) Bài Người Xuất Gia Đối Với Cha Mẹ Đẻ - NXGĐVCMĐ.
Cuốn CTLHHT thì không nên nhắc đến nữa, nhưng ông Như Điển lại viết thêm bài « Người Xuất Gia Đối Với Cha Mẹ Đẻ » (Xin xem trên mạng Internet). Tôi chỉ đọc mấy hàng đầu, mà thấy ông Như Điển cao ngạo làm sao, ông viết : « Một vị xuất gia, ngoài kính lễ Tam Bảo ra không lễ lạy bất cứ tôn vị nào khác, kể cả cha mẹ.». Tôi chắc đây không phải là lời của Đức Thích-Ca dạy.
Ngoài ông Như Điển ra, cũng có một số sư, với lời lẽ ôn tồn hơn, trích kinh, dịch sách, giảng giải sự khiêm cung của phật tử, để bào chữa « tự tôn » : « ... Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, (kể cả thân quyến của chư tăng ni), thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con, (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian), để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy...
... Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi, (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu... ».
Đi tu, chắc cũng là một quyết định thanh cao, hàm chứa một lý tưởng hoàn hảo. Đi tu thì tâm hồn được trong sáng, an nhiên; tư thái được bình thản, khoan dung độ lượng, và sau khi chết, theo tín ngưỡng, được đạt cõi Tây Phương.
Nhưng nhũng người « thường », « tại gia », chắc họ cũng có một lý tưởng thanh cao, một cuộc sống hoàn hảo vậy. Đừng nói gì cho cao xa, nếu tất cả mọi người đều đi tu, và không có những người « thường », « tại gia », thì làm gì có nhân loại ngày nay !
« Cuộc thành bại, hầu cằn mái tóc. Lớp cùng thông, như đốt buồng gan » (Nguyễn Gia Thiều). « Thành » đây không phải là đậu (đỗ) Tiến Sĩ, làm Bộ Trưởng, thăng Giám Đốc, mà « Thành, Bại » đây là chạy ăn từng bữa, cho chính mình, cho gia đình mình, cho giáo dục, tương lai của con cháu mình. Hôm nay có ăn là « Thành », không có ăn là « Bại ».
Chắc chúng ta cũng đồng ý, là một số lớn các Tăng, Ni, hiện nay, được thoát khỏi cảnh « Thành, Bại, Cùng, Thông » ghê gớm đó. Phần nhiều các Tăng, Ni đều được phật tử cung phụng, có chùa to cảnh lớn, để tu học. Một số tăng, ni thì mỗi năm « tịnh tu, nhập thất » ở mỗi nơi khác nhau. Có năm, thì ở Mỹ, ở Nhật, có năm, thì ở Canada, ở Thái Lan, ở Pháp, ở Ấn Độ, ở Đức, ở Úc... Những sự tu học đó chắc cũng phải đòi hỏi một sự tốn kém công của lớn lao. Ai đã lo cho sự tốn kém đó, nếu không phải là do những người « thường », « tại gia », đã « cằn mái tóc », đã « nát buồng gan » !
Đi tu thì được miễn « dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn » chăng ?
Còn nói rằng « thụ nhiều giới ». Đã chắc gì hầu hết các tăng, ni đã thực hành « thụ nhiều giới », hay chỉ nói ở trên giấy tờ, ở trên miệng. Trên mạng, cùng báo chí trong và ngoài nước, đã bao phen đăng tải những tin « phá giới » của một số thầy tu.
Xuống tóc đi tu, mới biết vài câu kinh, vài tiếng kệ, chưa phải là những Tăng, Ni chân tu, mà đức hạnh đã làm gương cho nhân thế, mà trí tuệ đã phổ độ chúng sanh, thì đã tự cao tự đại, bắt phật tử phải gọi bằng thầy, bắt phật tử phải tự xưng là con. Tôi là một phật tử nhỏ bé, như đã trình trên, tôi đã nghe, tại Nice, một số linh mục trẻ tuổi, xưng con với chúng tôi là những người đã ngoài sáu, bảy mươi tuổi. Trong buổi nói chuyện tại Paris, ngày 15/04/2012, Linh Mục Nguyễn Văn Khải đã tự xưng con, xưng cháu với những người lớn tuổi.
Sự tu học của các tu sĩ trong Công Giáo, chắc cũng đòi hỏi những nỗ lực lớn lao, không thua kém gì so với sự tu học của các tu sĩ trong Phật Gíáo.
Thật là đáng tiếc cho một thầy tu, thay vì đem những lời dạy cao đẹp, bổ ích của Đức Thích-Ca, mà hiện nay, cả toàn thể thế giới đều tâm phục, khẩu phục, để làm lợi cho thế gian, thì lại bịa đặt viết chuyện tình tào lao, không có thật, để rồi, chẳng những phạm đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử, mà dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, ngưỡng mộ, mà còn phạm đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, các vị Tăng Ni chân tu hiện nay; lại còn cao ngạo đối với Cha Mẹ Đẻ, đối với phật tử.
Hành động đó làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Tiết Hạ chí, năm Con Rồng.
531 052 012 nvt*ttl*.
Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành, ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, Sàigòn. [Nguồn : Di tích và Danh thắng – Chùa Việt Nam – Xua và Nay – Chùa Từ Ân (quận 6)] :